Tuổi trẻ tài cao: Cậu bé 13 tuổi ở Minnesota tốt nghiệp đại học

Tuổi trẻ tài cao: Cậu bé 13 tuổi ở Minnesota tốt nghiệp đại học

April 24, 2022

Nguoi-viet

MINNEAPOLIS, Minnesota (NV) – Một cậu bé ở tiểu bang Minnesota chuẩn bị tốt nghiệp cử nhân đại học chuyên ngành vật lý và toán khi chỉ mới 13 tuổi, theo hãng thông tấn AP hôm Thứ Bảy, 23 Tháng Tư.

Sinh viên Elliott Tanner, 13 tuổi, đạt điểm trung bình (GPA) 3.78/4.0 tại Đại Học Minnesota. Em hiện đang tham gia nghiên cứu bậc đại học và dạy kèm các bạn cùng lớp.

Elliott Tanner. (Hình: Tanner Family)

Em mong muốn trở thành nhà vật lý lý thuyết năng lượng cao và sau đó thành giáo sư vật lý của trường.

“Tôi có một niềm đam mê rất lớn đối với ngành vật lý. Đó là một trong những thứ mà tôi yêu thích từ lâu nay,” Tanner cho hay.

Bà Michelle Tanner, mẹ của Elliott, cho biết em bắt đầu biết đọc và làm toán khi lên 3 tuổi.

“Những người nghe về câu chuyện của Elliott đều nói rằng thằng bé không có được thời tuổi thơ hoặc nó lớn quá nhanh. Con tôi vẫn còn là một đứa trẻ và điểm khác biệt duy nhất là thằng bé đi học ở một ngôi trường khác với bạn bè cùng lứa,” bà nói.

Ngoài việc sắp tốt nghiệp đại học, Elliott đã được nhận vào chương trình Tiến Sĩ Vật Lý của Đại Học Minnesota. Hiện ba mẹ em đang tìm cách chi trả số tiền học phí.

“Chúng tôi đang nỗ lực tìm hiểu mọi lựa chọn song đều đi đến ngõ cụt. Dù là nộp đơn xin học bổng, nghiên cứu sinh hay trợ cấp, chúng tôi đều không thành công,” bà Michelle cho hay. (V.Giang) [kn]

Cảnh sát Tây Ban Nha bắt hai nghệ sĩ từ Hà Nội vì tội hiếp dâm

Cảnh sát Tây Ban Nha bắt hai nghệ sĩ từ Hà Nội vì tội hiếp dâm

Khách sạn Andratx, nơi xảy ra sự vụ (Ảnh: Agoda)

Cảnh sát Tây Ban Nha cho hay một cô gái người Anh, 17 tuổi, đã tố cáo với cảnh sát mình bị cưỡng hiếp ở Majorca bởi hai nghệ sĩ Việt Nam (một diễn viên và một nhạc sĩ). Hai kẻ này sau khi hành sự đã bắt cô tắm rửa để làm sạch bằng chứng cuộc tấn công tình dục ngay trong khách sạn mà họ đang ở tại Andratx. Một nguồn tin của báo chí địa phương cho biết hai nghệ sĩ Việt Nam này đã bị bắt tại khách sạn vào ngày 26 Tháng Sáu, và bị cấm rời khỏi Tây Ban Nha để được điều tra.

Cô gái người Anh kể hai người đàn ông trên tiếp cận làm quen với cô ở khách sạn. Họ tự mô tả là “diễn viên và nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam”. Sau đó, vụ tấn công tình dục xảy ra. Hồ sơ cảnh sát không tiết lộ chi tiết cuộc tấn công cưỡng hiếp. Sau đó, cô gái này về, khóc và lo sợ, kể với dì của mình. DailyMail cho biết là dì của nạn nhân đã báo cảnh sát.

Tờ báo Ultima Hora phát hành trên đảo nói rằng cảnh sát sẽ chưa đưa tin về bất kỳ ai, trước khi có kết quả cuối cùng. Tuy nhiên, cảnh sát xác nhận hai người đàn ông Việt Nam là 37 và 42 tuổi. Hiện tại, cô gái người Anh được cho là đã rời hòn đảo cùng gia đình, sau khi cung cấp đủ lời khai về vụ tấn công cho cảnh sát và một thẩm phán.

Tờ Ultima Hora thuật rằng hai người đàn ông và cô gái ở trong các khách sạn riêng biệt ở khu Andratx. Nạn nhân được tiếp cận và trò chuyện tại một nhà hàng gần đó. Sau đó hai người này mời cô đến nơi mà họ đang ở, để xem một số “tác phẩm” của họ. Trước đó, cả hai người đàn ông đã đi theo cô gái đến bãi biển và bắt chuyện.

Cô gái người Anh 17 tuổi đã được các bác sĩ tại Bệnh viện Son Espases ở Palma (Mallorca) kiểm tra như một phần của quy trình điều tra-xác nhận sự việc. Ngoài việc bị cấm rời khỏi Tây Ban Nha, hai nghi phạm bị yêu cầu xuất trình hộ chiếu, nhờ đó được biết họ mang quốc tịch Việt Nam. Tờ Diario de Navarra nói rằng hai người đàn ông từ chối trả lời các câu hỏi của cảnh sát.

_________

Hai nghệ sĩ Việt Nam bị tình nghi hãm hiếp một thiếu nữ ở Tây Ban Nha là ai?  

Làm sao để cấm một bài hát?

Làm sao để cấm một bài hát?

Jackhammer Nguyễn

30-6-2022

Tác giả Nguyễn Khoa đặt câu hỏi như thế trong một bài viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trên trang Viet-Studies.

Vài ngày sau, chính quyền Việt Nam trong nước, không rõ có đọc bài viết đó hay không, nhưng dường như đã có câu trả lời. Báo Tuổi Trẻ đưa tin (nói là theo nguồn tin riêng của họ) rằng bà Khánh Ly đã bị cơ quan chức năng mời làm việc, vì bà đã cả gan hát bài “Gia tài của mẹ”, của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Cơ quan tổ chức buổi biểu diễn của bà Khánh Ly ở Đà Lạt, cũng bị mời làm việc.

Bà Khánh Ly được xem là ca sĩ hát nhiều bản nhạc của ông Trịnh Công Sơn, hát thành công nhất cho tới nay. Bài “Gia tài của mẹ”, nằm trong nhóm sáng tác Ca khúc da vàng, được xem là phản chiến của cố nhạc sĩ vào thời chiến tranh Việt Nam, trong đó có đề cập đến nội chiến, điều mà nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay không chấp nhận.

Khái niệm nội chiến là vô cùng nhạy cảm đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, đến mức một cuốn sách viết về thời Tây Sơn, trước khi Đảng Cộng sản ra đời hàng trăm năm cũng không được ghi là nội chiến khi xuất bản ở Việt Nam (quyển Nước Việt Nam thời Tây Sơn của sử gia Tạ Chí Đại Trường có tên gốc là Lịch sử nội chiến Việt Nam).

Thôi hãy cứ cho là nội chiến hay ngoại chiến là quan điểm, có thể tranh cãi, nhưng khi tôi lướt qua mấy trăm bình luận dưới bài của Nguyễn Khoa trên Facebook của Viet-Studies, thì rõ ràng là nội chiến.

Chẳng phải nội chiến hay sao khi có những phe khác nhau nhưng toàn là người Việt, sử dụng toàn là tiếng Việt, để mắng nhau, thóa mạ nhau, chẳng hề có một… “yếu tố nước ngoài” nào cả, có chăng đó là yếu tố nước ngoài Facebook, sản phẩm công nghệ của … “đế quốc Mỹ”.

Trong những cãi vả chửi bới trên trang Facebook của Viet-Studies, nổi bật lên nhóm ủng hộ chính quyền Hà Nội hiện nay, nhóm ghét ông Trịnh Công Sơn “thuộc” (!?) Việt Nam Cộng hòa, rất ít. Trong số hơn 300 bình luận (đến ngày 29/6/2022), có đến khoảng 50 bình luận là thóa mạ “đế quốc Mỹ”, phủ nhận “nội chiến”, mắng chửi tác giả, dù là tác giả đưa ra những sự việc mang tính chỉ trích cả hai bên.

Có thể là với đoạn cuối của bài viết, nói về sang chấn tâm lý dân tộc, hay là căn bệnh tinh thần có vẻ như vô phương cứu chữa của Việt Nam, tác giả đã làm cho những người ủng hộ Hà Nội, cảm thấy bất an, từ đó có một phản ứng thóa mạ, mạt sát dữ dội như thế.

Phân tích ngôn ngữ của nhóm này (tạm gọi là nhóm Hà Nội), ta thấy họ bị ảnh hưởng rất mạnh của ngôn ngữ tuyên truyền của cơ quan tuyên giáo của Đảng. Họ dùng những từ mẫu, có sẵn trong các bài viết tuyên truyền của Đảng, mà từ ông đảng trưởng là tổng bí thư cho đến viên chủ tịch xã đều dùng. Ngoài vô vàn lỗi chánh tả, lỗi ghép câu, thì nội dung cũng rất lộn xộn. Khi đọc những bình luận này ta thấy sự trộn lẫn rất thú vị của sự mạt sát, ý muốn làm nhục, tấn công (đánh, giết) người khác, của tầng lớp… “vô sản lưu manh”, với ngôn ngữ chính trị của Đảng Cộng sản, với ngôn ngữ trịch thượng “hủ nho” của các lũy tre làng.

Nếu lấy hơn 300 bình luận làm một mẫu khảo sát nhỏ thì tỷ lệ của nhóm “Hà Nội” này là 1/6, một tỷ lệ khá cao mà chế độ có thể an tâm dựa vào đó mà sống còn.

Tuy nhiên, không thể lấy cái mẫu 300 và 1/6 ấy làm đại diện cho nước Việt Nam hiện tại được, vì có hàng chục triệu nông dân Việt Nam đang lo lắng mùa màng thất bát, hàng triệu công nhân, lương chết đói, không có thì giờ đâu mà vào Facebook.

Nhưng có thể nhóm 1/6 này là nhóm gần với bộ máy của chế độ, hay là những ốc vít của bộ máy chế độ, vì thế nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc vận hành xã hội Việt Nam ngày nay.

Trở lại câu hỏi của Nguyễn Khoa, làm thế nào để cấm một bài hát. Sau vụ mời bà Khánh Lý và cơ quan tổ chức cho bà biểu diễn, tôi vẫn không thể hiểu được là liệu họ có cấm được bài hát “Gia tài của mẹ” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hay không!

Theo báo Tuổi Trẻ thì, có đến 1000 người đến nghe bà Khánh Ly hát, trong đó ắt hẳn có rất đông người đã biết bài hát ấy. Những người này hát nho nhỏ cho vợ chồng họ nghe trong nhà, trong quán cà phê cho bè bạn, chuyền tay nhau những clip kỹ thuật số, USB, chứ đâu cần những bản chép tay cồng kềnh dễ bị các viên bí thư đoàn thanh niên bắt gặp, hồi hơn 40 năm trước!

