Khoa Học và Đời Sống: THỜI ĐẠI CỦA THIẾT BỊ Y KHOA TÂN KỲ

Khoa Học và Đời Sống: THỜI ĐẠI CỦA THIẾT BỊ Y KHOA TÂN KỲ

Tin vui 

Hôm thứ Ba vừa qua một bản tin ngắn được đăng trên trang web của Nasdaq cho hay hãng Neuralink, một hãng chuyên chế tạo các tế bào điện tử, hay còn gọi là các con “chip” điện tử, vừa tuyên bố họ đã thành công trong việc chế tạo một con “chip” điện tử có thể gài vào trong thân thể con người.

Loại “chip” này là loại “chip” theo kỹ thuật mới gọi là Artificial Intelligence, mà nói theo tiếng Việt là “bộ não nhân tạo”.

Nghe tên hãng Neuralink chắc ít ai biết tới. Ông chủ của hãng chính là Elon Musk, cũng là chủ nhân ông của hãng xe Tesla, và cũng là chủ hãng SpaceX. Anh chàng này coi vậy mà quá giỏi. Làm đủ thứ chuyện. Năm nay anh chàng 50 tuổi. Không chỉ thò tay vô kỹ nghệ xe hơi, anh chàng còn xía vô kỹ thuật không gian, và giờ đây là cả thiết bị y khoa, tiếng Mỹ gọi là Medical Device, mà thiết bị y khoa này không phải là những loại bình thường lâu nay, mà là thiết bị y khoa … tân kỳ.

Tại sao lại gọi là tân kỳ?

Lâu nay ngành Medical Device của Mỹ đã sáng chế, phát minh ra rất nhiều thứ để giúp chữa bịnh cho các bịnh nhân. Medical Device cũng nằm dưới sự quản lý của FDA, nhưng ít ai biết đến. Thường thì chúng ta chỉ biết các hãng dược phẩm bào chế ra thuốc men để trị bịnh này, bịnh kia, và chịu sự quản lý của FDA. Medical Device không bào chế thuốc, nhưng tìm tòi và sản xuất ra các thiết bị chữa bịnh, hay chẩn đoán bịnh.

Những năm gần đây, chúng ta thường nghe nói về chuyện bác sĩ “thông tim”, chữa trị các bịnh về tim, v..v… rất hay. Nhưng ít ai biết là nhờ các hãng Medical Device sáng chế ra các ống nhỏ còn hơn sợi dây, cỡ như mạch máu để bác sĩ đưa vào trong người bịnh nhân, nối các mạch máu, hay thông các mạch máu, v..v… Nhờ vậy mà cứu nhiều bịnh nhân bị nghẽn mạch máu, hay bị các động mạch vành tim chai cứng.

Những thứ này đã hay rồi, giờ lại có thứ tân kỳ hơn. Medical Device kết hợp với … kỹ nghệ tân tiến, của các con “chip” điện tử, hay các vi mạch điện tử trong các máy điện toán. Không những thế, các con “chip” điện tử đời nay đã tiến đến bậc được xem là “bộ não nhân tạo” (artificial intelligence) khi có thể nhận biết vạn vật xung quanh.

Và đó là chuyện mà Elon Musk đã làm. Trả lời phỏng vấn với báo Journal, Elon Musk cho biết Neuralink đang chờ sự chấp thuận của FDA cho thiết bị mới này. Theo Elon Musk, anh chàng mong rằng Neuralink sẽ là công ty đầu tiên có thiết bị đưa vào con người có thể giúp những người đã bị liệt, tủy sống đã bị hư, hồi phục trở lại hoạt động như người bình thường. Elon Musk cho biết thêm kết quả thử lâm sàng rất thành công. Neuralink đã thử trên những chú khỉ và thấy các chú khỉ này thậm chí còn có thể chơi … trò chơi điện tử (video games).

Chưa biết FDA sẽ chấp thuận hay không. Nhưng rõ ràng một thời đại tân kỳ mới đang đến trong lịch sử loài người. Từ những thiết bị như một cái ống nhỏ xíu được đưa vào trong mạch máu, đến những tế bào điện tử nhỏ tí xíu đưa vào trong lỗ tai thay cho màn nhĩ, rồi những giọt tinh thể nhỏ vào mắt thay cho những cặp kính lão, thì bây giờ sắp sửa đến những tế bào điện tử thay cho tế bào thần kinh của loài người.

Ảnh: quảng cáo của Neuralink cho thấy một computer nhỏ xíu để liên kết với bộ não con người được gắn ngay sau vành tai.

Ảnh lấy từ trang web The New York Times.

 Nguồn: Fb Quang An

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

https://www.businessinsider.com/neuralink-elon-musk-microchips-brains-ai-2021-2

Neuralink: Story of Elon Musk’s Brain Microchip Company

https://www.businessinsider.com › News

Dec 7, 2021 — Neuralink developing neural interface technology — a.k.a. putting microchips into people’s brains. The technology could help study and treat …

Người Việt hải ngoại vận động đề cử Phạm Đoan Trang cho giải Nobel Hòa bình

Người Việt hải ngoại vận động đề cử Phạm Đoan Trang cho giải Nobel Hòa bình

31/01/2022

Nhà báo Phạm Đoan Trang. Photo thevietnamese.org

Cộng đồng người Việt ở nhiều nơi đang vận động đề cử nhà báo – nhà hoạt động Phạm Đoan Trang cho giải Nobel Hoà bình vì những đóng góp nổi bật của cô trong việc đấu tranh giành quyền tự do, dân chủ cho người dân Việt Nam.

Dẫn chứng thông cáo báo chí của Uỷ ban Giải Nobel khi trao giải Nobel Hoà bình 2021 cho Maria Ressa và Dmitry Muratov về những đóng góp của họ để bảo vệ quyền tự do ngôn luận, Tuyên cáo chung của chiến dịch vận động đề cử cho nhà báo Phạm Đoan Trang nói cô xứng đáng là một ứng cử viên cho giải thưởng danh giá.

“Hy sinh cả tuổi thanh xuân để tranh đấu cho lý tưởng tự do, cô Phạm Đoan Trang xứng đáng được đề cử Giải Nobel Hoà Bình để đại diện cho tất cả những nạn nhân đã bị chế độ Cộng sản Việt Nam bức hại trong suốt 70 năm qua vì đã tranh đấu cho các quyền căn bản của con người”, tuyên cáo nói, sau khi tóm lược những thành quả nổi bật và các giải thưởng quốc tế về nhân quyền mà Phạm Đoan Trang đã nhận được trong suốt hơn 10 năm hoạt động, trước khi bị bắt giam vào ngày 6/10/2020.

Xứng đáng

Nhà văn Cung Thị Lan, Chủ tịch Văn bút Việt Nam Hải ngoại, nói với VOA rằng bà “ngưỡng mộ” nữ tác giả trẻ không chỉ vì sự can đảm và tài năng của cô.

“Phạm Đoan Trang đòi hỏi nhiều hơn, đó là tự do dân chủ cho toàn Việt Nam, chứ không phải tự do cho chỉ riêng Phạm Đoan Trang. Điều này rất khó. Đó là mục tiêu rất lớn, lòng khao khát cho cả dân tộc chứ không phải chỉ ích kỷ cho bản thân mình”, nữ nhà văn đang sống tại Mỹ nói về một trong những lý do khiến bà ủng hộ việc vận động đề cử cho Phạm Đoan Trang.

Bà Cung Thị Lan và tổ chức Văn bút Việt Nam Hải ngoại, chi nhánh của Văn bút Quốc tế, đã tổ chức rất nhiều hoạt động ủng hộ cho nhân quyền Việt Nam trong những năm qua. Bà cũng là người đã viết thư yêu cầu Phó tổng thống Kamala Harris trong chuyến thăm Việt Nam năm ngoái hãy đề cập đến vấn đề nhân quyền và đòi Hà Nội trả tự do cho Phạm Đoan Trang và các tác giả đang bị giam cầm khác.

Nói về gương mặt đại diện cho thế hệ cầm bút trẻ, nhà văn Cung Thị Lan cho biết: “Khi tôi theo dõi và đọc tiểu sử và những tác phẩm của từng cá nhân đấu tranh cho Việt Nam, tôi thấy mỗi người đều có những điểm tích cực mà mình thích. Nhưng với Phạm Đoan Trang, bản thân tôi thấy Phạm Đoan Trang xứng đáng được giải Nobel Hoà Bình. Thứ nhất, Phạm Đoan Trang là nữ. Ở tù đối với phụ nữ không phải là dễ, và những tác phẩm của Phạm Đoan Trang có tính chất thu phục lòng người. Đối với giải Nobel, không phải chỉ là cá nhân đó có tính can đảm mà ngòi bút của họ thu phục được người đọc. Tôi nghĩ điều đó đã đưa đến việc tất cả mọi người không phải chỉ cộng đồng người Việt, mà nếu theo dõi sẽ thấy trên thế giới, như vào trang Văn bút Quốc tế, Văn bút Anh, Văn bút Đức… thì sẽ thấy nhiều người trên thế giới ủng hộ tác giả Phạm Đoan Trang”.

Cùng chung nhận định với nhà văn Cung Thị Lan, bác sĩ Đỗ Văn Hội, đồng Chủ tịch Hội Đồng Liên Kết Quốc Nội Hải Ngoại Việt Nam,nói với VOA rằng nữ nhà báo Phạm Đoan Trang khiến cho ông nể phục về sự can đảm và cả cách đấu tranh rất ôn hoà của cô.

Ông nói: “Những người tranh đấu là rất đáng nể phục rồi, dưới một chế độ lúc nào cũng bị đe doạ. Thứ hai, cô ấy tranh đấu rất ôn hoà. Và thứ ba, cô nói lên được tất cả những gì tranh đấu cho Việt Nam, vốn hiện không có tự do dân chủ, tự do ngôn luận. Mà cô ấy dám là những điều đó là tranh đấu cho tự do ngôn luận, xuất bản sách trong nước. Những cuốn sách rất ích lợi cho người dân tất cả mọi thời đại và bất cứ ở đâu”.

Mang lại hy vọng

Sinh ra sau năm 1975, Phạm Đoan Trang thuộc thế hệ được gọi là “lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”. Nhưng cô cùng với nhiều nhà hoạt động trẻ khác đã mang đến “niềm hy vọng” về một tương lai Việt Nam tốt đẹp hơn cho những người thuộc thế hệ trước, nhất là những người đã từng được sống và được thở bầu khí “tự do, dân chủ” ở miền Nam trước năm 1975, theo nhận định của BS. Đỗ Văn Hội.

“Trong môi trường XHCN thì đương nhiên ai theo chính quyền sẽ được hưởng lợi, còn ai đi ngược lại sẽ bị trù dập ghê lắm. Vậy mà cô Phạm Đoan Trang đã nói lên được theo lương tâm của nhân loại, chứ không phải chống đối gì cả, đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Nếu thế hệ trẻ tiếp nối được điều đó thì sẽ rất ích lợi cho đất nước của chúng ta”, BS. Hội bày tỏ với VOA.

Nhà văn Cung Thị Lan thì cho rằng có hai yếu tố đã làm nên một thế hệ trẻ “sáng suốt”, không rơi vào quỹ đạo “bị nhồi sọ” của hệ thống giáo dục XHCN. Đó là đặc tính “thông minh” của người Việt và sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là sự xuất hiện của internet và mạng xã hội.

“Nhờ Internet và rất nhiều thông tin trên mạng, các em học hỏi, tìm hiểu và thấy rằng những điều học ở nhà trường hay những điều được tuyên truyền trong xã hội là hoàn toàn khác với những kiến thức mà các em tiếp thu được từ internet”.

Ngoài việc đồng thành lập Tạp Chí Luật Khoa chuyên phổ biến những kiến thức và thông tin về luật pháp, chính trị và nhân quyền, những tác phẩm gây tiếng vang của Phạm Đoan Trang như Chính trị bình dân, Phản kháng phi bạo lực, Cẩm nang nuôi tù… là những tác phẩm đã được Trang viết theo cách “bình dân” nhất, nhưng lại có khả năng “khai phóng” nhiều người, và trở thành những tác phẩm khiến cho nhà cầm quyền hoảng sợ, theo nhận định của Tuyên cáo chung.

Trong bức thư viết vào ngày 27/5/2019, hơn một năm trước khi bị bắt, Phạm Đoan Trang nói bà có ba tâm nguyện mong muốn cộng đồng thực hiện. Đó là vận động thông qua luật bầu cử mới, luật tổ chức Quốc hội mới; quảng bá các sách bà viết và biến việc bà đi tù trở thành cơ hội để giới dân chủ đàm phán với nhà nước; đòi thông qua luật bầu cử mới và luật tổ chức quốc hội mới.

Những đóng góp của Phạm Đoan Trang cho dân chủ – nhân quyền đã được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận qua các giải thưởng như giải Homo Homini của tổ chức nhân quyền People in Need ở Tiệp Khắc (2017), giải Nhân Quyền Việt Nam của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (2018), giải thưởng về Tự do báo chí của Tổ chức Ký giả Không Biên giới (2019) và gần đây nhất là giải thưởng Martin Ennals của tổ chức nhân quyền tại Geneve, Thuỵ Sĩ, đã được trao cho cô vào ngày 19/1/2022, sau khi Phạm Đoan Trang bị kết án tù 9 năm về tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam.

