Một cuộc chiến, một gia đình, một số phận

Một cuộc chiến, một gia đình, một số phận

Tien Phan

RFA

NYC149403.jpg 

Một bà mẹ già trong ngày 30/4/1975 

Hiroji Kubota/Magnum Photos

Nói đến tháng tư đen, nói đến ngày Quốc hận và nói đến ngày miền Nam Việt Nam bị bức tử thì chúng ta

Một bà mẹ già trong ngày 30/4/1975

Hiroji Kubota/Magnum Photos

Nói đến tháng tư đen, nói đến ngày Quốc hận và nói đến ngày miền Nam Việt Nam bị bức tử thì chúng ta không thể bỏ qua Tết Mậu Thân và mùa hè đỏ lửa năm 1972.

Miền Nam trước 1975 đang sống một cuộc sống bình yên, mọi người dân đều được Dân chủ, được bày tỏ chính kiến của mình và được tham gia bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhưng cộng sản Bắc Việt không chịu để yên cho người dân Miền nam, không chịu thực hiện hai hiệp định họ đã đặt bút ký vào đó mà lại vi phạm trắng trợn rồi để lại biết bao tang tóc, đau khổ cho hàng ngàn, hàng triệu gia đình Miền Nam trong đó có gia đình tôi.

Và đây là một ký ức, một câu chuyện hoàn toàn sự thật, không hề hư cấu dù một ý nhỏ nào của gia đình tôi trong những ngày tháng đó.

Bà Nội tôi sinh ra được năm người con, hai gái và ba trai. Trong năm người con đó có Ba tôi, tất cả đều phục vụ cho chế độ VNCH. Ba người con trai và một người rể tham gia Quân đội VNCH, còn một người con dâu tham gia bên hành chánh ở Quận thuộc tỉnh Quảng Tín. Với gia đình tôi thời kỳ đó là một niềm vinh hạnh nhất. Rồi chiến tranh, một cuộc chiến phi lý huynh đệ tương tàn đã cướp đi tất cả những con người đó. Để lại biết bao tang thương, ly tán và bất hạnh cho gia đình tôi, khi tôi mới vừa lên năm tuổi.

Cái tháng 3 đen của gia đình tôi là tháng 3/1972. Trong một tháng mà gia đình bà nội tôi phải chịu mất đi vĩnh viễn sáu người. Ngày đó mặc dù còn rất nhỏ nhưng tôi vẫn còn nhớ nội tôi phải đội trên mái đầu đến sáu chiếc khăn tang. Có sự tang thương nào bằng, có sự mất mát nào lớn lao đến thế, có nỗi đau nào bằng nỗi đau mẹ mất con, vợ mất chồng và con mất cha?

Đầu tháng 3/1972. Một tin như sét đánh vào gia đình tôi là Chú tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khe sanh, Quảng Trị trong Thiết đoàn tăng thiết giáp đã hy sinh. Lúc đó chú tôi mới tròn 27 tuổi và thím tôi đang mang thai được 7 tháng.

Ba tôi đang công tác ở đơn vị quân vận đóng tại Đà Nẵng nghe tin đó và đưa cả gia đình tôi về lập bàn thờ cho chú tôi ở quê nhà nội tôi là tỉnh Quảng Tín. Lập xong bàn thờ cho chú tôi thì Ba tôi nhận được lệnh hành quân ra Quảng trị. Nghe Má tôi kể lại là lúc đó cộng sản bắc việt đang tấn công thành cổ Quảng Trị dữ dội lắm và VNCH đang ra sức đánh để tái chiếm lại. Đơn vị Ba tôi phải vận chuyển nhu yếu phẩm và vũ khí đạn dược ra để tiếp tế cho Thuỷ Quân Lục Chiến thời bấy giờ đang giành giật lại từng tấc đất.

Ba tôi đi hành quân được một tuần lễ thì một thông tin báo về cho gia đình tôi như sét đánh tiếp là đoàn chiến xa của Ba tôi đã bị cộng sản Bắc việt chặn đánh tại cầu Mỹ Chánh. Tất cả đoàn xe lọt vào ổ phục kích cộng sản nên đã bị thiêu rụi không còn một chiếc nào trở về được do pháo kích dữ dội của cộng sản. Lúc bây giờ Má tôi, Nội tôi và cả gia đình tôi như chết lặng đi trong cơn tuyệt vọng và tan gtóc. Rồi sau đó một di ảnh và một cái bàn thờ nữa đã đặt ở nhà nội tôi với mùi khói hương u ám, chết chóc bao trùm lên cả gia đình tôi. Từ mẹ già, vợ hiền đến con thơ ai nấy đều chít trên đầu những chiếc khăn tang trắng.

Lúc ba tôi tử trận thì má tôi đang có bầu sắp sanh hai em tôi (thai song sinh). Mặc dầu đau thương cực độ nhưng gia đình tôi hy vọng sẽ đến nơi lửa đạn khốc liệt đó để tìm xác ba và chú tôi đem về với đất mẹ. Nhưng hoàn toàn tuyệt vọng cho dù chỉ cần mong mỏi tìm thấy được chút gì còn lại của hai cái thân xác ba và chú tôi. Tất cả hai con người đó, hai thân xác đó không còn chút gì để tìm thấy được nữa.

Bất hạnh không dừng lại ở đó với gia đình tôi. Ngày đó cả gia đình tôi đều dồn vào mỗi công việc là đi tìm kiếm cho bằng được thân xác của ba và chú tôi đem về đất mẹ. Tất cả những nơi nào nghe ngóng được là Quân lực VNCH thu gom chiến trường và đưa xác của tử sĩ về vùng an toàn là gia đình tôi đều tìm đến. Nhưng tất cả đều tuyệt vọng, không tìm được chút gì còn sót lại cả. Nỗi đau chồng chất nỗi đau.

NYC149404-350.jpg

Những người mẹ mang con di tản ngày 30/4/1975. Hiroji Kubota/Magnum Photos

Có lẽ do đau buồn quá nhiều, tuyệt vọng quá nhiều và đi lại tìm kiếm quá nhiều nên má tôi và người bác dâu của tôi đã không giữ được những sinh linh trong bào thai non nớt đó. Cả hai đều sanh ra nhưng những sinh linh vô tội đó không sống được trên cõi đời này nữa. Bác dâu tôi cũng mang thai song sinh như má tôi. Bốn con người vô tội nữa cũng ra đi vĩnh viễn.

Như vậy là trong tháng 3/1972 gia đình tôi đã mất đi sáu người. Cuộc chiến phi lý này đã cướp đi những gì bình yên và hạnh phúc nhất của một gia đình trong nhiều gia đình ở miền nam lúc bấy giờ. Hậu quả của nó để lại không hề quên lãng được. Những đứa trẻ mồ côi như chúng tôi sống làm sao trong nhũng ngày loạn lạc còn lại. Bà Nội tôi như điên dại, Má và Thím dâu tôi như chết rồi, còn chúng tôi thì ngơ ngác, ngây thơ và bơ vơ cứ hỏi sao Ba không về hả Má.

Ngày 30/4/1975. Sài gòn thất thủ, kẻ ở người đi, kẻ cười người khóc, ly tan ly tán. Trước ngày Sài gòn thất thủ, gia đình tôi chỉ còn lại hai người đàn ông duy nhất mà gia đình có thể dựa vào đó để mà sống những ngày còn lại đó là Bác tôi và người Dượng chồng cô tôi. Lúc đó đang còn ở Quân đội VNCH. Nhưng rồi họ cũng mất đi từ cái tháng 4 đen đó. Sau 30/4 không còn một tin tức gì với hai người đó nữa. Không biết họ đã sống chết như thế nào?  Sau 30/4 gia đình tôi chỉ còn lại bà già, goá phụ và trẻ mồ côi mà thôi. Cuộc chiến này đã cướp hết những gì gia đình tôi đã có trước đây và mất đi từ năm1972 đến 1975.

Bốn mươi năm trôi qua, bốn mươi năm thành trẻ mồ côi cha. Thời gian chừng ấy  đủ để một đứa trẻ lúc đó đến bây giờ cũng ngoài 40 tuổi suy ngẫm, nhận thức mà đem vào ký ức. Bốn mươi năm một gia đình toàn bà già và con nít sống trong chế độ cộng sản.

Tôi không muốn nhắc lại quá khứ tang thương này của gia đình tôi và nhiều gia đình giống như vậy ở miền nam. Nhưng lịch sử vẫn là lịch sử, tội ác vẫn là tội ác. Không có ai có quyền bóp méo. Mọi người cứ thử tưởng tượng một người mẹ hàng đêm không ngủ mà trên tay cứ cầm chiếc đèn dầu heo hắt đi quanh nhà mà gọi tên con, cho dù những đứa con đó đã bỏ mẹ già, bỏ vợ con ra đi đã hơn 10 năm rồi. Đến lúc nhắm mắt lìa đời ở tuổi 84 như bà Nội tôi cũng chỉ có một mình trên giường, không con, không cháu và không một lần thắp được cho những đứa con mang nặng đẻ đau một nén nhang trong đêm giá lạnh vì tất cả đã chết mà không hề có mộ phần.

Cuộc chiến này đã cướp đi linh hồn và cả thể xác những đứa con của Nội tôi. Còn nhiều nỗi đau nữa mà những đứa trẻ mồ côi như chúng tôi phải chứng kiến và gánh chịu. Tôi không than thở vì tôi ý thức được rằng đó là hậu quả của một cuộc chiến mà anh em, cha con bắn giết nhau để phục vụ cho một chủ nghĩa. Tôi chỉ muốn thức tỉnh những ai đó còn chút lương tri của con người, còn chút suy nghĩ về đồng loại của mình mà đang là lãnh đạo, có quyền chức, có điều kiện, được học hành thì hãy thức tỉnh lại để dân tộc này bớt khổ đau, trao lại cho nhân dân quyền dân chủ thực thụ như bao dân tộc dân chủ cường thịnh khác trên thế giới này.

Tôi cũng xin khẩn thiết kêu gọi những ai mà đã ra đi tìm được cuộc sống tự do ở hải ngoại hãy nghĩ về những đứa trẻ mồ côi của đồng đội mình đang ở trong nước hay ngoài nước mà động viên, an ủi và ủng hộ cho cuộc đấu tranh nhân quyền của dân tộc này.

Có trách nhiệm hơn với đất nước, với dân tộc, với chủ quyền lãnh thổ, với những đứa trẻ mồ côi đã chết hay còn sống như tôi dù chỉ một lời chia sẻ hay động viên an ủi. Ít ra cũng làm chúng ấm lòng và biết được cha ông chúng đã ngã xuống không phi nghĩa mà chúng đã chịu miệt thị, cô đơn và phân biệt hơn 40 năm rồi. Tôi cũng kêu gọi tất cả những đứa trẻ mồ côi cha hay mẹ trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước năm 1975 hãy liên lạc, chia sẻ, giúp đở nhau để làm điều gì đó không phụ lòng cha mẹ mình đã nằm xuống cho đất nước.

Chúng tôi mong muốn sao một Việt nam thực sự Tự Do Dân Chủ, Đoàn Kết Dân Tộc, cùng nhau xây dựng đất nước cường thịnh để đủ mạnh về quân sự, vững chắc về kinh tế cùng nhau bảo vệ và chống lại giặc ngoại xâm. Để trẻ em như chúng tôi ở những ngày 40 năm về trước được học hành, được tự do thực thụ và được sống trong vòng tay yêu thương, che chắn của cha mẹ.

Một Việt Kiều Từ Pháp Về VN Thê Thảm Vì: Gửi 1 Ngân Hàng SG 423,000 Đô Biến Mất

Một Việt Kiều Từ Pháp Về VN Thê Thảm Vì: Gửi 1 Ngân Hàng SG 423,000 Đô Biến Mất

Vietbao.com

Share on facebook

SAIGON — Con số 400 ngàn Euro là tương đương 423 ngàn đôla Mỹ… sau khi gửi vào một ngân hàng ở Sài Gòn đã biến vào hư vô.

Ông Nghị là người gửi tiền. Đại diện cho ngân hàng là ông Quang nhận tiền, và rồi ông Quang cũng biến vào hư vô cùng với khôi tiền.

Báo Dân Việt có bản tin “Việt kiều tố gửi ngân hàng 400 ngàn euro nhưng… không rút được” cho biết công an đang điều tra về trường hợp 1 Việt kiều Pháp có đơn tố cáo gửi 400 ngàn euro tại Phòng giao dịch Hòa Hưng thuộc Ngân hàng Agribank chi nhánh Mạc Thị Bưởi (TP.SG), nhưng… không rút được.

Bản tin cũng nói, phía Ngân hàng Agribank cũng có văn bản nói rõ một số thông tin cơ bản về vụ việc.

Theo đơn gửi cơ quan công an của ông Dương Thanh Nghị (SN 1975, quốc tịch Pháp): Thời gian làm việc tại Pháp ông có dành dụm, sau đó gửi tiết kiệm nhiều lần tại Phòng giao dịch Hòa Hưng (đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, TP.SG). Ông Nguyễn Lê Kiều Quang (SN 1978, ngụ quận Bình Thạnh, TP.SG; Giám đốc Phòng giao dịch Hòa Hưng) là người trực tiếp liên hệ, thuyết phục ông gửi tiền tại đây.