Trong bài Gia tài của mẹ, Trịnh Công Sơn hát rằng:

Gia tài của mẹ, một bọn lai căng

Mẹ mong lũ con cùng cha quên hận thù

Gia tài của mẹ, một nước Việt buồn

Đọc lại các bình luận của nhóm Hà Nội 1/6, tôi thật khâm phục sự tiên tri của ông.

Căn nhà nhỏ đơn sơ, vách đất bần cùng của hàn sỹ dị thường Hữu Loan.

Hữu Vũ, con trai Hữu Loan, ngồi bên hiên nhà của ba mình ở Nga Sơn, Thanh Hóa, sáng 25. 6. 2019

Nỗi lòng cha cô Phạm Như Quỳnh, người bị chồng cắt cổ chết ở Florida

Nỗi lòng cha cô Phạm Như Quỳnh, người bị chồng cắt cổ chết ở Florida

June 26, 2022

Đỗ Dzũng/Người Việt

NHA TRANG, Việt Nam (NV) – “Tôi mà biết con tôi bị chồng hành hạ như vậy thì tôi đã tìm cách sang Mỹ để bảo vệ nó. Tôi không biết gì cả, đến khi hay tin cháu qua đời,” ông Phạm Văn Thành, hiện sống ở Nha Trang, nói với nhật báo Người Việt qua Facetime hôm Thứ Bảy, 25 Tháng Sáu.

Cô Phạm Như Quỳnh, ngày rời phi trường Tân Sơn Nhất để đi Mỹ hồi năm 2017. (Hình: Phạm Văn Thành cung cấp)

Ông Thành là cha của cô Phạm Như Quỳnh, 22 tuổi, bị chồng là anh Xichen Yang cắt cổ chết một cách dã man hôm 21 Tháng Sáu ở Altamonte Springs, Florida.

“Từ khi tôi và mẹ cháu ly dị, tôi không biết tin gì về con gái mình. Hôm 21 Tháng Sáu, mẹ cháu cho biết, tôi rất bàng hoàng,” ông Thành nói trong nước mắt.

“Hồi năm 2018, cháu có về chơi, tôi có gặp, nhưng kể từ đó, cháu không liên lạc tôi nữa. Có lần cháu text cho tôi, nói rằng con cố gắng đi học, mai mốt về nuôi bố, tôi rất tự hào, để text lên Facebook khoe với mọi người.”

Ông Thành cho biết, ông không hề biết con gái bị chồng hành hạ.

“Tôi chỉ biết con gái mình bị chồng hành hạ sau khi cháu chết, qua mạng xã hội. Tôi thấy hình điện thoại của cháu bị đập bể, thấy đùi bị bầm dập, biết cháu từng bị chồng cho đi bộ về nhà,” ông Thành rầu rĩ nói. “Tôi mà biết chuyện thì thể nào cũng tìm cách qua đó bảo vệ cháu. Hoặc có thể tôi sẽ nói chuyện với chồng cháu, dù gì hai người đàn ông nói chuyện với nhau cũng dễ hơn.”

Ông Thành cho biết cô Quỳnh sinh năm 2000, được gia đình lo cho qua Mỹ du học hồi năm 2017.

“Lúc đó, tôi phải bán một miếng đất bố tôi để lại để lo cho cháu đi du học, không ngờ kết cuộc bi thảm như bây giờ. Thật là buồn. Mấy ngày nay tôi chỉ biết khóc. Tôi có một con chó, tối nào tôi cũng ôm nó mà khóc vì nhớ con gái mình,” người cha cô gái xấu số kể tiếp. “Có một em trai của Quỳnh, sinh năm 2002, đang học đại học, ở với tôi. Cháu nghe tin chị chết, buồn lắm, nói không biết có học tiếp nổi không.”

Ông Thành cũng kể, ông không ngờ con gái có chồng người gốc Hoa, mặc dù có người khác thích con gái ông.

“Có một cậu rất thương nó, nhưng nó lại thích anh người Hoa này. Có lần, cậu đó gọi về nói với tôi, và rất buồn. Biết sao bây giờ. Con mình nó chọn thì mình chịu thôi,” ông Thành than thở.

Ông cho biết thêm, mấy bữa nay, ngày nào ông cũng lên chùa Mẹ Lộ Thiên cầu khẩn cho thi thể con gái sớm được đưa về Việt Nam để ông nhìn mặt lần cuối. Ông cũng đang tìm nghĩa trang để chôn cất con gái.

“Cho tôi gởi lời cảm ơn tất cả cộng đồng mạng, bà con, đồng hương, chia sẻ tin tức, hỏi thăm, và hỗ trợ con gái tôi thời gian qua,” ông Thành nói thêm.

Hôm 22 Tháng Sáu, cảnh sát thành phố Altamonte Springs cho hay nghi can Xichen Yang, cư dân nơi đây, xác nhận dùng dao cắt cổ vợ, cô Phạm Như Quỳnh, ngay tại nhà của hai người, ở khu chung cư trên đường Ballard St. gần Ronald Reagan Blvd. lúc khoảng 9 giờ sáng 21 Tháng Sáu.

Theo bản tin của đài truyền hình địa phương WFTV Orlando cùng các cơ quan truyền thông khác, nghi can sau đó kéo nạn nhân vào bồn tắm, ngồi cạnh nắm tay, cho nghe bản nhạc nạn nhân ưa thích, trong khi nạn nhân chết dần.

Nghi can khai với cảnh sát rằng anh có thể không làm hành động giết người ghê gớm này, nhưng nói thêm rằng mình là kiểu người “luôn làm mọi sự tới nơi tới chốn.”

Theo hồ sơ cảnh sát, anh Yang cho biết lý do giết vợ vì cô đốt sổ thông hành của anh, và hành động trong cơn giận dữ.

Hai vợ chồng chỉ mới cưới nhau chưa được một năm.

Cảnh sát nói từng hai lần được gọi đến căn chung cư. Một lần là vì nghi can Yang “có hành động gây hại cho chính mình” khiến người vợ lo ngại. Lần thứ nhì là vì nghi can bị tố cáo đánh vào mặt vợ.

Nghi can Yang vẫn bị giam giữ để điều tra, không được tại ngoại.

Ông Phạm Văn Thành khấn vái tại chùa Mẹ Lộ Thiên, Nha Trang, mong sớm gặp con gái. (Hình: Phạm Văn Thành cung cấp)

Trong khi đó, một số người cho hay có quen biết với nạn nhân Phạm Như Quỳnh đang tổ chức quyên góp qua trang GoFundMe để có tiền trang trải chi phí đưa thi thể cô về Việt Nam, nơi cả gia đình cô đang sinh sống, theo lời người đứng ra tổ chức là anh Ryan Trần.

Một người trong số này, Trinh Nguyễn, cho biết trên trang GoFundMe rằng cô Phạm Như Quỳnh còn cha mẹ và hai người em cùng nhiều chú bác cô dì ở Việt Nam.

Cho đến Thứ Bảy, 25 Tháng Sáu, số tiền thu được là gần $30,000 so với mức mong muốn là $10,000. [kn]


Liên lạc tác giả: dodzung@nguoi-viet.com

9 tiếp viên hàng không Việt Nam bị bắt ở Úc vì chuyển tiền lậu

9 tiếp viên hàng không Việt Nam bị bắt ở Úc vì chuyển tiền lậu

June 17, 2022

Nguoi-Viet

MELBOURNE, Úc (NV) – Ba ngày sau khi trang 7 News đưa tin về “chín nghi can là tiếp viên hàng không bị bắt quả tang chuyển lậu một lượng lớn tiền mặt,” các báo ở Việt Nam hôm 17 Tháng Sáu dẫn phản hồi của hai hãng hàng không về sự việc.

Bản tin của trang 7 News không đề cập quốc tịch Việt Nam của các nghi can, nhưng tang vật sau vụ bố ráp của cảnh sát Úc tại phi trường Melbourne là 60,000 đô la Úc ($41,939) được chia nhỏ và cất giấu trong hành lý kèm theo chín cuốn sổ thông hành (passport) Việt Nam.

Tang vật vụ chuyển tiền lậu tại phi trường Melbourne, Úc, là chín cuốn sổ thông hành Việt Nam. (Hình: Chụp qua màn hình)

Vụ chuyển tiền lậu được cho là liên quan đến một đường dây vận chuyển ma túy vào Úc. Chín tiếp viên bị cáo buộc “rửa tiền.”

Liên quan vụ này, báo Dân Trí hôm 17 Tháng Sáu cho hay, hiện nay, chỉ có hai hãng hàng không Việt Nam đang khai thác đường bay thẳng thường lệ tới Úc là Vietnam Airlines và Bamboo Airways.

Theo báo này, từ Melbourne về Sài Gòn gần đây có chuyến bay VN780 của Vietnam Airlines ngày 13 Tháng Sáu và QH89 của Bamboo Airways ngày 12 Tháng Sáu.

Ông Đặng Anh Tuấn, trưởng Ban Truyền Thông của Vietnam Airlines, được dẫn lời: “Cho tới nay, các tổ bay, tiếp viên của Vietnam Airlines vẫn bay đi và về bình thường.”

Ông Tuấn cho biết thêm là Vietnam Airlines đang đề nghị nhà chức trách Úc “thông tin rõ hơn.”

Trong khi đó, đại diện hãng hàng không Bamboo Airways phủ nhận cáo buộc tiếp viên của hãng liên quan tới sự việc nêu trên.

“Mọi hoạt động của Bamboo Airways và cán bộ nhân viên hãng đều tuân thủ quy định của nhà chức trách tại Việt Nam cũng như các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ quốc tế nơi hãng có hoạt động,” theo báo Dân Trí.

Báo Zing dẫn lời một giới chức ẩn danh của Cục Hàng Không Việt Nam về sự việc: “Sơ bộ cho thấy vụ việc không quá nghiêm trọng nên các tiếp viên được về nước và nhà chức trách Úc chưa có phản hồi gì với nhà chức trách Việt Nam. Có thể chỉ là kiểm tra hành chính và nhắc nhở.”

Một nghi can bị dẫn giải trong vụ chuyển tiền lậu liên quan đến một đường dây vận chuyển ma túy tại phi trường Melbourne, Úc. (Hình: Chụp qua màn hình)

Giới chức này nói thêm, nhà chức trách Úc mời chín tiếp viên của một hãng hàng không Việt Nam vào thẩm vấn và kiểm tra, phát hiện có số lượng tiền mặt. Sau đó, tám người được bay về nước ngay trong ngày, một người về vào ngày hôm sau.

Tuy vậy, người này không nêu cụ thể đó là hãng hàng không nào của Việt Nam.

