‘Thuyền Nhân’ – ‘sống để kể lại’

‘Thuyền Nhân’ – ‘sống để kể lại’

Nguoi-viet.com

Hà Giang/Người Việt

WESTMINSTER, California (VN)Sinh hoạt tưởng niệm biến cố 30 Tháng Tư năm nay, lần thứ 40, thêm khởi sắc, với sự góp mặt của cuốn “Thuyền Nhân: Nước mắt Biển Ðông từ sau biến cố 30/4/1975,” tập truyện kể lại hành trình gian nan của 40 chứng nhân lịch sử, do Carina Hoàng biên soạn, và tủ sách Người Việt phát hành.


Hình bìa tác phẩm “Thuyền Nhân,” bản tiếng Việt, phát hành Tháng Tư, 2015. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

“Thuyền Nhân” là phiên bản Việt ngữ của cuốn “Boat People: Personal Stories from the Vietnamese Exodus 1975-1996,” xuất bản Tháng Giêng năm 2011. Ngay từ những ngày đầu tiên, “Boat People” đã được độc giả nồng nhiệt đón nhận, và gây tiếng vang đáng kể, như được trao huy chương Bạc – “2012 Independent Publisher Book Awards” – dành cho tác phẩm về “người thật việc thật” hay nhất trong khu vực Úc Châu và Tân Tây Lan năm 2012.

Dài hơn 250 trang, trình bày đẹp, như một tác phẩm nghệ thuật, với hơn 200 hình ảnh đầy màu sắc, nhiều hình ảnh chưa được phổ biến, “Thuyền Nhân” không chỉ là một tập truyện, mà còn là một pho tài liệu chứa đựng thủ bút, nhật ký, thư từ, điện tín và chuyện kể của 30 người tiêu biểu, đại diện cho hàng triệu thuyền nhân Việt Nam, kể lại hành trình hãi hùng của họ và gia đình.

Với tựa như: “Sống để kể lại,” “Bữa ăn kế tiếp,” “Ðể được gặp lại Mẹ tôi,” “Tàu HG3438,” “Vĩnh biệt bà nội,” “Ðể cho cháu tôi được sống,” “Tưởng nhớ Mộng Hà,” “Con tàu Cap Anamur,” “Nhà tù nổi,”… mỗi câu chuyện là một đoạn phim sống động của tang thương, bão tố, đói khát, cướp bóc, chết chóc, tuyệt vọng, với cái chết gần kề, nhưng cũng là những câu chuyện về tình nhân loại trước nghịch cảnh, và quan trọng hơn cả, sức chịu đựng bền bỉ, và bản năng sinh tồn của con người.

Giới thiệu sách, ông Pete Peterson, cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, nhận định: “Ðây là quyển sách phải được viết ra. Những câu chuyện ở đây lấp đi cái khoảng trống về lịch sử cận đại qua việc mô tả các trở ngại và hy sinh lớn lao của ‘thuyền nhân’ Việt Nam trên đường tìm nơi tị nạn chính trị… Carina Hoàng đã làm một điều đáng trân trọng khi xuất bản quyển sách này ghi nhận lịch sử đầy giá trị về nỗi thống khổ của thuyền nhân Việt Nam. Qua quyển sách này, ngày nay chúng ta đã biết sự thật.”

Trong khi đó, tờ Wanneroo Times viết: “Những câu chuyện, hình ảnh và minh họa trong quyển sách này sẽ làm ngay cả những kẻ có trái tim sắt đá phải bật khóc.”


Hình bìa tác phẩm “Boat People,” bản tiếng Anh, phát hành năm 2011. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Hãy đọc một đoạn mô tả thuyền nhân bị hải tặc cướp bóc:

“Một bà cụ bị bọn cướp biển yêu cầu đưa chiếc vòng đeo tay bằng đá quý. Bà đeo chiếc vòng này đã lâu và nay cổ tay bà to dần lên, không thể lấy vòng ra được. Chúng lấy cái búa tạ đập vỡ chiếc vòng. Bà cụ kêu gào đau đớn. Ai cũng hiểu, khi đập vỡ chiếc vòng, bọn cướp đập vỡ luôn cổ tay người mang nó. Bọn cướp biển tiếp tục lục soát trong 48 tiếng đồng hồ. Chúng liên tục hãm hiếp phụ nữ, trẻ và già, trong nhiều giờ liền… Chúng bắt tất cả đàn ông cởi trần cởi truồng rồi đứng xếp hàng một. Tất cả phải há miệng ra: Bọn cướp dùng kềm nhổ hết răng vàng. Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được thứ âm thanh cuồng nộ ấy, tiếng rên rỉ, tiếng khóc than và lời van xin. Có cái gì đó như sự hận thù – thứ hận thù không bao giờ có thể quên được. Ðến lúc này thì chúng tôi mất hết ý chí sống còn. Ðàn ông khóc. Ðàn bà khóc. Riêng tôi, tôi tin là mọi người đang cầu nguyện để được chết, ngay bây giờ.” (“HG 3438” chuyện Cao Lưu, trang 71)

Và cảnh hãm hiếp:

“Chúng tôi bị lột bỏ quần áo một cách thô bạo khi chúng lục soát tìm những gì có giá trị. Ðàn ông bị bắt ở lại thuyền, chúng lùa hết phụ nữ lên thuyền của chúng… Trong năm ngày, chúng cưỡng hiếp những người phụ nữ và đám con gái (một cách) điên cuồng, hết lần này đến lần khác. Tất cả chuyện này xảy ra trước mắt một đứa bé trai 5 tuổi, và người em gái ba tuổi của cậu, cùng bị lùa lên thuyền với người mẹ đang run sợ… Khi những người phụ nữ trở lại thuyền, chúng tôi thấy quần áo của họ bị xé từng mảnh, cái rách rưới như thể là đã lấy đi từ họ bất cứ vết tích nào còn xót lại của phẩm giá.” (“Sống để kể lại” chuyện Mai Phước Lộc, trang 15)

Hay cảnh đối diện với chết chóc:

“Gần bốn trăm con người trên chiếc tàu đi hoài mà không thấy bến bờ. Thức ăn nước uống cũng cạn dần và nhiều người đã kiệt sức. Ðến ngày thứ sáu, điều mà mọi người lo lắng, mặc dù không dám nói ra, đã trở thành sự thật. Tử thần đã đến viếng chúng tôi. Nạn nhân đầu tiên là một người đàn ông gần bảy mươi tuổi. Người thân cho biết là ông chết vì ngộp thở và đói. Rồi đến một cụ bà ngoài bảy mươi… Tôi chưa bao giờ được nghe nói đến thủy táng, nên khi chứng kiến tận mắt, tôi bị ám ảnh trong một thời gian dài. Thân hình gầy gò của bà cụ được gói trong một tấm chăn nhỏ, rồi cuộn bên trong một tấm bạt nylon. Người ta xếp hai đầu tấm bạt lại rồi dùng dây buộc, giống như buộc một đòn gánh. Các con cháu của bà khóc lóc kêu gào thảm thiết. Hình ảnh mấy người con cố níu lấy xác bà khi hai người đàn ông chuẩn bị quăng xuống biển làm nát lòng người chứng kiến. Mọi người đều biết rằng nếu không được cứu vớt, hoặc không đến được đất liền sớm, thì sẽ còn nhiều xác chết khác bị quăng xuống biển, và không chỉ riêng người già.” (“Ðảo Ruồi” chuyện Carina Hoàng, trang 127).


Chủ biên tác phẩm “Thuyền Nhân,” Carina Hoàng. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Ngoài chuyện kể thương tâm của những người vượt biển tìm đường sống, “Thuyền Nhân” còn có sự góp mặt của 10 người ngoại quốc, từng làm việc với thuyền nhân Việt Nam trong những trại tị nạn, như ông Talbot Bashall, làm việc 4 năm tại “Trung Tâm Kiểm Soát Người Tị Nạn” tại Hồng Kông, hay phóng viên Norman Aisbett và nhiếp ảnh David Tanner của tờ “The West Australia,” vào năm 1982, đã lên chuyến tàu Cap Anamur của Tây Ðức, để làm phóng sự về hành trình truy tầm và cứu giúp những người tị nạn của chiếc tàu này.

Ðoạn dưới đây làm người đọc rã rời:

“Như trong nhật ký hàng ngày và những ghi chép của tôi cho thấy, tình trạng của tòa nhà trong trại rất tệ, mái nhà bị rỉ dột, và nói chung rất thô sơ, nhưng nó lại là sự mãn nguyện lớn lao của những người tỵ nạn Việt Nam đã vượt qua bao khủng khiếp để đến được nơi này. Trong những trường hợp khủng khiếp được ghi lại trong nhật ký của tôi, có một chuyện nổi bật. Trên một chiếc tàu vừa đến, tôi nhìn thấy một cậu bé độ chừng 15 tuổi bị treo lơ lửng trên cột buồm. Cuộc thẩm vấn cậu bé sau đó cho biết em sắp đến lượt bị người trên tàu ăn thịt. Sau đó tôi tìm hiểu ra là em bị treo trên cột buồm vì người ta sợ em có thể nhảy xuống biển, và nếu thế thì sẽ mất đi nguồn cung cấp thực phẩm.” (“Lòng từ bi cũng rã rời” chuyện Talbot Bashall, trang 25).

Bà Carina Hoàng, cũng là một thuyền nhân, vượt biên và trốn thoát khỏi Việt Nam năm 1979, lúc 16 tuổi, cho biết, bà “dự định thực hiện cuốn sách này lâu rồi,” vì một ngày nào đó, những nhân chứng sống của lịch sử, trong đó có bà, “sẽ chết đi,” và có thể những thế hệ sau “sẽ không biết, không hiểu rõ” những gì cả triệu người Việt Nam đã phải “trải qua để đến bến tự do.”

“Cuốn sách sẽ đặc biệt có giá trị với những thế hệ người Việt mai sau. Họ cần biết về lịch sử rất quan trọng này của di sản mình, và cần đánh giá cao sự hy sinh của thế hệ cha ông.” Bà nói về lý do trước đây đã soạn cuốn “Boat People” bằng tiếng Anh.

Về lý do phát hành cuốn “Thuyền Nhân” bằng tiếng Việt, Carina Hoàng cho biết, để đáp ứng yêu cầu của nhiều độc giả, rằng “viết sách kể chuyện thuyền nhân cho đời sau thì đã đành rồi, nhưng cũng cần phải có bản tiếng Việt cho thế hệ chúng tôi chứ,” bà đã cùng với sự yểm trợ của nhiều thân hữu cố gắng cho ra đời “Thuyền Nhân” đúng dịp tưởng niệm 40 năm biến cố 30 Tháng Tư.

“Thuyền Nhân” là cuốn sách cần đọc để hiểu hoàn cảnh của những người vượt biên, để khép lại quá khứ, để hãnh diện tự hào về dân tộc Việt Nam, những người đã vượt qua nghịch cảnh, trở nên những thành viên có ích, đóng góp lại cho xã hội đã cưu mang mình.


BẤM VÀO ÐÂY ÐỂ MUA SÁCH

http://www.nguoivietshop.com/Thuy-x1EC1-Nh%C3%A2n-x1EDB-x1EAF/dp/B00WLD03VA

Động đất ở Nepal: Giám đốc Google tử nạn.


Đời là VÔ THƯỜNG

Động đất ở Nepal: Giám đốc Google tử nạn.

https://www.google.com/url?sa=i&rct=j&q=&esrc=s&source=images&cd=&cad=rja&uact=8&ved=0CAcQjRw&url=https://twitter.com/danfredinburg&ei=1gk-VZbOEMqSsAWmu4GwBA&bvm=bv.91665533,d.b2w&psig=AFQjCNGRxIammqenK6uV74ndJRzlCjKr4A&ust=1430215645463495

Không ai ngờ rằng bức ảnh chụp Dan Fredinburg trong bộ quần áo leo núi, lại dùng để thông báo về việc Giám đốc Google tử nạn do động đất ở Nepal.
Trong hình ảnh khủng khiếp về thảm họa động đất ở Nepal, cùng số người thương vong ngày một tăng, có lẽ việc chỉ đề cập tới cái chết của một cá nhân duy nhất sẽ trở thành điều sáo rỗng, và thậm chí có thể coi đó là sự vô tâm nữa.

Thế nhưng có lẽ người ta không thể không nhắc đến Dan Fredinburg, cũng như không thể giấu được sự bất ngờ, và thương xót cho một Lãnh đạo Google tuổi đời còn trẻ, và đang đứng ở trên bậc vinh quang của cuộc đời.

Dan Fredinburg bắt đầu làm việc cho Google từ năm 2007, và được xem là một Googler (cách gọi những người thuộc về Google) đích thực. Hiện tại Dan đang là người đứng đầu bộ phận về quyền riêng tư của Google X, một chi nhánh của tập đoàn Google chuyên về thực nghiệm và công nghệ tiên tiến.

Theo các đồng nghiệp làm việc cùng với Dan, anh là một người sống phóng khoáng, ưa thích việc khám phá, và phiêu lưu mạo hiểm. Có lẽ đó cũng chính là một trong những lý do để anh trở thành người phụ trách Google Adventure, một dự án hiện thực hóa Google Street View bằng cách đưa máy quay Street View của Google ghi lại hình ảnh thực của những địa điểm kỳ thú nhất của thế giới.

http://cms.kienthuc.net.vn/uploaded/hoangthuy/2015_04_26/dong-dat-o-nepal-giam-doc-google-tu-nan.jpeg 

Dan Fredinburg (thứ 2 từ trái sang) chụp trên núi Everest.

Tuy nhiên không ngờ trong lần chinh phục đỉnh núi Everest lần này, Dan đã không còn may mắn sống sót trở về, bởi một trận tuyết lở do dư chấn của trận động đất kinh hoàng ở Napal ngày 25/4.

Tom Briggs, người đã có mặt trong đoàn 4 người chinh phục Everest ngày hôm đó xác nhận: Dan bị chấn thương ở đầu bởi trận tuyết lở đã ập vào Trung tâm căn cứ của đoàn. Briggs cho biết rằng: cả đoàn đã nhìn thấy những trận tuyết lở ập xuống, và đã cố gắng chạy thật nhanh, chỉ đến khi vào được vùng an toàn, và dừng lại thì chỉ còn 3 người, trong đó không có Dan.