Báo Dân Việt cho biết, ông Nguyễn Lê Kiều Quang là người “biến mất” với số tiền 17 tỷ đồng khi đi lấy tiền tiếp quỹ cho phòng giao dịch, xảy ra cuối tháng 1.2015, gây xôn xao dư luận. Sau đó ông Quang bỏ trốn và bị Công an TP.SG phát lệnh truy nã về hành vi “tham ô tài sản”.

Cuối tháng 12.2014, ông Nghị đến Phòng giao dịch Hòa Hưng rút hết các khoản gửi tiết kiệm trước đó, cộng dồn và gửi tiết kiệm với tổng số tiền 400 ngàn euro. Theo ông Nghị, lúc này ông Quang có đưa nhiều giấy tờ, trong đó có những giấy tờ còn để trắng, đề nghị ông ký vào. Ông Nghị thực hiện theo yêu cầu.

Ngoài ra theo ông Nghị, ông Quang có mở máy tính cho ông thấy số tiền 400 ngàn euro ông gửi đã có trên hệ thống quản lý của ngân hàng.

Ông Nghị cho biết, đến ngày 2.2 vừa qua, ông Nghị đến rút toàn bộ số tiền tiết kiệm nói trên thì được nhân viên ngân hàng hẹn 2 ngày sau. Đúng hẹn ông Nghị lại đến, nhưng lần này ông tá hỏa khi nghe thông tin từ cán bộ ngân hàng và 1 cán bộ công an mặc thường phục tên là Hải cho biết, số tiền tiết kiệm 400 ngàn euro có trong tài khoản của ông nhưng có 2 sổ tiết kiệm khác nhau: 1 sổ đã được thế chấp vay tại Ngân hàng Agribank số tiền 10,4 tỷ đồng, còn sổ ông cầm trong tay là không có tiền, không có thể hiện trên hệ thống quản lý dữ liệu của ngân hàng.

Bản tin ghi rằng:

“Trước việc xảy ra, ông Nghị nghi ngờ tiền của mình bị chiếm đoạt, nên đã cùng luật sư tố cáo vụ việc tới cơ quan công an. Ông Nghị hiện đã ủy quyền cho ông Dương Thanh Tịnh để giải quyết các vấn đề với ngân hàng và phía công an.”

Lời trối trăng lạ lùng trong di chúc của Cụ Lý Quang Diệu :

DI CHÚC CỦA CỰU THỦ TƯỚNG LÝ QUANG DIỆU VIẾT ĐIỀU GÌ?

Lời trối trăng lạ lùng trong di chúc của Cụ Lý Quang Diệu :

“XIN PHÁ BỎ NGÔI NHÀ TÔI SAU KHI TÔI CHẾT”

Thơ Trần Mạnh Hảo

Ghi chú : Vì an ninh, Singapore có luật các nhà xung quang ngôi biệt thự của cụ Lý Quang Diệu không được phép xây cao hơn ngôi nhà của người cha đẻ ra đất nước Singapore .

Không được dùng nhà này làm nhà tưởng niệm tôi sau khi tôi mất
Hãy đập ngôi nhà tôi cho hàng xóm được cao tầng
Rồi trồng cỏ cây thành công viên xanh mát
Còn chút lòng này xin được hiến dâng

Không còn lời nào ca ngợi Lý tiên sinh được nữa
Cụ khiêm nhường giống hệt một thường dân
Cụ đã biến Singapore thành thiên đường dưới thế
Bằng tất cả thiên tài và một tấm lòng nhân…

Sài Gòn 22 h 10’ ngày 23-3-2015
T.M.H.

Chú thích ảnh : 1- Lý tiên sinh sinh thời . 2- Ngôi nhà của cụ Lý Quang Diệu trong di chúc chúc cụ để lại : xin đập ngôi nhà này cho các nhà xung quanh được xây cao tầng và biến nó thành công viên cây xanh công cộng.

Đường vào Harvard của Khoa Vũ: ‘Hãy để ước mơ dẫn đường’

Đường vào Harvard của Khoa Vũ: ‘Hãy để ước mơ dẫn đường’

Nguoi-viet.com

Thiên An/Người Việt

BERKELEY, California (NV) – Một sáng cuối năm 2010, trên tuyến xe bus đường Garden Grove có một anh chàng 21 tuổi tên Khoa Vũ mới sang Mỹ đang ngày ngày đến lớp học Tiếng Anh miễn phí. Một sáng năm 2015, chàng trai đó đang đứng giữa hội trường rộng lớn của trường UC Berkeley, trước hàng trăm kiến trúc sư và giáo sư, để được vinh danh về mẫu thiết kế anh vẽ cho mùa học trước. Giải thưởng này chưa phải là điều khiến anh vui nhất ngày hôm đó. Anh vừa nhận được thư chúc mừng và mời vào học của ngôi trường mơ ước: Đại học Havard.

“Đừng bỏ cuộc, hãy để ước mơ dẫn đường.” (Hình: Khoa Vũ)

Chưa ở Mỹ đến 5 năm, chàng trai cao mảnh khảnh và có gương mặt rất hiền sau cặp kiếng dày cộm đã có nhiều giải thưởng đáng nể trong giới sinh viên kiến trúc. Từ nay, “tấm vé” vào bậc cao học tại đại học Harvard sẽ mở ra thêm rất nhiều cơ hội nữa cho anh.

Chưa ở Mỹ đến 5 năm, với các khó khăn mà mọi bạn trẻ không sinh ra và lớn lên tại Mỹ thường đối mặt, Khoa Vũ đã làm thế nào để theo đuổi mơ ước?

Sau đây là cuộc trò chuyện Khoa Vũ dành cho trang Người Việt Trẻ.


Người Việt (NV): Bạn nộp hồ sơ và nhận được tin từ Đại học Harvard thế nào?

Khoa Vũ: Hạn chót nộp đơn là vào Tháng 12, ngay tuần thi. Đây cũng là năm cuối nên mình khá bận với các giờ studio. Hôm nhận được thư của Havard là một ngày tuyệt vời. Lúc đó là giờ ăn trưa và còn hai tiếng nữa thì mình phải thuyết trình về dự án của mình trước hàng trăm kiến trúc sư. Bạn bè mình bắt đầu nhận được thư trả lời từ các trường mà mình thì cứ canh chừng hộp thư mà chưa thấy. Hôm đó là ngày các trường trả lời, bạn bè mình cứ hỏi kết quả, nên mình càng hồi hộp. Đã gần tới phiên mình phải thuyết trình, tay mình run run khi mình vào kiểm tra kết quả của trường Havard. Khi thấy dòng chữ “Congratulation” thì mình la lên sung sướng. Bạn bè quay sang hỏi chuyện gì vậy thì mình giải thích. Và sau đó gọi ngay cho bố mẹ để báo tin thật nhanh trước khi phải bắt đầu phần thuyết trình. Chắc nhờ vui và tự tin lên hẳn nên mình là một trong hai sinh viên được giải thưởng trong ngày hôm đó.

Một thiết kế khi mới bắt đầu học tại đại học cộng đồng. (Hình: Khoa Vũ)

NV: Việc đi học của bạn từ ngày sang Mỹ?

Khoa Vũ: Khoa qua Mỹ cách đây khoảng bốn năm rưỡi. Khoa qua với bố mẹ. Bố mẹ lớn tuổi nên cũng khó khăn khi phải bắt đầu cuộc sống ở đây. Năm đầu tiên thì Khoa chờ để vào cư dân chính thức của tiểu bang, để tiền học rẻ hơn. Năm đó mình đi học Anh Văn ở một trường ở Garden Grove. Mọi thứ đều mới mẻ, mình phải cố gắng để hòa nhập cuộc sống. Giờ nghĩ lại, thấy hồi đó công nhận mình không biết gì hết về Mỹ, tiếng Anh không rành, cũng stress lắm, không biết phải làm gì, đi học lại ra sao. Mỗi ngày đi học tiếng Anh, xung quanh toàn là những người lớn tuổi. Phải nói là lúc đó mình thấy rất mất phương hướng. Nhưng có một điều duy nhất mình luôn chắc chắn, đó là mình phải theo đuổi ngành kiến trúc.

Khó khăn là Khoa phải kiếm việc làm để phụ với bố mẹ. Gia đình Khoa cũng được họ hàng giúp đỡ phần nào, nhưng cũng phải tự cố gắng và cũng nhiều khó khăn. Ở Mỹ 6 tháng thì Khoa kiếm được việc làm rồi thì mới mua xe đi. Cũng may mắn tìm được một việc toàn thời gian. Rồi sau một năm ở Mỹ thì Khoa vào học ở trường đại học cộng đồng OCC, vừa đi học vừa tiếp tục đi làm. Từ từ mình thấy mọi việc suông sẻ hơn, quen dần với cuộc sống.

Khoa tiếp tục theo đuổi ngành kiến trúc, vì đó là ngành Khoa đang học ở Việt Nam. Học ở OCC thì Khoa cố gắng để được chuyển lên vào một trường tốt. Vừa đi học vừa đi làm thì cũng khó khăn về thời gian, để giữ điểm tốt và có thiết kế tốt. Cũng có lúc mình nghĩ đến việc nghỉ làm để tập trung vào việc học, nhưng lại không muốn để ba mẹ phải cực khổ thêm nên thôi. Mình cố giúp đỡ bố mẹ, ít nhất là về tiền bạc.

Sau hai năm ở OCC thì Khoa may mắn được nhận vào UC Berkeley. Ở đây, môi trường học khó hơn, cạnh tranh hơn, nhưng có nhiều cơ hội cho mình học hỏi. Mình chuyển sang làm việc part-time, dành giờ cho việc học. Một ngày thì hầu hết thời gian là mình ở tại trường, trong studio để làm project. Trong studio mình dần quen với nhiều bạn bè. Hồi ở college thì mình đi học xong là chạy đi làm, không quen nhiều bạn bè. Giờ thì mình có nhiều thời gian để làm quen với bạn bè, và nhất là với các giáo sư.

Năm cuối, mình còn đang phân vân là nên học tiếp cao học hay đi làm trước rồi sau này mới học cao học, thì nhận được thư từ một giáo sư cũ của mình ở OCC, khuyên mình cứ mạnh dạn nộp đơn vào Harvard. Thầy nói hãy nộp đơn vào trường giỏi nhất, nếu không được thì đi làm, và nộp đơn cho đến khi nào được thì thôi.

Khoa trả lời thầy, nói rằng việc học rất bận và có rất nhiều dự án phải nộp, sợ không có giờ để chuẩn bị hồ sơ vì phải có “portfolio” các mẫu thiết kế và phải có thư giới thiệu và nhiều thủ tục khác nữa. Thầy vẫn khuyên dành thời gian để nộp đơn, thầy sẽ giúp hướng dẫn. Giờ Khoa rất cám ơn thầy, vì nhờ thầy mà Khoa quyết định viết đơn.

Trong lúc đi học ở Berkeley, Khoa có theo một giáo sư để giúp về việc nghiên cứu, và sau này cũng được thầy giúp viết thư giới thiệu.

Khoa nộp đơn hai trường, UC Berkeley và Havard, và cả hai trường đều nhận vào học.

“Đến trường, ngoài giờ trong lớp học thì còn lại mình ở trong studio làm đến 2, 3 giờ sáng.” (Hình: Khoa Vũ)

NV: Hiện một ngày của bạn diễn ra như thế nào?

Khoa Vũ: Dậy sớm, uống cà phê, đến trường, ngoài giờ trong lớp học thì còn lại mình ở trong studio làm đến 2, 3 giờ sáng. Không chỉ Khoa và dân kiến trúc là vậy, cuộc sống mình là trong studio. Khoa dành hai ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy để làm việc, và giúp tổ chức các hoạt động của câu lạc bộ sinh viên kiến trúc. Khoa cũng làm việc rất gần với giáo sư mà mình phụ nghiên cứu.

NV: Đâu là một số điều khó khăn khi theo đuổi việc học và bạn làm cách nào để vượt qua?

Khoa Vũ: Khoa, cũng như nhiều người không lớn lên ở Mỹ, mỗi ngày khi thức dậy mình đều có cảm giác đây là một môi trường mới mẻ mà mình phải cố hòa nhập. Thói quen, văn hóa, ngôn ngữ… đó là những khó khăn. Bạn bè mình có nhiều lợi thế hơn, như sinh ra ở đây, có giúp đỡ từ gia đình… Một khó khăn khác của Khoa là thời gian. Đa số mọi người trong ngành kiến trúc dành toàn bộ thời gian để làm dự án, vì ai cũng muốn có sản phẩm xuất sắc. Mình vẫn đi làm, kiếm tiền, và đi phụ nghiên cứu.

Trước khi sang Mỹ, mình cũng không mơ tới là mình sẽ vào UC Berkeley hay Harvard. Có người thì có mục đích và tiến tới, với Khoa thì mọi thứ nó xảy ra từng bước một. Khoa nghĩ điều khiến Khoa cố gắng từng ngày một và vượt qua khó khăn chính là niềm đam mê thực sự dành cho kiến trúc.