Cũng theo báo Zing, quan thuế Úc quy định mỗi người ngoại quốc nhập cảnh vào nước này không được đem quá 10,000 đô la Úc ($6,989). Sau vụ này, cơ quan quản lý tiếp viên Vietnam Airlines đã yêu cầu tất cả tiếp viên bay quốc tế không được đem quá $500 tiền mặt. (N.H.K) 

Chuyện của Sam, cậu bé gốc Việt có khuôn mặt lạ

Chuyện của Sam, cậu bé gốc Việt có khuôn mặt lạ

Gia đình tràn ngập tình yêu vĩ đại của ông bà Ettore. Sam (thứ 4 từ trái qua) trong ngày tốt nghiệp. Ảnh: Hope Ettore

Còn gần 10 phút nữa đến giờ hẹn phỏng vấn. Như mọi lần, tôi vào sớm, đăng nhập vào đường dẫn Zoom đã tạo trước để chờ đợi nhấn nút “accept.” Thế nhưng lần này, trên màn ảnh hiện ra thông báo “có người đang chờ.” Bà Hope Ettore, từ thành phố Ramona, Calif, đã chờ sẵn. Khoảng một phút sau, Samuel (Sam) Ian Ettore đến ngồi bên cạnh. Một bà mẹ Mỹ trắng bên cạnh cậu con trai Á châu. Cả hai gửi lời chào với nụ cười rạng rỡ, hạnh phúc.

Hai ngày trước, Sam làm lễ tốt nghiệp trung học và cũng là lần đầu tiên sau 18 năm, cậu nhìn thấy cha mẹ ruột của mình ở Việt Nam qua màn hình điện thoại.

Từ một giấc mơ

Năm 2005, lần đầu tiên thấy gương mặt của cậu bé Nguyễn Lê Hùng với khối thịt to trên má, che một phần mắt bên phải, toàn thân bị nhiễm da xanh, nằm lẻ loi trong trại mồ côi Gò Vấp, ông bà John Ettore và Hope Ettore đã không quay lưng bước đi. Ông bà đã làm thủ tục nhận Hùng làm con, đón em về Mỹ chữa trị, cho em một cuộc đời mới. Hùng hiện giờ là Samuel Ian Ettore – một thanh niên khoẻ mạnh, yêu đời. Khối u ác nghiệt hoàn toàn biến mất, chỉ để lại trên mặt em một dấu vết mờ, nếu không nhìn kỹ sẽ không thấy. Sức mạnh nào đã giúp ông bà tái sinh Sam một lần nữa?

Sam (bên phải) và em gái Lilah Ettore ngày tốt nghiệp trung học. Ảnh: Hope Ettore

Quay về những năm 90, bà Hope (khi đó chưa kết hôn với John Ettore) là nhà dịch tể học làm việc ở Manila, Phillippines. Tại đó, bà nhìn thấy những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong một xã hội nghèo khổ, không có bảo hiểm y tế, không có điều kiện chữa trị. Bà nhận ra sự khác biệt to lớn với Mỹ quốc của bà, nơi mà “cho dù có người rất nghèo nhưng có nhiều chương trình y tế có thể giúp họ có được bảo hiểm”. Từ đó, bà luôn nghĩ đến việc nhận một hoặc hai đứa trẻ làm con nuôi.

“Đó không chỉ là những đứa trẻ cần mái ấm gia đình mà còn cần sự chăm sóc tốt về y tế để khỏi bệnh,” bà Hope kể lại với Saigon Nhỏ qua cuộc gặp trên Zoom.

Sau khi kết hôn, bà vẫn giữ ý định này và chia sẻ với chồng mình, ông John Ettore. Vài năm sau đó, cả hai bắt đầu tìm kiếm, liên hệ với các tổ chức nhận con nuôi.“Bởi vì hầu hết người nhận con nuôi đều muốn nhận những đứa trẻ khoẻ mạnh. Họ không muốn nhận những đứa bé bệnh tật,” bà nói. Danh sách chờ xin những đứa trẻ khoẻ mạnh vì vậy mà tỉ lệ thuận với danh sách những đứa trẻ bệnh tật. Bà và chồng luôn cầu nguyện mỗi ngày.

Một đêm nọ, bà bỗng nằm mơ thấy mình đang đi bộ trên đường phố Sài Gòn.

“Điều này làm cho tôi nghĩ có lẽ đây là một điềm báo chỉ cho chúng tôi biết cần phải làm gì.”

Cuộc tìm kiếm lại tiếp tục với hướng đến là Việt Nam. Nhưng tại đây, ông bà lại gặp một trở ngại khác. Năm đó, nạn buôn bán trẻ em bùng phát. Mỹ và Việt Nam phải tạm hoãn quy chế xin con nuôi. Không nản lòng, ông bà Ettore liên lạc với ba tổ chức lớn. Một trong ba tổ chức này có một dòng chữ nhỏ ghi chú ở vị trí cuối cùng của website, đó là “Nếu bạn thật sự muốn nhận nuôi một đứa trẻ “very sick”, hãy gọi đến số điện thoại này.” Có một thoả thuận đặc biệt giữa hai quốc gia cho phép đứa trẻ đó được người Mỹ nhận nuôi vì cần chế độ chữa trị cấp bách.

Đứa trẻ đó là Nguyễn Lê Hùng, quê ở Phú Riềng. Hùng bị sinh non và có một anh em sinh đôi. Vì Hùng bị bệnh khá nặng nên cha mẹ gửi em trong trại trẻ mồ côi Gò Vấp, giữ lại người anh em song sinh. Nhiều lần cha mẹ Hùng vì nhớ con muốn đón về, nhưng vì Hùng cần phải được chăm sóc y tế, nếu không cậu sẽ khó sống được. Cha mẹ của Hùng đành gạt nước mắt để con ở lại, mong có gia đình nước ngoài nhận em về nuôi để chữa bệnh.

Bà Hope không hình dung được lời cảnh báo “đứa trẻ rất cần được chữa trị” là như thế nào cho đến khi nhìn tấm ảnh của Hùng qua email. Bà nhớ lại lúc đó đang đứng trong phòng làm việc của ông John, bà chỉ thốt lên “Wow.” Ông bà nhìn nhau và họ quyết định rất nhanh: “Chúng ta cần phải làm gì với tình trạng này? Nếu đứa trẻ này có một cơ hội nào đó, thì đó phải là ở Mỹ, nơi có chế độ chăm sóc y tế tốt nhất thế giới. Chúng ta cần phải làm điều đó.”

Sau bảy tháng làm tất cả những thủ tục hành chính cần thiết, ông bà bay sang Việt Nam. Ngày đầu tiên nhìn thấy Hùng – lúc đó 16 tháng tuổi, nằm chơ vơ trong chiếc cũi với bình sữa và cái gối bên cạnh, bà Hope đã tự nói “phải cứu đứa bé.”

Bà kể lại: “Có nhiều lời lẽ dị đoan về hình dáng bên ngoài của Sam lúc đó. Họ nghĩ những đứa trẻ như thằng bé là do hậu quả của gia đình làm gì không tốt. Và thật sự là trong trại mồ côi họ không biết cách nào để chăm sóc đứa trẻ như Sam. Họ chỉ để thằng bé nằm trong nôi, để bên cạnh là cái gối và bình sữa. Thông thường 16 tháng tuổi là đứa trẻ có thể chập chững đi, bập bẹ nói và nhận biết xung quanh. Nhưng Sam lúc đó thậm chí không tự giữ vững được đầu và cổ, vì không ai đỡ thằng bé dậy, tập cho xương cổ đủ cứng để hoạt động.”

Chặng đường tái sinh Sam

Tháng Mười Một, 2005, ông bà Ettore đón Sam về Mỹ, bắt đầu cuộc chiến giành lại cuộc sống phát triển bình thường cho Sam. Cậu bé đã trải qua tổng cộng 11 cuộc phẫu thuật, trong đó là năm lần phẫu thuật để cắt bỏ khối u trên má phải vì khối u quá lớn không thể thực hiện trong một lần.

“Họ lấy một phần sụn ở tai để tạo hình mũi cho Sam. Sam cũng phải làm phẫu thuật mắt phải để có thể nhìn thấy vì nó nằm phía sau khối u. Sau đó là rất nhiều lần chữa trị bằng tia laser để làm mịn phần da mặt. Rồi những năm dài tiếp theo là tập vật lý trị liệu về đi đứng, giọng nói, sức khoẻ…”

Bà Hope nói đến đâu, Sam ngồi bên cạnh chỉ tay vào những phần đó trên gương mặt. Em đưa thật sát mặt vào màn hình, lấy kính cận xuống để cho thấy phần mặt từng phải trải qua 11 lần phẫu thuật. Phải nhìn gần lắm mới thấy vết những vết dư tích mờ sót lại.

Vì phải trải qua những cuộc phẫu thuật và điều trị kéo dài nên Sam từng là một đứa trẻ chậm phát triển. Khoảng bốn tuổi, Sam mới biết nói. Nhiều năm liền cậu học ở một trường đặc biệt dành cho những đứa trẻ có vấn đề về phát triển như mình. Cho đến cách đây hai năm, Sam đã hoàn toàn bình phục.

“Sam tốt nghiệp lớp 12 từ một ngôi trường bình thường như những đứa trẻ khác. Mùa thu năm nay, Sam sẽ vào đại học” – Bà Hope nói, đôi mắt đầy hạnh phúc.

Chàng trai cao to, da ngăm đen rắn rỏi, chiếc kính cận làm cho cậu ra dáng một thư sinh, ngồi sát bên bà Hope. Mỗi khi muốn hỏi gì, cậu lại ghé sát tai của mẹ thì thầm như một cậu bé nhỏ. Sam cảm ơn mẹ và gia đình đã luôn ở bên cạnh mình, giúp Sam vượt qua thời gian khắc nghiệt nhất.

Đó không chỉ là những năm chiến đấu để lấy lại hình hài bình thường, mà đó còn là khoảng thời gian dài khi còn nhỏ, Sam nghĩ mình là đứa trẻ tự kỷ. Khi thấy mình phải học tập trong một ngôi trường đặc biệt, phải gặp bác sĩ thường xuyên, không giao tiếp nhiều với xã hội, Sam gọi đó là “tự kỷ.”

“Em đã từng nghĩ em không bao giờ có thể hoà nhập với xã hội, nhưng em đã vào được trường công, tốt nghiệp như một đứa trẻ bình thường, bây giờ em đã làm được điều đó. Thật là kỳ lạ,” Sam diễn giải niềm vui của mình.

14 tháng còn lại của bà Hope và cuộc điện thoại sau 18 năm

Ông bà Ettore không dấu Sam về nguồn gốc của anh. Ông bà cũng nói rõ nguyên nhân vì sao anh phải nằm lại trại trẻ mồ côi Gò Vấp. Ngoài Sam, ông bà Ettore còn một cậu con trai nuôi tên Josiah. Mẹ của Josiah chết vì bệnh lao. Josiah được ông bà Ettore nhận nuôi từ một trại trẻ mồ côi ở Ethiopia. Dù bị mất một chân, Josiah vẫn giành chức vô địch tiểu bang môn “adaptive track.”

