Gia đình thiên tài, 10 đứa con đều vào đại học trước năm 13 tuổi

 Gia đình thiên tài, 10 đứa con đều vào đại học trước năm 13 tuổi

Bố mẹ của những đứa trẻ này khẳng định con của mình không phải thiên tài, thay vào đó họ cho rằng chế độ giáo dục tại nhà đã mang lại hiệu quả cao trong việc học của bọn trẻ.

Gia đình Monalisa Harding sống ở San Jose, California, Mỹ khiến cho mọi người vô cùng sửng sốt khi cho những đứa con của mình học tại nhà thay vì cho bọn trẻ đến trường học truyền thống.
Họ biết rằng, mình đã đi đúng hướng khi 3 đứa con đầu tiên đều vào đại học năm 13 tuổi và những đứa con khác cũng có thành tích xuất sắc không kém.

Đứa con lớn nhất của gia đình là Hannah đã lấy bằng cử nhân Toán học ở tuổi 17 tại Đại học Auburn, Montgomery vào năm 2004. Điều này khiến cô bé trở thành thần đồng trong mắt mọi người. Năm ngoái, đứa con út Thunder (11 tuổi) đã đỗ đại học cùng lúc với người anh thứ Lorennah (13 tuổi) đang học năm thứ 2.
Những người trong số anh chị em nhà Harding đã tốt nghiệp đại học đã trở thành bác sĩ, kiến trúc sư, nhà thiết kế tàu vũ trụ và luật sư.

8 trong số các anh chị em nhà Harding đã tốt nghiệp đại học năm 15 hoặc 16 tuổi và tất cả đều học đại học trước khi 13 tuổi.

Mariannah (16 tuổi) tốt nghiệp đại học gần đây nhất, hiện đang nộp đơn xin học thạc sĩ. Seth Harding (20 tuổi) người con thứ 6 trong gia đình vừa trở thành luật sư trẻ nhất Alabama ở tuổi 19, sau khi lấy bằng luật và vượt qua các kỳ thi chuyên môn trong thời kỳ đại dịch.

 Mặc dù những thành tích của 10 đứa con đều rất xuất sắc nhưng người mẹ Monalisa khiêm tốn khẳng định các con của bà không phải thiên tài. Bà cho biết thành công của con cái là nhờ học tại nhà hiệu quả hơn việc đến trường học.

Monalisa nói: “Bản chất của giáo dục tại nhà rất hiệu quả, ai cũng có thể làm được. Bố mẹ ưu tiên việc học của con cái hơn tất cả. Chúng tôi không phải là một gia đình giàu có nên phải có sự hy sinh thời gian để dạy dỗ con cái. Khi bạn nuôi dạy những đứa trẻ trong một môi trường học tại nhà và làm việc chăm chỉ, con cái sẽ noi gương bố mẹ, cố gắng học tập”.
Tất cả những đứa con nhà Harding đều cực kỳ chăm chỉ và tiến bộ mỗi ngày. Năm 2014, cặp vợ chồng này đã phát hành cuốn sách có tựa đề “The Brainy Bunch”, chia sẻ kinh nghiệm và phương pháp giáo dục hiệu quả nhất cho con cái.
   

Cuốn sách này chỉ ra những ưu và nhược điểm của việc học tại nhà, cũng như đưa ra những lời khuyên chân thành dành cho các bậc cha mẹ muốn làm điều tương tự.

2 vợ chồng nhà Harding từng là quân nhân trước khi làm việc trong chính phủ. Có lẽ vì thế phương pháp giáo dục của họ cũng có phần đặc biệt so với số đông.

Với sự thành công của con cái, họ đã có những buổi chia sẻ kinh nghiệm giáo dục trên khắp nước Mỹ, thậm chí còn đến cả Nhật Bản.

Monalisa nói thêm: “Chúng tôi đã có khoảng thời gian tuyệt vời nhất khi đi du lịch khắp nơi và giúp đỡ những gia đình khác muốn cho con cái họ học tại nhà.

Điều đó thực sự tuyệt vời bởi vì chúng tôi đặt cả trái tim và tâm hồn của mình vào con cái. Chúng tôi biết mọi người ngưỡng mộ điều đó và muốn làm điều tương tự.

Điều quan trọng là phải tìm ra sự cân bằng giữa việc không gây quá nhiều áp lực cho con cái và đảm bảo chúng phát huy hếổt khả năng của mình.

Bây giờ chúng tôi chỉ còn Thunder và Lorennah đang học đại học. Cuối cùng, chúng tôi đã có thể nghĩ về việc dành thời gian cho bản thân nhiều hơn”.
Những thành tựu của các con nhà Monalisa Harding đạt được như sau:

1. Hannah (34 tuổi) lấy bằng cử nhân toán năm 17 tuổi tại Đại học Auburn ở Montgomery.
2. Rosannah (32 tuổi) lấy bằng cử nhân kiến trúc tại trường Cao đẳng Nghệ thuật California ở San Francisco năm18 tuổi.
3. Serennah (30 tuổi) lấy bằng cử nhân sinh học tế bào tại trường Cao đẳng Huntington ở Montgomery, Alabama khi mới 17 tuổi.
4. Heath (26 tuổi) có bằng cử nhân tiếng Anh. Anh lấy bằng cử nhân tiếng Anh năm 15 tuổi tại trường Cao đẳng Huntington, sau đó lấy bằng thạc sĩ khoa học máy tính năm 17 tuổi tại trường đại học Troy ở Montgomery.
5. Keith (23 tuổi) lấy bằng cử nhân âm nhạc tại Đại học Faulkner ở Montgomery Alabama vào năm 15 tuổi, sau đó lấy bằng thạc sĩ ở tuổi 17.
6. Seth (21 tuổi) lấy bằng cử nhân khoa học chính trị tại trường Cao đẳng Huntington năm 16 tuổi.
7. Katrinnah (18 tuổi) lấy bằng cử nhân khoa học chính trị năm 15 tuổi từ trường đại học Huntington, hiện đang theo học trường luật.
8. Mariannah (16 tuổi) lấy bằng cử nhân khoa học sức khỏe tại Đại học Bellevue ở Nebraska ở tuổi 16.
9. Lorennah (13 tuổi) là sinh viên đại học năm thứ 2 tại Đại học Bellevue.
10. Thunder James (11 tuổi) là sinh viên năm nhất đại học cũng tại Đại học Bellevue. 

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen                                                                                                                                                                                                                                             

Winston Phan Đào Nguyên ra mắt sách minh oan cho cụ Phan Thanh Giản

Winston Phan Đào Nguyên ra mắt sách minh oan cho cụ Phan Thanh Giản

May 18, 2022

Văn Lan/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Buổi ra mắt sách “Phan Thanh Giản và vụ án Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” (Họ Phan, họ Lâm bán nước, triều đình bỏ rơi dân chúng) của Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên, với nhiều chứng cứ và tình tiết mới, được công bố trong buổi hội thảo tại Viện Việt Học, Westminster, hôm Chủ Nhật, 15 Tháng Năm.

Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Diễn giả chính của buổi hội thảo, Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên cũng chính là tác giả cuốn sách ra mắt, cùng với sự tham gia của nhà văn Phạm Phú Minh, Giáo Sư Nguyễn Trung Quân, và nhà báo Phan Thanh Tâm.

Tại buổi hội thảo, một số sách xưa và nay viết về cụ Phan Thanh Giản, vị tiến sĩ đầu tiên của triều đình nhà Nguyễn, cùng một số chứng cứ, những sử liệu, những công văn của miền Bắc đề cập tới vụ án này, và có cả những văn thư từ hải ngoại để phản bác vụ án.

Cuốn sách có ba phần gồm: Phần thứ nhất, giới thiệu sơ về vai trò của câu “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” đã được dùng như một bản án, một bằng chứng, và là cách để bác bỏ đơn xin khoan hồng của những người kêu gọi cứu xét lại cho cụ Phan, khi các sử gia miền Bắc vào năm 1963 lên án cụ Phan trên tờ Nghiên Cứu Lịch Sử do ông Trần Huy Liệu, viện trưởng Viện Sử Học Miền Bắc, cũng là tổng biên tập của tờ báo này. “Mọi chuyện bắt đầu từ đó khi các sử gia miền Bắc đều dùng câu ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’ để lên án cụ Phan Thanh Giản là người ‘bán nước’ và ‘đầu hàng Pháp,’” Luật Sư Nguyên dẫn chứng.

Tác giả Winston Phan Đào Nguyên ký tặng sách “Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’” cho độc giả. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Phần thứ ba cuốn sách chứng minh rằng ông Trần Huy Liệu cũng chính là tác giả của chuyện Lê Văn Tám, và cũng chính là người đã sáng chế ra câu này để lên án cụ Phan.

Trong phần thứ hai cũng là phần chính của cuốn sách, tác giả muốn nói đó là sự ngụy tạo lịch sử của ông Trần Huy Liệu về cụ Phan.

Có sự kỳ thị Nam Bắc?

Tại sao miền Bắc chỉ lên án hai nhân vật quan trọng của miền Nam là Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, có sự kỳ thị Nam Bắc không?

Theo sự nghiên cứu của Luật Sư Nguyên thì miền Bắc không kỳ thị Nam Bắc, vì họ đã từng ngợi khen những người như Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu là những người chủ trương đánh Pháp tới cùng.

“Nói cách khác thì miền Bắc chỉ khen những người miền Nam theo chính sách chủ chiến như họ, và ngược lại họ lên án những người theo chính sách ngoại giao chủ hòa như Phan Thanh Giản. Đó là lý do tại sao chúng ta nghe có câu ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân,’ và có sự tuyên án trong phiên tòa lên án Phan Thanh Giản,” Luật Sư Nguyên giải thích.

Từ trái, nhà văn Phạm Phú Minh, nhà báo Phan Thanh Tâm, Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên, và Giáo Sư Nguyễn Trung Quân trong buổi hội thảo. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

“Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” câu thần chú vạn năng

Theo Luật Sư Phan Đào Nguyên, câu “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” có rất nhiều công dụng, ông gọi là “câu thần chú vạn năng.” Mỗi khi các sử gia miền Bắc muốn lên án cụ Phan về bất cứ điều gì thì cứ đem câu này ra, nó là bản án, là bằng chứng, là cách để bác bỏ đơn xin khoan hồng cho cụ Phan.

“Câu thần chú này tại sao hay như vậy, nó được dùng trong trường hợp nào, câu chuyện quanh nó như thế nào? Theo ông Trần Huy Liệu kể, thì nó xảy ra năm 1861 sau khi Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và tiếp theo sau đó 1862 chiếm luôn tỉnh Vĩnh Long,” ông Nguyên nói.

“Triều đình nhà Nguyễn muốn thương thuyết với Pháp mới có Hòa Ước Nhâm Tuất 1862, nên đồng ý cắt hết ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, nhưng trong đó có Điều 11 là triều đình nhà Nguyễn có thể lấy lại tỉnh Vĩnh Long, nếu kêu gọi được các lãnh tụ kháng chiến như Trương Định phải giải giáp, bãi binh thì Pháp phải trả lại tỉnh Vĩnh Long, đó là lý do có câu ‘thần chú vạn năng’ của ‘sử gia’ Trần Huy Liệu,” Luật Sư Nguyên cho biết.

Nhà báo Phan Thanh Tâm: “Ông Trần Huy Liệu đã dựa vào sự bịa đặt để kết án Phan Thanh Giản.” (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Khái niệm “Địch, Ta” của sử gia Trần Huy Liệu

Luật Sư Nguyên cho biết Trần Huy Liệu vẽ ra bức tranh lịch sử với sự gán ghép khái niệm “địch, ta,” khi trước đây ta là người Việt, còn địch là người Pháp. Nhưng với ông Trần Huy Liệu và các sử gia miền Bắc thì ta là nhân dân mà đại diện là nghĩa quân chống Pháp, còn địch là Pháp và triều đình nhà Nguyễn, đặc biệt là Phan Thanh Giản.

“Năm 1955 ông Trần Huy Liệu đã tung ra khái niệm ‘địch, ta,’ vì sau khi Hiệp Định Geneve 1954 chia ra hai miền Bắc Nam, vì không có tổng tuyển cử nên miền Bắc phải dùng vũ lực quyết đánh chiếm miền Nam, do đó họ đặt ra việc phải lên án triều đình nhà Nguyễn và cụ Phan Thanh Giản là ‘địch’ đã bắt tay với Pháp. Sau này thì chính quyền miền Nam với Mỹ là ‘địch,’ còn ‘ta’ là nhân dân và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,” Luật Sư Nguyên chỉ rõ.

“Nhưng sau khi nghiên cứu thật kỹ các tài liệu lịch sử thời đó, thì thấy thật ra không phải chỉ có phe ‘địch’ và ‘ta,’ mà còn có một phe thứ ba đó là phe ‘nhân dân’ mà ông Trần Huy Liệu đặt ra. Lịch sử không thể dựa vào những việc đơn giản hoặc những câu nói chưa đúng sự thật. Trong thời điểm đó, chính Phan Thanh Giản mới là người bảo vệ dân, và người dân lúc ấy rất tôn sùng ông,” Luật Sư Nguyên nói.

Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 có 12 điều khoản, trong đó có Điều 11 là điều chính yếu quan trọng nhất, mà Phan Thanh Giản đã đàm phán và được Pháp chấp nhận, với kết quả là Pháp phải trả lại tỉnh thành Vĩnh Long cho triều đình nhà Nguyễn mà không thấy ai nhắc tới.