Theo nhà văn Cung Thị Lan, một trong những tiêu chí quan trọng đối với các ứng cử viên của giải Nobel hoà bình là họ phải vượt ra khỏi nỗi sợ hãi, không bị ràng buộc hay ảnh hưởng bởi bất kỳ sự kiểm duyệt hay kiểm soát nào.

“Khi một nhà văn viết mà không sợ, nghĩa là viết đúng lương tâm, mục đích hướng thiện thì mới (xứng đáng) được giải Nobel. Tôi thấy có những nhà văn sợ rằng viết ra thì sẽ bị cái này cái kia. Mà sống trong xã hội ở Việt Nam thì làm sao mà không sợ được. Sẽ bị trực tiếp hoặc gián tiếp có những công kích. Nhưng đối với Phạm Đoan Trang, tôi thấy tôi phải ngưỡng mộ tác giả Phạm Đoan Trang, vì (trong hoàn cảnh) như vậy mà Phạm Đoan Trang dám nói và dám viết rằng chỉ muốn tự do, dân chủ cho toàn dân tộc chứ không phải tôi ra khỏi tù cho tôi. Điều đó rất thu phục tôi”.

Giữa bối cảnh các thế hệ cha anh, những người đã đổ xương máu cho lý tưởng tự do, dân chủ trong thời chiến đang dần qua đi, BS. Đỗ Văn Hội nói những tấm gương tranh đấu ôn hoà, can đảm và hiệu quả như Phạm Đoan Trang, chính là một tín hiệu “rất đáng mừng” cho tương lai của đất nước.

Chiến dịch vận động đề cử hiện đã nhận được rất nhiều ủng hộ từ các tổ chức và cộng đồng người Việt Nam ở nhiều nơi, bao gồm các tổ chức như Thanh Niên Canada Tranh đấu cho Nhân quyền tại Việt Nam, VietnAMPLIFY, Cộng đồng Người Việt Tự do Ottawa, Tổ chức Văn hoá Việt Ottawa, Canadian Vietnamese Network, Hội người Việt Nova Scotia, Voice Canada, Hội Người Việt Tư do Manitoba, Hội Cựu Quân nhân Quân lực VNCH – Ontario, Swiss Vietnam Committee COSUNAM, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam và hơn 30 tổ chức khác.

Tận cùng của nỗi đau

Tận cùng của nỗi đau

https://youtu.be/K0oyw2ZyjKM

Năm hết Tết đến, mọi người như hối hả để chia tay năm cũ với biết bao nhiêu nhọc nhằn cũng như chờ mong một mùa Xuân mới sáng sủa hơn !

Chợ về, tin chẳng vui hiện ra trước mắt !

Nhắn tin hỏi người anh em thì được biết sự ra đi của Cha Giuse quá đau đớn và cay đắng.

Cha ra đi để lại trong lòng những người ở lại nỗi thương tiếc vô vàn. Giáo Phận, Nhà Dòng, Giáo Xứ, Gia đình và những người thân quen đang nghẹn nghèo trước sự ra đi của Cha.

Đúng là ngày nào cũng có cái khổ của ngày đó ! Chả có ngày nào được an yên trước những sóng xô của cuộc đời.

Chả hiểu nỗi sao ngày nay sự dữ và sự ác nó lại lên ngôi đến như vậy.Chả hiểu người ta sẵn sàng sát hại người khác một cách dễ dàng đến như vậy.

Cha ra đi thật nhanh và thật vội. Cầu mong Cha được hưởng mùa Xuân vĩnh cửu trên quê Trời. Hẹn gặp nhau trong nước Trời để được hưởng mùa Xuân không bao giờ tàn úa.

Lm. Anmai, CSsR

…………………………………….

Xin cầu nguyện cho Cha Giuse, linh mục trẻ tài năng, hiền lành, thánh thiện thuộc dòng Đaminh… Với biết bao hoài bão, ước mơ phục vụ bà con nghèo tại nhà thờ Đak Mốt, Kontum. Cha bị tấn công khi đang ngồi tòa giải tội và đã ra đi đêm qua.

Linh mục GIUSE TRẦN NGỌC THANH, OP.

Sinh ngày 10 tháng 8 năm 1981.

Nơi sinh: Sài Gòn

Thụ phong linh mục: 04.8.2018

ĐANG PHỤC VỤ TẠI: Nhà thờ Đăk Mốt, Thị trấn Plei Kần, Ngọc Hồi, Kon Tum. 

Huy Phương – trên sân ga cuối đường tàu

Huy Phương – trên sân ga cuối đường tàu

Phạm Tín An Ninh

Để thay lời tựa cho tuyển tập 80 “Ga Cuối Đường Tàu” trình làng vào tháng 4/2018, nhà văn Huy Phương đã gởi đến bạn bè, độc giả bốn phương những lời tâm huyết:

“Nếu cuộc đời là những chuyến tàu thì cuối cùng, chúng ta ai cũng có một nhà ga để xuống, có điều sớm hay trễ mà thôi. Và đến một tuổi, một lúc nào đó, chúng ta phải nghĩ là đã đến lúc sắp xuống tàu. Vì vậy tác phẩm này, hôm nay đến tay bạn đọc. được xem như là một nhà ga cuối, cuộn chỉ thời gian đã kéo gần hết, quỹ thời gian chẳng còn được bao nhiêu!”

Tuyển tập 80 này ra đời, khi anh Huy Phương vừa qua tuổi 80 và cũng vừa trải qua một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Một hôm tôi đến thăm anh tại bệnh viện Kaiser ở Irvine. Sau một cuộc giải phẫu nhiều giờ, anh nằm bất động, nhưng khi mở mắt nhìn tôi, anh nở nửa nụ cười, khoe là “tớ vừa mới từ cõi âm trở lại, cứ tưởng lần này là đi đứt rồi!” Tôi đùa “mái tóc trắng của anh vẫn bồng bềnh, anh còn đẹp lão, sức mấy mà mấy bà cho anh đi, hơn nữa anh bỏ đi thì lấy ai thay anh để viết tiếp tạp ghi đây!” Anh nhoẻn miệng cười méo mó.

Tuần sau đó, trước khi trở lại Bắc Âu, tôi gọi thăm và chia tay anh. Anh cho biết đang tiếp tục điều trị và tịnh dưỡng tại nhà. Nghe giọng nói, biết anh còn yếu, đang mệt lắm, nhưng tôi không mấy lo âu, bởi tin chắc là một người khí khái, có nhiều nghị lực và sống chí tình với bè bạn như anh, không dễ gì mà “đi đứt” được.

Hai tuần sau, khi đang ở NaUy, thấy anh xuất hiện trên chương trình “Quê Nhà Quê Người” với cô cháu Ngọc Lan, dù vóc dáng có hao gầy, nhưng thần thái và giọng nói vẫn phong độ như ngày nào. Tôi mừng cho anh và cả cho tôi. Từ lâu, chúng tôi khá thân tình, xem nhau như anh em.

Bẵng đi một thời gian, anh bận rộn chuyện dọn nhà. Lâu nay vẫn ở nhà thuê, giờ nghe nói anh chị và vợ chồng cô con gái mua được ngôi nhà khá mới, rộng rãi khang trang trong một khu yên tĩnh. Được anh báo tin kèm theo địa chỉ mới, tôi mừng cho anh chị và hứa sẽ ghé lại thăm và mừng “tân gia”. Nhưng rồi con Coronavirus đến nhanh hơn chiếc xe Honda Accord đời 2003 cũ kỹ của tôi. Cả California có lệnh “mang khẩu trang và giản cách xã hội.” Không đi đâu được, cả ngày phải ở trong nhà, quá ngột ngạt với không khí dịch bệnh và chính trị rối ren của nước Mỹ, tôi rất thèm một chút không khí yên ả ở xứ Bắc Âu, quê hương thứ hai của tôi, nên đã mua và đổi vé máy bay đến mấy lần mà vẫn không về được. Bỗng một buổi trưa, nghe tiếng điện thoại reo, đầu giây bên kia là giọng “rất Huế” của anh Võ Ý, người anh cả của Phi Đoàn Bắc Đẩu ở Pleiku, từng bao vùng, gọi khu trục yểm trợ cho đơn vị tôi trong suốt mùa Hè 1972 ngập đầy khói lửa. Anh cũng là bạn thân, cùng Khóa 17 VB với nhà văn Song Vũ, ông anh trung đoàn trưởng nỗi danh “thao lược, dễ thương” của chúng tôi ngày ấy:

– Moa và Huy Phương đang ở quán “Huế Ơi” đây. Nhớ chạy ra liền nghe. Huy Phương muốn gặp toa.

Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu: Tình trạng Covid dầu sôi lửa bỏng như thế này mà hai ông anh gốc Huế còn dám đi tìm dư hương xứ Huế?  Chưa kịp tìm ra câu trả lời thì nghe tiếng anh Huy Phương:

– Ê! Nhớ chạy ra gấp nghe! Lần này mà không gặp thì xem như không bao giờ còn gặp nữa đó!

Giọng nói trầm và yếu ớt này, cho tôi biết không phải là đùa.Tôi hỏi lại:

– Ông anh nói cái gì mà nghe “khẩn trương” quá vậy? Đã sợ Covid mà còn hẹn nhau ra quán.

– Covid mà nhằm nhò gì. Moa bị ung thư tái phát, di căn rồi. Bác sĩ bó tay, bảo về nhà nghỉ ngơi. Toa có nhớ cách nay mấy năm, toa có đến thăm moa ở Kaiser không, lần ấy giải phẩu thành công, tưởng chết đi sống lại, nhưng không ngờ nó trở lại. Thời gian của moa chỉ còn vài tháng, mà cũng có thể vài ngày nữa thôi!

Tôi thoáng lo âu và cảm động, muốn chạy ra gặp anh ngay, nhưng vì phải trông hai đứa cháu ngoại nhỏ đang học online, nên đành phải nói lời xin lỗi, mà trong lòng thấy ưu tư, áy náy.

Không gặp nhau, nhưng anh đã nhờ anh Võ Ý chuyển đến biếu tôi “Tuyển Tập Huy Phương”. Đọc lời đề tặng và cả trong lời tựa “Gởi đến bạn như một lời chia tay”, lòng tôi chùng xuống, bâng khuâng:

“Theo luật đời, ở tuổi ngoài 80, chúng tôi đi vào những giai đoạn già yếu, bệnh tật, và mang theo một chứng bệnh nan y, chắc cũng phải đến lúc xuống tàu, giã từ đời sống. Chúng tôi không có của cải, tài sản gì để lại, ngoài “Huy Phương Tuyển Tập” xin gởi đến bằng hữu và bạn đọc như là một món quà chia tay.”

Mấy tuần sau, anh Võ Ý gọi báo tin: anh Huy Phương giờ yếu lắm, và rủ tôi đi thăm cùng với anh và anh Phan Nhật Nam. Anh sẽ ghé đón. Rất tiếc, khi ấy tôi đang ở trên nhà cô con gái út, khá xa Little Saigon, nên chỉ nhờ anh Võ Ý chuyển lời thăm, và hẹn sẽ gặp anh Huy Phương khi về lại Little Saigon.

Tuần trước, về lại nhà, tôi cùng anh Trần Huy Bích đến thăm anh. Biết anh mệt và có một số bạn bè thân tình thăm viếng, nên tôi gởi tin nhắn đến điện thoại của chị Huy Phương, xin chị chọn một thời điểm thích hợp.

11 giờ 30 trưa hôm sau, chúng tôi đến. Ngôi nhà của anh chị nằm trong một khu thật yên tĩnh ở thành phố Anaheim. Tôi bấm chuông với một chút lo âu, chuẩn bị tâm trạng trước những tình huống không vui, nhưng chị Huy Phương mở cửa đón chúng tôi với một nụ cười, vồn vã, làm chúng tôi thấy tự nhiên hơn. Anh Huy Phương từ trong phòng bước ra, tay phải chống một cây gậy. Vẫn mái tóc bạc trắng như tuyết bồng bềnh, với một nụ cười thân thiện cố hữu, nhưng vóc dáng anh trông tiều tụy, nếu không nói là da bọc lấy xương. Bắt tay anh, nở nụ cười, mà lòng dạ xốn xang, thấy thương và tội nghiệp anh.

Tôi cảm động hơn khi anh kéo tay bảo hai anh em tôi đến ngồi bên cạnh anh, chung cái ghế sofa để nói chuyện cho vui, vì chẳng còn có nhiều dịp được ngồi bên nhau nữa. Anh cho biết chẳng ăn gì, chỉ uống đúng 3 ly sữa mỗi ngày, cùng với mớ thuốc men do bệnh viện cấp. Tôi và anh Bích nhắc lại vài kỷ niệm xưa, đặc biệt mấy lần gặp anh chị tại Oslo- NaUy, khi anh chị sang đây thăm vợ chồng người bạn thân, là giáo chức đồng nghiệp cùng anh dạy ở trường Trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị, trước khi anh nhập ngũ. Tôi đùa, bảo lúc ấy ông thầy Lê Nghiêm Kính(*) đẹp trai, chắc cũng từng làm khổ bao nhiêu cô học trò Quảng Trị. Mấy hôm nay có cô nào xin phép bà chị đến thăm anh Huy Phương? Cả anh chị cùng cười.

Anh bình thản kể chuyện đã chuẩn bị tất cả cho việc hậu sự. Đã viết cả Cáo Phó và dặn dò vợ con để anh ra đi trong bình thản. Thấy anh vui, tôi bảo “Năm nay anh đã 84, thuộc hàng đại thọ rồi. Em cũng chỉ mong sống đến như vậy là phúc đức trời cho rồi. Từng là lính chiến, bị tù đày rồi vượt biển mà không chết, bây giờ sắp tuổi 80 em thấy được hưởng bonus của ông trời, nên đã mãn nguyện lắm rồi.” Anh Trần Huy Bích tiếp lời: “Anh em mình bây giờ đang xếp hàng, kẻ trước người sau. Mai mốt rồi cũng sớm gặp lại nhau thôi.”