Nếu mình thực sự thích những gì mình đang học, đang làm, thì mình sẽ vượt qua những khó khăn bên ngoài, như sự khác biệt ngôn ngữ và văn hóa. Và khi mình thực sự có đam mê trong công việc, bạn bè và thầy cô có thể cảm nhận được và họ sẽ trân trọng điều đó và ủng hộ mình.

Những khó khăn của Khoa vẫn còn, và Khoa vẫn cố gắng để vượt qua và làm tốt hơn. Khó khăn nhưng cũng là điểm tốt, vì mình biết hoàn cảnh mình thì mình có động lực để làm việc nhiều hơn.

“Nhiều lúc tự nhiên sợ một ngày nào đó bỗng quên cách cầm bút.” (Hình: Khoa Vũ)

NV: Theo bạn, đâu là những điều giúp bạn được nhận vào Đại học Harvard?

Khoa Vũ: Thế mạnh của Khoa là đam mê cho ngành kiến trúc. Các thiết kế của Khoa cũng được các thầy yêu thích. Ngành kiến trúc khác với nhiều ngành khác, sản phẩm sẽ thể hiện khả năng của người thiết kế. Khoa cũng làm việc rất nhiều, cố gắng rất nhiều, vì mình biết hoàn cảnh mình khó khăn hơn.

Nếu có ai hỏi Khoa về những gì đạt được hiện tại, Khoa thường khuyên rằng: Hãy tự hỏi mình là mình có thực sự thích ngành học mình đang học hay không. Cho bất kỳ ngành nghề gì, sự yêu thích công việc rất rất quan trọng. Khi biết được mình thích làm gì và mình có thể làm gì, hãy cố gắng hết sức để đạt thành quả.

Đừng nghĩ rằng: “mình mới qua, mình được trung bình cũng là tốt rồi.” Có thể bạn phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn, nhưng tất cả sẽ vượt qua được. Đừng không dám mơ ước chỉ vì nghĩ hoàn cảnh mình thua người khác. Đừng hạ thấp ước mơ và tiêu chuẩn của mình.

NV: Nếu gặp lại chàng trai tên Khoa đang đứng đợi ở trạm xe bus để đi học tiếng Anh hơn bốn năm trước, Khoa sẽ nói gì?

Khoa Vũ: Khi đó mình muốn làm nhiều thứ lắm, nhiều kế hoạch trong đầu lắm, nhưng cứ sợ không thực hiện được và có ý nghĩ bỏ cuộc. Nếu gặp lại mình của bốn năm trước, mình sẽ nói rằng: “đừng bỏ cuộc, hãy để ước mơ dẫn đường.”

NV: Cám ơn Khoa đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.

Khoa Vũ: Cám ơn Người Việt.–

Liên lạc tác giả: vu.an@nguoi-viet.com

Mario Joseph-Một giáo sĩ Hồi giáo cải đạo sang Công giáo

Mario Joseph-Một giáo sĩ Hồi giáo cải đạo sang Công giáo

dongten.net

Là một giáo sĩ Hồi giáo, Mario Joseph thành thạo kinh Koran và trong giáo lý của đạo Hồi. Thực tế, chính kinh Koran đã đưa anh đến một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô và với chân lý của đức tin Công giáo. Nhưng cuộc cải đạo của anh không phải dễ dàng, và vì nó mà anh đã trải qua những cuộc bách hại khắc nghiệt Làm thế nào anh đạt được tình yêu mãnh liệt với Thiên Chúa, Giáo Hội, Thập Giá và Thiên đàng?

httpv://www.youtube.com/watch?v=N-78Nwboka0

Mario Joseph

https://www.facebook.com/pages/Mario-Joseph/1524660227763417

Lý Quang Diệu: Nửa thế kỷ gắn bó với vận mạng Singapore

Lý Quang Diệu: Nửa thế kỷ gắn bó với vận mạng Singapore

Nguoi-viet.com

HÀ TƯỜNG CÁT/Người Việt


Lý Quang Diệu, tên đọc theo âm Hán-Việt của Lee Kuan Yew, là chính trị gia có vai trò đưa Singapore từ một tiền đồn chiến lược thuộc Anh ở Viễn Đông trong gần 200 năm, một xứ sở trong hàng các nước thế giới thứ ba, trở thành trung tâm tài chính thương mại quan trọng bậc nhất Á Châu và trên thế giới.


Ông Lý Quang Diệu

Trong hơn nửa thế kỷ từ khi Anh trao trả chủ quyền để Singapore trở nên nước cộng hòa độc lập, Lý Quang Diệu trực tiếp hay gián tiếp nắm giữ quyền lực trong suốt 55 năm. Lý Hiển Long, con trai lớn trong ba người con của ông, là cựu chuẩn tướng quân đội Singapore, bộ trưởng tài chính từ 2004 và Thủ Tướng từ 2011 cho đến nay. Mới đây, ở tuổi 92, với sức khỏe đã suy kém, ông Lý Quang Diệu lâm bệnh nặng và chưa biết còn sống được bao lâu nữa.

Thuộc thế hệ thế tư trong một gia đình di dân, ông cố nội từ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, đến Singapore năm 1862, Lý Quang Diệu sinh tại Singapore ngày 16 tháng 9 năm 1923, ngôn ngữ chính từ nhỏ là tiếng Anh và hoàn toàn chịu ảnh hưởng văn hóa Anh. Tới năm 20 tuổi ông mới bắt đầu học tiếng Hoa và cùng lúc là tiếng Nhật khi thuộc địa Singapore của Anh bị Nhật chiếm đóng trong Thế Chiến II từ 1942 đến 1945.

Sau chiến tranh, Lý Quang Diệu qua Anh tiếp tục con đường học vấn, với một thời gian ngắn theo học trường Kinh Tế London rồi chuyển sang học luật tại Fitzwilliam College, đại học Cambridge. Năm 1949, ông trở về hành nghề luật sư trong một tổ hợp pháp lý ở Singapore cho tới 1954 cùng một nhóm bạn hữu có giáo dục Anh thành lập Đảng Hành Động Nhân Dân (People’s Action Party – PAP).

PAP là đảng của giai cấp tư sản với những đảng viên thuộc tầng lớp trung lưu, có khuynh hướng xã hội và liên minh với các công đoàn thiên cộng. Liên minh này, theo mô tả của ông Lý, là một cuộc hôn nhân vì lợi. Vào thời kỳ ấy, PAP là đảng của thiểu số 20% dân nói tiếng Anh, trong khi 70% dân chúng Singapore dùng tiếng Hoa và những thổ ngữ khác. PAP cần sự ủng hộ của đại chúng do những người cộng sản chiếm ưu thế và ngược lại đảng cộng sản cần có ban lãnh đạo PAP làm “màn khói” che chở hoạt động vì  Đảng Cộng Sản Mã Lai là đảng bất hợp pháp.

Lúc đó Singapore và Malaya vẫn còn là thuộc địa Anh với một số quyền tự trị. Năm 1955, Lý Quang Diệu đắc cử đại biểu đơn vị Tangjong Pagar, và trở thành nhà lãnh đạo phe đối lập với chính phủ liên hiệp thân Anh của Mặt Trận Lao Động. Tanjong Pagar nằm giữa bến cảng và trung tâm thương mại Singapore là khu có nhiều di dân gốc Hoa hoạt động thương mại hay làm công nhân lao động. Qua thời gian biến đổi, ngày nay Tanjong Pagar trở nên khu du lịch quen biết với Koreatown và Little Korea ở Singapore.

Thời gian này, Lý Quang Diệu gặp nhiều khó khăn với các đối thủ bên ngoài và trong. Năm 1957, những phần tử thân cộng giành được các chức vụ lãnh đạo PAP và vị trí của Lý Quang Diệu bị đe dọa nặng nề. Nhưng may mắn cho ông và những phần tử trung dung, chính phủ Singapore do Lim Hew Hock lãnh đạo, cho lệnh bắt giữ tất cả các thành phần cộng sản và Lý Quang Diệu trở lại làm Tổng Thư Ký PAP.

Trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 1959, PAP thắng 43 trong 51 ghế hội đồng đại biểu, một hình thức quốc hội của Singapore tự trị trong Liên Hiệp Anh. Lý Quang Diệu trở thành Thủ Tướng Singapore thay thế Lim Hew Hock.

Sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 9 năm 1962 dân chúng Singapore và Malaya muốn chọn độc lập hoàn toàn, Anh Quốc trao trả chủ quyền cho hai lãnh thổ tự trị và Singapore gia nhập Liên Bang Malaysia từ 16 tháng 9 năm 1963.

Sự kết hợp này không lâu dài. Dân chúng Singapore, đa số gốc Hoa chống đối ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo Malaya. Những vụ xung đột chủng tộc / tôn giáo bùng nổ và bạo loạn xảy ra trong năm 1964 ở Singapore. Ngược lại chính quyền liên bang ở Kuala Lumpur lo ngại với thành phần đa số người Hoa ở Singapore cũng như những thách thức chính trị của PAP trong Malaya. Không tìm được phương cách giải quyết cuộc khủng hoảng, Thủ Tướng Tunku Abdul Rahman quyết định trục xuất Singapore khỏi Liên Bang Malaysia.

Ngày 7 tháng 8 năm 1965, Lý Quang Diệu ký thỏa ước ly khai trong đó có phác họa mối quan hệ sau này với Malaysia để duy trì sự hợp tác trong những lãnh vực như thương mại và quốc phòng. Singapore trở thành nước cộng hòa độc lập, một đảo quốc nhỏ bé diện tích 700 km2 và dân số chưa tới 4 triệu khi ấy.

Lý Quang Diệu là người đã nỗ lực vận động gia nhập liên bang, viết trong bản thông báo gởi tới dân chúng: “Suốt cuộc đời tôi từ khi trưởng thành, tôi luôn luôn tin tưởng vào sự kết hợp và thống nhất hai vùng lãnh thổ.” Ông tuyên bố: “Kể từ nay Singapore sẽ vĩnh viễn là một quốc gia độc lập, dân chủ với đầy đủ chủ quyền, đặt trên nền tảng những nguyên lý của quyền tự do và công bằng, hầu mưu tìm phúc lợi và hạnh phúc cho nhân dân đang sinh sống trong một xã hội tối hảo, công bằng và bình đẳng.”

Thực tế sau này cho thấy ông không thực hiện đúng những cam kết và hứa hẹn ấy. Ông đã đưa nước Cộng Hòa nhỏ bé Singapore, thực tế chỉ là một thành phố, mau chóng trở nên “Con Hổ Châu Á, một trong những trung tâm thương mại lớn nhất, một trong 5 cảng bận rộn nhất và trung tâm tài chính quan trong hàng thứ tư trên thế giới. Singapore có thu nhập bình quân đầu người cao thứ ba thế giới, hệ thống giáo dục, y tế công cộng, tính minh bạch của chính quyền và khả năng cạnh tranh kinh tế đều đứng vào hạng cao quốc tế.

Nhưng bản thân Thủ Tướng Lý Quang Diệu, chính thức cầm quyền đến năm 1990, bị chỉ trích là một nhà lãnh đạo độc đoán, khống chế đối lập và không tôn trọng những nguyên tắc dân chủ, hạn chế nhân quyền và tự do ngôn luận. Nói cách khác, có thể coi ông thuộc loại “độc tài sáng suốt,” đem lại kết quả tốt đẹp cho người dân, nhưng không thể gọi là nhà lãnh đạo tiêu biểu trong một chế độ dân chủ tự do.

Quan niệm từ trước của ông Lý Quang Diệu, cho đến khi gia nhập Liên Bang Malaya, vẫn tin rằng Singapore không thể đứng đơn độc và kết hợp là yếu tố căn bản cho sư tồn vong. Singapore không có tài nguyên thiên nhiên, không có nguồn nước, thiếu khả năng phòng thủ và tài nguyên duy nhất là con người cùng nỗ lực cần cù làm việc của dân chúng. Có thể ông đã bị đẩy tới hoàn cảnh ngoài ý muốn, nhưng ông đã dần dần tìm được giải pháp và biết khai thác đúng chỗ đúng lúc những điều kiện trong tầm tay để đi đến kết quả tốt đẹp.

Lý Quang Diệu đã ý thức đúng những nhu cầu của Singapore trong thời kỳ độc lập là an ninh quốc gia, phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội.

Ngay sau khi Singapore được làm hội viên Liên Hiệp Quốc, Lý Quang Diệu tìm cách mở rộng sự công nhận của quốc tế. Ông tuyên bố chính sách trung lập và đường lối không liên kết. Lực lượng vũ trang Singapore được tổ chức trong chừng mực tối thiểu cần thiết với sự vận động các quốc gia khác trợ giúp trong các lãnh vực trang bị, huấn luyện và tư vấn.