“Trong khi đó, những ‘sử gia’ người Việt như ông Trần Huy Liệu thì lại do không thèm, không chịu hay không muốn đọc Hòa Ước 1862, nên đã mạnh miệng tuyên bố rằng cả 12 điều của nó đều là sự nhục nhã cho nhà Nguyễn, để quy hai trọng tội ‘đầu hàng’ và ‘mãi quốc’ cho Phan Thanh Giản” (trang 131 sách đã dẫn).

Buổi hội thảo “Vụ Án Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” trong không khí sôi nổi. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Nhà báo Phan Thanh Tâm cho biết: “Tháng Tám, 1963, ông Trần Huy Liệu đã tổ chức một tòa án để lên án cụ Phan Thanh Giản, dựa vào câu ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’ là một nguồn dư luận để kết án một danh nhân đất nước,… họ đã dựa vào sự bịa đặt để lên án cụ Phan. Và Tháng Giêng, 2022, Ban Tuyên Giáo Đảng Cộng Sản đã ra công văn, không được lấy tên Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký để đặt tên đường, phố, và công trình công cộng!”

Dược Sĩ Bùi Hoàng Ân, cựu học sinh trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, một nhân chứng trong vụ đập phá tượng cụ Phan tại sân trường, kể lại câu chuyện như sau: “Năm 1972 tôi gia nhập Quân Y Hải Quân, Khối Quân Y, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Sài Gòn. Sau 1975 tôi trở về quê Cần Thơ, bị tập trung đi tù cải tạo ngay tại ngôi trường xưa của mình. Khi bước vô trường tôi bàng hoàng khi thấy bức tượng cụ Phan, vì lúc tôi còn học ở trường thì chưa có bức tượng này. Khi trình diện xong tôi bước tới để đọc mấy hàng chữ khắc dưới bệ tượng: “Khí thiêng sông núi xương máu tiền nhân/ Trái tim cha mẹ tấm lòng thầy cô/ Ôi những kỳ quan rạng ngời vũ trụ/ Thâm ân vô lượng tâm niệm muôn Thu.”

“Tập trung ở trường Phan Thanh Giản đến khoảng Tháng Sáu, 1975, tôi chứng kiến cảnh bộ đội miền Bắc dùng búa đập phá bức tượng cụ Phan bằng đồng, tiếng búa đập chát chúa vào bức tượng xen lẫn tiếng sấm chớp đầu mùa mưa Tháng Sáu, nghe như tiếng gầm phẫn nộ từ cuối chân trời,” ông Ân kể tiếp.

“Trần Huy Liệu là một sử quan, lại là bộ trưởng Bộ Tuyên Truyền, chính là người sáng tác ra chuyện cậu bé Lê Văn Tám. Ngay trong đêm cụ Phan uống thuốc độc tuẫn tiết, thì tất cả những cây bần tại ngã ba sông vùng đó đã ngã quỵ xuống, vì thế người dân đã đặt tên là Ngã Ba Bần Quỳ, hiện giờ tên đó vẫn còn, tức là trong lòng người dân vẫn còn cụ Phan,” ông Ân xúc động nói.

Buổi hội thảo ra mắt sách đã đưa ra nhiều chứng cứ mới trong vụ án “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” với sự tham dự thật đông của những người muốn tìm hiểu lịch sử, để mang lại công đạo cho cụ Phan Thanh Giản, khi thời gian 160 năm trôi qua với nhiều điểm sai lệch trong vụ án ít ai ngờ. [qd]

Hành trình nhân chứng đức tin của học giả, ông tổ nhà báo Trương Vĩnh Ký, người biết 27 ngoại ngữ.

Nhật Duy 

Hành trình nhân chứng đức tin của học giả, ông tổ nhà báo Trương Vĩnh Ký, người biết 27 ngoại ngữ.

Phó tế Phạm Bá Nha

12/May/2022

Về mặt tôn giáo, nhiều người có cái nhìn chung về Petrus Trương Vĩnh Ký, là người vừa có lòng yêu nước vừa là tín hữu trung kiên tốt lành:

– Ông Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố viết: Cái gì đã hỗ trợ Petrus Ký trong nhiệm vụ; cái gì đã tạo nên hiệu quả cho những nỗ lực của ông cũng như sự thống nhất đời ông, đấy chính là tình YÊU NƯỚC của ông, tình yêu xứ Nam Kỳ mà ông thường gọi đùa là MẸ TH N YÊU.

– Ông Jean Bouchet, sử gia Pháp đã viết kỹ hơn: Ta nhìn lại và rút tỉa ở cuộc đời tiên sinh một bài học qúi giá về lòng tin tưởng ở sức mạnh của chí cương quyết. Sự tin tưởng ấy chiến thắng tất cả mọi trở lực, miễn là nó bền bỉ và quả quyết. Thật là đẹp đẽ cuộc đời cần cù của tiên sinh, cuộc đời đem vinh dự về cho làng mạc quê hương và cho cả nước VN, nơi tiên sinh đã để lại nhiều công trình, nỗ lực lớn lao… Cuộc đời của tiên sinh tóm trong mấy chữ: bác học, tâm thuật và khiêm nhượng’’. (Jean Bouchot, Petrus Ký, savant et patriote cochinchinois. Nguyên Hương dịch: Petrus Trương Vĩnh Ký, một học giả Nam Kỳ, Saigon 1925 tr. 171)

– Tác giả Nguyên Hương cho rằng: Petrus Ký là tín đồ mộ đạo, nhưng không say mê cuồng tín, yêu nước nhưng trước thực trạng bi đát của nước nhà Trương Vĩnh Ký sáng suốt như ước đoán được những ngày tàn tạ suy vong khó tránh được cho xứ sở, nếu không kịp thời báo nguy. (Nguyên Hương. Petrus Trương Vĩnh Ký. Văn Hóa Tập San. tập XIV, tr. 1713)

– Ông Hồ Hữu Tường ghi nhận: Riêng đối với nhà trí thức Trương Vĩnh Ký, chuyến đi Pháp đánh dấu một cái quanh trọng đại trong tâm tình. Ở Pháp ông đã tiếp cận với nhiều nhà trí thức và xuyên qua những nhân vật này ông làm quen với những trào lưu tư tưởng tiến bộ u Châu. Là con chiên ngoan đạo, Trương Vĩnh Ký được vạch mây mù mà thấy được Thiên Chúa giáo nguyên thủy. Qua Mặc dù những tác phẩm về Thiên Chúa giáo nguyên thủy bị Tòa Thánh Vatican cấm đọc. Nhưng ông đã lén đọc và tiêm nhiễm cái tinh thần phục vụ đại chúng bình dân và nghèo khổ, mà Đức Giêsu và 12 Tông Đồ khi lập giáo đã truyền bá. Đây là một cuộc thay đổi âm thầm trong tâm tư. (Hồ hữu Tường, thuyết trình tại Trung Tâm Văn Bút Sàigòn, 28-7-1974).

– Quan thông ngôn Lê Phát Đạt gặp Petrus Ký sống trong cảnh thanh bần đã khoe tài làm giàu của mình, Petrus Ký khuyên: ‘‘Này cháu ơi, chớ vội vui mừng. Đương lúc vui, nên gẫm mà buồn lần lần đi. Đến khi nguy khốn dễ đuổi tan sầu não. Trong khổ cực, là biết nghĩ đến vui mừng, thì hãy vui. Việc gì cũng có trả có vay’’. (Hồ Hữu Tường, Hiện tượng Trương Vĩnh Ký, Bách Khoa Giai Phẩm, số 414, 1974).

Qua những nhận xét trên, trong bài này trình bày về Trương Vĩnh Ký là nhân chứng về sống đức tin trong thời kỳ bách đạo.

ĐẦU XANH ĐÃ VƯƠNG TỘI TÌNH GÌ?

Bà Nguyễn Thị Châu, người Cái Mơn, Vĩnh Long, là thân mẫu của nhà bác học Trương Vĩnh Ký (1837-1898) lập gia đình với ông Trương Chánh Thi, trở lại đạo Công Giáo và là võ quan dưới triều Minh Mạng, trấn đóng biên giới Cao Miên. Từ ngày lấy chồng, một mình ở nhà nuôi con. Con gái lớn mất khi còn nhỏ, trong thời gian chồng đi lính xa. Khi chồng về thì con gái đầu lòng đã chết mà chưa kịp đặt tên. Rút kinh nghiệm, lần này khi trả phép ông dặn vợ đặt tên cho những người con kế là: Sử, Ký, Đại, Việt. Vì thế, bà có hai con trai tiếp là Trương Chánh Sử và Trương Vĩnh Ký.

Ông Thi đã được cố Hòa, linh mục Thừa Sai đã dạy giáo lý, rửa tội và kết duyên nên nghĩa vợ chồng qua phép hôn phối. Chú rể đã 30 tuổi, cô dâu mới 18 xuân xanh. Một sự giằng co quyết liệt trong con người ông Thi là: Đã là quan thì phải bỏ đạo. Đây ông lại theo đạo lấy một tín đồ đạo gốc. Vì thế viên sỹ quan này là cái gai trong triều đình bấy giờ.

Trương Vĩnh Ký sinh ngày 06-12-1837, tại Cái Mơn, Vĩnh Long. Tên rửa tội là Jean Baptiste, tên thêm sức là Petrus. Vừa mới lọt lòng mẹ, bé chưa kịp khóc, thì Cái Mơn đã chìm trong mùa lửa cháy. Lửa bốc cháy khắp nơi, nên mẹ bé chỉ kịp vơ vội chiếc áo của chồng cuốn cho con, chạy xuống chiếc xuồng nhỏ theo ông bà ngoại chạy thoát quân lính triều đình truy bắt. Sau một ngày, ông ngoại dựng tạm chiếc lều tre trên bãi đất trống cho mẹ con thơ nương thân. Trong căn lều này, bé đã khóc 9 ngày 9 đêm. Cả nhà chỉ còn biết cầu nguyện. Ông ngoại của bé đã chuẩn bị cho bé chiếc quan tài bằng gỗ mít. Tới ngày thứ 10, bé im tiếng khóc. Được tin vợ sanh, ông Thi về thăm, thấy con ông ôm con khóc lặng người. Thời kỳ này, Minh Mạng ra 3 chỉ dụ ngày 06-01-1833, và ngày 25-01-1836 nhằm: ’’triệt hạ tận gốc tín đồ Gia Tô’’; và chỉ dụ ’’sát tả’’ ngày 05-06-1938. (Trương Vĩnh Ký, bi kịch muôn đời. Chương 1)

Năm Ký lên 3, bố về thăm và trước khi đi, ông xin ông ngoại đổi tên con là Trương Vĩnh Ký thay vì có chữ lót như Trương Chánh Ký. Không ngờ đó là lần cuối cha con vĩnh biệt nhau.

Năm 1840, mới lên 3 tuổi, Ký mang trên đầu 3 chiếc khăn tang: tháng 2, bà ngoại mất vì kiết lỵ. Tháng 6, ông ngoại bị lính triều đình đập vồ vào đầu, óc phụt ra ngoài, xác bị ném xuống rạch Cái Mơn. Tháng 9, đầu thời Thiệu Trị, bãi bỏ việc bảo hộ Cao Miên, và do sắc chỉ cấm đạo buộc binh lính, quan chức trong triều bỏ đạo. Lãnh binh Trương Chánh Thi về qui ẩn tại Cái Mơn và qua đời tại đây. Ông về vào đúng lúc làng quê đổ nát, tan tành, 20 người bị chém đầu, bị treo cổ, bị cột đá buông sông Cổ Chiên, 3 người bị lăng trì.

LỚN LÊN TRONG ĐỨC TIN

Đang lúc dân chúng tán loạn, Bà Châu ẵm vội hai anh em Sử-Ký chạy thoát khỏi vòng lửa đạn. Bà Châu tay dắt bé Sử, 4 tuổi, bên hông ẵm bé Ký. Ba mẹ con chạy dọc theo bờ rạch, thì có ông lão giả dạng chài lưới, gọi với rồi chở ba mẹ con đến một đống rơm ở đầu thôn. Ông bắt 3 người chui vào đấy. Ba mẹ con ở trong đó 3 ngày 3 đêm. Ngày ngày ông lén lút đem dúi cho giỏ cơm với mắm tép rang mặn. Sau khi tình hình yên ổn, ông đem ba mẹ con về dựng lều trên nền đất tro tàn đổ nát của thôn làng cũ. Mẹ góa con côi sống qua ngày. Ông lão chài kia bà đã nhận ra không ai xa lạ đó là thầy đồ Học, người Phật giáo và trí thức, không chịu ra làm quan. Ông mở lớp dạy trẻ con trong làng, về chữ thánh hiền. Những ngày êm ả này, có thày giảng tên Tám lui tới dạy kinh bổn. Còn anh em Sử đến nhà thày Học để học chữ. Ở nhà bà Châu dạy con về tục ngữ ca dao bằng những bài hát ru con. (sđd. Chương 2 và 3)

Đầu thời vua Thiệu Trị, việc ‘‘sát tả’’ giảm. Dân chúng dễ thở hơn. Gia đình bà Châu thật hạnh phúc. Cậu Sử khôn ngoan lanh lợi. Ký thông minh, sáng suốt trước mọi vấn đề. Đó là điều an ủi cho bà Châu. Thày Học thuyết phục bà Châu đem được Sử lên tỉnh Vĩnh Long học. Ký ở nhà vùi đầu vào thùng sách của bố để lại. Vì xưa bố là quan văn mà phải hành sự như là quan võ. Trong thùng sách có cuốn Thánh Kinh bằng tiếng La tinh, Ký không đọc được. Nhưng may quá thày Tám dạy Ký học Latin, trong 6 tháng Ký đã đọc và hiểu hết. Linh mục Thừa Sai Charles Emil Bouilleveaux Long (1823-1913) từ Paris đến phục vụ tại Cái Mơn, và nhờ Ký dạy tiếng Việt và sau này chính Cha đem Ký vào học ở tu viện Cái Nhum, vì chưa có chủng viện đào tạo.