Tôi bỗng nhớ tới bài thơ “Chúc Thư” của anh Huy Phương viết đã khá lâu, tôi rất tâm đắc:

(Bài thơ khá dài, xin trích đoạn)

Tôi người lính già ở xa tổ quốc
Xa chiến trường lưu lạc tới đây
Nơi quê người sương pha tuyết đổ
Mang nỗi đau con ngựa lạc bầy.


Không phải chỉ chịu ơn người đã chết
Tôi như còn mang món nợ nước non.
Chết không nghĩa là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.

Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa.
Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc

Đừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi


Anh em tôi trong những giờ tuyệt lộ
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi.
Chiến hữu tôi chết đầu sông cuối biển
Ngày tan hàng đành nằm lại quê hương
Không ai trổi cho khúc kèn truy điệu
Không có ai phủ giúp ngọn cờ vàng.

Hãy phủ cờ lên nấm mồ tử sĩ
Xác bị xới đào trong nghĩa trang xưa
Hãy rải hoa trên con đường thấm máu
Phút lui binh phải gãy súng buông cờ.

Anh là huynh trưởng của tôi, sau khi tốt nghiệp Khóa 16 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, anh đã phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến cho đến ngày phải tan hàng, vào tù theo vận nước. Trong binh nghiệp, anh cầm bút nhiều hơn cầm súng. Tôi đã buông súng, nhưng anh thì chưa hề buông bút. Anh là một trong những người lính chiến đấu bằng ngòi bút cho đến giây phút cuối cùng, đã để lại cho đời, cho chiến hữu, bạn bè cùng thế hệ con cháu những “chiến tích” rất đáng được trân trọng, tự hào, như anh đã viết trong lời tưa cho Tuyển Tập cuối cùng:

Chúng tôi không có của cải, tài sản gì để lại, ngoài “Huy Phương Tuyển Tập,”xin gởi đến bằng hữu và bạn đọc như là một món quà chia tay.”

Khi nhận được tuyển tập “Ga Cuối Đường Tàu” và đọc những dòng tâm tình của anh, tôi liên tưởng tới lời xưa của cụ Phan Bội Châu:

 “Con chim sắp chết hót tiếng bi thương,
Con người sắp chết nói lời tâm huyết”

Cụ Phan Bội Châu viết lời này trong Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư năm 1903. Mãi ba mươi bảy năm sau (1940), Cụ mới qua đời tại Bến Ngự trong cảnh bị giam lỏng.

Ông anh xứ Huế của tôi vừa bị định mệnh lên án treo. Anh có được ân xá và diên trì sự sống một thời gian dài như Cụ Phan? Trong viễn ảnh Phật giáo mà anh là một tín đồ, tiếng gọi về ngay hay lệnh hoãn không nhất thiết là tốt hay xấu, chỉ là duyên nghiệp trong luật tử sinh chung. Và việc ở hay đi nào có gì quan trọng, nếu người ta sống xứng đáng và yêu thương tới giờ phút cuối cùng.

Tôi tin anh Huy Phương đã quan niệm và hằng sống theo chí hướng ấy.

Thấy anh đã thấm mệt, chúng tôi xin cáo từ. Anh kéo chúng tôi ngồi sát lại anh hơn, ôm vai hai chúng tôi, bảo cô con gái chụp mấy tấm hình kỷ niệm. Thấy anh cố gắng nở nụ cười, chúng tôi cũng cười theo. Anh viết tặng anh Trần Huy Bích tuyển tập cuối cùng của anh. Nét chữ run run. Anh Bích nhận món quà với nhiều cảm xúc. Chúng tôi cám ơn chị và cháu mà không biết chia sẻ một lời nào, ôm anh thật chặt trước khi bước ra cửa, trong lòng lẫn lộn những nỗi niềm, khó tả.

(từ trái:Gs Trần Huy Bích- Nv Huy Phuong – Tg PTAN)

Xin cầu chúc anh, dù ở hay đi, vẫn luôn nở những nụ cười, thanh thản, mãn nguyện. Hẹn gặp lại anh ở sân ga cuối đường tàu.

Phạm Tín An Ninh

(*) Lê Nghiêm Kính là tên thật của Nhà văn Huy Phương

Cô gái gốc Việt bị lừa tình và chia tay sau khi tặng bạn trai trái thận

Cô gái gốc Việt bị lừa tình và chia tay sau khi tặng bạn trai trái thận

January 26, 2022

SALT LAKE CITY, Utah (NV) – Một cô gái bị lừa dối và bỏ rơi sau khi tặng trái thận của mình cho bạn trai. Câu chuyện này đang tạo nên làn sóng dư luận trên Tik Tok, theo bản tin của tờ Independent hôm Thứ Ba, 25 Tháng Giêng.

Cô Colleen Lê, 30 tuổi, phổ biến một loạt video nói về việc cô phải giải phẫu khi người bạn trai cũ cần được ghép thận.

Cô Colleen Lê. (Hình: TikTok/Colleen Le)

Khi bắt đầu hẹn hò với người đàn ông này cách đây năm năm, cô Colleen Lê biết rằng người yêu bị bệnh thận mãn tính nên phải chạy thận từ năm 17 tuổi. Vì không muốn thấy người yêu qua đời, cô Colleen tình nguyện hiến thận cho bạn trai.

Bảy tháng sau cuộc giải phẫu, người bạn trai nói với cô Colleen rằng anh ta phải đến Las Vegas, Nevada, để tham dự bữa tiệc độc thân cuối cùng (bachelor party) của người bạn trong nhóm nhà thờ vào cuối tuần. Vì bạn trai vốn là một người yêu đạo và hoạt động năng nổ trong nhà thờ, nên cô Colleen Lê không có chút mảy may nghi ngờ về chuyến đi đó.

Vài ngày sau, người bạn trai về nhà thú nhận rằng anh ta đã ngoại tình ở Vegas và xin cô Colleen tha thứ. Hai người xảy ra tranh cãi nhưng cuối cùng cô vẫn quyết định tha thứ cho bạn trai.

Tuy nhiên, ba tháng sau, người đàn ông nói lời chia tay và thẳng thừng rằng: “Nếu chúng ta thật sự là của nhau, cuối cùng Chúa vẫn mang chúng ta trở lại với nhau.”

Cô Colleen cho biết người bạn trai cũ chặn cô trên mạng xã hội, không trả lời các cuộc gọi và tin nhắn của cô trong nhiều tháng, và thậm chí còn đổ lỗi rằng cô cố tình hiến thận để tạo hình ảnh tốt đẹp về mình.

Không những vậy, bạn bè của người đàn ông này còn nói rằng: “Không phải ai cũng cần biết việc cô ta tặng cho bạn trai quả thận chết tiệt đó và hãy nhớ rằng hai người đã chia tay.”

Đoạn clip của cô Colleen Lê nhận được hàng triệu lượt xem, một số người tán dương hành động tốt bụng của cô, trong khi có người thì chỉ trích người bạn trai cũ tệ bạc. (V.Giang) [qd]

Kẻ đóng 9 chiếc đinh vào đầu bé 3 tuổi là người như thế nào?

 Kẻ đóng 9 chiếc đinh vào đầu bé 3 tuổi là người như thế nào?

Phương Trạch (Danlambao) – Mấy ngày qua dư luận VN chưa hết bàng hoàng về vụ bé gái Vân An 8 tuổi bị mẹ ghẻ là Nguyễn Võ Quỳnh Trang và bố ruột là Nguyễn Kim Trung Thái đồng tình giết hại.

Thì một vụ giết người rùng rợn khác lại vừa xảy ra tại thủ đô “Ngàn năm văn hiến” Hà Nội. Đó là vụ cháu bé 3 tuổi bị người tình của mẹ hãm hại bằng cách đóng 9 chiếc đinh vào đầu cháu bé tội nghiệp này.

Kẻ giết người này là Nguyễn Trung Huyên, sinh năm 1992, ngụ tại huyện Thạch Thất, Hà Nội.

Theo đó, căn cứ Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 30 ngày 20/1/2022, căn cứ kết quả điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP Hà Nội xác định: Nguyễn Trung Huyên (SN 1992; HKTT: Thôn 5, xã Thạch Hòa, Thạch Thất, Hà Nội; nghề nghiệp: Thợ mộc), đã có hành vi Giết người(1).

Vậy chân dung kẻ giết người Nguyễn Trung Huyên như thế nào?

Huyên là con trai của một gia đình danh giá, có mẹ làm ở học viện Hậu Cần, có bố là sĩ quan đang công tác ở Trường lục quân.

Sinh trương trong một gia đình có “truyền thống CM” như thế, không ai ngờ sản phẩm của họ lại là kẻ giết người máu lạnh rùng rợn là Nguyễn Trung Huyên.

Nên biết rằng hành động tột cùng của tội ác này là lần thứ tư của Huyên. Trước đó đã 3 lần Huyên hãm hại cháu bé nhưng chưa thành.

Lần thứ nhất: Tháng 10/22021, Huyên mua 2 gói thuốc diệt cỏ về trộn nước ngọt cho cháu uống và bị ngộ độc, mẹ cháu phải đưa cháu tới bệnh viện nhi TƯ cấp cứu.

Lần thứ 2: Tháng 10/2021, Huyên nhét chiếc đinh vít vào miệng cháu bé. Mẹ cháu phải đưa cháu vào bệnh viện Thạch Thất để lấy dị vật ra.

Lần thứ 3: Tháng 10/2021, Huyên say rượu đánh cháu bé gãy tay. Và lần này với 9 chiếc đinh đánh vào đầu cháu bé thì có lẽ ước mơ tiêu diệt cháu bé của Huyên sẽ thành công.

Câu hỏi đặt ra là: Phải chăng những kẻ như Nguyễn Trung Huyên, như Nguyễn Võ Quỳnh Trang và Nguyễn Kim Trung Thái v.v… là kết quả của nền giáo dục nhồi sọ và kích động bạo lực nhiều năm qua dưới mái trường XHCN?

Khi mà những tâm hồn non trẻ đã được gieo rắc nọc độc rằng, bạo lực cách mạng là động lực thúc đẩy xã hội tiến lên.

Khi mà trẻ em vừa cắp sách đến trường, thì đã được học tập những tấm gương bạo lực mà không biết sự thật được bao nhiêu %: Như Hồ Văn Mên, năm 13 tuổi, đã tham gia 7 trận lớn nhỏ, diệt 79 tên địch, cùng nhiều xe cơ giới của địch.

Như Kơ-pa-kơ-lơng, người dân tộc Gia Rai, Tây Nguyên, 13 tuổi tự làm nỏ, xin người già mũi tên có độc và bắn chết 3 tên liền. Sau đó KơPa Kơ lơng đã bắn phát thứ nhất xâu liền 5 tên, phát thứ hai xâu liền ba tên. Đến một trận khác anh bắn 3 viên hạ 7 tên, một lần khác nữa anh bắn 7 viên hạ 19 tên giặc. Đúng là nỏ thần.

Và đến những bài ca ngợi những tên đồ tể giết người hàng loạt và đội lên đầu để tôn thờ, ca ngợi giết người trong CCRĐ của Tố Hữu:

“Giết, giết nữa bàn tay không ngưng nghỉ/Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong/Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng/Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”, tôn sùng họ như thần thánh, thì sản phẩm của nó đương nhiên là bạo lực.

Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cho rằng đây là bài thơ “phi nhân đáng hổ thẹn” vì cái ác, sự khát máu được đây cao tới tột đỉnh. Có lẽ trong thơ ca cách mạng xét trên quy mô toàn thế giới chẳng có nhà thơ cách mạng nào lại “đỏ” đến mức này.

Trong đợt cải cách ruộng đất “long trời lở đất” đẫm máu diễn ra trong các năm 1955-1956 ở miền Bắc, con số nạn nhân “chính xác nhất” là 172.008 người, trong đó có 123.266 người (71,66%) được chính thức xác nhận là oan. Con số này ghi trong một tài liệu được biên soạn rất công phu, in ấn rất thẩm mỹ nhưng có lẽ ít ai đọc: “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản”.

Vì vậy mà ngày nay, khi mà bạo lực học đường xảy ra như cơm bữa, trò đánh trò và thậm chí là trò đánh thầy ngay trên bục giảng; Khi mà thuốc trị ung thư giả còn được cấp phép bán, kẻ sử dụng bằng giả của đại học Đông Đô không bị khởi tố, kẻ tố cáo lãnh đạo đạo văn bị bỏ tù v.v… Thì việc hành hạ người khác là điều bình thường?

Có tin nói gia đình Nguyễn Trung Huyên đang tìm cách chạy giấy tâm thần cho con để mong Huyên thoát tội. Chưa bao giờ giấy xác nhận tâm thần lại trở thành liều thuốc thần kỳ, như đấng cứu tinh đã từng cứu vớt nhiều quan tham và nhiều quan chức khác khỏi vòng lao lý. Bởi vì giám đốc bệnh viện tâm thần lại là kẻ bị bệnh tâm thần.

Những chiếc đinh của Nguyễn Trung Huyện không chỉ đóng vào đầu cháu bé 3 tuổi, mà đang đóng vào đầu những người có lương tri, khi bao nhiêu năm bị mê hoặc và tự sướng và tưởng rằng mình đang sống trên đất nước yên bình, “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay”.