Dan là một người đàn ông có sức hút, sống thẳng thắn, và được tất cả các nhân viên ở bộ phận anh quản lý yêu mến. Những người trong đội phiêu lưu Jagged Globe mà Dan là một trong những thành viên chủ chốt luôn nhớ tới anh như là một nhân viên chuyên kể chuyện cổ tích, một tín đồ Instagram chuyên nghiệp, một doanh nhân tài giỏi, và là một người đã cực kỳ may mắn sống sót sau trận tuyết lở xảy ra ở thác đá Khumbu làm 16 người chết vào năm 2014.

Anh vốn là một Kỹ sư phần mềm được đào tạo bài bản để rồi giờ đây là một Giám đốc bảo mật của Google X, một Công ty tối mật với những ý tưởng thí nghiệm nổi tiếng nhất cho việc mang đến thế giới chiếc xe tự lái của Google. Ngoài ra, anh còn được giới truyền thông nhắc tới nhiều, khi đã là người tình một thời của nữ Tài Tử Hollywood Sophia Bush trước khi họ chia tay vào tháng 8-2014.

Dan từng lớn lên tại một trang trại ở Arkansas, nhưng đã sớm thể hiện sự ngang bướng của mình, khi anh quyết bỏ nhà đi từ năm 15 tuổi. Và có lẽ cũng chính sự ngang bướng đó đã khiến anh trở thành một trong những người đồng sáng lập ra Adventure Group như hiện nay.

Niềm đam mê lớn nhất của anh là những chuyến đi thám hiểm. Ngoài việc là người hay tìm tín hiệu 3G để check-in, và bật nhạc rap từ một chiếc loa gắn ở ngoài phía ba lô của mình, Dan còn biết chơi cờ Hổ và Dê – một phiên bản cờ Vua của dân địa phương, và luôn là người giành chiến thắng trong các cuộc thi leo núi.

Tin về Dan cùng đoàn thám hiểm trên núi Everest được cập nhật liên tục trên trang nhật ký của đoàn Jagged Globe. Trước khi xảy ra thảm kịch chỉ một ngày, Chris Groves, người chỉ huy cuộc thám hiểm đã đăng một bức ảnh chụp Dan cười tươi rạng rỡ trong bộ quần áo leo núi đặc biệt .

http://cms.kienthuc.net.vn/zoom/1000/uploaded/hoangthuy/2015_04_26/dong-dat-o-nepal-giam-doc-google-tu-nan-hinh-3.jpg 

Bức ảnh cuối cùng của Dan Fredinburg.

Để rồi cuối cùng không ai ngờ rằng nó lại trở thành bức ảnh được em gái của Dan dùng để thông báo về cái chết thương tâm của anh trên Instagram vào ngày sau đó.

Megan viết: “Tôi rất tiếc khi phải thông báo với tất cả những ai yêu mến anh ấy rằng: trong trận tuyết lở trên đỉnh Everest vào sáng sớm hôm nay, anh trai tôi đã bị chấn thương nặng ở đầu, và không qua khỏi. Chúng tôi rất cảm kích tấm lòng của mọi người đã gửi đến chúng tôi cho đến nay và chúng tôi biết rằng linh hồn, và tinh thần của anh vẫn sống mãi trong chúng ta !”.

Tất cả đều đã rất xúc động vì nụ cười của Dan trong tấm hình, và họ còn nói rằng: ngay cả tư thế và bộ trang phục mà anh mặc ngày hôm đó cũng rất hợp với anh, nó thể hiện sự rực rỡ, lôi cuốn, và phong thái phóng khoáng, ưa mạo hiểm của con người anh. Và đó cũng là một hình ảnh đẹp nhất mà tất cả những người yêu thương anh có thể mãi nhớ về một Dan Fredinburg – một Googler đích thực.

Theo Huyền Trân/VTC News.

Blogger Điếu Cày trên truyền hình nhà nước

Blogger Điếu Cày trên truyền hình nhà nước

Hình ảnh blogger Điếu Cày bên Tổng thống Obama xuất hiện trong chương trình sáng 2/5 trên kênh VTV1

Hình ảnh cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và blogger Điếu Cày xuất hiện trong bản tin buổi sáng của Đài Truyền hình Việt Nam.

Bản tin Chào buổi sáng thứ Bảy 2/5 trên kênh VTV1 trong phần quốc tế có đề cập vụ bạo động ở Baltimore, Hoa Kỳ, và nhắc tới Tổng thống Obama.

Biên tập viên chương trình, được tin có tên là Lê Quý, đã phát kèm hình ảnh một cuộc gặp của ông Obama hôm 1/5 tại Tòa Bạch ốc.

Đó là cuộc gặp của ông tổng thống Mỹ với một số blogger nước ngoài trước thềm ngày Tự do Báo chí Thế giới 3/5.

Tại đó, blogger Điếu Cày, tức ông Nguyễn Văn Hải, có mặt bên cạnh hai blogger khác là Simegnish ‘Lily’ Mengesha (Ethiopia) và Fatima Tlisova (Nga) để cùng bàn luận về tự do báo chí trên thế giới.

Trên khuôn hình của VTV1, người ta có thể nhìn thấy ông Nguyễn Văn Hải ngồi bên tay phải của ông Obama.

Blogger Điếu Cày, người từng bị chính quyền trong nước bỏ tù vì tội Trốn thuế và sau đó là tội Tuyên truyền chống nhà nước, đã được chuyển cho đi Mỹ hôm 21/10/2014.

Thông tin về ông từ đó không được đăng tải trên bất cứ kênh truyền thông nào ở Việt Nam, bởi vậy việc blogger này xuất hiện trên kênh truyền hình chủ lực của nhà nước đã gây chú ý.

Tuy nhiên, các đường link trực tuyến vào bản tin Chào buổi sáng 2/5 đều đã bị gỡ bỏ.

Tuyên truyền chống nhà nước

Blogger Điếu Cày nói với BBC về cuộc gặp với Tổng thống Obama rằng vị tổng thống và các blogger đã “ngồi ở bên cạnh nhau để thảo luận về các vấn đề tự do báo chí, tự do ngôn luận của các nước có các nền báo chí tồi tệ”.

“Tôi thấy rằng Tổng thống Obama rất quan tâm đến tình hình của các nước như là Ethiopia, Nga hay Việt Nam.”

Ông cũng cho hay đã chuyển cho ông Obama một danh sách các tù nhân lương tâm, trong đó có nhiều nhà báo, blogger đang bị giam giữ ở Việt Nam.

Truyền thông Việt Nam không đưa tin gì về cuộc gặp này.

Ông Nguyễn Văn Hải từng được biết đến như một blogger với nhiều bài viết thu hút sự chú ý trên cộng đồng mạng xã hội và Internet của Việt Nam về các chủ đề dân quyền và chủ quyền biển đảo.

Ông được trao giải Tự do Báo chí Quốc tế trong buổi lễ được Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) tổ chức tại New York, Hoa Kỳ hồi tháng 11/2013.

Trước khi đi Hoa Kỳ, ông thi hành án tù 12 năm tại Trại giam số 6, Huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước theo điều 88 Bộ Luật Hình sự.

Blogger Điếu Cày gặp gỡ Tổng thống Obama

Blogger Điếu Cày gặp gỡ Tổng thống Obama

01.05.2015

000_Was8923373-622.jpg

Cựu tù nhân chính trị, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải (bìa trái) vào lúc 10:55 sáng ngày 1 tháng 5 theo giờ miền đông Hoa Kỳ, có cuộc hội luận với tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama (giữa) cùng với các nhà báo nước ngoài khác từng bị bắt bớ.

AFP

Cựu tù nhân chính trị, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, vào 10:55 sáng hôm qua 1 tháng 5 theo giờ miền đông Hoa Kỳ, có cuộc hội luận với tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cùng với các nhà báo nước ngoài khác từng bị bắt bớ.

Cuộc hội luận diễn ra giữa tổng thống Barack Obama cùng những nhà báo bị tù tội như vừa nêu nhằm đánh dấu Ngày Tự do Báo chí Thế giới năm nay.

Vào năm 2012, cũng nhân dịp Ngày Tự do Báo chí Thế giới, tổng thống Barack Obama công khai nhắc đến blogger Điếu Cày. Dịp đó người đứng đầu chính phủ Hoa Kỳ nói rõ ‘ Vào khi chúng ta lên án những vụ bắt giữ gần đây đối với các nhà báo như Mazen Darwish, một tiếng nói hàng đầu ủng hộ tự do báo chí ở Syria, cũng như kêu gọi trả tự do ngay cho những nhà báo bị bắt giam như thế, chúng ta không được phép quên những người khác như blogger Điếu Cày, người bị bắt vào năm 2008 trong đợt cấm cách rộng khắp đối với hoạt động báo chí công dân tại Việt Nam.

Xin được nhắc lại, sau khi bị bắt blogger bị kết án vì tội trốn thuế, nhưng khi mãn án vì tội danh này, ông tiếp tục bị giam giữ và bị kết án với tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt Nam.

Ông được Hoa Kỳ can thiệp và bị đưa từ nhà tù thẳng sang Hoa Kỳ vào tháng 10 năm ngoái.

Lễ tưởng niệm các binh sĩ Mỹ và Đồng Minh hy sinh ở Việt Nam

Lễ tưởng niệm các binh sĩ Mỹ và Đồng Minh hy sinh ở Việt Nam

Nguyễn Khanh, RFA
2015-04-30

Tường trình lễ tưởng niệm binh sĩ Mỹ và Đồng minh hy sinh ở Việt Nam Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

tuong-niem-622.jpg

Lễ tưởng nhớ những chiến binh hy sinh ở chiến trường Việt Nam ở thủ đô Washington DC hôm 30/4/2015.

RFA

Your browser does not support the audio element.

Nhân dịp tưởng niệm ngày 30 tháng Tư năm nay, một trong những sinh hoạt của Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại là tổ chức buổi lễ tưởng nhớ những chiến binh Mỹ hy sinh ở chiến trường Việt Nam. Từ địa điểm buổi lễ ở thủ đô Washington.

Hy sinh cho tự do

Trước lễ đài, mọi người bùi ngùi nhớ đến 58,000 binh sĩ Hoa Kỳ hy sinh ở chiến trường Việt Nam, những người đã chiến đấu và hy sinh cho lý tưởng tự do.

Phần lớn những người nằm xuống là những thanh niên rất trẻ, trong đó có những người mới tốt nghiệp trung học, cũng có người vừa học xong đại học, cũng có người mới lập gia đình, và cũng có người nằm xuống mà không nhìn thấy mặt của đứa con đầu lòng.

Trưởng Ban tổ chức, Cô Nguyễn Thị Ngọc Giao cho biết:

“Buổi lễ ngày hôm nay là để tưởng niệm 40 năm ngày 30/04/1095, là ngày chúng ta – những người miền Nam Việt Nam bị mất nước vào tay cộng sản.  Cho đến ngày hôm nay vẫn còn rất nhiều người tại Việt Nam phải chịu đau khổ dưới chế độ cộng sản.

Nhưng hôm nay tại Tượng đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở Washington DC chúng ta tỏ lòng cảm ơn những người đã hy sinh trong chiến tranh Việt Nam.

Ngoài các chiến sĩ Hoa Kỳ, chúng ta còn trân trọng vinh danh và ghi ơn các chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa và tất cả các chiến sĩ Đồng Minh. Điều này một lần nữa muốn nói rõ rằng chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến giữa những người Việt với cộng sản.

Và chúng ta hôm nay đứng đây cám ơn các chiến sĩ Hoa Kỳ và Đồng Minh đã chiến đấu cùng với chúng ta; trong khi đó cuộc chiến chống lại cộng sản tại Việt Nam vẫn còn đang tiếp diễn.

Với chiếc ba lô đeo sau lưng và khẩu súng cầm trong tay, họ bước lên máy bay rời nước Mỹ để đến một vùng đất thật xa lạ mang tên Việt Nam, vùng đất mà có lẽ hầu hết đều không biết nằm ở vị trí nào trên bản đồ thế giới.

Vì lý tưởng bảo vệ tự do, họ chấp nhận rời mái nhà thân yêu, giã từ người thân, để đi đến vùng đất xa lạ đó, hãnh diện cầm súng chiến đấu với những người không nói chung ngôn ngữ, không cùng một màu da với họ.

Ông Cựu quân nhân Mỹ tên Grant McLure kể lại câu chuyện này với Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do chúng tôi:

Tôi là Grant McLure, trưởng toán liên lạc với quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Làm việc trong nhóm chúng tôi có những người Việt Nam. Nhóm gồm cả cố vấn quân sự lẫn dân dự, chẳng hạn như tôi làm việc với toán quân y phục vụ ở Ban Mê Thuột từ 1969 đến 1971. Hôm nay chúng tôi có mặt ở đây để bày tỏ lòng kính trọng với những binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa mà chúng tôi đã có dịp làm việc chung trong thời chiến tranh”.

Những kỷ niệm chiến trường

tuong-niem-400.jpg

Các cựu binh tham dự Lễ tưởng nhớ những chiến binh hy sinh ở chiến trường Việt Nam ở thủ đô Washington DC hôm 30/4/2015. RFA PHOTO.

Nhiều mẩu chuyện ngắn ngủi khác cũng được nhiều người kể lại khi nói về người bạn đồng minh của mình 40 năm trước đây. Có người nhắc lại lần đầu tiên đi hành quân chung với anh lính Mỹ, có người nhắc lại chuyến trực thăng đổ quân xuống giữa rừng già do một anh phi công Mỹ cầm lái, cũng có người nhắc lại chuyện từng cầm máy truyền tin gọi cho đơn vị pháo binh Hoa Kỳ để nhờ bắn yểm trợ.

Nhưng quan trọng nhất, điều mà những người Việt có mặt trong buổi lễ tưởng niệm muốn nói đến vẫn là tình đồng đội giữa người lính Việt Nam Cộng Hòa và người lính Mỹ.

Riêng với ông Trần Ngọc Huế, kỷ niệm mà ông bao giờ quên là những ngày sát cánh cùng các người bạn đồng minh trong trận chiến kéo dài nhiều ngày để lấy lại thành phố Huế:

“Tôi muốn kể lại một kỷ niệm mà tôi với người cố vấn Mỹ của tôi hồi tôi chỉ hy Đại đội Hắc Báo trong trận Mậu Thân để đánh tan sự chiếm đóng của quân cộng sản tại thành phố Huế.

Tuần đầu tiên thì chúng tôi, Đại đội Hắc Báo, không có cố vấn vì cố vấn trưởng của tôi lúc đó phải chống cự với sự tấn công của quan cộng sản tại căn cứ ở phía Nam Sông Hương. 10 ngày sau thì ông cố vấn này đã qua với chúng tôi; và lúc đó chúng tôi rất vui mừng là đã có một người bạn đồng minh ở bên cạnh hổ trợ để cùng nhau chia sẻ những gánh nặng như là tải thương, như là yêu cầu những phi pháo của phía Mỹ.