Sóng gió lại đến, một hôm họ Cái Nhum bị bao vây, giáo dân hoảng sợ đem ảnh tượng chôn dưới đất, trong chum vại, đút vào bụi rậm ngoài vườn tược. Chủng viện Cái Nhum bị lục soát. Cố Long và Ký chạy thoát dọc theo bờ rạch, đi tới gần trưa mới thấy được chiếc xuồng, gọi vào xin chở qua bên kia sông Cổ Chiên. Xuồng vừa tới bờ, thì có một viên quan chạy tới để nhận hai ‘‘tà đạo’’. Ngay lúc ấy, Ký nhận ra viên sỹ quan là bố của hai người bạn học cùng lớp của thày Học. Viên sỹ quan già suy tư, nhìn trời và bày mưu bảo hai người nhảy xuống sông, đồng thời viên sỹ quan hô to.. bắt lấy.. bắt lấy. Nhưng không có ai nhảy theo. Thế là cha Long và Ký bơi thoát qua bên kia sông. Những lúc tán loạn ấy, bà Châu một mình chạy bán sống bán chết mặt chúi xuống bùn. Như nhiều lần trước, khi trở về nhà bà chỉ còn là đống tro tàn (sđd. Chương .

Năm 1848, trải qua một tháng trên đường đầy hiểm trở, nhiều lần tưởng chết, toàn ngủ bờ ngủ bụi, hay trong các chòi vịt, không dám vào nhà ai. Một lần ở trong vườn hoang, cha Long bị sốt rét, không chăn mền, nhờ một người trong xóm cho được cùi rơm, làm mồi lửa sưởi ấm cho cha. Sau cùng cố Long đã đưa Petrus Ký và 9 chủng sinh khác qua tới Pinalu, trung tâm truyền giáo ở Đông Dương, cách Nam Vang 6 dặm. Đây là nơi gặp gỡ nhiều chủng sinh các nước Á châu: Thái, Miên, Tàu, Lào, Triều Tiên. Cha Hòa làm giám đốc. Lớp học có 25 người, Ký học luôn đứng đầu lớp.

Năm 1852, sau 4 năm học, các Thừa Sai đã khám phá ra Ký là một thiên tài và chọn Ký gửi qua học bên Paulo Pénang, ở Mã Lai. Cùng đi có Vương Thừa Vũ người Trung Hoa, và Malachai người Xiêm. Ký là người nhỏ con nhất, lại mang nhiều sách nặng nhất. Giao thông khó khăn, đi băng rừng vượt núi qua ngả Xiêm mới tới được Mã Lai. Tới Pénang, Thừa Sai Dominique Lefebvre (1810-1865) ra tận bến tàu đón ba chủng sinh. Cha Lefebvre đã tới VN năm 1835, bị bắt giam rồi bị trục xuất về Pháp. Rồi từ Pháp cha đi Roma, về Ma Cao để trở lại Pénang. Ở Pénang Ký mải mê đọc sách trong thư viện, nhiều lần tới khuya quên ăn, chính cha Lefebvre dẫn vào bếp xin cơm cho Ký ăn. Những bài anh đọc tới lần thứ hai là kể như đã thuộc. Nhờ vậy, Ký thông thạo thêm 14 thứ tiếng. Ký đã được giải thưởng 100 bảng Anh do toàn quyền người Anh ở Pénang treo giải thưởng viết bằng tiếng Latin. Được tiền thưởng Ký ra chợ mua 8 sấp vải Bombay để dành tặng mẹ. Nhưng Ký nghĩ là không biết đem vải về mẹ có may mặc hay lại đem cho người khác. Vì khi ở bên nhà, lúc anh Sử tặng mẹ sấp vải thô dệt tay, mẹ không may, mẹ đem tặng cho bà cụ trong xóm. Nếu có mua được mớ tép, kho lên, mẹ húp chút nước, còn tép lại để cho hai con ăn. Ký nhớ, khi bà cụ ấy mất, mẹ qua viếng thấy bộ quần áo mới bà cụ mặc khi nằm xuống là vải mẹ tặng. Lúc ấy mẹ nói: cả đời thiếm ấy, khi nằm xuống mới có bộ quần áo mới. Đối với mẹ ‘‘cho là được’’. Ký còn định mua thêm như thuốc bắc, sâm cao ly… Nhưng Ký hoàn toàn thất vọng vì bà đã ra đi trước khi nhận quà của con, năm 1857.

Những năm ở Pénang, ai cũng công nhận Petrus Ký là thần đồng trong những bạn đồng khóa. Vì thế Ký được chọn đi La Mã học. Và mặc dù tinh hình chỉ dụ sát tả mới ban hành ngày 07-06-1857, ngày càng gắt gao tại VN, và nhiều cạm bẫy, Petrus Ký vẫn xin về thụ tang mẹ. Vì tội bất hiếu là tội nặng hơn các tội. Đấy là lý do Ký xin về, để che dấu muốn sống những ‘‘ngày trên thánh giá’’ như mọi người trong làng nước (sđd. Chương 15).

Năm 1858, cùng về VN với Petrus ký có Phan Thanh Long người Gia Định và Lê Huy Tốn người Ninh Bình. Tàu ghé Hạ Châu rồi mới về Bến Nghé (Saigon). Nghe tin Ký về, nhiều tác giả đến tặng sách. Ký mang về 11 thùng sách.

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

Lần về cũng gian truân như khi đi, đất nước đang tràn ngập khói lửa vì lệnh cấm đạo. Hải cảng lớn không vào được, tàu đành ghé Cần Giờ. Ba học sinh và 11 thùng sách của Ký được chú Ba Cần Giờ chở đi trốn sâu vào rừng đước. Một lúc sau, chú cho thuyền tạt vào một chòi lá cao hơn mặt nước độ một thước. Nơi đây có cả bàn thờ Chúa. Ba người thở phào nhẹ nhõm, tắm rửa và đọc kinh chung. Chú Ba dọn cá nướng như ‘‘cả nước đón mừng ba cậu về’’. Trong bữa cơm, chú Ba kể mình ở Chợ Quán. Nhà bị đốt sạch như bao gia đình khác, chú đem Chúa ra đây thờ. Giáo dân chết như rạ. Chú Ba dặn ba thanh niên: Các chú về giữa thời loạn. Thánh giá đặt đầy giữa đường coi chừng đi qua dẫm lên, là chết. Chặt đầu, treo ngay ở chợ. Ban ngày đi tỏ vẻ phân vân, e dè, dò đường là.. coi như rồi. Đi đêm dễ hơn, đèn tù mù ít ai thấy rõ mặt.

Phan Thanh Long muốn về nhà trước, chiều lòng chú Ba chở Long cặp thuyền ở một khúc vắng, để Long về Gia Định. Ngay sau đó chú Ba nghe nhiều tiếng huyên náo. Thì ra vừa đi không xa, Phan Thanh Long bị bắt, đầu bị chặt treo ở ngoài chợ (Chương 17). Chú Ba thuê ghe chở Ký về Rạch Giá, từ đây về Long Xuyên. Sách vở để lại chòi vịt của chú Ba Cần Giờ. Trên ghe về Long Xuyên, Ký phải giả vờ làm người đau bụng đắp mền rên la mới qua được 6 điếm canh. Và sau cùng Ký về được đến Cái Mơn, không còn nhà thờ và chủng viện. Tất cả đều đổ nát. Vui mừng Ký gặp lại anh Sử vào buồi chiều, gần tối. Sử kể lại cho em về những ngày cuối của mẹ. Và lặp lại lời mẹ dặn: Đất nước này tổ tiên tạo lập, để lại phải giữ. Nhà mình đạo gốc, gì cũng không được bỏ đạo. Chúa sẽ cứu rỗi linh hồn hai con. Sử lúc ấy đã có vợ và 2 con. Sử khuyên em nên trở lại La Mã học như các Thừa Sai mong đợi. Ký trả lời: Em quyết về. Có thể đây là lần đầu tiên em không vâng lời các Thừa Sai. Dẫu mẹ không còn trên đời này, nhưng còn Quê Hương. Quê Hương mình trù phú lắm. Tổ tiên mình chạy dạt về đây, gặp hòn cù lao sình lầy, vô chủ. Nhưng có nước ngọt. Chịu cực trăm bề chịu khổ nghìn bề để tạo lập vùng đất mới cho con cháu… Anh đừng thất vọng; Em hoàn toàn không muốn làm linh mục, làm nhà truyền giáo. Em thấy mình không hợp với cương vị thiêng liêng mà Chúa ban. Em có đọc kỹ những chỉ dụ sát tả của nhà vua. Chúa cứu thoát em khỏi chết lần này. Em nghĩ, có chết, em sẽ chết trên đất nước mình, quê hương mình (Sđd. Chương 18).

Năm 1859, vui nhất là Ký gặp lại Thầy Học, Thừa Sai Hòa. Hai người đã khai tâm cho anh hồi còn nhỏ. Cha Hòa kể lại nhũng vụ tử đạo ở Cái Mơn, trong những ngày Ký không có nhà: Một hôm lính ập vào bắt thánh trùm họ Emmanuel Lê Văn Phụng, thánh linh mục Phêrô Đoàn Công Quý, điệu hai vị ra trước bàn thờ, lột trần trước nhà tạm, chém mỗi người 5 nhát gươm. Cùng bị bắt có 32 giáo dân (sđd. Chương 20).

Sau khi ở Penang về, Ký bỏ áo nhà tu. Thừa sai Hòa nhờ Petrus Ký dạy học tại chủng (tu) viện Cái Nhum, trong xứ Cái Mơn. Nhà thờ và tu viện đều mới được cất lại bằng tre, cây tạp, và lá dừa nước. Sáng anh tự nấu cơm ăn với mắm kho, chiều về thăm mộ mẹ. Tối anh chong đèn dầu soạn bài. Với phương pháp sư phạm mới, anh dạy tiếng Pháp và tiếng Latinh. Chủng sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Học hành mà thầy trò học sống hồi hộp lo sợ. Khi nào có ám hiệu báo động thì cả lớp quơ vội vàng giấy mực… chạy.

Một hôm trong thân mật, Thừa Sai Hòa lại đặt vấn đề với Petrus Ký là chọn anh gửi đi học bên La Mã. Nhưng Petrus Ký rất mực từ chối, viện lý do: con buồn, nhưng con không thể nào bỏ quê hương xứ sở mà đi đâu được. La Mã không có sức thu hút đối với con. Quê hương con nghèo, lạc hậu quá. Dân quê khốn khổ, khốn nạn quá. Vua quan kiêu căng và bạc nhược, đẩy dân chúng tới khốn cùng bạc nhược. Thừa sai Hòa khó mà làm thay đổi được quyết định của học trò ngoan đạo này. Ngài nói: Bây giờ thì cha hiểu được nền tảng xã hội VN mà con đã giảng cho cha. Đó là sự can thiệp của ông bà, quyền hành của người cha và lòng hiếu thảo của con cái.

Ngày 09-12-1858, tu viện Cái Nhum bốc cháy, nhà thờ Cái Mơn bị đốt. Trương Vĩnh Ký tìm đường chạy ra khỏi Cái Mơn. Chạy suốt đêm, mệt quá, tới sáng anh dừng lại trước căn nhà ven bờ sông Hàm Luông. May quá, chủ nhà đã lớn tuổi cho trú ngụ, tiếp đón và cho ăn uống tử tế. Chủ nhà tên là Quản Phụng bạn cùng đi lính và làm việc với bố Trương Vĩnh Ký bên Nam Vang. Đêm lửa cháy đó, Cái Mơn có 14 hương chức bị bắt. Hai nữ tu là Marthe Lành và Ngọt bị bắt giam. Ở nhà Quản Phụng ít bữa, vì sợ mình là ‘‘người có đạo’’ sẽ bị quan quân lùng bắt mà liên lụy đến chủ nhà, nên Petrus Ký xin đi khỏi nhà chủ (sđd. Chương 20).