Đúng là “Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam”.

Chú thích:

(1) https://baovephapluat.vn/cong-to-kiem-sat-tu-phap/theo-dong/khoi-to-bat-giam-ke-dong-dinh-vao-dau-chau-be-3-tuoi-117704.html

Nghĩ vụn nhân nghe tin thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch

Nghĩ vụn nhân nghe tin thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch

Thứ nhất: “Chỉ ở trong một thể chế tự do…”, thì mới có cơ may để phát triển tài năng như Thích Nhất Hạnh

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhân vật có tầm cỡ thế giới, nhưng trong nước người ta đã và đang tranh cãi về việc ông có đóng góp được gì cho đất nước hay chăng.

Sự tranh cãi này hoàn toàn hiểu được, vì những tiêu chuẩn để đo lường sự đóng góp này ở hai bên vĩ tuyến 17 (thực tế và trong lòng mỗi người) thì khác nhau.

Nhưng có một điều có lẽ không ai có thể tranh cãi, đó là chỉ ở trong một thể chế tự do, thì người ta mới có thể phát triển tài năng ngang tầm thế giới như Thích Nhất Hạnh.

Những gì ông đã làm được thời còn ở Việt Nam như nhà xuất bản Lá Bối, trường đại học Vạn Hạnh, hoặc phong trào Thanh niên Phụng sự Xã hội… cũng chỉ có thể được thực hiện dưới thời VNCH, một thể chế dân chủ còn rất non trẻ và bị cho là có nhiều khiếm khuyết. Trong cùng thời gian ấy ở miền Bắc, người ta còn đang say sưa với chủ nghĩa Mác, với quan điểm tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân…

Hãy suy nghĩ về điều ấy.

Thứ hai: “Tôi hiểu rất rõ và có phần nào đồng tình với những ai yêu mến thiền sư”, nhưng…

Tôi hiểu rất rõ và có phần nào đồng tình với những ai yêu mến thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ông tài hoa, viết hay thuyết pháp giỏi, và đã góp phần phát triển Phật giáo và truyền bá pháp môn Làng Mai cho thế giới Phương Tây – nơi con người sống quá gấp gáp và căng thẳng đến độ đánh mất chính mình. Đáng để tự hào và ngưỡng mộ.

Nhưng tôi cũng rất hiểu và đồng cảm sâu sắc với những ai lên án thiền sư về thái độ đối với quê hương đất nước. Đặc biệt, chính tôi cũng thắc mắc về thái độ chính trị của ông trước và sau năm 75.

Trước đó, ông đau đáu với việc phát triển Phật giáo ở Việt Nam, đồng thời chọn đấu tranh cho hòa bình vì đau đớn trước cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhưng sau này, khi đã nổi tiếng khắp thế giới với một vị thế quan trọng như một nhà tư tưởng có tầm ảnh hưởng sâu rộng, tôi có cảm tưởng dường như ông chưa từng bao giờ có một quê hương khốn khổ mang tên Việt Nam.

Trừ những lần về Việt Nam rất hoành tráng với ý định đưa pháp môn Làng Mai của ông cho Phật tử trong nước – cùng với một kiểu như ông đã làm ở bất cứ nước nào trên thế giới – ông chưa từng bao giờ lên tiếng công khai về những vấn đề của đất nước, cả việc đạo lẫn việc đời. Trong khi hoàn cảnh của người dân Việt và của chính Phật giáo Việt Nam suốt mấy chục năm từ 1975 đến nay cũng có quá nhiều điều có thể làm cho ông trăn trở, đau đớn, dằn vặt…

Vì sao thế? Ông đã quên Việt Nam, hay vì một lý do nào khác?

Câu trả lời chỉ có mình ông biết. Và ông đã ra đi, đi về phía đường xưa mây trắng…

Nên câu hỏi kia vẫn tiếp tục chia rẽ người Việt Nam, chẳng biết đến bao giờ.

(Mà thật ra thì cũng chẳng sao, vì chia rẽ vốn là đặc tính của dân tộc Việt. Nếu không có Thích Nhất Hạnh thì người Việt ta cũng thừa lý do để tranh cãi và khích bác nhau rồi. Ôi đất nước tôi…)

【Vũ Thị Phương Anh】

– Ảnh chụp năm 1960 của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Hòa thượng Thích Trí Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ. Ảnh: PVCEB, AP và Phật tử Việt Nam.

https://www.maikhoi.net/…/nghi-vun-nhan-nghe-tin-thien…

Lòng nhân ái, từ thiện của bác sĩ Nhật

Lòng nhân ái, từ thiện của bác sĩ Nhật

Từ bỏ công việc lương cao, bác sĩ Nhật đi khắp Việt Nam chữa mắt miễn phí cho người nghèo.

Bất kể nắng nóng hay giá lạnh, dù thiên nhiên có biến động bất thường thế nào cũng không thể ngăn được nỗ lực của vị bác sĩ người Nhật đến phẫu thuật cho các bệnh nhân có vấn đề về mắt tại VN.

Bác sĩ Tadashi Hattori sinh năm 1964 tại Osaka (Nhật Bản). Ông tốt nghiệp Y khoa tại Đại học Kyoto, một trong 8 trường đại học danh tiếng nhất ở Nhật.

Sau đó, ông được mời làm việc tại nhiều bệnh viện nổi tiếng ở Nhật. Được biết đến là một tài năng hiếm có trong lĩnh vực phẫu thuật cắt dịch kính (điều trị bong võng mạc, võng mạc tiểu đường và các bệnh về hoàng điểm), đặc biệt là kỹ thuật thuộc top 10 thế giới về sử dụng kính nội soi trong phẫu thuật cắt dịch kính, bác sĩ Tadashi Hattori là một trong số ít người có khả năng rút ngắn thời gian phẫu thuật xuống còn ⅓ bằng phương pháp nội soi. Các ca phẫu thuật của ông đều có tính chính xác cao và bệnh nhân hầu như rất ít biến chứng sau quá trình điều trị.

Cơ duyên với Việt Nam

Cuộc đời Bác sĩ Tadashi Hattori bắt đầu thay đổi kể từ buổi hội thảo khoa học vào năm 2001. 

Tại đây, ông gặp một bác sĩ người Việt và người này đã kể lại cho ông

những câu chuyện đau lòng của những bệnh nhân nghèo ở đây. 

“Người bác sĩ ấy nói rằng ở Việt Nam có rất nhiều người nghèo không có tiền chữa bệnh.  Họ phải chịu cảnh mù lòa, có khi mới chỉ ở độ tuổi trung niên”, 

Bác sĩ Hattori kể lại.

Nghe câu chuyện đó, ông đã về nhà suy nghĩ đến nửa năm, cuối cùng quyết định sang Việt Nam đi mổ mắt miễn phí cho bệnh nhân nghèo.

“Sau khi tính toán những việc cần làm cho 4-6 tháng, tôi quyết định sẽ đi. 

Nhưng giám đốc bệnh viện của tôi nói, nếu muốn đến Việt Nam, tôi sẽ phải xin nghỉ việc. Và đó chính xác là điều tôi đã làm. Tiền bạc không  phải là thứ quan trọng duy nhất trong cuộc đời. Với nhiều người, địa vị và tiền bạc là tất cả, nhưng với tôi, được làm điều gì đó giá trị còn quan trọng hơn rất nhiều”, bác sĩ Tadashi nói, theo Japan Times.

Sau đó, bác sĩ Tadashi đã có chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam kéo dài một tháng, ông ghi chép lại những gì liên quan đến thực trạng bệnh nhân có hoàn cảnh quá khó khăn không có tiền chữa trị mắt tại nhiều tỉnh thành của Việt Nam. 

Sau đó, ông quay lại Nhật và kêu gọi các công ty y tế tài trợ.

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ông đang không làm tại một bệnh viện nào và chẳng ai tài trợ cho ông. 

Ông tiếp tục nộp đơn xin hỗ trợ lên chính phủ Nhật Bản nhưng cũng bị từ chối. Đại diện văn phòng chính phủ cho biết, họ chỉ tài trợ các tổ chức NGO. 

Cuối cùng, bác sĩ Tadashi quyết định dùng tiền tiết kiệm của hai vợ chồng để mua thiết bị mang sang Việt Nam mổ miễn phí.

 Ở Nhật Bản, nghề bác sỹ được xem là nghề “hái ra tiền”, một bác sĩ không cần quá nổi tiếng cũng đủ để sống sung túc, giàu có. 

Tuy nhiên, vợ bác sĩ Tadashi lại không có cái “may mắn” đó, bởi chồng bà luôn có những mục tiêu thiện nguyện. Vậy nên, khi chồng nói về việc muốn dùng tiền tiết kiệm dưỡng già của họ để mua thiết bị phẫu thuật cho bệnh nhân nghèo ở Việt Nam, bà đã tức giận đến nỗi không nói chuyện với ông 3 ngày. Cuối cùng, bà đã đồng ý và bắt đầu ủng hộ ông trong những chương trình thiện nguyện ở Việt Nam sau này. 

Cha ông dạy: “Hãy luôn sống vì mọi người”

Thầy ông dạy: “Hãy coi bệnh nhân như bố mẹ mình”

Kể từ cuộc gặp gỡ định mệnh vào năm 2001, cuộc sống của bác sỹ Hattori đã chia ra làm 2 phần: phần ở Nhật Bản và phần ở Việt Nam.

Cứ nửa tháng ông lại về Nhật làm việc với tư cách là bác sĩ tự do, tham gia vào những ca bệnh khó tại Nhật Bản để kiếm thêm thu nhập.

Nửa tháng còn lại ông đi khắp Việt Nam để chữa trị miễn phí cho người nghèo. Nhìn chung, số ngày ông ở Việt Nam mỗi năm dao động từ 140 đến 180 ngày.

Nhờ nỗ lực không ngừng nghỉ của bác sĩ Tadashi, dần dà, những hoạt động thiện nguyện của ông tại Việt Nam càng được cộng đồng biết đến. Hiện tại, ông đã kêu gọi được rất nhiều hỗ trợ tài chính từ các bệnh viện công, phòng khám tư mà ông hợp tác chữa bệnh bán thời gian.

Bác sĩ Tadashi cho biết ông rất thương người bệnh ở Việt Nam, bởi vì họ quá nghèo mà phải đến khi tình trạng bệnh quá nặng, không còn cứu chữa được nữa, họ mới tìm đến bác sĩ.

“Chữa bệnh cho bệnh nhân Nhật dễ hơn nhiều vì họ thường tìm đến bác sỹ ngay khi họ thấy có vấn đề, vì vậy bệnh thường chỉ ở giai đoạn khởi đầu. Nhưng ở Việt Nam, bệnh nhân thường để đến khi gần mù rồi mới tìm đến bác sỹ.Thậm chí nhiều người không làm gì cho đến khi mù một con mắt. Chính vì thế, số người bị mù một mắt ở Việt Nam cao đột biến, cao hơn rất nhiều so với những nơi tôi từng chữa trị”, bác sĩ Tadashi chia sẻ.

Mang ánh sáng đến cho người Việt nghèo

Bác sĩ Hattori trải lòng, cha của ông đã ra đi đau đớn vì sự tắc trách của bác sĩ điều trị bệnh, điều này đã khiến ông quyết định theo đuổi ngành y.

 “Cha đã truyền cảm hứng để tôi sống nhiều hơn cho các mục đích thiện nguyện. Trước khi ông chết, ông bảo tôi “hãy luôn sống vì mọi người”. Sau này, một người thầy đã dạy tôi rằng: “Hãy luôn đối xử với bệnh nhân như cha mẹ của mình”.

Bác sỹ Hattori vẫn miệt mài cho những mục đích thiện nguyện tại Việt Nam.

Mặc dù đã ngoài 50 nhưng bác sĩ Hattori vẫn ngày đêm miệt mài với công việc thiện nguyện của mình tại Việt Nam. Ban ngày, người ta thấy ông thoăn thoắt phẫu thuật cho bệnh nhân, vận chuyển đồ đạc, đêm về lại cặm cụi viết báo cáo đăng lên website tổ chức từ thiện Asia Prevention of Blindness Association do chính ông sáng lập vào năm 2005.

Người Việt Nam thường gọi ông Hattori là “bác sĩ” hoặc “giáo sư”, nhưng ông còn có một tên gọi khác nữa là “aka hige sensei” . Trong tiếng Nhật, cụm từ để chỉ người lương y giàu lòng nhân ái, luôn giúp đỡ những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, và được ví như ông Bụt trong truyện cổ tích.

Nguồn: Lòng từ thiện của một bác sĩ Nhật ở VN

Gia Nguyễn chép lại từ mail của Bác sĩ Lê Ngọc Dũng 

Thanks Dr Dung.

From: HUNG TRAN

 Đọc hồi ức của bà quả phụ Ngô Quang Trưởng

Van Pham

 Đọc hồi ức của bà quả phụ Ngô Quang Trưởng

Trần Thị Nguyệt Mai

Tôi rất hân hạnh được là một trong những độc giả đầu tiên khi cuốn sách “Tháng Ngày Qua” – Hồi ức của Nhà văn Nguyễn Tường Nhung, chỉ mới là những trang bản thảo rời. Tác giả là trưởng nữ của Nhà văn Thạch Lam và cũng là phu nhân của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, một trong những vị tướng lãnh xuất sắc và trong sạch của Quân Lực VNCH.