Chúng tôi rất là cám ơn những người đồng minh đó từ phía Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và Sư đoàn 101 Nhảy dù của Mỹ đã cùng các quân binh chủng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã lấy lại Thành Huế sau 26 ngày đêm bị quân cộng sản vây hãm, đem lại sự thanh bình cho người dân Huế cho đến năm 1975.”

Bùi ngùi, xúc động

Không ai bảo ai, trong nhìn ánh mắt của những người tham dự, mọi người dường như muốn nói lên rằng điều đau buồn nhất là cuộc chiến Việt Nam đã không được quyết định ở chiến trường, mà lại được quyết định ở chính trường Washington.

Những ánh mắt đó như thầm bảo không chỉ người lính của quân đội miền Nam mà ngay chính những người lính Mỹ đã phải chiến đấu, chấp nhận mọi gian khổ, kể cả chấp nhận hy sinh chính thân xác của chính mình, cũng không được quyền chiến thắng.

Vì thế, ánh mắt của những người Việt có mặt trong buổi lễ tưởng niệm như thầm bảo với những người bạn Mỹ đã nằm xuống cho lý tưởng tự do rằng: chúng tôi không bao giờ quên những gì bạn đã làm cho đất nước chúng tôi, và xin hứa với các bạn rằng con đường chúng ta đã đi dù còn dài đến đâu đi chăng nữa, nhưng cuối cùng, chắc chắn chúng tôi sẽ đi cho đến đích.

Buổi lễ không chỉ là dịp để Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại cám ơn sự hy sinh cao cả của những người bạn đồng minh Hoa Kỳ, mà cũng là dịp để một số binh sĩ Mỹ gặp nhau, nhắc lại đoạn đường chiến đấu mà họ đã trải qua, đặc biệt với toán binh sĩ của Đại Đội C, Trung Đội 3, Tiểu đoàn 1/9 Thủy Quân Lục Chiến, ngày 30 tháng Tư năm nay là dịp để họ nhắc lại cũng ngày này 40 năm trước đây, họ chính là toán binh sĩ Mỹ cuối cùng lên chiếc trực thăng cất cánh từ Tòa Đại Sứ Mỹ:

“Chúng tôi thuộc toán binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến cuối cùng được đưa vào Saigon hôm 25 tháng Tư 1975, giữ trách nhiệm bảo vệ an ninh cho Tòa Đại Sứ Mỹ. Anh em chúng tôi hãnh diện đã làm tròn trách nhiệm cho tới phút chót, đồng thời cũng hãnh diện đá giúp di tản được một số người ra khỏi Việt nam vào giờ chót”.

Một cựu quân nhân trong toán là ông Carl Stroud còn cho chúng tôi xem hình chụp 2 lá cờ, một Mỹ, một Việt Nam Cồng Hòa, mà ông mang ra được từ Tòa Đại Sứ. Hai lá cờ này hiện đang được giữ ở Viện Bảo Tàng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

Cũng cần nói thêm là ngoài 58,000 binh sĩ Mỹ hy sinh ở chiến trường Việt Nam còn có gần 2,000 binh sĩ nằm trong danh sách mất tích.

40 năm sau ngày cuộc chiến kết thúc, các toán tìm kiếm mới thu nhặt được hơn 700 thi hài, và không thể biết đến bao giờ mới tìm được hài cốt của những người lính cuối cùng, để đưa họ về an nghỉ ở nơi mà họ đã sinh ra, lớn lên và trưởng thành, trước ngày họ rời quê nhà để lên đường sang Việt Nam chiến đấu.

(Nguyễn Khanh, tường trình từ Washington).

Luật sư Lê Công Định nói về ngày 30 tháng 4

Luật sư Lê Công Định nói về ngày 30 tháng 4

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-04-29

Luật sư Lê Công Định nói về ngày 30 tháng 4 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg10174163.jpg

Luật sư Lê Công Định phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với AFP tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh hôm 10/4/2015.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Trong chuyên đề Ký ức 40 năm hôm nay Mặc Lâm có cuộc trao đổi với Luật sư Lê Công Định, nguyên Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư Sài Gòn, một trí thức từng có nhiều bài viết cổ súy cho dân chủ tại Việt Nam. Ông là con của một gia đình cách mạng sinh trưởng và lớn lên tại Sài Gòn nhưng có cái nhìn khác về ngày 30 tháng 4 năm 75. Luật sư Lê Công Định từng bị tù hơn 4 năm về tội tuyên truyền chống phá cách mạng và đây là lần phỏng vấn đầu tiên ông dành cho RFA sau khi ra khỏi trại giam vào ngày 06 tháng 2 năm 2013. Trước nhất LS Định nói về ký ức ngày 30 tháng 4 của mình khi ấy ông vừa 7 tuổi:

Tôi còn đọng lại trong ký ức của mình hình ảnh ngày 30 tháng 4 năm 75. Thực ra lúc đó tôi mới 7 tuổi thôi, trước ngày đó thì chúng tôi vẫn đến trường đều đặn. Những cuộc di tản trên đường phố cũng như tại Tòa đại sứ Mỹ lúc đó bắt đầu có những người chạy vào leo lên trực thăng, tôi thấy những hình ảnh đó khi đi ngang qua và nó vẫn còn đọng lại trong ký ức của tôi về cuộc chiến tranh.

Cái ngày 30 tháng 4 đó tôi và những trẻ con trong khu phố mình ở đã ra đường để xem mặt đoàn quân giải phóng như thế nào và sau dó thì xem TV thì thấy Ủy ban Quân quản họ tổ chức những buổi meeting đưa hình ảnh ông Hồ Chí Minh cũng như đưa những lá cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lúc đó tôi rất ngạc nhiên và hỏi ba tôi ông đó là ai, ba tôi trả lời đó là ông Hồ.

Sau đó khi lớn lên thì tôi bắt đầu hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh, tất nhiên đã bị giảng dạy một cách lệch lạc theo cái nhìn của chính quyền chứ không phải theo đúng sự thật lịch sử của nó. Do đó tôi cũng như bao thế hệ trẻ lớn lên trong lòng của chế độ mới này khi học hành chúng tôi bị tiêm nhiễm bởi cái lối truyền đạt có tính cách tuyên truyền nhiều hơn là dạy cho học sinh, sinh viên hiểu được thế nào là lịch sử trong quá khứ.

Ông hối hận tại sao mình lại tham gia xây dựng nên một chính quyền để rồi cuối cùng người dân bình thường lại bị tước đoạt như thế này?
– Luật sư Lê Công Định

Khi vào đại học tôi nhận ra điều đó qua nói chuyện với người thân trong gia đình cũng như bạn bè của tôi, tôi mới bắt đầu tìm hiểu, đọc lại sách. Nhưng sách lúc đó hầu hết do nhà nước xuất bản làm sao mình có thể hiểu được? Vì vậy buộc lòng tôi phải đọc lại những cuốn sách in trước năm 75 của gia đình tôi và đặc biệt của người anh trai tôi. Những cuốn sách đó đã thực sự thay đổi suy nghĩ của tôi, tôi bắt đầu định hình một suy nghĩ mới, nhận thức mới của lịch sử Việt Nam từ những năm 17-18 tuổi. Tôi chỉ muốn nhìn một cách tổng quát đa chiều về lịch sử của đất nước mình.

Mặc Lâm: Thưa LS sau khi ông bị bắt thì báo chí chính thống rộ lên nhận định cho rằng gia đình ông là một gia đình cách mạng và đã được ưu đãi. Trong thời gian sau 30 tháng 4 thì gia đình ông có được ưu đãi như họ nói hay không thưa luật sư?

Luật sư Lê Công Định: Về việc đó thì nó như thế này: Ông nội tôi, bác tôi, ba tôi và thậm chí cô tôi đều đi theo phong trào cộng sản. Giống như những trí thức miền Nam lúc đó họ không thích sự có mặt của quân đội nước ngoài. Sau cuộc chiến tranh chống Pháp kéo dài không ai còn muốn thấy quân đội nước ngoài ở Việt Nam. Gia đình tôi cũng như bao nhiêu người trí thức khác đều lựa chọn cho mình thái độ trung lập đối với chính quyền lúc đó.

Gia đình tôi không may được tiếp cận với những người hoạt động cho phong trào cộng sản cho nên họ bị ảnh hưởng và họ tham gia vào phong trào cộng sản gọi là “cuộc kháng chiến chống Mỹ”.

Gia đình tôi bị ảnh hưởng rất nhiều và ba tôi thậm chí đi tù vì những hoạt động chống lại chính quyền Sài Gòn vào năm 1960 và ông nhận cái án tương đối nặng nề là 5 năm tù. Sau đó khi ra tù ông tiếp tục cuộc sống bình thường của mình nhưng vẫn âm thầm cổ vũ cho phong trào cộng sản. Năm 75 xảy ra sự kiện thống nhất thì ba tôi nghiễm nhiên trở thành một thành viên trong chế độ mới nhưng có nhiều điều sau đó khiến ông bắt đầu nhận thức ra mình đã bị lừa dối như thế nào qua các chính sách mà họ áp dụng cho người miền Nam lúc đó. Thí dụ như là giam cầm những quân nhân và công chức của chế độ Sài Gòn, cải tạo tư sản. Ba tôi đã từng tham gia vào những cuộc gọi là cải tạo tư sản đó và ông nhận ra được bản chất phi nhân của những chính sách như vậy.

Người dân trước năm 75 họ ky cóp tài sản của mình và làm ăn một cách chân chính để sống đời sống giản dị như giới trung lưu thì họ bị chụp cái mũ là tư sản mại bản, bị tước đoạt toàn bộ tài sản và đẩy cả gia đình vào vùng kinh tế mới.

Ba tôi có kể với tôi một sự kiện mà đến bây giờ tôi vẫn nhớ hoài. Ba tôi kể khi đoàn làm việc của ông đến nhà một bà bán tạp hóa người Hoa để kiểm kê và tịch thu tài sản của bà thì buổi sáng bà đó vẫn còn đầu óc minh mẫn, tóc vẫn đen và nói chuyện vẫn đâu ra đó. Bà năn nỉ van xin mong người ta để lại tài sản dù là một phần, nhưng đoàn làm việc theo lệnh trên vẫn lấy toàn bộ tài sản của bà. Bà đã khóc lóc van xin suốt từ sáng đến chiều…ba tôi nói rằng khi nhìn toàn bộ tài sản của mình bị lấy đi hết thì bà đã hóa điên hóa dại, nói năng không còn bình thường nữa và tóc bà trở nên bạc trắng! Ba tôi nhìn hình ảnh đó và ray rứt cả cuộc đời. Ông hối hận tại sao mình lại tham gia xây dựng nên một chính quyền để rồi cuối cùng người dân bình thường lại bị tước đoạt như thế này? Điều đó ba tôi kể cho tất cả các con nghe.

 

Người dân Sài Gòn di tản hôm 30/4/1975. AFP photo

Riêng tôi hình ảnh bà bán tạp hóa người Hoa hóa điên, tóc trở nên bạc trắng ám ảnh và ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi từ nhỏ cho đến tận bây giờ. Gần như trong gia đình tôi có một sự phản tỉnh từ ba tôi cho tới các con.

Nói về mặt lý lịch thì tất nhiên gia đình tôi là một “gia đình cách mạng” lẽ ra cũng nhận những ưu đãi giống như bao nhiêu cán bộ trong hệ thống này, tuy nhiên có một điều xảy ra vào năm 1980 khi mâu thuẫn nội bộ bên trong hàng ngũ cán bộ giữa miền Bắc và miền Nam lúc đó. Ba tôi bị chụp cái mũ làm sai nguyên tắc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa và ông bị chính đồng đội của mình bắt giam trong 6 tháng trời không qua xét xử và có bất kỳ một bằng chứng nào nên cuối cùng phải thả ba tôi ra và yêu cầu ba tôi làm bản kiểm điểm để quay trở về làm việc.

Ba tôi từ chối, ông nói với họ rằng sự tham gia vào phong trào cộng sản của ông là một bản kiểm điểm quá vĩ đại của cuộc đời ông rồi. Sáu tháng tù mà những người đồng đội bắt giam ông nó cũng là một bản kiểm điểm quá vĩ đại để ông có thể tiếp tục làm một bản kiểm điểm nữa. Ông trở về đời sống dân sự bình thường.

Kể từ đó gia đình tôi đoạn tuyệt với hệ thống chính quyền này và không nhận bất kỳ một sự ưu đãi nào. Tất nhiên khi xét lý lịch bắt giam tôi thì họ vẫn xem gia đình tôi là gia đình có công với cách mạng do vậy khi xuất hiện ở Tòa sơ thẩm tôi có nói một điều như thế này: “ Tôi nghĩ rằng gia đình tôi từ ông tôi cho tới bác, cha, cô tôi đều đi theo cách mạng, tuy nhiên tôi đã đi ngược hoàn toàn với con đường đó” Tôi nói rất rõ ràng nhưng sau đó coi lại trên Youtube thì họ cắt thêm một phần ở một câu khác nhét vào ngay sau cái câu mà tôi vừa nói. Họ bảo tôi đi ngược lại đường lối gia đình, những công lao của gia đình cho nên tôi thấy ân hận.

Tôi nghĩ rằng hòa giải lẽ ra là một vấn đề đương nhiên áp dụng sau khi hết chiến tranh bởi vì cả bên thắng cũng như bên thua cuộc đều là đồng bào trong nước.
– Luật sư Lê Công Định

Tôi thấy buồn cười bởi vì khi nói ra câu đó tôi muốn gửi một thông điệp rất rõ ràng rằng: tuy gia đình tôi đi theo con đường cộng sản góp phần xây dựng nên chế độ này nhưng tôi lớn lên và ý thức rõ việc tôi làm và quyết định đi ngược lại con đường đó.

Mặc Lâm: Quay trở lại câu chuyện 40 năm thì tù nhân côn đảo, tù nhân cải tạo đã trở về nhà nhưng xuất hiện một loạt tù nhân lương tâm mới vẫn còn trong tù, điều này cho quốc tế thấy gì?

Luật sư Lê Công Định: Đối với những tù nhân cải tạo quân nhân của chế độ Sài Gòn ngày xưa chúng ta thấy nó thể hiện rõ một chính sách của chính quyền là trả thù những người từng là đối thủ của mình. Họ không có một sự khoan dung, không có sự hòa giải thật sự cho nên mới thực hiện việc đó.