Vừa ra khỏi nhà thì gặp đám lính đang rượt đuổi bốn tín đồ ‘‘Gia Tô’’ ở ngã ba Cây Gáo. Bốn người bị lột trần truồng, cột dây ở hai chân cho bò kéo ngược về chợ Tân Trụ. Sợ quá, anh trèo lên cây thị nhìn xuống thấy người ta bằm bốn người anh hùng tử đạo ra nhiều khúc. Người bu xem rất đông, nhưng không ai trong bốn người than khóc kêu ca. Không chịu nổi cảnh đau thương, anh vừa trụt xuống khỏi cây thị, thì bị bắt ngay. Quan quận là Trần Lĩnh ra lệnh trói anh vào gốc cây mận đầy kiến. Tới tối, nghe có tiếng người đến gần, anh nhắm mắt chờ một mũi gươm, một nhát vồ. Trần Lĩnh không giết mà cởi trói cho anh. Anh ngạc nhiên vì ông mới ra lệnh trói anh, bây giờ lại thả. Quan nói: Chạy đi. Ta không lệnh trói cậu thì quan huyện trói ta. Nhưng ta không thuộc bọn họ. Chiều hôm sau anh đi theo bờ rạch ra sông Hàm Luông rồi về sông Tiền. Nhiều ngày sau anh không ngờ mình lại vượt qua cái chết nhờ một người tốt như vậy.

Đang chờ thuê thuyền đi Bến Nghé, tìm lại 11 thùng sách gửi khi mới về nước, nhưng lại sợ ‘‘kẻ gian’’. Đứng mệt người, run sợ, thì có chiếc thuyền lan nhỏ rê vào bờ, cho quá giang. Chủ thuyền mời anh xuống. Rụt rè lo sợ bước vào khoang thuyền, anh thấy trong thuyền có bàn thờ Chúa. Qua tâm sự, biết người lái thuyền là cụ già 87 tuổi. Sau khi vợ con bị lính triều đình giết hết và đốt sạch nhà cửa. Ông đã dùng thuyền làm nhà ở và đón tiếp những tín hữu lánh nạn như Petrus Ký. Ông gọi lính triều đình là ‘‘quân Giuđa’’. Mỗi tháng ông giúp 5, 7 người thoát cảnh bắt bớ. Ông đã giúp anh tìm được nhà chú Ba Cần Giờ, có lều vịt. Nhưng chú Ba cũng bị giết. Chỉ còn người con trai 13 tuổi sống sót. Cậu bé tên Lo đã kể cho Ký hay, có một ông Trùm ở Chợ Quán bị giết vì khi đào vườn thấy Thánh Giá chôn giấu ở vườn sau nhà.

Petrus Ký được người tín cẩn dẫn đường trở về Chợ Quán bằng ghe nhỏ. Chợ Quán bị đốt đi đốt lại tới 6 lần, bị ruồng bắt và truy đuổi. Nhưng rồi nhà vẫn mọc lên, các Thừa Sai và tín hũu lại lục tục kéo nhau về. Từng nhà từng nhà, họ âm thầm giữ đạo. Trong một căn nhà lụp xụp, Petrus Ký gặp Thừa Sai Dominique Lefebvre, Ký tròn xoe mắt nhìn cha. Cha ôm Ký:

– Cha không nghĩ còn gặp lại con.

– Con cũng nghĩ không có ngày này.

Đêm ấy, hai cha con ngồi trên tấm giát tre, bên ấm trà, trước ngọn đèn tù mù. Ký nhìn cha:

– Vì sao cha trở lại nơi cha từng bị bắt, bị tống ngục và cũng là nơi ở chủng viện Pénang cha khuyên con đừng về. Cha Lefebvre từ tốn trả lời:

– Bổn phận của con là học. Bổn phận của cha là truyền giáo. Mỗi người phải hiểu rõ. Chúa cho con trí thông minh. Chúa muốn con phải làm nhiều việc cho đạo Thánh của Người. Còn cha đã hết thời đi học. Bổn phận cha là tới những nơi con chiên khổ cực cơ hàn nhất, bị giày xéo khốn cực nhất. Và Đức Giáo Hoàng Leo XIII khuyên cha trở lại đây, tiếp tục làm bổn phận của một thiên sứ.

– Thưa cha, con thấy tình hình nước con ngày càng căng thẳng. Các cha Thừa Sai và giáo dân đang là nạn nhân oan uổng của triều đình. Nhất là sau khi hạm đội Pháp nổ sùng chiếm Đà Nẵng.

Cha Lefebvre chậm rãi tiếp lời:

– Cha rất lo cho con, hãy còn chưa muộn, nếu con quyết định đi La Mã. Cha sẽ lo liệu cho con. Khi nào đất nước yên hàn con sẽ về.

Trương Vĩnh Ký nhìn cha nói:

– Thưa cha, dẫu thế nào đi nữa, con vẫn muốn ở lại đất nước con.

Một lần nữa, linh mục thừa sai này lại bất lực trước một thanh niên ngoan nết và ngoan đạo. Cha Lefebvre sau làm Giám Mục đầu tiên của Tây Đàng Trong (Sàigòn) từ năm 1844 tới 1863, và qua đời tại Marseille, ngày 30-04-1865 (sđd. Chương 21).

Tình hình trong đất liền thật gắt gao vì quân triều đình truy bắt gắt gao, Petrus Ký ra tạm lánh ra trú ngụ trong một chiếc lều lá ở Cần Giờ. Nhưng cũng không ổn, anh lại trở về sống chui rúc dưới hầm trong căn nhà lá ở Bến Nghé (nay là đường Nguyễn Huệ). Trong giai đoạn này, Thánh Linh mục Lê Văn Lộc và hàng chục giáo dân bị xử trảm, ở Trường Thi (nay là đường Hai Bà Trưng). Các Thừa Sai lại có dịp nhắc lại việc Petrus Ký đi La Mã, và thu xếp cho một sỹ quan hải quân Pháp chở đi. Ký khôn khéo từ chối.

Năm 1859, súng nổ ở Vũng Táu, rồi quân Pháp chiếm Gia Định. Thừa Sai Lefebvre giới thiệu Petrus Ký làm thông ngôn để giải quyết tranh chấp Pháp-Việt bằng thương lượng hơn là bằng súng đạn. Từ đây Petrus Ký làm hai việc song song, vừa quảng bá chữ quốc ngữ vừa bảo vệ quyền lợi dân tộc bằng tài ba ngoại giao (sđd. Chương 22).

THÀNH TÂM ĐẾN GIÂY PHÚT CUỐI ĐỜI

Cuối đời ông bị bệnh khái huyết, chính bà Thọ là vợ đã sắc thuốc và chăm sóc ông những ngày cuối. Những ngày trên giường bệnh, Petrus Ký cho gọi các con lại bên cạnh trăn trối, ông khuyên các con đừng vào dân Pháp, nước VN sẽ mất đi một công dân nếu một người trong các con nhập quốc tịch Pháp’’ (Le Vietnam perdra un citoyen, si l’un de vous adopte la nationalité française. x. Trương Vĩnh Lễ, Vietnam, Où est la vérité, tr; 33). Rồi hôm ấy chờ cho con cháu ngủ say, ông nói với bà Thọ:

– Sinh lão tử qui, không ai qua khỏi. Ở tuổi này tôi nghĩ tới trở về với Chúa cũng không sớm sủa gì nữa.

Bà Thọ nói:

– Chẳng ai sống đời được, có điều sống được ngày nào cho con cháu chúng mừng ngày đó. Chỉ mong ông cố thuốc thang và bớt làm việc. Đời ông, tôi chưa thấy lúc nào ông được nghỉ ngơi.

– Tôi thấy mình chưa làm việc được bao nhiêu… Nhưng coi lại, quả tôi cũng đã hết sức rồi. Sinh ra giữa thời loạn…, không phải không có lúc tôi mất phương, lạc hướng. Đó chính là lúc dễ ngộ nhận, dễ lầm lẫn nhất. Lầm lẫn trong nhà thì còn hy vọng con cháu tha thứ, chứ lầm lẫn việc đại sự của nước, của dân thì ai mà tha thứ cho. Với lại, dù ai rộng lượng khoan dung thì lương tâm mình làm thẩm phán lấy chính mình, sẽ không bao giờ để mình được thanh thản.

– Trước mặt Chúa tôi luôn thấy mình thành tâm, thành tâm ngay cả khi mình lầm lẫn. Tôi hiểu, người đời sinh lão tử qui, đường đi nước bước vắn vỏi lắm, nhưng ai có phận nấy, hễ nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã.

– Thôi ông à, ở đời ăn dễ, ở khó. Mọi việc để Chúa phán xét. Nghĩ ngợi nhiều thêm bệnh.

– Mọi việc tôi làm còn lưu lại đó. Việc đúng việc sai hãy để cho đời phán xét. Đời này chưa thì đời sau tiếp tục. Trong sáng như cụ Nguyễn Du mà còn phải kêu lên không biết 300 năm sau có ai hiểu được mình, huống hồ thân tôi. Nếu tôi có ra đi trước, bà nhắc các con cháu là gia tài cả đời tôi cần mẫn, chăm chút để lại cho chúng toàn là sách. Hãy giữ gìn, hãy nâng niu và hãy trao lại cho người biết qúi trọng nó (Năm 1958, sách đã trao tặng Viện Khảo Cổ Sàigòn).

Ông cố rán nói thêm: Con người sống không có sách, thật khó mà thoát khỏi cảnh ngu muội. Con người ngu muội khó mơ ước tới xã hôi văn minh, xã hội dân chủ, tự do.

Tới đây cơn bệnh hoành hành, làm ông ho rũ rợi. Ông ôm ngực, và lại ho từng tràng dài… Xong cơn họ, ông ngồi thở, như hụt hơi. Hôm ấy, như thường lệ, bà Thọ canh xong siêu thuốc, bưng lên hy vọng… Thì thấy ông gục mặt xuống mặt bàn, tay không rời quản bút, trên những trang tự điển của nhà văn Pháp Emile Littré (1801-1881) tặng, sách đang mở ở trang 465. Tay trái ông giữ cuốn ‘‘Bình Sanh’’. Tay phải vẫn cầm chặt cán bút, đầu ngòi bút chúc xuống, óng ánh sắc mực. Nhìn ông như đang làm việc, và như vừa ‘‘mới chợp mắt một tý’’.

Lấy hết can đảm, bà Thọ lay ông. Nhưng ông không dậy nữa. Chén thuốc cuối cùng đã rớt xuống bàn làm nhòe cả những trang sách. Bà Thọ lắc đầu: Ông ấy sống thuộc đời. Ông ấy đã ra đi thuộc Chúa. Hôm ấy là ngày 01-09-1898. Có mặt trong lúc này có các học trò là Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương. Bạn là Huỳnh Tînh Của. Và vừa là học trò vừa là con rể Nguyễn Trọng Quản. Trương Minh Ký nói với bà Thọ: Thưa bác, bọn cháu, những môn sinh của thầy, xin cố gắng tiếp nối công trình thầy đang dang dở. Nhưng công trình của thầy đều vượt ra khỏi tầm tay của họ. Nó quá đồ sộ, mà trí thức đám học trò vẫn còn quá thấp so vớ bộ óc khổng lồ của thầy mình.

Trương Minh Ký người học trò trung thành nhất đã tìm được và đọc được trong ‘‘Cuốn sổ bình sanh’’, Trương Vĩnh Ký có ghi:

‘‘Quanh năm quẩn quẩn lối đường dài

Xô đẩy người vô giữa cuộc đời

Học thức gởi tên con mọt sách

Công danh rốt cuộc cái quan tài

Dạo hòn lũ kiến men chân bước

Bồ xối con sùng chăc lưỡi hoài

Cuốn sổ bình sanh công với tội

Tìm nơi thẩm phán để thừa khai’’

Và ông đã xin được khắc trên phần mộ bằng tiếng La tinh:

Xin hãy thương tôi, ít nhất là những bạn hữu tôi !

Kiến thức con người, có nó là nguồn sống.

Những ai sống và tin tôi, sẽ không phải chết đời đời.

(GS. Nguyễn Văn Trung dịch. Ba câu này còn tại nhà mồ Trương Vĩnh Ký)

Di ảnh đáng qúi của Trương Vĩnh Ký là đi đâu ông cũng mặc quốc phục Việt Nam.

——————————————————————————–

Tài liệu tham khảo

– Hoàng Lại Giang, Trương Vĩnh Ký Bi kịch muôn đời. Truyện danh nhân.

Nhà xuất bản Văn Hóa và Thông Tin, Việt Nam, 07/2001.

– CAO THẾ DUNG,

. Trương Vĩnh Ký thân thế và hình trạng.

. Trương Vĩnh Ký trở về con đường văn hóa, văn học.

dân Chúa Âu Châu, số 191, 09-1998, ttr. 23-31.

Phạm Bá Nha

Hackers đang tấn công Website Kẻ đi tìm.

Hackers đang tấn công Website Kẻ đi tìm.

Ngày hôm nay, thứ ba, 17 tháng 05 năm 2022

 Website này bị 44 lần  tấn công, xâm nhập

44 failed login attempts today

Your site might have been discovered by hackers

nhưng chưa chiếm được ADMIN.

Xin thông báo đọc giả, bà con biết để tường.

BBT Kẻ Đi Tìm

Tháng 05- 2018 đã một lần bị tấn công. Bài cũ xin đăng  lại.

Thân mến gởi người bạn dấu mặt, làm việc trong bóng tối.

Năm nay đã là năm 2018, thế kỷ thứ 21, không còn thời kỳ bí mật, lừa dối, che dấu như năm 1945 của thế kỷ trước nữa.

Thời buổi này là thời buổi của Internet toàn cầu.