Cuốn sách hé mở cho chúng ta rõ hơn không chỉ về thân thế của hai gia đình rất nổi tiếng – Thạch Lam và Ngô Quang Trưởng – mà còn như một cuốn phim quay lại hình ảnh xã hội thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam cận đại, hiển hiện nỗi khổ đau tận cùng khi mất mát cả tài sản lẫn những người thân yêu nhất trong đời, nỗi lo âu của người vợ lính khi chồng ra chiến trận và phút giây lãng mạn hạnh phúc khi chinh nhân trở về…

Những ngày Tết Mậu Thân 1968 kinh hoàng thảm thương ở Huế cũng được ghi lại một cách sống động.

Khi viết về văn chương Thạch Lam, nhà văn Mai Thảo đã dùng những lời ngợi khen đẹp nhất: “bút pháp chuốt lọc, trong sáng và chính xác nhất của văn xuôi tiền chiến” (1). “Bút pháp chính xác ông mãi mãi là một vinh dự cho tiếng Việt, theo ý tôi” (2). “Những trang tiểu thuyết đôn hậu và chứa chan tình cảm của Thạch Lam” (3) đã đi vào và ở mãi trong tâm hồn người đọc với Gió Lạnh Đầu Mùa, Nhà Mẹ Lê, Hai đứa trẻ, v.v… Đọc “Tháng Ngày Qua” càng thấy rõ hơn “văn chính là người”, để càng yêu mến Ông hơn.

Trong đậm sâu trí nhớ của tác giả ngày ấy, khi còn là một cô bé 6 tuổi, vẫn còn hiện rõ hình ảnh Bố Thạch Lam:

Bố tôi rất cao, da trắng hồng trông như lai Tây vậy. Ông hay mặc bộ vét màu kem nhạt may bằng hàng vải đũi, đầu luôn đội cái mũ phớt, chân đi giày tây, lúc nào cũng bóng loáng. Quần áo của bố tôi lúc nào cũng phải là thẳng tắp. Bố tôi rất ngăn nắp, thứ tự và rất quý sách. Ông có một tủ sách bìa mạ chữ vàng được xếp rất ngăn nắp. (sđd, tr. 20)

Và Mẹ, bà Thạch Lam, người vợ mà Ông rất yêu thương:

Mẹ tôi hơn bố tôi vài tuổi. Bà tuy hơi thấp so với bố tôi, nhưng bà rất đẹp và rất khéo chiều bố tôi. Bà hiểu rõ rất tỉ mỉ từng chi tiết, những sở thích của bố tôi và tôn trọng tất cả những gì mà bố tôi quyết định. Cà phê mà bố tôi uống mỗi buổi sáng phải chính tay mẹ tôi pha. (sđd, tr. 22)

Cô vẫn nhớ như in sở thích ăn uống rất giản dị của Bố:

Thức ăn bố tôi không đòi hỏi phải nhiều thịt, cá hay thịnh soạn, nhưng món gì cũng phải thật tinh khiết, sạch sẽ, bày cho gọn và đẹp mắt. Bố tôi thích những món ăn thanh như canh giò sống nấu rau ngót, cải xanh nấu cá rô, rau muống luộc, đậu hũ chiên tẩm hành lá hay cá chép rán vàng, và tuyệt đối không bao giờ được dọn món ăn mà đã ăn ngày hôm trước. (sđd, tr. 23)

Cộng thêm thói quen đơn sơ nhưng rất hạnh phúc của Ông sau bữa cơm chiều:

Ăn cơm xong bố tôi có thói quen ra ngồi ngoài hiên trước nhà để ngắm cảnh. Tuy đã về chiều nhưng cũng còn một vài chiếc thuyền, trên chở những cặp tình nhân. Họ chèo thật chậm nhìn ngắm mặt trời lặn và thủ thỉ những lời âu yếm. Bố tôi lúc nào cũng rủ mẹ tôi ra cùng ngồi và trò chuyện tâm tình cùng mẹ. Bố tôi ít nói, nhưng khi nói thì đã diễn tả hết ý mình. (sđd, tr. 22)

Đặc biệt là tính thương người vô cùng tận của Ông, để thấy tại sao văn chương Thạch Lam cũng giống như người:

Bố tôi rất khó tính và ít khi cười nhưng lại rất thương người. Có thời gian nhà có một anh phu xe để kéo xe cho bố tôi đi làm hàng ngày. Nhưng khi trời mưa thì bố tôi bảo mưa ướt tội nghiệp, khi nắng thì bố tôi cũng bảo nóng quá kéo xe mệt, và thấy anh kéo xe đổ mồ hôi thì cũng không đành. Rút cuộc bố tôi lại đi xe ngoài để đi làm. (sđd, tr. 23)

Nhà văn Thạch Lam mất rất sớm lúc mới ngoài 30 tuổi, khi văn tài đang vào độ sung mãn. Ngày ấy tác giả chỉ mới 6 tuổi, có hai em trai, một lên 3 và một mới sinh được 3 ngày. Đang từ một cô bé được bố rất yêu chiều:

Tối nào sau khi ăn cơm xong bố tôi cũng gọi tôi vào phòng sách chỗ bố tôi ngồi hàng đêm để viết văn. Trên bàn viết của bố tôi ngoài những giấy, bút, đặc biệt có một lọ kẹo tây. Những viên kẹo đủ màu sắc hồng lạt, đỏ, xanh, trắng, đựng trong chiếc lọ bằng thủy tinh trông thật đẹp mắt và thật là muốn ăn. Bố tôi mở nắp lọ, mùi kẹo bay thật thơm. Bố tôi lấy ra cho tôi một cái… (sđd, tr. 23 & 24)

Cô trở thành đứa trẻ mồ côi cha. Sau đám tang vài tháng, “bà nội tôi cho người lên Hà Nội đón mẹ và ba chị em chúng tôi về trại Cẩm Giàng. Trại rộng hai mẫu tây, khang trang, nằm cách ga tàu hỏa khoảng hơn cây số. Hai cánh cổng chính của trại khá to, sơn màu xanh, giàn hoa tỉ muội màu hồng nhạt leo chung quanh” (sđd, tr. 27). Từ đây, gia đình cô rời bỏ “căn nhà nhỏ nhưng rất thơ mộng ở tại đầu làng Yên Phụ, ngay cạnh hồ Tây có cây liễu rủ, tàn liễu sà xuống gần mặt nước hồ… Đường từ ngoài vào làng toàn lót bằng gạch đỏ. Trên đường đi chỗ nào cũng nhìn thấy nước hồ… Đi sâu vào trong làng rất đẹp, hai bên là những hàng rào trồng bằng cây duối, được cắt thật bằng phẳng. Khi tới mùa quả duối chín vàng trông xa như những sợi tơ tằm óng ánh… Từ đó tôi chưa có dịp trở về lại làng Yên Phụ nữa” (sđd, tr. 25)

Hình ảnh Bà Nội, người Mẹ hiền sinh ra những người con thuộc nhóm khai sáng Tự Lực Văn Đoàn đã góp công rất lớn trong việc hiện đại hóa xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua báo chí và tiểu thuyết, với “tôn chỉ” được công bố trên báo Phong Hóa số 101 ngày 8 tháng 6 năm 1934 gồm 10 điểm, đúc kết lại trong nội dung: “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. Đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam” (4):

Bà Nội dáng người cao to, nước da trắng hồng, gò má hơi cao, đôi mắt sáng, sâu, trông như lai, toát ra một vẻ oai nghiêm cương nghị. Bà rất nghiêm khắc và ít khi cười. Nhưng khi bà cười thì nụ cười thật tươi, lộ hàm răng đen. Bà nói giọng Huế nghe hay hay và lạ. … Bà ăn uống cầu kỳ, kiểu cách. Bát ăn bằng men xanh trắng viền chỉ vàng, đũa ngà, mâm bằng đồng thau sáng loáng. Khi ăn phải từ tốn, thức ăn cũng phải sắp thứ tự, rau muống luộc để ra đĩa, cọng và lá không lẫn lộn, cắt ra làm hai, khi chấm chỉ vừa đụng vào nước chấm, cơm chỉ được xới một nửa bát… (sđd, tr. 30 & 31)

Bà rất kiên cường, thật giỏi, can đảm. Khi ông mất bà còn rất trẻ, chưa tới 40. Một tay bà phải chăm sóc mẹ chồng và bảy người con còn niên thiếu mà vốn liếng chỉ là một tiệm tạp hóa nhỏ, bán những thứ lặt vặt như kim chỉ, muối, đường, diêm, nến, vài lọ kẹo bột, kẹo gừng, v.v… lời lỗ chẳng được bao nhiêu. Nhưng nhờ vào việc cân gạo, cứ mỗi sáng sớm tinh mơ, những dân ở các làng lân cận đem gạo lên bán, từng gánh hoặc thúng có khi chỉ mươi đấu đựng trong cái bị đan bằng cói. Bà gom mua lại để bán lẻ, khách hàng là những gia đình nghèo sống rải rác quanh phố chợ. Nhờ tài quán xuyến bà đã cho các con ăn học… (sđd, tr. 32 & 33) Một tay bà đã gây dựng được một gia đình làm rạng danh cho dòng họ, những văn tài đã để lại cho những thế hệ nối tiếp (sđd, tr. 46). Sau này, khi các con trai đã thành danh, bà xuống tóc xuất gia cửa Phật và ít khi về lại trại. (sđd, tr. 33)

Cuộc sống êm đềm yên ả chẳng bao lâu thì loạn lạc xảy ra, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Năm 1946, một đêm phố chợ Cẩm Giàng bùng lên bốc cháy, khói bay mù mịt cả một góc trời (sđd, tr. 82). Giữa đêm đang ngủ, U (là vú em, người nuôi cậu em kế) lay cô dậy để cùng Mẹ, hai em và U gánh gồng đi lánh nạn, đến tạm cư ở Xóm Đìa, cách Nhã Nam khoảng 5, 7 cây số, “một xóm rất nghèo, chỉ có khoảng mươi căn, phần đông đều lợp bằng lá, và sống bằng ruộng nương nhưng là ruộng thuê lại gọi là cấy rẽ” (sđd, tr. 35). Đến đây, U từ biệt về quê. Và cuộc đời của cô bắt đầu lật sang một trang mới với rất nhiều vất vả, khó khăn.

“Khi đến Xóm Đìa, vài nhà quanh xóm cũng đã có mấy người tản cư tá túc. Chúng tôi được chủ nhà tên Nhâm cho ở nhờ. Ông cho dọn dẹp cho chúng tôi ở nhờ trong cái kho nhỏ, thường để chứa những dụng cụ nhà nông như cuốc, xẻng, cày, bừa, dao liềm, v.v… và chỗ nằm của con vện đen. Cái kho lợp bằng rạ, vách trát bùn trộn rơm đã cũ, vách có nhiều lỗ thủng, cửa là cái phên đan bằng nứa có gắn một thanh tre để chống lên chống xuống. Bên trong, vẻn vẹn chỉ có một cái giường bằng gỗ vừa đủ cho bốn mẹ con nằm, bên cạnh giường kê ba hòn gạch chụm lại gọi là ông đồ bếp (theo ngôn ngữ lúc đó) để thổi nấu. Tắm rửa hàng ngày thì ra ngoài ao. Nước uống và nước thổi cơm thì phải vào tận cuối xóm gánh về; cả xóm đều dùng nước giếng ấy (sđd, tr. 35).

Những ngày đầu thật bỡ ngỡ. Một khung cảnh quá cách biệt. Chúng tôi như rơi vào một cơn ác mộng. Căn nhà kho chứa đồ vật dụng bẩn thỉu, chật hẹp, một chỗ thua cả chuồng chó ở trại Cẩm Giàng của gia đình chúng tôi (sđd, tr. 64). Mùa đông đến đem theo hơi lạnh, gió rét của miền rừng núi. Bốn mẹ con co ro trên một cái phản gỗ, đắp một cái chiếu cũng đã cũ. Mẹ đầu bên này, tôi đầu bên kia, kéo qua kéo lại. Con ấm thì mẹ lạnh và ngược lại. Hai cậu em thì còn nhỏ ngủ vô tư. (sđd, tr. 69).

“Những năm đầu Mẹ còn có chút tiền đem theo, chúng tôi có cơm gạo trắng, có chút ít thịt, cá” (sđd, tr. 64). Đến khi hết tiền và bán đi tất cả những thứ đã mang theo, thì “Mẹ sắp xếp cho tôi theo mấy cô trong xóm đi buôn cà chua và su hào, mỗi tuần hai phiên chợ ngoài thị trấn Nhã Nam. Phải dậy từ sáng tinh mơ vào vườn cà chua hoặc su hào họ đã hái sẵn rồi tùy sức của mỗi người gánh được nhiều hay ít… tiền lãi cũng tạm để mua gạo có cơm trộn khoai hay sắn. Các em thì vào rừng nhặt củi khô và nấm hạt dẻ (sđd, tr. 36).

Thấy con quá vất vả mà chẳng kiếm được bao nhiêu, nên khi được chủ nhà cho mượn toàn bộ đồ nghề và có người cho mua thóc chịu, hai mẹ con chuyển qua nghề làm hàng xáo, tức là “xay thóc, sàng bỏ trấu đi. Sau đó bỏ vào cối giã rồi vần, sảy cho cám và tấm rớt ra” (sđd, tr. 67) cũng cực nhọc nhưng “lãi được tấm để ăn, cám bán lấy tiền mua rau, muối, tương, cà. Nếu được thóc tốt thì thừa ra một ít gạo. Những lần như vậy mấy mẹ con mừng lắm, nhưng cũng phải độn thêm khoai hoặc sắn. Khi mùa gặt đến chúng tôi đi mót lúa… Thỉnh thoảng tôi đi theo mấy đứa bạn đi hôi cá… Từ khi mẹ hết tiền chưa hôm nào được ăn no và được ăn không độn. Thịt lợn, thịt bò thì xa lánh hẳn, gặp mùa gà bị toi là lúc mới thấy mùi gà.