Josiah và cha mẹ nuôi, ông Ettore. Ảnh: Hope Ettore

Bà Ettore đã thực hiện đúng mong mỏi của bà thời còn trẻ – nhận nuôi một, hoặc hai đứa trẻ cần sự giúp đỡ về điều kiện y tế. Ông bà không chỉ tái sinh cuộc đời của Sam, của Josiah mà còn trả về cho cả hai nguồn gốc của họ. Hai năm trước, ông bà đã tìm được cha ruột của Josiah nên cũng có niềm tin sẽ tìm được cha mẹ ruột của Sam.

Ngoài niềm tin đó, bà Hope còn một lý do khác, đó là vào Thứ Hai tuần trước, bác sĩ chuyên khoa ung thư cho bà biết bà chỉ còn khoảng 14 tháng để chống lại những di căn đã vào xương. Bà phát hiện mình bị ung thư ngực năm 2015. Những tưởng đã qua khỏi, nhưng đến 2019 căn bệnh tái phát và nặng hơn. “Đến 2020, 2021 là giai đoạn bốn,” bà nói.

“Trung bình thời gian cho người bị ung thư vú bộ ba âm tính như tôi là hai năm. Những di chứng của loại bệnh này tập trung ở xương. Điều đó chẳng tốt hơn là nó đi vào não, vào gan chúng ta sao? Tôi rất đau đớn nhưng có thể tôi sẽ sống lâu hơn hai năm thì sao? Tôi luôn lạc quan. Tôi có nhiều kế hoạch để thực hiện. Tôi sẽ tiếp tục cuộc sống của mình. Tôi không chỉ ngồi đây và đợi cho đến khi chết,” bà Hope nói với nụ cười và ánh mắt đầy sức mạnh.

Sam ngồi kế bên, choàng tay ôm vai mẹ. Lúc này, nhìn Sam như một dũng sĩ luôn cận kề bảo vệ cho mẹ trong mọi tình huống. Sam nói anh ước mơ trở thành đầu bếp. Sam thích nấu ăn. Thời gian bà Hope chống chọi với ung thư ngực, Sam là bác sĩ dinh dưỡng tuyệt vời của bà.

Một trong những kế hoạch của bà Hope là tìm lại cha mẹ ruột cho Sam. Bà đã làm được điều đó. Như một phép màu nhiệm, câu chuyện của bà Hope kể cho người bạn Mỹ gốc Việt thời đại học đăng tải bằng tiếng Việt trên mạng xã hội. Bà kể: “Một phụ nữ Việt ở Seattle chia sẻ lại. Dì của người này, sống ở Phú Riềng, đọc được và nhận ra vì cha mẹ của Sam đang làm việc cho người này.”

Thế là sau vài cuộc gọi vượt đại dương, xuyên tiểu bang California – Seattle – Vietnam, bà Hope đã tìm lại được cha mẹ ruột của Samuel.

Ngày Sam tốt nghiệp trung học, cũng là ngày anh được nhìn và nói chuyện với cha mẹ ruột của mình ở Việt Nam. Đó là món quà 18 tuổi tuyệt vời ông bà Ettore dành cho đứa con trai nuôi của mình. Tạm biệt bà Hope và Sam, tôi chúc mừng anh có một gia đình tràn ngập tình yêu. Sam nói: “Bây giờ tôi có hai gia đình.”

Nếu tạo hoá có quyền định sẵn hoặc an bài tất cả những gì không nằm trong lòng bàn tay của con người, thì đó gọi là duyên phận. Một trong duyên phận đó, chính là sự sắp đặt để vợ chồng ông bà John Ettore nhìn thấy tấm ảnh của cậu bé tám tháng tuổi Nguyễn Lê Hùng – Samuel Ettore. Lúc đó Hùng trong một hình hài và một sức khoẻ mà trại trẻ mồ côi ở quận Gò Vấp đã báo trước: “Ai gặp một lần cũng không trở lại.

BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC, giáo sư Hoàng Xuân Hãn…

Nhân việc mỗi năm thay đổi bộ sách GK mới, nhớ đến BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC TRONG CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM 1945

————

Người trong hình là giáo sư Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và mỹ thuật của chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945. Thành tựu của cụ trong 4 tháng làm Bộ trưởng ngắn ngủi là làm ra cho nước ta chương trình trung học đầu tiên dạy bằng Việt ngữ. Cụ cũng là người làm ra cuốn sách các danh từ khoa học bằng tiếng Việt đầu tiên giúp người Việt có các từ này để sử dụng tới bây giờ.

Cụ Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908, quê làng Yên Hồ, huyện La Sơn, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Thuở nhỏ cụ học chữ Hán và chữ Quốc ngữ tại nhà. 18 tuổi, cụ đậu bằng Thành chung, ra HN học trung học tại trường Bưởi, sau đó 19 tuổi cụ chuyển qua học Toán ở trường Lycée Albert Sarraut. Một năm sau, cụ đỗ thủ khoa tú tài toàn phần Pháp và nhận học bổng qua Pháp học. Cụ theo học tại trường Bách khoa Paris, sau đó học trường École Nationale des Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris). Từ năm 1934 đến năm 1936 Hoàng Xuân Hãn trở lại Pháp sau 4 tháng về nước, học và đậu cử nhân toán 1935 và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne.

Học cao hiểu rộng, năm 1936 cụ về nước dạy trường Bưởi, hoàn tất cuốn Danh từ khoa học đầu tiên của VN, “một công trình rất đặc sắc để “khai đường mở lối” cho nền học thuật bằng tiếng Việt và chữ Quốc ngữ. Năm 1942, sách ra đời. Năm 1943, Hội Khuyến học Nam kỳ (SAMIPIC) tặng giải thưởng” (theo giáo sư Nguyễn Đình Đầu)

Năm 1945, cụ được mời là Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật đầu tiên của chính phủ Trần Trọng Kim.

Vừa nhậm chức, nhận thấy chương trình trung học ở ta khi đó còn dạy theo lối Pháp, giáo sư Hoàng Xuân Hãn liền họp các giáo sư trung học và yêu cầu lập chung một chương trình có tính cách hoàn toàn quốc gia Việt Nam.

Cụ kể lại “Tôi tự đặt ra một số nguyên tắc mới, mà sau này chính chương trình Trung học Pháp cũng theo (như vượt lên về toán, lý, hóa, bỏ chia trung học ra hai phần. . .). Chính tôi đã đặt ra những từ: Phổ thông và Chuyên khoa. Nhất là như tôi đã nói, tôi thấy về văn học ta thiếu những người học sâu về cổ văn, để hiểu và dạy quốc văn nghiêm túc, và nhận văn bản đúng hay sai. Vì lẽ ấy tôi đã đặt Ban chuyên khoa cổ văn như trong các chương trình Âu châu. Trong những người có công lớn trong việc cải cách, có Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Huy Bảo, Đoàn Nồng, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Nguyễn Dương Đôn… Cuối tháng 6, lần đầu mở kỳ thi trung học bằng tiếng Việt tại Huế. Những bài làm rất tốt, kể cả bài thi triết học”.

Chương trình trung học của Hoàng Xuân Hãn được các Bộ Giáo dục VNDCCH và VNCH áp dụng rất lâu. Mà nơi lâu nhất là VNCH dùng tới 1972. Các chương trình sau đó có cải cách nhưng vẫn nằm cơ bản trong nền tảng của chương trình này.

Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, Hoàng Xuân Hãn trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội. Sau 1945, ông tham gia phong trào diệt giặc dốt và nghĩ ra phương pháp học chữ Quốc ngữ rất mau, viết trong 1 cuốn sách của ông. Cuốn sách này đã giúp người mù chữ chỉ sau 3-6 tháng thì đọc thông viết thạo.

Nhận xét về giáo sư Hoàng Xuân Hãn, giáo sư Nguyễn Đình Đầu viết: “Ông đã có công lớn trong việc dùng tiếng Việt và chữ Việt ở mọi cấp bậc học ở nước ta: Chúng ta không còn phải mượn tiếng người, chữ người nữa, tiếng Việt là vấn đề khỏi bàn, còn chữ Việt đây là chữ Quốc ngữ La tinh hóa. Ông đã mổ xẻ Quốc ngữ ra từng chữ i chữ tờ rồi đề nghị mở rộng cách ghi âm Quốc ngữ làm cho tiếng Việt phong phú hơn, đặc biệt về mặt khoa học.

Ông rút kinh nghiệm của cả Tàu lẫn Nhật. Ông dịch các danh từ khoa học thông thường như Tàu. Ông phiên âm các danh từ khoa học chuyên môn như Nhật. Song với chữ Quốc ngữ La tinh hóa, thì việc Phiên âm các danh từ khoa học chuyên môn – mà đa số là tiếng La tinh rồi – được thuận tiện hơn tiếng Nhật và chữ Nhật nhiều. Từ dạng chữ đến cách đọc Việt Nam sẽ rất gần với cách ghi âm và phát âm quốc tế. Ông lại phục sinh nền quốc học và cho gắn liền với chương trình giáo dục. Việc đào tạo nhân cách Việt Nam phải bắt đầu bằng tiếng ta, chữ ta, văn hóa ta. Ông không chỉ sáng tạo Danh từ khoa học, chỉ đặt Chương trình Trung học, mà còn trước tác rất nhiều công trình khoa học có giá trị lớn để làm mẫu mực cho việc giáo dục và quốc học nước ta. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có công lớn lắm vậy”.

Cụ Hoàng Xuân Hãn năm 1951 quay lại Paris sinh sống và học tiếp để trở thành kỹ sư nguyên tử. Cụ tiếp tục nghiên cứu về văn hóa VN. Năm 1996, cụ mất tại Paris. Tháng 8 năm 2011, Trường Đại học Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris), một trong những đại học có uy tín hàng đầu của Pháp đã chọn giáo sư Hoàng Xuân Hãn đặt tên cho giảng đường đại học thuộc trường. Trước đó, nhân kỷ niệm 100 năm truyền thống Trường Cầu đường Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Nhà trường vinh danh là một trong 100 sinh viên tiêu biểu nhất trong lịch sử của Trường.

Thật kính trọng tài năng và đức độ của cụ. Chỉ 4 tháng ngắn ngủi trong cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục, cụ đã làm được những việc vô cùng ý nghĩa cho nền giáo dục của đất nước.

FB Hùng Đinh

NA UY – NHỮNG DẤU CHÂN LƯU LẠC – Phạm Tín An Ninh

Kimtrong Lam   Lương Văn Can 75.