Còn đối với tù nhân lương tâm bây giờ thì tất cả mọi người đểu đã thấy rằng đây là một chế độ độc tài cho nên người ta chỉ thích nghe những lời êm tai, xuôi theo cách họ nói chứ họ không nghe những ý kiến trái ngược thập chí là đối lập, do đó mới có việc bắt giam tù chính trị và tù nhân lương tâm như tôi chẳng hạn. Bởi vì tôi chỉ đơn giản nói lên tiếng nói của mình nhưng họ lại xem đó là mối đe dọa của thế lực thù địch qua đó quốc tế đã nhận rõ chính sách nhất quán của mọi chế độ cộng sản. Từ Châu Âu, Châu Á và đặc biệt là Hoa Kỳ thấy họ không thay đổi chủ nghĩa độc tài của mình.

Càng ngày chúng ta thấy càng nhiều hơn tù nhân lương tâm bị bắt nó thể hiện mối sợ hãi ám ảnh đầu óc của người lãnh đạo. Họ luôn luôn sợ quyền lực của họ bị mất do sự ảnh hưởng của người trí thức, bất đồng chính kiến hôm nay và cách duy nhất là họ đàn áp, tù đày. Cách tốt nhất dập tắt tiếng nói đối lập.

Mặc Lâm: Ngày 30 tháng 4 là ngày thống nhất đất nước nhưng 40 năm sau hai chữ “thống nhất” vẫn còn khá mơ hồ về sự hòa giải. Theo luật sư ai là người phải tỏ thiện chí một cách nghiêm túc trước? Bên thắng hay bên thua cuộc?

Luật sư Lê Công Định: Tôi nghĩ rằng hòa giải lẽ ra là một vấn đề đương nhiên áp dụng sau khi hết chiến tranh bởi vì cả bên thắng cũng như bên thua cuộc đều là đồng bào trong nước. Họ đâu phải là hai chủng tộc khác nhau, hai kẻ thù một bên là ngoại xâm còn một bên là người bị xâm lược vậy thì việc gì phải tiếp tục hận thù và chia rẽ?

Chưa bao giờ muộn cho vấn đề hòa giải cả kể cả bây giờ 40 năm sau, không ai còn tin vào chính sách hòa giải của nhà cầm quyền nữa. Nhưng nếu bây giờ nhà nước Việt Nam thật tâm muốn thực hiện chính sách hòa giải thì họ nên làm bằng thực chất chứ không phải làm qua lời nói.

Ở đây không phải là sự hòa giải giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc vì 40 năm đã qua nên gác lại chuyện đó đi. Bây giờ điều quan trọng hơn là hòa giải giữa người cộng sản và người không cộng sản. Ngay những người như tôi lớn lên trong chế độ mới, học hành mưu sinh trong chế độ này. Bản thân tôi, cuộc đời tôi chả liên quan gì tới chế độ Việt nam Cộng hòa cả vậy thì tôi không cần sự hòa giải của bên thua cuộc và bên thắng cuộc. Cái tôi cần là sự hòa giải giữa người cộng sản và người không cộng sản.

Mặc Lâm: Xin cám ơn luật sư Lê Công Định.

Nghệ An: Xây đập tốn 17 tỷ đồng, chưa bàn giao đã hỏng

Nghệ An: Xây đập tốn 17 tỷ đồng, chưa bàn giao đã hỏng

Nguoi-viet.com

NGHỆ AN (NV) Dự án sửa chữa đập Kí Rượu vừa hoàn thành. Song, điều đáng nói là chưa nhận bàn giao thì đã xuất hiện nhiều hư hỏng, do xây không đúng thiết kế, thiếu hạng mục.

Theo dân Trí, dự án sửa chữa, nâng cấp đập Kí Rượu tại xã Lăng Thành, huyện Yên Thành, có tổng vốn hơn 17 tỷ đồng, do huyện Yên Thành làm chủ đầu tư, khởi công từ tháng 10, 2012, do công ty xây dựng Tây An, thành phố Vinh thi công. Sau khi hoàn thành, đập Kí Rượu sẽ cung cấp nước tưới cho khoảng 950 hecta đất trồng lúa ở xã Lăng Thành và các vùng phụ cận.


Tràn xả lũ bị thi công thiếu 5m so với thiết kế ban đầu. (Hình: Dân Trí)

Dự án sửa chữa đập Kí Rượu vừa hoàn thành. Song, điều đáng nói là chưa nhận bàn giao thì đã xuất hiện nhiều hư hỏng, do xây không đúng thiết kế, thiếu hạng mục.

Tuy nhiên, ngay sau khi đập hoàn thành, tại nhiều vị trí trên công trình đã xuất hiện tình trạng hư hỏng nghiêm trọng.

“Ðập chưa tích nước mà đã hư hỏng như vậy, không biết đến mùa mưa bão sẽ ra sao nữa. Chúng tôi là những hộ dân sống ngay dưới khu vực hạ lưu của con đập vô cùng lo lắng cho chính tính mạng của mình,” ông Hưng, một người dân sống dưới con đập tỏ ra lo lắng.

Trao đổi với Dân Trí, ông Lê Văn Tuấn, giám đốc ban quản lý các dự án xây dựng huyện Yên Thành cho biết: “Sau khi nhà thầu làm xong, trong lúc nghiệm thu chúng tôi đã phát hiện chất lượng công trình không ổn, một số hạng mục bị thiếu như phần mái thượng lưu và hạ lưu tích nước, chất lượng dầm khung, bê tông không đạt tiêu chuẩn… Phần tràn xả lũ cũng bị thiếu đi 5m so với thiết kế ban đầu…,” ông Tuấn nói.

Tin cho biết, điều đáng nói trong quá trình nhà thầu thi công suốt hơn 2 năm, công trình chậm tiến độ 15 tháng so với dự kiến ban đầu, nhưng đơn vị giám sát, chủ đầu tư không phát hiện ra những sai sót trên khiến chất lượng công trình bị ảnh hưởng.

Dư luận chung cho rằng,việc nhà thầu tự thay đổi thiết kế, tự tung tự tác trong suốt quá trình thi công bớt xén một số hạng mục để trục lợi đã “qua mặt” được đơn vị quản lý. Hay chính sự lỏng lẻo, thiếu quan tâm của chủ đầu tư, huyện Yên Thành nên mới dẫn đến sự việc trên? (Tr.N)

Hà Nội hãy biết yêu những gì mình có

Hà Nội hãy biết yêu những gì mình có

Đoan Trang

Tôi yêu màu lá xanh mướt của mùa xuân. Nổi trong đám lá xà cừ xanh thẫm, đôi khi lại có màu xanh nõn nà của lá bồ đề, lá sấu. Và khi xuân sang, buổi sáng sớm bước ra đường, lẫn trong khói bụi ô nhiễm, vẫn thấy một mùi thơm mát mà tôi gọi là mùi “hoa cỏ mùa xuân”.

Tôi yêu sắc đỏ rực trời của hoa phượng. Đôi khi tình cờ nhớ đến những ngày ở nước Mỹ, tôi nhớ xứ Cali cũng có hoa phượng, nhưng là phượng tím, jacaranda. Có những đoạn đường, hai bên một màu tím ngát, hoa nhiều hơn lá. Phượng tím cũng đẹp lắm. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn yêu cái màu cháy đỏ nao lòng của phượng hồng Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh… những thành phố của Việt Nam mà tôi đã đi qua. Nhớ đến phượng là nhớ đến những câu hát xao xuyến: “Phượng hay bâng khuâng, tưởng chừng như cô đơn”, “xuân qua hè tới ta nhớ nhau luôn, phượng ơi”.

Tôi yêu tiếng ve ngập tràn những con đường lớn, phố nhỏ, những ngõ vắng xôn xao ở Hà Nội. Tôi nhớ những ngày đầu hè rực nắng, tháng 4-5, của một năm nào đó xa xưa lắm rồi, tôi đi lang thang trong một vườn cây đầy nắng ở khu Quảng Bá, Hồ Tây, chìm trong tiếng ve và mơ màng câu hát “rừng chiều nghe lao xao, tiếng lá non gọi gió”.

Hà Nội, trong tim tôi, luôn gắn với cây cỏ, trời mây và thời tiết. Dù có đi đến nơi nào trên thế giới này – Los Angeles rực nắng, Stockholms cổ kính với những mái nhà tròn màu hồng, Budapest và những bức tượng đồng xanh thẫm, v.v. – tôi vẫn luôn nhớ đến Hà Nội và vô vàn hình ảnh thời thơ ấu: những nhà cửa xam xám với cửa sổ xanh xanh, cũ kỹ, bờ tường sứt sẹo, những cây bàng đỏ ối, những ô vườn rập rờn hoa bướm tím hồng, hoa mào gà tía… Tôi nhớ những cây xà cừ râm ran tiếng ve mỗi độ tháng 4, tháng 5 về, và đặc biệt, cứ vào mùa cuối xuân, xà cừ lại rụng lá. Lá xà cừ vàng thắm, bay rợp trời, đẹp như mùa thu Tây phương vậy, dù chẳng có rừng phong…

Chẳng bao giờ tôi chịu nổi cái ý nghĩ một mai đây, Hà Nội sẽ “hiện đại hóa” thành một đô thị như Bangkok hay Manila, toàn màu bê tông và xi măng trắng, nằm trần trùng trục dưới cái nắng nhiệt đới oi ả của Đông Nam Á. Không. Không có bất kỳ một đại dự án, một chủ trương, chính sách, một công trình nào, của bất kỳ kẻ nào, có thể biện hộ cho việc chặt hạ cây xanh ở Hà Nội được. Năm 2009, Giáo sư Mike Douglas (ĐH Hawaii, Mỹ), tại một hội thảo quốc tế ở Hà Nội về “thành phố đáng sống”, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của những không gian có giá trị trong đời sống xã hội đô thị như quảng trường, công viên, chợ họp ngoài trời/chợ truyền thống, đường phố và vỉa hè, v.v. những không gian mà ở đó con người gặp gỡ nhau không phải chỉ để mua bán mà để chào hỏi và chuyện trò với nhau.

Ông cho rằng: “Các thành phố hiện nay đang mất đi những không gian công cộng và không gian dân sự, nơi người dân có thể đến và sử dụng mà không cần dành toàn bộ thời gian của mình cho các quan hệ thương mại hay trao đổi hàng hóa, và cũng không gặp trở ngại về những điều họ nói với nhau”.

Và Hà Nội, trong đánh giá của ông Mike Douglas, là một thành phố may mắn còn giữ được những không gian ấy. Chỉ ở Hà Nội, ta mới thấy có chợ cóc, có những hiệu cắt tóc vỉa hè, những quán café dưới bóng cây xanh, nơi người ta ngồi chen chúc, xúm xít, vai kề vai lưng kề lưng, để trò chuyện và “chém gió”. Nghĩa là vẫn còn những không gian công cộng rất đặc thù. Chúng ta không bắt gặp những nơi như thế ở các đô thị “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” như Bangkok hay Manila, thậm chí Los Angeles, Washington DC. Ở đó, chỉ có các quán café máy lạnh, kiểu như Starbucks, McDonalds’, người ta mua mang theo hoặc ghé vào uống một lát rồi đi, chẳng thể nào có thứ văn hóa “trà đá café vỉa hè” như Việt Nam.

Không, không thể để Hà Nội, Sài Gòn, hay bất cứ một thành phố nào ở Việt Nam trở thành thành phố bê tông được, nhất là khi những chính sách phá hoại ấy chỉ do một thiểu số dấm dúi làm ra với nhau, sau đó, khi bị công luận lên tiếng, lại tìm cách câu giờ để bao che cho nhau, đợi đến lúc công luận dần lắng xuống rồi mọi chuyện sẽ “cứt trâu hóa bùn”, như truyền thống lâu nay của lãnh đạo Việt Nam. Truyền thống ấy tạo thành những công thức: “Cần một giải pháp đồng bộ”, dịch sang tiếng Việt nghĩa là “không làm gì cả”. “Sẽ xử lý quyết liệt”, nghĩa là “chẳng ai làm sao cả”, cùng lắm thì một thằng đánh máy nào đó bị xử lý, một đồng chí trưởng/phó phòng nào đó bị kỷ luật Đảng mà thôi.

Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng… rất có thể sẽ chẳng bao giờ trở thành những thành phố hoa lệ hàng đầu thế giới. Nhưng không được như thế thì càng phải biết quý, biết giữ lấy cái gì mình có: hoa cỏ, cây xanh, hồ nước, không gian công cộng… Cũng như chính quyền Hà Nội phải biết yêu và giữ lấy những người dân đã có ý thức cộng đồng, đã xót xa từng cây xà cừ bị chặt bỏ, đã xuống đường giơ cao khẩu hiệu bảo vệ cây xanh, yêu cầu minh bạch, phản đối bạo lực… mà vẫn cố gắng ôn hòa, đi trên vỉa hè, nhặt rác, chịu đựng công an, và không giẫm lên cỏ. Không dễ có những người dân như thế trong một xã hội như Việt Nam đâu.

Và, có lẽ nào chúng ta cứ để một thiểu số bất tài vô hạnh ra những quyết định mang tính chất phá hoại – mà không chỉ phá chúng ta, còn gây hại cho nhiều thế hệ sau này nữa? Điều đáng sợ nhất là, khi lầm lỗi, khi làm sai, khi phạm tội ác mà không phải chịu trách nhiệm gì, kẻ sai, kẻ ác sẽ không có lý do gì để dừng lại.

clip_image002

Một đường phố ở thủ đô Washington D.C.

Đ.T.

Nguồn: http://www.phamdoantrang.com/2015/04/ha-noi-hay-biet-yeu-nhung-gi-minh-co.html

Quân nhân Mỹ gốc Việt chia sẻ nhân ngày 30/4

Quân nhân Mỹ gốc Việt chia sẻ nhân ngày 30/4

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-04-28

Quân nhân Mỹ gốc Việt chia sẻ nhân ngày 30/4

Hoa-Ai-620.jpg

Cựu Trung tá Ross Nguyễn Cao Nguyên và phóng viên Hòa Ái chụp tại RFA tháng 4/2015

RFA photo

Your browser does not support the audio element.

Trong số gần 3000 quân nhân Mỹ gốc Việt hiện nay thì có khoảng 300-400 người trong số họ thuộc thế hệ 1.5, là những người được sinh ra ở VN trong thời gian chiến tranh nhưng lại sinh trưởng ở Hoa Kỳ. Nhân 40 năm ngày chiến tranh VN kết thúc, Hòa Ái có cuộc trao đổi với cựu Trung tá Bộ binh Ross Nguyễn Cao Nguyên để nghe chia sẻ về cuộc đời của ông luôn gắn liền với 2 chữ “chiến tranh”.