*********

Ngày tháng vẫn trôi qua. Mẹ tôi không dám tự mình hồi cư vì mịt mù tin tức, sợ bị Tây bắt. Thấm thoắt đã gần ba năm, chị em chúng tôi mỗi người chỉ có hai bộ áo quần đã rách tả tơi” (sđd, tr. 37).

Trong lúc ấy, Bà Nội “rất lo lắng vì từ khi chạy tản cư đã gần ba năm mấy mẹ con chúng tôi biệt vô âm tín”, nên “thuê người đi tìm mẹ con chúng tôi” (sđd, tr. 38). Bà Nội đã giữ gìn cho các cháu: “Nếu không có Bà Nội có thể tôi đã là một nữ cán bộ và các em có thể là bộ đội hay bệnh hoạn vùi thây nơi rừng thiêng nước độc này!” (sđd, tr. 39).

Về lại Phố Chợ Cẩm Giàng, gặp lại bạn cũ, cũng là lúc cô “thật ngỡ ngàng không thể tin được. Một trang trại rộng lớn đẹp như thế … bây giờ chỉ là bãi đất hoang.” Bạn cô cho biết, “Khi Việt Minh rút đi họ đã đốt, đập phá hủy tất cả những dinh thự họ gọi là tiêu thổ kháng chiến. Nghe nói vậy tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao Việt Minh lại làm như vậy. Phá mất đi một trang trại nổi tiếng là đẹp, nên khi những chuyến tàu chạy ngang đây có nhiều người giơ máy chụp ảnh, và tôi không còn được ở đây nữa.” (sđd, tr. 41).

“Bắt đầu từ khi rời khỏi trại Cẩm Giàng, líu ríu dắt ba đứa con chạy tản cư, hồi cư về thành, cơ nghiệp không còn gì. Mẹ rất nghèo, nhờ Bà Nội giúp một phần, mẹ tần tảo, bươn chải nuôi con ăn học” (sđd, tr. 92). Và năm 1953 Bà Nội đã “đích thân đến nhà ông Thám (Tổng Giám đốc Bưu điện Việt Nam) để xin cho mẹ tôi một việc làm… Lương tuy thấp nhưng cũng đủ sống cả mấy mẹ con và lại có nhà ở hai buồng nhỏ, có bếp, bể chứa nước, trong cư xá Bưu điện đằng sau Nhà Hát Lớn, trước cửa Nhà Bác Cổ Hà Nội.” (sđd, tr. 46 & 47)

Sau này, người thiếu nữ ấy gặp Trung úy Ngô Quang Trưởng và khi kết hôn với nhau thì ông đã lên cấp Đại úy, Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5 Nhảy Dù. Cuốn sách đã chia sẻ cuộc đời binh nghiệp của ông Ngô Quang Trưởng bắt đầu từ lúc này. “Anh tham gia trận chiến nhiều hơn làm việc ở văn phòng. Mỗi lần đi hai tới ba tuần mới trở lại đơn vị. Khi trở về anh đã gầy lại gầy hơn, mặt sạm đen, đôi khi bị nổi ngứa khắp cả người. (sđd, tr. 130). Sau đó, được “đổi về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đóng ở Sài Gòn (sđd, tr. 139). “Khoảng thời gian này anh không phải ra trận liên miên như khi còn ở Tiểu Đoàn. Chỉ đi thị sát, và đôi lần anh phải bay ra miền Trung để cùng chỉ huy tham dự những trận đánh do quân Bắc Việt tấn công.” (sđd, tr. 140)

Hơn một năm sau, “khoảng đầu năm 1966, ngay tại thành phố Huế, tình hình khá gay cấn. Dân chúng biểu tình chống đối chính quyền bằng cách đem bàn thờ Phật để ngoài đường phố… Anh được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (UBHPTU) bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, Bộ Tư Lệnh đóng tại Thành Nội Huế. (sđd, tr. 150)

Ở Huế 5 năm, Ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ và “rất bận rộn, thời gian ở trên trực thăng nhiều hơn dưới đất. Chỉnh đốn lại Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, thăm các tỉnh, các quận, đồn bót, v.v…” (sđd, tr. 196)

Sau hơn hai năm trấn nhậm ở miền Nam hiền hòa, “Anh nhận được lệnh thuyên chuyển không dự tính, không báo trước Tổng Thống bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 1 đóng ở Đà Nẵng… Đây là lần thứ tư đổi chỗ ở trong khoảng năm năm.” (sđd, tr. 201 & 202)

Tác giả đã ghi lại những diễn biến trong hai tháng cuối cùng của nền Đệ Nhị Cộng Hòa mà bà là một chứng nhân. Qua người tùy viên, chúng ta thấy được hình ảnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trong ngày cuối trước khi mất Đà Nẵng:

Giờ phút cuối ở Đà Nẵng, chỉ có anh và chú đi bộ ra bên bờ biển Sơn Trà lặng vắng, mỗi người trên mình độc nhất chỉ một khẩu súng (sđd, tr. 263). Theo lời người tùy viên kể lại ngày cuối tại Đà Nẵng, anh và chú đã đứng tại chỗ này định kết thúc bằng viên đạn.” (sđd, 252)

Đọc những trang sách nói về cuộc đời binh nghiệp của Tướng Ngô Quang Trưởng, độc giả có thể dễ dàng nhận thấy tuy là tướng lãnh của một vùng, nhưng Ông thể hiện tác phong quân kỷ rất nghiêm chỉnh:

“Anh thức dậy sớm rất đúng giờ. Những cư dân trên con đường anh đến Bộ Tư Lệnh mỗi ngày có tiếng đồn không cần xem đồng hồ, mỗi lần thấy xe Tư Lệnh chạy ngang là biết đúng giờ đó anh di chuyển, không bao giờ có xe còi hụ, không người hộ vệ, chỉ có một tùy viên. (sđd, tr. 263)

“Thời gian ở Huế và Đà Nẵng, những ngày cuối tuần hay ngày lễ anh không bao giờ nghỉ. Tôi và các con không có bữa ăn trưa cùng anh. Những bữa cơm tối anh thường về muộn, các con ăn trước, ôn bài vở để đi ngủ sớm. Tuy sống cùng một nhà nhưng chúng chỉ gặp chào anh trước khi đi ngủ.” (sđd, tr. 264)

Những hành xử của Ông trong việc thi hành lệnh quân đội không vị tình riêng, không kết bè, vây cánh để tạo ảnh hưởng riêng:

“… Từ Sài Gòn đổi ra Huế đảm nhận chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh chỉ có một người tùy viên đi theo, ngoài ra không một người thân, … Chuyện chỗ ở, phương tiện, người giúp việc cho gia đình anh cũng để tùy văn phòng họ sắp xếp, tôi cũng không đòi hỏi, không lựa chọn.” (sđd, tr. 266)

Ông luôn luôn sát cánh, chia sẻ với thuộc cấp trong từng nhiệm vụ:

Mỗi khi ra lệnh cấm trại anh luôn luôn cùng ở trong trại với các anh em. (sđd, tr. 151)

Ông cũng không bao giờ lạm dụng chức vụ hay quyền thế để làm ảnh hưởng đến công quỹ nhà nước:

Mùa hạ khi ở Huế, tôi hay đưa các con ra bãi biển Thuận An. Trên đường xe chạy ngang những khu vườn xanh tươi cây trái hoa quả ẩn hiện thấp thoáng những căn nhà lợp ngói đỏ đã phai màu, không gian có vẻ thanh bình, các con thường mong anh đi cùng. Chúng hay hỏi sao Ba không đi, anh chỉ trả lời một câu, “Ba bận làm việc”. Tuổi thơ vô tư chúng không thắc mắc. Tôi biết nếu anh đi, phải có hộ tống, phải lo sắp đặt an ninh. Chỉ một lần vui chốc lát mà bao người phải lo như vậy, lạm dụng công sức của quân đội, một chuyện không thể có ở anh. (sđd, tr. 268)

Và sống rất khiêm nhường, giản dị:

Anh với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ở Huế, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 ở Đà Nẵng, phương tiện di chuyển của tôi cũng chỉ là chiếc xe Jeep cũ mang bảng số dân sự. Thời gian làm Tư Lệnh vùng Một ở Đà Nẵng, người Mỹ có cho một xe du lịch Huê Kỳ màu đen khá rộng để gia đình sử dụng nhưng anh bảo tôi nhường xe ấy cho gia đình Tư Lệnh phó… (sđd, tr. 267 & 268)

Điều quan trọng nhất là Ông giữ gìn rất nghiêm mật đức tính thanh liêm, trong sạch của mình. Còn nhớ “trong thập niên 1960 tại Miền Nam, trong dân gian đã truyền tụng câu: ‘Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng’ nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân đối với bốn vị tướng lãnh này của QLVNCH” (5).

“… một điều quan trọng là không nhận quà biếu của bất cứ ai.” (sđd, tr. 157)

“… quan niệm sống của anh, anh dứt khoát không giúp một ai dù là người thân thích. Anh nói người nào cũng có gia đình, cũng có bố mẹ, cũng có con cái, trong thời chiến trận mình lo cho người thân về chỗ yên lành như vậy còn gì là kỷ luật và còn ai bảo vệ quê hương. Anh đã bị họ hàng thân thích trách hờn.” (sđd, tr. 297)

“Khi còn ở VN, sau bữa cơm tối ra ngồi ngoài sân, anh phân tách những sự việc, những thâm hiểm, những đòn phép của con người khó thể biết được mà vì vô tình hay vì sự tham lam, mình sẽ bị cạm bẫy. Nếu mình phạm vào một lần sẽ có cớ để họ gây khó dễ, họ ăn mười mình ăn một nhưng tiếng tăm mình lãnh hết và gây khó dễ cho công việc anh làm.” (sđd, tr. 271)

Sau đây là một ví dụ:

“Anh ăn giản dị không đòi hỏi nhưng tôi biết ý anh thích những món mặn theo cách chế biến của miền Nam. Hai đứa nhỏ nhất thì thích nấu theo kiểu Huế, còn tôi vẫn thích những món thanh nhẹ của miền Bắc… Tôi thường phụ với chú đầu bếp luôn tiện dạy cho chú cách nấu những món của miền Nam và miền Bắc. Món thịt gà là món mọi người ưa thích nhất, nhưng giá một con gà khoảng hơn một nghìn cho cả nhà không đủ, mà mua hai con thì nhiều tiền quá. Tiền chợ mỗi ngày đã chỉ định chỉ có một ngàn, vì vậy món thịt gà thường vắng bóng trong những bữa ăn.

Tướng Tư Lệnh một vùng mà thức ăn hàng ngày cũng phải tính toán vì còn phải để dành một ít. Thời gian ở miền Tây thực phẩm rẻ và có nhiều lựa chọn, đặc biệt là hải sản và rau củ trái cây, nhờ vậy thức ăn đầy đủ hơn. Tuy vậy, chú bếp cũng không vui, than phiền. Chú nói người tư lệnh trước đưa tiền chợ nhiều gấp hai mà lại ít người hơn, gạo ngon có người cung cấp, nước tương nước mắm họ biếu cả thùng, v.v… và v.v… Với tiền chợ tôi đưa gồm cả gạo mắm muối, chú phải tính mua những món ít tiền mới đủ mặc dù tôi nói chúng tôi không cần những thức ăn cầu kỳ đắt tiền.” (sđd, tr. 265, 266)

Thêm một ví dụ khác:

“Qua nhiều lần nói chuyện với Hòa, có những việc rất nhỏ làm tôi áy náy tự cảm thấy như thiếu bổn phận làm vợ. Chú nói hai thầy trò thường nhịn đói không có bữa ăn trưa. Bữa ăn sáng của anh là một bát cháo trắng với muối đường và một ly nước trà nóng pha đậm. Tôi có nói để mua một tô bún bò hay phở mì, anh hỏi giá bao nhiêu rồi nói mắc quá và mất công đi mua… Hàng ngày anh đến văn phòng rồi lên trực thăng thăm các tiền đồn, chỗ đóng quân, có khi đáp xuống một vài nơi đúng giờ ăn trưa họ mời nhưng không bao giờ anh ở lại ăn. Chú cho biết hôm nào Trung Tướng ăn một hộp trái cây thì Hòa ăn một hộp thịt. Những món đồ hộp thường có để một ít trên máy bay nhưng ít khi ăn vì vậy tùy viên cũng nhịn theo.” (sđd, tr. 264)

Tướng lãnh của một vùng mà bữa điểm tâm chỉ là “một bát cháo trắng với muối đường và một ly nước trà nóng pha đậm” thì đủ hiểu được con người chân chính, thanh liêm của Ông đến bậc nào.