Nhà văn Phạm Tín An Ninh

Trong hình là hai vợ chồng nhà văn Phạm Tín An Ninh và sáu đứa con tại Trại Hawkins Road, Singgapore sau khi vượt biên thoát khỏi Việt Nam trong thập niên 80. Nhà văn Phạm Tín An Ninh vừa là huynh trưởng vừa là chiến hữu với tôi cùng màu cờ sắc áo trong quân đội VNCH. Bà xã anh Phạm Tín An Ninh tên Trương Thu Thức là bạn học cùng lớp cùng trường thời trung học tại trường Trần Bình Trọng Ninh Hoà với tôi . Nhìn hình thấy bà bạn của mình mới bây lớn mà có tới sáu đứa con cao gần ngang vai thật là đáng nể . Chắc trong thời chiến tranh đơn vị của anh bị việt cộng pháo kích quấy rối ngủ không được nên mới nhiều con như thế. Tại hạ xin bái phục bà bạn của mình

Nhà văn Phạm Tín An Ninh là tác giả của những tác phẩm : Ở Cuối Hai Con Đường – Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân – Sau Cuộc Biển Dâu rất nổi tiếng nơi hải ngoại. Trong những câu chuyện anh viết giống như thể anh đang bơi giữa dòng sông đầy cánh lục bình . Anh quơ tay gom lại nhưng vì hai tay ngắn quá nên vẫn còn nhiều đám lục bình trôi dật dờ quanh đây nên sức anh gom không xuễ . Tôi bắt gặp những niềm đau man mác của chính tôi giống như là tất cả những uẩn khúc trong lòng được anh thấu hiểu mặc dù truyện của anh được kết nối từ những mãng sống trôi trên dòng đời của chính anh

Mời quý bạn đọc bài viết mới nhất của anh viết về Na Uy quê hương thứ hai của mình

NA UY – NHỮNG DẤU CHÂN LƯU LẠC
Phạm Tín An Ninh

Như vậy là tôi sẽ phải rời xa Na-Uy, đất nước đã cưu mang tôi và sẽ còn mãi in đậm những dấu chân tôi trong cả một quãng đời hơn 30 năm lưu lạc? Cũng như tâm trạng của những ngày tìm cách vượt biên, rời khỏi Việt Nam, nơi chôn nhau cắt rốn, câu hỏi này đã làm tôi ưu tư trằn trọc nhiều đêm, như sắp phải cắt đi một phần máu thịt ràng buộc với chính sự sống của mình.

Sau bậc trung học ở Na-Uy, bốn đứa con lần lượt được học bổng sang Mỹ du học từ năm 1990. Có việc làm sau khi tốt nghiệp, nên ba cháu đã chọn ở lại đây lập nghiệp và trở thành công dân Mỹ, mong muốn bảo lãnh cha mẹ, khi về hưu, sang sống với các cháu những năm cuối đời, và với khí hậu ấm áp của vùng biển Cali sẽ làm người già đỡ căn bệnh đau nhức các khớp xương khi mùa đông Bắc Âu mang cái lạnh trở về. Mấy năm nay, sau khi về hưu, chúng tôi cũng chỉ sang Cali ở với các con sáu tháng mùa đông, còn sáu tháng mùa hè về lại với Na-Uy. Vậy mà trong những ngày mùa đông nắng ấm Cali, tôi vẫn da diết nhớ về Na-Uy với cả khung trời ngập đầy tuyết trắng, những hàng cây trước nhà, vào đêm Giáng Sinh, đóng băng, trở thành những cây thủy tinh lung linh dưới ánh đèn đường. Tôi nhớ cả cái không khí yên bình tĩnh mịch và những người bản xứ láng giềng tốt bụng. Nhiều lúc tôi ngồi bất động, thả hồn về Na-Uy, tìm lại từng dấu chân lưu lạc của mình.

Hơn ba mươi năm trước, khi phải đành lòng bỏ lại quê hương, bao nhiêu người thân và mồ mả cha mẹ ông bà, ra đi trên chiếc thuyền đánh cá mong manh, cũng như rất nhiều người, tôi không hề nghĩ là mình sẽ đến một đất nước xa lạ có tên Na-uy. Cái tên Norway, Norvège, tôi chỉ nhớ loáng thoáng qua phim The Vikings mà tôi đã xem qua lúc còn đi học, và cái giải Nobel Hòa Bình năm 1973 trao lầm cho Kissinger – Lê Đức Thọ, đã từng gây cho tôi cái ác cảm với đất nước xa xăm lạ lẫm này. Đặc biệt, năm 1978, khi đang ở tù ngoài Yên Bái, nhân một ngày lễ lớn của Cộng sản, tổ tù chúng tôi được phát một hộp thịt cá voi. Thấy ngoài hộp thiếc có ghi “Made in Norway”, bọn tôi càng ghét thêm cái tên này, vì nghĩ đó là một quốc gia thân Cộng

Chiếc thuyền nhỏ chở theo 52 người, gần một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Cả bầu trời phủ kín mây đen. Những ngọn sóng bạc đầu từ trên cao phủ xuống, như muốn nuốt chửng con thuyền nhỏ mong manh. Mệnh số 52 con người chỉ còn biết phó thác cho trời nước mênh mông. Bóng tối tử thần bủa vây khắp phía. Con thuyền bây giờ như cánh bướm nhỏ rơi giữa dòng thác lũ, chìm xuống ngoi lên tả tơi, thoi thóp. Chưa khi nào con người lại quá nhỏ bé và bất lực trước thiên nhiên như lúc này đây. Người điều khiển chiếc thuyền là anh bạn tù, một sĩ quan Hải Quân trước 75. Dù từng làm hạm trưởng, giàu kinh nghiệm hải hành, nhưng bây giờ chỉ còn biết cố giữ cho chiếc thuyền không nằm ngang để bị sóng đánh vỡ. Khả năng đó trong lúc này đã là một điều tuyệt vời, nhưng lại quá nhỏ nhoi trước sức mạnh của phong ba. Đám thanh niên thi nhau tát nước tràn vào liên tục có lúc gần ngập cả con thuyền. Chỉ sau một ngày đêm, tất cả đều mệt lã, đuối sức. Mọi người chỉ còn biết nhắm mắt, miệng lâm râm lời cầu nguyện. Bất ngờ có người hét lên và chỉ ra phía trước mặt. Tất cả nhốn nháo nhìn về hướng ấy. Một cái gì to lớn màu đỏ chói chập chờn xuất hiện giữa trùng khơi sóng gió. Mới đầu chỉ thấy mấy cái bồn lớn, tưởng như những cây trụ cao to trong một ngôi chùa vĩ đại, cho mọi người cái cảm giác như đang ở trên một thế giới nào đó, huyễn hoặc, mơ hồ. Khi nhận ra chiêc tàu thật lớn, ai cũng thầm nghĩ là có điều gì màu nhiệm được Thượng Đế gởi đến để cứu vớt chúng tôi trong cơn khốn nguy tuyệt vọng.

(Tàu chở dầu Høegh Grandia cứu vớt chúng tôi trên biển Đông)

Chiếc tàu mang cái tên với vài mẫu tự rất lạ (Høegh). Có người nghĩ là chữ Nga. Nhưng trong hoàn cảnh này dù là tàu nước nào, cũng phải sống trước đã. Nhưng khi chúng tôi cố gắng cho thuyền đến gần tàu, thì họ lại tránh ra xa. Bao lần như vậy làm chúng tôi thất vọng và thầm oán trách. Nhưng cuối cùng chiếc tàu ngừng hẳn lại, hụ còi làm dấu hiệu cho thuyền chúng tôi chạy đến. Khi chiếc thuyền con cặp vào thành tàu cao chót vót, một số thủy thủ trên tàu thòng những chiếc thang giây và đu mình xuống để bồng những đứa con nít hoặc cõng trên vai những người đàn bà yếu mệt lên tàu. Một số khác, có cả vài người đàn bà, đứng trên thành tàu, đưa tay đón lấy từng người. Chúng tôi đã nhận ra đây phải là những con người từ tâm, đến từ một quốc gia giàu lòng nhân đạo.

Tôi và anh bạn Hải Quân là hai người cuối cùng lên tàu. Khi nói chuyện với vị thuyền phó, được biết chiếc tàu này thuộc Vương Quốc Na-Uy (Kingdom Of Norway) và đang trên hải trình công tác chở dầu từ Nhật sang Singapore. Và cơn bão chỉ mới bắt đầu. Trận bão chính khuya nay mới tới. Nếu tàu không vớt, chắc chắn chúng tôi không thể nào sống sót qua đêm nay. Ông cũng cho biết sở dĩ ông không cho chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi lại gần khi tàu lớn đang chạy, vì lo ngại thuyền sẽ bị nhận chìm bởi sóng từ chiếc tàu lớn tạo ra, nên ông phải cho tàu dừng hẳn lại trước khi cho chúng tôi cặp vào

Chúng tôi đem tặng cho ông thuyền trưởng chiếc hải bàn, nói lời cám ơn và để làm kỷ niệm. Ông đưa hai chúng tôi ra sàn tàu để chứng kiến và từ biệt chiếc thuyền con, khi ông cho nhận chìm bằng cách cho rú mạnh máy tàu. Đứng nghiêm đưa tay chào vĩnh biệt, lòng chúng tôi thật bùi ngùi, khi nghĩ là chiếc thuyền mong manh ấy đã đưa chúng tôi vượt bao sóng gió, từng chạm mặt với tử thần, nhưng cuối cùng tất cả chúng tôi đã được an bình để tới bến bờ, còn chiếc thuyền thì lại bị nhận chìm vào đáy của đại dương . Và cũng kể từ giờ phút ấy, hai tiếng Na-Uy gắn liên với phần đời còn lại của chúng tôi

Sau khi tắm rửa xong, đám đàn ông con trai thì được phát cho những bộ quần áo kaki màu vàng của thủy thủ, phụ nữ thì những chiếc áo blue trắng của các cô y tá. Còn đám con nít thì được áo thun đủ màu và quần short. Chúng tôi được đưa xuống các phòng ngủ nghỉ ngơi, và chiều hôm đó được ăn một bữa cơm Tây thịnh soạn. Vị thuyền trưởng cho biết là sẽ đưa chúng tôi sang gởi tại trại tị nạn Singapore, và cho mỗi người được gởi ba cái điện tín về ba địa chỉ khác nhau để báo tin cho gia đình. Ông còn cho biết thêm, trước đây chiếc tàu này do ông làm hạm trưởng cũng đã từng cứu vớt bốn chiếc thuyền tỵ nạn từ Việt Nam. Đọc danh sách những thuyền nhân trong bốn chiếc thuyền này, hầu hết phát xuất từ miền Tây, chúng tôi không nhận ra có người quen biết.
Hai ngày đêm trên tàu với chúng tôi là cả một thiên đường. Mặc dù bên ngoài, cơn bão cấp sáu nhiều lúc làm con tàu lắc lư, nhưng trên tàu chúng tôi cảm thấy thật yên ả hạnh phúc. Chúng tôi được bác sĩ khám bệnh, cấp thuốc, ăn uống thịnh soạn Đám con nít có quà, bắt đầu đừa giỡn, vui chơi.

Đêm cuối cùng, ông thuyền trưởng mong muốn có một buổi cơm chung với tất cả thủy thủ trên tàu cùng những người tỵ nạn. Chúng tôi thành lập một tổ nhà bếp. Họ cung cấp mọi thực phẩm theo yêu cầu. Một bữa ăn với thực đơn hoàn toàn Việt Nam. Vừa thích thú vừa cảm động.