Hòa Ái: Hòa Ái xin phép được chào cựu Trung tá Ross Nguyễn Cao Nguyên.

Ông Nguyễn Cao Nguyên: Cám ơn cô Hòa Ái. Nhân dịp này Cao Nguyên xin kính chào quý khán thính giả đài ACTD.

Hòa Ái: Xin phép được hỏi cựu Trung tá vào thời điểm hiện nay tưởng niệm biến cố 30/4, hồi ức của ông về những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh VN thì là ông nhớ lại là những hình ảnh gì?

Ông Nguyễn Cao Nguyên: Thời gian thấm thoát đi quá mau. Cô Hòa Ái cũng biết, thấm thoát thế mà đã 40 năm rồi. Gia đình của Nguyên được may mắn đi vào ngày 27/4/1975 trên chiếc C141, tàu bay cuối cùng của Mỹ. Ngày hôm đó, một điều mà Nguyên nhớ mãi đến nay là khi gia đình đã được xong giấy tờ của Quân lực Hoa Kỳ, ngồi trong xe buýt chạy ra cuối phi đạo Tân Sơn Nhất đợi tàu bay C141 tới.

Nguyên còn nhớ ngày Chủ Nhật, 27/4 này, lúc đó Nguyên được 16 tuổi. Nguyên thấy một số binh sĩ nhảy dù của Quân lực VNCH, có thể kêu là một đại đội Nhảy dù trấn đóng để bảo vệ Tân Sơn Nhất. Họ đứng nhìn từ phía sau hàng rào (fence) nhưng không ai la hét hay chửi bới gì hết. Tất cả những người đứng đó với một cặp mắt mà đối với Nguyên là một cặp mắt vừa buồn, vừa giận và có một vẻ gì đó hơi khinh bỉ.

Đó là niềm nhớ mãi mãi ở trong lòng của Nguyên. Đối với Nguyên, Nhảy dù là một binh chủng rất là dữ dội của Quân lực VNCH, hãy còn trật tự, hãy còn giữ đầy đủ cái tư cách của một người lính đứng nhìn những người đã bỏ nước mà đi.

Đối với Nguyên đó là điều rất là buồn trong lòng của mình tại mình biết mình bỏ người ta đi nhưng đó là một cái chuyện không thể nào đoán được.

Hòa Ái: Thưa ông, theo những chia sẻ của ông thì những hình ảnh trong ký ức đọng lại trong lòng ông có ít nhiều tác động đến quyết định trong việc chọn lựa cuộc đời binh nghiệp cho mình hay không?

Ông Nguyễn Cao Nguyên: Cô Hòa Ái phải biết, càng lớn tuổi chừng nào thì Cao Nguyên càng tin vào số mệnh chừng đó. Khi tôi khoảng chừng 12 tuổi thì đã nhất định đi theo bước chân của ba.

Ba của tôi là ông Nguyễn Đình Bản, Đại tá khóa 5 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Năm 1974, Nguyên nói với bố là “khi con thi xong tú tài thì con sẽ xin vào trường Võ Bị”. Năm 1975 mất nước mà khi mất nước rồi mình qua bên Mỹ thì ai cũng biết mình phải lo cuộc sống ở Hoa Kỳ nên chuyện vào trong quân đội bị chìm vào dĩ vãng. Nhưng đến năm 1983, khi Nguyên ra trường đại học rồi thì cảm thấy những điều mình đã trải qua từ năm 75 đến năm 83 có vẻ không đúng cái mộng mà mình muốn làm.

11025647_10203103439741974_9177133296691183971_n-400.jpg

Cựu Trung tá Ross Nguyễn Cao Nguyên và con trai.

Một hôm (trong công việc làm) được gửi đến Fort Sill, một căn cứ pháo binh của Hoa Kỳ ở Oklahoma thì Nguyên thấy mấy anh Thiếu úy đi qua đi lại rồi Nguyên tự hỏi là “không biết đời lính như thế nào”. Nguyên mới về kí giấy xin đi vào trong quân đội thì được Bộ binh nhận. Thấm thoát 28 năm sau, bây giờ con trai cũng ở trong quân đội Mỹ nên gia đình của Nguyên được 3 đời trong quân đội, rất là hãnh diện.

Hòa Ái: Ký ức tuổi thơ ở VN của ông gắn liền với chiến tranh dưới lăng kính của một cậu thanh niên vừa mới lớn; và trong cuộc đời binh nghiệp, ông từng có mặt ở nhiều chiến trường trên thế giới, nhân sinh quan của ông về chiến tranh có khác biệt so với hồi xưa không?

Ông Nguyễn Cao Nguyên: Rất là khác biệt. Cô nói rất đúng! Sau 1 năm đóng ở Iraq, phục vụ cho quân lực Hoa Kỳ thì Nguyên đã thấy được rằng chiến tranh đối với Nguyên là một phương tiện cuối cùng. Khi mình không còn phương tiện nào khác nữa mà khi đi đến chiến tranh rồi thì cô biết chiến tranh rất là tàn khốc, người chết, người bị thương, nhà tan cửa nát, gia đình ly tán…

Cho nên đối với Nguyên nếu có cuộc cách mạng nào (revolution) hay việc gì đó thì trước nhất là phải hòa bình (peaceful). Muốn thay đổi thì tự thay đổi chứ không cần đụng đến chiến tranh. Khi đưa đến chiến tranh rồi thì khó lắm, cũng như trường hợp bên nước Syria bây giờ, hơn 4 triệu người dân Syria bị tan nát cho nên những người mặc quân phục rất sợ chiến tranh.

Không phải sợ là vì không đủ sức làm mà sợ là vì khi đưa đến chiến tranh rồi thì phải có đánh nhau và giết nhau. Vì đánh nhau, giết nhau và ghét nhau phải đến 3-4 đời người mới trở lại được hòa ái và thương yêu nhau nên Nguyên sợ chiến tranh lắm.

Hòa Ái: Có vẻ như mâu thuẫn khi ông chia sẻ chọn cuộc đời binh nghiệp nhưng lại sợ chiến tranh. Hiện nay, Hòa Ái cũng ghi nhận được một số những người trẻ ở VN thì họ vẫn không có thiện cảm với quân nhân Mỹ. Theo như lịch sử họ học ngày xưa “Mỹ là kẻ thù của VN”. Bây giờ vẫn còn một số người vẫn cho rằng lính Mỹ là lính đánh thuê. Nếu như có cơ hội nói chuyện với họ thì ông sẽ nói gì?

Ông Nguyễn Cao Nguyên: Nguyên sẽ nói rằng lính Mỹ thật ra không phải là những người lính đánh thuê. Các bạn phải hiểu rằng nước Mỹ bây giờ vẫn là một cường quốc, vẫn là một nước giàu nhất trên thế giới mà khi mình đã giàu như vậy thì mình phải bằng mọi cách chia sẻ sự văn minh, sự tiến bộ, sự tự do dân chủ cho tất cả các nước mà mình có thể tiếp xúc được.

Không phải là mình đàn áp hoặc bắt người ta phải theo mình nhưng mà vì tự do và dân chủ, nước Mỹ đã trở thành một cường quốc như thế này. Một con người không thể nào bị đàn áp bởi tất cả chế độ nào hết. Chuyện Mỹ đi đánh là tại vì Mỹ đã thấy những người dân ở những nước bị đàn áp thật là khổ và thật là vô nhân đạo thì họ sẽ bằng mọi cách cố gắng để giúp những người dân đó. Như Nguyên đã nói, khi đã đụng đến chiến tranh thì Mỹ đánh là phải đánh cho cùng. Vì thế hiện giờ có nhiều chuyện rất là lủng củng trong chính quyền của Mỹ, nhưng tấm lòng của người Mỹ lúc nào cũng là tốt.

Hòa Ái: Câu hỏi cuối cùng là hiện nay có lẽ ông cũng biết VN có tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc. Tình hình càng ngày càng leo thang. Mặc dù VN luôn chủ trương giải quyết bằng các biện pháp hòa bình. Tuy nhiên, trước những hành động hung hăng của Trung Quốc bây giờ, nhiều chuyên gia phân tích rằng biện pháp quân sự cũng không loại trừ. Ông nghĩ sao nếu trong trường hợp xấu nhất có xảy ra chiến tranh ở Biển Đông, liệu những cựu quân nhân Mỹ gốc Việt như ông sẽ có những đóng góp nào để bảo toàn lãnh thổ cho đất mẹ?

Ông Nguyễn Cao Nguyên: Chuyện đó thì những người quân nhân Mỹ gốc Việt chúng tôi đã giơ tay tuyên thệ là phục vụ cho quân lực Hoa Kỳ. Cô cũng biết Hoa Kỳ hiện giờ đã bằng mọi cách trở về VN, không những về sinh hoạt kinh tế mà đến cả quân sự nữa. Không dám nói là vì sự đàn áp của Trung cộng nhưng mà ảnh hưởng của Trung cộng hiện giờ rất là mạnh trong vùng ĐNA, nhất là vùng của VN.

Sớm muộn gì nếu Trung cộng muốn bành trướng áp lực của họ bằng mọi cách chính trị hoặc là quân sự xuống ĐNA thì dĩ nhiên Hoa Kỳ không thể nào để chuyện đó xảy ra vì vùng đó rất là quan trọng về đường hải lộ. Nếu có chiến tranh xảy ra với Trung cộng thì chúng tôi, những quân nhân Mỹ gốc Việt, cũng phải tình nguyện hoặc bổ nhiệm đi vào những đơn vị đó và phải đánh. Nhưng theo cái kinh nghiệm của Nguyên với sự học hỏi của Nguyên là chiến tranh ở vùng ĐNA sẽ không đi tới tại vì ảnh hưởng về kinh tế, về xã hội của Trung cộng và nước Mỹ đã dính liền với nhau rất là nhiều, đưa đến chiến tranh thì rất là khó. Thể nào cũng đưa ra giải pháp yên ổn (tiếng Mỹ gọi là “peaceful solution”) nhưng với một điều kiện là quân đội Hoa Kỳ phải có mặt ở đó. Bây giờ Nguyên cũng thấy chính phủ VN và chính phủ Hoa Kỳ đã từ từ bắt tay lại, hợp tác với nhau rất là nhiều.

Hòa Ái: Xin được cảm ơn ông dành thời gian chia sẻ với quý khán thính giả của đài.

Trăm năm Homeless Hoa Kỳ

Trăm năm Homeless Hoa Kỳ

Giao Chỉ San Jose

Hoa Kỳ hiện nay có 300 triệu dân và đang ôm mối sầu thiên cổ với 3 triệu 500 ngàn homeless. đau thương nhất là trong đó có gần một nửa là trẻ em. Con số ghi nhận là 1 triệu 350 ngàn trẻ em. Hỏi rằng các homeless ở đâu

Cali Today News – Năm 1776 Hoa Kỳ lập quốc, từ miền đông di dân Tây tiến, bốn phương đâu cũng là nhà. Chưa có các đô thị và chung cư, nên chưa có người không nhà giữa xã hội đâu cũng là thôn quê và nông trại. Năm 1876 Hoa Kỳ kỷ niệm 100 năm lập quốc, tại các đô thị đã có người không nhà và vấn nạn homeless ra đời. Năm 1976 Hoa Kỳ kỷ niệm 200 năm độc lập. Không một thành phố nào mà không có những khách không nhà. Sống trên đất nước thiên đường mà công dân Mỹ lại thuộc về thành phần đầu đường xó chợ.

Trải qua hơn 40 năm, những người dân Việt lưu vong đã dự lễ độc lập 200 năm tại Hiệp Chủng quốc cho đến nay, hầu như ai nấy đều tạm thời an cư lạc nghiệp. Trên bản thống kê dân homeless, không thấy ghi tên Việt Nam. Con số quá ít nên có thể người Việt homeless nằm khép nép đâu đó trong phần thống kê khiêm nhường của dân Á Châu Thái Bình Dương. Nhưng các sắc tộc khác con số ngày một gia tăng, gồm cả Mỹ trắng, Mỹ đen và Mễ tây Cơ.

Tuy nói như vậy nhưng người Việt thực sự cũng có đại diện nhận lãnh niềm đau của nước Mỹ.Năm 2000 khi đi làm kiểm kê dân số chúng tôi có dịp thăm xóm homeless Việt Nam San Jose tại khu rừng thưa góc Senter và Capital Epwy. Kỳ này sẽ trở lại xem lại đường xưa lối cũ. Hai tháng trước, biết tin muộn có một phụ nữ Việt Nam homeless lớn tuổi đã qua đời. Người phụ trách nói là bà già Việt Nam họ Nguyễn. Vậy là Việt Nam chắc quá rồi. Dòng họ Nguyễn thì thực sự đông đảo và danh tiếng. Hai cô gái họ Nguyễn một thời tranh cử chung kết nghị viên tại San Jose. Cô họ Nguyễn giám sát viên tại quận Cam. Biết bao nhiêu nhân tài họ Nguyễn. Chẳng ai biết đến một bà già homeless họ Nguyễn lặng lẽ qua đời. Hoàn cảnh ra sao? Thôi cũng là số phận con người.

Vì đâu nên nỗi:

Tại các đại học, ghi tên ngành xã hội là phải có học trình về homeless. Có những đại học mà sinh viên ra trường tốt nghiệp chuyên khoa về bộ môn Homeless.

Vì vậy nỗi niềm cay đắng dù đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, nhưng quay đi quẩn lại thì cũng bao gồm các lý do căn bản: rượu chè, cần sa, ma túy, gia đình lục đục, thất nghiệp lâu dài, đầu óc lạng quạng, xuất thân trường tù, cựu chiến binh anh dũng bỗng trở thành những người anh hùng mỏi mệt.
Nói chung toàn là thành phần về hưu ngoài hè phố. Một thanh niên du đãng ở tù ra thì phần đông không biết về đâu đêm nay. Tự do với màn trời chiếu đất. Tuổi trẻ lớn lên thử một lần hút cần sa cấp trung học, nhẩy ngay lớp đại học để hít bằng mũi và lấy bằng đại học nhẹ nhàng khi chích vào tay. Tốt nghiệp tiến sĩ trường thuốc trở thành homeless. Anh em hè phố gọi đó là “Trường đời”. Các kỹ nữ về già và các vị cao niên suốt đời say sưa mối sầu thế kỷ đều về hưu ngoài đường.