Hôm qua (16 tháng 05 năm 2018) khoảng 4, 5 giờ chiều, anh dấu mặt, giả danh “To Truong”, là bạn của tôi vô MESSENGER của tôi, nói chuyện với tôi. Tôi tưởng bạn là “To Truong” thật (tôi bị bạn lường gạt). Rồi bạn xin tôi số điện thoại, tôi lại cho bạn. Bạn dùng số điện thoại của bạn từ Maryland số là 667-239-1296 để gởi vào phone tôi để “check” lại, xem tôi cho bạn số phone có đúng không. Tôi đã nghi ngờ bạn là HACKER, làm việc trong bóng tối, để phá hoại trang Facebook của tôi.Quả nhiên là đúng như vậy. Sau khi ngưng cuộc nói chuyện với bạn, Facebook của tôi bị đóng hoàn toàn không vô được nữa.

Các bạn Facebook của tôi thì bị bạn gởi những hình ảnh sex nhảm nhí để mục đích phá hại tiếp các trang Facebook của các bạn tôi.

Bạn làm việc trong bóng tối,mờ ám, dấu mặt; tôi làm việc trong ánh sáng, công khai. Bạn cứ đọc các bài trong FB của tôi có bài nào là gian dối, dựng chuyện hay không?

Bạn sợ sự thật à. Mỗi tháng bạn lãnh bao nhiêu tiền lương mà núp trong bóng tối để làm hại người khác vậy?

Sự thật sẽ giải thoát anh em, sự thật sẽ giải thoát bạn.

Bạn nên ra ánh sáng mà nói chuyện chứ làm gì lén lút trong bóng tối như vậy. Bạn không cảm thấy xấu hổ à.

Bạn là người Việt nam, nếu bạn có theo dõi tình hình đất nước, bạn có thấy người dân khốn khổ, lầm than như thế nào không.?

Đàn ông thì đi làm cu li nơi xứ người. Nữ đi ở đợ, bán dâm các nước Singapore, Mã Lai v.v.

Đâu có thời kỳ nào dân mình nghèo khổ, khốn nạn như vậy.

Trước năm 1975, Đại Hàn qua nước mình làm mướn mà sao bây giờ mình qua nước người ta làm mướn.

Ngày trước dân mình đâu có bỏ xứ mà đi, sống ở trong nước dầu có chiến tranh nhưng cũng đủ ăn, đủ mặc, có nhà cửa để ở. Sau năm 1975, người dân bị cưỡng chế đuổi ra khỏi nhà để lấy đất bán cho tư bản. Họ trở thành vô gia cư, thành dân oan, đi khiếu nại hàng chục năm trời không được giải quyết như vụ Thủ Thiêm, Văn Giang …

Bây giờ hỏi tại sao cái cột đèn biết đi nó cũng đi?

 Từ trước năm 1975, đất nước đứng đầu Đông Nam Á, sau 43 năm cai trị của cộng sản, Việt nam đứng chót Đông Nam Á thua cả Lào và Campuchia là sao?

Hãy thức tỉnh đi người bạn dấu mặt, ra ánh sáng mà sống, đừng làm con chuột trốn trong đống bùn dơ bẩn nữa.

Không chỉ mình bạn xấu hổ mà vợ con của bạn biết được chuyện bạn làm, họ cũng xấu hổ lây.

Hãy ra ánh sáng mà sống, đừng trốn chui trốn nhũi trong bóng đêm.

Vì ánh sáng sẽ xóa bỏ bóng tối.

Sự thật sẽ xua đuổi gian dối, ma quỷ.

 Hãy ăn năn, sám hối, thay đổi và làm việc lương thiện.

Thiên Chúa sẽ chúc lành cho bạn.

 17 May 2018

TM Ban Biên Tập

Phùng Văn Phụng

Khó bình và khó tả về “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!”

Khó bình và khó tả về “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!”

RFA

Đồng Phụng Việt

16-5-2022

httpv://www.youtube.com/watch?v=wn-mqp2bE0w

Cuối tuần vừa qua, bộ phận quản trị kênh của Bộ Ngoại giao Mỹ trên YouTube đã gỡ video clip dài khoảng năm phút ghi lại cuộc trò chuyện hết sức… “cởi mở” giữa ông Phạm Minh Chính – Thủ tướng Việt Nam – với tùy tùng, trong khi họ cùng chờ hội kiến với ông Antony Blinken – Ngoại trưởng Mỹ (1). Đó có lẽ là kết quả… “giao thiệp” giữa những viên chức hữu trách trong lĩnh vực ngoại giao của Việt Nam với những viên chức hữu trách trong lĩnh vực ngoại giao của Mỹ.

Sau khi được giới thiệu trên YouTube và một số cơ quan truyền thông ở bên ngoài Việt Nam (2), video clip vừa đề cập đã khuấy động mạng xã hội, đặc biệt là mạng xã hội Việt ngữ vì người Việt ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam có thể lĩnh hội trọn vẹn ý nghĩa của những tuyên bố như: “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!”, hay việc các viên chức khác trong phái đoàn Việt Nam, người thì gọi đối tác – chính quyền sở tại là “nó”, người thì gọi một vài viên chức cụ thể của đối tác là… “thằng”…

Chuyện đánh giá tâm thế, tư thế, bản chất, nhận định hay – dở, đúng – sai của những… “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!”, hay… “nó”, hoặc… “thằng” có lẽ nên dành cho các chuyên gia về phân tâm học hoặc về nghi lễ ngoại giao,… Từ sự kiện ngẫu nhiên nhưng gây ấn tượng vừa mạnh, vừa sâu như vừa biết, kẻ viết bài này chỉ muốn so sánh một chút giữa “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!” với những gì đã xảy ra trên thực tế xoay quanh chuyện ông Chính và tùy tùng đến Washington D.C tuần trước…

***

Ngày 14/5/2022, các cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam đồng loạt đưa tin “Thủ tướng Phạm Minh Chính ‘tiếp’ Ngoại trưởng Mỹ” hôm 13/5/2022, tuy nhiên video clip đã đề cập lại cho thấy, rõ ràng ông Chính và tùy tùng chờ gặp Ngoại trưởng Mỹ, chứ không phải chủ động đón Ngoại trưởng Mỹ đến gặp họ, thành ra phần lớn cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam đã… chủ động… sửa ‘tiếp’… thành… “gặp” (3) dù đường dẫn tin Thủ tướng “tiếp” vẫn còn vết trên Internet (4).

Với hệ thống chính trị, hệ thống công quyền và hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam thì tưng bừng tuyên truyền, rồi âm thầm sửa chữa, điều chỉnh là… bình thường. “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!”

Trước đó một ngày (12/5/2022), khi gặp gỡ doanh giới Mỹ do Hội đồng Kinh doanh Mỹ – ASEAN (USABC) và Phòng Thương mại Mỹ (USCC) tổ chức, ông Chính tuyên bố: “Tôi sẵn sàng đối thoại với bất cứ ai trên thế giới về kinh tế Việt Nam, về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam!” (5). Song khi tường thuật về cuộc gặp gỡ này, các cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam chủ động cắt bỏ chuyện ông Chính sẵn sàng đối thoại với bất kỳ ai trên thế giới… “về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam!”.

Vì sao dân chúng Việt Nam chỉ có quyền biết ông Chính “sẵn sàng đối thoại với bất cứ ai trên thế giới về kinh tế Việt Nam” (6) mà không có quyến biết khi ở bên ngoài Việt Nam, ông còn “sẵn sàng đối thoại về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam!”?

Đó có phải là “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!”? Và… “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!” đó liệu có liên quan gì đến một “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!” khác?

Đúng vào lúc ông Chính và tùy tùng lên đường sang Mỹ tham dự Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Mỹ, chính quyền Việt Nam cho phép bà Trần Thị Thúy được xuất cảnh sang Mỹ. Bà Thúy từng bị phạt tám năm tù vì “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” và đã mãn hạn tù vào năm 2018. Ngoài bà Thúy, chính quyền Việt Nam còn tống xuất ông Hồ Đức Hòa – một công dân Việt Nam khác đang thi hành bản án 13 năm tù cũng vì “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” bằng hình thức bất bạo động, thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình” (7).

Cựu TNLT Trần Thị Thúy (giữa) tại sân bay Tân Sơn Nhất trước khi lên đường đi Mỹ. Hình: FB Đỗ Văn Thái

Khoan bàn đến chuyện có bao nhiêu quốc gia trên thế giới xem việc vận động thay đổi chính quyền “bằng hình thức bất bạo động” và “hòa bình” là tội phạm hình sự và vì sao thiên hạ xem bà Thúy, ông Hòa là tù nhân lương tâm, chỉ cần lưu ý đến chuyện, theo luật hình sự Việt Nam, ông Hòa là người phạm tội “đặc biệt nghiêm trọng” (bị truy tố theo khung hình phạt từ 15 năm tù trở lên đến chung thân hoặc tử hình) và đang thi hành bản án có hiệu lực pháp luật…

Ông Hòa không được “ân xá” hay “đại xá” thì tại sao chính quyền Việt Nam lại thả và tống xuất ông qua Mỹ? Tại sao luật pháp Việt Nam lại có thể… co giãn như thế? Tại sao chính quyền Việt Nam không màng đến việc bị chê bai, chỉ trích vì đem những công dân Việt Nam được thiên hạ xem là tù nhân lương tâm ra đổi chác (8)? Khi luật pháp có thể… co giãn như thế thì lấy gì làm nền tảng xây… “xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”? Đó là hệ quả của lối tư duy, hành xử theo kiểu “Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!”?

“Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!” kiểu đó có phải là nguyên nhân khiến chính quyền Việt Nam khác biệt với đa số thuộc phần còn lại của nhân loại. Trước đã thế, giờ cũng vậy, đa số thuộc phần còn lại của nhân loại vẫn tiếp tục hối thúc chính quyền Việt Nam tuân thủ các cam kết với cộng đồng quốc tế về tôn trọng dân chủ, thăng tiến nhân quyền (9). Tuy nhiên chính quyền Việt Nam vừa lờ đi, vừa kêu gọi “xây dựng, củng cố sự chân thành, lòng tin giữa các quốc gia”.

Thiên hạ có tin chính quyền Việt Nam thành tâm, thiện ý khi đề nghị “xây dựng, củng cố sự chân thành, lòng tin giữa các quốc gia” nhưng tại Việt Nam, chính quyền Việt Nam không những không bận tâm đến việc “xây dựng, củng cố sự chân thành, lòng tin” với đồng bào của họ mà còn xem việc vận động thay đổi chính quyền “bằng hình thức bất bạo động”, các diễn biến nhằm chuyển đổi nhận thức, hành vi một cách hòa bình đều là… “tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”?

“Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!” dường như là một hình thức ám thị, không cần bận tâm thiên hạ nghĩ gì, không cần nghe thiên hạ nói gì và không sợ thiên hạ thấy gì, chỉ cần tìm dịp bày tỏ với “nó” và bất kỳ “thằng” nào vô số… “mong muốn” kiểu như: Mỹ tiếp tục hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác với Việt Nam trong những lĩnh vực mà Mỹ có thế mạnh, Việt Nam đang có tiềm năng và nhu cầu như phòng chống dịch bệnh, chuyển đổi số, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, chống biến đổi khí hậu, đào tạo nguồn nhân lực (10).

“Rõ ràng, sòng phẳng, mẹ nó, sợ gì đâu!” quả là… khó bình và khó tả!

_______

Chú thích

(1) https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/video-showing-vn-delegation-diplomatic-faux-pas-no-longer-available-05142022235230.html

(2) https://youtu.be/wn-mqp2bE0w

(3) https://tuoitre.vn/gap-ngoai-truong-my-thu-tuong-cam-on-nhan-dan-my-da-tang-viet-nam-gan-40-trieu-lieu-vac-xin-20220514062243424.htm

(4) https://tuoitre.vn/thu-tuong-pham-minh-chinh-tiep-ngoai-truong-my-cam-on-my-vien-tro-gan-40-trieu-lieu-vac-xin-20220514062243424.htm

(5) https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/pham-minh-chinh-i-m-willing-to-talk-to-anyone-in-the-world-about-human-right-05132022094735.html

(6) https://vietnamnet.vn/thu-tuong-toi-san-sang-doi-thoai-voi-bat-ky-ai-ve-nen-kinh-te-viet-nam-2018869.html

(7) https://vietnamnet.vn/xet-xu-14-doi-tuong-am-muu-lat-do-chinh-quyen-104632.html

(8) https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/political-prisoners-used-by-hanoi-in-bargaining-with-washington-05112022132853.html

(9) https://www.voatiengviet.com/a/thu-tuong-my-sherman-neu-van-de-nhan-quyen-voi-phai-doan-vietnam/6569949.html

(10) https://www.vietnamplus.vn/thu-tuong-chinh-phu-pham-minh-chinh-gap-tong-thong-hoa-ky-joe-biden/790057.vnp

Tiến Sĩ Stefan Bean – 100% Việt, bị bại liệt, bị bỏ rơi – tranh cử Orange County

Tiến Sĩ Stefan Bean – 100% Việt, bị bại liệt, bị bỏ rơi – tranh cử Orange County

Báo Nguoi-Viet

May 14, 2022

Đỗ Dzũng/Người Việt

ORANGE COUNTY, California (NV) – Bị bại liệt lúc 2 tuổi, bị cha mẹ bỏ rơi, được đưa sang Mỹ qua chương trình “Operation Babylift” những ngày cuối cuộc chiến Việt Nam, và ngồi xe lăn suốt đời. Tuy nhiên, tất cả những điều này không thể cản trở Tiến Sĩ Stefan Bean, tên Việt Nam là Lê Thành Nam, trở thành một mẫu người thành công, có gia đình, có bốn người con, và bây giờ ra ứng cử chức tổng quản trị Sở Giáo Dục Orange County trong cuộc bầu cử sơ bộ vào Thứ Ba, 7 Tháng Sáu, tới đây.