Sau hơn hai ngày đêm, tàu cặp vào cảng Singapore. Tất cả thủy thủ đoàn đứng thành hai hàng dài từ đài chỉ huy xuống tận cầu tàu, bắt tay và ôm từng người chúng tôi tiễn biệt. Nhiều người đã bật khóc. Tôi vừa cảm động vừa đau đớn trong lòng. Cảm động vì phải chia tay những ân nhân của mình, nhưng đau đớn vì nghĩ họ là những người xa lạ, không cùng ngôn ngữ, màu da màu tóc, mà đã cứu vớt, hết lòng yêu thương lo lắng cho chúng tôi, trong lúc những người anh em cùng một nhà lại thẳng tay đàn áp hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng, đến nỗi phải đánh đổi cả mạng sống để bỏ nước ra đi. Nếu không có chiếc tàu Na-Uy này cứu vớt, chắc chắn 52 người chúng tôi đã bỏ mình trên biển khơi, cũng giống như hàng trăm ngàn người bất hạnh khác, không một ai hay biết.

Chúng tôi được gởi vào trại tị nạn Hawkins Road, một doanh trại cũ của quân đội Anh tại Singapore. Tòa đại sứ Na-Uy tại đây đến thăm nom, chăm sóc và gởi hai cô giáo thiện nguyện đến để sinh hoạt và dạy ngôn ngữ Na-Uy. Sau ba tháng, chúng tôi được chuyển sang trại chuyển tiếp Bataan ở Phi Luật Tân. Trại chia ra 9 Vùng. Riêng Vùng I được dành cho những người được tàu Na-uy vớt, và hầu hết sẽ đi định cư tại Na-Uy. Ông Đại sứ Na-Uy tại Phi Luật Tân thường xuyên đến thăm nom giúp đỡ chúng tôi. Có lẽ không có một vị đại sứ nào hiền lành, phúc hậu, và bình dị như ông đại sứ Na-Uy này. Một toán cô thầy giáo được chọn lọc, từ Na-Uy sang để dạy tiếng Na-Uy cũng như hướng dẫn chúng tôi về lịch sữ, địa lý, văn hóa, tập quán và nhiều hiểu biết khác về xã hội và đất nước này. Một số người tỵ nạn được chọn ra, học riêng thêm một số giờ, để làm phụ giảng và thông dịch.Tôi là một trong vài người may mắn được chọn

(Ông Đại Sứ – bà Bộ Trưởng Xã Hội và bà Giám Đốc Sở Tỵ Nạn NaUy đến thăm viếng chúng tôi tại Bataan -Philippine)

Sau tám tháng, chúng tôi lần lượt được đưa sang định cư chính thức tại Na-Uy. Gia đình tôi lúc ấy có 10 người, gồm vợ chồng tôi, 6 đứa con và 2 đứa cháu, đến phi trường Fornebu Oslo vào buổi chiều cuối hè. Trời nắng đẹp. Chúng tôi được hai người đàn bà thuộc văn phòng Thư ký Tỵ nạn và Phòng Xã Hội kommune Skedsmo, địa hạt nơi tôi đến định cư, đón chúng tôi tại khu nhận hành lý của phi trường. Khi bước ra cổng, tôi được một số phóng viên báo chí và đài truyền hình phỏng vấn. Hai người đàn bà mời gia đình chúng tôi đến ăn tại một nhà hàng Tàu. Khi về đến nhà, bất ngờ chúng tôi thấy các phóng viên lúc nãy đang chờ trước cổng. Căn nhà rộng, loại rekkehus (townhouse) hai tầng, có cả sân trước sân sau được trồng hoa và lát cỏ, trang bị đầy đủ nội thất, có cả một TV mới và trong tủ lạnh đầy đủ thức ăn nước uống. Các phóng viên mời chúng tôi vào phòng khách, vừa uống cà phê vừa để họ quay phim, chụp hình và phỏng vấn. Họ hỏi về nhiều đề tài, đặc biệt là chiến tranh Việt Nam và chuyện tù đày, khổ ải của người miền Nam sau ngày VNCH thất thủ vào tay Cộng Sản, cùng cảm tưởng khi đến Na-Uy. Với mớ vốn liếng tiếng Na-Uy và cả tiếng Anh ít ỏi, tôi cố gắng trình bày và chỉ hy vọng họ hiểu được những điều chính yếu mà mình muốn nói. Trước khi từ giả, mọi người đều cảm động ôm lấy chúng tôi cùng với những lời chúc tốt lành cho một đời sống mới. Tôi rất ngạc nhiên, khi bà Trưởng Phòng Tỵ Nạn đưa chúng tôi một xâu chìa khóa, và trao cho chúng tôi tờ giấy chủ quyền ngôi nhà, mà bà cho biết kommune đã đứng ra mượn tiền mua trước, và họ sẽ trả mọi thứ tiền cho đến khi nào chúng tôi đi làm và có khả năng tự trả được. (Vì họ được mượn từ quỹ gia cư của chính phủ nên tiền lời rất thấp)

Buổi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần trước cái TV. Thằng con trai lớn ra điều mới học được văn minh, bấm tới bấm lui tìm đài. Cả đám bất ngờ nhìn thấy dung nhan của mình trên màn ảnh. Thì ra chương trình phóng sự. Họ đang kể về gia đình chúng tôi: “những công dân mới của Na Uy, mà ông bố đã từng ở tù nhiều năm, giống nhiều người Na Uy bị nhốt trong các trại cải tạo của Đức quốc xã, cái thời Hitler làm mưa làm gió ở Âu Châu, và đã can đảm dắt theo mấy đứa con nhỏ vượt đại dương trên một chiếc thuyền đánh cá mong manh”. Nghe họ ca ngợi mình mà tôi xấu hổ. Dù gì tôi cũng là kẻ bỏ nước tha phương, với họ ít nhiều gì cũng là một cành tầm gởi. Còn chuyện vượt biển, vượt biên, đến bước đường cùng thì ai cũng phải liều mạng thế thôi, chứ có hàng triệu người còn can đảm gấp vạn lần tôi. Nhiều người đi bằng đường bộ, trèo núi, băng rừng, lội suối, bơi sông, qua Cam Bốt, Thái Lan, sống chết với bọn hải tặc, để vài năm sau mới đến được Singapore. Và dĩ nhiên đã có biết bao nhiêu người chẳng bao giờ tới bến.

Khi cả nhà ngủ vùi sau hai ngày di chuyển mệt nhọc (từ trại Bataan đến Manila và từ Manila đến Na-Uy), tôi một mình xuống ngồi ở phòng khách, suy nghĩ thật nhiều về những tháng ngày sắp tới, ưu tư cho chính bản thân mình và nhất là đám con nhỏ dại, sẽ lớn lên và chấp nhận xứ sở xa lạ này như một quê hương mới. Nước mắt tôi bỗng trào ra khi nghĩ đến quê nhà, hồi tưởng một quá khứ có quá nhiều biến đổi thăng trầm và mất mát, dù đã xa khuất sau lưng, nhưng chắc chắn mãi mãi không thể nào mờ nhạt. Tôi cũng nghĩ tới thân phận của những người bạn tù còn ở lại,rồi cuộc đời sẽ không biết ra sao. Thầm cầu mong cho họ sẽ gặp được nhiều may mắn.

(Ngày mới đến thị xã Skjetten – thuộc Kommune Skedsmo -NaUy)

Hôm nay, cả gia đình tôi đang ở trên một đất nước tận vùng Bắc Âu xa lạ để gầy dựng lại cuộc đời. Các đứa con thơ dại sẽ lớn lên ở đây. Tất cả sẽ bắt đầu học ngôn ngữ mới, tập quán mới. Tôi thực sự đã mất quê hương. Tất cả, nếu có còn chỉ nằm sâu một nơi nào trong tâm tưởng. Nhưng chúng tôi may mắn được đất nước này mở rộng vòng tay, để được nhận nơi đây làm quê hương mới. Cái diễm phúc ấy hy vọng sẽ xoa dịu vết thương còn đang đau đớn trong lòng, mà tôi biết sẽ mãi mãi không bao giờ lành được. Sáng hôm sau, bà trưởng phòng tỵ nạn trở lại thăm chúng tôi, dắt theo hai người đàn bà khác, mà bà giới thiệu là đến từ phòng giáo dục và phòng xã hội Thị Xã. Hai người sẽ đến thăm gia đình tôi thường xuyên trong hai tuần, để lo việc học hành cho các con, đưa chúng tôi đi khám bệnh, làm răng và sắm sửa thêm những gia dụng theo nhu cầu. Bà đưa tôi đến một ngân hàng gần nhà, mở cho tôi một trương mục, bỏ vào đó tiền ăn và mọi khoản chi tiêu dành cho gia đình chúng tôi trong hai tháng đầu. Sau đó, bà sẽ gởi tiếp, nhưng bà dặn bất cứ khi nào cần cứ ra rút tiền. Và nếu tiền hết vì bà chưa kịp gởi vào, ngân hàng này sẽ phải ứng trước theo giao ước của bà.

Thêm một điều rất may mắn cho tôi. Thời gian ở trại tị nạn, tôi đã được các thầy cô giáo dạy riêng thêm ngôn ngữ Na-Uy để giúp làm phụ giảng và thông dịch, nên khi sang Na-Uy tôi đã có một ít vốn liếng tiếng Na-Uy, dù chưa thông thạo lắm. Ngày đầu tiên khi chúng tôi cùng một số gia đình tỵ nạn khác được bà Trưởng Phòng Tỵ Nạn đưa đến Phòng Cảnh Sát Ngoại Kiều Thị Xã để được phỏng vấn làm thủ tục di trú. Vào giờ chót người thông dịch không đến được, nên tôi đã tình nguyện đứng ra giúp. Không ngờ đó lại là một cơ hội cho tôi sau này. Tôi được giới thiệu theo học khóa “Ngôn ngữ Mùa Hè” tại Đại Học Oslo. Sau đó được làm thông dịch cho Văn Phòng Xã Hội và Phòng Cảnh Sát, và được gởi theo học một khóa tài chánh kế toán trong 13 tháng, mà đa số học viên là những công chức hoặc nhân viên của các phòng sở, công ty gởi đến. Biết thân phận là người tị nạn, nên tôi cố gắng hết sức để theo kịp, nên khi mãn khóa nhận được chứng chỉ với số điểm ưu hạng.