Xã hội đại đô thị càng tiến bộ thì những người đứng bên lề càng gia tăng. Homeless trở thành vấn nạn triền miên không bao giờ giải quyết xong. Biết bao nhiêu vị tổng thống tài ba, mỗi năm Giáng sinh cũng đành đi nhà thờ cầu nguyện buổi sáng rồi phát cơm homeles buổi chiều

Bước vào thế giới homeless.

Hoa Kỳ hiện nay có 300 triệu dân và đang ôm mối sầu thiên cổ với 3 triệu 500 ngàn homeless. đau thương nhất là trong đó có gần một nửa là trẻ em. Con số ghi nhận là 1 triệu 350 ngàn trẻ em. Hỏi rằng các homeless ở đâu. Khoa địa lý nhân văn thi vị hóa gọi là những con người sống bên lề đô thị. 60% ngủ trong các xe còn chạy được xọc xạch hay là 4 bánh đã xẹp từ lâu. 25% ở trong các lều vải hay các thùng giấy.15% thật sự là màn trời chiếu đất, có thể gọi là khách sạn ngàn sao. đêm nằm nhìn lên thấy ngàn sao trên trời. Nếu lại cắc cớ hỏi rằng tại sao lại có nhiều trẻ em như thế. Xin trả lời rằng gia đình lục đục, thất nghiệp lâu dài và không có bà con tương trợ thì cả nhà ra đường là chuyện dễ hiểu. Ngoài ra trai tứ chiếng, gái giang hồ gặp nhau cũng vẫn tình cảm và cũng có sản xuất.

Những đứa bé sinh ra ở ngoài đường, sống không thấy mái nhà nhưng vẫn là công dân Mỹ bẩm sinh, có đủ điều kiện để ứng cử tổng thống, chuyện đó xem ra mới thê lương làm sao.

Có những gia đình vẫn cho con cái đi học, chợt mất nhà. Chồng lên đường làm ăn xa. Vợ dẫn con đến nhà tạm trú. Ðứa nhỏ vẫn lôi thôi lếch thếch đi học. Rồi một hôm chị Mary cãi nhau với bà manager tại nhà tạm trú. Ðem hai đứa con ra gầm cầu. Thằng bé trai 8 tuổi còn đi học. Thầy giáo hỏi sao mày không làm homework. Ðể tao phải gọi điện thoại cho cha mẹ. Ðứa bé lặng thinh, tuy còn nhỏ nhưng nó vẫn đủ khôn ngoan để không nói là nhà em đang ở gầm cầu.

Đó là câu chuyện của mỗi người trong các quan khách Hoa Kỳ tham dự vào bữa tiệc thực đơn thân ái Việt Nam đã tổ chức hàng tháng, năm này qua năm khác. Trên 1,000 kỳ tổ chức và hàng tr ăm ngàn phần ăn Việt Nam đã đưa ra.

Thực đơn thân ái Việt Nam

Hôm đó là một ngày mưa ở San Jose, tôi vào xếp hàng mua một ổ bánh mì tại tiệm Việt Nam dưới phố. Một tay homeless Hoa Kỳ chính hiệu xếp hàng trước mặt. Quầy hàng nhỏ nhưng trong tiệm cũng có hơn 10 bàn cho khách. Phần lớn mua To go. Ông homeless, trông là biết liền. Quần áo hai ba lớp luộm thuộm . Đầu tóc bù xù. Trả toàn tiền cắc và giấy một đồng nhàu nát. Cô bán hàng Việt Nam nhỏ bé dịu dàng hỏi ngay: To go? Khách hàng homeless xếp hàng trước mặt tôi hơi ngần ngại ngó quanh các chỗ ngồi. Trời bên ngoài mưa nặng hạt. Có vẻ muốn ngồi ăn bên trong. Nhưng khách homeless Hoa Kỳ cũng biết thân phận nên lại ngần ngại trả lời. Cô gái Việt dịu dàng nói nhỏ: to go please. Special discount 1 dollar. Ông khách homeless Mỹ khẽ gật đầu. Có thể vì được bớt 1 đồng, và cũng có thể muốn làm vui lòng cô bé Việt Nam bán hàng.

Bước ra ngoài, tôi thấy ông ngồi ngay dưới mái hiên thưởng thức bánh mì và ly cà phê nóng To go. Bên cạnh là một xe chợ chằng chịt các bao nylon của cả một gia tài đồ xộ.

Về sau tôi còn gặp lại tay homeless này nhiều lần tại các buổi chiêu đãi hàng tháng. Vào một buổi mùa hè. Ông khách quen này mặc áo cụt tay có vết xâm huy hiệu thủy quân lục chiến bên dưới là chữ Chu Lai. Như gặp lại người quen, tôi chỉ vào dấu xâm và giơ ngón tay cái lên trời. Người thủy quân lục chiến Hoa Kỳ của căn cứ Chu Lai ngày xưa khẽ gật đầu, mắt xanh mỏi mệt chợt sáng lên trong niềm vui nhẹ.

Ông là khách hàng của chúng tôi đã hơn 5 năm qua. Chiều thứ bảy, gần 300 khách thưởng thức 4 món Việt Nam: chả giò, gà chiên, cơm trộn, rau trộn, tráng miệng và thức uống. Nghiêm trang trật tự. Hết sức thanh lịch và gọn gàng. Yes Sir, No Sir. Yes Mame, No Mame. Thank you. Welcome.

Xếp hàng, ghi danh, lấy thực phẩm, dọn bàn. Không khí yên tĩnh như câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ. Những người tàn tật được ban thực đơn Việt Nam hộ tống đưa thức ăn ra tận bàn.

Bỗng nhiên có lời giới thiệu. Hôm nay các bạn được hội ABC mời ăn, tiếng vỗ tay vang dội. Tuy nhiên, các quan khách của chúng tôi quả thật sẽ không bao giờ nhớ được đây là nhà thờ công giáo hay phật giáo. Ðây là Trưng Vương hay Gia Long, đây là sinh viên Vạn Hạnh hay là nhà thầu Kiến Trúc. Ai là địa ốc, ai là nhà báo, ai là bác sĩ. Mọi người đều giống nhau.Tất cả đều chỉ nhớ có 2 chữ Việt Nam. Những người đàn ông Việt Nam hiền lành đứng tiếp tế từ phía sau. Những người đàn bà Việt Nam tử tế đưa thực phẩm từ phía trước. Những cô gái Việt Nam nhỏ bé chuẩn bị nước uống. Những mái tóc đen Á Châu, những khuôn mặt và nụ cười nhân đạo. Những nguồn thực phẩm vô tận đi hai ba vòng vẫn còn đầy đủ.

Buổi tối hôm nay, bụng homeless Hoa Kỳ căng đầy, bên cạnh còn một bao giấy To go, nằm dưới khách sạn ngàn sao, tại miền thung lũng điện tử tiền rừng bạc bể, người Mỹ gốc Mỹ có thêm một kỷ niệm êm đềm với người Mỹ gốc Việt tại San Jose.

Vấn nạn 100 năm cũ Vào ngày Lễ tạ Ơn và Giáng Sinh, tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân năm nào cũng dậy sớm đi lễ nhà thờ và buổi chiều thì đi dọn ăn cho Homeless Hoa Kỳ.

Từ hơn 100 năm nay, truyền thống của nước Mỹ đã trở thành tục lệ. Hiệp Chủng quốc là đất nước tiền rừng bạc bể, viện trợ cho khắp thiên hạ nhưng ngay tại quê nhà, mỗi năm vẫn có cả ngàn người Hoa Kỳ đói rét và nằm chết ở gầm cầu, xó chợ trong kiếp sống không nhà. Không một chính quyền nào, Dân Chủ hay Cộng Hòa, không một vị lãnh đạo nào giải quyết được hoàn toàn vấn đề Homeless. Các chính khách chỉ còn cầu nguyện buổi sáng và đãi ăn khách không nhà buổi chiều.

Thời kỳ còn chiến tranh lạnh, các vị nguyên thủ của khối Cộng muốn làm Hoa Kỳ mất mặt thường tìm cách đi thăm các khu nghèo tại Nữu Ước và tìm đến phát quà cho dân Homeless ở xóm Mỹ đen Harlem.

Nước Mỹ kể cả Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp cùng với truyền thông đều coi như chuyện nhỏ, không đáng kể. TV và báo chí vẫn chụp hình và loan tin tự do. Mọi người đều biết rõ là xã hội công nghiệp và đời sống của đô thị đã sinh ra giai cấp không nhà. Đôi khi họ là Homeless thường trực Full-time, có khi là Homeless bất chợt, Part-time thuộc loại lỡ độ đường.

Nước Mỹ ngày xưa chưa có các đô thị lớn, dân nào cũng là dân quê, cuộc sống gần thiên nhiên thì sự phân biệt giữa dân có nhà và dân Homeless không cách biệt. Ngày nay với trên 300 triệu dân, với hàng ngàn đô thị đông đảo thì số người không nhà lên cao là chuyện không có gì mới mẻ.

Con số không nhà

Toàn quốc Hoa Kỳ tính ra lúc nhiều lúc ít, hiện nay lên đến 3 triệu dân không nhà. Và con số này gia tăng nhiều hơn mức độ dân số phát triển hàng năm. Như vậy cứ 100 người Mỹ là một người ở ngoài đường dù là cố ý hay vô tình. Vô tình trở thành Homeless vì đói.  Cố ý Homeless vì điên.

Niềm đau thương hơn cả là trong số hơn 3 triệu Homeless đàn ông và đàn bà có cả một triệu trẻ em. Những đứa trẻ từ lúc sinh ra đã sống ở ngoài đường và suốt thời thơ ấu không được tắm trong nhà, không được ngủ với cửa buồng đóng lại, không được nằm trong chăn ấm, bên ngọn đèn ngủ và lời ru của mẹ.

Tất cả những đứa trẻ đó đều là công dân Hoa Kỳ, đang cư ngụ trên đất mẹ, ở xứ sở thiên đường mà hàng triệu người di dân trên thế giới muốn đến để lập nghiệp. Những cụ già, các gia đình, trẻ em homeless đều không bận tâm xin thẻ xanh hay thi quốc tịch. Tất cả đều là công dân hợp lệ.

Tại sao lại có hiện tượng vô lý như vậy? Không một nhà giáo dục, không nhà xã hội học, các kinh tế gia, các chính khách, các vị lãnh đạo chính phủ lãnh đạo tôn giáo tìm ra được giải pháp cho vấn nạn Homeless tại Hoa Kỳ.

Hiện nay, các đại học Mỹ có ngành xã hội và nhân chủng đều bỏ ra hàng triệu Mỹ kim để nghiên cứu giải pháp. Hàng chục ngàn cơ quan thiện nguyện từ trung ương đến địa phương đều nỗ lực đi tìm cách giúp đỡ và chấm dứt nạn Homeless tại các đại đô thị. Tất cả đều vô phương.

Các tiểu bang đều có những đô thị với nạn Homeless trầm trọng. Riêng California dẫn đầu với Los Angeles, San Francisco, Berkeley, và Fresno. Florida cũng có 3 điểm nóng. Texas cũng có 3 thành phố lên bảng đen. Ngay cả Las Vegas và Honolulu cũng nổi tiếng có nhiều Homeless.

Và Homeless cũng có nơi hiền lành, có nơi nảy sinh nhiều tội ác và những phiền phức cho xã hội. Ăn mày, ăn xin, trộm cắp, phóng uế bừa bãi, xả rác nơi công cộng, chiếm cứ các công viên, phá hoại môi sinh.

Homeless luôn luôn đi cùng với cần sa, ma túy, rượu chè, cờ bạc, đĩ điếm. Vì Homeless mà đi đến tứ đổ tường hay vì tứ đổ tường mà trở thành Homeless. Dù ngược hay xuôi thì cũng đen tối như nhau.

Đi tìm nguyên nhân

Một trong các yếu tố căn bản của Homeless là tinh thần tự do cá nhân cùng với bệnh tâm thần. Hoa Kỳ đã từng có nhiều người muốn sống gần thiên nhiên nên suốt đời ở với núi rừng. Đã có cả một thời xưa, dân Ho Bo chuyên sống và di chuyển dọc theo đường xe lửa. Và ngày nay, nhiều gia đình và phần đông là dân Mễ, cả vợ chồng con cái sống trên xe, đi từ cánh đồng này qua cánh đồng khác, sống theo mùa gặt.

Và rất nhiều các tay da đen uống rượu thích lấy đất làm giường và trời cao làm mái nhà. Khi các đấng lưu linh đã say sưa thì trời đất quay cuồng và nhà cửa không còn là vấn đề quan trọng.

Vì vậy vào mùa đông, các trại tạm trú của chính phủ mở ra với đạo quân cứu tế đi đến các công viên, khiêng dân Homeless lên xe chở về nơi cư ngụ để khỏi chết cóng.

Có nhiều trường hợp khách giang hồ ăn xong lại trốn ra ngoài để hoàn tất giấc mơ với cuộc sống tự do.

Tin tức thống kê

Thống kê Hoa Kỳ kiểm tra khảo sát quanh quẩn thì cũng chỉ có từng đó đáp số. Chỗ có nhà thì không có dân. Trên khắp nước Mỹ đang có nơi hàng ngàn căn nhà trống. Chỗ không có nhà thì dân kéo về quá đông. Không có công việc, không có tiền và không đủ nhà. Lương thấp, tiền nhà cao nên dân thầy thợ đôi khi có việc làm nhưng không có đủ nhà để cư ngụ, dù là nhà thuê. 50% Homeless thiếu ăn, không biết cách xoay sở nên cả vợ con đều đói. Không có nhà nên không có địa chỉ và vì vậy không thể khai trợ cấp. Nhiều quận hạt cho khai rồi giữ Check lại, tháng tháng Homeless đến lãnh Check, lãnh Foodstamp. Tất cả đều biến thành rượu và chỉ một tuần là hết sạch.

Rồi thiên tai, hỏa hoạn, nước lụt đóng góp thêm vào các hiểm họa đưa con người vào chỗ không nhà.

Tùy theo từng vùng dân số nhưng luôn luôn da đen, da đỏ, Mễ và dân Châu Mỹ La Tinh có số lượng Homeless cao nhất. Dân Á châu tương đối còn đùm bọc nhau được nên lại có con số thấp nhất.

Mặc dù như vậy, nhưng không bao giờ chính phủ có con số Homeless chính xác. Cứ 10 năm một lần, Hoa Kỳ đếm đầu người, gửi phiếu kiểm tra để biết lòng dân mà cai trị đất nước. Gọi là kiểm kê dân số.