Tiến Sĩ Stefan Bean (Lê Thành Nam) và bốn người con. Ông tranh cử chức tổng quản trị Sở Giáo Dục Orange County vào ngày 7 Tháng Sáu tới đây. (Hình: drbeanoc.com)

Trước khi ứng cử lần này, là lần đầu tiên, Tiến Sĩ Stefan Bean từng làm giáo sư đại học Cal State Dominguez Hills, Carson; hiệu trưởng Cornerstone Academy, Los Angeles; giáo viên, hiệu trưởng, và tổng quản trị Học Khu Aspire Public Schools, Los Angeles.

Sau khi tốt nghiệp trung học Lutheran High School of San Diego, ông lấy bằng cử nhân đại học USC, bằng cao học đại học Loyola Marymount University, và bằng tiến sĩ (doctorate) đại học Cal State Fullerton.

“Tôi bị bại liệt từ lưng trở xuống, cha mẹ bỏ lúc tôi 2 tuổi, rồi người ta thấy tôi ngồi trên lề đường, họ đưa vào trại mồ côi, may mắn đi trong chuyến bay không bị rớt qua chương trình Babylift ngày 6 Tháng Tư, 1975, với tên thật là Lê Thành Nam,” Tiến Sĩ Stefan Bean kể. “Trong danh sách, tôi đi chuyến bay thứ nhất, túi của tôi người ta đã bỏ lên đó rồi. Nhưng không hiểu sao, họ đưa tôi sang chiếc máy bay khác.”

Chiếc máy bay C-5 đó, chuyến bay thứ nhất, cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất được 12 phút thì bị rớt, làm thiệt mạng 141 trong số 149 trẻ mồ côi.

“Nơi đầu tiên tôi đến là San Diego, ở với gia đình ông bà Greg và Judy Bean. Năm năm sau, khi tôi được 7 tuổi, ông bà chính thức nhận tôi làm con nuôi, đổi tên thành Stefan Bean. Ông bà có hai người con, nhận nuôi thêm 10 đứa, như vậy, tôi có 11 anh chị em.”

Tiến Sĩ Stefan Bean tại nhật báo Người Việt. (Hình: Người Việt)

Vượt qua khó khăn, lập gia đình, có con

Tiến Sĩ Stefan Bean cho biết, ông từng trải qua nhiều cuộc giải phẫu, “để người ta bỏ thêm thịt vào chân tôi.”

Trường học của ông không có đủ tiện nghi cho một học sinh khuyết tật, thế là cha mẹ đưa ông vào trường tư để ông có đủ điều kiện học.

Mặc dù không thể chơi các môn thể thao như bóng rổ hoặc bóng chày, cậu bé Stefan không ngồi yên một chỗ.

Ông chọn làm trọng tài cho các trận đấu, tham gia các hoạt động ngoại khóa, tham gia ban chấp hành hội học sinh, và phát triển khả năng nói tiếng Anh của mình.

Ông trở thành học sinh xuất sắc, được bầu làm trưởng khối lớp 6, và với khả năng ăn nói lưu loát, được đưa đi Washington DC phát biểu, vận động cho quyền lợi người khuyết tật.

Sau khi tốt nghiệp trung học, ông được học bổng toàn phần vào học đại học USC, và tốt nghiệp bằng cử nhân.

Tại USC, trong lúc làm việc trong trường, ông gặp cô Janet Soares, người vợ tương lai.

“Tôi xin hẹn đi chơi với cô ba lần, đều bị từ chối. Phải đến lần thứ tư cô mới đồng ý,” Tiến Sĩ Stefan Bean vừa nói vừa đưa ba ngón tay lên.

Hai người hẹn hò nhau một năm, sau khi làm đám hỏi một năm, họ làm đám cưới năm 2000, sau đó có bốn người con với nhau, con gái 19 tuổi đang học USC, con gái 17 tuổi và con trai 14 tuổi đang học trung học Los Alamitos High School, và con gái 11 tuổi học Rossmoor Elementary School.

Năm 2014, Janet Bean, người bạn đời của tiến sĩ, phát hiện bị ung thư, và qua đời năm 2020.

Dù trong cảnh “gà trống nuôi con,” dù vẫn phải ngồi xe lăn, Tiến Sĩ Stefan Bean vẫn làm tròn nhiệm vụ của người cha, chăm sóc các con đầy đủ.

“Cả đời tôi như vậy quen rồi,” ông nói một cách vui vẻ.

Tiến Sĩ Stefan Bean: “Cho dù gặp thử thách ra sao, cho dù sinh ra như thế nào, con người có thể vượt qua tất cả nhờ giáo dục.” (Hình: Người Việt)

Ứng cử để làm chính sách nâng đỡ học sinh

Khi được hỏi vì sao muốn làm tổng quản trị Sở Giáo Dục Orange County, Tiến Sĩ Stefan Bean cho biết: “Khi Janet còn sống, tôi có hứa với vợ tôi rằng tôi sẽ bảo vệ con cái không bị tẩy não qua các chương trình giáo dục có dạy về tình dục và thay đổi giới tính.”

“Trường học phải là nơi nâng đỡ học sinh, dạy cho các em tranh đua phù hợp với thế giới ngày nay, chứ không phải dạy những điều người ta muốn dạy, ví dụ như lý thuyết về chủng tộc, giống như chủ nghĩa Marxist,” ông tiếp.

Ông giải thích thêm: “Chúng ta đã có kinh nghiệm với Cộng Sản tại Việt Nam, chúng ta không muốn điều đó xảy ra ở đây. Những cái này không thuộc về trường học. Trường học nên dạy học sinh cách suy nghĩ thấu đáo về khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, và toán học…”

Về chủng tộc, ông Bean nói rõ hơn: “Chúng ta cần nâng đỡ và hiểu thêm sự khác biệt giữa những nền văn hóa, và làm thế nào chúng ta có thể làm việc như là một dân tộc.”

“Lý thuyết về chủng tôi đôi khi đi quá xa, làm cho chúng ta có cảm giác chủng tộc này hơn chủng tộc khác. Chúng ta muốn trân trọng mọi chủng tộc, một cách không thiên vị,” Tiến Sĩ Bean nói thêm.

Tiến Sĩ Bean cũng ủng hộ tạo cơ hội công bằng cho tất cả học sinh.

Ông nói: “Tất cả cơ hội phải công bằng. Học sinh phải có cơ hội công bằng để họ trở thành những gì họ muốn. Ngay cả trong trường hợp của tôi, tôi cũng được giúp đỡ một chút, và tôi tin như vậy, nhưng không phải là tôi được cơ hội vì màu da của tôi, vì hoàn cảnh của tôi.”

Nghị Viên Phát Bùi của Garden Grove (trái) và Tiến Sĩ Stefan Bean. (Hình: Người Việt)

Về chức vụ tổng quản trị hiện nay, Tiến Sĩ Stefan Bean cho biết: “Nếu đắc cử, tôi sẽ làm việc chung với Hội Đồng Giáo Dục để đạt kết quả cho mọi người.”

Theo trang web tranh cử của ông, www.drbeanoc.com, Tiến Sĩ Stefan Bean được bốn trong năm thành viên Hội Đồng Giáo Orange County chính thức ủng hộ. Ngoài ra, ông cũng được đảng Cộng Hòa Orange County, Nghị Hội Đảng Cộng Hòa Orange County, và một số dân cử và cựu dân cử chính thức ủng hộ.

Chức tổng quản trị Sở Giáo Dục Orange County

Các học khu tại California đều được quản trị một cách độc lập. Các thành viên Hội Đồng Giáo Dục do cử tri bầu lên, và họ bổ nhiệm tổng quản trị. Nói cách khác, tổng quản trị học khu thực hiện chính sách của Hội Đồng Giáo Dục, giống như một công ty, trong đó, tổng giám đốc được Hội Đồng Quản Trị bổ nhiệm và làm việc theo chính sách của hội đồng này.
Trong lĩnh vực giáo dục cấp quận hạt ở Orange County, việc điều hành có khác.

Các thành viên Hội Đồng Giáo Dục Orange County và tổng quản trị do cử tri bầu lên. Nói cách khác, tổng quản trị chịu trách nhiệm với cử tri, chứ không phải với Hội Đồng Giáo Dục.
Vì thế, phải có một sự tương nhượng nào đó để tổng quản trị phối hợp làm việc với Hội Đồng Giáo Dục.

Tiến Sĩ Stefan Bean cùng người vợ quá cố và bốn người con. (Hình: Drbeanoc.com)

Ông Stefan Bean cho biết thêm, về mặt ngân sách, các học khu có hai nguồn thu, từ tiền thuế của dân và từ tiểu bang.

“Nguồn ngân sách của tiểu bang phải được tổng quản trị Sở Giáo Dục Orange County xem xét,” ông Bean giải thích. “Orange County có 28 học khu. Nếu tổng quản trị không đồng ý, thì học khu phải làm lại ngân sách (phần nhận từ tiểu bang). Sau đó, tổng quản trị đưa qua Hội Đồng Giáo Dục Orange County bỏ phiếu.”

“Mặc dù chưa có luật rõ ràng ai có toàn quyền về ngân sách, nhưng quận hạt có thể thông qua một nghị quyết, và vẫn có thể gây ảnh hưởng ngân sách học khu,” ông giải thích thêm.

Khi được hỏi giáo dục quan trọng như thế nào, Tiến Sĩ Stefan Bean không ngần ngại nói: “Cho dù gặp thử thách ra sao, cho dù sinh ra như thế nào, con người có thể vượt qua tất cả nhờ giáo dục.”

Độc giả có thể nghe câu chuyện của Tiến Sĩ Stefan Bean tại: www.youtube.com/watch?v=ODMFROPnh-4.

—–
Liên lạc tác giả: dodzung@nguoi-viet.com

Cặp song sinh dính liền Abby và Brittany Hensel

Kể từ khi chào đời vào ngày 7 tháng 3 năm 1990, cặp song sinh dính liền Abby và Brittany Hensel là đối tượng của rất nhiều phương tiện truyền thông. Đây là cặp song sinh parapagus dị tật có hai đầu trên một thân.

Hai chị em có chung nhiều cơ quan quan trọng, bao gồm một gan to, bàng quang, cơ hoành, cả hệ thống sinh sản và tiêu hóa, và ruột. Mỗi người trong cặp sinh đôi điều khiển một tay và một chân, đòi hỏi sự hợp tác rất nhiều để hoàn thành các nhiệm vụ đơn giản như đi bộ, chạy và lái xe ô tô.

Abby và Brittany sinh ra và lớn lên ở Minnesota, tốt nghiệp trường trung học Mayer Lutheran năm 2008. Sau đó, cặp song sinh theo học Đại học Bethel ở Arden Hills, Minn, chuyên ngành giáo dục. Đến năm 2012, Abby và Brittany đã tốt nghiệp đại học. Và hiện tại là giáo viên tiểu học ở New Brighton, Minn.

Mặc dù Abby và Brittany có bằng cấp riêng biệt và hai giấy phép giảng dạy, nhưng họ chỉ được trả chung một khoản lương.

Ngày càng nhiều người lớn ở Mỹ có nguy cơ sa sút trí tuệ

Ngày càng nhiều người lớn ở Mỹ có nguy cơ sa sút trí tuệ

May 11, 2022 

LOS ANGELES, California (NV) – Một nghiên cứu công bố hôm Thứ Hai, 9 Tháng Năm, cho thấy 18% người trưởng thành từ 40 đến 50 tuổi ở Mỹ có dấu hiệu béo phì hoặc thừa cân trầm trọng, đẩy họ vào nguy cơ cao mắc chứng sa sút trí tuệ, theo bản tin UPI.

Theo nghiên cứu, có đến 12% có mức độ hoạt động thể chất thấp hơn mức đề nghị hoặc có “trình độ học vấn thấp,” tức chưa học hết bậc trung học hoặc đại học, theo dữ liệu của JAMA Neurology. Ngoài ra, 10% người có bệnh tiểu đường loại 2 hiện đang hút thuốc lá.

Một kết quả nghiên cứu cho thấy béo phì tạo thêm nguy cơ sa sút trí tuệ. (Hình minh họa: Jewel Samad/AFP via Getty Images)

Nhóm nghiên cứu cho hay những yếu tố xoay quanh lối sống không lành mạnh có thể khiến họ tăng nguy cơ đối mặt với bệnh Alzheimer hoặc những chứng sa sút trí tuệ khác.

Đáng chú ý, với cùng những yếu tố kể trên, người Mỹ da màu và người Alaska bản địa lại có khả năng bị sa sút trí tuệ cao hơn so với người Mỹ da trắng. Nam giới thuộc mọi chủng tộc nói chung cũng có tỷ lệ phát triển bệnh cao hơn so với phụ nữ.

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, các tác giả nhận thấy có sự thay đổi về tỷ lệ phổ biến của các yếu tố nguy cơ đối với chứng sa sút trí tuệ ở người trưởng thành Mỹ trong thập niên qua.

Mười năm trước, nhóm nghiên cứu này phát hiện không hoạt động thể chất, trầm cảm và hút thuốc lá là những nguyên nhân góp phần gây sa sút trí tuệ phổ biến nhất ở người trưởng thành trên toàn quốc, theo Bác Sĩ Roch A. Nianogo, đồng tác giả nghiên cứu, nói với UPI.

Ông Nianogo, giáo sư dịch tễ học tại UCLA Fielding School of Public Health (Los Angeles), tiết lộ: “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các yếu tố nguy cơ này dường như có sự khác biệt tùy theo giới tính, chủng tộc và sắc tộc.”

Ông Nianogo và đồng nghiệp ước tính khoảng 1/3 trường hợp mắc bệnh Alzheimer và chứng sa sút trí tuệ liên quan đến tám yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được, chẳng hạn như béo phì, thừa cân trầm trọng hoặc thiếu hoạt động thể chất.

Trung Tâm Phòng Ngừa Dịch Bệnh (CDC) đề nghị những người lớn nên có các hoạt động thể chất ít nhất 150 phút mỗi tuần để có thể giữ không để trọng lượng tăng cao.

Theo Hiệp Hội Bệnh Alzheimer (ALZ), khoảng 6 triệu người Mỹ được chẩn đoán mắc chứng sa sút trí tuệ hoặc suy giảm chức năng não, trong đó có mất trí nhớ. (V.Giang) 

HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM CỘNG HÒA.

Hoang Le Thanh

HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM CỘNG HÒA.

Sang xứ người đã vài thập kỷ, kỷ niệm thời học trò ngày càng lùi dần vào quá khứ. Bất chợt hôm nay có người nhắc lúc này đang là mùa thi tốt nghiệp phổ thông bên nhà, bỗng bồi hồi nhớ lại ngày xưa …

Trước 1975, chương trình giáo dục phổ thông tại miền Nam gồm 12 lớp, chia ra hai bậc: tiểu học và trung học.

Bậc tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5 (cấp 1 ngày nay).

Bậc trung học từ lớp 6 đến lớp 12, lại chia ra làm 2 bậc:

Trung học đệ nhất cấp (cấp 2) gồm lớp 6, 7, 8, 9;

Trung học đệ nhị cấp (cấp 3) từ lớp 10 đến lớp 12.

Đó là hệ thống giáo dục do Pháp thiết lập, sau này chính phủ VN Việt hóa, dùng tiếng Việt và sách giáo khoa Việt để giảng dạy và thi cử (sau hội nghị giáo dục toàn quốc 1958).

Các cấp bậc và các kỳ thi:

Bằng tiểu học:

Thời bố mẹ tôi còn đi học, thập niên 40, cuối bậc tiểu học có kỳ thi tiểu học, thi đậu thì được cấp bằng tiểu học hay thường gọi bằng tiếng Tây là Certificat (CEPCI – tức là Certificat d’Études Primaire Complémentaire Indochinoise). Những người có Certificat đã có thể kiếm được việc làm “chữ nghĩa” tại văn phòng lĩnh lương khá hậu vào thời ấy.

Sau này thì bằng tiểu học được bãi bỏ, nhưng đến thời anh em tôi cắp sách đến trường vào thập niên 60 thì học sinh hoàn tất bậc tiểu học phải qua một kỳ thi hóc búa hơn: thi tuyển vào các trường trung học công lập. Những kỳ thi này được xem là khó vì số trường trung học công lập do chính phủ lập ra và miễn học phí không đủ phục vụ cho dân số học trò vào lúc đó, nên tỉ lệ đậu vào trường công chỉ độ 62%, riêng đối với những trường “top” chỉ khoảng 10% trúng tuyển, cũng khắt khe như tỉ lệ học sinh Mỹ ngày nay được tuyển vào các trường đại học Ivy League như Harvard, Princeton, Yale, v.v…

Những học sinh không đậu vào trường công phải ghi tên vào các trường tư, đóng học phí tốn kém và trình độ giảng dạy cũng không bằng trường công: thành phần ưu tú đã vào trường công, trường tư nhét nhiều học sinh vào ngồi cùng lớp để giảm chi phí tăng lợi nhuận, nhà trường không kỷ luật gắt gao vì muốn giữ học sinh, v.v…

Học sinh không đậu vào lớp 6 trường công thì vào lớp tiếp liên tại các trường tư hay ở nhà để luyện thêm, năm sau thi tiếp, sau 3 kỳ không được thi nữa. Vì thế học sinh trường công có thể chênh lệch nhau 2 tuổi. Tôi có một bạn ngày xưa học cùng lớp tiểu học, nhưng thi 3 lần mới đậu vào trường công, nên đến khi vào trường, lại thua tôi hai lớp.

Bằng trung học:

Hết lớp 9 bậc trung học đệ nhất cấp có kỳ thi trung học, đậu bằng trung học mới được lên trung học đệ nhị cấp. Bằng trung học là thước đo trình độ để tiến thân trong việc làm cho những người trẻ vào đời. Nữ giới có bằng trung học có thể làm thư ký văn phòng, thi vào sư phạm cấp tốc dạy tiểu học, vào trường trung cấp y tế đào tạo y tá, v.v… Nam giới nếu nhập ngũ thì được đào tạo thành hạ sĩ quan, còn có bằng tiểu học chỉ đóng binh nhì.

Đến thời anh em tôi lên trung học vào thập niên 60 kỳ thi trung học đệ nhất cấp đã bãi bỏ vào năm 1967.

Tú tài I, Tú Tài II:

Lên đến trung học đệ nhị cấp thì học sinh chọn ban chuyên môn: ban A chuyên về khoa học (sinh vật và lý hóa), ban B chuyên về toán, lý, hóa, ban C chuyên về văn chương, triết học, ngoại ngữ. Các môn chính học nhiều tiết hơn môn phụ, nhưng chương trình học ban nào cũng gồm đủ cả các môn văn, triết, sử, địa, toán, lý hóa, sinh vật, công dân, sinh ngữ 1, sinh ngữ 2. Cuối năm lớp 11 thi Tú tài I, cuối năm lớp 12 thi Tú Tài II. Sau này tú tài I bãi bỏ năm 1973.

Các kỳ thi Trung học, Tú tài I và II đều là kỳ thi quốc gia, được tổ chức toàn quốc, cùng ngày, cùng đề thi. Đề thi được Ban Khảo thí thuộc Bộ Giáo dục chọn lựa, niêm phong mật và gửi xuống các ty giáo dục, chỉ được bóc niêm trước giờ thi.

“Ban soạn đề thi bị cô lập ở Sài Gòn khoảng một tuần để hoàn tất việc chọn đề rồi đem niêm phong cẩn thận. Đề thi cho mỗi tỉnh được đựng trong một cái rương nhôm có hai ổ khóa và được giữ bảo mật cho đến gần ngày thi, giao cho hội đồng giám thị của từng tỉnh để phân phát đề thi cho mỗi trung tâm thi xuống tận mỗi phòng thi. Vì bảo mật nên việc di chuyển đề thi có cảnh sát hộ tống.

“Mỗi phòng thi có hai giám thị: một giáo sư trung học và một giáo viên tiểu học. Ngoài ra là một giám thị hành lang để giữ trong ngoài nghiêm ngặt không ai ra vào trong khi thi. Bài thi của thí sinh phải có chữ ký của hai giám thị phòng thi để ngăn ngừa việc tráo bài thi. Việc di chuyển bài thi khi thí sinh đã nộp vào cũng đòi hỏi sự cẩn mật như việc di chuyển đề thi.”.

Thể thức thi cử & chấm điểm:

Học sinh đến thi tại các trung tâm thi cử theo phiếu báo danh nhận được, không thi tại trường của mình, và không được các thầy cô dạy mình trông thi. Học sinh chỉ mang bút và tẩy vào lớp, giấy thi và giấy nháp do trung tâm khảo thí cấp để tránh chuyện làm “phao”.

Phiếu báo danh sắp thứ tự theo tên, chẳng hạn như những tên An, Ân, Ẩn, Ánh, v.v… được xếp vào cùng phòng thi, tên Thanh, Thêm, Thoa, Thu, Thúy, Thủy, v.v… vào cùng phòng. Mỗi tờ giấy thi có ô vuông trên đầu trang để học sinh ghi tên tuổi, ngày sinh, số báo danh, v.v… Phần này gọi là “phách” sẽ rọc đi cất riêng sau khi giám khảo ghi mã số vào phần phách và phần bài thi bên dưới.

Giáo sư chấm bài không biết tên tuổi của người viết bài, chỉ dựa thuần vào chất lượng bài thi để chấm điểm. Học sinh còn cho biết những điều phải tránh như không được dùng mực đỏ, không được gạch dưới, không được viết chữ in, tức là những điều khác thường, vì bài sẽ bị loại theo nghi vấn bài được “làm dấu” để giám khảo nhận ra “gà nhà” mà chấm thiên vị.

Sau khi việc chấm bài hoàn tất thì hội đồng thi sẽ mang phách ra ráp lại theo đúng mã số, từ đó mới biết tác giả của từng bài và điểm thi của từng thí sinh, rồi lập bảng điểm và biết ai được “bảng vàng đề tên”, ai phải thở dài ai oán “thi không ăn ớt thế mà cay”.

Kỳ thi tú tài kéo dài ba ngày dài lê thê. Sáng ngày thứ nhất thi môn chính, vì là ban C nên tôi thi môn văn sáng ngày thứ nhất, chiều thi môn phụ như sử, địa, hay công dân, toán, lý, hoá, sinh ngữ phụ (Anh văn).

Sáng ngày hai thi môn chính thứ hai: sinh ngữ chính Pháp văn, chiều thi môn phụ. Ngày thứ ba thi các môn còn lại. Hình như ban A hay B có đến 3 môn chính (sinh, lý, hoá hay toán, lý, hoá) nên ba môn này sẽ thi vào ba buổi sáng, chiều thi các môn khác.

Môn văn hay triết thường là bình luận một tác phẩm, một đề tài triết, viết dài độ 4-6 trang. Sinh ngữ chính của ban C được dạy 7 năm trung học, đòi hỏi viết một bài luận văn tiếng Pháp (rédaction). Môn sinh ngữ phụ Anh văn đã học 3 năm lớp 10-12 đòi hỏi đọc một bài viết rồi trả lời các câu hỏi (reading comprehension), làm một vài phép văn phạm, dịch một đoạn văn ngắn ra tiếng Việt.

Các môn phụ hệ số thấp như sử, địa, công dân, v.v… cũng phải thuộc làu làu từng quyển sách dầy độ 150-250 trang. Vì thế bảo rằng các cô tú cậu tú có cả “bồ” chữ nghĩa trong bụng cũng không ngoa.

Ngày xưa sau khi vượt vũ môn thi viết còn phải vào thi vấn đáp, sau này kỳ thi vấn đáp đã được bỏ năm 1968.

Các môn thi, cách chấm điểm, và xếp hạng:

Điểm thi các môn từ 0 đến 20, đạt trên trung bình từ 10 trở lên là đậu, dưới 10 là rớt. Các thứ hạng thi đậu được xếp như sau:

10.00 – 11.99: thứ

12.00 – 13.9 bình thứ

14.00 – 15.99: bình

16.00 – 17.99: ưu

18.00 – 20.00: tối ưu

Tất cả các môn học trong năm đều cho thi, không từ môn nào. Tuy nhiên, điểm các môn được nhân theo hệ số (coefficient) tùy theo ban chuyên môn của mình.

Ban A có môn sinh vật hệ số 4, số điểm sẽ nhân lên 4 lần, môn lý hoá sẽ nhân 3, ngoại ngữ nhân 2, các môn khác như sử, địa, công dân nhân 1.

Ban B có số điểm toán sẽ nhân 4 lần, điểm lý hóa nhân 3,

Ban C thì môn văn hay triết sẽ nhân 4, ngoại ngữ nhân 3, v.v…, tức là môn chính của mình phải xuất sắc thì mới đậu cao.

Thí dụ: nếu một học sinh ban B (toán) được 20 điểm môn công dân, hệ số 1, mà môn toán hệ số 4 chỉ có 2 điểm, thì tổng số điểm sẽ là 20×1 + 2×4 = 28, chia cho 5 hệ số, trung bình chỉ có 5.60: RỚT!

Ngược lại, nếu công dân có 2 điểm mà toán được 18 điểm, thì tổng số điểm là 2×1 + 18×4 = 74, trung bình gần 15 điểm: đậu bình!

Những ban khoa học và toán thường có nhiều thí sinh xuất sắc hơn ban văn chương sinh ngữ, vì giải toán đúng 100% có thể đạt điểm tối đa là 20, trong khi viết bài bình luận hay vẫn khó mà đạt điểm 20 được.

Kết quả thi cử:

Những kỳ thi tú tài là một thử thách lớn và là cơn ác mộng trầm kha đối với giới học sinh thời đó. Có một bài hát tả oán như sau:

“Thi ơi là thi, sinh mi làm chi!” Cả năm học hành kết quả khá, mà đến ngày thi lỡ bị “tào tháo đuổi” hay hỏng xe không đến được phòng thi là kể như sự nghiệp tan tành, không có mảnh bằng lận lưng là đời tàn trong ngõ hẹp.

Theo tôi, triết lý giáo dục của Pháp chủ định dùng kỳ thi để tuyển lựa ra thành phần ưu tú (élite) và loại bỏ thành phần “không xứng đáng”. Miền Nam theo nề nếp đó. Khỏi nói cũng biết học sinh thi rớt như rạ. Trung bình tú tài I chỉ đậu độ 30%, còn tú tài II, vì đã vượt vũ môn lên từ 30% của tú I, nên có sĩ số đậu khoảng 70%. Thi cử mà chỉ đậu có 30% thì đúng là thi loại bỏ chứ không phải là thi kiểm tra trình độ nữa rồi. Nhà thơ Nguyễn tất Nhiên đã có bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc: “Thi hỏng tú tài ta đợi ngày đi (vào quân trường), đau lòng ta muốn khóc”.

Có những học sinh uống thuốc chống ngủ để gạo bài thâu đêm, đế nỗi bị lậm thuốc sinh ra điên loạn. Có những học sinh thi rớt bị gia đình mắng mỏ, hay tự thất vọng đã uống thuốc độc kết liễu đời mình, năm nào báo cũng đăng. Có người thi 7 năm liền mới bằng tú tài! Sau này để “cứu giúp” học sinh thi hỏng, bộ Giáo dục cho thi tú tài II hằng năm hai lần, lần đầu vào đầu hè, lần sau cuối hè, để mọi người có cơ hội “thua keo này ta bày keo khác!”.

Bằng tú tài I đánh dấu một thành quả cao hơn bằng trung học, được vào một số học viện như Học viện Cảnh sát Quốc gia, hoặc trường cao đẳng như Trường Cao đẳng Công chánh, vào quân đội thì được huấn luyện thành sĩ quan, tuy nhiên không được lên đại học. Chỉ có bằng tú tài II mới đánh dấu việc hoàn tất thành công trung học đệ nhị cấp (cấp 3) và mở ra cổng trường đại học.

Năm 1973 kỳ thi tú tài I cũng được bãi bỏ (thank God, tạ ơn thượng đế!), chỉ còn giữ tú tài II.

Thi cử tại Mỹ & VN:

Sau này sang Mỹ sinh sống thấy con tôi học rất thoải mái, học trong lớp vừa xong một chương là cho bài kiểm, bài thi liền để còn nhớ bài, không đợi đến cuối năm khảo nguyên một cuốn sách mấy trăm trang như ở VN, (mà đúng ra thì VN khảo cả chục cuốn sách vì chương trình nguyên năm có cả chục môn học).

Tại trường Mỹ bài nào kiểm không khá là thầy cô cho “dạy lại, thi lại” ngay (re-teach, re-test), đến giờ nghỉ trưa hay sau buổi học bảo trò đến thầy cô kèm thêm cho thấu đáo. Đến hết bậc trung học bên Mỹ, nếu các môn bắt buộc trong chương trình phổ thông đã hoàn tất và đủ điểm, là lập tức mũ áo vênh vang lên lãnh bằng ngay, chẳng có tú I tú II gì sất! Từ đó tôi thấy sự khác biệt về thi cử giữa hai hệ thống: ở Mỹ dạy cho đậu chứ không dạy cho rớt, ở VN không thật xuất sắc là rớt như chơi.

Bonus vui: Một đứa đi thi, cả nhà mệt nghỉ!

Chưa thấy một người làm quan, cả họ được nhờ, mà chỉ thấy cả nhà mệt nghỉ vì đứa con đi thi. Bố lo tiền cho con đi học kèm thêm suốt năm, mẹ nấu chè nấu cháo ăn dặm ban đêm cho có sức khoẻ, giữa khuya lại thức giấc quát con ơi đi ngủ thôi con kẻo mai không dậy đi học nổi! Bà nội ngày rằm mồng một sì sụp khấn vái xin Trời Phật phù hộ cho cháu nó thi đỗ phen này, bảng vàng đề tên, không hổ danh giòng họ.

Ngày đi thi bố chuẩn bị dầu nhớt cho chiếc xe từ mấy hôm trước để đưa sĩ tử đi đến nơi về đến chốn. Mẹ nấu món ăn cho lành, bổ dưỡng, dễ tiêu, để không bị đau bụng đau bão. Nhất định phải có chè đậu, phải nấu bằng đậu đỏ cho may mắn, không nấu đậu đen, và tuyệt đối không cho ăn chuối hay trứng gà trứng vịt những ngày này, nhất định không cho cơ hội trượt vỏ chuối hay lãnh trứng vịt!

Đến ông anh trong nhà chẳng muốn quan tâm gì mà cũng bắt buộc trở nên “hữu dụng”: “Ra đầu ngõ đứng đi con!”. Thế là ngày nào sĩ tử cũng ra ngõ gặp trai, hên cách gì! Sau đó thì anh xách xe chạy theo đuôi bố, nhỡ xe bố trở chứng nằm ẹp là có tài xế dự khuyết trám chân vào ngay! Không nhiêu khê như nhân vật trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố ngày xưa, nhưng toàn thể tiểu gia đình cũng không kém phần sôi động vất vả.

Đại gia đình trong hai họ nội ngoại cũng chăm chăm vào. Con bác A, con chú B, con cô C, đều cũng đi thi năm nay đấy nhé. Chúng mày cố gắng hết sức mình nhé. Thi đậu thì mới có tương lai nhé. Thi rớt là tàn đời con ạ. Giờ mà không cố gắng, sau này có hối cũng muộn rồi con ạ! Bao cái “nhé! nhé! ạ! ạ!” ấy càng làm cho thí sinh tăng thêm xì trét (stress), phen này mà lỡ thi rớt thì chỉ có chít!

Hàng xóm cũng mặc tình “quan trên trông xuống, người ta trông vào”. Đến ngày toàn quốc ứng thí mà thấy cô ả áo dài tươm tất, mặt mày tái nhợt, lủi thủi theo xe bố bước ra đầu ngõ là ai cũng nhận biết ngay cái mặt “tội đồ đi thi” đây rồi, chẳng dấu vào đâu được. Các bác hàng xóm, các anh chị lớn, các em bé, v.v… đều mỉm cười thông cảm, ngấm ngầm gửi lời chúc thiện, làm mức độ xì trét lại tăng lên vụt vụt.

Chín tháng cặm cụi gạo bài, ba ngày căng thẳng loay hoay, gặm bút, viết viết, xóa xóa, đến khi khổ nạn qua rồi thì thí sinh trở nên xẹp lép như bong bóng xì hơi, ỉu xìu như chiếc bánh bao chiều, tả tơi như chiếc mền rách!

Kết quả rồi cũng được niêm yết, đứa đậu, người rớt. Học sinh trường công thì kết quả đậu rất cao. Tỉ lệ đậu toàn quốc chỉ độ 70% cho tú II, nhưng trong trường “top” của tôi, lớp 50 học sinh chỉ có một bạn rớt, còn lớp bên cạnh 100% đậu.

Trường của tôi là trường top của nữ sinh miền Nam và có một truyền thống rất tốt đẹp và rất… hậu hỉ. Mỗi học sinh đậu bình được thưởng một bông mai bằng vàng 18 karat, nho nhỏ xinh xinh, biểu tượng của trường, đường kính độ 1.8cm (nửa chỉ?), còn học sinh đậu ưu và tối ưu được thưởng một bông mai hơi lơn lớn xinh xinh, đường kính độ 2cm. Thời đó vàng rẻ, và hội phu huynh tài trợ. Năm lớp chúng tôi lãnh thưởng hoa mai vàng có tổng thống và bà Nguyễn Văn Thiệu đến trường dự lễ và đọc diễn văn khen thưởng. Sau này các chị lớn kể với thầy cô rằng nhờ chiếc bông mai vàng của trường tặng thưởng mà các chị đã bán đi lấy tiền thăm nuôi chồng học tập tại các trại cải tạo, hay trao cho chồng cầm đi làm của hộ thân trên đường vượt biên.

Trong hàng xóm hay trong họ hàng thì khác, phản ánh tình hình chung, có đậu có rớt, độ 50/50. Tôi cứ nghĩ mà xót xa cho những bạn đã cố gắng hết sức mình mà vẫn ôm hận. Bố mẹ lại được dịp hể hả so sánh con mình với con nhà khác. Tội nghiệp bố cả đời vất vả chỉ mãn nguyện có bấy nhiêu, và chỉ được báo hiếu có bấy nhiêu, rồi thì bố mất sớm khi con chưa thành tài, sau này mỗi lần lãnh lương rủng rỉnh chẳng có dịp mua quà biếu bố cho bố vui.

Rồi mùa mưa kéo qua mùa thi

Rồi em cũng bỏ trường mà đi!

Đó là hai câu thơ một bạn trong trường viết ra. Tú tài II là chặng đường cuối, kết thúc tuổi học trò thơ ngây và đánh dấu tuổi vào đời. Ngày xưa bậc trung học kéo dài 7 năm dưới cùng một mái trường, nên cuộc chia tay với thầy cô, bạn bè, lớp học, sân trường, phấn trắng, bảng đen, v.v… không ít bịn rịn.

Rồi từ đó mỗi kẻ một nơi!

Sau này gặp lại, bọn tôi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đi học, đi thi ngày xưa. Kiến thức miệt mài nấu sử sôi kinh đã quên gần hết, nhưng điều không quên đi, không mất đi, là cái đạo đức, cái nền nếp làm người mà thầy cô đã dạy dỗ uốn nắn cho ngày xưa. Cách sống cho ra người ấy đã giúp cho học trò của thầy cô ngày xưa vươn lên ở bất cứ mọi nơi, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi trở ngại, chinh phục mọi môi trường mới, chinh phục lòng người, tạo dựng một chỗ đứng trong đời cho mình và tìm cơ hội chăm lo lại cho người khác.

Chính cái môn không hệ số, không thi cử này lại là cái vốn sống trong suốt cuộc đời.

Viện Đại học Đà lạt ngày xưa đã lấy tên là Đại học Thụ Nhân, trích từ câu nói của Quản Trọng thời Xuân Thu, và có khắc câu ấy hai cột trụ hai bên cổng trường:

“Nhứt niên chi kế mạc như thụ cốc” (vì lợi ích một năm hãy trồng lúa).

“Thập niên chi kế mạc như thụ mộc” (vì lợi ích mười năm hãy trồng cây).

“Chung thân chi kế mạc như thụ nhân” (vì lợi ích cả đời hãy trồng người).

(có nơi ghi: “Bách niên chi kế mạc như thụ nhân” (vì lợi ích trăm năm hãy trồng người)

Chúng tôi đồng ý với nhau, chúng tôi là những sản phẩm nhà trường đã “trồng” được trong những năm tháng dưới mái trường xưa, và đã không để nhà trường và thầy cô phải hổ thẹn!

(Gordon Thuy, sưu tầm)

Share từ FB Phan Ly (MNVNT75).

Nhà văn Pháp gốc Việt, Linda Lê qua đời

Van Pham

CHÂN THÀNH CHIA BUỒN CÙNG TANG QUYẾN – R.I.P.

********

Nhà văn Pháp gốc Việt, Linda Lê qua đời

Tiểu thuyết gia người Pháp gốc Việt qua đời hôm 9/5, hưởng dương 59 tuổi.

Theo AFP, nguồn tin từ Nhà xuất bản Stock (đơn vị xuất bản sách của Linda Lê) cho biết nhà văn qua đời sau khi chống chọi với trận ốm kéo dài.

Trên Twitter, Pierre Benetti, đồng sáng lập tạp chí văn học En Atant Nadeau, một tạp chí mà Linda Lê cộng tác, bày tỏ nỗi buồn khi tác giả Vượt sóng qua đời.

Sylvain Bourmeau, Giám đốc tạp chí AOC, nơi Linda Lê đăng tải các bài viết về văn chương, nói: “Buồn biết bao khi biết tin Linda Lê qua đời sáng nay. Bà là tác giả của một trong những tác phẩm lớn của văn học đương đại và là một độc giả rất lớn”.

Cái chết là một trong những chủ đề trở đi trở lại trong văn chương Linda Lê. Năm 2018, trả lời phỏng vấn Zing, tiểu thuyết gia cho biết bà viết về cái chết, như nói về tình yêu, về khát khao, về nỗi sợ tồn tại trên đời, về hạnh phúc được khám phá “người khác”, được đắm chìm trong sách vở, được tự tạo cho mình cả một thế giới thông qua văn chương.

“Cái chết là một phần của sự sống, là mặt ngược lại của sự sống mà ta không thể tránh nhìn trực diện”, Linda Lê từng nói.

Linda Lê (1963) là một trong những nữ nhà văn nổi bật tại Pháp. Bà sinh tại Đà Lạt, sang Pháp khi 14 tuổi cùng mẹ. Được biết tới tại Pháp năm 1992 với tập truyện Phúc âm tội ác, sau đó, những tác phẩm khác của bà luôn được đón nhận: Vu khống, Lời tên khùng, Ba nữ thần số mệnh, Tiếng nói, Thư chết, Lại chơi với lửa, Sóng ngầm, Vượt sóng…

Linda Lê còn là một nhà viết tiểu luận, phê bình văn chương tại Pháp. Tiểu thuyết Sóng ngầm là một trong bốn tác phẩm vào chung khảo giải Goncourt 2012. Năm 2019, bà nhận được giải thưởng Hoàng tử Monaco cho sự nghiệp văn chương của mình.

– Nhà văn Linda Lê. Ảnh: Telerama.

https://california18.com/author-linda-le-has…/4538162022/

https://allnewspress.com/novelist-linda-le-has-died-at…/