Bằng một văn phong nhẹ nhàng, trong sáng và chân thật thừa hưởng từ Bố Thạch Lam, tác giả Nguyễn Tường Nhung đã chia sẻ về gia đình mình sau khi Nhà văn Thạch Lam mất cũng như về Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, “một người chồng đầy tình cảm lãng mạn, một người cha nhiều trách nhiệm, đã sống một cuộc đời khiêm nhường, khép kín nhưng có lẽ thật bình yên, hạnh phúc khi trở thành một di dân tị nạn tại Hoa Kỳ…” như lời giới thiệu của Nhà xuất bản Thạch Ngữ ở bìa sau sách. Hy vọng Tháng Ngày Qua sẽ góp thêm tài liệu cho những bạn trẻ hoặc những nhà viết sử tương lai khi muốn tìm hiểu về hai gia đình này hay thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách cũng có thể dựng thành phim ảnh vì nói đến xã hội và con người Việt Nam ở một thời kỳ vô cùng nhiễu nhương. Có đầy đủ tình tiết của chết chóc, đau khổ lẫn vui tươi, sum họp… Có những phân đoạn thương cảm khiến lệ tràn mi mà cũng có những phân đoạn vui tươi với nụ cười hạnh phúc.

– Hình bìa hồi ức Tháng Ngày Qua.

Nhà Thơ Nguyên Sa và Hành Trình Tâm Linh – Nguyễn Đức Tuyên

Nhà Thơ Nguyên Sa và hành trình tâm linh

Những bài thơ cuối sáng tác đầu năm 1998, trước khi lìa đời, đã thể hiện những biến chuyển sâu thẳm trong tâm thức Nguyên Sa. 

Nguyễn Đức Tuyên

Thao thức về thân phận con người, sự vong thân của bản ngã, đời sau… có thể đã đánh động một nhà thơ nhạy cảm, một giáo sư triết học tài hoa, một nhà hành động thực tế…Ông đã từng nói: “Thời gian xóa bỏ nhiều thứ… Việc chấm dứt cho tất cả mọi sự sẽ phải tới… Tất cả sẽ chán chường. Võ sĩ lên đài mà không nghĩ đến chiến thắng, đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết gần tới thì chắc chắn quả đấm của võ sĩ ấy phải khác.”

Mới đây, trong buổi phỏng vấn của Barbara Walters trong chương trình truyền hình 20/20 trên đài “ABC” đã được phát sóng ngày 6 tháng 7, 2012 với chủ-đề: “Thiên-Đàng là gì? Thiên-Đàng ở đâu? Làm sao đi đến đó?” Nhiều nhà lãnh đạo các tôn giáo đã phát biểu quan điểm của mình, tuy khác nhau, nhưng tựu trung là một thao thức lớn về “đời sau.”

Trở lại trường hợp Nguyên Sa, trong phần giới thiệu Thơ Nguyên Sa Toàn Tập có ghi lời ông: “Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có.”

Thể theo ý nguyện đó, ta hãy tìm hiểu bài thơ Mật Khẩu của Nguyên Sa:

Mật Khẩu

Ngày nào Thượng Đế cũng tới,

Giờ khắc bất định,

Nhưng ngày nào ông cũng tới ít nhất một lần,

Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra,

Thản nhiên bước vào trong,

Tôi không biết ông đi vào tim,

Hay ông đi vào phổi,

Hay cả hai ?

Tôi không biết khi ông đi vào tim, ông dừng lại ở đại động mạch,

Hay ông đi tới khu cổ ngữ của tâm thất trái,

Hay ông đi tới khu sấm ký của tâm thất phải ?

Tôi không biết khi ông đi vào phổi, ông dừng lại ở cuống phổi, 

Hay ông đi tới từng phế nang,

Phế nang có từng chùm, mỗi chùm có cửa đưa vào một nội tâm, mỗi chùm hội tụ theo mật khẩu,

Có những chùm phế nang mật khẩu tên người,

Có những chùm phế nang mật khẩu mang tên sông,

Có những chùm phế nang mật khẩu là tên phố, tên làng, tên hoa, tên cỏ…

Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào
Tôi sợ đến nín thở,
Tôi sợ ông gọi cửa không được,
Tôi sợ ông quên mật khẩu,
Tôi sợ ông quay ra hỏi,
Tôi sẽ không biết trả lời sao,
Vì tôi cũng không nhớ.

Nguyên Sa

Trước hết, Nguyên Sa nhận ra Thượng Đế. Đó là một khởi sự tuyệt vời. Nhận thức của ông về Thượng Đế nơi bản thân ông không phải là nhận thức về một cái gì chợt có, chợt mất, thấp thoáng, mơ hồ. “Ngày nào Thượng Đế cũng tới… ít nhất một lần.” Ông chưa phải là người đắm chìm trong chiêm niệm thần thiêng như các chính nhân tôn thờ Thượng Đế nhưng đã đủ linh giác để nhận ra Thượng Đế đến với mình mỗi ngày dù vào ”giờ khắc bất định.” Sự liên hệ giữa Thượng Đế và ông đã khá đậm sâu.

Điều đáng chú ý là ông sợ Thượng Đế đến. “Mỗi lần Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào, Tôi sợ đến nín thở.” Vì sao ông sợ? “Tôi sợ ông gọi cửa không được.” Một Thượng Đế có quyền năng mở toang lồng ngực người thơ, tiến vào các phế nang, tâm thất bằng các chìa khóa bí mật và phức tạp của “cổ ngữ, sấm ký, tên người, tên phố, tên sông, tên cỏ…” – mà lại có chỗ Ngài “gọi cửa không được” sao? Một Thượng Đế đến với nội tâm người thơ, “Thản nhiên bước vào trong,” ung dung, tự tại, vào ra thế nào chính người thơ còn phải băn khoăn theo dõi: “Tôi không biết khi ông đi vào tim ông dừng lại ở đại động mạch, Hay ông đi tới khu cổ ngữ của tâm thất trái, hay ông đi tới khu sấm ký của tâm thất phải, ông đi tới từng phế nang,”- mà bây giờ Ngài “gọi cửa không được” sao ?

Tuy nhiên, đọc bài thơ «Mật Khẩu» của Nguyên Sa, người ta không khỏi sững sờ trước một thực tại vừa cao xa huyền bí, lại vừa riêng tư, gần gũi lạ lùng. Thực tại đó có thể nằm bên trong một cuộc mật đàm lâu dài và kín đáo, hoàn toàn riêng tư giữa hai thực thể thoạt nhiên rất cách biệt nhau: đó là giữa Trời với người?! Bài thơ thật là khó hiểu, tuy lời lẽ mộc mạc, minh họa bằng những hình tượng thô thiển.

Hãy xem Thượng Đế đến với ông thế nào. “Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra, thản nhiên bước vào trong.” Thượng Đế không xin hẹn, không bấm chuông, không xưng tên, không khách sáo. Mỗi ngày, vào giờ khắc bất định, Ngài tới mở banh lồng ngực của người thơ ra, thản nhiên bước vào. Đây là một quang lâm Thượng Đế hoàn toàn chủ động, vừa đầy uy quyền, vừa đầy thân thiết. Người thơ tự hỏi “… không biết ông đi vào tim, hay ông đi vào phổi, hay cả hai?” Tôi nghĩ “cả hai” vì những câu thơ sau đó cho thấy người thơ theo dõi bước đi của Thượng Đế trong tim phổi mình. Ngài không bước vào đầu óc, vào lý trí người thơ mà bước vào lồng ngực, căn nhà của phổi và tim. Phổi là nhà của hơi thở làm nên sự sống. Đó là hơi thở Thượng Đế đã thổi vào loài người khi Ngài tạo dựng nên họ từ cát bụi. Tim là ngai tòa ấm áp của tình yêu, cũng là ngai tòa của Thượng Đế vì Thượng-Đế-Là-Tình-Yêu. Ngài đi vào lồng ngực mở banh của người thơ để làm cho sự sống của ông thăng hoa, sung mãn, và để chinh phục tình cảm ông. Cho nên Ngài đến mỗi ngày. Dù ông chưa ý thức rõ ràng về Thượng Đế, Ngài thực đã tìm đến với ông bằng tình yêu của Ngài.

Quả vậy, trong bài thơ, chỉ có hai ngôi vị: «Thượng Đế» và «Tôi». Đôi bên chắc phải có một giao ước mặc nhiên về cuộc gặp gỡ riêng tư với nhau, theo thời khóa ít ra mỗi ngày một lần trong một thời gian dài, và có cả một thỏa hiệp về một «mật khẩu» để Thượng Đế dùng khi bất ngờ, bất định, bất thần gõ cửa muốn gặp Tôi nơi sâu thẳm của nội tâm.

Bài thơ mở đầu với xác nhận:

Ngày nào Thượng Đế cũng tới,

Giờ khắc bất định,

Nhưng ngày nào ông cũng tới ít nhất một lần,

Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra,

Thản nhiên bước vào trong,

Và bài thơ kết thúc với khẳng định đã có «mật khẩu» được thỏa thuận để Thượng Đế xướng lên cho cửa lòng Tôi mở ra. Nhưng điều oái oăm là đôi bên có thể quên «mật khẩu» đó, nên Tôi sợ, «sợ đến nín thở», «Tôi sợ ông gọi cửa không được.» Thực vậy, đây là phần kết:

Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào,
Tôi sợ đến nín thở
Tôi sợ ông gọi cửa không được
Tôi sợ ông quên mật khẩu
Tôi sợ ông quay ra hỏi
Tôi sẽ không biết trả lời sao
Vì tôi cũng không nhớ.

Với đoạn kết này, tác giả đưa nhân vật Tôi vào một ngỏ bí thật rùng rợn: vì “quên” cái chìa khóa mở cửa vào nội tâm, nên Tôi có nguy cơ lâm cảnh đánh mất chính bản thân mình mà chính Thượng Đế cũng không cứu được Tôi. Quả vậy, Thượng Đế tôn trọng giao ước về “mật khẩu” nên cũng đành bó tay trước cái “quên” dại dột của con người chăng?! Và như một sự an bài của định mệnh, con người cũng đành bó tay trước thân phận đọa đầy của mình như nàng Kiều: “đến phong trần cũng phong trần như ai” (Kiều, c. 1192) chăng?

Thật là trớ trêu, khốn đốn cho thân phận con người! Câu kết bài thơ «Vì tôi cũng không nhớ» dường như muốn thú nhận thân phận bi đát của Tôi đối mặt với Thượng Đế: đó là thân phận của cái Tôi quên, «không nhớ!» Tôi bé bỏng, yếu đuối trước mặt Thượng Đế, nhưng lại mang nhiều ngõ ngách ngoắt ngoéo, hiểm hóc, bí ẩn trong người. Tuy chứa đầy chữ nghĩa trong tim óc -cổ ngữ, sấm ký- nhưng Tôi hốt hoảng nói không ra lời, vì Tôi sợ đến nín thở mỗi lần Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào… gặp cái Tôi «không nhớ» lời giao ước cũng như «không nhớ» chính bản thân mình…

Đúng vậy, Nguyên Sa nhìn nhận là Tôi sợ và Tôi quên, nếu Thượng Đế quay ra hỏi… «mật khẩu» mang tên người, tên sông, tên phố, tên làng, tên hoa, tên cỏ, Tôi quên béng nó đâu rồi! Đúng, Tôi phải thú nhận là Tôi quên các «mật khẩu» đưa vào sự sống mà Tôi đã trải qua và muốn quên đi chăng?!

Tóm lại, cuộc diện xảy ra như sau: Ngày nào Thượng Đế cũng tới,… mở banh lồng ngực tôi ra, thản nhiên bước vào trong. Nhưng, Tôi không biết ông đi đâu, vào tim hay vào phổihay cả hai… Tôi không biết khi ông đi vào tim, rồi dừng lại ở đâu, ở khu cổ ngữ hay khu sấm kýHay ông đi tới từng phế nang, phế nang có từng chùm, mỗi chùm có cửa đưa vào một nội tâm, mỗi chùm hội tụ theo mật khẩu. Mỗi lần Thượng Đế đếnTôi sợ ông quên mật khẩu, và Tôi sợ… ông hỏi, tôi cũng không nhớ.

Thật quái lạ, oái oăm, khốn đốn cho thân phận con người Tôi: cái Tôi không biết, cái Tôi hay sợ, cái Tôi hay quên… Đó là cội nguồn của mọi hư đốn, bệ rạc! Nguyên Sa đi từ đâu… để đến nông nổi này?

Chắc khởi đầu, Nguyên Sa cũng như bao người Việt Nam thường ngước mặt lên kêu “Trời!” mỗi khi cần đến! Họ gọi nôm na Thượng Đế là ông Trời. “Ông” chỉ một ngôi vị; “Trời” chứa một bầu khí bao la. Mà không khí dùng để nuôi sống vạn vật. Và con người nhờ hít thở không khí mà sống; tắt thở tức là chết! – Dĩ nhiên, “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Kiều 116)-. Dân gian vẫn hình dung “không khí” là “tinh”, là “thần” (vì khí không có hình hài), từ Trời mang sức sống thấm nhuần vũ trụ và loài người. Thần khí chan hòa nối liền trời với đất, ông Trời với con người. Ở đâu người ta cũng cảm nhận có thần khí thâm nhập, mặc muôn hình vạn trạng, nhưng chỉ có một ông Trời. Đó là niềm tin dân giả truyền thống lâu đời của người dân Việt.

Bước thứ hai của nhà thơ Nguyên Sa là đã nhận chân ra được, không phải một ông Trời rộng lớn bao trùm khắp tất cả, mà một vị Thượng Đế có lòng đến thăm hỏi Tôi ít ra là mỗi ngày một lần. Đối với Nguyên Sa, Thượng Đế không đến tượng trưng như một chính khách muốn làm thân với người dân thuộc khu vực cử tri nào, mà đến để viếng thăm và tìm hiểu cặn kẽ từng vấn đề của nội tâm Tôi.