Khi cả nhà đang hái dâu ở vùng Drammen, vừa tiêu khiển vừa kiếm thêm tiền gởi vể Việt Nam giúp cha mẹ vợ, bà cô, cùng một số bạn tù ngày trước, tôi nhận được thư của kommune thu nhận tôi làm việc tại Kommune Kasseren (Phòng Tài Chánh Thị Xã) trong một năm. Công việc thật nhàn nhã, nên tôi được phép đi làm thông dịch thêm theo yêu cầu của các cơ quan khác và được nhận thêm tiền trả riêng. Đặc biệt việc di chuyển đều được dùng Taxi do cơ quan ấy đài thọ. Có những ngày chẳng có việc gì làm, tôi lại ngồi đọc sách để học thêm ngôn ngữ mới. Sau một năm, tôi nôp đơn xin theo học và làm trong ngành Ngân hàng Bưu Điện (Postbanken) cho đến ngày về hưu

(Ba đồng nghiệp thân thiết nhất tại Postbanken – Anita – Reidun và Guldhaug)

Đến Na-Uy tôi mới biết đây là một Vương quốc có dân số chỉ hơn bốn triệu rưởi, nhưng đời sống khá cao và giàu lòng nhân đạo. Gia đình tôi được chăm lo đủ thứ. Tiền phụ cấp hằng tháng quá đầy đủ. Với chúng tôi có thể nói là thừa thãi. Ngay sau khi học xong, tôi được việc làm. Khi đi học vẫn được nhận đủ lương lại còn thêm phụ cấp. Vơ tôi được đi học thêm ngôn ngữ tại một trường trung học dành cho người lớn và sau đó học nghề tại trung tấm huấn nghệ dành cho người tỵ nạn, và ngay sau khi học xong cũng cnhận dược việc làm chuyên môn về điện tử tại Siemens, một công ty lớn của Đức. Lương bỗng hằng tháng của hai vợ chồng cộng lại chỉ hơn một nửa số tiến trợ cấp trước kia. Phòng Xã Hội có nhã ý giúp chúng tôi thêm vì có đông con, nhưng chúng tôi từ chối vì thấy đã đủ trả mọi chi phí cho đời sống gia đình. Điều thú vị hơn, đất nước này gồm rừng núi, sông hồ thơ mộng và quanh năm tĩnh mịch, thích hợp với những người cần sự yên tĩnh để chữa nhiều vết thương trong lòng còn đang đau đớn như tôi.

Mùa đông đầu tiên, khi tuyết bắt đầu rơi trắng bầu trời, chúng tôi được cấp áo quần, dụng cụ trượt tuyết, và có người đến dạy các con tôi trượt tuyết. Sau một năm, trong một kỳ thi dành cho tuổi thiếu niên, cậu con trai út của tôi được lãnh cúp hạng nhất, trở thành cậu bé trượt tuyết có tiếng trong vùng.Sau đó, chúng tôi còn được biết thêm, Nauy là quốc gia thường chiếm nhiều huy chương vàng nhất tại các Thế Vận Hội Mùa Đông.

(Huy Vinh trượt tuyết giỏi nhất giải thiếu nhi và em gái Ngọc Quỳnh)

Định cư được hơn ba năm. Lúc kinh tế gia đình và việc học hành của mấy đứa con tạm ổn định, hơn nữa các con đã lớn cần một ngôi nhà rộng rãi có đủ phòng ốc hơn, chúng tôi quyết định mua một ngôi nhà lớn nằm dưới thung lũng nhỏ Harabakken, bên bờ sông Nitelva yên tĩnh, bên kia sông là cánh đồng cỏ mênh mông tiếp giáp với núi rừng. Cái khung cảnh có mang một chút hình dáng và màu sắc quê nhà giúp tâm hồn tôi yên ả hơn mỗi khi thấy lòng trăn trở, nhung nhớ một điều gì. Những lúc buồn, tôi ngồi hằng giờ trong bao lơn nhìn ra cánh đồng và rừng núi phía xa xa, để ngỡ là quê hương mình như đang ở phía bên kia triền núi đó. Và cũng chính nơi đây, tôi đã bắt đầu tập tễnh cầm bút viết lại cuộc đời mình, thế hệ mình, cuộc chiến bất hạnh và cuộc tang thương dâu biển mà cả miền Nam Việt Nam đã trải qua.

Ở đất nước bé nhỏ này và với số người Việt tị nạn khi ấy khoảng 10.000 người, nhưng có một số nhà văn, nhà thơ tiếng tăm: Nguyễn Thị Vinh, Dương Kiền, Hoài Mỹ, Nguyễn Hữu Nhật, Tâm Thanh, Khánh Hà, Cung Vĩnh Viễn, Nguyễn Văn Thà… Bán ngôi nhà cũ của kommune mua giúp lúc ban đầu mới đến, chúng tôi may mắn lời được một khoản tiền đủ để trả hơn một nửa số tiền mua ngôi nhà mới. Ngôi nhà này nằm ở một kommune khác. Khi vừa dọn về nhà mới được hai tuần, tôi nhận được một Ngân Phiếu Trả Tiền (Utbetalingskort) gởi từ Phòng Xã Hội của kommune cũ, cấp cho tôi một số tiền gần bằng 10 tháng lương của tôi lúc ấy. Tôi ngạc nhiên, vì số tiền khá lớn nên nghĩ là có điều gì nhầm lẫn. Cầm tấm Ngân Phiếu Trả Tiền, tôi đến gặp ông Trưởng Phòng Xã Hội. Ông cho biết đó là món tiền mà Sở Tỵ Nạn cấp để lo cho gia đình tôi, nhưng kommune không chi tiêu hết cho chúng tôi, vì con đông nên không đủ phòng ốc và đồ dùng ở ngôi nhà cũ, hơn nữa chúng tôi đã đi làm quá sớm sau khi đến Na-Uy, nên ông quyết định gởi cho chúng tôi để sắm sửa cho ngôi nhà mới. Đã vậy ông còn xin lỗi, vì đã không lo lắng đủ cho chúng tôi trong thời gian mới tới. Tôi bắt tay ông từ giã mà trong lòng cảm thấy ngậm ngùi, khi nghĩ là ở trên quê hương mình bây giờ biết tìm đâu ra những công chức chính quyền thanh liêm và giàu tấm lòng như thế?

(Ngôi nhà mới dưới thung lũng Harabakken-NaUy)

Trong thung lũng nhỏ này chỉ có bốn ngôi nhà. Ngoài gia đình tôi, một gia đình người bản xứ, còn có gia đình người Thụy Điển và một gia đình người Đức. Tất cả những người láng giềng này rất tốt bụng, sau này đều trở thành những người bạn thân thiết của gia đình tôi.

Gần 30 năm làm việc, tôi may mắn được sắp xếp làm ở những chi nhánh rất gần nhà. Được hưởng bậc lương tính theo thâm niên từ khi bắt đầu làm việc tại Việt Nam. Hầu hết những đồng nghiệp người bản xứ đều luôn thân tình, giúp đỡ. Điều làm tôi cảm phục hơn là sự thành thật và tin tưởng lẫn nhau của họ. Công việc mỗi ngày liên quan tới tiền bạc. Có thời gian mấy năm tôi được giao cho trách nhiệm thủ quỹ. Vào những ngày trước Giáng Sinh hay thời điểm trả thuế, số tiền trong tủ sắt lên đến nhiều chục triệu kroner. Mới đầu, tôi rất ngạc nhiên, khi giao một số tiền lớn cho mỗi kasse (quày), mà họ chẳng bao giờ kiểm lại. Có khi, một vài cô cậu sinh viên làm thêm vào các ngày thứ bảy, hay ngày lễ, làm mất đến mấy chục ngàn, họ vẫn không bị la rầy hay đuổi việc. Chúng tôi được học và dặn dò, nếu có cướp (cho dù biết vũ khí là đồ giả), hãy luôn làm theo yêu cầu của kẻ cướp, đừng bao giờ có ý chống lại. Nhưng điều này chưa hề xảy ra. Họ rất quý sinh mạng con người. Không phải như dưới chế độ Cộng Sản trên quê tôi, sính mạng con người chẳng khác gì cỏ rác!

(Giáng sinh trước khi ba cháu lớn đi du học Mỹ)

Trong gần 30 năm làm việc, tôi chưa hề thấy những ông “sếp” nặng lời với bất cứ một nhân viên nào cho dù khi họ làm sai, thất thoát ít nhiều tiền bạc. Chỉ cần viết một đôi dòng giải thích là đủ. Ngược lại, đôi lần, trong các buổi họp, tôi thấy một vài nhân viên lại khiển trách “sếp” chỉ vì một đôi điều không được hài lòng. Phải nói, đây là một quốc gia có tinh thần dân chủ cao độ. Tôi nhớ mãi chuyện vợ chồng ông chủ tịch quốc hội bị nhân viên quan thuế phi trường Oslo chặn lại và buộc nộp tiền phạt khi hai ông bà đi công cán ở nước ngoài về, và bà vợ mang trên tay một chiếc nhẫn hột xoàn quên khai báo. Một bà bộ trưởng quốc phòng, mặc bộ quân phục khi đến thăm binh sĩ Na-Uy đang tham gia chiến trường khói lửa A Phú Hãn, bị nhiều quân nhân phê phán, bảo bà không phải là quân nhân, nên không có quyền mặc quân phục. Bà đã phải lên truyền hình chính thức xin lỗi. Tôi nghĩ chẳng có quốc gia nào dân chủ hơn . Điều này làm tôi rất hãnh diện để được trở thành công dân của đất nước này. Và biết đến khi nào mới có được trên quê tôi?

Sau bậc trung học, bốn đứa con của chúng tôi muốn sang Mỹ du học. Khi được một đại học ở Mỹ chấp nhận, tất cả đều được chính phủ Na-Uy cấp học bổng đủ để trả học phí, tiền bảo hiểm và di chuyển, đến bậc Cao Học.Vợ tôi làm công nhân cho một công ty điện tử. Có lẽ vì nhiều năm chỉ làm một động tác, nên vai cánh tay phải bị đau nhức. Bác sĩ xí nghiệp cho nghỉ một năm có lương để điều trị và sau đó được một hội đồng giám định y khoa quyết định cho nghỉ vĩnh viễn với hưu bệnh. Lại được công ty bảo hiểm của xí nghịệp bồi thường một số tiền sai biệt so với lợi tức hằng tháng trước đó .

(Cháu trưởng nam Phạm Hoàng Minh và cháu gái út Phạm Ngọc Quỳnh sau khi tốt nghiệp Đại học)

Bây giờ, tuổi đã già, nhìn lại quá khứ thăng trầm khốn khó, nhớ lại từng bước chân lưu lạc, lòng tôi bùi ngùi xúc động. Quê hương vẫn còn mịt mờ xa, khốn đốn trong bàn tay cai trị của bọn người CS không còn nhân tính. Mai này, tôi cũng sẽ gởi lại trên quê hương thứ hai này nắm xương tàn, hướng đầu về cố quốc mà tạ tội cùng núi sông tiên tổ.

(Các cháu trai – gái đã trưởng thành và có gia đình riêng)

Những đứa cháu nội, ngoại của chúng tôi sinh ra và lớn lên ở Na-Uy, dù không có một kỷ niệm nhỏ nhoi nào với Việt Nam. nhưng vẫn mãi có những ràng buộc máu thịt, bởi cha ông là người Việt. Dù nói được tiếng Việt, nhưng các cháu không thể thấy gần gũi với quê cha đất tổ. Nhiều lúc tôi thấy chạnh lòng khi nghĩ rồi các thế hệ sau này càng lúc càng xa dần nguồn cội. Nhưng tôi cũng tự an ủi mình, vì các cháu lớn lên, nhận đất nước này là quê hương, sẽ cố gắng chăm chỉ học hành để vừa đóng góp phần trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, vừa trả cái ơn cưu mang từ những ngày đầu thời ông bà cha mẹ lưu lạc đến đây. Quan trọng hơn, sẽ học tấm gương những người Do Thái, nối tiếp công việc dang dở của cha ông, góp sức đấu tranh cho no ấm tự do trên quê hương tiên tổ.