Biết dân số tăng giảm, số trẻ con ra đời, người lớn về già. Biết ước mong của toàn dân qua phiếu kiểm kê để mở trường, lập nhà thương và làm nhà cửa đường xá. Nhưng dân không nhà thì không bao giờ ghi giấy kiểm kê nên không hề có ý kiến nào được ghi nhận.

Các toán công tác đi đếm Homeless phải đi lúc nửa đêm, chiếu đèn ở xó chợ, gầm cầu mà đếm từng người. Nhờ đó mới biết được bao nhiêu ông, bao nhiêu bà, bao nhiêu trẻ em Homeless.

Từ thập niên 90 cho đến 2000 rồi 2010 chúng tôi có tham dự những kỳ đi đếm Homeless ban đêm. Không khác gì ở Việt Nam, cảnh sát công an khám sổ gia đình. Việt Nam vào nhà vì lý do an ninh. Ở Mỹ, ra đường mà đếm vì lý do xã hội. Chỉ có khác ở chỗ là nửa đêm dựng đầu khách giang hồ đứng lên để đếm. Không cần kiểm tra giấy tờ, không bắt bớ nhưng cũng bắt gặp biết bao nhiêu chuyện phi pháp và đồng thời nhân viên chính phủ cũng nghe chửi điếc cả tai. Được cái, dân Homeless chửi từ thống đốc lên tổng thống chứ không thèm chửi cấp dưới nên cả hai bên đều hết sức vui vẻ để chia tay, sau khi đã chào hỏi và Good Night.

Chúng ta có thể làm gì?

Sau khi có dịp đi đếm Homeless, chúng tôi lại tiếp tục họp các buổi điều trần về vấn đề xã hội tại địa phương và ước mong có thể đóng góp phần nhỏ vào công tác chung. Tất cả các giới chức có kinh nghiệm đều nói rằng, hãy bắt đầu bằng những bước cụ thể. Hãy tới các trung tâm xã hội ở địa phương tìm hiểu một thời gian và thấy rằng, chúng ta có thể làm được điều gì dễ dàng và thực tế cho người không nhà.

Riêng tại tại quận hạt Santa Clara hiện có cả chục cơ quan thiện nguyện lo cho dân Homeless. Nào là nơi phát thực phẩm cho người nghèo như Food Bank. Rồi đạo quân cứu tế Salvation Army, thêm vào đó còn có City Team và Inn Vision đều lo cho các gia đình vô gia cư tạm trú và thức ăn hàng ngày.

Chúng tôi đã đến thăm Inn Vision tại San Jose vào một buổi sáng mùa Giáng Sinh 1991, và quan sát các họ đạo Hoa Kỳ chia phiên nấu ăn cho Homeless. Đây là kỷ niệm đáng ghi nhớ 23 năm về trước.

Theo truyền thống lâu đời, các Homeless trong vùng là đàn bà, trẻ em thì được ưu tiên nuôi ăn. Còn các Homeless độc thân thì phải tự túc mà lang thang đây đó.

Mỗi chiều về dân độc thân đến khu tập trung ở cơ quan cứu tế. Có gì thì phát ra thứ đó. Đa số thực phẩm từ các chợ, các quán ăn, nhà tư còn dư đem cho, thấy còn ăn được là đem phân phối. Đây là thức ăn nguội. Mỗi cuối tuần thì các nhà thờ chia phiên đem thức ăn nóng có chuẩn bị ngon lành đến cho bà con Homeless.

Sau khi quan sát và ước lượng tình hình, cơ quan IRCC tại San Jose chúng tôi ghi tên nhận 2 kỳ 1 tháng. Một kỳ chính thức lên phiên vào mỗi chiều thứ Bảy lần thứ tư và một kỳ thường trực bất thường tức là bất cứ lúc nào họ kêu trước vài giờ là phải có ngay. Đồ ăn nguội cũng tốt.

Mở đường khai lối

Bắt đầu từ tháng 3-1991, chương trình Thực Đơn Thân Ái, dọn cơm Việt Nam 3 món cho Homeless San Jose bắt đầu. Suốt năm 91 qua 92 tổng cộng 12 tháng, cơ quan IRCC một mình lên phiên nên khá vất vả.

Phiên thường lệ vào mỗi thứ Bảy còn chuẩn bị được. Phiên khẩn cấp thí dụ có hội nhận lời nhưng giờ chót bỏ cuộc phải thay thế cấp cứu thì chúng tôi gọi điện cho 4 tiệm quanh Downtown San Jose mua mỗi nơi 25 ổ bánh mỳ cắt đôi là đủ 200 phần ăn. Mỗi phần ăn kèm theo một lon nước.

Từ lúc được báo tin cho đến lúc có đủ 200 phần ăn chỉ cần 2 giờ đồng là sẵn sàng. Gọi điện thoại cho 3 hay 4 nơi đặt hàng, ghé lấy rồi đưa đến phát ngay.

Tuy nhiên, cứ như vậy quanh năm 1992 tuy chuyện nhỏ mà cũng trở thành gánh nặng. Qua tháng 3 năm 1993, chúng tôi mời gọi sự cộng tác của các đoàn thể. Mỗi nơi một năm chỉ cần lên phiên một lần. Xem ra rõ ràng là gánh nặng đã nhẹ đi nhiều mà các tổ chức đều có cơ hội tham gia công việc từ thiện vô cùng ý nghĩa.

Công việc cứ như vậy tiến hành đều đặn suốt 24 năm, kể từ 1991 đến hết năm 2014. Qua 2015 là bắt đầu vào năm thứ 24. Chương trình Thực Đơn Thân Ái đã tổ chức cả phiên chính thức lẫn đặc biệt là 1 ngàn lần với vào khoảng 100 ngàn phần ăn đã dọn ra.

Biết bao nhiêu là sự khen thưởng của các giới chức xã hội từ liên bang, tiểu bang và quận hạt. Tuy nhiên, lời khen thưởng gây xúc động nhất vẫn là những ánh mắt vui vẻ của khách hàng. Những tràng pháo tay của quý vị đến ăn. Những tiếng cảm ơn bằng Việt ngữ của Homeless học được qua các bạn Việt Nam.

Đa số các vị đến ăn đều rất tự nhiên, không hề mặc cảm vì hoàn cảnh không nhà. Họ ăn uống rất thoải mái. Có đôi khi cả gia đình vợ chồng, con cái đến ăn. Có những người trông rất tả tơi, nhưng cũng có những người ăn mặc rất lịch sự.

Trong một gian phòng ăn rộng rãi, ấm cúng, mọi người xếp hàng trật tự tiến qua quầy thức ăn. Các nhân viên của hội đoàn Việt Nam đội nón nhà bếp màu trắng, áo choàng trắng, bao tay múc thức ăn cho quan khách đưa khay đến trước mặt. Cơm chiên, gà quay, chả giò, rau trộn, tráng miệng, trái cây, bánh ngọt. Những bàn tay ân tình, những lời nói chào đón lịch sự. “Thưa ông, thưa bà. Cảm ơn. Vâng, xin một chút nữa. Thưa đủ rồi. Không có chi.” Người dọn ăn và người được mời đều hết sức lễ độ. Xin mời thêm nước uống. Sữa hay nước cam. “Vâng xin ông cứ tự nhiên dùng cả hai.” Các em nhỏ Việt Nam mắt long lanh ngời sáng đứng lo quầy nước. Các bà nội trợ đứng hàng tiền đạo múc thức ăn. Các đấng phu quân đứng phía sau lo tiếp liệu từ nhà bếp. Quầy rau trộn đổi tay làm việc để tăng cường. Các khay cơm đã hết, đưa ra phía sau để khay cơm mới thay thế.

Thực khách ăn xong một lượt thì tạm nghỉ rồi làm thêm vòng thứ hai và đôi khi đi vòng thứ ba.

Thực phẩm thì vơi dần nhưng tình cảm thì tăng cao. Thực khách trong cả phòng chợt dừng tay nghe ông đại diện Homeless nói lời cám ơn Việt Nam rồi tràng pháo tay vang dội. Không phần thưởng nào sánh bằng.

Quan khách không bao giờ biết, đây là đại diện tôn giáo nào hay tổ chức nào. Không biết quan điểm chính trị Dân Chủ hay Cộng Hòa. Không biết đây là hội ái hữu địa phương nào. Tất cả chỉ là người Việt Nam và thức ăn Việt Nam. Ngon lành và rất hậu hĩnh.

Và chương trình Thực Đơn Thân Ái bền bỉ nhất đã góp phần trên 23 năm, nuôi ăn Homeless San Jose, những khách giang hồ không nhà hiền lành nhất Hoa Kỳ.

Trong lịch sử 100 năm Homeless tại Mỹ, San Jose là vùng đất tương đối bình yên. Các tiệm ăn Việt không bao giờ bị Homeless làm phiền. Nước Mỹ không giải quyết dứt khoát được vấn nạn Homeless nên chính tổng trưởng an sinh và xã hội phải lên tiếng kêu gọi toàn dân tiếp tay. Chúng ta là dân Mỹ gốc Việt, đã đến đất nước này, xin tiếp tay với Thực Đơn Thân Ái là bày tỏ chút ân tình cụ thể và dễ dàng nhất.

Hơn 23 năm qua rất nhiều hội đoàn đã tiếp tay với chúng tôi nhiều lần. Tuy nhiên, thành tích đáng kể công tác từ 10 lần trở lên gồm có 5 tổ chức: Ban Xã Hội Công Giáo, Gia Đình Phật Tử An Lạc, nhóm anh em Báo Mõ, Gia Đình Kiến Trúc Việt Nam và Hiệp Hội Kim Hoàn.

Cộng đồng Việt Nam hiện nay tại Bắc và Nam Cali, tại Houston – Texas đều bắt đầu tiếp tay với chính quyền địa phương về việc giúp đỡ Homeless. Tuy nhiên, vẫn còn ở giai đoạn rất tượng trưng chỉ làm vào mùa lễ hội. Thực ra, nhu cầu nhân đạo cho Homeless phải là việc làm quanh năm.

Khi bài báo này phổ biến mở đầu lễ hội 2014 qua n ăm 2015 quý vị độc giả vẫ còn có thì giờ để đóng góp từ thiện nếu muốn ghi thành tích cho mùa thuế năm nay.

Dành lời kêu gọi cuối năm gửi đến quý vị muốn góp một bàn tay cho các em nhỏ Homeless Hoa Kỳ. Xin nhắc lại, một triệu em bé tại Mỹ hoàn toàn vô tội, không cần sa ma túy, không rượu chè, chỉ vì sinh ra ở ngoài đường nên trở thành Homeless từ lúc còn thơ ấu. Mở mắt chào đời mà chỉ thấy trời xanh. Cả tuổi thơ chưa thấy cái trần nhà. Không ai có thể tưởng tượng được rằng, nước Mỹ có đến một triệu em bé Homeless. Có thể tưởng tượng được không. Trong số này lại có cả hàng ngàn trẻ em homeless còn đi học. Các em bé trai, bé gái như con cháu quý vị. Sáng dậy dưới gầm cầu, đi bộ đến trường có bữa ăn trưa miễn phí. Giờ tan học em làm homework trong thư viện cho dến khi đóng cửa. Em sống nhờ nhà vệ sinh của trường. Chiều em về lại gầm cầu một mình. Không muốn mẹ đẩy xe chợ đón em. Không bao giờ em muốn trông thấy mẹ đi xin tiền gần trường học. Mẹ phải đi làm ở nơi nào thật xa…

Hãy gửi cho chúng tôi $10 Mỹ kim, chúng tôi sẽ bỏ thêm công sức để làm thành một bữa ăn Việt Nam cho gia đình một em bé Hoa Kỳ đang sống ở nơi gầm cầu hay xó chợ trên đất nước hùng mạnh nhất thế giới hiện nay.

Nghĩa cử của quý vị luôn luôn được ghi nhận và đồng tiền đóng góp của quý vị sẽ được sử dụng một cách xứng đáng, trân trọng nhất.

Gửi cho IRCC 3017 Oakbridge Dr. San Jose CA 95121

Giao Chỉ San Jose

Người tị nạn miền Bắc sau chiến tranh

Người tị nạn miền Bắc sau chiến tranh

Việt Hà, phóng viên RFA
2015-04-23

Audio: Câu chuyện những người tị nạn ra đi từ miền Bắc Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Một chuyến vượt biển từ miền bắc Việt Nam

Một chuyến vượt biển từ miền bắc Việt Nam

Files photos

Sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, không chỉ có làn sóng những người miền Nam rời bỏ quê hương mà còn rất nhiều người ở phía Bắc cũng quyết định ra đi để tìm cho mình một tương lai tốt đẹp hơn ở các nước khác. Nhiều người trong số họ đã bỏ mạng ngoài khơi, có người đã bị cưỡng bức hoặc phải tự nguyện hồi hương, nhưng cũng có người đã may mắn được định cư ở một nước thứ ba.

Sau đây là câu chuyện của hai gia đình phía Bắc với những số phận khác nhau sau khi tìm đường vượt biên vào những năm 80.

Vượt thoát

Những năm cuối thấp niên 70, và 80, Hải Phòng và Quảng Ninh, hai cảng biển lớn ở phía Bắc Việt Nam, là những nơi chứng kiến nhiều đoàn người tìm đường vượt biên theo đường biển. Phần đông trong số họ là những người đến từ các tỉnh phía Bắc.

Trong số những người ra đi từ Hải Phòng, có anh Thụy. Vì lý do tế nhị cho gia đình ở Việt nam, anh không muốn nêu danh tính đầy đủ. Hòa vào làn sóng người vượt biên, anh Thụy và gia đình gồm cha mẹ, anh chị em, tất cả 12 người đã bắt đầu hành trình vượt biên vào năm 1981. Nhớ lại thời điểm vượt biên năm 1981, anh Thụy nói:

“Anh Thụy: Mình thấy cuộc đời chán nản quá. Mọi người đều đi nên mình cũng phải đi. Nói đúng ra lúc đó mình ở Việt Nam thì giấy tờ mình có đâu. Lúc ấy giấy tờ mình không có, như kiểu người thừa. Xin giấy chứng minh khó, xin không được. Mình vừa làm ngư dân, vừa buôn bán thấy cuộc sống chán.”

Anh Thụy cho biết gia đình anh theo công giáo và chính phủ không thích người công giáo, dù không ra mặt. Theo anh, đó là một trong những nguyên nhân khiến anh và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.

Vốn là ngư dân, quen biển, biết đường, anh Thụy và gia đình không phải đóng tiền để lên thuyền vượt biên vì anh sẽ là người lái tàu. Theo anh, trung bình một người lúc đó phải đóng từ 2 đến 3 chỉ vàng để vượt biên, một số tiền không nhỏ với phần đông người dân lúc đó.

Những con tàu vượt biên từ Hải Phòng chở hàng chục có khi hàng trăm người, và phần lớn nhắm đến hướng Hong Kong vì đó được coi là điểm đến gần nhất. Trong rất nhiều chuyến tàu vượt biên, có những con tàu đã không bao giờ tới đích. Anh Thụy cũng đã từng nghe có chuyến tàu vượt biên bị đắm, mất tích:

Có chuyến mất tích hết, đấy là người quen, rồi con bà cô, em bố anh bị công an ở đảo Bạch Long Vĩ bắn chết hết, công an bắn đắm chết hết 28 người.

Anh Thụy

“Có chuyến mất tích hết, đấy là người quen, rồi con bà cô, em bố anh bị công an ở đảo Bạch Long Vĩ bắn chết hết, công an bắn đắm chết hết 28 người.”

Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, từ năm 1975 đến 1997, tổng số có khoảng 839,000 người Việt Nam vượt biển bằng thuyền đến các trại tị nạn trong khu vực. Liên hiệp quốc ước tính, ít nhất 10% trong số này đã phải bỏ mạng ngoài khơi.

Chuyến vượt biên của gia đình anh Thụy vào năm 1981 đã không thành vì bị công an phát hiện. Những lần vượt biên sau của anh và gia đình cũng không sáng sủa gì hơn:

“Hai lần đầu tiên trước khi tập kết ra đi thì bị công an bắt, một lần đi đến đảo Cô Tô sát biên giới Trung Quốc thì bị bão, dạt vào đảo thuộc Quảng Ninh, bịt dốt ở lán 14 mất mấy tháng ( ở Tuy Quang, Quảng Ninh), rồi được ra. Ra rồi đi tiếp và bị bắt tiếp. Rồi bị giam ở Trần PHú ở Hải Phòng, bị tòa án thành phố Hải Phòng xử tù 36 tháng tức 3 năm. Xong rồi về thì đi chuyến cuối cùng thì thoát, lần cuối thì đi độc thân, có một mình, lúc đó chưa có gia đình.”

Anh Thụy bị kết án tù với tội tổ chức người trốn đi nước ngoài, phản bội tổ quốc. Gia đình anh sau nhiều lần vượt biên không thành đã bị nhà nước tịch thu tài sản. Việc tìm kiếm công ăn việc làm, buôn bán lại càng trở nên khó khăn hơn. Điều này càng thúc đẩy anh phải vượt biên bằng mọi giá.

Vào năm 1987 anh vượt biên bằng thuyền lần thứ 4 cùng người em trai và  đi thoát tới Hong Kong sau 25 ngày trên biển và trên đất Trung Quốc. Đến Hong Kong vào năm 1987, anh Thụy là một trong số những người tị nạn Việt Nam may mắn thoát khỏi giai đoạn thanh lọc, không bị giam trong trại cấm, được đi làm tự do kiếm tiền,  và chỉ phải chờ tiếp kiến để được đi nước thứ ba.

Từ ngày 16 tháng 6 năm 1988, Hong Kong bắt đầu chính sách trại cấm và thanh lọc khiến hàng ngàn người tị nạn Việt nam phải trở về nước dưới dạng cưỡng bức hoặc tự nguyện hồi hương.

Thanh lọc, cưỡng bức hồi hương, những số phận không may mắn

Bắt đầu từ cuối những năm 70, những khó khăn về kinh tế sau chiến tranh cộng với những hậu quả của cuộc chiến biên giới với Trung Quốc và Khmer đỏ ở Campuchia vào năm 1979 đã làm làn sóng người tị nạn Việt Nam đến các trại tị nạn tại các nước trong khu vực tăng lên nhanh chóng.

Những nước nhận nhiều người tị nạn Việt Nam lúc đó bao gồm Hong Kong, Indonesia, Malaysia, Philippines, và Thái Lan. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, tính đến khoảng giữa năm 1979, đã có khoảng 200,000 người tị nạn Việt Nam nằm rải rác ở các trại tị nạn trong khu vực.

Năm 1979,  Liên Hiệp Quốc tổ chức hội nghị quốc tế về người tị nạn Đông dương, thừa nhận quy chế tị nạn cho những những người tị nạn Việt Nam ở các trại tị nạn trong khu vực, mở đường cho việc họ được đi định cư ở nước thứ ba.

Mình không tình nguyện hồi hương mà bị cưỡng bức về. Khì nó trả đất về cho Trung Quốc năm 1997 thì nó muốn xóa trại đi, mình vẫn ở đấy không tình nguyện hồi hương. Khi về là nó bốc về. Một người là hai cảnh sát bốc…  có bà cởi hết quần áo ra.

Chị Hà

Nói về làn sóng người tị nạn Việt Nam vào giai đoạn này, luật sư Trịnh Hội, thuộc tổ chức Voice, một tổ chức phi chính phủ có trụ sở ở Philippines chuyên giúp đỡ những người tị nạn Việt Nam cho biết.

“Từ năm 79 đến 89 có một khung pháp lý rõ ràng là những thuyền nhân Đông dương đều được đi định cư. Đó là lý do có con đường đi. Đó là lý do đi nhiều người. Đặc biệt nữa là đầu thập niên 80, kinh tế Việt nam xuống rất rõ. Lúc đó chưa có đổi mới. Lúc đó sự đàn áp, áp bức lên rất cao, vào đầu những năm 80. Sau đó người ta ồ ạt ra đi.”

Làn sóng người ồ ạt ra đi đã vào những năm 80 sau hội nghị của Liên Hiệp quốc vào năm 1979 đã khiến một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia phải đẩy thuyền của người tị nạn Việt nam trở lại ngoài khơi để tránh tình trạng quá tải.

Hong Kong vào năm 1988 đã tự quyết định lập ra trại cấm. Những người đến Hong Kong vào sau ngày 16 tháng 6 năm 1988 phải vào trại cấm, không được đi làm và phải qua thanh lọc khắt khe. Cơ hội được định cư ở nước thứ ba của họ trở nên mong manh.

Gia đình anh chị Hà và Bình nằm trong số những người không may mắn khi họ đến Hong Kong vào đầu năm 1990. Anh Bình nhớ lại những bức xúc của mình khi đó

“Tất cả những người Việt Nam tị nạn cộng sản đến các nước trước 16 tháng 6 năm 1988 đương nhiên được công nhận tịn nạn. Tại sao vẫn những con người đó chỉ sau có một ngày thôi, sau mốc đó lại phải qua thanh lọc, bị dán cho cái mác là di dân kinh tế?”

Hình ảnh một trại tị nạn ở Hồng Kong

Hình ảnh một trại tị nạn ở Hồng Kong. Files photos

Anh chị là những người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Họ cũng ra đi từ Hải Phòng, đến Trung Quốc rồi cuối cùng cập cảng Hong Kong. Anh Bình không cho rằng lý do kinh tế là lý do chính đã đẩy đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau phải rời bỏ quê hương, gia đình, và bạn bè vào cuối năm 1989:

“Cuộc sống lúc đó so với mọi người là bình thường. Mình không có khó khăn về kinh tế. Mình ra đi còn phải đóng nhiều tiền, không phải ai cũng có thể vượt biên được, không phải ai cũng có tiền để đóng để đi. Nhưng lúc đó mình chỉ nghĩ là sang bên này được tự do hơn, cuộc sống thay đổi hơn.”

Hai anh chị phải đóng 2 cây vàng để được đi. Anh Bình nói với 2 cây vàng vào thời điểm đó, anh chị có thể mua được một căn nhà nhỏ trong ngõ ở Hà Nội.

Sau hơn 4 tháng trời hết đi đường bộ, lại đi đường biển với bao nhiêu trắc trở trên đường vượt biên, anh chị Bình cùng khoảng 100 người khác, tất cả là người miền Bắc cuối cùng cũng đến được Hong Kong vào tháng 2 năm 1990.

Tất cả họ đều không biết về trại cấm Hong Kong, và cũng không nghe được thông tin về cuộc họp của Liên Hiệp Quốc vào tháng 6 năm 1989 với sự ra đời của chương trình CPA (tạm dịch là chương trình hành động toàn diện).

Theo chương trình này, những người tị nạn Việt Nam kể từ đây sẽ phải qua thanh lọc khắt khe. Rất nhiều người trong số họ đã không đáp ứng được những điều kiện đặt ra của chương trình và phải hồi hương, tự nguyện hay bắt buộc.

Chương trình này nhằm giúp các nước trong khu vực đối phó với làn sóng người Việt di cư ồ ạt. Theo luật sư Trịnh Hội, chương trình đã không công bằng với những người Việt tị nạn:

“Thật lòng mà nói trịnh hội nghĩ là chương trình CPA đã có tác động lớn đến việc thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi, bởi vì chương trình cpa không công bằng ở chỗ nó ko báo cho người ta biết trước. Ví dụ đến nước này, ví dụ đến Philippines thì là ngày deadline là 21/3 nhưng đến nước nào đó là 16/3… có nghĩa là mạnh nước nào thì nước đó đặt ra ngày đó. Đến trước ngày đó là tị nạn, đến sau là thanh lọc. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng chương trình cpa ra đời và được ký kết vào tháng 6 nhưng nó tính lùi ngày vào tháng 3, tức là nó ngày như từ trên trời rơi xuống, muốn ngày nào cũng được. Nó ko công bằng ở điểm đó, chính vì vậy nhiều người không tin tưởng vào chương trình thanh lọc và chương trình thanh lọc có nhiều bất công bởi vì chương trình thanh lọc ko phải do cao ủy tị nạn áp dụng mà do mỗi nước áp dụng. Ở Philippines thì có nhiều vấn đề tham nhũng, Malaysia, Indonesia, Thái, họ để những nước đó là những nước chưa hoàn toàn phát triển được quyền quyết định hoàn toàn về tương lai và sinh mạng mỗi người.”

Đến Hong Kong, anh chị Bình và Hà phải sống trong một trại cấm với hàng ngàn người tị nạn Việt Nam khác, phần đông là từ phía bắc. Họ phải sống chung trong những căn phòng với giường tầng. Mỗi phòng hơn trăm người, bao gồm những người độc thân, người có gia đình, người già và trẻ nhỏ. Họ không được đi làm tự do như những người đến Hong Kong từ trước năm 1988, và họ phải chờ được phỏng vấn để thanh lọc.

Anh chị Bình phải chờ đến năm 1992 mới được phỏng vấn lần đầu tiên. Họ phải qua nhiều lần phỏng vấn sau đó và đều thất bại. Thậm chí họ đã phải nhờ đến văn phòng luật sư để được giúp đỡ nhưng cũng không thành. Họ nằm trong số những người bắt buộc phải hồi hương.

Chống lại quyết định bắt hồi hương ở trại, anh Bình cùng nhiều người khác biểu tình phản đối và phải chịu những đàn áp của cảnh sát Hong Kong:

“Thời kỳ đấy bọn anh là những không phải là đi trên đất mà đi trên vỏ lựu đạn cay. Nó bắn lựu đạn cay nhiều đến mức không nhìn thấy mặt đất ở đâu. Lựu đạn vẽ đâu lâu xương chéo cấm sử dụng đàn áp biểu tình thế mà còn ném vào trong trại. Bao nhiêu người dân trong trại, từ lớn đến bé, già trẻ, thế mà nó bắn vô tội vạ, nó bắn từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều.”

Nói chung bây giờ qua đây mình thấy cuộc sống thanh thản. Dù ở đâu mình cũng phải làm ăn, ở Việt Nam cũng vậy, mà sang đây cũng vậy, nhưng có cái ở đây mình thảnh thơi đầu óc, không ai kìm kẹp mình nữa, mình sống được tự do hơn.

Anh Bình

Những người không tự nguyện hồi hương như anh chị Bình bị nhốt vào một trại riêng. Đến ngày phải về nước họ bị cảnh sát bắt giải lên máy bay. Chị Hà nhớ lại:

“Mình không tình nguyện hồi hương mà bị cưỡng bức về. Khì nó trả đất về cho Trung Quốc năm 1997 thì nó muốn xóa trại đi, mình vẫn ở đấy không tình nguyện hồi hương. Khi về là nó bốc về. Một người là hai cảnh sát bốc…  có bà cởi hết quần áo ra, có người thì dùng đồ sắt rạch vào người cho chảy máu, thế cho nên họ mới kiểm tra trong người có đồ sắt thép bắt vứt hết. Các bà cởi quần áo thì nó lấy chăn cuốn vào rồi khênh. Nó băng bó rồi cũng tống về hết, chẳng có ai ở lại hết.”

Đến tháng 11 năm 1997, anh Bình và chị Hà là những người cuối cùng trở về nước theo dạng cưỡng bức.

Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, cho đến năm 1996, đã có khoảng 100,000 thuyền nhân Việt nam trở về nước dưới dạng tự nguyện hoặc cưỡng bức.

Báo cáo của chương trình CPA năm 1996 kết luật, mục tiêu của chương trình đã được hoàn tất.

Kết cục may mắn

Sau 5 năm ở Hong Kong, năm 1992, anh Thụy lúc này đã có vợ, cuối cùng cũng đến Los Angesles, Hoa Kỳ. Anh chị giờ sinh sống ở Westminster và đã có ba người con, hai người con đầu đang học đại học, người con út đang học lớp 12.

Cuộc sống của anh chị trên đất Mỹ cũng ổn định. Thậm chí gia đình anh cũng đã nhiều lần về thăm lại người nhà còn ở Việt Nam.

Anh chị Bình và Hà sau khi trở về Việt Nam tiếp tục gặp nhiều khó khăn từ phía chính quyền địa phương vì lý lịch vượt biên và chống hồi hương trong trại tị nạn ở Hong Kong.

Nhưng đến cuối năm 2014, anh chị cùng cô con gái duy nhất sinh ra ở Hong Kong, cuối cùng cũng đã sang được Canada định cư với sự giúp đỡ của một người bà con. Ngồi trong căn nhà nhỏ ấm cúng ở Calgary, Canada vào một ngày đầu năm 2015, anh Bình vui vẻ nói:

“Nói chung bây giờ qua đây mình thấy cuộc sống thanh thản. Dù ở đâu mình cũng phải làm ăn, ở Việt Nam cũng vậy, mà sang đây cũng vậy, nhưng có cái ở đây mình thảnh thơi đầu óc, không ai kìm kẹp mình nữa, mình sống được tự do hơn.”