Hơn nữa, đối với Nguyên Sa, Thượng Đế không đến như là khách, mà đến như là chủ nhà, “giờ giấc bất định,” mở toang cửa “thản nhiên bước vào trong”, vào “tim”, vào “phổi,” và có thể vào từng “phế nang.”Tuy nhiên, ở tim chắc Thượng Đế đọc được “cổ ngữ” hay “sấm ký” sẵn có; còn ở phổi, nơi thông thương với khí Trời làm mạch sống, thì, lạ lùng thay, Thượng Đế lại cần “mật khẩu” để vào từng các phế nang! Thượng Đế tôn trọng sự sống của Tôi đến thế sao?

Theo niềm tin của Nguyên Sa, thật rõ ràng là chính Thượng Đế đi bước trước, trực tiếp can thiệp vào đời sống con người, vào chính bản thân Tôi. Quả vậy, Thượng Đế đường đường hành động như đã có một giao ước bất thành văn cho phép Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào, gọi cửa. Nhưng phần tôi, Tôi sợ đến nín thở, Tôi sợ ông gọi cửa không được vì Tôi sợ ông quên mật khẩu đã ghi trong giao ước mà Tôi đã chấp nhận. Chắc Thượng Đế muốn thử lòng Tôi xem Tôi có sẵn sàng để Người dùng “mật khẩu” mà vào được nội tâm Tôi chăng?!

 Bài thơ «Mật Khẩu» của Nguyên Sa đến đây là chấm dứt. Bài toán chưa có đáp số! Bởi Nguyên Sa còn đang đi tìm hiểu tại sao Thượng Đế lại dấn thân đi bước trước đến với cái Tôi nhỏ bé của Nguyên Sa, và tại sao Ngài cần «mật khẩu» của Tôi để mở được cửa vào tận đáy lòng Tôi, tiếp xúc với sự sống thâm kín nơi Tôi? Vậy «mật khẩu» đó có tên gọi là gì để đại diện cho con người bé bỏng và vạn vật vô thường hầu có thể đối mặt với Thượng Đế cao cả?

Khi Nguyên Sa tìm ra được đáp số là lúc mà nhà thơ sẽ ngộ được chân lý vĩnh hằng: Thượng Đế là Thiên Chúa hằng sống, từ muôn thuở đã cùng với Thần Khí của Ngài mà sinh ra Con của Người (Ngôi Lời), mẫu thức cho việc tạo thành con người và vũ trụ. Lúc ấy hẳn Nguyên Sa sẽ hiểu được tại sao Thiên Chúa cần «mật khẩu» có tên là Con Người (Đức Giêsu Kitô) để đến tới tận cùng ngõ ngách của lòng người. Bởi không có Con Người thì vạn vật trong đó có Tôi sẽ không là gì trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, Thánh Phaolô nói trong sách Tông Đồ Công Vụ: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv. 4,12).

Có thể nhận định một cách khác ngắn gọn hơn: Chúa biết mọi sự, kiểm soát tim phổi, hai cơ quan sinh động của con người, nhưng Chúa để cho con người tự do.

Nguyên Sa là một người công chính, kính sợ Chúa. Ông chôn chặt vào nhiều chùm phế nang những điều ông đã làm.

Ông đặt ra mật khẩu (password) để mở từng chùm phế nang. Đàng khác Chúa cho ông khả năng quên, có quên thì mới sống yên ổn.

Cho nên ông sợ ngày Chúa hỏi ông làm gì với cái tự do, đó là lúc ông phải dùng mật khẩu tìm lại những điều đã làm mà nay quên mất, quên cả mật khẩu để mở phế nang để tìm kiếm …

***

Nhớ lại, trong lễ an táng nhà thơ Nguyên Sa tại thánh đường Polycarp, Orange, California, linh mục Phạm Ngọc Hùng có kể lại đêm ban phép Thánh Tẩy cho Giáo sư Trần Bích Lan, đại để như sau: Vào một buổi tối đã khuya, một thanh niên đến gõ cửa xin linh mục đi làm phép Thánh Tẩy cho một bệnh nhân muốn tin nhận đạo Công giáo. Linh mục lật đật lên xe đi theo người thanh niên, là con trai của Nguyên Sa, cũng là một bác sĩ. Trên đường đi, qua câu truyện trao đổi, linh mục mới được biết bệnh nhân đó là nhà thơ Nguyên Sa. Thật xúc động vì không ngờ được làm phép Thánh Tẩy cho một nhà thơ, một giáo sư triết học nổi tiếng lẫy lừng mà linh mục hằng ngưỡng mộ, nhưng chưa một lần gặp mặt.

Gặp nhà thơ Nguyên Sa trong một căn phòng của bệnh viện, với sự hiện diện của một số thân hữu của nhà thơ cùng với một số anh chị em thiện chí Công Giáo – những người luôn sẵn sàng giúp đỡ những người muốn tìm hiểu Đạo Công giáo – linh mục Phạm Ngọc Hùng nói, “Thưa bác, bác còn đang đau yếu, xin bác cứ ngồi trên ghế để con cử hành nghi thức Thánh Tẩy cho bác.” Nhà thơ trả lời, “để tỏ sự kính trọng đối với một bí tích, xin cha cứ để con quỳ xuống, không sao”. Một cử chỉ thật đẹp, thật khiêm nhường của nhà thơ Nguyên Sa.

Tin theo Đạo Chúa, ông nhận thánh bổn mạng – tên thánh, theo ngôn ngữ Công giáo – là Giuse. Giuse Trần Bích Lan.

Người ta cũng đọc thấy phần ghi chú đơn sơ nhưng súc tích dưới tấm ảnh Nguyên Sa đội mũ casket quen thuộc trong cuốn Thơ Nguyên Sa như sau:

“Thi sĩ Nguyên Sa

Giuse Trần Bích Lan

Sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932 tại Hà Nội

Chúa gọi về ngày Thứ Bảy, 18 tháng 4, 1998

Tại California, Hoa Kỳ”

Trong ngày tang lễ tiễn đưa ông, từ nhà thờ St. Polycarp ra nghĩa trang Peek Family trong một ngày nắng chói chang, đàng sau tang quyến là rất nhiều thân bằng, quyến thuộc. Họ là những giáo chức, nhà thơ, nhà văn, nhà báo và đông đảo cựu học sinh của ông; chắc hẳn nhiều người đã nhân dịp này suy nghĩ về cuộc đời và sự chọn lựa cuối đời của ông.

Theo tôi biết thì phu nhân của thi sĩ Nguyên Sa, G.S. Trịnh Thúy Nga, cũng đã tìm về Đạo Chúa cách đây mấy năm trong âm thầm, lặng lẽ, khiêm cung nhưng đầy xác tín.

Nguyễn Đức Tuyên

 Ghi Chú: Trong buổi ra mắt sách Hành Trình Đức Tin ngày 28.9.2014 tại Trung Tâm Công Giáo, Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ, bà Trịnh Thúy Nga, phu nhân GS Nguyên Sa đã phát biểu 2 điều: thứ nhất, thi sĩ Nguyên Sa đã nhận lãnh phép Rửa Tội khi còn minh mẫn và sáng suốt, thứ hai, chính bà Trịnh Thúy Nga cũng đã tìm về Đạo Chúa sau thi sĩ Nguyên Sa 10 năm và nay bà cảm thấy an bình, hạnh phúc.

NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM

Lương Văn Can

NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM: NGƯỜI ĐẸP THÔNG THẠO 7 THỨ TIẾNG, TÀI GIỎI GÂY CHẤN ĐỘNG MỘT THỜI

Bà Henɾiette Bùi biết ᵭến 7 ngoại ngữ, bao gồm: Tiếng Pháρ, tiếng Tɾung, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạρ.

Bà Henɾiette Bùi Quαng Chiêu sinh ngày 8/9/1906 tại Hà Nội và lớn lên ở Sài Gòn. Bà xuất thân tɾong một gia ᵭình tɾi thức và giàu có nức tiếng thời bấy giờ. Điều khiến bà ᵭược người ᵭời nhớ tới là bởi, bà chính là nữ bác sĩ ᵭầu tiên ở Việt Nαm. Tài năng, năng lực học tậρ của nữ bác sĩ này từng gây chấn ᵭộng một thời…

Thông thạo ᵭến 7 thứ tiếng, tốt nghiệρ tɾường Y với luận án xuất sắc

Ngay từ nhỏ, bà Henɾiette Bùi Quαng Chiêu ᵭã ᵭược ăn học ᵭầy ᵭủ. Bà cũng ɾất sáng dạ và luôn có thành tích học tậρ xuất sắc. Thưở nhỏ, bà Henɾiette Bùi Quαng Chiêu theo học tại Tɾường Sαint Pαul de Chαɾtɾes (tɾường Nhà Tɾắng) tại Sài Gòn. Năm 1915, bà thi vượt cấρ và nhận bằng Ceɾtificαt d’Études sớm 2 năm, ɾồi vào học tɾường Collège des Jeunes Filles, tức Tɾường Tɾung học Gia Long, tɾường Áo Tím sau này, mà nay là Tɾường THPT Nguyễn Thị Minh Khai thuộc quận 3, TP.HCM.

Năm 15 tuổi, Henɾiette Bùi Quαng Chiêu ᵭược ᵭưa sang Pháρ du học tại Tɾường Lycée Fenelon ở Paɾis vào năm 1926. Năm 1927, bà vào học Y tại ĐH Y khoa Paɾis. Thời ᵭiểm ấy, việc ρhụ nữ học lên ᵭại học ᵭã ít, huống chi còn là ĐH Y, và còn là một nữ sinh người Việt. Chính vì vậy mà sự kiện này gây chấn ᵭộng thời ᵭó. Sự có mặt một ρhụ nữ Việt tại một tɾường ᵭại học danh tiếng của Pháρ cũng là bước ᵭột ρhá tɾong hệ thống giáo dục của nước này.

Sαu 7 năm miệt mài học tậρ, bà Henɾiette Bùi Quang Chiêu tốt nghiệρ tɾường Y với luận án ᵭạt loại xuất sắc vào năm 1934. Bản luận án thậm chí còn ᵭược Hội ᵭồng giám khảo khen ngợi và tặng thưởng huy chương. Từ ᵭây, Henɾiette chính thức bắt ᵭầu con ᵭường hành nghề y, tɾở thành nữ bác sĩ khoa sản ᵭầu tiên của Việt Nam.

Một ᵭiều ấn tượng nữa, ᵭó là bà Henɾiette Bùi Quang Chiêu biết ᵭến 7 ngoại ngữ, bαo gồm: Tiếng Pháρ, tiếng Tɾung, tiếng Anh, tiếng Tây Bαn Nha, tiếng Ý, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạρ.

Chọn cứu người, thay vì hạnh ρhúc ɾiêng tư

Năm 1935, Ьà Henɾiette về nước lấy chồng theo lệnh của chα mẹ. Chồng bà là ông Vương Quang Nhường, Tiến sĩ Luật khoa ᵭầu tiên củα Việt Nam. Thời ᵭiểm về nước, bà Henɾiette nhậm chức Tɾưởng khoa Hộ sinh cho một bệnh viện sản ở Chợ Lớn, và là người ρhụ nữ Việt Nαm ᵭầu tiên có tɾách nhiệm chăm lo hệ thống bệnh viện thuộc ᵭịa thời ấy.

Cuộc hôn nhân của Ьà và ông Nhường chỉ kéo dài ᵭược 2 năm vì bà Henɾiette ɾất bận ɾộn công việc, thường xuyên ρhải ɾa khỏi nhà vào ᵭêm hôm ᵭể ᵭi cứu người. Sαu ᵭổ vỡ, bà tái giá với kỹ sư, ᵭồng thời là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích từng tốt nghiệρ kỹ sư cầu cống từ tɾường nổi tiếng bậc nhất xứ Pháρ “École Polytechnique,” vốn chỉ dành ɾiêng cho sinh viên ưu tú nhất củα nước Pháρ và thế giới thời ấy.

Được biết thời ᵭiểm làm việc tại bệnh viện sản ở Chợ Lớn, bà Henɾiette thường xuyên ᵭấu tɾanh tɾực diện với cấρ tɾên ᵭể yêu cầu những quyền lợi chính ᵭáng cho y bác sĩ Việt, cho bệnh nhân người Việt, tɾước sự bất công, thiên vị dành cho bác sĩ, bệnh nhân người Pháρ.

Tɾong suốt 44 năm theo nghề y, bà Henɾiette từng làm việc cả ở Việt Nam và Pháρ. Năm 1957, bà từng sang Nhật học thêm châm cứu ᵭể áρ dụng tɾong ngành sản khoa. Năm 1961, bà sang Pháρ sinh sống và mở ρhòng mạch ɾiêng.

Năm 1970, bà Henɾiette về nước, tình nguyện ρhục vụ không lương tɾong ngành hộ sản và nhi khoa tại Bệnh viện Phú Thọ. Năm 1971, bà lại sang lại Pháρ tiếρ tục làm nghề y ᵭến năm 1976 và mất vào ngày 27/4/2012 tại Pαɾis, thọ 106 tuổi.

Được biết, bà Henɾiette còn hiến tặng biệt thự tư gia củα bà ở số 28 ᵭường Testαɾd làm cơ sở cho Tɾường ĐH Y khoa Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Hiện nay, nơi này là ᵭịa ᵭiểm thuộc Bảo tàng Chứng tích chiến tɾanh ở ᵭường Võ Văn Tần, TP.HCM.

Theo: Vietnamnet