Singapore gia nhập Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967 và tìm cách phát triển quan hệ hữu nghị trước hết với Indonesia từng có những đối đầu trước kia, rồi tới các nước trong khu vực từ Malaysia, Việt Nam tới Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Hàn, Nhật Bản…

Tách rời khỏi Liên Bang Malaysia có nghĩa là Singapore mất thị trường chung và thị trường nội địa, đồng thời các căn cứ quân sự của Anh sẽ  triệt thoái hoàn toàn và phá hủy năm 1975. Lý Quang Diệu đã vận động Anh để chuyển đổi các căn cứ và công xưởng quân sự dùng vào mục đích dân sự. Việc này giúp Singapore có điều kiện tiến dần vào con đường công nghiệp hóa. Chính phủ lập kế hoạch thu hút đầu tư nước ngoài, huấn luyện cho một lực lượng lao động lương thấp nhưng kỷ luật và tay nghề cao. Hệ thống hạ tầng cơ sở, phi trường, hải cảng, đường lộ, mạng lưới thông tin được phát triển cùng với nhiều kế hoạch kinh tế khác đã làm thay đổi hoàn toàn tình trạng Singapore. Thủ Tướng Lý Quang Diệu cũng có được nhiều phụ tá giỏi và những bộ trưởng tài năng như Goh Keng Swe và Hon Sui Sen, những người giúp nhiều cho việc hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp và những chương trình xã hội khác.

Qua 25 năm lãnh đạo một nước cộng hòa độc lập, ở chức vụ Thủ Tướng, và sau đó 14 năm ở cương vị Bộ Trưởng Cao Cấp, Lý Quang Diệu kiến tạo Singapore thành một đất nước hoàn toàn mới, một xã hội đứng ngang hàng các quốc gia văn minh tiên tiến trên thế giới. Singapore nổi tiếng là thành phố đẹp, sạch, đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, hệ thống giao thông hiện đại.

Nhưng vị trí địa dư của Singapore vừa là thuận lợi cho sự phát triển vừa là điều kiện đưa tới nhiều khó khăn phức tạp như buôn lậu, ma túy, hải tặc. Thủ Tướng Lý Quang Diệu cũng nổi tiếng về việc cho áp dụng luật pháp khắt khe và đôi khi vượt nguyên tắc của các chế độ dân chủ như bãi bỏ bồi thẩm đoàn ở tòa án trong một số trường hợp xét xử.

Một số những chỉ trích cho rằng Lý Quang Diệu là người dành đặc quyền lãnh đạo đất nước cho giới thượng lưu ưu tú. Ông cũng bị chỉ trích về thủ đoạn đàn áp đối lập và ngăn chặn tự do ngôn luận theo đó ông dùng con đường khởi kiện đưa đối thủ hay người chống đối ra tòa cho đến khi họ phá sản hay tiêu tan sự nghiệp và như thế chẳng khác gì thủ tiêu các quyền con người được Liên Hiệp Quốc quy định.

Ông cũng bị tố cáo là có chủ trương gia đình trị. Đây là chuyện có thể tranh cãi lâu dài không dứt vì như ông giải thích, những người trong gia đình ông nếu có đạt tới chức vụ cao là do khả năng cá nhân và nỗ lực bản thân. Những tố cáo này căn cứ trên thực tế, con trai trưởng của ông làm Thủ Tướng từ 2011, và từng là Phó chủ tịch ủy ban quản trị đầu tư Singapore (ông là chủ tịch). Người con trái thứ cũng là một cựu chuẩn tướng, hiện làm chủ tịch – tổng giám đốc tập đoàn truyền thông xuyên Á Sing Tel., công ty được liệt kê là lớn nhất trên thị trường chứng khoán Singapore. Bà vợ của ông cũng có liên hệ đến những công ty tài chính quốc doanh nắm quyền kiểm soát nhiều công ty quan trọng như Singapore Airlines và Ngân Hàng DBS.

Dù có những tranh luận như thế, không ai có thể phủ nhận ông Lý Quang Diệu có vai trò của người lập quốc Singapore, đã có công đưa nước cộng hòa nhỏ bé này lên vị trí thượng đẳng  trên thế giới, và toàn thể câu chuyện ấy là bài học đáng suy ngẫm cho nhiều nước khác ở Á Châu. (HC)

ÔNG BỐ QUYẾT KHÔNG TỪ BỎ CON TRAI BỆNH DOWN MẶC CHO VỢ LY HÔN

ÔNG BỐ QUYẾT KHÔNG TỪ BỎ
CON TRAI BỆNH DOWN MẶC CHO VỢ LY HÔN

Trích EPHATA 643

Ngày 21.1.2015, tại một bệnh viện ở Armenia, con trai đầu lòng Leo của ông bố người New Zealand chào đời. Niềm hạnh phúc làm cha chưa được trọn vẹn, Samuel sửng sốt nhận tối hậu thư của vợ là Ruzan Badalyan bắt buộc anh phải chọn lựa hoặc con trai hoặc vợ.

Người phụ nữ sống cùng anh hơn một năm qua đã thẳng thừng đòi bỏ rơi Leo ngay sau khi bé ra đời. Đứa trẻ mắc hội chứng Down. Theo tờ Newstral, người mẹ này từ chối nhìn hay thậm chí chạm vào đứa trẻ mình mang nặng đẻ đau, bởi trong văn hóa Armenia, đứa trẻ như Leo là sự hổ thẹn cho cả gia đình.

Trái ngược với thái độ kỳ thị ấy, ông bố Samuel quyết định bằng mọi giá phải nuôi nấng con trai mình. Điều ấy đồng nghĩa với lá đơn ly hôn của người vợ và rất nhiều khó khăn phải đối diện khi làm bố đơn thân nuôi con khuyết tật.

Samuel vẫn nhớ như in buổi tối bé trai Leo ra đời. Các bác sĩ không cho phép anh được gặp vợ hay con trai mình ngay lập tức. “Các bác sĩ bước ra khỏi phòng hộ sinh với một cái bọc nhỏ trên tay. Trong đó gương mặt thằng bé bị che lại và các nhân viên không cho tôi gặp vợ hay con trai”, Samuel kể lại. Lời nói của bác sĩ khi ấy rằng “con trai anh thật sự có vấn đề” là điều khiến ông bố trẻ lo sợ.

Sự thật cuối cùng cũng sáng tỏ, Samuel biết con trai mắc phải hội chứng Down. Anh sốc và đau đớn khi nhận tin xấu từ bác sĩ nhưng ý nghĩ từ bỏ con tuyệt nhiên chưa một lần hiện lên trong tâm trí anh. “Cuối cùng, họ cũng cho tôi vào thăm thằng bé. Tôi nhìn chàng trai nhỏ, nói rằng nó thật đáng yêu và hoàn hảo. Tôi chắc chắn sẽ nuôi bé”, Samuel nhớ lại giây phút gặp con trai lần đầu tiên trong đời.

Samuel hoàn toàn không hay biết thiên thần nhỏ của anh đã bị chính mẹ đẻ lạnh lùng chối bỏ và mọi việc diễn ra âm thầm sau lưng anh. Khi Samuel bế con trai tới thăm vợ, cô dọa sẽ ly hôn nếu anh giữ lại đứa bé. Bất ngờ trước phản ứng của vợ, Samuel vẫn đi theo lời mách bảo của tình phụ tử thiêng liêng. Cô vợ đệ đơn ly hôn một tuần sau đó.

Đối diện với nhiều khó khăn tài chính của một người hành nghề tự do trong ngành kinh doanh, Samuel đang nỗ lực tìm kiếm sự giúp đỡ để rời Armenia và trở về quê hương New Zealand nuôi nấng con trai khuyết tật. Cảm động trước tình cảm anh dành cho con trai nhỏ bất hạnh, nhiều nhà hảo tâm đã quyên góp giúp đỡ hai cha con trong hành trình về nhà xây cuộc sống mới.

Trang gây quỹ mang tên “Mang Leo về nhà” do Samuel lập ra đã nhận được hơn 100.000 USD trong 24 giờ. Ông bố hoàn toàn bất ngờ trước sự giúp đỡ nhiệt tình từ nhiều người xa lạ.

“Leo và tôi thấy mình đã vượt mục tiêu nhanh chóng. Bé thật may mắn khi nhận được sự quan tâm của hàng nghìn bạn bè trên toàn thế giới”, ông bố bày tỏ sự cảm ơn tới những người ủng hộ mình từ khắp mọi nơi.

Số tiền quyên góp sẽ được sử dụng để tìm một ngôi nhà ở Auckland và cho Leo cơ hội đến trường. Samuel cũng dự định sử dụng một phần trong quỹ để ủng hộ cho trẻ em khuyết tật ở Armenia.

Theo dailymail.co.uk

Hà Nội ‘dừng chặt cây do áp lực dư luận’

Hà Nội ‘dừng chặt cây do áp lực dư luận’

UBND TP Hà Nội phải yêu cầu dừng việc chặt hạ thay thế cây xanh do áp lực từ người dân lẫn truyền thông trong nước, theo một nhà quan sát.

Trong cuộc họp sáng 20/3, Chủ tịch UBND Nguyễn Thế Thảo đã yêu cầu Sở Xây dựng TP Hà Nội và các đơn vị liên quan tạm dừng việc thay thế hàng loạt cây xanh trên đường phố để phục vụ việc “rà soát, phân loại” lại, báo điện tử VnExpress đưa tin.

“Chỉ hạ chuyển những cây phải giải phóng mặt bằng xây dựng hạ tầng theo quy hoạch, thay thế những cây mục ruỗng có nguy cơ đổ gãy, cây nghiêng ảnh hưởng đến an toàn giao thông, tính mạng, tài sản của nhân dân,” ông được dẫn lời nói.

“Với những cây cong nghiêng ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị và cây không đúng chủng l oại đô thị thì thực hiện chỉnh trang thay thế từng bước. Chỉ thay thế những cây không thể chỉnh trang và duy trì được.”

Ông Thảo cũng ‘hoan nghênh’ báo chí đã phản ánh kịp thời ý kiến dư luận, VnExpress cho biết thêm.

Đề án cải tạo và thay thế 6.700 cây xanh do Sở Xây dựng Hà Nội đề ra đã gây nhiều sự phản đối trong nước.

Trang ‘6.700 người vì 6.700 cây xanh’ đã thu hút gần 40.000 thành viên chỉ trong vài ngày.

Nhiều trí thức trong và ngoài nước cũng đã đặt câu hỏi về tính hợp lý của đề án trên, trong đó có Giáo sư Ngô Bảo Châu, Giáo sư Nguyễn Lân Dũng.

‘Sức ép từ dư luận’

” Vụ này phải truy đến cùng. Nếu không thì cần gì luật thủ đô? Các ông nói cần luật riêng để chúng tôi hành động và khi được cho rồi thì chính các ông phá

Luật sư Trần Vũ Hải”

Trả lời BBC ngày 20/3 Luật sư Trần Vũ Hải, từ Hà Nội, cho biết chính quyền địa phương Hà Nội đang “chịu sức ép rất lớn từ dư luận”.

“Sáng nay theo tôi được biết đã có nhiều phụ nữ, sinh viên giơ các khẩu hiệu phản đối trước cửa phòng tiếp dân của UBND TP Hà Nội”, ông nói.

“Trước đây phản ứng trên báo chí nhà nước còn phải mất nhiều ngày qua biên tập”.

“Hiện nay có mạng xã hội thì họ có thể biểu đạt sự phản đối một cách thoải mái và phản ứng đó sẽ có tác động ngay tức thì.”

“Cho dù thế nào thì các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương cần biết rằng họ không thể tự tung tự tác được.”

Tuy nhiên ông cũng cho rằng “để nói là sức ép của người dân lên chính sách đã đủ lớn thì cũng không hẳn”.

“Sức ép phải được gây từ khi ban hành chính sách,” ông nói.

“Hiện nay người dân chỉ có thể gây sức ép khi chính sách đã bắt đầu gây hậu quả.”

Luật sư Trần Vũ Hải nói việc chặt cây đi ngược lại với chính luật lệ mà chính quyền TP Hà Nội đã đề ra

Sai pháp luật

Trước đó, UBND TP Hà Nội trong công văn hôm 18/3 nói việc thay thế cây được “hầu hết nhân dân khu vực” ủng hộ.

Bình luận về việc này, Luật sư Hải cho rằng “không phải là có hỏi ý kiến dân mà là việc hỏi ý kiến như thế nào, có đúng hình thức hay không”.

“Chính quyền thì phải làm đúng thẩm quyền và đúng pháp luật.”

“Ở đây việc chặt cây tôi khẳng định là trái pháp luật, cụ thể là Nghị định 64 về quản lý cây xanh đô thị.”

“Theo Nghị định 64 thì cây bị bão đổ, già mục yếu thì có thể chặt, nhưng có rất nhiều cây trong này không thuộc đối tượng bị chặt.”

“Cái thứ hai là phải hợp lý và được dân chấp nhận, ở đây không chỉ là người dân trong địa bàn nào đó mà là người dân toàn thành phố, vì là cây xanh trên đường chung. Và cho tới giờ thì tôi chưa thấy ai hỏi người dân thành phố cả.”

“Theo luật về quy hoạch đô thị năm 2009 thì việc thay đổi cây xanh phải có sự bàn bạc của dân cư tại khu vực bị ảnh hưởng.”

“Luật thủ đô cũng ghi rõ là “nghiêm cấm chặt phá rừng, cây xanh”. Cây trong khu vực dự án cũng không được chặt mà là chuyển đi khu vực khác.”

“Họ không những chưa tôn trọng người dân mà còn chưa tôn trọng chính luật lệ đã ban hành.”

Ông Hải cũng cho rằng cần phải có người chịu trách nhiệm trước những hậu quả đã gây ra.

“Hiện đã có 500 cây bị chặt rồi, đường Nguyễn Chí Thanh từng được xem là một trong các đường đẹp nhất Việt Nam, thì đã đốn sạch”, ông nói.

“Việc đốn như thế tôi khẳng định là không đúng luật, mà đã làm không đúng luật là phải có người chịu trách nhiệm.”

“Vụ này phải truy đến cùng. Nếu không thì cần gì luật thủ đô? Các ông nói cần luật riêng để chúng tôi hành động và khi được cho rồi thì chính các ông phá.”

“Chính quyền Hà Nội đang vi phạm luật mà chính họ yêu cầu. Điều này là trách nhiệm rất lớn của lãnh đạo Hà Nội.”

Viết cho người vứt bỏ con mình!

Viết cho người vứt bỏ con mình!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Em thân mến,

Viết-cho-người-vứt-bỏ-con-mình!

Tôi rất đỗi bàng hoàng khi thấy thi hài con em chết tất tưởi trong khu vườn dưới nhà của em. Tôi không rõ động cơ nào khiến em làm chuyện động trời như thế; nhưng cứ nhìn hậu quả, không ai có thể cảm thông cho em được. Mấy ngày nay, búa rìu dư luận không chỉ hướng về em mà còn nhắm đến những người nhẫn tâm vứt bỏ đứa con mà mình dứt ruột đẻ ra. Đó là một hiện tượng đau lòng cho con dân Nước Việt vốn có truyền thống ý thức mạnh mẽ về sự thiêng liêng của tình cha nghĩa mẹ. Tôi muốn viết cho em đôi dòng, chia sẻ cùng em chút tâm tư của tôi.

Dư luận chỉ trích em là một người mẹ mất hết nhân tính. Họ vô cùng bàng hoàng và phẫn nộ trước hành động bất nhân của em. Tôi cũng vậy! Em biết đấy, là con người, ai cũng yêu quý sự sống của mình và tôn trọng sự sống của người khác. Đó là món quà Thượng Đế dành tặng cho con người để họ cùng nhau kiến tạo một nền văn mình tình thương và sự sống. Hơn nữa, người con em mang nặng đẻ đau lại chính là phần máu thịt của em. Mối dây thiêng liêng ấy không ai có quyền xem nhẹ hay cắt bỏ. Tôi không tin em quê mùa thiếu hiểu biết về những đòi hỏi của luân thường đạo lý, của bổn phận làm cha mẹ đối với con cái đến như vậy. Là một nữ sinh trường y, tuy có thể hiểu biết về kiến thức giới tính, nhưng em lại thiếu một trái tim yêu thương, một tấm lòng nhân nghĩa. Hậu quả là hành vi khủng khiếp của em mãi mãi bị người đời lên án và lương tâm em không ngớt dày vò, ray rứt.

Nhưng câu chuyện của em cũng là câu chuyện xót xa của rất nhiều người trẻ hiện nay. Họ không chỉ vất đứa con mình mang nặng đẻ đau, mà còn nỡ giết con mình ngay trong thế giới tưởng như an toàn nhất: dạ mẹ. Nơi cung lòng ấy, thai nhi tin rằng mình được bố mẹ yêu thương và chăm sóc ân cần, chờ đến ngày chúng mở mắt chào đời. Nhưng đáng buồn thay, từng giây phút, biết bao người mẹ nỡ đành vứt bỏ, giết hại người con của mình. Họ bỏ con trong xọt rác, vứt con bên vệ đường, bãi rác, dưới ao hay nơi hoang vắng, hoặc có thể nạo phá thai. Nếu người ta cho em bị vấn đề tâm sinh lý bất ổn định, hoang tưởng hay bất nhân mới nhẫn tâm vứt bỏ con của em như thế, thì với những người phá thai, chẳng lẽ tâm sinh lý của họ bình thường, chẳng lẽ họ nhân nghĩa với đứa con mình đang cưu mang? Trớ trêu thay, nhiều người vẫn mong mỏi tiếng nói cười của trẻ thơ, được hạnh phúc trong vai trò làm cha, làm mẹ, thì em cũng như nhiều người trẻ khác lại chối bỏ đặc quyền thiêng liêng Tạo Hoá dành cho mình. Ước chi qua sự kiện rúng động dư luận của em, mỗi người biết yêu quý sự sống của các thai nhi vô tội và những em bé đáng thương.

Đứng trước thi hài con em, ngoài sự thương tiếc xót xa, ai ai cũng ưu tư lo lắng cho nền đạo đức nước nhà. Một khi giới trẻ hiện nay sống buông thả, vô trách nhiệm với chính bản thân, gia đình và xã hội, thì câu chuyện của em cũng là nỗi đau không chỉ của riêng ai. Đau vì phải chứng kiến nhiều con người đang hủy hoại chính sự sống của chính mình và của người khác; đau vì nền văn minh sự chết đang lan tràn; và đau vì sự ác đang cướp đi hạnh phúc của bao người.

Em biết đấy, đúng là vứt bỏ con mình hay nạo phá thai là điều khủng khiếp, đáng lên án và phải loại trừ. Nhưng giải pháp cho vấn nạn này là gì, nên bắt đầu từ đâu? Chắc là em cũng đồng ý với tôi câu trả lời là: “Hãy tôn trọng sự sống” vì ba lý do:

1.Sự sống là món quà Thượng Đế dành tặng riêng cho từng con người. Không ai có quyền cướp đi quà tặng ấy.

2.Yêu quý sự sống của người khác như chính sự sống của mình. Đó không chỉ là công bằng mà còn là trách nhiệm.

3.Và, vì chúng ta là con người!

Được như thế, tôi tin rằng em và mỗi người, với tình yêu và hy vọng, sẽ kiến tạo được một xã hội của văn minh tình thương và sự sống, để không còn tang tóc như câu chuyện buồn của em nữa.

Thân chào em,

Thủ Đức ngày 20.03.2015

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Anh Thợ Sửa Xe Đạp Và Giấc Mơ Mỹ

Anh Thợ Sửa Xe Đạp Và Giấc Mơ M

Phương Hoa

Tác giả: Phương Hoa
Bài số 3481-16-29881vb7030815

Tác giả định cư tại Mỹ từ 1994, vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, “Viện Bảo Táng Của Những Người Lính Bị Bỏ Quên” tác giả đã nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài sau đây trích tư  Việt Báo Tết Ất Mùi 2015.

* * *

blank

Tác giả Phương Hoa (giữa) chụp hình lưu niệm với vợ chồng Adam Le (trái).

Ngày xưa, khi đặt chân lên chiếc ghe câu nhỏ xíu cùng với mấy chục con người nêm cứng khoang thuyền để đào thoát khỏi Việt Nam, giấc mơ Mỹ của anh thợ sửa xe đạp tại một làng quê tên Lê Tường hiện ra trước mắt là một vùng trời biển mênh mông không thấy bến bờ. Hơn hai mươi lăm năm sau, chàng trai gốc chân quê ấy đã trở thành Adam Lê, ông chủ của City Cycle Werkes, một cơ sở chuyên mua bán sửa chữa xe Mô Tô có tầm cỡ tọa lạc tại trung tâm thành phố Cựu Kim Sơn, San Francisco, thành phố du lịch nổi tiếng của Hoa Kỳ.

Hành trang mang theo trong ngày đầu đặt chân lên đất Mỹ của Adam chỉ vỏn vẹn một nhúm kiến thức lớp Năm Việt Ngữ, chút ít kinh nghiệm về… ống bơm xe đạp cùng “mỏ-lếch-cờ-lê,” và một đồng hai mươi lăm cent ($1.25) Sở Di Trú Hoa Kỳ cho để anh gọi điện thoại khi cần. Thành công của chàng trai này không phải nhờ “phép lạ.”

Có lẽ không bút mực nào ghi cho hết những thăng trầm về cuộc đổi đời kỳ diệu của Adam. Sinh ra ở một ngôi làng nhỏ thuộc miền Trung, anh cưới vợ sớm như bao bạn bè khác. Gia đình chỉ sống nhờ vài sào ruộng được “hợp tác xã” chia cho nên anh phải làm thêm nghề sửa xe đạp. Cặp vợ chồng trẻ sinh được một bé trai trong cuộc sống vất vả của xã hội mới. Nhìn bạn bè đồng lứa lớp bị bắt đi “nghĩa vụ quân sự,” lớp vượt biên, một ngày kia anh bỗng cảm thấy mình cũng cần phải đi, để tìm tự do, tìm giấc mơ cho cả gia đình.

Hai mươi hai tuổi anh bỏ nước ra đi, bỏ lại Đương cô vợ trẻ, và đứa con vừa tròn mười tám tháng.

Những khi họp mặt bạn bè, Adam thường kể lại chuyện vượt biên ly kỳ ngày ấy. Thuyền ra khơi, anh vô cùng hoảng sợ. Biển cả hiểm nghèo như chực chờ nuốt chửng chiếc thuyền con có đám người đang rời bỏ quê hương. Chạy được gần hai ngày thì họ bị mất phương hướng. Lúc ghe vừa ra khơi, tài công phát hiện chiếc hải bàn bị mất. Người đàn ông được thuê chuyên chở người và vật dụng ra ghe chính đã ăn cắp chiếc hải bàn. Tối trời, anh ta cầm trúng cái gói nặng tay ngỡ là vàng bèn cuỗm luôn không giao lại. Đã thoát được rồi, tài công đành định hướng chạy tới luôn. Nhưng ra đến hải phận quốc tế thì trời đất mịt mù, không biết đường đi tiếp nên phải đánh liều quay lại để kiếm hải bàn.

Tối ngày thứ tư thì ghe trở về chỗ cũ. Một người dũng cảm tình nguyện lội vào bờ, đến nhà tay ăn cắp để đòi lại hải bàn. Nhiều người vì hãi hùng đã đổi ý nhảy xuống theo anh ta. Adam cũng rất muốn trở về, một phần vì sợ, phần vì thương vợ nhớ con. Tuy vậy, anh cắn răng bám chặt vào thành tàu giữ cho mình khỏi phóng xuống nước. Người ấy đòi được hải bàn mang ra ghe, nhưng bọn họ bị công an hùng hổ kéo quân rượt bắt vì tay đạo chích đã đi báo cáo. Nhờ sự lanh trí của tài công, chiếc thuyền con chạy “tốc khói,” khéo léo luồn lách ngoạn mục, cuối cùng đã đánh lạc hướng đám ghe công an.

Trải qua nhiều ngày sóng dồi gió dập tả tơi, họ cũng an toàn đến được đảo Palawan, Philippines.

Năm 1983, sau hơn hai năm chờ đợi trên đất Phi, Adam đến Mỹ và định cư ở thành phố San Francisco. Không bỏ lỡ thời gian, anh lao ngay vào trường học Anh Văn. Hết tám tháng trợ cấp của chính phủ, Adam xin vào thử việc không lương cho Dealers, một hãng sửa chữa mô tô ở thành phố San Francisco. Sau một tháng, anh được nhận làm tạm thời, lương chỉ $4.25/giờ. Công việc của chàng trai tị nạn mới đến là làm tạp vụ, dọn dẹp và lau chùi từ nhà xưởng cho đến phòng làm việc, toa lét.

Nhưng giấc mộng của Adam không phải là những nơi đó. Vốn từng làm nghề sửa xe đạp, chàng công nhân tạp vụ mơ ước có ngày sẽ được học sửa mô tô để làm việc như những chuyên viên thực thụ trong xưởng. Mỗi ngày đến cơ sở mang theo hoài bảo, anh làm việc siêng năng không mệt mỏi, hy vọng kiếm chút thời gian thừa để học lóm tay nghề. Giờ nghỉ giải lao, những buổi ăn trưa, nhân viên tụm năm tụm ba tán chuyện cười đùa. Riêng Adam ăn xong là bắt tay ngay vào làm việc. Nhà xưởng luôn gọn gàng, ngăn nắp. Văn phòng lúc nào cũng bóng loáng. Nhà vệ sinh bao giờ cũng sạch sẽ thơm tho. Làm xong hết việc, anh đến phụ giúp lặt vặt cho các nhân viên, và thường để ý học thầm cách thức người ta sửa chữa xe mô tô.

Khi đó Adam mới đến Mỹ, nào biết tí gì về luật lao động. Anh cắm cúi làm việc chăm chỉ là bởi do bản tính siêng năng. Trong hãng ai cũng thích cái anh chàng “ham việc” này. Làm được mấy tháng, ngày kia một người nhân viên tò mò hỏi anh có được lãnh tiền “overtime” cho những giờ phụ trội ấy. Anh tình thật trả lời không. Người đó thấy anh bị thiệt thòi, bèn gọi mách Sở Lao Động. Đối với đất nước Hoa Kỳ, đây là “chuyện lớn” vì bóc lột công nhân. Sở cử người đến điều tra và phạt hãng trả Adam một số tiền khá lớn, bồi thường cho tất cả thời gian anh đã làm trong những giờ ăn trưa và giờ nghỉ giải lao.

– Nhận được tiền bồi thường mà tôi…run muốn chết! Sau này Adam kể lại. -Dù đó là một số tiền không nhỏ, vì họ phạt hãng phải trả tiền lời và tiền gì đó tùm lum thứ, nhưng tôi chẳng những không mừng mà còn sợ bị đuổi việc.

Adam đem tiền về và chuẩn bị tư thế đi xin việc khác. Nhưng hôm sau anh vào hãng thì ông giám đốc đích thân ra hỏi chuyện. Rồi ông ký quyết định thuê chính thức người công nhân tạp vụ đã từng làm cho công ty bị phạt! Sau đó, hãng gửi Adam đến trường để được đào tạo tay nghề.

Có cơ hội tốt, Adam cố gắng học rồi thi lấy bằng kỹ thuật sửa chữa xe Mô Tô. Đó là mảnh bằng đầu tiên của anh trên đất Mỹ. Tốt nghiệp xong, Adam bắt đầu làm việc cho hãng. Anh tận dụng tối đa những gì học được để phục vụ khách hàng. Sự tận tâm của anh chuyên viên người Việt Nam nhỏ con nhất, tay nghề non trẻ nhất, và tiếng Anh bập bẹ nhất công ty đã được khách hàng ưa chuộng. Rất nhiều người gọi tới làm hẹn yêu cầu đích danh Adam sửa xe cho họ. Người trong công ty, kể cả giám đốc, nhiều lần tròn mắt kinh ngạc và thán phục nhìn anh thợ “tí hon” nhất hãng bằng động tác khéo léo tuyệt vời đã di chuyển một cách nhẹ nhàng những chiếc mô tô hàng trăm, hàng nghìn phân khối, nặng gấp nhiều lần sức nặng của anh.

Từ đó, Adam được giám đốc ưu ái chọn, gửi đi tu nghiệp mỗi năm một lần. Cho đến khi nghỉ việc ra riêng, Adam đã hoàn thành được mười mấy cái chứng chỉ sửa chữa mô tô.

Với sự làm việc cật lực, cộng thêm tiếp tục học hành, anh thợ trẻ Adam dần trở thành một chuyên viên nhiều kinh nghiệm và có uy tín nhất hãng. Bất cứ loại xe nào, từ mô tô phân khối nhỏ, đến các loại xe phân khối lớn, “lớn xác lẫn lớn tiền” như Honda, Suzuki, Yamaha, BMW… model của Mỹ, Nhật, Đức, Ý gì cũng không làm khó được Adam. Uy tín của anh ngày càng tăng. Sự hài lòng của đa số khách hàng dẫn đến việc một tờ tạp chí Motocycle Magazines của địa phương đã viết về Adam với những lời ngợi khen đặc biệt.

Rất là thú vị, sự thành công vượt bậc nhanh chóng của Adam không hề làm cho đồng nghiệp đố kỵ. Trái lại, các bạn cùng hãng rất thích anh vì cái tính hiền hòa, thân thiện, luôn giúp đỡ người khác. Về sau khi Adam mở xưởng, nhiều đồng nghiệp cũ đã đến phụ giúp anh một cách rất nhiệt tình trong những ngày đầu.

Không những Adam được bạn đồng nghiệp yêu mến, mà bạn bè thân hữu cũng rất quý anh. Anh thường ra tay giúp đỡ khi người ta hữu sự, từ đất Mỹ đến quê nhà, chẳng quản ngại khó khăn hay công sức. Tôi còn nhớ có lần người bạn của Adam đang sửa nhà thiếu người phụ, anh tình nguyện xin nghỉ việc ở hãng đến giúp bạn mình. Kết quả, anh đã bị ngã từ trên thang cao xuống đất. May mà anh chỉ bị gãy chân. Vợ con anh đã một phen mất vía, vì té kiểu đó rủi trúng đầu thì nguy hiểm vô cùng.

Năm 1989, Đương vợ anh bồng con xuống tàu vượt biển đến Philippines. Hay tin, Adam vội vã bay qua trại tỵ nạn để bảo lãnh họ. Thời gian anh ở Phi một tuần lễ, chẳng những là tuần lễ hạnh phúc của vợ con anh, mà đó cũng là tuần lễ may mắn của bạn bè, bà con đồng hương, và những người cư ngụ cùng nhà với vợ anh, trong đó có ông xã của kẻ viết bài này. Đến bây giờ ông ấy vẫn còn nhớ cái cảnh những người quen đến ngồi đầy sân trước gian trại vợ Adam ở, để nghe anh kể chuyện về nước Mỹ và chiêu đãi trà nước bánh kẹo cho mọi người. Trước khi về Mỹ, anh đã tặng đến đồng bạc cuối cùng cho tất cả những người quen biết. Ai nấy đều mừng quýnh, vì số tiền này có thể giúp họ mua thức ăn thêm cũng được vài tuần.

Adam đoàn tụ vợ con sau mười ba năm xa cách. Bạn bè thường đùa, chấm anh “5 Star” về tính thủy chung. Mới hơn hai mươi tuổi, dễ nhìn lại có tài, Adam được ông giám đốc điều hành của hãng “chấm” và ngỏ ý muốn tác thành cho cô em của ông. Cô gái Nhật xinh đẹp này cũng rất thích Adam. Nhưng anh đã khéo léo từ chối, một lòng chờ đợi vợ.

Đương đoàn tụ với chồng được vài năm, thì từ mức lương lau chùi dọn rửa chỉ hơn bốn đồng bạc/giờ khi bắt đầu của anh đã vượt lên tới mức trên…”sáu số,” chiếm kỷ lục hãng. Ngoài những lúc đi làm hãng, Adam còn dạo mua xe cũ về sửa chữa rồi bán lại. Đến năm 1995, sau hơn mười năm ở Mỹ, trong khi nhiều bạn đồng nghiệp kỳ cựu người bản xứ của Adam vẫn còn ở nhà thuê, vợ chồng anh chàng tị nạn da vàng gốc quê đã mua được ngôi nhà hai tầng có vườn sau rất đẹp ở gần bờ biển San Francisco.

Mộng lớn của Adam là hình thành một cơ sở kinh doanh do mình tự làm chủ. Anh để ý học hỏi, thu thập kinh nghiệm về kinh doanh chờ cơ hội. Giấc mơ này là động lực cho Adam làm việc bất kể ngày đêm. Sau khi mua nhà, anh “tăng tốc,” tận dụng từng chút thời gian rảnh dùng vào việc mua bán xe mô tô. Anh mua tất cả các loại xe, cũ mới, phân khối lớn nhỏ, kể cả các loại xe cổ đắt tiền (Classic Motorcycles). Lúc nào nhà anh mô tô cũng chất đầy garage, chất đầy tầng trệt. Xe nào còn mới tốt thì anh mua về lau chùi đánh bóng lại rồi bán ngay. Xe cũ thì tân trang sơn sửa rồi mới bán. Đi làm về nếu không đi mua xe, anh lao vào miệt mài sửa chữa. Việc làm phụ này đã cộng thêm thu nhập đáng kể vào thu nhập chính của gia đình. Và cuối cùng anh cũng đã thực hiện được mơ ước.

Người ta thường nói, “Sau lưng người đàn ông thành công luôn luôn có một phụ nữ…tốt” quả không sai chút nào. Nếu nói về sự thành công của Adam Lê mà không nhắc đến người “nội tướng” trẻ trung xinh đẹp và hiền thục của anh một chút thì sẽ là một thiếu sót. Đương Nguyễn cũng là một cô gái xuất thân từ chốn thôn quê, được dạy dỗ với đầy đủ công dung ngôn hạnh. Sang Mỹ đòan tụ cùng Adam, cô chẳng những vừa lo việc sinh con, chăm sóc nuôi dạy chúng, mà cô còn đi làm, là một chuyên viên thẩm mỹ. Đương là cánh tay đắc lực của Adam. Dù luôn bận rộn, vợ Adam vẫn lo con cái chu đáo. Cậu con trai trưởng là một kỹ sư vi tính đã đi làm, cô con gái út đang theo học dược ở UC Davis, còn cậu con trai giữa thì đã học xong, ở nhà phụ giúp bố từ khi anh mua xưởng.

Adam mua lại xưởng sửa chữa mô tô này vào năm 2010. Chỉ trong vòng một năm, sự thành công của Adam có thể thấy rõ. Trên trang web “Yelp,” người ta cập nhật rất nhiều lời khen của khách hàng viết về ông chủ Adam Lê và City Cycle Werkes. Hầu hết họ đều cho điểm “5 Star” và kèm theo những lời giới thiệu rất nhiệt tình cộng với nhiều hình ảnh họ chụp khi đến lấy xe từ xưởng của Adam. Uy tín của anh và City Cycle Werkes được mấy vị Professor dạy ngành Motorcycle Technician ở đại học cộng đồng City College of San Francisco biết đến. Họ thường giới thiệu các sinh viên chuyên ngành của trường đến gặp Adam Lê để phỏng vấn, tìm hiểu về kinh nghiệm nghề nghiệp, cũng như việc điều hành sơ sở kinh doanh ngành “Motorcycle Business” để họ về làm “Project” tốt nghiệp.

Điều ngạc nhiên là, trong bốn năm qua, cơ sở làm ăn rất quy mô và phát đạt của Adam lại không hề tốn tiền cho những quảng cáo bạc nghìn bạc triệu trên TV, cũng chẳng phải trả đồng nào cho nhật báo, tạp chí, hay radio. Tuy nhiên, anh cũng có một cách quảng cáo rất riêng, rất độc đáo. Đó là dùng chiêu thức “chinh phục cái bao tử” để hấp dẫn, làm cho khách hàng nhớ đến mình.

blank

Cửa tiệm City Cycle Werkes.

Sau một năm mở cửa, City Cycle Werkes phát triển rất tốt, vợ chồng Adam bàn tính việc mở một buổi tiệc Tất Niên đãi khách hàng, để tỏ lòng cám ơn sự ủng hộ của họ. Đương, cô vợ đảm đang của anh đã đưa ý kiến đãi khách hàng bằng các món ăn thuần tuý quê nhà của mình, thay vì những món ăn của người Mỹ. Ấy vậy mà khách hàng, hầu hết là người Mỹ, đều thích các loại thức ăn Việt Nam có nước mắm do Đương và bạn bè cô tự tay nấu lấy. Lần đãi đầu tiên là để “thử lửa,” không ngờ được khách hàng chiếu cố rất tận tình. Cho nên từ đó về sau, mỗi năm vợ chồng Adam đều đãi tiệc tất niên bằng thức ăn truyền thống của người Việt Nam.

Năm nay, buổi tiệc Tất Niên được tổ chức vào Chúa Nhật tuần lễ đầu tiên của tháng Mười Hai, 2014. Vợ chồng tôi cũng được Adam mời đến San Francisco dự buổi tiệc này.

Đến San Francisco kiếm chỗ đậu xe thật khổ. Khắp nơi đều “thiên la địa võng,” những cột đồng hồ trả tiền, lúc nào xe cũng nối đuôi nhau sát sàn sạt. Phải vòng vòng đến gần hết nửa bình xăng mới tìm ra chỗ. Đến khi tìm được chỗ thì vô đậu lại vất vả “thần sầu.” Đường xe cộ qua lại nườm nượp, chỗ đậu thì bé tẻo bé teo, tôi rất tệ về đậu pa-ra-leo (parallel), nên phải “thò ra thụt vào” cả buổi mới lắp được xe vào chỗ trống.

Xưởng City Cycle Werkes của Adam nằm giữa trung tâm thành phố San Francisco, nơi được xem một tất đất “bao nhiêu là tất vàng.” Chiều dài của xưởng chiếm nguyên cả một block đường, mặt trước là đường chính Ellis Street, còn mặt sau nằm trên đường Willow Street. Chúng tôi đến cũng sớm nhưng đã thấy rất đông người lăng xăng, nhộn nhịp. Nhiều người Mỹ đang lần lượt dắt các loại xe mô tô lớn nhỏ từ phần trước xưởng đem ra dựng tràn khắp hai bên đường, mặt cửa trước lẫn phía cửa sau.

Adam vui vẻ ra chào chúng tôi. Anh cho biết hôm nay Chúa Nhật, các cơ sở kinh doanh xung quanh đều đóng cửa, cột đồng hồ được miễn phí, nên anh tạm dời một số mô tô ra ngoài, lấy chỗ xếp bàn ghế cho bữa tiệc. Thấy tôi nhìn những người Mỹ đang dắt xe ra, Adam nói đó là mấy người thợ phụ của anh và những khách hàng thân tín, năm nào họ cũng tình nguyện đến sớm phụ giúp.

Tôi hoa mắt nhìn đám mô tô đủ kiểu đủ màu, và thử đếm nhưng không tài nào đếm xuể.

Nhìn lướt qua và nhẩm tính, chỉ riêng số mô tô được đưa ra ngoài đường, tôi thấy mỗi bên cũng có đến vài chục. Đám mô tô như một rừng hoa, chúng đứng khoe càng nghênh ngang trên đường như những con ngựa trời. Có chiếc nhỏ bằng chiếc Honda 90 nhà tôi từng chạy bên Việt Nam ngày trước, nhưng có những chiếc to đùng gần bằng chiếc xe hơi thể thao. Một người Mỹ cao lớn từ bên trong đang hì hục dắt ra một chiếc hiệu Honda to ơi là to. Cái bửng có đèn và kiến chắn gió trước tay lái khuỳnh ra như đầu một chiếc xe hơi. Trông ông ta dắt đi có vẻ khá vất vả.

– Chiếc xe này to kinh quá, ông Mỹ đó dắt trông gần “ná thở,” không biết bằng cách nào mà anh di chuyển được nó để sửa chữa? Tôi hỏi Adam.

– Ồ! Là nhờ kinh nghiệm nghề nghiệp thôi chị ạ. Adam cười nói. -Xe to cỡ nào cũng dắt được cả, nếu mình biết cái “thế” để lái nó đi theo ý mình.

Xe cộ qua lại hai bên đường nhiều người giảm tốc độ, tò mò nhìn đám xe mô tô dày đặc trước cửa City Cycle Werkes. Thậm chí có người còn nhấn còi inh ỏi, chắc là bạn hàng của Adam. Tôi thích thú mỉm cười. Đây cũng là một cách quảng cáo độc đáo nữa của Adam. Sự việc dựng xe đầy trước cửa này đã đặc biệt gây chú ý cho người qua lại. Chắc thế nào sau buổi tiệc cũng sẽ có thêm khách hàng đến mua xe hoặc đem mô tô đến sửa.

Sau khi ngắm đã đời các kiểu mô tô mới nhìn thấy lần đầu, tôi đi vào bên trong. Mấy người Mỹ đã giúp dọn dẹp trống trải một phần nhà xưởng và đang sắp xếp bàn ghế. Adam chỉ tôi vô phòng trong, nơi vợ anh đang cùng mấy phụ nữ người Việt chuẩn bị thức ăn. Tôi có nghe Đương nói tối hôm trước, là cô đã đặt hai con heo thật lớn cho buổi tiệc từ một trại chăn nuôi trên Modesto, một con heo tươi và một con heo quay. Tôi đã cười thầm vì nghe như cô đang chuẩn bị cho một đám cưới vương giả bên Việt Nam. Cô còn nói cả tháng nay đi làm về cô còn phải lo ướp đến vài trăm pound thịt gà lẫn thịt bò, thịt sườn, để nướng.

Nhưng tôi vẫn không tin được mắt mình khi nhìn số thức ăn bày biện trên bàn. Bằng cách nào Đương đã chuẩn bị được số thức ăn “hùng vỹ” như núi, dày đặc như rừng này nhỉ. Hỏi ra mới biết, vợ chồng Adam có một số bạn bè thân thiết, đã gửi “phu nhân” của họ đến giúp Đương nấu nướng từ ngày trước cho đến hôm nay. Toàn bộ đều là “home made” hết, không mua một món nào. Thức ăn rất đa dạng và nhiều gấp mấy lần một cái đám cưới Việt Nam ngày xưa. Ngoài các món gà, bò, heo, oyster nướng, còn có thịt phay thịt lụi, xôi cúc xôi giò, bánh bèo bánh hỏi, chả giò chạo tôm, chả ốc chả lụa, tính sơ sơ cũng cở trên vài chục món, chưa kể các loại bánh ngọt và trái cây. Nhiều lọ thủy tinh đựng đủ loại nước mắm ớt tỏi chanh đường pha sẵn, trong văng vắt những mảnh vụn đỏ tươi của ớt, trắng ngà của tỏi, và xanh dịu của những tép chanh. Nhìn các món ăn truyền thống quê nhà, tôi chưa nếm mà đã chảy nước miếng.

Bữa tiệc không phải chỉ có những món ăn thịnh soạn. Mỗi góc phòng được chất vô số thùng bia các loại, nước trái cây, sô đa, bên cạnh một thùng đá thật lớn chứa đầy bia lạnh. Phía trái bên ngoài office của Adam là chiếc bàn dài thấp. Trên bàn và cả bên dưới có rất nhiều loại rượu, từ rượu nho đến Whiskey, Vodka, cả mấy chai Rémy Martin, và Rémy Martin XO cũng chen vai sát cánh cùng lũ rượu kia như mời chào thực khách. Chợt nhớ lại có lần Đương kể, hồi Adam còn ở nhà, một người bạn có anh đi Mỹ gửi hình về đã cho Adam xem hình ông anh đang cầm lon bia uống. Về nhà bữa trưa vợ dọn vài cọng rau lang luộc với cơm độn bo bo, anh nói, “Ước gì anh được đến Mỹ để uống một lon bia như anh của thằng bạn thì có chết cũng cam lòng.” Anh làm sao ngờ được, có ngày anh chẳng những đến được Mỹ mà còn đãi người Mỹ cả rượu Rémy Martin XO trên trăm đô la/chai!

Khách khứa lần lượt kéo đến đông đảo. Khi được mời nhập tiệc, họ tự động đi lấy thức ăn, chọn đồ uống rồi ra bàn ngồi và chăm chỉ thưởng thức. Điều làm tôi ngạc nhiên là người nào cũng có vẻ rất quen thuộc với các món ăn Việt. Lấy thức ăn xong họ không quên múc nước mắm cho những món cần phải chấm như bánh hỏi, hay gỏi cuốn, chả ốc. Nghe kể năm nay Adam mời trên năm trăm thực khách, vì số lượng khách hàng thân thuộc gia tăng. Nhưng rút kinh nghiệm từ năm ngoái, anh chia ra mời làm nhiều giờ khác nhau. Lớp khách này ăn xong chào từ biệt là lớp khác thế vào. Nhờ vậy mà từ mười giờ sáng đến sáu giờ chiều, đội ngũ bếp núc có đủ thì giờ chiên kịp chả giò và tai vạc nhân tôm nóng giòn cho tất cả mọi người chứ không bị lật đật như năm ngoái.

Tôi lấy một cây chả ốc và ít xôi giò vào đĩa, bưng lại ngồi gần nhà tôi. Bên phải là ông Mỹ to con, người khi nãy đã vất vả dắt chiếc Honda bự chảng. Ông ấy đang nhai ngồm ngoàm tôm chiên trong đĩa, chai Heineken để trước mặt. Thấy tôi nhìn ông gật đầu chào, rồi hỏi về những thành phần trong các món ăn. Ông khen món nào cũng tuyệt.

– Khi nãy tôi thấy ông dắt chiếc mô tô to thế ra ngoài. Ông thật là giỏi! Tôi bắt chuyện.

– Ồ! Tôi mà giỏi gì! Ông lắc đầu cười: -Adam mới là “thằng guy” tôi khâm phục nhất.

blank

Gia đình chủ nhân: vợ chồng Adam Le và các con.

Khi biết tôi là bạn đồng hương với Adam, ông vui vẻ tự giới thiệu tên là Jackson, rồi bắt đầu huyên thuyên “quảng cáo” cho Adam. Thì ra Jackson là khách hàng kỳ cựu từ cái hãng cũ Adam làm trước đây. Ông nói rất nhiều người theo Adam qua đây, vì bây giờ cái dealer cũ đã đóng cửa.

– “Adam is awesome!” Adam thật là cừ khôi! Ông Jackson nói. -Anh ấy chẳng những có tay nghề giỏi mà còn rất chân thật. Từ việc mua bán đến sửa chữa, Adam không bao giờ chặt chém hay lừa gạt khách hàng. Anh luôn tự tay sửa chữa những bộ phận quan trọng cho xe của khách hàng, chỉ để thợ làm phụ những việc nhỏ mà thôi. Cho nên tôi đã đi với anh ta hàng chục năm rồi đó!

Adam luôn bận rộn tiếp khách. Khi nào rảnh chút là ngồi xuống trò chuyện với bạn bè. Ly rượu trên tay, mặt mũi anh trông hồng hào phương phi và rất hạnh phúc. Có lẽ vì rượu cộng thêm niềm vui chất ngất. Anh cho biết, tổ chức bữa tiệc này mệt và tốn công tốn của rất nhiều lần so với việc đặt nhà hàng Mỹ làm sẵn đem đến.

– Nhưng đây mới là điểm đặc biệt làm cho họ nhớ đến mình, anh chị ạ! Rồi anh cười với vẻ hãnh diện: – Chúng tôi đã tập cho toàn bộ khách Mỹ ở đây biết ăn nước mắm!

Vợ chồng tôi cùng nâng ly chúc mừng cho thành công của Adam. Thừa dịp, tôi hỏi anh thêm nhiều chi tiết về cuộc đời, công việc, những khó khăn mà anh gặp phải trên bước đường tị nạn, và chuyện thành lập cơ sở. Chạy đi rồi chạy lại, anh vui vẻ chia xẻ hết mọi điều như tôi đã viết ở trên. Khi được hỏi kỷ niệm nào đáng nhớ nhất trên con đường đưa anh đến với sự nghiệp ngày hôm nay, Adam cho biết, kỷ niệm căng thẳng nhất là khi quyết định “quit job” để mua lại cái xưởng sửa chữa mô tô đang bị vỡ nợ.

– Đó là một sự lựa chọn có tính cách sinh tử! Anh nhớ lại. -Vào thời điểm năm 2010, nền kinh tế nước Mỹ cũng chưa có gì sáng sủa, tôi lại đang có một việc làm ổn định với mức lương rất là lý tưởng. Bạn đồng nghiệp cho là tôi bị điên. “Quit job” đi mở cơ sở kinh doanh là làm lại tất cả từ đầu, tự đi lên bằng con số không to tướng. Anh rùng mình: -Nếu chẳng may thất bại, thì có nước phải gánh chịu “từ chết tới bị thương.”

Adam còn kể, vợ chồng anh đã mất nhiều đêm thức trắng và suy nghĩ đến nhức cả đầu. Cái xưởng này người chủ cũ mở cũng đã một thời gian, nhưng đến khi ấy business đã bị chết, ế thê thảm. Vợ Adam cũng lo lắng. Chủ cũ là người Mỹ trắng mà còn thất bại, huống chi mình là dân đầu đen, rủi bị khách hàng kỳ thị thì làm sao.

Một kỷ niệm nữa được Adam xem là vất vả trên bước đường sự nghiệp là việc đi học nghề. Anh vốn dĩ sinh ra là một người dân quê. Ngoài việc sửa xe đạp cho bà con trong làng, anh cũng từng cấy cày làm ruộng. Cho nên việc đi làm cực nhọc như lau chùi dọn dẹp chỉ là chuyện nhỏ đối với anh. Đến chừng anh học sửa chữa mô tô mới là điều khổ sở. Adam cho biết, với số tiếng Anh “đong chưa đầy cái lá mít” anh phải vất vả tra tự điển từng chữ một để hiểu và làm bài.

– Không bao giờ tôi quên khóa học đầu tiên hảng gửi tôi đi để học lấy cái chứng chỉ (Certificate) sửa chữa mô tô. Adam nói. – Thật khó trăm bề! Trong khi học tôi bị “lùng bùng,” thầy nói thầy nghe, bạn nói bạn nghe, tôi chả hiểu họ nói cái giống gì. Về phòng trọ, tôi ôm cái tự điển, thức trắng đêm để tra từng chữ một và học đến khi nào gục xuống mới thôi. Tôi gạo bài mệt đến gần …”đứt bóng!” Anh cười và nói đùa.

Trước khi hoàn thành việc mua cơ sở này, Adam phải trải qua một tình huống thật ngặt nghèo, nghiêm trọng. Vừa đặt tiền cọc mua xưởng xong, anh bỗng nhiên ngã bệnh. Từ chứng xây xẩm ù tai như bị điếc, bác sĩ làm xét nghiệm và phát hiện có một mảnh gì đó nhỏ xíu nằm trong đầu, phía sau tai phải của anh. Theo lời bác sĩ, nếu không giải phẩu kịp thời để lấy ra cái mảnh ấy, có nguy cơ nó sẽ di chuyển và rơi vào não bộ. Họ còn nói, giải phẩu ngay lúc ấy dù có phần nguy hiểm đến tính mạng, nhưng sác xuất cứu sống Adam có nhiều hơn là để đến khi nó thực sự đụng vào não, vì sẽ hết đường cứu gỡ.

Vợ con anh hoảng hốt, gia đình anh bên Việt Nam sợ hãi, bạn bè anh lo âu. Ai nấy đều khuyên Adam nên dừng lại việc mua xưởng, chờ sau khi làm phẩu thuật xong hãy tính. Nhưng người đàn ông trẻ này rất can đảm và kiên cường. Anh đã không một chút lo âu sợ sệt, cương quyết tiến hành việc mua bán trước ngày nhập viện.

– Cơ hội tốt đã đến. Adam nói. – Tìm được địa điểm thích hợp chẳng phải dễ, nên không thể nào chờ đợi được.

Thế là Adam nhất quyết tiến hành hoàn tất mọi việc trước khi nhập viện. Chỉ trong thời gian một tháng đợi làm thủ tục và các loại xét nghiệm cần thiết cho cuộc đại phẩu thuật, Adam đã cố gắng tận dụng tối đa thời gian của mình. Mỗi ngày anh hết đi mua xe đem về sửa lại, đến trông coi thợ thuyền tân trang nhà xưởng, rồi đặt hàng hóa, phụ tùng chuẩn bị cho ngày khai trương. Đến khi anh nhập viện, thì việc sửa chữa, thủ tục mua bán, và giấy phép kinh doanh đều đã hoàn tất. Cộng thêm việc trên năm chục chiếc mô tô đã được anh mua về làm mới lại hoàn toàn.

Tôi ngồi nghe mà lòng ngưỡng mộ vô cùng. Thường thì khi người ta biết mình sắp trải qua một cuộc giải phẩu nghiêm trọng, bác sĩ tiên đoán “lành ít dữ nhiều” không ai tránh khỏi lo sợ. Có lẽ nhiều người, trong đó có tôi, sẽ đình hoãn dự tính cho tương lai trước khi biết kết quả. Ngược lại, Adam đã rất tự tin nghĩ mình sẽ qua khỏi. Có lẽ nhờ ý chí kiên cường ấy mà Adam vượt qua được hiểm nghèo, để giờ đây anh trở thành một trong những nhà triệu phú của thành phố nổi tiếng San Francisco.

Vợ Adam đi ngang qua nghe chuyện, cô dừng lại chia xẻ:

– Anh ấy “quỳnh liều” lắm anh chị ơi! Sau khi mổ xong, mới vừa xuất viện anh đã vội vã đến xưởng để điều hành công việc, chuẩn bị cho ngày khai trương. Em tìm mọi cách để anh ấy ở nhà tịnh dưỡng một thời gian, nhưng không được. Nhìn thấy anh đầu quấn kín nhiều lớp băng trắng lù lù, chạy tới chạy lui chỉ thị mọi người, ai nấy cũng đều lắc đầu.

Adam còn kể lại một chuyện khác, làm tôi ngồi nghe mà mắt cứ tròn lên. Sau khi xưởng khai trương được vài tháng, ông CEO, chủ của cái hãng cũ Motorcycle Dealers mà Adam từng làm -dealer này cách xưởng Adam không xa mấy- có ghé lại xem. Đến nơi quan sát cách làm ăn của Adam, ông tỏ vẻ ngạc nhiên và khâm phục. Ông thật lòng khen ngợi, rồi nói thật với Adam về tình hình hãng cũ. Rằng giám đốc điều hành đương nhiệm làm việc không hiệu quả nên hãng đang trên đà xuống dốc. Ông đề nghị Adam hãy bán cái xưởng mới, góp phần hùn vào công ty ông, thì ông sẽ mời Adam về làm giám đốc điều hành với mức lương gấp đôi lương của anh trước kia, để cùng chung tay cứu lấy hãng. Một đề nghị thật bất ngờ và hấp dẫn, đã làm vợ chồng Adam mất ngủ thêm một thời gian nữa. Người kế toán trưởng của hãng cũng thay mặt Tổng Giám Đốc tới lui nhiều lần quan sát việc Adam điều hành xưởng, và cố thuyết phục Adam hợp tác.

Nhưng cuối cùng, Adam đành phải từ chối lời mời tuyệt vời ấy vì thấy cơ sở mới của anh ngày càng phát triển theo tỷ lệ thuận. Anh nói với chúng tôi:

– Tôi nghĩ thà làm cho mình tự do hơn, lãnh công việc điều hành nhiều trách nhiệm lắm!

Lát sau thì ông cựu giám đốc tài chính cái dearler cũ cũng đến. Adam nói năm nào anh cũng mời và ông ấy đều đến, thật lòng chúc mừng cho anh. Ông giờ đã về hưu.

Tôi chợt xúc động khi nhìn ông Mỹ da trắng và Adam da vàng, hai mái đầu bạc và đen ôm nhau thân thiết, rồi Adam ân cần đưa ông chủ cũ đi lấy từng món thức ăn. Ông ấy đã không nhìn lầm người khi chọn nhận chàng công nhân “culi” không biết tiếng Anh để cho đi học nghề. Quả thật với tấm lòng công bình bác ái và không kỳ thị, ông cựu giám đốc đã tạo ra một kỳ tích cho đất nước. Từ việc nước Mỹ phải trả lương cho chàng thanh niên tị nạn da vàng, bây giờ hàng năm chàng thanh niên ấy đã đóng góp một mức thuế thật là không nhỏ để góp phần xây dựng cái quê hương thứ hai này của anh.

– Phải nói là anh thật giỏi! Tôi nói xong, hỏi một câu cuối cùng trước khi từ giã ra về: -Anh có kinh nghiệm gì để chia xẻ với bà con mình, những người mới đến Mỹ sau này?

Nhà triệu phú “cựu thợ sửa xe đạp” cười hiền lành:

– Tài giỏi chi đâu chị! Mỹ là đất có rất nhiều cơ hội. Chỉ cần cố gắng làm việc thì sẽ găt hái kết quả tốt. Rồi anh nói thêm: -Người Mỹ có câu, “Hard work, pays off” mà! Người đến Mỹ không biết một chữ tiếng Anh, bắt đầu bằng công việc “cu li” như tôi còn làm được thì ai mà chẳng làm được!

Tối đó về nhà, vợ chồng tôi bàn tán mãi về chuyện của Adam Lê. Tôi chợt nhớ lại câu nói của anh. Quả đúng là nhờ vào sự “hard work,” làm việc chăm chỉ, mà “Giấc Mơ Mỹ” của anh chàng thợ sửa xe đạp ngày xưa đã đơm bông kết trái một cách rất mỹ mãn.

Phương Hoa

Nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn bị phá hoại trầm trọng

Nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn bị phá hoại trầm trọng

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) Những viên gạch gần 140 năm tuổi trên tường nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đang bị vẽ bậy chi chít đủ thứ. Thậm chí, một số góc khuất của nhà thờ còn bị biến thành nơi để vứt rác, tiểu tiện.


Mặc dù nhà thờ đã treo những tấm bảng yêu cầu đừng viết bậy nhưng bất lực. (Hình: VNExpress)

Không có tường rào bao quanh như những cơ quan công quyền khác tại Sài Gòn, nhà thờ Ðức Bà trở thành một “vòng xoay” bất đắc dĩ và rất dễ bị xâm phạm bởi giao thông. Nhìn xa, vẻ ngoài của nhà thờ 138 tuổi này vẫn uy nghi lộng lẫy, song trên những bức tường bằng gạch ống Pháp đã bị bôi bẩn bởi hàng ngàn chữ viết nguệch ngoạc đủ thứ nội dung.

Theo VNExpress, mặc dù nhà thờ đã treo những tấm bảng “Ðể bảo vệ di sản chung, xin đừng viết lên tường,” hay “Nơi trang nghiêm xin giữ vệ sinh chung,” nhưng mỗi ngày hàng chục người vẫn đến đây viết chữ, vẽ hình, sơn xịt… với đủ thứ nội dung: “I love you more than I can say,” “Q. Như đã ở đây,” “Thảo yêu Ðăng,” “Ðể tao chống mắt lên coi bay yêu nhau được bao lâu.”..Thậm chí, tại một số góc khuất ở chân tường của nhà thờ cũng là nơi để quăng rác, hoặc tiểu tiện.

VNExpress dẫn lời Linh Mục Vương Sĩ Tuấn, phụ tá tại nhà thờ cho biết, tình trạng các bạn trẻ viết, vẽ bậy lên tường xuất hiện đã hơn một năm nay. Họ tới công viên gần nhà thờ để uống cà phê, vui chơi rồi chụp ảnh vì nhà thờ là một công trình kiến trúc đẹp. Tuy nhiên, rất nhiều người trong số họ nổi hứng viết lung tung lên tường.


Hàng rào sắt chặn những góc khuất của nhà thờ để ngăn không cho tiểu tiện nhưng vô tác dụng. (Hình: VNExpress)

“Các bạn trẻ không ý thức được điều họ làm là không đúng đối với một công trình kiến trúc nổi tiếng. Không chỉ riêng nhà thờ Ðức Bà mà những công trình kiến trúc cũ cần phải được bảo vệ vì đó là cái hồn của Sài Gòn, là một loại ngôn ngữ vô hình. Họ không có trách nhiệm với đời sống chung,” vị linh mục nói.

Theo ông Tuấn, từ khi tường bị viết, vẽ bậy, nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đã lên tiếng, chính quyền địa phương cũng cho biết sẽ ghi nhận và báo lên cấp trên. Tuy nhiên, hiện tình hình vẫn không thay đổi mà còn có nguy cơ ngày càng bẩn hơn, mật độ các chữ viết, nét vẽ bậy bạ ngày càng nhiều hơn. Nhiều khách nước ngoài đến tham quan phải bịt mũi, lắc đầu.

Nhà thờ Ðức Bà được xây năm 1877, có chiều dài 93 m, rộng 35 m và cao 75 m, nằm ngay trung tâm quận 1, Sài Gòn, hoàn thành sau 3 năm và được Tòa Thánh Vatican phong lên hàng tiểu Vương Cung Thánh Ðường từ năm 1959, tên gọi chính thức là Vương Cung Thánh Ðường Chính Tòa Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mỗi ngày có hàng trăm đoàn khách nước ngoài đến thăm và dự lễ tại thánh đường này. (Tr.N)

Tiếng nói bí ẩn đưa cảnh sát đến nơi em bé còn sống trong xe rơi xuống sông

Tiếng nói bí ẩn đưa cảnh sát đến nơi em bé còn sống trong xe rơi xuống sông

http://m.f29.img.vnecdn.net/2015/03/09/4-5313-1425869165.jpg

VienDongDaily.Com

Bé Lily và mẹ Lynn Groesbeck

SPANISH FORK, Utah – Theo cảnh sát cho biết, một em bé đã ngồi trên ghế trẻ em trong khoảng thời gian dài 14 giờ đồng hồ, trong một chiếc xe hơi lộn ngược dưới sông, ở nhiệt độ đóng băng. Mẹ của bé đã lái xe rớt xuống một con sông ở tiểu bang Utah vào đêm thứ Sáu.

Trong ngày thứ Hai, sức khỏe của bé gái đã hồi phục và dự đoán sẽ sống.

Lúc đến dòng sông tìm chiếc xe, trước khi biết người mẹ đã chết từ lâu và em bé còn sống, các cảnh sát viên từng nghe tiếng người kêu cứu mà đến nay họ chưa biết xuất phát từ đâu ra. Em bé còn quá nhỏ, chưa thể nói chuyện.

Hôm thứ Hai, trung tá Matt Johnson, thuộc sở cảnh sát Spanish Fork cho biết gia đình của người mẹ lâm nạn đã nói với ông rằng bé Lily Groesbeck, 18 tháng tuổi, đang đỡ hơn. Bé gái được một người đi câu cá ở Spanish Fork tìm thấy, vào trưa ngày thứ Bảy vừa qua. Cảnh sát tin rằng mẹ bé tông xe vào một rào cản xi măng trên một cây cầu, và xe lao xuống sông.

Mẹ của bé là cô Lynn Groesbeck, 25 tuổi, cư ngụ tại Springville, đã được tìm thấy chết trong xe.

Ông Johnson nói rằng cảnh sát không biết nguyên nhân gây ra tai nạn vào đêm khuya thứ Sáu. Ông nói rằng không có dấu hiệu xe bị trượt, hoặc dấu hiệu trục trặc máy móc trong chiếc xe. Không có ai nhìn thấy tai nạn này.

Sau khi nhận được tin, bốn cảnh sát viên đã đem em bé ra khỏi chiếc xe bị lật ngửa giữa một dòng sông cạn ở Utah. Trong nhóm cảnh sát viên này, vài người đã thề rằng họ đã có nghe tiếng ai đó kêu cứu từ nơi chiếc xe, mà khi đến nơi thì họ chỉ thấy bé gái còn sống, không có ai khác.

Khi họ lật nghiêng chiếc xe, họ tìm thấy em bé 18 tháng và mẹ của bé. Người mẹ đã chết từ lâu.

Một trong những người giải cứu là cảnh sát viên Jared Warner. Ông nói với nhật báo Deseret News, “Chúng tôi không biết chắc chắn chính xác nơi mà tiếng nói ấy phát xuất .”

Cảnh sát tin rằng bé gái đã được buộc vào ghế lộn ngược cùng với xe, suốt trong 14 giờ đồng hồ ở sông Spanish Fork, cách chừng 50 dặm ở bên ngoài Salt Lake City.

Một ông đi câu cá đã phát giác chiếc xe và gọi cảnh sát. Cảnh sát viên Bryan Dewitt, một người giải cứu, cho biết ông nhớ rõ mình có nghe một giọng kêu lên “Cứu tôi với,

cứu tôi với .”

Bé Lily và mẹ Lynn Groesbeck

Cảnh sát viên Tyler Beđoes nói,

“Đó không phải chỉ là một cái gì đó chỉ ở trong đầu của chúng tôi. Đối với tôi, nó rõ ràng như ban ngày, vì tôi nhớ đã nghe một tiếng nói. Tôi nghĩ khi nghe giọng nói đó, chính ông Bryan Dewitt cũng đã nói lại, Chúng tôi đang cố gắng. Chúng tôi đang cố gắng hết sức để vào được trong xe .”

Xem thêm:

Lily Groesbeck, 18 months old, survived hanging upside down in a submerged car for 12 hours