(3 cháu nội nhỏ nhất trong ngày Quốc Khánh NaUy 17-5)

Xin cám ơn Na-Uy, đất nước xa xôi, lạnh lẽo, nhưng rất nồng ấm tình người. Nơi in đậm mãi những dấu chân lưu lạc của tôi và cả gia đình. Đã cho chúng tôi, nhất là các con cháu tôi, một tương lai tốt đẹp như hôm nay, mà nếu còn ở lại trong nước sẽ phải khốn cùng dưới chế độ phân biệt đối xử của chinh quyền Cộng Sản. Xin cám ơn Na-Uy, nơi mà tất cả những người Việt tỵ nạn đến đây sung sướng và hãnh diện để được nhận là quê hương thứ hai của mình sau ngày phải đành lòng bỏ nước ra đi.

Một ngày buồn cuối tháng 4, sau đúng 38 năm lưu lạc.

Phạm Tín An Ninh

Đảng quên mất “khúc ruột ngàn dặm” Lê Thị Trang Đài

Đảng quên mất “khúc ruột ngàn dặm” Lê Thị Trang Đài

Jackhammer Nguyễn

29-5-2022

Tân dân biểu Lê Thị Trang Đài. Nguồn: Website nhân vật

Tháng 5 này, tin vui đến với cộng đồng người Việt Nam tại hải ngoại và có thể ở trong nước nữa, là bà Lê Thị Trang Đài, một người Úc gốc Việt đắc cử, trở thành dân biểu liên bang Úc. Bà là người Việt đầu tiên ở Úc đắc cử vào vị trí này.

Chiến thắng của bà Đài (tên trên giấy tờ ở Úc của bà là Dai Le) lại còn có ý nghĩa hơn nữa, khi bà là một ứng cử viên độc lập, không dựa vào bộ máy và thế lực của hai đảng chính trị lớn ở Úc là đảng Lao Động (Labor) và đảng Tự Do (Liberal). Bà Dai Le thắng cử ở khu vực có đông người châu Á, trong đó có nhiều người gốc Việt cư ngụ.

Sau khi đọc tin tức cùng nhiều bình luận trên báo chí Úc về bà Dai Le, tôi tìm đọc tin tức từ báo chí Việt Nam trong nước, do Đảng Cộng sản Việt Nam quản lý, xem họ viết gì. Thường thì các tờ báo lớn đều có một mục đại loại như là Người Việt năm châu, Kiều bào khắp nơi… Thế nhưng, không có một dòng nào nói về bà Dai Le cả!

Còn nhớ, hồi ông Cao Quang Ánh trở thành người Việt đầu tiên trở thành dân biểu liên bang Mỹ, báo Việt Nam trong nước cũng có đôi bài về ông. Thường là khi có người Việt thành công ở đâu đó, trong lãnh vực nào đó, thì báo Việt Nam trong nước có bài. Mà không chỉ những nhân vật khoa học gia, doanh nhân… kể cả các chính trị gia (hoàn toàn khác với giới chính trị của Đảng Cộng sản) cũng được nhắc tới.

Thế sao họ lại không nhắc tới bà Dai Le nhỉ?

Xem kỹ tin tức, tôi đoán là có thể có hai nguyên nhân. Thứ nhất, bà Dai Le là người từng vận động cho lá cờ vàng ba sọc đỏ của nước Việt Nam Cộng hòa, tức là miền Nam Việt Nam trước năm 1975, được công nhận là lá cờ đại diện cho cộng đồng người Việt tại Úc, mà nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay ghét cay ghét đắng lá cờ này.

Lý do thứ hai có thể là bà Dai Le thắng cử, sau vụ tháu cáy của ngài đương kim thủ tướng Việt Nam, Phạm Minh Chính. Ông Chính nói với một số người gọi là “kiều bào” tại bờ đông nước Mỹ rằng “thành công của đồng bào Việt Nam tại Mỹ cũng là thành công của đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước Việt Nam” (sic).

Cú tháu cáy của ông Chính dữ dội quá, gây ra phản ứng cũng dữ dội. Một quan sát của BBC Việt ngữ cho thấy, nhóm người Mỹ gốc Việt trung lưu giận dữ, nói ông Chính thấy sang bắt quàng làm họ, rằng chính do đảng Cộng sản Việt Nam giam cầm đày đọa những người Việt Nam Cộng hòa sau năm 1975, để họ phải bỏ nước ra đi, vất vả mưu sinh nơi xứ người. Nay họ thành công thì lại nhào vô nhận vơ.

Cũng theo BBC, những người Mỹ gốc Việt trung lưu này không phải là những người chống cộng cực đoan, họ hiếm khi tham gia các cuộc biểu tình chống các quan chức Việt Nam, cũng ít tham gia vào các hội đoàn chống cộng hải ngoại.

Cú tháu cáy của ông Chính làm cho họ bực mình, đánh thức tinh thần chống cộng truyền thừa từ cha mẹ thuyền nhân, hay tù cải tạo. Lợi bất cập hại quá!

Có lẽ vì thế, sau cú tháu cáy ấy, cơ quan tuyên giáo, vốn chỉ huy toàn bộ báo chí trong nước, ra lệnh phải im lặng chuyện bà Dai Le trúng cử dân biểu Úc chăng? Chứ chẳng lẽ một người vận động cho lá cờ vàng lại là một thành công của Đảng sao!

Cũng có thể ông Chính không tháu cáy mà là ông Chính tưởng thật, rằng người Việt ở Mỹ chỉ toàn là những người ngày xưa phản chiến cả, và bây giờ thì toàn là du học sinh từ trong nước qua. Một sự hiểu sai như vậy vẫn thường xuyên xảy ra ở những chế độ có các cá nhân có quyền sinh quyền sát trong tay. Họ được thủ hạ nói về những điều họ muốn nghe, và thế là họ tưởng thật. Nếu điều này đúng trong trường hợp ông Phạm Minh Chính thì chắc ông giận lắm.

Nhưng tôi nghiêng về khả năng ông Chính tháu cáy hơn.

Chúng ta thấy rằng du học sinh từ Việt Nam sang Mỹ ngày càng đông, đa số họ không muốn trở về nước. Rồi người Việt trong nước đi định cư theo diện sum họp gia đình, kể cả những người có gốc gác từ thời mồ ma “miền Bắc xã hội chủ nghĩa”. Những người này ảnh hưởng rất mạnh từ “nền giáo dục” hồng hồng chuyên chuyên của đảng cộng sản. Bên cạnh đó, tầng lớp thuyền nhân, cựu tù cải tạo ở Mỹ ngày càng ít đi. Thế cho nên đảng cộng sản Việt Nam, thừa thắng xông lên, tung ra cú tháu cáy của thủ tướng Chính, cho nó oai, tạo nên một dư luận (narrative) mới, rằng thì là hơn hai triệu người Việt là con dân của … Đảng cả.

Thế nhưng, thế hệ con cháu các thuyền nhân và cựu tù cải tạo, hiện là nòng cốt của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, chứ không phải nhóm … “Việt kiều yêu nước” ngày xưa, mà cũng không phải là nhóm du học sinh từ Việt Nam. Mà con cháu của những người phản chiến ngày xưa, hay là những du học sinh ở lại Mỹ ngày nay, chắc gì thân tình với Đảng! Những người lớn lên trong lòng xã hội cộng sản có khi chống cộng còn dữ dội hơn những người con cháu thuyền nhân và tù cải tạo, vì họ hiểu rõ chế độ ấy xã hội ấy.

Bởi thế, tôi nghĩ rằng cú tháu cáy của ngài thủ tướng Việt Nam đã thất bại.

Nhưng sao lại phải tháu cáy nhỉ? Nếu ngài thủ tướng thật lòng mong muốn người gốc Việt ở Mỹ hướng về quê cũ, chỉ cần ngài đàng hoàng là được. Đàng hoàng là gì? Là đừng bắt bỏ tù dân chúng trong nước vô cớ, đừng giả dạng bầu cử để cầm quyền… và dĩ nhiên là đừng tháu cáy.

Một việc mà tôi nghĩ cũng là việc đàng hoàng mà ngài thủ tướng nên làm là, viết lại lịch sử Việt Nam như nó đã từng như thế. Tức là sau năm 1975, Đảng bắt nhốt hàng trăm ngàn người và đày họ vào các trại tù khổ sai không án với cái tên mỹ miều là “cải tạo”, và rằng có cả trăm ngàn người Việt bỏ mình trên biển trong cuộc tháo chạy khỏi đất nước.

Ngài thủ tướng cứ viết trung thực đi, “sợ mẹ gì”!

 Bác Sĩ Albert B. Sabin

 Bác Sĩ Albert B. Sabin

Cách đây đúng 64 năm, năm 1957, một vị Bác sĩ đã quyết định không cần cấp bằng sáng chế cho vắc-xin của mình, để tất cả các công ty dược phẩm được quyền sản xuất và cung cấp vắc-xin cho trẻ em toàn thế giới.

 Đó là vị Bác sĩ Mỹ gốc Do Thái/Ba Lan, sinh ra ở Bialystok – ông Albert Bruce Sabin (1906 – 1993); nhà vi-rút học nổi tiếng với phát minh vắc-xin bại liệt (Polio Vaccine). Ông không cần tiền thưởng cho bằng sáng chế, để vắc-xin được tiếp cận tất cả mọi người bất kể giàu nghèo.

Từ năm 1959-1961, hàng triệu trẻ em khắp thế giới đã được chủng ngừa vắc-xin bại liệt của Sabin, dập tắt dịch bệnh này. Trong khi trước đó, gần như cả 1 thế hệ bị xóa sổ vì bệnh bại liệt.

Ông Sabin nói: “Nhiều người khuyên tôi nhất định phải lấy bằng sáng chế cho vắc-xin nhưng tôi không muốn. Đây là món quà tôi dành cho tất cả trẻ em trên thế giới”.
Được biết vì là người Do Thái, 2 cháu gái của ông đã bị phát-xít Đức giết hại. Được hỏi liệu ông có muốn trả thù, ông đáp: “Họ đã giết 2 đứa cháu gái tuyệt vời của tôi, nhưng tôi đã cứu hàng triệu đứa trẻ khắp thế giới. Bạn không nghĩ đây là một sự ‘trả thù’ lớn hơn sao?”
 

Trong thời Chiến tranh lạnh, Sabin đã tặng miễn phí các chủng vi-rút của mình cho nhà khoa học Liên Xô Mikhail Chumakov, cho phép phát triển vắc-xin của ông ở đất nước này.

 Ông Sabin tiếp tục sống với mức lương bình thường, nhưng trái tim ông tràn ngập niềm vui vì đã làm được điều tốt đẹp nhất cho nhân loại.

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen