Người Việt tiêu thụ hàng tỷ lít bia mỗi năm

Người Việt tiêu thụ hàng tỷ lít bia mỗi năm

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-05-17

05172015-up-to-1bili-lter-in-5y.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Các bích chương quảng cáo bia tại Hà Nội

Các bích chương quảng cáo bia tại Hà Nội

AFP

Sản lượng bia của Việt Nam sẽ tăng trên 1 tỷ 300 triệu lít nữa trong vòng 5 năm tới, chưa kể khoảng 350 triệu lít rượu cuốc lủi  sản xuất hàng năm.

Số liệu từ buổi tọa đàm của Hiệp Hội Bia Rượu về qui hoạch và công tác quản lý ngành bia Việt Nam, diễn ra hôm thứ Năm, cho thấy Việt Nam có trên 120 cơ sở sản xuất và trên 1.700 cơ sở sản xuất nước giải khát.

Ngoài ra, mỗi năm Việt Nam sản xuất trên 350 triệu lít rượu cuốc lủi.

Ông Dương Đình Giám, viện trưởng Viện Chiến Lược Chính Sách Công Nghiệp, Bộ Công Thương, giải thích là rượu do các doanh nghiệp sản xuất chỉ chừng g 100 triệu lít mỗi năm, nhưng nếu tính thêm lượng rượu do dân tự sản xuất không qua đăng ký thì trên thực tế lên tới 350 triệu lít mỗi năm.

Do mức sống tăng lên, gây ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, ông nói, khuynh hướng tiêu thụ bia cũng thay đổi, thí dụ bia hơi giảm trong lúc bia chai tăng cao và bia lon thì tăng mạnh nhất.

Từ năm 2014, báo chí trong nước từng đưa tin Việt Nam xếp hạng 8 về thu nhập trong số 11 quốc gia Đông Nam Á nhưng lại đứng đấu bảng về tiêu thụ bia.

Mặt khác, trên bảng xếp hạng toàn cầu, Việt Nam nằm trong danh sách 25 quốc gia uống bia nhiều nhất thế giới, đứng thứ 3 toàn Châu Á chỉ sau Trung Quốc và Nhật Bản. Tính trung bình một người Việt Nam uống 32 lít bia mỗi năm.

Ông Nam, một nhà kinh doanh có cửa hàng phân phối bia ở ngoài Trung:

Bia Việt Nam so với những bia khác thì không thể ngon hơn được, rồi là có nhiều doanh nghiệp cá nhân làm giả chen vào nữa. Còn người Việt Nam cứ sa vào uống bia , khi đá bóng rồi Tết nhất rồi các cơ quan đoàn thể liên hoan hàng chục người. Rồi thanh niên bây giờ lam lũ khắp nơi mọi chốn đi làm thuê vậy, nhưng đến Chủ Nhật hoặc đến khi lãnh lương cũng kéo nhau uống bia, bữa này một người mời thì bữa kia người khác mời, một người có thể uống một thùng chứ không phải ít.

” Coi như họ lường trước sự việc số dân uống bia nhiều lên, tuổi trẻ uống bia nhiều lên, họ đoán trước và họ nhìn ra góc độ là bia có khả năng sẽ được tiêu thụ rất lớn ở Việt Nam như thế

Ông Nam”

Năm 2020: tăng trên 1 tỷ 300 triệu lít nữa

Chính vì thế, ông Nam nói tiếp, có nhiều khả năng sản lượng bia sẽ tăng thêm 1 tỷ 300 triệu lít trong vòng năm năm tới như dự kiến:

Coi như họ lường trước sự việc số dân uống bia nhiều lên, tuổi trẻ uống bia nhiều lên, họ đoán trước và họ nhìn ra góc độ là bia có khả năng sẽ được tiêu thụ rất lớn ở Việt Nam như thế.

Tuy nhiên, theo ông Thắng, chủ nhân một của hàng ăn uống và giải khát ở Hà Nội, sản lượng rươu bia trong vòng 5 năm tới có thể cao hơn mức tăng dự kiến 1 tỷ 300 triệu lít:

Số lượng rượu mà người ta thống kê được phần lớn là có thể tính được qua các đơn vị đo đếm chính xác, chẳng hạn như qua hải quan đối với rượu nhập khẩu, qua lượng bia rượu do nhà nước sản xuất. Tức là cái số lượng 1 tỷ 300 triệu lít bia là tính theo sản lượng bia sản xuất ra từ các nhà máy có thể đong đếm được, chẳng hạn nhà máy ở các trung tâm như bia Sài Gòn hay bia Hà Nội này, và các công ty bia của các tỉnh, cộng với lại các công ty bia được sản xuất có đóng mác, có đăng ký ở địa phương.

Có một phần rất lớn nữa là rượu do người dân nấu và tự sản tự tiêu, cái rượu này thì không được tính trong cái đong đếm đo lường của nhà nước.. Ngoài ra còn có một loạt những quán bia như ở Hà Nội hay Sài Gòn người ta tự nấu gọi là bia tươi cấp cho khách tại chỗ thì lương bia này cũng ít khi được tính, trong khi thực khách uống rất nhiều.

Không những thế, cung cách uống rượi uống bia giữa người ngoài Bắc với người trong Nam cũng khác nhau, thành thử số lượng bia tiêu thụ mỗi nơi cũng khác nhau:

Ở Hà Nội người ta ít sử dụng bia, người ta sử dụng rượu nhiều hơn, số lần tụ tập người nó cũng ít hơn.Quán bia ở Hà Nội mặc dù có nhiều nhưng qui mô không lớn, số lượng người uống bia, số lượng bia được uống cũng ít hơn.

Còn nếu có dịp vào miền Tây Nam Bộ hay vào Sài Gòn thì có những vùng mặc dù rất nghèo khổ thế nhưng quán bia quán rượu thì rất hoành tráng và số lượng người uống hàng ngày cực lớn. Thường khi mà hai ba người đến thì người ta mang ra một két tức là 24 chai. Khi uống thế này người ta thách nhau, có thể uống từ trưa đến chiều, từ chiều đến đêm.

” Cái hữu ích của một công ty bia rất là lớn cho cái ngân sách của một địa phương nhỏ. Thành ra người ta chú trọng phát triển ngành bia rượu và các loại nước giải khát

Ông Thắng”

Cũng tại buổi tọa đàm của Hiệp Hội Bia Rượu về qui hoạch và công tác quản lý ngành bia Việt Nam, viện trưởng Viện Chiến Lược và Chính Sách Công Nghiệp, Bộ Công Thương, ông Dương Đình Giám, cho biết theo qui hoạch đến năm 2025 và tầm nhìn 2030 mà ông được giao biên soạn, mục tiêu của Việt Nam là trong 5 năm tới (đến 2020), tổng sản lượng sản xuất và tiêu thụ bia của Việt Nam sẽ đạt 4 tỷ 500 triệu lít, tăng 1 tỷ 300 triệu lít so với hiện giờ, rượu sẽ đạt khoảng 350 triệu lít, nước giải khát đạt 8 tỷ 800 triệu lít. .

Với câu hỏi là có vẻ như Việt Nam chú trọng khá nhiều đến ngành sản xuất bia rượu bất chấp sự tác hại của nó lên sức khỏe con người, ông Thắng cho rằng đó là phấn đấu của ngành rượu bia và nước giải khát.

Nhà nước Việt Nam đánh thuế cao đối với ngành sản xuất bia rượu, mang về một khoản thu rất lớn. Đơn cử trường hợp nhà máy Kim Bài sản xuất bia ở Thanh Oai, Hà Tây, mà nay đã sát nhập vào Hà Nội, ông Thắng giải thích:

Lúc đóng thuế công nghiệp thì một mình nhà máy bia này đóng thuế bằng hơn môt nửa đối với toàn bộ thuế nông nghiệp của huyện mang lại. Có nghĩa là cái hữu ích của một công ty bia rất là lớn cho cái ngân sách của một địa phương nhỏ. Thành ra người ta chú trọng phát triển ngành bia rượu và các loại nước giải khát.

Tưởng cần biết năm 2014 Chính phủ Việt Nam bắt đầu áp dụng Chính sách Quốc gia về phòng chống tác hại bia, rượu. Thế nhưng tổng kết cuối năm 2014 cho thấy mức tiêu thụ chỉ riêng về bia là 3,14 tỷ lít tức đã tăng 8,1% so với 2013.

Như vậy việc tăng các sắc thuế liên quan đến sản xuất và tiêu thụ bia, cũng như chính sách phòng chống tác hại bia rượu liệu có thay đổi được chút nào về điều gọi là văn hóa bia rượu của Việt Nam thì câu trả lời vẫn còn ở phía trước.

Đức Giáo Hoàng phong hiển thánh cho 4 nữ chân phước

Đức Giáo Hoàng phong hiển thánh cho 4 nữ chân phước

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ phong thánh cho các nữ chân phước tại Vatican, ngày 17/5/2015.

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ phong thánh cho các nữ chân phước tại Vatican, ngày 17/5/2015.

17.05.2015

Bốn nữ chân phước, trong đó có hai người Palestine, vừa được tôn phong hiển thánh của Giáo hội Công giáo La mã.

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ tôn phong hiển thánh cho các nữ chân phước này hôm nay, Chủ nhật, ở Vatican.

Hai nữ chân phước Mariam Bawardy và Marie Alphonsine Ghattas ở nơi mà hồi thế kỷ thứ 19 là nước Palestine.

Lễ tôn phong hiển thánh  cho hai nữ tu này được xem như là một sự kích lệ cho người Công giáo trên khắp Trung Ðông đang đối diện với làn sóng bức hại của các phần tử cực đoan Hồi giáo. Đây là những vị thánh đầu tiên trên Đất Thánh kể từ những năm đầu đời của Kitô giáo.

Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas tham dự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Một nữ chân phước người Pháp và một nữ chân phước Italia cũng được tôn phong hiển thánh hôm Chủ nhật. Cả hai nữ thánh này là người sáng lập ra các tổ chức giáo dục cho người nghèo.

Khánh thành tượng đài Hồ Chí Minh mới

Khánh thành tượng đài Hồ Chí Minh mới

Tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được chính quyền dựng nhiều nơi ở Việt Nam

Một bức tượng của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh hôm Chủ nhật ngày 17/5 nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh của ông.

Bức tượng theo dáng đứng, khắc họa ông Hồ Chí Minh đang đứng vẫy tay, được đặt tại vị trí trước Ủy ban Nhân dân Thành phố – tức đoạn đầu đường Nguyễn Huệ vừa được cải tạo thành phố đi bộ Nguyễn Huệ.

‘Giáo dục giới trẻ tin Đảng’

Bức tượng này có chiều cao 7,2 mét tính từ bệ tượng và thay vào chỗ bức tượng ngồi trước đó cũng khắc họa Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiếu nhi, theo truyền thông trong nước. Riêng bức tượng có chiều cao 4,5 mét và được làm bằng hợp kim đồng.

Báo chí trong nước không hề cho biết chi phí để làm bức tượng mới này là bao nhiêu. Trong khi đó, bức tượng cũ đã được chuyển vào khuôn viên Nhà Văn hóa Thiếu nhi.

Tượng đài này được thực hiện sau khi đã trải qua sự thẩm định kỹ lưỡng của Bộ Chính trị và Ban bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam.

” Thật ra việc dựng tượng danh nhân là điều nên làm, nhưng đối với một nhân vật gây tranh cãi với các thông tin đều bị bóp méo (như ông Hồ Chí Minh) thì không nên.

Nguyễn Tiến Trung, nhà hoạt động dân chủ”

“Tượng Bác phải thật sự đẹp, sinh động, tự nhiên, tư thế vững chắc, khỏe khoắn… phản ánh được thần thái ung dung, phúc hậu, nhân từ và tình cảm của Bác đối với đồng bào miền Nam,” – đây là yêu cầu của Ban bí thư đối với bức tượng này được Thông tấn xã Việt Nam dẫn lại.

“Đối với miền Nam, đối với Sài Gòn, Bác Hồ luôn có tình cảm yêu thương đặc biệt sâu nặng,” Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được dẫn lời phát biểu tại buổi lễ khánh thành bức tượng.

Ông Trọng mong rằng bức tượng này sẽ ‘góp phần giáo dục truyền thống đối với các thế hệ trẻ, qua đó hun đúc lòng yêu nước, thương dân, tin Đảng’.

‘Nhân vật gây tranh cãi’

Nhà thơ Đỗ Trung Quân, một người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và là người mới tuyên bố ra khỏi Hội Nhà văn Việt Nam do chính quyền kiểm soát, nói với BBC rằng trong buổi sáng khánh thành tượng đài ông thấy ‘an ninh xuất hiện trước cửa’ nhà ông.

Bình luận về việc dựng tượng này, anh Nguyễn Tiến Trung, một cựu tù chính trị, nói với BBC: “Thật ra việc dựng tượng danh nhân là điều nên làm, nhưng đối với một nhân vật gây tranh cãi với các thông tin đều bị bóp méo (như ông Hồ Chí Minh) thì không nên.”

“Sau này nếu các thông tin được bạch hóa thì có thể sẽ xảy ra chuyện không hay với bức tượng đó,” anh nói.

Theo anh Trung thì dựng tượng ông Hồ Chí Minh hay phát động phong trào học tập và làm theo tấm gương của ông ‘không giải quyết các vấn nạn của xã hội hiện nay’ vì ‘tham nhũng vẫn tràn lan và đạo đức xã hội vẫn suy đồi’.

“Vấn đề là các lãnh đạo hiện nay có làm tấm gương hay không,” anh nói.

Năm 2014, cảnh sát Nhật bắt 2.488 vụ người Việt ăn trộm

Năm 2014, cảnh sát Nhật bắt 2.488 vụ người Việt ăn trộm

Một Thế Giới –

nguoi Viet Nam an trom o Nhat

Một biển cảnh báo ăn trộm tại siêu thị Nhật có ghi tiếng Việt

Tháng trước, Cơ quan cảnh sát Nhật Bản đã công bố tình hình bắt giữ tội phạm nước ngoài trong năm 2014. Tổng cộng có 15.215 trường hợp và trong đó các vụ liên quan đến người Việt Nam là 2.488 vụ, tăng  61,6% so với năm 2013, tính ra trung bình mỗi ngày xảy ra 8 vụ ăn trộm dính đến người VN.

Tổng số người nước ngoài tại Nhật bị bắt là 10.689 người tăng 8,1% so với năm ngoái. Đặc biệt, trong đó có 1.548 người Việt Nam tăng 38,5% so với năm ngoái, chỉ sau Trung Quốc về số người phạm tội tại Nhật.

Các vụ bắt giữ có liên quan đến Việt Nam, chiếm 16,4% tổng số các trường hợp các vụ do người nước ngoài vi phạm luật pháp tại Nhật, và chiếm 14,5% tổng số người bị cơ quan an ninh Nhật bắt giữ.

Trong số các vụ án hình sự, thì người Việt đứng đầu về cả số vụ lẫn số người các tội cướp giật, ăn cắp. Đặc biệt tăng là các vụ ăn cắp. Số người Việt ăn cắp bị bắt giữ là 1.745 trong tổng số 6.716 người nước ngoài bị bắt.

Trong các trường hợp ăn cắp do người Việt Nam thực hiện thì số vụ ăn cắp ở cửa hàng, siêu thị đặc biệt cao với 1.437 vụ. Trang Viet-jo ghi nhận trong 10 năm qua, các vụ người Việt ăn cắp trong cửa hàng chiếm tỉ lệ lớn.

Trong số người Việt Nam phạm tội, tỷ lệ người đi du học chiếm 54.2%, người sang Nhật học nghề chiếm 12.9%.  Đặc biệt tội phạm có visa du học tăng 1,8 lần.

Phần nhiều các vụ ăn cắp tại các của hàng siêu thị lớn đều được thực hiện có tổ chức. Tính tổ chức thể hiện ở chỗ có phân công rõ ràng kẻ canh chừng, kẻ ăn cắp, kẻ chuyển đồ. Sau đó có đường dây chuyên mua đồ ăn cắp, rồi tuồn về Việt Nam.

Anh Tú (theo Viet-jo.com)

ĐTC: Xin phép, cám ơn và xin lỗi là ba từ giúp chúng ta duy trì cuộc sống hạnh phúc gia đình

ĐTC: Xin phép, cám ơn và xin lỗi là ba từ giúp chúng ta duy trì cuộc sống hạnh phúc gia đình

Linh Tiến Khải

Xin phép, cám ơn và xin lỗi là ba từ giúp chúng ta bước vào trong tình yêu của gia đình, duy trì cuộc sống hạnh phúc và bình an trong gia đình và trong xã hội, vì chúng giúp tránh các rạn nứt có thể trở thành các hố sâu ngăn cách. Vì thế đừng bao giờ kết thúc ngày sống trong gia đình mà không làm hòa với nhau.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 50.000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm 13-5-2015.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài Gia đình và ba lời nói viết trên cửa: Xin phép, cám ơn và xin lỗi. ĐTC nói:

Bài giáo lý hôm nay giống như cửa vào của một loạt các suy tư về cuộc sống gia đình, cuộc sống thực tế của nó với các thời điểm và các biến cố. Trên cánh cửa này có viết ba từ: “Có đuợc phép không?”, “cám ơn”, “xin lỗi”. Thật thế các từ này mở ra con đường giúp sống hạnh phúc trong gia đình. …

Chúng là các từ đơn sơ, nhưng thực thi chúng thì lại không đơn sơ như thế! Chúng gói ghém một sức mạnh lớn: sức mạnh gìn giữ gia đình cả qua hàng ngàn khó khăn và thử thách; trái lại việc thiếu chúng, từ từ mở ra các nứt rạn có thể làm cho nó sụp đổ.

Chúng ta thưòng coi các từ đó như các từ của “nền giáo dục tốt”. Đúng nền giáo dục tốt quan trọng. Một Giám Mục lớn là thánh Phanxicô de Sales, thường nói: “nền giáo dục tốt là một nửa sự thánh thiện”. Tuy nhiên hãy chú ý trong lịch sử chúng ta cũng nhận ra một khuynh hướng hình thức của các cung cách hành xử có thể trở thành mặt nạ che dấu sự khô cằn của tâm hồn và sự thờ ơ đối với tha nhân. Người ta thường nói: ”Đàng sau các cung cách tốt ẩn dấu các thói quen xấu”. Cả tôn giáo cũng không thoát khỏi nguy cơ này, khiến cho việc tuân giữ hình thức rơi vào tinh thần thế tục. Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu đưa ra các cung cách tốt và trích dẫn cả Thánh Kinh nữa. Xem ra nó là một thần học gia. Kiểu của nó bề ngoài đúng đắn, nhưng ý hưóng của nó là nhằm làm sai lệch sự thật của tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta trái lại hiểu nền giáo dục tốt trong các phạm trù đích thực, nơi kiểu của các tương quan tốt đâm rễ sâu trong tình yêu sự thiện và trong sự tôn trọng tha nhân. Gia đình sống nhờ sự tinh tế ấy của tình yêu thương nhau.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC khai triển từng từ một. Trước hết là “xin phép” hay hỏi “Có được phép không?” Khi chúng ta lo lắng xin một cách lễ phép, cả khi chúng ta nghĩ rẳng có thể yêu sách, là chúng ta đặt một sự bảo vệ đích thật cho tinh thần sống chung trong hôn nhân và gia đình. Bước vào trong cuộc sống của người khác, cả khi nó là một phần cuộc sống của chúng ta, đòi hỏi sự tế nhị của một thái độ không xâm lăng, canh tân lòng tin tưởng và sự kính trọng. Chuyện riêng không cho phép coi mọi sự là tự nhiên. Và tình yêu càng thân tình và sâu xa bao nhiêu lại càng đòi hỏi việc tôn trọng sự tự do và khả năng chờ đợi người khác mở cửa tâm lòng họ bấy nhiêu. Liên quan tới điểm này chúng ta hãy nhớ lời Chúa Giêsu nói trong sách Khải Huyền: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 20). Cả Chúa cũng xin phép để vào! Chúng ta đừng quên điều đó.

Từ thứ hai là “cám ơn”. Vài lần người ta nghĩ rằng chúng ta đang trở thành một nền văn minh của các cung cách hành xử xấu và các lời nói xấu, làm như thể chúng là dấu chỉ của sự thoát ly. Nhiều lần chúng ta cũng nghe nói công khai như thế. Sự tử tế và khả năng cám ơn được xem như một dấu chỉ của sự yếu đuối, có khi lại dấy lên ngờ vực. Phải chống lại khuynh hướng này ngay rong gia đình. Chúng ta phải đòi hỏi đối với việc giáo dục sống biết ơn, nhớ ơn: phẩm giá con người và công bằng xã hội đều đi qua đó. Nếu cuộc sống gia đình lơ là lối sống này, cả cuộc sống xã hội cũng sẽ mất nó. Thế rồi, đối với một tín hữu lòng biết ơn là trung tâm của đức tin: một kitô hữu không biết cám ơn là một người đã quên đi tiếng nói của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ câu Chúa Giêsu hỏi khi chữa mười người phong cùi và thấy chỉ có một người trong bọn họ trở lại cám ơn (x. Lc 17,18).

Lời thứ ba là « xin lỗi ». Đây là lời khó nói, chắn chắn rồi nhưng cần thiết. Khi thiếu nó, các nứt rạn nhỏ trở thành lớn hơn – cả khi không muốn – cho tới khi trở thành các hố sâu. Không phải vô tình trong lời kinh Lậy Cha Chúa Giêsu dậy chúng ta tìm thấy kiểu nói này: « Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con » (Mt 6,12). Thừa nhận dã thiếu sót và ước ao trả lại những gì đã bị lấy mất – tôn trọng, chân thành, yêu thương – khiến đáng được tha thứ. Và như thế là chúng ta ngăn chặn nhiễm trùng. …

Nếu chúng ta không có khả năng xin lỗi, thì có nghĩa là chúng ta cũng không có khả năng tha thứ. Trong gia đình nơi người ta không xin lỗi thì bắt đầu thiếu dưỡng khí, nước tù đọng. Biết bao nhiêu vết thương đối với lòng yêu mến, biết bao nhiêu xâu xé trong các gia đình bắt đầu với sự mất đi lời nói qúy báu này « Xin lỗi ». Trong cuộc sống hôn nhân người ta cãi nhau biết bao nhiêu lần… có khi điã chén bay nữa, nhưng tôi xin cho anh chị em một lời khuyên: đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hòa với nhau. Và để làm điều đó thì chỉ cần một cử chỉ bé nhỏ, một cái vuốt ve…

Ba lời chìa khóa này của gia đình là những lời đơn sơ và có lẽ ban đầu chúng khiên cho chúng ta cười. Nhưng khi chúng ta quên chúng, thì không có gì để mà cười, có đúng thế không ? Có lẽ nên giáo dục của chúng ta bỏ bê chúng quá. Xin Chúa giúp chúng ta đặt để chúng trở lại vào đúng chỗ, trong con tim chúng ta, trong nhà chúng ta và trong cả cuộc sống chung xã hội nữa.

ĐTC dã chào các đoàn hành hương đến từ các nưóc Bắc Mỹ và Âu châu, cũng như các đoàn hành hương đến từ Đài Loan, Camerun, Mêhicô, Honduras, Argentina, Brasil. Ngài đặc biệt chào các thành viên Hội Tương trợ truyền giáo quốc tế Pháp hoạt động trong lãnh vực y tế và cổ võ truyên giáo trong các giáo phận và dòng tu.

Chào các đoàn hành hượng nói tiếng Bồ Đào Nha ĐTC nói 13 tháng 5 là lễ Đức Mẹ Fatima. Ngài xin tín hữu gia tăng các cử chỉ hằng ngày tôn sùng Mẹ và noi gương Mẹ và hãy tín thác cho Mẹ mọi sự để trở thành dụng cụ lòng thương xót và hiền dịu của Thiên Chúa đối với các thành phần khác trong gia đình cũng như bạn bè thân hữu. ĐTC mời đức ông người Bồ Đào Nha đọc một kinh Kính Mừng bằng tiếng Bồ kính Đức Mẹ.

Ngài cũng chào các trẻ em Ba Lan mới rước lễ lần đầu và chúc các em càng ngày càng yêu Chúa Giêsu hơn, tín thác nơi Chúa và sống thân tình với Chúa.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào các linh mục sinh viên trường Thánh Phaolô của Bộ Truyền giáo đã xong chương trình học và chuẩn bị về nước làm việc. Ngài khích lệ các vị đừng bao giờ đánh mất đi lòng hăng say truyền giáo.

Chào giới trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC khuyên mọi người vun trồng lòng tôn sùng Mẹ Maria, siêng năng lần hạt mỗi ngày và cảm thấy Mẹ luôn gần gũi đặc biệt trong những lúc khó khăn.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi nguời.

Chủ tịch nước VN phê phán cán bộ ‘đất, đôla’

Chủ tịch nước VN phê phán cán bộ ‘đất, đôla’

Đảng Cộng sản nói chỉ bầu vào Trung ương những người trong sạch

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu gọi loại bỏ những đảng viên chỉ biết “đất và đôla”.

Tiếp xúc với cử tri quận 1 (TP. HCM) sáng 16/5, ông Sang trả lời câu hỏi của một người dân về những cán bộ “Hai Đê (đất và đôla)”.

Ông Sang nói: “Các cô bác anh chị có nêu một bộ phận cán bộ hư hỏng, cán bộ ‘Hai Đê’, tức là đất và đôla. Câu chuyện này là có thật.”

“Đây là một điều hết sức day dứt, ai cũng bức xúc cả.”

Trước thềm Đại hội Đảng, dự kiến diễn ra đầu năm 2016, ông Sang kêu gọi không bầu cho những người này.

“Anh em hàng ngày có thể đi uống cà phê chung nhưng chuyện quốc sự là quốc sự, chuyện Tổ quốc là Tổ quốc, chuyện của nhân dân là nhân dân, dứt khoát không suy chuyển, đừng vì tình riêng mà lẫn lộn đến nghĩa vụ của Tổ quốc.”

“Nếu làm được như vậy chắc chắn rằng những ông bà ‘Hai Đê’ này phải đưa ra ngoài.”

“Chúng ta phải sàng lọc để Đảng mạnh lên,” ông Sang nhấn mạnh.

Mới đây tại Hội nghị Trung ương 11 của Đảng Cộng sản, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói không cho vào Trung ương khóa sau những người có sai phạm như “kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất”.

CPJ kêu gọi VN ngưng truy tố cựu tổng biên tập báo Người Cao Tuổi

CPJ kêu gọi VN ngưng truy tố cựu tổng biên tập báo Người Cao Tuổi

RFA

CPJ hôm qua ra thông cáo báo chí kêu gọi Việt Nam bỏ các cáo trạng chống lại ông Kim Quốc Hoa

CPJ hôm qua ra thông cáo báo chí kêu gọi Việt Nam bỏ các cáo trạng chống lại ông Kim Quốc Hoa

Screen shot

Uỷ ban Bảo vệ các nhà báo CPJ hôm qua ra thông cáo báo chí kêu gọi Việt Nam bỏ các cáo trạng chống lại ông Kim Quốc Hoa, cựu tổng biên tập báo Người Cao Tuổi. CPJ cũng đề nghị chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho báo chí thể hiện vai trò của họ mà không lo sợ bị trả đũa.

Đại diện cao cấp của CPJ ở Đông Nam Á, ông  Shawn Crispin, cũng cho rằng Việt Nam cần phải sáng suốt hơn trong việc giải quyết tình trạng tham nhũng đã được báo chí ghi nhận rõ ràng, thay vì khởi tố các nhà báo phanh phui những vụ quan chức lạm dụng quyền lực.

Kêu gọi của như vừa nêu của CPJ được đưa ra sau khi Bộ Công An Việt Nam quyết định khởi tố ông Kim Quốc Hoa, cựu tổng biên tập tờ Người Cao Tuổi theo điều 258 Bộ Luật Hinh sự Việt Nam về việc lợi dụng quyền tự do dân chủ nhằm xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Cơ quan an ninh Việt Nam cho rằng ông Kim Quốc Hoa đã duyệt hoặc cho đăng tải 11 bài báo có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Xin nhắc lại là vào ngày 9 tháng 2 năm nay, Báo Người Cao tuổi đã bị điều tra và cùng ngày đó ông Kim Quốc Hoa bị ngưng chức Tổng biên tập để điều tra.

Xây Dựng Xã Hội Từng Mảnh Một (Piecemeal Social Engineering)

Xây Dựng Xã Hội Từng Mảnh Một (Piecemeal Social Engineering)

Tác Giả: Đoàn Thanh Liêm |

Câu chuyện của sư phụ Karl Popper và môn đệ George Soros

Năm 1996, tôi đến định cư tại California, thì được anh bạn Đỗ Quý Toàn tức là nhà báo Ngô Nhân Dụng mách bảo cho biết là : “Anh cần tìm đọc về tư tưởng của Karl Popper là một vị đại sư vốn từng dậy học tại trường Kinh tế Luân Đôn, mà ở Việt nam trước năm 1975 ít người được biết đến, kể cả các giáo sư về môn triết học tại các đại học ở Saigon”. Nghe theo lời khuyên của anh bạn, tôi đã đi tìm cuốn sách nổi danh “ The Open Society and its enemies” xuất bản lần đầu tiên tại Anh quốc năm 1945 của tác giả này. Và sau đó tìm đọc thêm nhiều tài liệu khác liên hệ đến đề tài do giáo sư Popper nêu ra, nhất là về nhà tài chánh khét tiếng George Soros là một môn sinh của sư phụ K Popper. Các tài liệu này đã soi sáng rất nhiều cho tôi trong quá trình nghiên cứu về Xã hội Dân sự trong nhiều năm gần đây. Sau trên 10 năm theo dõi và nghiền ngẫm, tôi xin trình bày một số điều tôi đã học hỏi được từ nơi hai nhân vật nổi danh này.

Để cho bài viết được sáng sủa gọn gàng, tôi xin giới thiêu về thân thế và sự nghiệp của mỗi vị trước (bài 1). Và tiếp theo sẽ thảo luận về chủ trương đường lối của hai nhân vật này (bài 2- 3).

Bài 1 – Karl Popper & George Soros

Thân thế và Sự nghiệp

A / Karl Raimund Popper (1902- 1994)

Karl Popper sinh trưởng tại Vienna thủ đô của Áo quốc. Vào tuổi 30, ông thường sinh hoạt với các nhà tư tưởng theo trường phái Vienna về triết học và xã hội học. Nhưng vào năm 1937, vì bất đồng với chế độ độc tài Đức quốc xã, ông đã phải rời quê hương để sang dậy về môn triết học tại trường Đại học Tân Tây Lan. Và sau đó, khi chiến tranh chấm dứt ông lại qua Anh quốc dậy học tại trường đại học nổi danh thế giới “ London School of Economics “ (LSE) trong một thời gian khá dài trước khi về nghỉ hưu.

Giáo sư là người đương thời với nhiều nhân vật nổi danh trong giới học thuật và tư tưởng của thế giới như Andre Malraux, Jean Paul Sartre, Raymond Aron ở Pháp, Gunnar Myrdal ở Thụy Điển, Friedrick Hayek ở Áo quốc. Và đặc biệt ông sống rất thọ, tới tuổi 92. Các sách của ông viết về triết học, đặc biệt là cuốn “ The Open Society and its enemies” đã gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi trong học giới. Năm 1982, vào lúc ông bước vào tuổi bát tuần, các học giả đã hợp với nhau để cùng viết chung một cuốn sách nhan đề là : “In pursuit of Truth” do Paul Levinson biên tập gồm những bài tiểu luận về “Triết học của K. Popper (Essays on the Philosophy of K. Popper on the occasion of his 80th Birthday).

Vào năm 1965, vị giáo sư còn được Nữ hoàng Anh quốc phong tước hiệu “Hiệp sĩ nước Anh” (Knight of England), nên người ta thường xưng tụng gọi ông là Sir Karl Raimund Popper. Ông còn được một môn sinh cũng rất nổi danh là nhà tài chánh George Soros vinh danh là sư phụ của mình bằng cách đặt tên cho cơ sở hoạt động xã hội của ông là “Open Society Institute” có trụ sở chính tại New York. Từ ngữ “Open Society” này nhằm ứng dụng chủ trương của K Popper như được trình bày trong cuốn sách thời danh nói trên. Ta sẽ bàn về nội dung cuốn sách này trong một bài tiếp theo.

Nhân tiện, xin liệt kê một số đầu sách quan trọng của giáo sư Karl Popper như dưới đây theo thứ tự thời gian xuất bản :

The Logic of Scientific Discovery (1934), bản dịch tiếng Anh 1959

The Open Society and its enemies (1945)

Utopia and Violence (1947)

On Freedom (1958)

Conjectures and Refutations : The Growth of Scientific Knowledge (1963)

Unended Quest : An Intellectual Autobiography (1976)

In Search of a Better World (1994)

Hình như chưa có mấy cuốn trong số sách trên đây mà đã được dịch sang tiếng Việt.

B/ George Soros (1930)

George Soros sinh trưởng trong một gia đình Do thái tại Budapest thủ phủ của nước Hungary, vào năm 1930. Trong thời kỳ Đức quốc xã xâm chiếm nước Đông Âu này và tiến hành cuộc tàn sát người Do Thái từ năm 1943, thì George thoát nạn vì nhờ được một gia đình người Hung chính hiệu nhận làm con nuôi. Sau chiến tranh, ông tìm cách đào thoát khỏi khu vực do Hồng quân Liên Xô chiếm đóng để sang phương Tây và đến được nước Anh vào năm 1947. Tại đây, George theo học và tốt nghiệp vào năm 1952 ở trường London School of Economics. George rất tâm đắc với chủ trương về “Xã hội Mở” (Open Society) của giáo sư Karl Popper. Và sau này khi đã rất thành công về tài chánh rồi, thì G Soros đã công khai tôn vinh giáo sư Karl Popper là vị sư phụ đáng kính của mình, bằng cách đặt tên cho Quỹ Từ Thiện cũng như cơ sở hoạt động xã hội của mình là “Open Society Foundation” và “Open Society Institute” (OSI).

Theo sự xếp hạng của tạp chí tài chánh Forbes, thì G Soros được coi là người giàu có thứ 80 trên thế giới với tài sản vào khoảng 8.5 tỷ mỹ kim (8,500 triệu). Ông chuyên môn kinh doanh trên thị trường tài chánh và chứng khoán và bằng những thủ thuật mạnh dạn khôn khéo đến độ phiêu lưu liều lĩnh nên có năm ông kiếm được một số lời khổng lồ hàng ngàn triệu dollar. Tính ra ông đã kiếm được đến 11 tỷ dollar (11,000 triệu) trong thời gian có mười mấy năm hoạt động sôi nổi trên thị trường tài chánh. Báo chí đặt cho ông cái danh hiệu “người bẻ gẫy Ngân hàng Anh quốc” (the man who broke the Bank of England) trong Ngày thứ Tư đen tối năm 1992 (Black Wednesday, September 16, 1992). Và riêng trong mỗi một vụ mạo hiểm này thôi, thì Soros đã kiếm được một số lời lên đến 1.1 tỷ dollar!

Hồi năm 1997, nhân cuộc khủng hoảng tài chánh ở Á châu, G Soros bị Thủ tướng Mahathir của Mã lai tố cáo đích danh là một thủ phạm đã gây ra sự việc tồi tệ đó thông qua những vụ “sử dụng tài sản của mình để trừng phạt khối ASEAN vì đã nhận nước Myanmar vào làm thành viên”. Ông Thủ tướng này còn gọi Soros là một người đần độn(moron). Người Thái lan còn gọi Soros là “ tên tội phạm trong cuộc chiến tranh kinh tế, chuyên hút máu người dân (an economic war criminal who sucks the blood from the people).

Nhưng Soros lại rất nổi danh khắp thế giới, đặc biệt là tại nước Nga và cả khu vực Đông Âu, vì đã góp một phần rất quan trọng vào sự phục hồi chế độ dân chủ ở các nước “cựu cộng sản “ này. Cụ thể như ngay từ đầu thập niên 1980, ông đã yểm trợ rất mạnh cho phong trào “Đoàn kết” ở Ba lan, cho Nhóm “Hiến chương 77” ở Tiệp khắc, cho nhà bác học đối lập thời danh ở Liên Xô là Andrei Sakharov v.v…Chi tiết về các hoạt động này rất nhiều, sẽ được trình bày đày đủ hơn trong một bài sau. Mỗi năm quỹ của Soros đã chi ra đến 500 triệu dollar cho các dự án trên khắp thế giới, đặc biệt tại Đông Âu

G Soros lại còn gây sôi nổi trong dư luận vào năm 2004, khi ông bỏ ra một số tiền khá lớn đến trên 15,000,000 dollar để nhằm hạ bệ Tổng Thống George W Bush trong cuộc bàu cử năm đó.

Ngoài ra ông còn viết nhiều bài báo và cả mấy cuốn sách về kinh tế tài chánh trên quy mô toàn cầu. Thật là con người đa tài, đa dạng, nhiều tiền lắm bạc mà cũng thật là đa đoan nữa.

Trong bài tiếp theo, người viết sẽ trình bày chi tiết hơn về chủ trương “Xây dựng xã hội từng mảnh một” về cả hai phương diện lý thuyết và thực hành của cặp sư phụ Karl Popper và môn sinh G eorge Soros này. Xin độc giả đón đọc nhé.

Bài 2 – Luận điểm của Karl Popper

Công trình nghiên cứu về triết học của giáo sư Karl Popper trong suốt cuộc đời lâu dài vừa miệt mài nghiên cứu giảng dậy, vừa bền bỉ biên soạn sáng tác của ông thật là phong phú vĩ đại. Chuyên môn của ông là lãnh vực triết lý của khoa học (philosophy of science). Và ông đã dậy học tại trường Kinh tế Luân Đôn (LSE) suốt 23 năm với chức danh chính thức là vị Giáo sư về môn Luận lý và Phương pháp Khoa học (Professor of Logic and Scientific Method). Việc giới thiệu cho đày đủ công trình triết học đồ sộ đó rõ ràng là vượt ra ngoài khả năng rất hạn hẹp của người viết bài này. Do đó, như trong nhan đề của bài viết, tôi chỉ xin giới hạn việc giới thiệu về cái chủ trương “Xây dựng xã hội từng mảnh một”, mà vị đại sư đã trình bày rất khúc chiết tại nhiều trang rải rác trong cuốn sách thời danh “The Open Society and its enemies” (Xã hội Mở và những kẻ thù của nó) được xuất bản lần đầu tiên năm 1945 tại Anh quốc, rồi sau đó lại được tái bản nhiều lần và phổ biến rộng rãi tại Hoa kỳ, cũng như tại khắp nơi trên thế giới qua các bản dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nữa.

Và trong một bài tiếp theo (bài 3), người viết sẽ trình bày chi tiết hơn về sự ứng dụng chủ trương này, thông qua chương trình hoạt động văn hóa xã hội và từ thiện nhân đạo có tầm vóc toàn cầu của George Soros là một môn đệ kiệt xuất của giáo sư.

1 – Giới thiệu sơ lược về cuốn sách “ Xã hội Mở và những kẻ thù của nó”

Cuốn sách này được nhiều học giả đánh giá là một công trình quan trọng nhất nghiên cứu về môn xã hội học đương đại, một thứ tác phẩm “kinh điển” (a classic). Vị đại sư Bertrand Russell thì ca ngợi tác phẩm như là một bênh đỡ vững mạnh và sâu sắc cho nền Dân chủ (a vigorous and profound defence of Democracy). Quả thật, Popper đã vận dụng triệt để cái vốn kiến thức uyên bác, vững vàng trong lãnh vực triết lý khoa học cuả mình để tìm cho ra được một lối thoát về chính trị xã hội cho thế giới lúc đó đang bị kềm kẹp khốn khổ dưới chế độ độc tài tàn bạo Đức quốc xã. Và rồi qua cuốn sách thời danh này, Popper đã được đánh giá cao là một triết gia về chính trị và xã hội nưã (political and social philosopher).

Sách dài tổng cộng trên 700 trang được phân bố trong 2 tập, với tổng cộng 25 chương, mà 10 chương đầu được dành để phân tích và bác bỏ các luận điểm của đại triết gia Plato là một thứ ‘núi Thái sơn” của nền triết học Tây phương và cả của kho tàng triết học của nhân loại nữa. Còn các chương tiếp theo, thì tác giả dành để phê phán Marx và Hegel. Mặc dầu rất kính phục vị đại sư Plato, Karl Popper vẫn thẳng thừng phê phán quan điểm của triết gia này đến nơi đến chốn, đặc biệt về quan điểm có tính chất “ không tưởng” (utopian social engineering) của Plato trong việc điều hành và lãnh đạo xã hội. Popper rất kiên quyết, triệt để chống lại cái lý luận của Plato khi chủ trương rằng “ quyền lợi cuả nhà nước được đặt trên quyền lợi cuả cá nhân “ và “cần phải dành quyền cai trị cho nhà độc tài sáng suốt, một thứ “vua kiêm triết gia” (philosopher-king).

Dĩ nhiên là Popper cũng nặng nề phê phán chê trách quan điểm của Hegel đặc biệt là thuyết “định mệnh lịch sử” (historical determinism). Nói vắn tắt là : Popper hoàn toàn bác bỏ cái chủ trương “kế hoạch hóa toàn diện” (Total Planning) của Plato và Hegel, Marx, mà thay vào đó bằng chủ trương “Xây dựng Xã hội từng mảnh một” (Piecemeal Social Engineering). Chủ trương này sẽ được bàn thảo phân tích chi tiết rành rọt hơn trong phần sau của bài viết này.

Ta nên chú ý đến thời gian và bối cảnh lúc tác giả viết cuốn sách này. Đó là từ năm 1938 đến 1943, lúc chế độ phát xít Hitler đang chiến thắng ròn rã ở khắp Âu châu, kể cả tại nước Nga. Tình hình bi thảm này trên khắp Âu châu đã khiến cho Popper phải ngày đêm lăn xả vào việc truy tìm tận gốc rễ đã phát sinh ra chế độ độc tài chuyên chế toàn trị. Vì thế mà ông đã “rất nặng lời trong việc phê phán Plato, Hegel” là những bậc thức giả được tác giả coi như chủ xướng cổ võ cho hệ thống “xã hội khép kín” (closed society) do chế độ độc tài gây dựng và duy trì. Vào thời đó, chưa có cuộc chiến tranh lạnh như trong giai đoạn sau này, kể từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt. Nên trong cuốn sách này, Popper đã” rất nhẹ tay ” đối với Karl Marx, và cũng lại không hề đả động gì đến chế độ độc tài cộng sản sắt máu cuả Stalin.

Ngày nay vào đầu thế kỷ XXI, sau khi chế độ cộng sản sụp đổ ở nước Nga và Đông Âu để nhường chỗ cho một thể chế dân chủ thông thoáng cởi mở hơn, cùng với sự thăng tiến về nhân phẩm và nhân quyền thông qua sự phục hồi và phát triển cuả xã hội dân sự, thì lời kêu gọi “xây dựng một xã hội cởi mở”, mà Popper đã mạnh dạn gióng lên từ 60-70 năm trước, lại càng có tính cách thực tiễn thời sự và được sự hưởng ứng cuả số đông quần chúng cũng như tầng lớp trí thức khắp nơi trên thế giới.

Tóm tắt lại, cuốn sách “The Open Society” cuả Karl Popper đã góp phần gây ra được một nguồn cảm hứng nồng nhiệt, phấn khởi cho công cuộc tìm kiếm một thể chế chính trị xã hội nhân bản, văn minh tiến bộ xứng hợp với điạ vị cao quý cuả con người trong một thế giới đang mỗi ngày càng phát triển mạnh mẽ theo chiều hướng toàn diện và toàn cầu hiện nay vậy.

2 – Thảo luận về vấn đề “ Xây dựng xã hội từng mảnh một”.

Luận điểm cốt lõi của Popper có thể tóm gọn lại như sau : Công việc chính yếu của bất kỳ một xã hội con người nào thì cũng chỉ là phải “giải quyết vấn đề” xảy đến cho xã hội đó (problem solving). Mà phương pháp khoa học có hiệu quả nhất là sử dụng “ giải pháp thử nghiệm” (trial solution). Giải pháp thử nghiệm như vậy đòi hỏi một sự “phê phán, kiểm tra thường xuyên” và tìm cách” loại bỏ những sai lầm” (error elimination). Nhờ quá trình hoạt động nghiêm túc như vậy, mà lần hồi con người tìm ra được giải pháp tối ưu cho các vấn đề nhân sinh (optima solution).

Popper xác định : “Trong thực tế chưa hề có một mô hình mẫu mực nào cho việc “xây dựng xã hội đại quy mô” (large-scale engineering). Đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của những nghệ sĩ, của loại người “không tưởng” (utopian). Mà cũng không hề có một thứ “ lý thuyết định mệnh lịch sử “ nào đã được chứng minh có giá trị chính xác tuyệt đối, như mấy nhà “tiên tri” thường rêu rao…” Lời phát biểu chắc nịch của ông được nhiều người nhắc đến, đó là : “ Thay vì đứng ra như là vị tiên tri, chúng ta phải là người tạo ra số phận cho chính mình” (Instead of posing as prophets, we must become makers of our fate).

Popper đi đến một kết luận dứt khoát là : “Chỉ có một xã hội dân chủ, cởi mở, sẵn sàng tiếp nhận những phê phán, chỉ trích những sai lầm và có tinh thần phục thiện để mà điều chỉnh sửa chữa những bất cập đó, thì xã hội mới có cơ được lần hồi cải thiện. Ông nêu rõ là không thể có một “mẫu thiết kế” (blueprint) có sẵn cho bất kỳ một quốc gia nào, như các nhà độc tài thường hay áp đặt bắt buộc thần dân trong nước phải răm rắp tuân theo, mà không hề được nêu lên ý kiến phê phán thế này, thế nọ. Ông còn nói rõ hơn : Vì chúng ta không có cách nào đem lại hạnh phúc tối đa cho người dân được ( maximize happiness), nên chúng ta chỉ còn có mỗi một cách là “giảm đến mức tối thiểu sự đau khổ của quần chúng” (minimize suffering). Phương thức “ Xây dựng Xã hội từng mảnh một” chính là giải pháp tối ưu mà chúng ta có thể thực hiện được, hầu giải quyết thỏa đáng cho những vấn đề mỗi ngày một thêm phức tạp khó khăn của xã hội ngày nay vậy.

Chủ trương “Piecemeal Social Engineering “ này làm chúng ta nhớ đến quan điểm của kinh tế gia E F Schumacher trong cuốn sách nổi danh “Small is Beautiful” xuất bản hồi thập niên 1970, cũng bắt đầu tại nước Anh. Người viết đã có dịp giới thiệu tư tưởng của Schumacher từ hồi đầu năm 2009 vừa qua. Rõ ràng là quan điểm của triết gia Karl Popper có nhiều điểm tương đồng với chủ trương của kinh tế gia Fritz Schumacher, dù hai người theo đuổi hai lãnh vực hoàn toàn khác nhau, với phương pháp lý luận cũng khác nhau.

Ta hãy nghe thêm lời biện giải chi tiết hơn của Popper : “ Phương pháp “từng mảnh một cho phép ta thực hiện liên tiếp nhiều thực nghiệm và những điều chỉnh liên tục (repeated experiments and continuous adjustments). Điều này có nghĩa là ta đem phương pháp khoa học vào trong lãnh vực chính trị, bởi vì toàn thể bí quyết của phương pháp khoa học thì chính là sự sẵn sàng học hỏi được từ những sai lầm” (a readiness to learn from mistakes).Thí dụ cụ thể như mô hình của từng định chế như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp hay tòa án hòa giải, cải cách giáo dục, cải tổ thuế khóa… thì cũng đơn giản thôi. Nếu những cái đó có sai sót, thì sự thiệt hại gây ra cũng chẳng có gì trầm trọng lắm, mà việc điều chỉnh sửa sai lại cũng sẽ chẳng quá khó khăn. Bởi lẽ những thử nghiệm “từng mảnh một” như vậy, thì không làm đảo lộn tòan thể trật tự của tất cả xã hội, như trong một thứ “cách mạng đai quy mô và triệt để” mà nhà lãnh đạo độc tài chuyên chế thường gây ra.

Có thể nói lập trường” công kích chống lại độc tài chuyên chế toàn trị” (anti-totalitarian thrust) như thế của Popper rất ăn khớp với tư tưởng của các tác giả nổi danh đương thời sau thế chiến thứ hai, điển hình như Friedrick Hayek với tác phẩm “The Road to Serfdom” (Con đường dẫn tới Nô lệ), như Ludwig von Mises với tác phẩm “ Omnipotent Government “ (Chính quyền Vạn năng). Trào lưu tư tưởng này đã ngăn cản, kềm bớt chủ trương của trường phái phát sinh từ vị đại sư John Maynard Keynes cũng của nước Anh, vốn cổ võ sự can thiệp mạnh mẽ quá trớn của chánh quyền trong việc điều hành nền kinh tế tại các quốc gia vốn đã có truyền thống dân chủ vững chắc lâu năm như ở Âu Mỹ.

Trước tình trạng sôi động, cuồng tín quá khích về tôn giáo ngày nay tại nhiều nơi trên thế giới, cũng như chủ trương hạn chế quyền tự do và tiếng nói của các cá nhân do chính quyền Tổng thống George W Bush theo đuổi gần đây ngay tại chính nước Mỹ, thì chủ trương kêu gọi “liên tục cải thiện xã hội từng mảnh một”, do Karl Popper khởi xướng từ trên 60 năm nay, càng có tác dụng thúc đảy mọi công dân trong khu vực xã hội dân sự phải tích cực năng động và sáng tạo hơn nữa, để tự cứu lấy mình và cứu vãn toàn thể xã hội đang có nguy cơ khủng hoảng suy thoái rất ư là trầm trọng hiện nay vậy./

Bài 3 – George Soros và công cuộc Xây dựng Xã hội Mở Toàn cầu

(The Global Open Society)

Năm 2010 này George Soros đã bước vào tuổi 80. Ông quả là một con người ngoại hạng, đa tài, đa năng, lại nhiều tiền lắm bạc, mà lại cũng rất ư là đa đoan năng nổ. Đã có rất nhiều sách báo viết về ông, khen ngợi ca tụng cũng có, mà chê bai chỉ trích cũng nhiều. Ngay cái chuyện làm ăn kinh doanh kiếm tiền của ông trên thị trường tài chánh và chứng khoán với món tiền kếch xù thu nhập được đến cả hàng chục ngàn triệu dollar qua mấy chục năm kinh doanh của ông, thì đã là đề tài cho báo chí và công luận khắp thế giới bàn tán từ bao nhiêu năm tháng nay rồi. Ông lại còn xông xáo tham gia vào bao nhiêu chuyện chính trị, ngoại giao này nọ, mặc dầu không hề giữ một chức vụ gì trong chính quyền nước Mỹ. Ông còn hay viết báo, viết sách bàn luận về chuyện kinh tế tài chánh có tầm quan trọng toàn cầu. Cũng như ưa thích nghiên cứu đàm đạo về chuyện triết lý cao siêu nữa.

Nhưng bài viết này lại không bàn về những chuyện rất hấp dẫn đó, mà chủ tâm của người viết là muốn giới thiệu với bạn đọc các hoạt động của George Soros để nhằm xây dựng một Xã hội Mở trên phạm vi toàn cầu, theo đường hướng của vị sư phụ nổi danh Karl Popper, mà ông có dịp được thụ giáo với trong thời gian theo học tại trường Kinh tế Luân đôn hồi cuối thâp niên 1940 qua đầu thập niên 1950, lúc vào tuổi 20.

Soros khởi sự tham gia công tác thúc đảy sự phát triển “các xã hội mở” ngay từ cuối thập niên 1970. Điển hình là từ năm 1979, ông đã cấp ngân khỏan để giúp các sinh viên da đen theo học tại đại học Cape Town ở Nam Phi, vì hồi đó người dân ở nước này vẫn còn bị nạn kỳ thị chủng tộc (Apartheid) hoành hành.Tiếp theo ông lập một sáng hội (foundation) tại Hungary nhằm yểm trợ về văn hóa, giáo dục và thúc đảy tiến trình chuyển biến dân chủ cho quốc gia là quê hương bản quán của mình. Tại đây, một trong những dự án độc đáo nhất là ông đã nhập cảng vào trong nước rất nhiều máy photocopy, để giúp giới tranh đấu dân chủ phổ biến tin tức và in ấn những tài liệu bị chánh quyền cộng sản cấm đoán. Soros cũng tìm cách khôn khéo gửi khá nhiều tiền giúp phong trào Đòan kết đang hoạt động bí mật ở Balan, cũng như cho Nhóm Hiến chương 77 ở Tiệp khắc. Và đặc biệt là yểm trợ nhà bác học – đối kháng hàng đầu ở Liên Xô là Andrei Sakharov.

Năm 1982, nhân dịp mừng sinh nhật thứ 80 của giáo sư Karl Popper, Soros đã đặt tên cho tổ chức từ thiện của mình là “Open Society Foundation” để vinh danh vị sư phụ quý mến của ông. Và ông bắt đầu cấp học bổng cho các sinh viên du học từ Đông Âu. Phấn khởi trước sự thành công của các dự án này, Soros thành lập thêm nhiều dự án khác nhằm giúp đỡ việc tự do phổ biến thông tin tại những quốc gia trong khối cộng sản. Ông còn yểm trợ những chương trình giáo dục qua radio tại Mông cổ. Và sau này đóng góp đến cả 100 triệu dollar để cung cấp dịch vụ internet cho các đại học cấp miền ở nước Nga.

Nói chung những hoạt động nhân đạo từ thiện của Soros thì đều kết hợp với nguyên tắc cốt lõi của sự cổ võ xây dựng cho xã hội mở. Như vậy, nên ông đã không chịu để cho các loại hoạt động này lại bị ràng buộc hay bị hạn chế bởi một chánh quyền nào, hoặc một định chế quốc tế nào. Trong thập niên 1980,Soros tài trợ cho các nhà kinh tế trẻ tuổi tại một “think tank” ở Trung quốc qua trao đổi với một đại học chuyên về môn kinh doanh tại Budapest. Soros còn giúp thiết lập quỹ trợ cấp việc cổ võ cho xã hội dân sự và tính minh bạch tại Trung quốc. Năm 1991, Soros góp phần thành lập Đại học Trung Âu tại Budapest (Central European University), chuyên dậy bậc cao học trong lãnh vực phát triển xã hội và chính trị. Tính ra ông đã dành riêng cho đại học này đến số tiền tổng cộng lên đến trên 500 triệu dollar. Ông cũng đã bỏ ra 50 triệu dollar để cứu trợ các nạn nhân trong cuộc chiến ở Bosnia. Và cũng chi ra 50 triệu dollar khác để yểm trợ dự án Millenium Villages cho các làng nghèo túng hẻo lánh ở Phi châu nữa. Thật không thể nào kê khai cho hết được những ngân khoản do G Soros cấp phát cho các dự án xã hội- văn hoá- giáo dục rải rác khắp nơi trên thế giới được, nhất là tại các quốc gia cưụ cộng sản ở Đông Âu và cả nước Nga.Tính gộp lại, trong mấy chục năm liên tục tham gia công việc từ thiện nhân đạo và xây dựng “Xã hội Mở”, George Soros đã chi ra đến 6 tỷ dollar cho các dự án khắp thế giới.

Sau này, kể từ ngày thiết lập OSI tức là Viện Xã hội Mở vào năm 1993 (Open Society Institute), thì Soros đã lần hồi hệ thống hoá các chương trình hoạt động cho có quy củ lớp lang nhịp nhàng ăn khớp với nhau. Dưới đây, ta sẽ tìm hiểu chi tiết về sinh hoạt cuả tổ chức OSI này.

Viện Xã hội Mở (The Open Society Institute = OSI)

Là con người thực dụng, Soros không bao giờ chấp nhận cái lối điều hành theo kiểu hành chánh quan liêu thư lại nơi các cơ quan nhà nước, mà người Âu Mỹ gọi là “bureaucracy” (guồng máy thư lại). Vì thế ban đầu văn phòng do ông điều khiển để phụ trách công việc từ thiện nhân đạo, thì gần như rất “tuỳ hứng, không hề có sự kỷ cương gò bó” gì cả. Nhưng sau này, lúc công việc quá nhiều với sự cộng tác cuả những nhân vật kiệt xuất từ khắp các nơi trên thế giới, thì bó buộc Soros phải thay đổi cái lề lối quản lý và điều hành “tuỳ hứng, lỏng lẻo” này. Đó là vào đầu thập niên 1990, khi ông đã thiết lập được nhiều cơ sở gọi là “sáng hội tại từng quốc gia” (national foundation) với nhân viên phụ trách điều hành hoàn toàn là người điạ phương với thẩm quyền và sáng kiến riêng cuả họ, kể cả với danh xưng khác với tổ chức “Open Society” cuả ông, thì tại cơ quan trung ương đầu não cuả OSI đặt tại New York đã bắt đầu phát triển thành một bộ phận “ phối hợp các hoạt động cuả các national foundation” này. Hoạt động của OSI mỗi ngày một mở rộng, mà hiện nay đã gồm các “đối tác” (partner) ở trên 30 quốc gia, phần lớn là trong các nước Đông Âu và các nước tách ra từ Liên Xô kể từ đầu thập niên 1990, khi hệ thống cộng sản sụp đổ tan rã.

Hoạt động của OSI rất là đa dạng, phong phú vì được phát xuất từ sáng kiến rất cụ thể và độc đáo của bao nhiêu nhân vật xuất chúng của các quốc gia sở tại, mà lại rất ư là khác biệt nhau về truyền thống văn hóa lịch sử, cũng như tôn giáo. Tất cả chỉ có chung một mẫu số, đó là : Cùng nhắm vào công cuộc xây dựng và phát triển “Xã hội mở” dựa trên cơ sở dân chủ, khai phóng và nhân bản theo tinh thần tiến bộ, bất bạo động đã được giáo sư Karl Popper khai mở cổ võ mạnh mẽ từ 70 năm trước như được ghi trong tác phẩm “The Open Society and its enemies”, cuốn sách này vừa mới được giới thiệu trong bài 2 trước bài viết này. Vì thế, ta có thể nói : George Soros là một nhân vật tiên phong của phong trào kiến tạo “một Xã hội Mở trên quy mô toàn cầu” (the pioneer of the Global Open Society). Hay nói khác đi, Soros là tiêu biểu của một thứ “kiến trúc sư của Xã hội Dân sự Toàn cầu” (an architect of the Global Civil Society), mà đang nỗ lực cổ võ phát động cho “Phong trào Xã hội mới” của thế kỷ XXI hiện nay vậy (The New Social Movement).

Quý bạn đọc có thể mở website của “Open Society Institute”, thì sẽ tìm được vô vàn thông tin chi tiết và cập nhật hóa thường ngày về sinh hoạt của cả một hệ thống các foundation tại tất cả các quốc gia liên hệ. Điển hình như vừa đây, sau trận động đất kinh hoàng ở Haiti vào đầu năm 2010 này, thì OSI đã khẩn cấp chi ra ngay 4 triệu US dollar, phân phối cho 4 tổ chức nhân đạo như Medecins Sans Frontieres, Save The Children, Catholic Relief Services, CARE đẻ tham gia cứu trợ giúp đỡ các nạn nhân. Và trước đây Soros cũng đã chi ra 50 triệu để giúp riêng cho dân chúng tại thành phố thủ đô Port-au Prince của Haiti nữa.

Người viết bài này đã có dịp đến viếng thăm trụ sở cuả OSI tại trung tâm khu Manhattan ở New York vào muà hè năm 2008. Nhờ sự giới thiệu cuả chị luật sư Dinah Pokempner thuộc tổ chức Human Rights Watch, nên tôi đã được hai chuyên viên cuả OSI phụ trách về Đông Âu và Nga tiếp đón rất thân tình chu đáo. Đó là vì tôi cần tham khảo kinh nghiệm thực tiễn cuả OSI hoạt động tại Đông Âu, để bổ túc cho sự nghiên cứu cuả tôi về “Sự phục hồi Xã hội Dân sự tại Đông Âu sau khi chế độ cộng sản sụp đổ vào năm 1989”. Tôi cần kinh nghiệm chuyên môn cuả OSI (technical expertise), chứ không phải đến trụ sở này để xin ngân khoản trợ cấp cuả họ (grant) cho việc nghiên cưú dài ngày này nói trên. Và họ tỏ ra thật hoan hỉ, phấn khởi khi nghe tôi trình bày rằng : Người Việt nam cũng như người Trung hoa, người Triều tiên chúng tôi ở Á châu hiện còn đang phải sống dưới ách độc tài chuyên chế cộng sản, thì rất mong rút được bài học hưũ ich cuả các quốc gia cựu cộng sản như ở Nga và Đông Âu, để còn chuẩn bị cho giai đoản “hậu cộng sản” (post-communist) sắp tới trong tương lai không bao xa cho đất nước chúng tôi nưã đấy.

Niềm say mê khác nữa của George Soros.

Như đã trình bày trước đây, Soros là người đa tài, đa dạng đa đoan, nên ông tham gia vào nhiều loại công việc trong những lãnh vực rất khác biệt nhau. Là người có trí thông minh vượt trội, lại trải qua nhiều nỗi truân chuyên của gia đình gốc Do thái dưới thời tàn bạo của phát xit Đức quốc xã, và sau này của chế độ cộng sản, nên Soros có được cái tầm nhìn và suy nghĩ toàn cầu (global vision /thinking). Nhưng Soros lại có cả tham vọng về thứ “ hoạt động tòan cầu “ (global action) nữa, chứ không như người ta thường tình chỉ có thể hành động hạn chế tại địa phương nhỏ bé “trong tầm tay” của mỗi cá nhân mà thôi (Act locally). Cái chí lớn “muốn xẻ núi lấp song” như thế đã thôi thúc ông lăn xả vào trong nhiều loại hoạt động, mà vì nhờ có phương tiện tài chánh dồi dào Soros dễ tạo được môi trường, để cùng chung với các bạn hữu thân thiết đưa ra thực hiện các sáng kiến độc đáo và mạnh dạn của mình. Có lần ông tâm sự với bạn : “Tôi không hề muốn thiên hạ chỉ coi tôi như là một nhà tỷ phú nhiều tiền lắm bạc, mà rộng tay ban phát ân huệ cho người này người khác như là một vị ân nhân theo cái ‘lối cha chú” (paternalism). Vì thế, tôi miệt mài tìm kiếm học hỏi thêm về triết học, về kinh tế tài chánh, về xã hội học v.v…” Chính cái tinh thần “cầu tiến” này đã khiến cho Soros thâu lượm được một số vốn kiến thức rất vững chắc, để theo kịp được với nhịp độ văn minh tiến bộ của thời đại.

Các ký giả quen biết theo dõi đường đi nước bước của Soros trong nhiều năm, thì đều nhận ra cái sự biến chuyển trong nhận thức mỗi ngày một thêm phong phú, sung mãn và vững chãi hơn. Trước đây, giới chính trị ngoại giao cấp cao các nước văn minh thường đánh giá thấp mấy nhà tài phiệt, mà họ coi như là loại “trọc phú” với trình độ văn hóa thấp kém. Nhưng từ ngày Soros được gán cho cái danh hiệu “ con người đã bẻ gãy Ngân hàng Anh quốc” vào ngày Thứ tư Đen 16 September 1992, thì người ta không thể xem thường con người này được nữa. Do vậy mà lần hồi Soros đã có thể tiếp cận được với các nhân vật quan trọng cuả thế giới trong mọi lãnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hoá, tôn giáo để trao đổi kinh nghiệm và bàn thảo về đường lối hoạt động có tầm vóc toàn cầu. Cứ như vậy, cái vòng quen biết thân tình cuả George Soros mỗi ngày càng mở rộng, bành trướng mãi ra, và tầm vóc hoạt động mỗi ngày một phát triển rất ư là hiệu quả và bao quát.

Nhân tiện, tôi cũng xin ghi ra đây một số sách có tính cách tiêu biểu do chính Soros biên soạn và phổ biến cho công chúng trong thời gian gần đây :

*The Crisis of Global Capitalism : Open Society Endangered (1998)

*Open Society : Reforming Global Capitalism (2000)

*The Buble of American Supremacy : Correcting the Misuse of American Power (2003)

*The Age of Fallibility : Consequences of the War on Terror (2006)

*The New Paradigm for Financial Markets : The Credit Crisis of 2008 and What It Means (2008).

Ngoài ra Soros còn thường xuyên viết rất nhiều bài báo phổ biến trên diễn đàn các tờ báo lớn ở Mỹ và cả ở Âu châu nưã. Điển hình như 2 bài báo này :

*Europe as a Prototype for a Global Open Society (Nov. 20, 2006),

*Op-Ed : A New Bargain for UN Reform (May 4, 2006).

George Soros còn nhận được nhiều cấp bằng danh dự từ các đại học danh tiếng trên thế giới, cụ thể như Oxford, Yale, Budapest University. Đặc biệt vào năm 1995, đại học Bologna ở Ý Đại Lợi đã cấp cho Soros bằng danh dự cao nhất “the Laurea Honoris Causa” vinh danh những nỗ lục cuả G Soros nhằm cổ võ các “Xã hội Mở” trên toàn thế giới.

Về cuộc sống gia đình riêng tư, thì báo chí ghi nhận : Soros có hai đời vợ và có tất cả 5 người con nay đều đã trưởng thành. Cả hai bà vợ đều đã ly dị, và hiện nay không còn người đàn bà nào mà còn sống chung với ông nưã./

California, Tháng Giêng 2010

Đoàn Thanh Liêm

Giới thiệu sách mới : Hành trình của người trí thức dấn thân nhập cuộc

Giới  thiệu  sách  mới : Hành  trình  của  người  trí  thức  dấn  thân  nhập  cuộc

Bài của Đoàn Thanh Liêm

Nguyên tác bản tiếng Anh   :  Thinking the Twentieth Century.

by :   Tony Judt with  Timothy   Snyder

Nhà xuất bản The Penguin Press, New York ấn hành năm 2012

Sách dày trên 400 trang với bìa cừng.

www. Penguin.com

*     *     *

Tony Judt (1948 – 2010) sinh trưởng tại London Anh quốc, là một giáo sư về môn lịch sử và chính trị tại nhiều Đại học danh tiếng ở Âu châu và ở Mỹ. Ông cũng là tác giả hay biên tập của 14 cuốn sách, trong đó có cuốn “Postwar : A History of Europe Since 1945” xuất bản năm 2005 là được giới thức giả quốc tế chú ý và đánh giá cao. Ông còn đóng góp nhiều bài vở cho các tạp chí nổi tiếng như The New York Review of Books, The Times Literary Supplement, The New Republic… Do bị bệnh liệt não, ông đã sớm từ giã cõi đời tại New York vào năm 2010 lúc mới ở vào tuổi 62.

Nhận thấy bậc đàn anh lâm bệnh ngặt nghèo, nên Timothy Snyder – cũng là một giáo sư trẻ tuổi người Mỹ về môn lịch sử – trong các năm 2009 – 2010 đã đến tư gia của Tony Judt tại New York để trao đổi thảo luận trong nhiều buổi nói chuyện thân mật tay đôi với ông. Và qua việc khai thác các băng ghi âm từ những cuộc đối thọai đó, Timothy đã hòan thành được cuốn sách có nhan đề thật bao quát là : “Thinking the Twentieth Century” –  sách này vừa mới cho ra mắt công chúng trong năm 2012. Có thể nói đây vừa là cuốn sách tự truyện của Tony Judt, vừa là một nhận định tổng hợp về sự dấn thân nhập cuộc của giới trí thức tại Âu châu suốt trong thế kỷ XX.

Để thuận tiện cho độc giả theo dõi câu chuyện đối đáp giữa hai vị chuyên gia về sử học tại Âu châu trong thế kỷ XX, người viết xin lần lượt trình bày về tiểu sử các tác giả trước khi đề cập đến những mục đáng chú ý nhất trong cuốn sách.

I – Tiểu sử các tác giả.

1 – Tony Judt (1948 – 2010)

Xuất thân từ một gia đình có cả cha mẹ đều là di dân người Do Thái gốc gác từ Đông Âu, nên Tony Judt dễ có điều kiện tìm hiểu về những biến chuyển lớn lao tại miền đất xưa kia là quê hương của dòng họ bên nội cũng như bên ngọai của mình. Tony được học ở trường Đại học nổi danh bậc nhất của Anh quốc, đó là trường Cambridge – rồi lại còn được học thêm ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm ở Paris (École Normale Supérieure) là cái nôi sản sinh ra những tinh hoa của nước Pháp. Ông thông thạo nhiều ngọai ngữ như tiếng Pháp, Đức,Tiệp khắc… và được coi là một chuyên gia có thẩm quyền về Lịch sử Giới Trí thức của Pháp thời hiện đại.

Luận văn để thi bằng Tiến sĩ của ông tại Cambridge được xuất bản thành cuốn sách trước tiên bằng tiếng Pháp vào năm 1976  – với nhan đề là “La Reconstruction du Parti Socialiste 1921 – 1926” (Sự Tái Xây dựng Đảng Xã hội (Pháp) 1921 – 1926).

Ông đã giảng dậy nhiều năm về Lịch sử và Chính trị tại các Đại học danh tiếng như Cambridge, Oxford và Berkeley và làm Giám đốc Sáng lập của Viện Erich Maria Remarque tại Đại học New York, Viện này chuyên chú vào công cuộc Trao đổi và Đối thọai giữa Âu châu và Mỹ châu.

Tony Judt cũng là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng, điển hình như :” Past Imperfect : French Intellectuals, 1944 – 1956” (xuất bản năm 1992), “Marxism and the French Left : Studies on Labor and Politics in France 1930 – 1982” (xb 1990), “The Burden of Responsibility : Blum, Camus, Aron and the French Twentieth Century (xb 1998)”, “A Grand Illusion? : An Essay on Europe” (xb 1996). Và đặc biệt cuốn “Postwar : A History of Europe Since 1945” (xb 2005), thì được tạp chí New York Times Book Review xếp lọai là “một trong 10 cuốn sách hay nhất trong năm 2005”.

Ở vào tuổi 16 – 20, Tony đã nhiều lần về Do Thái để tham gia xây dựng kibbutz ở nông thôn và làm cả việc phiên dịch cho các đòan thiện nguyện viên trong cuộc chiến tranh 7 ngày năm 1967. Nhưng sau đó, Tony đã có lập trường khác biệt với chính quyền Do Thái và trở về đi học lại để hòan tất học trình thi Tiến sĩ và bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu và giảng dậy chuyên môn về lịch sử và chính trị cho đến khi lìa đời vào tháng 8 năm 2010 tại New York.

Năm 2003, Tony Judt đưa ra chủ trương “Một quốc gia – hai dân tộc” (A bi-national State) như là giải pháp cho cuộc tranh chấp Do Thái & Palestine – thì gặp phải sự phản ứng gay gắt trong công luận – khiến cho một vài tạp chí phải từ chối sự cộng tác của ông.

Về đời tư của gia đình, thì Tony Judt có hai người vợ trước đều đã ly dị. Sau cùng, ông sống đến cuối đời với bà vợ thứ ba tên là Jennifer Homans và có hai người con trai với bà này được đặt tên là Daniel và Nicolas.

2 – Timothy Snyder (sinh năm 1969)

Sinh trưởng tại Mỹ, Timothy Snyder theo học tại Đại học Brown ở Mỹ và tốt nghiệp văn bằng Tiến sĩ từ Đại học Oxford Anh quốc. Ông còn tham gia nghiên cứu tại Paris, Warsaw, Vienna và Đại học Harvard. Ông chuyên giảng dậy tại Đại học Yale về môn Lịch sử chính trị của Đông Âu hiện đại.

Ông cũng là tác giả của 5 cuốn sách đều được giải thưởng – trong đó cuốn sách nhan đề “Bloodlands : Europe between Hitler and Stalin” (Miền Đất Đẫm Máu) đã trở thành sách bán chạy nhất tại 4 quốc gia và được 10 nhà xuất bản xếp vào lọai sách hay nhất trong năm.

Timothy Snyder là người thông thạo rất nhiều ngôn ngữ Đông Âu, cụ thể như tiếng Nga, Ba Lan, Ukraine, Belorussian, Tiệp khắc và cả tiếng Yiddish của người Do Thái ở Đức và Trung Âu – đó là chưa kể tiếng Pháp và Đức. Sách của ông đã được dịch ra đến 20 ngôn ngữ khác. Chính Tony Judt đã xác nhận trong Lời cuối sách rằng :  Với sự thông suốt về lịch sử và văn hóa Đông Âu, thì Timothy Snyder là phần bổ túc thật quý báu cho mình, mặc dầu Timothy trẻ hơn 21 tuổi so với Tony.

Tuy vậy, do sự khiêm tốn, trong cuốn sách này Timothy Snyder đã lọai bỏ bớt đi phần nói về tiểu sử của bản thân mình – cốt ý để cho Tony Judt đóng vai trò chính yếu trong việc hòan thành cuốn sách. Độc giả có thể nhận ra chi tiết đó ngay trên trang bìa sách, thì chữ Tony Judt cũng lớn hơn hẳn chữ Timothy Snyder – ông này tự coi như mình chỉ là ‘một tác giả phụ” của cuốn sách mà thôi.

II – Mấy nét chính yếu của tác phẩm.

1 – Có thể xếp lọai cuốn sách này là Lịch sử Tư tưởng Chính trị và giới Trí thức trong sinh họat chính trị của thế kỷ XX ở Âu châu – đó là một lãnh vực mà cả hai tác giả đều đã dày công nghiên cứu trong nhiều năm. Vì thế mà có ấn bản lại ghi thêm một nhan đề phụ nữa là : “ Giới Trí thức và Chính trị” (Intellectuals and Politics) để bạn đọc chú ý hơn đến nội dung của sách. Phần Tự thuật của riêng Tony Judt có tác dụng minh họa cho những nghiên cứu cũng như về sự gặp gỡ trao đổi của ông với nhiều vị thức giả có tên tuổi trong giới học thuật đặc biệt xuất thân từ Đông Âu.

Cuốn sách được thành hình qua nhiều cuộc trao đổi đối thọai giữa hai vị giáo sư chuyên về môn lịch sử ở Âu châu thời cận đại – nên có tính chất linh họat của lối văn nói hơn là văn viết.

2 – Về mặt bố cục, sách được chia thành 9 chương với Lời Nói đầu của Timothy Snyder và Lời Nói cuối của Tony Judt do ông này viết tại New York vào ngày 5 tháng Bảy năm 2010 – chỉ mấy tuần trước ngày ông từ giã cõi đời vào tháng 8 năm 2010. Mỗi chương đều có nhan đề riêng biệt, điển hình như sau :

ñ  Chương 3 : Familial Socialism : Political Marxist

ñ  Chương 5 : Paris, California : French Intellectual.

ñ  Chương 6 : Generation of Understanding : East European Liberal

ñ  Chương 7 : Unities and Fragments : European Historian

ñ  Chương 9 : The Banality of Good : Social Democrat.

Phần cuối sách còn có 6 trang kê khai rất nhiều tác phẩm được hai tác giả đề cập thảo luận tới trong các cuộc đối thọai. Cuốn sách thật hấp dẫn lôi cuốn đối với người đọc – vì trong nội dung mỗi đề tài thảo luận giữa hai tác giả, thì đều ghi xen lẫn cả nhiều chi tiết về quá trình sinh sống, gặp gỡ quen biết với các chuyên gia đày tài năng khác và cả sự miệt mài say sưa trong công việc nghiên cứu không biết mệt mỏi – đó là tính chất đặc trưng của Tony Judt.

3 – Vì chủ đề của những cuộc trao đổi thảo luận quá rộng rãi – bao quát nhiều khía cạnh của lịch sử tư tưởng và sinh họat chính trị tại Âu châu suốt trong thế kỷ XX, nên việc tóm lược cho thỏa đáng về những điểm cốt lõi của cuốn sách là một công việc hết sức khó khăn – nhất là lại phải gói gọn trong một bài giới thiệu không thể kéo dài quá 3,000 chữ như thường lệ. Do vậy, tôi chỉ xin nêu ra vài ba khía cạnh đặc trưng đáng chú ý nhất trong tác phẩm – đặc biệt đối với số người Việt vốn từng quen theo dõi tình hình sinh họat chính trị tại nước Pháp. Đó là nội dung được trình bày trong phần III sau đây.

III – Những khía cạnh đáng chú ý nhất trong cuốn sách.

1 – Cách tiếp cận của người vừa ở trong cuộc, vừa ở ngòai cuộc.  (Insiders/Outsiders Approach)

Như tác giả Timothy Snyder đã ghi trong Lời nói đầu, Tony Judt vừa là người trong cuộc, vì ông dấn thân họat động cụ thể trong một số lãnh vực như một người trí thức nhập cuộc (intellectuel engagé) – mà ông cũng còn là người ngọai cuộc, vì ông chủ trương theo đuổi cái viễn kiến rộng rãi hơn, thông thóang hơn của một nhà nghiên cứu lịch sử vốn đòi hỏi một tinh thần bao quát khách quan hơn. Điều này khác biệt với phong cách của một nhà viết tiểu luận (essayist) vì ông này cần bày tỏ lập trường nhận định của mình với sự xác tín và nhiệt huyết của cá nhân mình trong bài viết – mà không bó buộc phải cân nhắc đắn đo với những đối chiếu thận trong của một nhà viết sử.

Cụ thể là Tony lúc ở tuổi 16 – 20, thì đã từng về bên nước Do Thái để tham gia xây dựng tại các kibbutz. Nhưng sau này Tony lại có ý kiến khác hẳn với chủ trương của nhà đương quyền ở xứ này. Cũng vậy, Tony theo truyền thống Marxist trong gia đình, nhưng khi trưởng thành chín chắn, thì lại theo đường hướng Xã hội Dân chủ mà ông coi là nhân bản tốt đẹp hơn hẳn chế độ tàn bạo sắt máu trong hệ thống cộng sản do Liên Xô đứng đầu. Và nhờ tiếp cận thân thiết với giới trí thức lưu vong từ Đông Âu sau năm 1968, mà Tony có cơ hội thấu hiểu cặn kẽ hơn về cái bối cảnh tòan diện chính trị xã hội và văn hóa của cả hai phía Đông Âu và Tây Âu – điều mà ít có người thức giả thực hiện được.

2 – Nhận định phê phán về Giới Trí thức của nước Pháp.

Là một nhà nghiên cứu lâu năm về tình hình chính trị cận đại của nước Pháp, Tony Judt đã trình bày những nhận xét hết sức rõ rệt sắc nét về giới Trí thức của Pháp trong thế kỷ XX. Tony thẳng thừng phê phán những trí thức thiên tả hàng đầu của Pháp như Jean Paul Sartre, Maurice Merleau-Ponty, Simone de Beauvoir … là những người cố chấp, thiên vị đến độ mù lòa (blindfully) đồng lõa với chủ trương tàn ác của Staline. Họ coi cách mạng ở Nga năm 1917 là sự tiếp nối của cách mạng Pháp năm 1789. Tony coi họ có tinh thần điạ phương cục bộ, khư khư bám víu vào cái hư danh của truyền thống cũ kỹ cổ xưa của mình (parochial). (Xin đọc chi tiết nơi cuốn “Past Imperfect : French Intellectuals, 1944 – 1956 – xuất bản năm 1992)

Trái lại, Tony Judt lại đề cao những trí thức như Léon Blum, Albert Camus và Raymond Aron là những người đã có sự dũng cảm đi ngược lại cái khuynh hướng thiên tả cố chấp của đa số trí thức đương thời – để nói lên sự cảnh báo trước nguy cơ bành trướng của khối cộng sản Liên Xô kể từ sau năm 1945. Ông đã viết cả một cuốn sách nhỏ xuất bản năm 1998 dưới nhan đề là “The Burden of Responsibility…” đề cập chi tiết hơn về ba nhân vật này.

Trong cuộc đàm đạo với Timothy, thì Tony còn thuật lại vào tháng 2 năm 1948, cựu lãnh đạo Mặt trận Bình Dân ở Pháp năm 1936 (Front Populaire) là chính Léon Blum đã phải viết trong bài xã luận của tờ báo Le Populaire của Đảng Xã hội rằng : Ông nhận sự sai lầm của mình khi tin rằng phe Xã hội có thể hợp tác với phe Cộng sản” (trang 214) .

3 –  Về chính sách kinh tế, Tony Judt bênh vực John Maynard Keynes.

Giữa hai quan điểm đối nghịch của John Maynard Keynes là kinh tế gia người Anh giữa thế kỷ XX và của Friedrick Hayek người gốc Áo quốc gần đây, thì Tony Judt có vẻ thiên về tác giả Keynes là người cổ võ cho chính sáchTòan dụng trong nền Kinh tế Vĩ mô (Full Employment in Macro-economics) – mà ông coi là bổ túc cho khuynh hướng của chủ trương kế họach hóa do Sir William Beveridge đề xuất ở nước Anh. Tony biện minh rằng chủ trương của Keynes có tính cách mềm dẻo linh động, chứ không có sự khe khắt khắc nghiệt làm tê liệt sáng kiến của giới doanh nhân –  như Hayek đã nặng nề phê phán, đặc biệt trong tác phẩm nổi danh “The Road to Serfdom” của ông (Con Đường dẫn đến Sự Nô dịch).

Tony coi trọng thành quả của Tây Âu là đã xây dựng vững chắc được các định chế dân chủ và đặt nền móng sâu rộng cho một số quốc gia có nền phúc lợi xã hội khả quan (The Social Welfare State). Đặc biệt là sự thành công của chế độ Dân chủ Xã hội tại các quốc gia ở Bắc Âu châu (Social Democracy).

IV – Để tóm lược lại.

1 – Tuy chủ đề của cuốn sách quá rộng lớn bao quát, nhưng vì nội dung của các buổi thảo luận được trình bày xen kẽ với nhiều chi tiết sinh động về tiểu sử có tính cách tự thuật của Tony Judt, nên người đọc dễ theo dõi câu chuyện với sự thích thú kỳ diệu mà lại nhẹ nhàng. Cả hai tác giả đều là những nhà giáo – nhà nghiên cứu uyên bác và đã từng có những tác phẩm được đánh giá cao trong học giới cũng như trong công chúng độc giả. Vì thế, sự trình bày của họ trong cuốn sách thì rất là phong phú khúc chiết – nó giúp chúng ta có được một cái nhìn tổng hợp về tư tưởng và hành động của giới trì thức tiêu biểu tại Âu châu trong thế kỷ XX. Có thể nói các tác giả đã cung cấp cho người đọc một thứ lộ đồ (a road map) để khám phá cái không gian tư tưởng cực kỳ bao la đa dạng và phức tạp của thế kỷ XX.

2 – Đúng như nhan đề của bài viết, cuốn sách này là một thứ tự thuật của Tony Judt về quá trình nhập cuộc của bản thân mình trong sự tìm kiếm một giải pháp thỏa đáng cho xã hội đương thời. Mà đồng thời các tác giả cũng trình bày những nét chính yếu về vai trò của tòan thể giới trí thức ở Âu châu trong sinh họat chính trị văn hóa suốt thế kỷ XX. Các tác giả cũng bày tỏ sự lạc quan và xác tín của mình trước viễn tượng của một nền Dân chủ Xã hội mà các thế hệ trẻ của thế kỷ XXI có thể xây dựng được – sau khi rút kinh nghiệm từ những thất bại của các thế hệ đàn anh của thế kỷ XX.

Người viết xin hân hạnh được giới thiệu với quý bạn đọc cuốn sách rất hấp dẫn lôi cuốn và cũng thật có giá trị vững chắc này vậy./

Costa Mesa California, Tháng 12 năm 2012

Đoàn Thanh Liêm

40 NĂM NHÌN LẠI: NGƯỜI VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ

40 NĂM NHÌN LẠI: NGƯỜI VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ

Chu Tất Tiến

SỰ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM

1-Di tản, tị nạn, vượt biên, và định cư

Biến cố năm 1975 tại Việt Nam cũng là một biến cố cho Hoa Kỳ, vì trước và ngay khi miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản, môt làn sóng dân Việt tị nạn chính trị đã đổ ào ạt vào nước Mỹ, làm xáo trộn nhiều sinh hoạt của đất nước này. Những năm đó, có rất ít người Việt đến Mỹ và thường đến theo diện hôn nhân với người Mỹ, và một số nhỏ đi du học rồi ở lại luôn. Theo tài liệu của cơ quan Di Trú và Quốc Tịch Mỹ, thì từ 1950 đến 1974 chỉ có 650 người. Nhưng từ tháng 4 năm 1975, với sự cứu vớt nhân đạo của người Mỹ, hàng triệu người Việt đã đến qua nhiều phương tiện di chuyển. Ngay trong những tháng mùa Xuân 1975, đã có 125,000 người được phi cơ hay tầu thủy của Mỹ đưa sang các trại tạm cư tại Philippines và Guam. Từ các trại tạm cư này, người Việt di tản đã được định cư tại nhiều nơi trên đất Mỹ, đăc biệt là tại California và Texas. Trong đợt di tản này, đa số là những người có học vấn cao, từng giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam, hay những người có liên hệ trực tiếp với người Mỹ, nhân viên của Sứ Quán Mỹ hoăc các công ty Mỹ tại Việt Nam.

Sau đợt di tản chính thức do chính phủ Mỹ thực hiện đó, vì hãi sợ chế độ hà khắc của Cộng Sản, người miền Nam đã tự túc rời bỏ quê hương mình bằng các phương tiện tự túc và tự chế. Đa số vượt biên trong những chiếc tầu đánh cá, hoặc dùng các máy chạy dầu “2 block” hoặc “3 block” đầu bạc gắn vào các ghe dài từ 10 đến 15 mét. Những con tầu vượt đại dương này có thể chứa 50 người thoải mái, nhưng cũng có nhiều trường hợp chất đến hơn 100 người nằm xếp như cá hộp trên tầu, không có phương tiện ăn uống hoặc vệ sinh. Nếu không có tầu đánh cá lớn như thế, nhiều người phải vượt biển bằng bè, bằng ghe nhỏ, có gắn “đuôi tôm” hay máy xay nước mía, chạy chậm rì và dễ lật. Có một trường hợp đi biển bằng bốn thùng “phuy”, trước đựng xăng, gắn lại thành môt cái bè đơn sơ cũng ra tới biển và được tầu lớn đón đi. Vì không có sự bảo vệ nào cả, nên những người đi ghe thường bị hải tặc tấn công, hãm hiếp, và bị giết chết dưới những hình thức tàn bạo. Một số khác chết vì đói, bệnh, hoặc tấp thuyền vào những cồn san hô, không có thực phẩm. Theo ước tính của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, dựa trên tỷ lệ số người đến được các trại tị nạn và số người mất trên biển, cùng với sự ước tính những người thân trong gia đình đã vượt biên và bị giết chết, có đến vài trăm ngàn người bị chết trên biển trước khi đến bờ Tự Do. Một số không nhỏ đã bị hãm hiếp hay bị giết chết ngay trên đất liền của Thái Lan và Mã Lai hoặc tại những đảo nhỏ trong vùng Đông Nam Á. Vài trường hợp, người vượt biên được tầu cá Thái Lan đưa vào đất liền để hãm hiếp xong, thì kéo ghe ra xa, rồi đâm tầu cá Thái Lan vào tầu vượt biên, cho chìm. Một số trường hợp khác bị Công An Cộng Sản Việt Nam bắt, và cũng bị hãm hiếp, sau khi công an đã thu hết vàng bạc trong người. Một người mới được thả ra từ tay Công An Cà Mâu cho biết, sau khi Công An đã lột hết tiền bạc dấu trong người vượt biên, đã cho người vượt biên trở lại tầu của mình và đi tiếp, nhưng giữ lại ba cô gái đẹp nhất. Sau đó, thì không ai nghe thấy tin tức gì của ba người bất hạnh đó cả.

Hầu như gia đình nào ở các tỉnh thành lớn miền Nam đều có thân nhân vượt biên. Những năm đầu sau 1975, đa số người vượt biên là những người có phục vụ trong chính quyền cũ, hoặc có liên hệ đến các viên chức, quân sự cũng như dân sự. Họ đã phải rời quê hương để tránh bị tắm máu, bị giết dần mòn trong các trại tù khổ sai được gọi là “Trại Học Tập Cải Tạo”. Vì thế, số người vượt biên vì kinh tế thì rất ít. Nhưng đến khoảng 1978, sau các đợt “đánh tư sản”, đổi tiền, chống người Hoa Kiều ở Viêt Nam, thì số vượt biên tăng dần với các người dân thường, không dính dáng gì đến chế độ cũ. Nhận thấy đây là cơ hội làm giầu, một số nhà cầm quyền Cộng Sản địa phương cho tổ chức các cuộc vượt biên “bán chính thức” để các người Việt gốc Hoa được ra đi, sau khi nộp cho giới cầm quyền ở địa phương nhiều lạng vàng (được gọi là “cây”). Nhiều chuyến tầu lớn ra khơi với năm, sáu trăm người và đã đổ bến Tự Do an toàn, ít bị hải tặc tấn công vì có máy mạnh và đã có đề phòng sẵn. Các cuộc vượt biên này rầm rầm rộ rộ tại các bãi đáp, tưởng như không bao giờ dứt. Nhưng đến khi thấy lấy tiền và vàng quá dễ dàng, lòng tham của công an, bộ đội bùng lên tới cao độ khiến họ tổ chức những cuộc vượt biên giả, để giết người, thu vàng. Bao nhiêu người chết chìm trên sông, khi chưa ra tới biến. Cách thức giết người của Công An thì đơn giản: cho tầu ra giữa dòng sông, đợi đến đêm, thì công an gọi lần lượt từng người bước ra ngoài, nói là chuyển lên tầu lớn, nhưng khi vừa chui ra khỏi mui thì bị đập một cây gỗ có gắn đinh vào đầu, rồi bị đá xuống sông. Sau khi số người chết chìm trên sông tăng lên một cách kinh hoàng, một phụ nữ thoát thân được sang đến Mỹ, thì gửi thư đến tất cả các cơ quan cầm quyền Hà Nội, tố cáo hành vi dã man này ròng rã hai năm, thì Hà Nội mới đánh hơi thấy đây là chuyện lớn, nên bắt đầu thanh trừng nội bộ, xử tử những tay công an tham lam tổ chức vượt biên giả để cướp của, giết người, trong số này có cả Giám Đốc Công An Tỉnh, khiến cho các cuộc vượt biên sau này trở nên khó khăn hơn. Nhưng bất chấp tất cả nguy hiểm, bị công an bắt tù, bị hải tặc hãm hiếp và giết chết, các tầu chở người vượt biên vẫn tiếp tục lên đường, trong số này có nhiều trẻ em, phụ nữ, nông dân, và thợ thuyền. Những người sống sót được cứu vớt đem vào các trại tị nạn tại Thái Lan, Singapore, Mã Lai, Philippine, và Hồng Kông. Từ các trại này, người di tản được đi các quốc gia nào đã cứu vớt họ. Nếu không có người thân nào ở các nước đó, hay nếu được thân nhân bảo lãnh, người tị nạn sẽ được đưa vào Mỹ.

Nói đến trại tị nạn Hồng Kông, người ta không quên một vấn đề đặc biệt: sự phân biệt giữa người tị nạn từ miền Nam và miền Bắc. Khi tin tức về các người tị nạn được sinh sống ở Mỹ và các nước khác lan đến miền Bắc Việt Nam, thì một số dân chúng ở đây cũng tìm cách ra đi, tuy không phải là đối tượng bị theo dõi, và bị bắt. Người vượt biên từ miền Bắc, vì gần với Hồng Kông nên cho tầu đến thẳng nơi đây. Từ đó, nẩy sinh ra sự phân biệt, kình chống giữa hai thành phần, người vượt biên từ miền Nam và người vượt biên từ miền Bắc, trong đó, có một số lớn là “dân đầu gấu”, tức là du đãng Hải Phòng. Với tiếng nói khác nhau, lý tưởng khác nhau, nên xẩy ra nhiều cuộc xung đột tay chân, cả hai bên dàn quân ra đánh nhau, khiến cho cơ quan cứu trợ phải chia ra hai lằn ranh, dân miền Bắc và dân miền Nam. Vì những người vượt biên từ miền Bắc không được Mỹ nhận, nên đa phần họ đã được chở sang Anh và định cư ở đây.

Do hoàn cảnh như trên, đơt người đến Mỹ sau này đã thành một trở ngại lớn cho các nước phương Tây và nhất là Mỹ. Họ không biết nói tiếng ngoại quốc cũng như chẳng có học vấn hay khả năng chuyên môn để thích ứng với môi trường mới. Phải mất nhiều năm, với sự giúp đỡ của chính quyền sở tại, những người đến sau này mới hội nhập được vào cuộc sống mới. Tại Mỹ, vì tính cần cù, chịu khó, và được sự bảo trợ của người bản xứ, nên khoảng 10 năm sau, một số lớn đã có thu nhập cao, đặc biệt là những người quen nghề đi biển đánh cá, tụ tập nhiều ở tiểu bang Louisiana và Texas. Nhiều người di tản đã trở thành triệu phú.

2-Bảo Lãnh và Chương trình H.O.

Những người đến Mỹ trước, sau khi nhận được thẻ xanh, thì bắt đầu lo bảo lãnh để đưa thân nhân qua. Tuy biết rằng những người sang Mỹ theo diện bảo lãnh thì không được trợ cấp về ý tế hay tài chánh, nhưng những đơn xin bảo lãnh cứ tăng dần, và số người Việt trên đất Mỹ bắt đầu đông đảo. Người trước hướng dẫn người sau rồi tụ họp thành nhiều trung tâm Việt Nam lớn với những điều kiện sinh hoạt giống như ở Việt Nam. Thực phẩm Việt Nam bắt đầu xuất hiện đầy dẫy trong các chợ Việt với đa số chủ nhân là người Việt gốc Hoa, chỉ có một số ít là do người Việt làm chủ. Các tiệm ăn, bán trang phục và các văn phòng dịch vụ, tiện nghi khác cũng mọc lên như nấm.

Đến đầu năm 1990, chương trình H.O. bắt đầu được thực hiện để đưa những quân nhân và viên chức hành chánh từng đi tù Cộng Sản đến Mỹ một cách chính thức với gia đình. Danh xưng H.O. này, thật ra, đã bị hiểu nhầm. Chính phủ Mỹ đã cho từng đợt người di tản dưới số hiệu từ A, B, C. Đến chữ H, thì vào đúng lúc dành cho những người từng ở tù cải tạo, và đợt đầu tiên là H.0 tức là H.Zero. Rồi H.01, H.02, H.03…Vì không hiểu ý nghĩa của danh xưng này, nên một số người diễn giải là: Human Organization, Humantarian Organization.. rồi dần dần biến thành H.Ô. Những người đến nước Mỹ dưới diện H.O này, được trợ cấp trong 2 năm, rồi phải tự tìm cách hội nhập vào đời sống mới. Vì đã từng là cấp chỉ huy quân sự hoặc dân sự, nên các đợt H.O sau này đều nhanh nhẹn thích hợp ngay với quê hương thứ hai này. Chỉ sau 5,7 năm, cùng với những người đi trước, số người Việt đi theo diện H.O. đã thành công trên nhiều lãnh vực, do chính bản thân hay từ con cái, thuộc thế hệ thứ 2. Nhận thấy rằng, mình là người đến sau, không thể cạnh tranh với người đến trước, nếu không có học vấn. Do đó, các bậc cha mẹ đã hết sức khuyến khích con cái đi học ngay. Vì thế, đa số thế hệ thứ hai tốt nghiệp từ các trường chuyên môn như Y Khoa, Dược Khoa, Nha Khoa, Tài Chánh, Thương Mại. Có gia đình có đến 10 y sĩ, vừa dâu vừa rể, vừa con ruột, là Bác Sỹ Y Khoa, Dược Sĩ, hay Nha Sĩ. Một số lớn có thế hệ thứ hai toàn là Kỹ Sư, Cử Nhân.

Theo thống kê năm 2010, kể cả những người con Lai Mỹ được sang Hoa Kỳ, có 1,548,449 người Việt trên đất Mỹ, hoặc 1,737,433 người Việt hòa nhập với các quốc tịch khác qua hôn nhân, tạo thành một khối Á Châu đứng hàng thứ tư trong toàn khối người Á Châu gốc Mỹ. Người Việt được phân phối (1) như sau:

– California: 581,946

– Texas: 210,913

– Washington: 66,575

– Florida: 58,470

– Virginia: 53,529

– Georgia: 45,263

– Massachusetts: 42,915

– Pennsylvania: 39,008

– New York: 28,764

– Louisiana: 28,350

Trên đây là những con số có tính cách khái quát. Thực tế, người Việt di chuyển và đổi chỗ ở nhiều lần qua nhiều tiểu bang để tìm nơi có công ăn, việc làm thích hợp. Thực tế cho thấy, người Việt đổ dồn về California vì khí hậu ở đây ấm áp, ít lụt và không có bão mạnh, chỉ có động đất, nhưng với lý luận, “Trời kêu ai, người nấy dạ”, họ chấp nhận động đất như là môt phần trong sinh hoạt, không có gì đáng lo ngại. Đến năm 2010, đã có 183,766 người ở Quận Cam, miền Nam California. Tập trung nhiều nhất là vùng Westminster, nơi đây được đặt tên chính thức là Little Saigon. Bên cạnh đó, là các thành phố đầy người Việt Nam như Garden Grove và Santa Ana. Miền Bắc California, với San Jose là nơi tập trung nhiều người Việt di tản nhất, sau đó mới đến những thành phố xa như Sacramento, Monterey..

Về việc nhập tịch, người Việt cũng là thành phần nhận được quốc tịch Mỹ nhiều nhất và nhanh nhất so với một số sắc dân khác. Theo American Community Survey năm 2006, 72% người Việt sinh ở nước ngoài trở thành công dân, cộng với 36% sinh tại Mỹ, làm cho số người được Việt được nhận quốc tịch Mỹ là 82%.

SỰ PHÁT TRIỂN

1- Tín ngưỡng và lập trường chính trị.

Về tín ngưỡng, đa số theo đạo Thiên Chúa gồm Công Giáo và Tin Lành. Người theo Công Giáo nhiều nhất. So với 6% người theo Công Giáo khi còn ở trong nước, họ đã nâng tổng số người Việt Công Giáo là 23% của toàn thể người Mỹ gốc Việt. Sau khi đã ổn định đời sống vật chất, người Việt bắt đầu nghĩ đến việc tham gia vào dòng chính, qua các sinh hoạt chính trị như ghi tên gia nhập Đảng. Vì một số người có sự hiểu lầm là Đảng Cộng Hòa thế nào cũng phải ủng hộ người thuộc Việt Nam Cộng Hòa, nên đã gia nhập Đảng Cộng Hòa. Một số người còn tin rằng Đảng Cộng Hòa thế nào cũng giúp người Việt tị nạn đánh lại Cộng Sản. Họ đã không hiểu rằng, đảng nào cũng vì quyền lợi của đất nước Hoa Kỳ mà thay đổi chính sách. Không có đảng nào thương yêu người Việt cách riêng cũng như không có Đảng nào ghét bỏ người Việt. Vì vậy, thực tế cho thấy có 29% theo Cộng Hòa, trong khi chỉ có 22% theo Dân Chủ. Riêng tại Orange County, California, vì số người định cư ở đây đa phần là người thuộc chế độ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam nên có 55% ghi danh theo Cộng Hòa và 22% theo Dân Chủ. Theo National Asian American Survey, năm 2004 có 72% bỏ phiếu cho George Bush, trong khi có 28% bỏ cho John Kerry. Năm 2008, có tới 2/3 dân Việt bỏ phiếu cho John Mccain. Tuy nhiên, số người trẻ thuộc thế hệ thứ 2 lại ưa đảng Dân Chủ. Trong kỳ bầu cử năm 2008, có tới 60% người trẻ bỏ phiếu cho Barack Obama.

Trong sinh hoạt chính trị nước Mỹ, cộng đồng người Mỹ gốc Việt tỏ ra ồn ào nhất với rất nhiều cuộc biểu tình, mít tinh chống Cộng. Vụ Trần Trường nổ ra tai miền Nam California, lôi kéo tới hơn 22,000 lượt người tham gia biểu tình mỗi đêm trong suốt gần 1 tháng. Hầu như tối nào cũng có biểu tình. Cờ vàng rực trời California. Âm thanh của nhạc khí và tiếng ca chống Cộng vang động cả một góc trời. Trong khi biểu dương khí thế chống Cộng mạnh mẽ như thế, thì người Việt cũng âm thầm tham gia ứng cử vào các chức vụ chính quyền. Khởi đầu là ông Tony Lâm, một người làm thương mại, ứng cử mà không có đối thủ người Việt nên được bầu làm Nghị viên thành phố Westminster với đa số phiếu từ người Mỹ gốc Việt. Sau đó, đến Luật Sư Trần Thái Văn cũng dành được một ghế trong Quốc Hội California một cách vẻ vang. Rồi đến Janet Nguyễn, mới đầu đắc cử nghị viên thành phố Garden Grove, sau vươn lên, đắc cử Giám Sát Viên Quận Cam, chi phối ảnh hưởng của mấy tỉnh miền Nam. Trong lần tranh cử này Janet Nguyễn chỉ thắng đối thủ là Luật Sư Nguyễn Quang Trung có 3 phiếu.

Sự tham dự đông đảo vào dòng chính làm cho người Mỹ sở tại quan tâm đến cộng đồng Việt nhiều hơn trước, nhất là sau khi thành phố có 3 nghị viên là người Mỹ gốc Việt: Tạ Đức Trí, Andy Quách, và Diệp văn Trường. Bên thành phố Garden Grove, Luât Sư Dina Nguyễn tại vị trí Nghị Viên được mấy nhiệm kỳ rồi. Dựa vào sức mạnh của các vị trí chính trị, Trần Thái Văn, Tạ đức Trí, Andy Quách đã tạo được một kỳ tích đáng kể: Làm luật cấm không cho Cộng Sản Viêt Nam được đi qua thành phố, và quyết định cho phép tôn vinh lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa được treo chính thức trước thềm sảnh thành phố và các địa điểm công cộng khác, mà không cho treo cờ của Cộng Sản Việt Nam. Từ chiến dịch phát động khởi đi từ Westminster, California, cho tới nay, đã có 13 Tiểu Bang, 7 Quận hạt và 85 thành phố chấp nhận lá cờ Việt Nam Cộng Hòa là đại diện chính thức của nước Việt Nam.

Tại Houston, Texas, theo gương miền Nam California, Dân Biểu Hubert Võ cũng được đắc cử vẻ vang. Tại Houston, người Việt đầu tiên được bầu làm Nghị Viên thành phố: Luật Sư Hoàng Duy Hùng. Người Việt ở Texas lấy làm hãnh diện về việc này. Tuy nhiên, niềm hãnh diện của người Việt không kéo dài, vì Nghị Viên Hoàng Duy Hùng, sau khi đắc cử, lại thay đổi lập trường chống Cộng, để thiên về khuynh hướng hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản Việt Nam. Cùng với Thị trưởng Houston, ông thu xếp một cuộc nói chuyện với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn và dàn xếp buổi đối thoại giữa thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn với cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ năm 2013, rồi sau đó theo lời mời của Nguyễn Thanh Sơn, ông chính thức về Việt Nam bàn thảo việc hòa hợp, hòa giải, nhưng không thành công. Ngược lại, ông còn bị cộng đồng chống đối một cách tích cực khiến ông thất cử trước Richard Nguyễn,một nhân vật ít được cộng đồng biết đến. Còn ở Louisiana, Luật Sư Cao Quang Ánh, thuộc đảng Cộng Hòa được đắc cử vào chức vụ Dân Biểu Liên Bang, nhưng chỉ được một nhiệm kỳ và phải nhường lại cho người địa phương, Cedric Richmond thuộc Dân Chủ, vì đại đa số dân ở đây là người theo đảng Dân Chủ. Sau khi bất ngờ bị Cao Quang Ánh, một đảng viên Công Hòa thắng thế, đảng Dân Chủ dồn hết sức mạnh lại và đánh bật Cộng Hòa ra khỏi chức vụ này.

Hiện nay, năm 2014, trên nước Mỹ, có hai viên Thị Trưởng người Mỹ gốc Việt tại miền Nam California: Thị Trưởng Tạ Đức Trí, thành phố Westminster và Thị Trưởng Michael Võ, thành phố Fountain Valley. Ông Tạ Đức Trí, nguyên Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam California, đắc cử vẻ vang chức Thị Trưởng qua một cuộc bầu cử sôi động, còn ông Michael Võ, một chuyên viên về Bảo Hiểm, và là chủ môt trường dậy lái xe, đã được hội đồng thành phố chọn, không qua thể thức bầu cử công khai. Với thành phố Garden Grove, Luật Sư Nguyễn Quốc Lân đang đảm nhiệm chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Giáo Dục, điều hành gần 100 trường trung học và tiểu học trong khu vực. Miền Bắc California, có nghị viên Madison Nguyễn, đắc cử trong sự phân rẽ của người Việt tị nạn. Nhiều cuộc biểu tình chống Nghị Viên này khi bà chống lại các đề nghị đặt tên “Little Saigon” cho khu phố Việt Nam tai San Jose. Tại Texas, Luật Sư Hoàng Duy Hùng, môt người từng tranh đấu cho Dân Chủ tại Việt Nam, cũng đắc cử Nghị Viên dựa trên lá phiếu của cộng đồng tị nạn, nhưng sau khi đắc cử, ông đã có những hành động làm mất lòng đồng hương, như về Việt Nam, tạo cây cầu nối kết liên lạc giữa Việt Nam Cộng Sản và Texas, và tuyên bố nhiều điều tạo cơn phẫn nộ giữa cộng đồng, gây nên nhiều cuộc biểu tình chống đối, nên sau khi hết nhiệm kỳ, ông đã không được đồng hương bỏ phiếu cho ông nữa. Một nhân vật ít được nhắc đến trên báo chí nhưng cũng là môt tiêu biểu cho người Việt thành công: Nghị viên thành phố Haltom: Trương Minh Ẩn.

2-Thành Tựu

Sau hơn 15 năm định cư tại xứ Mỹ, người Việt đã chứng tỏ rằng, với sự cần cù và ý chí tiến thủ, sẽ vượt lên ngang tầm với những cộng đồng khác đến nước Mỹ từ trước cả trăm năm. Một số nhân vật tiêu biểu đã làm rạng danh người Việt:

– Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hạnh, Nguyên Tổng Giám Đốc Định Cư và Tị Nạn, chức vụ cao nhất của người Mỹ gốc Việt trong hệ thống hành chánh. Ông cũng từng là Phụ Tá Thống Đốc Tiểu Bang California.

– Bà Mary Chi, người Việt Nam đầu tiên được bổ nhậm vào một chức vụ khá quan trọng trong chính quyền: Phó Tổng Giám Đốc Định Cư và Tị Nạn.

– Quách Nhứt Danh, Dược Sĩ, cùng với Triệu Phát, là những người khai phá Little Saigon ở Quận Cam, California. Hai triệu phú này, hiện nay, làm chủ đa số các văn phòng thương mại, dịch vụ tại Little Saigon. Trung Tâm Phúc Lộc Thọ với gần 200 cửa hàng đã mang lại cho khu vực Thủ Đô Tị Nạn này một sinh hoạt linh động, nhất là vào dịp Tết. Số khách đến thăm Chợ Tết ở đây có thể lên đến vài chục ngàn lượt người.

– Trần Đình Trường, Chủ nhân khách sạn lớn tại New York, người luôn hào hiệp mời tất cả những đồng hương đi biểu tình hay tham dự các cuộc diễn hành tại New York đến ngụ tại khách sạn của ông miễn phí.

– Kỹ Sư Trung Dũng, bán sản phẩm của anh: OnDisplay cho Vignette Corporation vào năm 2000 với giá 1 tỷ 800 triệu.

– Châu Nguyễn, xướng ngôn viên Truyền Hình, người Việt đầu tiên nhận giải Regional Emmy Award.

– Lệ Lý Hayslip, tác giả cuốn “Khi Trời và Đất thay ngôi”, sau đã được chuyển thành phim “Trời và Đất” (Heaven and Earth) bởi Oliver Stone.

– John Quốc Dương là Giám Đốc Cơ Quan Châu Á Thái Bình Dương, chuyên cố vấn cho Tổng Thống về những vấn đề thuộc châu Á.

– Stephanie Trọng, Tổng Biên Tập tờ báo Jane Magazine.

– Huỳnh Công Út, tự Nick Ut, nhiếp ảnh gia, người Việt đầu tiên đoạt giải Pulitzer và giải Báo Chí Thế Giới.

– Mina Nguyễn – Deputy Assistant Secretary cho Business Affairs và là Public Liaison tại Bộ Tài Chánh.

– Phi Hành Gia, Tiến Sĩ Eugene H. Trinh – người Việt đầu tiên vào không gian.

– Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Bộ Trưởng Kế Hoạch Việt Nam Cộng Hòa, Giáo Sư tại Howard University.

– Tiến Sĩ Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, Giáo Sư về Kỹ Sư Không Gian, University of Michigan, người Việt đầu tiên nhận giải Dirk Brouwer

– Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh, người lãnh đạo toán Kỹ Sư và Khoa Học Gia chế tạo ra Bom Áp Nhiệt dùng trong trận chiến Afghanistan.

– Trịnh Xuân Thuận – author,

– Võ Đình Tuấn, nhà sáng tạo, giáo sư và Giám Đốc Fitzpatrick Institute về Photonics của Duke University

– Nguyễn Hữu Xương, giáo sư Sinh Học, University of California, người khai thác việc nghiên cứu về bệnh Aids, sáng tạo ra X-ray Multiwire Area Detector –

– Tiến sĩ Nguyễn Định, nghiên cứu hỏa tiễn chống hỏa tiễn. Trưởng công trình nghiên cứu chế tạo loại vũ khí mới mang tên Free Electron Laser (FEL)

– Sinh viên gốc Việt 22 tuổi tên Kevin Lương, sinh viên năm cuối khoa Vô tuyến và Viễn thông. Cùng một nhóm bạn chế tạo ra hệ thống liên lạc với Vệ Tinh một cách hoàn hảo.

– Nhiều Bác Sĩ Mỹ gốc Việt được vinh danh vì những nghiên cứu y khoa đặc sắc hoặc vì tài năng hiếm có. Một Giáo Sư Y Khoa UCLA, khi mất, cả trường treo cờ rũ. Việc treo cờ rũ này chỉ được thực hiện với các vị Hiệu Trưởng hay Hiệu Phó của trường Đại Học. Một số lớn các Bác Sĩ Việt Nam đã được bổ nhậm làm Trưởng Khoa trong các bệnh viện lớn, hay Giáo Sư Chính Thức của các trường Đại Học Y Khoa. Bác Sĩ Giáo Sư Lương Vinh Quốc Khanh, Chủ Tịch Cơ Quan Nghiên Cứu Y Khoa Việt Mỹ (Vietnamese-American Medical Research Foundation) ở Nam California, thành viên của 7 Viện Y Khoa Hoa Kỳ, là người được Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên dương và ghi vào hồ sơ Quốc Hội (Record of The United States House of Representatives) về những thành tích đặc biệt của ông. Thượng Viện California cũng tặng ông một bản Vinh danh về sự nghiên cứu thâm sâu của Bác Sĩ Giáo Sư Y Khoa Lương Vinh Quốc Khanh. Ông là “người ngoài” (outsider) duy nhất được mời làm Editor cho Tập San Y Khoa của Hoàng Gia Anh là một cơ quan cổ kính và bảo thủ qua nhiều thế kỷ.

– Thành công trong Quân Đội Hoa Kỳ:

Hiện nay có 13 vị Đại Tá Hải Quân người Mỹ gốc Việt: Lê Bá Hùng, Dương Ngạn Hữu, Đỗ H Thủy, Trần Quốc Bảo, Phạm Tùng Xuân, Thiện Douglas, Doan William Ray II, Huynh Thanh T, Lac Tri H, Nguyen Mark Minh Duy, Tran Jim T, Liebig Tina Tran, Duong Thanh X. Trong số này, có Đại Tá Lê Bá Hùng, là người gốc Việt đầu tiên giữ chức vụ Hạm trưởng của một chiến hạm Hải quân Hoa Kỳ. Những Đại Tá này, trong tương lai, sẽ được vinh thăng cấp Phó Đề Đốc, tương đương với cấp Tướng trong Bộ Binh. HQ Đại tá Dương Hữu Ngạn, Chỉ huy trướng Phi đoàn 116, trang bị phi cơ E-2 Hawkeye Radar tiền thám Carrier Airborne Early Warning Squadron 116. Ngoài các vị Đại Tá, còn rung Tá Tuyên uý Linh mục Đặng Văn Chín, Tuyên uý trưởng, Bộ chỉ huy yễm trợ tiếp vận Hài quân Hoa Kỳ tại Brahan, nguyên Trung uý Hải Quân VNCH. Trung tá Bác sĩ Hòang Ngọc Tuấn, nguyên Y sĩ trưởng trên Chiến hạm yễm trợ thuỷ bộ USS Peleliu LHA-5, hiện là hiện là Y sỉ trưởng tại Căn cứ Thuỷ quân lục chiến – Camp Penleton, San Diego.

Về Bộ Binh và Không Quân, người Mỹ gốc Việt cũng mang lại niềm hãnh diện lớn lao cho toàn thể dân tộc Việt Nam:

– Chuẩn tướng Lương Xuân Việt, Đại Tá Hùng Cao thuộc Bộ Binh.

– Đại tá Bác sĩ Không quân Huỳnh Trần Mylene, Giám đốc chương trình Y khoa Quốc tế Không quân Hoa Kỳ – Director of The Air Force International Specialist Program.

– Đại Tá Nguyễn Mạnh Hùng, Lực lượng duyên phòng, được giao trọng trách điều tra về vụ dàn khoan Deepwater Hirizon bị chìm làm tràn dầu vùng vịnh năm 2010.

– Trung Tá Thomas Nguyen, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 44, Lữ đoàn 108 Phòng không Lục quân, giúp huấn luyện và phát triễn Quân đội A Phú Hản.

– Trung tá Không quân Nhat Thomas Tran, thuộc Không đoàn viễn chinh 438 (438 Air Expeditionary Wing), giúp huấn luyện và phát triễn Không lực A Phú Hản.

– Đại tá Bác sĩ Không quân Paul Đoàn nguyên là Chỉ huy trưởng các Liên đoàn 332, 379 và 435 Quân y Không quân Viễn chinh, được thăng cấp Đại tá năm 2009. Hiện nay là Chỉ huy trưởng Personnel Reliability Program Quân y, Bộ tư lệnh Không quân Hoa Kỳ. Đại tá Paul Doan là một trong những Đại tá gốc Việt Xuất sắc, có thể được chọn thăng cấp Chuẩn Tướng Quân y Không quân.

Về Nha Khoa, có Nữ Hải Quân Đại Tá Nha sĩ Trần Ngọc Nhung, gia nhập ngành Nha khoa Hái quân Hoa Kỳ năm 1989 trước khi hoàn tất văn bằng Bác sì Nha khoa năm 1990. Được thăng cấp Thiếu tá năm 1996, Trung tá năm 2003, Đại tá năm 2009.

Hiện nay Đại tá Nhung đang phuc vụ tại Denbn Naval Dental Center Camp Pendleton, CA. Cùng làm việc với Đại Tá Nhung là Đại tá Nha sĩ Thu Phan Getka.

Nhưng có lẽ nhân vật đặc biệt nhất được báo chí Mỹ ca ngợi lạ lùng là Thiếu tá Elizabeth Phạm, người phụ nữ đầu tiên lái chiến đấu cơ F-18D Hornet của Quân chủng Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, là một loại phi cơ có động cơ đôi “supersonic”, được chế tạo để thi hành cả hai nhiệm vụ Xung Kích và Tấn Công (Fighter/Attack), bay tới vận tốc Mach 1.8 (1,190 mph hoặc 1,915 km/h ở độ cao 40,000 ft hoặc 12,190 m). Chiếc phi cơ này có thể mang nhiều loại bom và hỏa tiễn, kể cả “không đối không” và “không đối địa”, hỗ trợ bằng đại bác 20mm M61 Vulcan. Với số vũ khí khủng khiếp đó, từ khi được chế tạo đến nay, chưa có phi công nữ nào được chấp thuận cho điều khiển, trừ Thiếu Tá Elizabeth Phạm.

Những cấp dưới như Thiếu Tá, Đại Úy, chuyên viên Việt nam thì nhiều, không kể hết. Có những Luật Sư tình nguyện vào quân đội với cấp bậc Đại Úy hoặc Thiếu tá. Ngược lại, có những Đại Úy, sau khi giải ngũ, thì đi học Luật.

Hải Quân Thiếu tá Luật sư Phan Thanh Chinh Christopher, ngành Quân pháp Hải quân Hoa Kỳ – United States Navy Judge Advocate General’s Corps, Hội trưởng Quân nhân người Mỹ gốc Việt – VAAFA,hiện nay là Nghị Viên thành phố Garden Grove, California, đồng thời là Phụ Tá Biện Lý Quận Cam

– Thể Thao và Giải Trí:

Những thể tháo gia sau đây đã làm rạng danh người Việt hải ngoại trên đất Mỹ;

– Cung Lê (Lê Cung) sinh 1972, từng là Sanshou Kickboxer, hạng Trung Nặng, tại Ultimate Fighting Championship. Anh đã chiếm giải quốc tế, với 16-0, nghĩa là anh thắng cả 16 trận, không thua trận nào. Sau này anh đổi sang Mixed Martial Arts, đánh đủ kiểu. Trong trận đấu với Shamrock, đương kim vô địch Mixed Martial Arts, anh đã hạ Shamrock để chiếm giải vô địch Strikeforce Middle Weight Champion.

– Nam Phan-vô địch hạng lông đấu giải trong lồng MMA. Có nhiều trận thắng chỉ trong 18 giây đầu tiên. Điều đặc biệt, cũng như Cung Lê, anh luôn thủ trong người lá cờ Vàng Ba Xọc Đỏ trong người, để khi vừa thắng giải, anh bung lá cờ ra lồng lộng.

Ngoài ra còn những thể tháo gia khác cũng từng làm dư luận Mỹ chấn động:

– Amy Tran – hockey player.

– Catherine Mai Lan Fox – đoạt 2 huy chương vàng về bơi lội tại Olympic

– Danny Graves – cầu thủ football MLB

– Dat Nguyen – cầu thủ football NFL, huấn luyện viên đội Dallas Cowboys

– Howard Bạch, giải quốc tế về Cầu Lông.

– Jim Parque – Năm 1996, người nhặt banh bằng tay trái trong giải dã cầu tại Olympic và đã đoạt giải huy chương đồng tại Atlanta.

– Lee Nguyen, ngôi sao bóng đá.

– Văn Hóa, Văn Nghệ:

Sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của người Việt hải ngoại có phần rầm rộ. Hàng năm, vào dịp Tết ta, tại các thành phố đông người Việt cư ngụ đều có Hội Chợ Tết, lớn hay nhỏ, tùy số dân Việt cư ngụ tại đó. Nhưng có lẽ, chỉ tại miền Nam California, Hội Chợ Tết do Tổng Hội Sinh Viên tổ chức là hội chợ lớn nhất cho người Viêt tại Hoa Kỳ với hàng trăm ngàn lượt người tham dự. Các chương trình vui Tết được giới trẻ sinh viên dàn dựng được mọi người yêu thích, từ thi Thả Thơ, đến hát Quan Họ, hát nhạc dân ca. Ngay tại trung tâm, luôn luôn có thiết trí Đền Vua Hùng với các quan, lính trang phục cổ xưa là công trình hấp dẫn không những cho người Việt mà còn cho những người ngoại quốc đến tìm hiểu về văn hóa Việt. Những nghi thức cúng, chầu được lặp lại với hàng trăm sinh viên, học sinh trẻ khiến cho người ngoại quốc rất khâm phục. Điều làm cho cộng đồng đến với Hội Chợ Tết Sinh Viên nhiều là vì mục tiêu của Hội Chợ: Chia xẻ tiền lời với các hội đoàn, đoàn thể Quốc Gia. Mỗi năm, số tiền tặng lại cho cộng đồng lên đến gần $100,000,00.

Bên cạnh sinh hoạt hội chợ Tết, còn lễ giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm, đã cuốn hút hàng ngàn người thuộc hai thế hệ đến dự. Tuy chưa có một ngôi đền thờ Tổ nào xứng đáng trên đất Mỹ, nhưng những buổi lễ giỗ Tổ Hùng Vương đã làm cho người Mỹ và các dân tộc khác cảm phục với tinh thần duy trì truyền thống và bảo vệ văn hóa Dân Tộc.

Về văn nghệ, ngay từ những năm sau 1975, trung tâm băng nhạc Thúy Nga Paris đã được hình thành để trình diễn những ca khúc quê hương, với các chủ đề đặc sắc như Vượt Biên, Saigon Huế Hà Nội, và các ca khúc về lính. Băng nhạc Thúy Nga được yêu chuộng trên khắp thế giới cho đến khi Thúy Nga Paris làm chủ đề “Mẹ” thì bị đồng hương phản đối bởi vì trong đó, có những nhạc cảnh có tính cách bôi lọ danh dự Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Trong vài bản nhạc, đạo diễn đã cho chiếu cảnh trực thăng miền Nam thả hỏa tiễn, bắn phá dân chúng đang chạy trốn chiến tranh, ngoài ra, còn hình tượng chim bồ câu đỏ gợi cho người tị nạn nhớ lại lá cờ máu của Cộng Sản. Khi cuộc biểu tình trước cửa tiệm Thúy Nga Paris tại Bolsa lên đến cao điểm, chủ nhân lúc đó của trung tâm băng nhạc này, ông Tô Văn Lai, đã phải lên tiếng xin lỗi đồng hương và cho sửa lại những đoạn xúc phạm đến tinh thần chống Cộng của người Việt hải ngoại.Vì lòng khoan dung và hay quên, nên sau đó, người Việt vẫn tiếp tục tìm đến các buổi trình diễn văn nghệ Thúy Nga rất đông, dù giá vé khá cao. Nhưng đến thập niên 2000, giá trị của băng Thúy Nga có phần giảm thiểu, không còn mang những chủ đề giá trị nữa, mà chỉ thuần túy là băng nhạc giải trí tầm thường với những bản nhạc và hình thức ca múa cũng tầm thường, trong khi trang phục của các diễn viên càng ngày càng thiếu kín đáo. Khán giả từ từ bỏ rơi băng Thúy Nga nhất là sau này, khi Trung tâm băng nhạc Thúy Nga âm thầm đổi chủ cho các chủ nhân là các đại gia ở Việt Nam. Một Youtube từ Việt Nam, (không rõ thành phố nào), phát năm 2014, cho thấy hình ảnh của một dinh thự nguy nga mới được xây dựng với cổng chào lớn đề chữ “Thúy Nga Paris”, và bên trong, một nhà hội cũng có bảng hiệu: “Paris By Night”, và cuối cùng là hình hai vợ chồng trẻ, chủ nhân của ngôi biệt thự đó.

Ngược lại, bên cạnh đó, trung tâm băng nhạc Asia vẫn luôn duy trì tinh thần chống Cộng cao độ với các băng thuần túy về quân đội, về quê hương. Tuy thành phần ca, nhạc sĩ của Asia đa phần là giới trẻ và không nổi tiếng như các ca sĩ bên Thúy Nga, nhưng công đồng vẫn luôn yêu thích vì lập trường chính trị dứt khoát này. Hợp tác với trung tâm Asia từ những ngày đầu, có Nhạc Sĩ, Ca Sĩ Việt Dũng, một thiên tài âm nhạc có tâm hồn yêu nước cao độ và nghệ sĩ Nam Lộc cùng với Leyna Nguyễn, xướng ngôn viên của đài truyền hình Mỹ, đã đem lại cho đồng hương những cảm tình đặc biệt, không thay đổi.

Ngoài ra, còn có Trung Tâm Băng Nhạc Vân Sơn và một số trung tâm khác không nổi tiếng, chuyên trình diễn loại nhạc thu hút giới khán giả bình dân. Những loại băng nhạc này không đạt được tầm cỡ như Thúy Nga Paris hay Asia nhưng cũng là những nét chấm phá đặc biệt của người Việt hải ngoại.

-Báo chí, truyền thanh, truyền hình.

Sinh hoạt báo chí của người Việt trên đất Mỹ khá rầm rộ. Những năm mới di tản, hai tờ báo tuần đầu tiên bằng tiếng Việt trên đất Mỹ là Hồn Việt và Thời Báo. Sau đó, môt loạt báo khác ra đời: Văn Nghệ Tiền Phong, Tay Phải, Vì Dân, Mai, Mới, Saigon Nhỏ…Tờ Người Việt ở California, mới đầu ra 1 tuần 1 lần, sau tăng lên thành Nhật Báo, ra hằng ngày. Tờ nhật báo đi tiếp theo là tờ Việt Báo Kinh Tế, và Viễn Đông, tổng cộng có 3 tờ báo hằng ngày, đều ở California, chiếm một số độc giả khá lớn. Mỗi tờ có từ 10,000 đến 15,000 số. Từ những năm sau, với số người đến Mỹ trong các đợt 1979, rồi 1990, rất đông đảo, nhiều báo tuần, báo tháng (nguyệt san) thi nhau ra đời, trong số đó có tờ Thế Giới Mới ở Texas có số lượng độc giả đông đảo.

Hiện nay, hầu hết các báo đều phổ biến trên Internet, nếu tính cả các báo vừa điện tử vừa báo giấy, người Việt trên đất Mỹ đã ra rất nhiều báo:

Báo Cali Today, Saigon Nhỏ, Sóng Biển, Trẻ Online, Cánh Én, Chân Lý, Chính Luận, Chúa Cứu Thế, Công Giáo Việt Nam, Dân Việt Dallas, Dân Việt Houston, Diễn đàn Thế Kỷ, Hải Ngoại Phiến Đàm, Mạch Sống, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, Lên Đường, Ngày Nay, Người Việt Boston, Saigon Times, Việt Dallas, Viêt Tribune, Việt Vùng Vinh, Việt Nam Human Rights, Tiểu Thuyết Tuần San…

Bên cạnh những tờ báo này, còn nhiều tờ báo không có phẩm chất cao. Có những báo chỉ chuyên đăng quảng cáo và các tin nhảm, mà đồng hương gọi là báo “lá cải” hay “báo chợ”, nghĩa là in xong, thì đem đến các chợ, vất ở dưới đất, tặng không cho người đi chợ. Năm 2000 trở đi, hầu như ở Tiểu Bang nào có người Việt nhiều là có báo tuần. Điều đáng nói là có nhiều chủ báo không hề học qua một chương trình làm báo nào, cũng như không từng có kinh nghiệm làm báo, nên thiếu tư cách đạo đức báo chí. Có báo chỉ lấy chuyện chửi bới, mạ lị người khác hoặc tung tin vịt để câu khách. Có những tờ báo viết sai văn phạm be bét, hình ảnh tục tĩu. Rồi báo nọ chửi báo kia, dành độc giả với văn phong hạ cấp, chụp mũ linh tinh, khiến cho đồng hương mất phương hướng, không còn biết tin ai nữa. Nhiều người nhặt báo về để gói hàng hay để nhồi nhét vào các thùng quà gửi về Viêt Nam. Nhưng theo luật đào thải, những tờ báo lá cải, nội dung kém cỏi, từ từ tàn đi. Cùng thời gian ấy, lợi dụng sự Tự Do của nước chủ nhà, một vài tờ báo bắt đầu tuyên truyền cho Cộng Sản. Tờ Việt Weekly ở thành phố Garden Grove, Quận Cam, mới đầu còn chủ trương chuyên viết “scandal” của đồng hương, gợi sự tò mò của người Việt để lấy độc giả nhưng dần dần đã lộ bộ mặt thật là quảng cáo cho Cộng Sản với những bài phỏng vấn Chủ Tịch nước, Thủ Tướng, Bộ Trưởng, Lãnh Sự Cộng Sản, rồi công khai vinh danh những hoạt động của Cộng Sản ở nước Mỹ. Nổi giận với việc phản bội cộng đồng này, hàng loạt các cuộc biểu tình đã diễn ra trước nơi làm báo Việt Weekly. Các tổ chức chống Công lên đài phát thanh, viết thông cáo trên báo chí, yêu cầu đồng hương không mua và không phổ biến báo Việt Weekly nữa. Từ đó, tờ báo này chìm dần, rồi biến mất trên thị trường. Nhưng không chịu thất bại, tờ báo Việt Cộng Việt Weekly này chuyển sang làm truyền hình trên Net: Phố Bolsa Tivi, chỉ chiếu những chương trình lăng nhăng, ghi chép lại các lần phái đoàn Việt Weekly về Việt Nam, liên lạc với giới chức Cộng Sản. Môt cây viết nhảm trong băng đảng này, Nguyễn Phương Hùng, đã quỳ xuống đất, khóc lóc, năn nỉ Cộng Sản xin tha tội. Các khúc phim này được đưa lên Youtube làm đồng bào phẫn nộ vô cùng.

Về sinh hoat Radio cũng nở rộ tại nhiều tiểu bang. Hầu như mỗi tiểu bang cũng có vài đài phát thanh. Cũng như sinh hoạt báo chí, nhiều đài phát thanh kém phẩm chất, chỉ chuyên phê phán cộng đồng, chụp mũ, và chửi bới lẫn nhau. Vì trình độ làm đài phát thanh kém cỏi, nên các đài lôm côm như thế này không tồn tại lâu. Hiện nay, ở California, chỉ có đài Little Saigon, lâu đời nhất, phát thanh mỗi ngày 14 tiếng, là quảng bá rộng nhất và được tin tưởng nhất vì nhiều chương trình rất trí thức, có nội dung tốt, và chống Cộng rất khoa học. Đài Little Saigon có cơ sở thứ hai ở San Jose, với nữ danh ca Mai Hân đảm trách được rất nhiều người yêu mến. Được đánh giá cao thứ hai là đài Radio Bolsa do ca, nhạc sĩ Việt Dũng và Minh Phượng điều khiển, phát sóng 6 tiếng một ngày, cũng có các tiết mục chính trị cũng như giải trí sôi nổi. Thứ ba là đài Saigon Radio Hải ngoại phát mỗi ngày từ 5 tiếng đồng hồ, được nhiều người theo dõi với chương trình giải đáp thắc mắc về gia đình và xã hội. Ở Dallas, Texas, đài Saigon Viêt Nam cũng phát triển khá lớn, đặc biệt là có chương trình Từ Cánh Đồng Mây do một cựu phi công, nghệ sĩ Phan Đình Minh, chủ trương, chuyên nói chuyện với Dân Oan ở Việt Nam, được phát sóng đi Houston, Dallas và các vùng phụ cận, và được đồng hương yêu mến vì tính chất chống Cộng rất khoa học và trí thức của đài.

Về truyền hình, từ trước thập niên 2000, có những chương trình ngắn trung bình một tiếng đồng hồ, như đài của Họa Sĩ Lương Văn Tỷ và một đài của Mỹ, nhưng do bà Nam Trân điều hành. Đến đầu thập niên 2000, đài phát hình đầu tiên liên quốc gia SBTN (Saigon Broadcasting Television Network) 24 giờ mỗi ngày, là bạn đồng hành với trung tâm Asia, đột nhiên ra đời, làm thay đổi nhiều sinh hoạt cộng đồng. Mặc dù phải trả một lệ phí xem đài hơn $30.00 một tháng, đồng hương Việt vẫn ghi danh để xem vì ngoài mục tin tức cập nhật mỗi 12 tiếng, còn chiếu phim Tầu, phim Việt Nam, và các tiết mục văn nghệ và chính trị khác. Trong năm đầu tiên, đài SBTN đã phải vất vả giữ làn sóng của mình vì có ít người chịu trả tiền cho việc xem truyền hình nhất là phải chuyển qua hệ Cable. Nhưng chỉ sau một năm, đài đã đổi sang hệ thống Direct TV, với sự trợ giúp của hệ thống Viet Satelline chuyên giúp nối mạng cho khác hàng, đài đã vươn lên mạnh mẽ. Năm đầu, chỉ có khoảng 700 người ghi danh, đến năm thứ ba, đã có hơn 70,000 khách hàng tại Mỹ và Canada.

Tiếp đến là đài cũng 24 giờ và phát xuyên quốc gia là đài VHN do Nghệ sĩ Quốc Thái và một chủ nhân rất trẻ, Bruce Trần điều hành. Đài VHN cũng có nhiều chương trình giá trị, được khán giả nhiều tiểu bang trả tiền để theo dõi, nhưng vì một “scandal” giữa Quốc Thái và Bruce Trần, hai bên đưa nhau ra tòa, kiện đòi chủ quyền, nên khán giả cũng chán nản và bỏ bớt. Nhận thấy đây là cơ hội để phát triển ngành truyền hình toàn quốc, một số chủ nhân của đài phát thanh Little Saigon Radio đã thành lập ra đài Truyền Hình Hồn Việt, phát sóng trên 50 tiểu bang. Dần dần, đến những năm 2010, liên tiếp nhiều đài truyền hình phát hình trên băng tần địa phương, 24 giờ mỗi ngày mà miễn phí thi nhau mọc lên, khiến cho sinh hoạt báo chí và truyền thanh bị mất đi rất nhiều độc giả và thính giả. Nhiều tờ báo phải đóng cửa. Các nhật báo bị giảm số trang. Đài phát thanh Little Saigon Radio, trước phát sóng 24 giờ một ngày, sau giảm xuống chỉ còn 14 tiếng một ngày.

Qua đến phương diện sách truyện, các tác phẩm đủ loại từ văn chương, triết học, chính trị, thơ đến xem bói cũng liên tục được phát hành. Tuy nhiên, vì thời gian rảnh rỗi ở Mỹ cũng hiếm, và vì có nhiều điều phải giải quyết theo thời hạn ấn định, nên số độc giả đọc sách không nhiều. Nhiều nhà văn, nhà thơ, vốn dĩ mang cái nghiệp “viết lách” nên vẫn cố gắng in sách, bất chấp kết quả không khá về tài chánh. Có nhiều người mang nợ vì in sách. Những buổi giới thiệu sách, mà người ta hay nói sai là “Ra Mắt Sách” thường ít người đến dự, trừ một hai cuốn đặc biệt liên hệ đến chính sử, như cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” của nguyên Bộ Trưởng kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng, tổ chức tại miền Nam California, có trên 300 người tham dự và cổ võ nồng nhiệt. Còn lại đa số các cuốn khác đều nhận số phận hẩm hiu, có lần giới thiệu sách chỉ có tối đa là 20 người. Thảng hoặc mới có tác giả được đồng hương quý mến, thì số người tham dự là khoảng trên 200, như hai cuốn “Chuyện Tình Lá Me” và “Ngày Tận Thế”. nhưng số sách bán được thì đôi khi chỉ đủ chi phí cho việc in sách và tổ chức giới thiệu sách mà thôi.

Một điều rất hãnh diện cho cộng đồng Viêt là các trường học Việt Ngữ được mở nhiều nơi, tại các Chùa, và Nhà Thờ Công Giáo, lúc nào cũng đầy học sinh, từ mấy cháu bé mới học vỡ lòng đến các thanh niên Nam, Nữ muốn học tiếng quê cha đát tổ để hiểu biết hơn về lịch sử nước nhà. Các chương trình dậy Việt Ngữ này được đồng hương tán thành nồng nhiệt, vì đã giúp cho hai thế hệ 1 và 2 được đối thoại với nhau, không như trước đây, khi thế hệ thứ 2 ra đời, chuyên nói tiếng Mỹ, và bỏ nói tiếng Việt với gia đình, bố mẹ, và ông bà, khiến cho việc cảm thông giữa cha mẹ và con cái bị bế tắc.

– Võ Thuật.

Sau một thời gian ổn định việc làm, việc học chữ, nhiều Huấn Luyện Viên Võ Thuật đã cố gắng mở các lớp dậy võ để truyền bá tinh hoa của võ thuật cho các thế hệ sau để tự vệ cũng như để tạo môt tinh thần tráng kiện cho các thanh niên nam nữ. Các môn thịnh hành nhất là Karate, Tae Kwon Do, Hapkido, Judo, Vô Vi Nam và nhiều môn phái võ dân tộc khác, nhưng có lẽ môn võ thành công nhất với nhiều võ sinh nhất, cũng như mở trường sớm nhất là Aikido do Giáo Sư Đặng Thông Phong làm Giám Đốc. Giáo Sư Đặng Thông Phong cũng là một trong lớp người tiền phong, tạo tiếng vang quốc tế về võ thuật Việt Nam. Ông là người Việt duy nhất được bầu vào “Hall Of Fame” của International Martial Arts Association, có giá trị tương đương như một Hàn Lâm Viện Võ Thuật Quốc Tế. Hiện nay, ông đại diện cho Liên Đoàn Aikido Tensinkai, và vẫn được mời đi biểu diễn, dậy võ cho các đại võ sư quốc tế.

Tại miền Nam California, với sự tập hợp đông đảo các chưởng môn nhân, các đại võ sư, và các võ sư khác đến từ Việt Nam qua các đợt di tản, đinh cư và tị nạn, đã thành lập được một tổ chức lấy tên là “Tổng Hội Phát Triển Võ Thuật Viêt Nam Thế Giới.” Tổng hội có nhiều sinh hoat nóng trên các địa bàn, tổ chức Biểu Diễn, Văn Nghệ đón Xuân hay Tất Niên.. Một điều hãnh diện cho dân tộc là môn phái Vô Vi Nam, đặc biệt của Việt Nam, đã được quốc tế chú ý và cho thi đấu cỡ quốc tế. Thường là các môn sinh Vô Vi Nam đều thắng giải vô địch. Niềm hãnh diện lớn nhất của người Việt hải ngoại là hai nhà vô địch Cung Lê và Nam Phan.

Cung Lê cư ngụ tại San Jose, California. Anh là người Việt Nam nổi tiếng nhất trên thế giới với 3 lần đoạt giải Quốc Tế Wushu, Vô địch thanh niên California, Vô Địch nhiều giải quốc gia, 3 lần vô địch Kickboxing, Vô địch Strikeforce hạng trung nặng. Ngoài ra, Cung Lê còn đóng phim tình báo, hoạt động. Tên tuổi Cung Lê được thấy trong tất cả các tạp chí về Võ Thuật Hoa Kỳ. Điều đặc biệt là Cung Lê luôn mặc quần đấu có mang cờ Việt Nam Cộng Hòa.

Nam Phan, 135 lbs, từng vô địch hạng nhẹ, cư trú tại Quận Cam, California. Anh đã thắng 18 trận Knock Out, so với 12 lần thua điểm, có những trận anh thắng nội trong 18 giây đầu tiên. Cũng như Cung Lê, mỗi lần thắng, anh đều phất cờ Việt Nam Cộng Hòa trên võ đài.

Hai nhân vật võ thuật này đã đem lại cho dân Việt Nam những niềm hãnh diện lớn lao.

3-NHỮNG ĐIỂM YẾU CẦN THAY ĐÔI

Như tất cả những sắc dân khác đã sinh sống tại nước Mỹ cả trăm năm trước, người Việt di tản hay định cư đều vấp phải môt vấn nạn tâm lý gây ra bởi sự va chạm văn hóa. Từ một xứ sở Việt Nam với nhiều phong tục, tập quán Á Đông, sang một xứ sở Mỹ Châu có những phong tục, tập quán hoàn toàn khác lạ, người Việt đã mất đi sự tự tin và phần lớn lòng tự trọng sẵn có, để cố gắng hòa nhập vào thế giới mới. Những người có trí thức, hiểu biết cao thì biết lựa những điều hay của thiên hạ làm của mình, và từ đó, tiến lên việc hội nhập một cách thoải mái. Trái lại, với người thiếu sự học hỏi về quy luật xã hội, thì trở thành một trong hai giai cấp mới: Giai cấp xấu, lợi dụng những dễ dãi của xã hội mới mà làm bậy; giai cấp nhút nhát, luôn co mình vào trong vỏ ốc của mình, mặc cho đời đưa đẩy, lúc nào cũng sợ hãi sự va chạm văn hóa. Nhiều trường hợp thương tâm đã xẩy ra chỉ vì không hiểu biết quy luật xã hội của nơi mình định cư. Thí dụ như có nhiều vị ông, bà, cha, mẹ bị tù vì tội “sexual harassment” hay “child abuse” chỉ vì thương con, cháu quá mà hôn hít bộ phận sinh dục của trẻ nhỏ, hoặc vì cạo gió cho con, để cho cô giáo thấy mà gọi cảnh sát. Một người mới qua, khi quét dọn garage, đã bồng đứa bé, bỏ trong một cái thùng giấy để tiện làm việc. Người hàng xóm Mỹ trông thấy, gọi ngay 911. Bà mẹ bị cảnh sát phóng tới, thẩm vấn và định nhốt bà mẹ này, nếu không có người thông dịch đúng lúc.

Một giáo sư piano, vì quen đứng đàng sau, ôm vai học trò, mà bị cha mẹ thưa ra tòa, bị án tù vài năm. Quen vỗ mông con nít cũng bị nhốt. Gặp trẻ em ngoài công viên, giơ tay bẹo má làm quen cũng bị tù. Đi chợ trời mua đồ, để túi đồ tòng teng đụng chạm vào mông một phụ nữ, bị cảnh sát cho ticket! Lái xe quá chậm trên đường có giới hạn 45 mile, cũng bị phạt. Đi bộ băng qua đường không ở trong lằn vạch, bị phạt $50.00. Mở máy nhạc lớn trong khu apartment, bị đuổi…

Trong khi đó, nhiều kẻ xấu đã lợi dụng kẽ hở của các chương trình trợ cấp của chính phủ mà làm giầu:

– Nhận Medical, trợ cấp Housing, và trợ cấp tiền mặt cho gia đình nghèo rồi đi làm tiền mặt, làm giầu, rồi mua nhà hàng, làm chủ chợ, trong khi vẫn nhận trợ cấp chính phủ. Dùng Medical mua thuốc trụ sinh để đổi lấy tiền mặt của các chủ Pharmacy gian lận. Dùng Food Stamp đi mua đồ xa xỉ. Có người giả “điên” để được tiền bệnh, tiền mặt, và medical. Vào khoảng 1995, một vụ đổ bể trong một tiểu bang miền Bắc về Medical và Cash support làm xấu hổ cho cộng đông nhiều nhất, đó là vụ một cặp vợ chồng lãnh tiền trợ cấp đều đặn nhưng lại làm chủ một nhà hàng lớn ngoài phố, và sống trong một biệt thự to lớn. Khi bị bắt còng tay đưa ra khỏi cồng, người chồng trung niên còn nhe răng cười với các ký giả chụp hình.

– Giới Luật Sư cũng gây nên nhiều chuyện tai tiếng như chế ra các vụ đụng xe giả mạo để lấy tiền bồi thường. Tai nạn nhỏ biến thành tai nạn lớn. Lừa gạt đồng hương qua những vụ kiện, khai khống tiền giờ cho những việc chẳng bao giờ thực hiện. Nếu thấy thân chủ nhà quê, nhà mùa, thì phán loạn để thân chủ “tẩu hỏa nhập ma” mà trả tiền cho những dịch vụ dỏm. Chỉ viết một lá thư đòi tiền nợ trong 5, 7 phút, mà tính cả vài ngàn đôla. Luật sư vô luật pháp thường có liên lạc với các Bác Sĩ Chỉnh Xương để nhận “kich back”, khi Bác Sĩ Chỉnh Xương tạo ra hồ sơ giả mạo, làm tiền các hãng bảo hiểm.

– Về tài chánh cũng có rất nhiều mánh khóe để gạt đông hương. Năm 1990, tại Thủ Đô Tị Nạn, một công ty có tên là Continental tổ chức gom tiền của các cụ già ham lợi, qua chương trình có lãi 10% một tháng, sau đó thì bốc hơi, làm các cụ già cay đắng, không thể báo cảnh sát được vì nếu báo cảnh sát thì lại mất tiền trợ cấp vì làm sai pháp luật khi lấy tiền già để đầu tư. Ngoài ra, còn nhiều chương trình Kim Tự Tháp (Pyramid Scheme hay Ponzi) do người Việt tạo ra để giật tiền đồng hương. Chương trình này đặt tên theo Charles Ponzi, vào năm 1920, đã tổ chức lừa gạt cả triệu người Mỹ, thu vào hàng trăm triệu đô la vào thời điểm đó. Từ việc bán máy lọc nước, bán dao, bán đồ Make-up, đến bán chứng khoán giả (fraud multifunded) và bán bảo hiểm nhân thọ dỏm (fake life insurance), các tổ chức này đã lừa gạt cả chục ngàn người Việt, thu tiền của họ rồi bốc hơi, không để lại dấu vết gì. Một số chuyên viên thuế vụ cũng tìm cách trốn thuế giùm cho thân chủ để nhận hoa hồng. Khi bị đổ bể, người làm thuế bị phạt $250,000 và tù 6 tháng. Người muốn trốn thuế thì bị phạt cả triệu đô.

– Về Sở Xã Hội, nhiều cán sự hống hách với thân chủ đến xin trợ cấp và chỉ tìm cớ để đóng hồ sơ trợ cấp của họ, để đạt chỉ tiêu của Sở là càng ít người xin tiền, càng có lợi cho Sở.

– Trong giới Y Khoa, có một thiểu số bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ vô lương tâm, cứ ghi bừa bãi số người đến khám bệnh để lấy tiền Medical, có bác sĩ khai tới hơn 100 bệnh nhân một ngày! Không khám bệnh, cũng ghi vào hồ sơ là khám bệnh để lấy tiền chính phủ. Không chụp phổi, siêu âm, thử máu.. cũng ghi vào biên bản. Một bác sĩ thẩm mỹ cũng ở California khuyến khích thân chủ đi làm đẹp bằng tiền Medical,rồi biến hóa thành trị bệnh kinh niên. Có bác sĩ chứng nhận bệnh tâm thần cho người khỏe mạnh để lấy tiền hoa hồng. Dược sĩ bất lương thì quảng cáo khuyến dụ các thân chủ mang “toa” lại để cho quà hay tiền mặt. Mỗi một “toa” được $10.00. Chủ dược phòng làm toa trụ sinh giả mạo, để mang thuốc về Việt Nam bán lấy lời gấp 10. Có chủ dược phòng bán thuốc “control” tức là các loại thuốc gây nghiện, có chất morphin cho kẻ nghiện xì-ke. Một dược sĩ ở San Diego bị phạt tù và bị đóng cửa tiệm vì tình trạng dơ bẩn trong tiệm, dán, chuột chạy tứ tung, thuốc để vô tổ chức. Nha sĩ chữa răng chỉ “cleaning tooth” mà tính là mổ răng, chữa lợi. Không cần mổ lợi, cũng khuyến cáo là “cần mổ lợi, nếu không thì hư toàn bộ răng”, rồi đẩy qua bạn bè mổ giả, để nhận tiền “kick back”. Vì thế, giới y, nha, dược sĩ làm giầu chỉ trong vài năm, mua biệt thự, du thuyền đắt giá. Nhưng “thiên bất dung gian”, riêng ở California đã có những lần 50 vị Bác sĩ bị bắt một lượt, 20 tiệm thuốc tây bị đóng cửa, dược sĩ bị mất bằng. Bên nha sĩ thì kín đáo hơn, ít bị mất bằng và ở tù, chỉ phải bồi thường tiền gian lận đến cả Triệu đô la.Những vụ bê bối này, khi được tung ra trên diễn đàn quần chúng, làm cho cộng đồng cảm thấy xấu hổ khi gặp người Mỹ hoặc các sắc dân thiểu số khác. Nói chung, trong các giới trí thức, được xã hội kính trọng, thành phần nào cũng có người tốt và người xấu. Chỉ khi Luật Pháp trừng trị thì những kẻ mê tiền bất lương mới chịu ngưng hành động vi phạm luật pháp

– Về các cơ sở dịch vụ, nhà hàng cũng không phém phần xấu. Thợ sửa xe thì “vẽ” chuyện để chém đẹp bà con. Thợ điện, thợ ống nước, xây cất nhà cửa.. đa số đều vẽ hươu vẽ vượn để móc tùi đồng hương. Có nhiều trường hợp, chủ thầu xây cất nhận tiền xây nhà xong là trốn mất. Có người sửa dở dang rồi bỏ chạy. Cơ sở bán vé máy bay thì đưa vé giả. Bán bảo hiểm giả. Khi nhận tiền đóng góp cho hậu sự thì nói số tiền lớn, khi chi trả cho thân nhân người chết thì cắt xén…Việc gì cũng có thể giả, có thể lừa gạt nhau. Cho nên, với những người Việt ở lâu năm trên đất Mỹ thường e dè hoặc rất thận trọng khi liên lạc với các dịch vụ do người Việt làm chủ.

– Dần dần, các tội ác do người Việt gây ra cũng xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Các băng đảng trộm cướp, giết người đã hình thành. Nổi tiếng dữ dội nhất là băng “Born to Kill” do một số thanh thiếu niên xa gia đình thành lập, để thanh toán băng đảng khác hầu chiếm độc quyền buôn bán ma túy, rồi bắn giết lẫn nhau giành chức đảng trưởng. Một vụ cưỡng hiếp tập thể gái vị thành niên đã đưa 4 thanh niên lên ghế điện, vài vụ bắt cóc, tống tiền, một vụ bắt con tin trong chợ do 2 anh em ruột chủ trương, lôi kéo thêm hai người nữa, đã làm dư luận cả thế giới xôn xao. Vài vụ đòi tiền “bảo kê” nổ lớn. Rồi “sexual harassment”, cướp cạn, giết người, bắn chết người rồi tự tử… cứ lần lượt xẩy ra, làm cho một số người Mỹ đã sẵn kỳ thị lại còn kỳ thị thêm với người Việt Nam.

– Từ khi mạng lưới Internet được phổ biến với những người Việt Nam, thì một hiện tượng vô cùng xấu xa đã xẩy ra, là một số người lợi dụng quyền Tự Do Tư Tưởng, Tự Do Phát Biểu của nước Mỹ mà viết lên mạng tất cả những gì mình nghĩ đến, không cần biết những điều đó có đụng chạm và làm hại đến danh dự của ai. Dần dần, Email biến thành một bãi rác cho kẻ xấu tha hồ vung vãi những điều kinh dị, bẩn thỉu, để bôi lọ lẫn nhau, chụp mũ cho nhau… Tuy những điều bôi lọ đó không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt thường ngày của người bị chụp mũ, nhất là với những người công chính, nhưng cũng khiến cho họ bực bội, tức giận, hoặc trả đòn bằng những lời lẽ bẩn thỉu hơn, hoặc chán nản, xa lánh cộng đồng, không muốn phục vụ hay cộng tác với các công tác của cộng đồng nữa.. Từ đó, công cuộc đấu tranh giành Tự Do cho Việt Nam dần dần thiếu hiệu quả.

Cũng từ Email và Internet, điều thất bại lớn liên quan đến tư tưởng của người Việt ở Mỹ: Sự mất đoàn kết.

Từ những năm đầu định cư, người Việt ở khắp nơi trên nước Mỹ đều mong muốn có một tổ chức đại diện chính thức cho người Việt hải ngoại, và đã cố gắng thành lập các tổ chức Cộng Đồng, cũng như các tổ chức ái hữu, từ ái hữu đồng hương, đến ái hữu quân đội, ái hữu học đường… Mỗi khi có một tổ chức ra đời, người Việt đều xôn xao chờ đợi một thay đổi đáng kể trong sinh hoạt cộng đồng, hầu đại diện cho người Việt di tản mà đối phó với Cộng Sản, giải cứu dân tộc và đất nước ra khỏi bàn tay kìm kẹp của đảng Cộng. Tuy nhiên, một hiện tượng lạ lùng đã xẩy ra trong hầu hết các hội đoàn, ban đại diện cộng đồng: đó là sự chia rẽ, tranh dành chức chưởng một cách kiên quyết. Trừ các hội Ái Hữu Sinh Viên là những hội gồm các thanh niên nam nữ trẻ trung, đầy nhiệt huyết và có trí thức cao, thì hầu như không có trục trặc gì, còn tất cả các tổ chức khác đều vấp phải vấn nạn chia rẽ trầm trọng. Từ hội ái hữu học sinh như Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Petrus Ký, và các hội ái hữu các trường tỉnh, đến hội ái hữu quân, binh chủng, đến các tổ chức Cộng Đồng hay Tôn Giáo đều trải qua những giai đoạn phân rẽ làm hai, hay làm ba. Những người chia rẽ lợi dụng sự phát triển của Email và Internet như một phương tiện để hạ đối phương. Lời đầu thì nhẹ, lời hai thì nặng hơn, dần dần, các tổ chức có cùng tôn chỉ đâm ra chống đối nhau cực kỳ hung bạo còn hơn đánh Cộng Sản nữa. Các chiến dịch chụp mũ, mạ lị được tung ra trên Email, báo chí, truyền thanh, và thư rơi. Đôi khi căng thẳng đến nỗi có những cuộc biểu tình chống đối lẫn nhau trước một cơ sở cộng đồng, kéo dài liên lỉ hàng tháng trời. Tại San Jose, California, có thời gian, nhóm A biểu tình liên tuc cả tháng trời trước trụ sở của nhóm B làm xáo trộn sinh hoạt của cả thành phố.. Cả hai bên đều phất cờ vàng, đều có những câu châm ngôn chống Cộng, nhưng mục tiêu thì khác nhau, người đóng vai Chủ Tịch khác nhau. Bên nào cũng coi mình là chính nghĩa. Từ đó, không từ một phương tiện nào, thủ đoạn nào để tung ra tấn công đối phương, có khi còn hăng say hơn là chống Cộng Sản khiến cho những cuộc thảo luận tại tư gia cũng phải giảm thiểu tiếng nói, biến thành sầm xì, như trong những phim Gián điệp. Ai cũng sợ bị cho lên mạng mà phỉ báng. Đáng buồn hơn nữa là tiếp theo các chiến dịch chụp mũ đối phương là chiến dịch thưa kiện. Nhiều tổ chức cộng đồng đưa nhau ra trước Tòa Án để đòi được minh định ai là chính danh, ai là kẻ khủng bố cộng đồng. Nhiều vụ kiện thưa đã đem lại cho cộng đồng những nỗi đau buồn, xấu hổ, vì cả hai bên đều chứng tỏ mình là chính danh, nhưng thực tế, cả hai bên đều là những người hám danh, hám lợi, quên cả danh dự dân tộc. Vài vụ chụp mũ đã được Tòa Án dành cho những bản án nặng nề: Vụ Duy Sinh Nguyễn Đức Phúc Khôi, chủ tờ báo Việt Nam Tự Do ở California, bị tòa phạt 16 triệu đô la vì tội mạ lị một cá nhân liên tục trong nhiều năm tháng dài. Vài vụ khác cũng bị phạt từ $200,000,00 đến $1,000,000.00. Tuy nhiên, các bản án phạt nặng nề như thế cũng chưa ngăn chặn được nạn người Việt chụp mũ lẫn nhau. Cho đến thời điểm hiện tại, năm 2014, trên mạng Internet, vẫn còn những bài viết mạ lị tục tĩu, chửi bới rất vô giáo dục, làm cho bất cứ ai đọc đến cũng phải đỏ mặt, tức giận.

Nói chuyện với một số thương gia về các hoạt động không lành mạnh của người Việt, ai cũng biết vụ Mặt Trận. Được thành công sớm, giới thương gia vẫn có lòng hướng về đất nước và mỗi khi có lời kêu gọi đóng góp cho Việt Nam, họ sẵn sàng đóng góp tối đa. Nhưng rồi vì bị lừa gạt vài lần, họ đã lơ là với công cuộc chống Cộng. Chẳng hạn như việc đóng góp cho nhóm Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Số tiền đóng góp này khá lớn, nhưng không ai được biết tổng số là bao nhiêu, chỉ biết là sau một thời gian hoạt động, nhiều tin động trời loan ra là có sự tranh chấp những số tiền lên đến bạc triệu. Một vài người từng gia nhập Mặt Trận đã tách ra và làm đơn kiện những người còn lại, làm mất lòng tin của người hải ngoại vào những chiến dịch đấu tranh chống Cộng. Lúc phong trào còn thịnh hành, mỗi sáng cuối tuần, có những người cầm hộp tiền đứng gần chợ, gần chỗ người Việt hay tụ họp mà xin tiền đóng góp, và rất ít người từ chối, bỏ vào hộp $5, $10…Có người góp cả $100.000 cho Mặt Trận. Và rồi, sau những kiện cáo, tố cáo đích danh nhau trên báo chí, truyền thanh, với con số nhiều triệu đô la các sinh hoạt cộng đồng đi vào chỗ tách ra nhỏ lẻ, không còn mấy người tin nhau, không có một Mặt Trận, Tổ Chức nào có thể nắm được đa số cả. Tổ chức nào mạnh nhất cũng chỉ được một, hai trăm người là tối đa. Dĩ nhiên, các cuộc gây quỹ chính đáng cũng bị giới hạn bởi các cặp mắt nghi ngờ. Đoàn kết giữa các cộng đông hay trong các hoạt động chống Cộng bị tan vỡ.

Ngoài ra, một điều thường xẩy ra mà ai cũng nghe được từ tất cả các người Việt trên đất Mỹ, là chuyện khuynh hướng về quê cưới vợ càng ngày càng nhiều, càng công khai, lộ liễu. Việt Kiều trên 70 cũng có thể lấy được vợ 25, 30.. chấp nhận chênh lệc tuổi tác cả ba thế hệ. Điều này đã hủy diệt đi di sản Văn Hóa Việt Nam từ bao thế kỷ nay là “tôn sư, trọng đạo”, rất nguy hiểm cho tinh thần của giới trẻ, đồng thời gây ra bao cảnh cười ra nước mắt hoặc tang thương.

Nhưng điều làm cho những người Việt yêu nước Việt lo ngại nhất chính là sự gửi tiền về Việt Nam ồ ạt. Hàng năm, người Việt đổ tiền về quê từ 7,8 tỉ đô la, đủ để cho dân nghèo không phải đi làm trong cả năm mà vẫn sống sung túc. Nhưng, thực tế, đa số tiền khổng lồ này lại lọt vào túi của các đảng viên Cộng Sản, còn người nghèo chỉ hưởng những số tiền lẻ mà thôi. Các đảng viên cao cấp của Đảng, đứng làm chủ các cơ quan chuyển tiền, nhân cơ hội rửa tiền hợp pháp, lấy tiền ăn cướp của dân giữ trong các Ngân Hàng Việt Nam, trao lại cho dân qua việc người thân ở Mỹ gửi quà về, rồi lại nhận tiền của Việt Kiều ở Mỹ để mở các trương mục lớn, dành cho quan chức Cộng Sản mở thương vụ ở Mỹ, mua nhà bằng tiền mặt, và dành cho việc tạo “bãi đáp an toàn” cho cốt cán Cộng Sản môt khi mà chế độ sụp đổ. Với số tiền hàng tỷ đô la giữ trên đất Mỹ, mai kia, khi chế độ Công Sản không còn tồn tại thì họ tha hồ sống ung dung trong nước Mỹ với số tiền ăn cướp của nhân dân, cho đến mãn đời con, cháu. Cũng với số tiền này, khi chế độ độc tài chưa sụp, thì các đảng viên Công sản dễ dàng mua chuộc các người Việt ham tiền mà quên cội nguồn, đánh phá, chia rẽ cộng đồng tan nát làm cho không ai đoàn kết với ai được.

Tóm lại, sinh hoạt của Người Việt Trên Đất Mỹ rất đa dạng. Song song với những thành tựu làm rạng danh dân tộc Việt, cũng không thiếu những thái độ, hành vi, cư xử kém văn minh. Mong rằng, với sự hiểu biết của lớp trẻ thuộc thế hệ thứ hai, dần dần, những tên tuổi Việt Nam sẽ càng ngày càng làm cho thế giới nể phục mà quên đi những thất bại, kém cỏi do sự va chạm văn hóa lúc đầu mới sang định cư mang lại. Hy vọng trong tương lai, khi thế hệ Một trên đất Mỹ đã quá tuổi hưu trí và yên nghỉ đâu đó, thì thế hệ thứ hai, với những tư tưởng trẻ trung phát triển trong một môi trường Dân Chủ và Khoa Học, sẽ đem lại những giá trị mới cho danh dự Người Việt Trên Đất Mỹ.

Ý hướng Xây Đời Mới

Ý  hướng  Xây  Đời  Mới

Trong Chương Trình Phát Triển Quận 6, 7, 8 Saigon (1965 – 1971)

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Vào khỏang tháng 6 năm 1965, một số thanh niên chúng tôi đang ở lứa tuổi 25 – 30 cùng hội họp bàn thảo với nhau liên tục trong nhiều ngày và cuối cùng chúng tôi đã đúc kết cuộc thảo luận thành một tài liệu lấy tên là Dự Án về một chương trình họat động xã hội, tài liệu này dài chừng 30 trang có nhan đề là :

“Phong Trào Xây Đời Mới

Chương Trình Phát triển Quận 8 Saigon”

Bản Dự Án này liền được đệ trình lên văn phòng của vị Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung ương (tức là Thủ tướng Chính phủ) lúc đó do Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm trách.

Sau khi xem xét ít lâu, Tướng Kỳ đồng ý chấp thuận trên nguyên tắc mấy đề nghị của chúng tôi và chỉ thị cho Bô Thanh niên và Tòa Đô chính Saigon cùng đứng ra bảo trợ cho công việc thực hiện Chương Trình Phát Triển này.

Thế là vào khỏang trung tuần tháng 8 năm 1965 đó, anh em thiện nguyện chúng tôi bắt đầu cùng “xuất quân” xuống quận 8 là một địa phương tương đối nghèo túng và kém mở mang nhất tại Saigon thời ấy.

Sau một năm họat động, chương trình này đã mở rộng phạm vị họat động sang hai quận lân cận là quận 6 và quận 7. Và trong suốt 6 năm hăng say họat động (1965 – 1971), chương trình đã thực hiện được một số công trình xây dựng cụ thể đem lại sự thay đổi cải tiến rõ rệt trong nếp sống vật chất và tinh thần của người dân trong cả ba quận ở về phía Tây Nam thành phố Saigon.

Trong mấy năm gần đây, tôi đã có dịp tường thuật chi tiết về chương trình xây dựng này trong nhiều bài viết, nên trong bài này tôi khỏi cần nhắc lại những điều đã ghi ra trước đây nữa. Mà tôi chỉ xin nhắc lại cho rõ hơn về cái ý hướng tích cực góp phần vào công cuộc xây dựng Đời Sống Mới của lớp thanh niên thiện nguyện chúng tôi vào cái thời kỳ đất nước mình còn đang sôi động với cuộc chiến tranh tàn khốc cách nay đã gần 50 năm. Xin thật ngắn gọn trong vài mục như sau :

I – Không phải “Phong trào Xây Đời Mới” – mà là “Kế Hoạch Xây Đời Mới”

Mặc dầu như đã ghi ở trên, bản Dự Án đệ trình lên văn phòng Thủ tướng có viết rõ là “Phong trào Xây Đời Mới” như là một tổ chức thực hiện “Chương trình Phát triển Quận 8” – thì đến khi tra tay vào giai đọan hành động cụ thể tại địa phương, anh em chúng tôi lại không bao giờ nhắc đến danh xưng “Phong trào Xây Đời Mới” nữa.

Lý do là vì các anh em trong ban điều hành cho rằng danh xưng “Phong trào Xây Đời Mới” này dễ gây hiểu lầm nơi nhiều người coi như đây là một thứ tổ chức chính trị – chứ không phải là một chương trình thuần túy họat động xã hội nữa. Vì thế mà mọi họat động của nhóm anh em thiện nguyện chúng tôi – ngay kể từ lúc khởi đầu vào tháng 8 năm 1965 – thì đều được đặt trong khuôn khổ của một chương trình phát triển cộng đồng tại địa phương quận 8 mà thôi. Và chỉ sau một thời gian ngắn, qua những việc làm cụ thể có ích lợi rõ rệt cho đồng bào địa phương, thì chương trình đã bắt đầu tạo ra được sự tin tưởng của số đông người dân – để rồi từ đó mà tiến lên thêm bước nữa với những công tác có quy mô lớn lao rộng rãi hơn mãi.

Vì thế mà qua năm 1966, khi được phép mở rộng phạm vi họat động sang các quận 6 và 7, thì cơ cấu tổ chức cũng phải được nới rộng ra. Cụ thể là, ngòai Chương trình Phát triển Quận 8 rồi, thì lại có thêm hai đơn vị nữa, đó là : Chương trình Phát triển Quận 6 và Chương trình Phát triển Quận 7. Và ở trên cả ba Chương trình này là một cơ quan để phối hợp điều khiển – được anh em cho khai sinh dưới cái tên chính thức là: “Kế Hoạch Xây Đời Mới”.

Qua danh hiệu Kế hoạch Xây Đời Mới này, ta có thể thấy ngay được cái ý hướng Xây Đời Mới vẫn được duy trì như từ lúc ban đầu. Tức là mọi họat động nhằm cải thiện về gia cư, chỉnh trang các ngõ hẻm, đặt hệ thống thóat nước cho đến việc mở mang thêm trường học, tổ chức các lớp dậy nghề, chăm sóc về y tế vệ sinh công cộng v.v…- thì tất cả những công tác đó đều nhằm mục tiêu duy nhất là : Góp phần xây dựng cuộc sống mới tại địa phương sao cho mỗi ngày một thêm tốt đẹp, thoải mái tươi vui hơn mà thôi.

II – Vai trò làm “chất men, chất xúc tác” nhằm khơi động quần chúng tham gia vào công cuộc xây dựng ở địa phương.

Vì chủ trương theo đuổi công cuộc phát triển lâu bền tại hạ tầng cơ sở ở địa phương (at the grassroots), nên anh em chúng tôi phải kiên trì bám sát địa bàn họat động qua những cuộc tiếp súc tham khảo thường ngày với các vị thân hào nhân sĩ là những nhân vật có uy tín đối với đồng bào trong khu vực. Các vị này thường là giới giáo chức, giới tu sĩ của các tôn giáo, giới công tư chức đã về hưu và cả giới tiểu thương tiểu chủ của các cơ sở kinh doanh nhỏ v.v… Qua những cuộc tham khảo bàn luận với quý vị tôn trưởng như vậy, chúng tôi lần hồi mới đề ra được những công tác có ích lợi cụ thể thiết thực  để mời gọi bà con trong cộng đồng cùng ra tay chung sức với nhau – người góp công, kẻ góp của – mà thực hiện cho có kết quả tốt đẹp, đem lại sự cải tiến cho môi trường sinh họat của địa phương sở tại.

Làm việc sát cánh với bà con trong các xóm hẻm trong thời gian lâu dài, chúng tôi nhận ra được là nơi đâu, lúc nào thì cũng đều có những người có tấm lòng tốt luôn quan tâm đến việc giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình – cũng như lưu tâm đến sự an vui của tập thể dân chúng ở địa phương nơi gia đình mình cùng sinh sống. Những người có thiện chí như thế chính là những nhân tố thiết yếu cho sự thay đổi của xã hội (essential agent for social change). Họ khôn ngoan tìm cách khuyến dụ lôi kéo thêm những bà con khác cùng tham gia vào công việc đem lại ích lợi chung cho cả tập thể cộng đồng. Và chỉ khi nào mà số đông bà con ở địa phương cảm nhận được cái nhu cầu cần phải cải thiện xã hội như thế nào đó (felt need), thì chính khối quần chúng nhân dân đông đảo đó họ mới hăng hái đem hết công sức ra mà thực hiện những công việc có ích lợi chung cho tòan thể cộng đồng.

Như vậy, vai trò chính yếu của mỗi thanh niên thiện nguyện chúng tôi là làm chất men, chất xúc tác (catalyst) được vùi trong môi trường quần chúng nhân dân – nhằm khơi động mọi người ý thức được cái nhu cầu cải tiến xã hội – và rồi tiếp theo là họ sẽ nhập cuộc tham gia vào công việc xây dựng cộng đồng cho thêm phần tốt đẹp hơn. Một anh bạn khi đến thăm và thấy công chuyện chúng tôi làm ở quận 8, thì anh đã phát biểu như thế này: “Các bạn đích thực là những người đang khơi động công trình phát triển cộng đồng ở địa phương này đấy” (nguyên văn tiếng Pháp :  Animateurs de développement communautaire).

Nói khác đi, điều chúng tôi thực hiện lúc đó, thì chính là khai mở ra cái quá trình gây lên men, gây ý thức và vận động quần chúng dấn thân tham gia vào công cuộc phát triển tòan diện ngay tại địa phương sở tại (mass fermentation, mass conscientisation, mass mobilization).

Linh mục Bernard Pineau có lần nói với tôi như sau : “ Luật sư Trần Văn Tuyên trong dịp gặp gỡ gần đây, có trao đổi với tôi về chuyện công tác xã hội các em đang làm ở Quận 8 – thì cả hai chúng tôi đều coi đó là một việc làm thật sự có ích. Rõ ràng đây là một thứ “micro-réalisation” (nguyên văn) rất thích hợp trong hòan cảnh chiến tranh hiện nay…”

III – Một số công trình xây dựng điển hình với giá trị lâu bền.

Trong những năm tháng họat động hăng say nhiệt thành sát cánh với bà con tại địa phương các quận 6,7 và 8 Saigon thời ấy, chương trình đã thực hiện được hàng mấy trăm những công trình xây dựng lớn nhỏ trong các lãnh vực chỉnh trang tái thiết gia cư, cải thiện hạ tầng cơ sở nơi các khu ổ chuột (slum areas), mở mang thêm trường học, tổ chức các lớp dậy nghề v.v… Anh chị em thiện nguyện viên phải chia nhau đến tham dự các phiên họp của ủy ban công tác nơi các xóm hẻm – hầu hết là hội họp vào ban đêm hay các ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật – vì chỉ lúc đó bà con mới có thời gian rảnh rỗi để tham gia sinh họat cộng đồng, sau khi đã làm xong công việc buôn bán hay ở sở làm.

Xin đơn cử một số công trình xây dựng điển hình mà hiện vẫn còn có giá trị thiết thực ở địa phương như sau.

1 – Trường Trung học Lương Văn Can khởi sự từ năm 1966 tại Quận 8.

Trường này được thành lập do sự vận động của số đông thân hào nhân sĩ trong quận 8 và được Bộ Giáo dục chấp thuận cho họat động với điều kiện địa phương phải lo xây dựng sao cho đày đủ cơ sở vật chất và trang bị bàn ghế cho các lớp học – trong khi Bộ cử giáo sư về lo việc giảng dậy. Như thế, đây là một thứ trường công lập để học sinh khỏi phải đóng học phí – nhờ vậy mà con em các gia đình nghèo túng ở địa phương mới có cơ hội học tiếp lên bậc trung học.

Vì thế mà ban đầu, trường có tên là “Trung học Cộng đồng Quận 8” – đây là lọai trường trung học đầu tiên ở miền Nam mà do người dân địa phương đứng ra xây dựng và thành lập, rồi được Bộ Giáo dục chấp thuận và cử thày giáo đến chăm lo phụ trách việc dậy dỗ. Sau này, trường đổi tên là “Trung học Lương Văn Can” và hiện vẫn còn họat động cho đến ngày nay. Và sau 47 năm họat động, thì tính ra đã có đến hàng vạn học sinh đã hòan tất chương trình học tập tại cơ sở này, và nhiều cựu học sinh Lương Văn Can nay đã trở thành ông nội, bà ngọai với tuổi đời trên dưới 60 nữa rồi.

2 – Cây cầu “Phát Triển” ngang qua rạch Ụ Cây, sau chợ Xóm Củi.

Rạch Ụ Cây là một con rạch nhỏ bề ngang chừng 40 mét, ngăn cách khu vực Xóm Đầm thuộc phường Hưng Phú với phường Xóm Củi là nơi thị tứ sầm uất nhất ở quận 8. Hằng ngày, có đến hàng ngàn người dân ở Xóm Đầm phải băng qua con rạch này để đến mua bán ở chợ Xóm Củi và học sinh thì qua học tại trường Tiểu học Xóm Củi. Mà họ phải trả tiền cho người chủ con đò nổi trên con rạch – chủ đò mỗi năm phải đấu thầu nơi Sở Tài chính của đô thành Saigon để được độc quyền khai thác dịch vụ chuyên chở ngang qua con rạch. Có gia đình vì nhu cầu mua bán ở chợ và con cái đi học, thì phải trả rất nhiều tiền cho việc đi qua con đò nổi này. Vì thế mà bà con bày tỏ sự mong ước có được một cây cầu bác ngang qua con rạch để vừa đi lại cho an tòan, thuận tiện, mà cũng vừa đỡ tốn tiền nữa.

Về phương diện kỹ thuật, việc xây cất một cây cầu nho nhỏ với bề rộng cỡ 2 mét và chiều dài chừng 50 – 60 mét, thì tương đối không phải là chuyện quá khó khăn. Nhưng cái khó là làm sao vận động để chánh quyền tại Tòa Đô chánh chấp thuận cho xây dựng cây cầu đó – và như vậy thì phải bãi bỏ chuyện đấu thầu – khiến cho ngân sách hàng năm của nhà nước mất đi một khỏan thu nhập đáng kể. Đó là chưa kể sự chống đối rất mạnh mẽ quyết liệt của người chủ con đò – vì họ không muốn mất đi một số lợi khá lớn cho cả gia đình, nói gì đến quyền lợi của giới có chức có quyền mà vẫn được người chủ con đò mua chuộc lấy lòng bằng đủ thứ lọai quà cáp này nọ.

Nhưng vì cần phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của số đông bà con lao động như vậy, nên chương trình chúng tôi đã phát động một chiến dịch vận động rất mạnh mẽ rộng lớn để giới chức chính quyền thể theo nguyện vọng của đồng bào mà chấp thuận việc xây dựng cây cầu này. Và kết cục chính quyền đã đồng ý và dự án xây dựng cây cầu được thực hiện trong một thời gian thật ngắn. Và đó là căn nguyên của công trình được mang tên là Cầu Phát Triển như nhiều bà con tại khu Xóm Đầm ngày nay vẫn còn nhớ đến vậy.

3 – Khu tái thiết 1,200 căn nhà tại phường Cầu Tre Bình Thới, quận 6.

Trong vụ tấn công xâm nhập vào thành phố của quân đội cộng sản hồi Tết Mậu Thân năm 1968, thì có đến mấy chục ngàn căn nhà tại 3 quận 6,7, 8 bị phá hủy. Vì thế mà chương trình phát triển chúng tôi phải ưu tiên dồn mọi cố gắng vào công cuộc tái thiết thật quy mô mà được dàn trải ra đến trên 20 khu chỉnh trang tái thiết – do các gia đình nạn nhân cùng hợp nhau thành lập thành các Ban Tái thiết cho từng khu vực để điều hành công việc xây dựng thật khó khăn mệt nhọc này.

Khu tái thiết lớn nhất nằm trong địa hạt phường Cầu Tre thuộc quận 6, giáp ranh với quận Tân Bình Gia Định, phía sau ngôi chùa cổ Giác Viên, thì có đến trên 1,200 đơn vị gia cư. Cái khó trong việc này là khu vực đó không bị tàn phá bình địa, mà vẫn còn lại nhiều căn nhà còn nguyên vẹn hay chị bị hư hại nhẹ – thế nhưng vì cần phải mở rộng đường xá cho ngay ngắn tại khu tái thiết rộng lớn này, thì cần phải hy sinh đập bỏ hết số căn nhà đó đi, để mà xây dựng lại thành những lô nhà theo họa đồ chỉnh trang hòan tòan mới. Việc này, nếu chính các chủ nhân không tự nguyện cho đập bỏ, thì chương trình chúng tôi cũng không có phương cách nào mà bó buộc cưỡng ép họ được. Do đó mà chúng tôi chỉ có thể gợi ý cho Ban Tái thiết trong khu ráng tìm cách thuyết phục các vị chủ nhân đó thỏa thuận cho phá bỏ căn nhà của mình đi – với điều kiện họ được quyền ưu tiên chọn căn nhà ở lô mặt tiền hay căn bìa.

Và kết cục, sau chừng vài năm khu tái thiết Cầu Tre Bình Thới này đã được hòan tất tốt đẹp như ta còn có thể thấy ngày nay vậy.

*     *     *

Bài viết đã dài rồi, tôi chỉ xin ghi tóm tắt thêm một vài chi tiết thật ngắn gọn như sau :

*  Trong lòng khối quần chúng nhân dân, thì bất kỳ ở đâu, lúc nào cũng đều có sẵn một tiềm năng thật quý báu dồi dào phong phú – để có thể sử dụng vào công cuộc xây dựng và cải tiến xã hội về mọi mặt tại mỗi địa phương. Như vậy, vấn đề là người cán bộ xây dựng xã hội phải tìm ra đúng cái phương pháp để khơi động khai thác được cái kho tàng năng lựợng vô biên đó. Có làm được như vậy, thì mới mong phát huy được cái sức mạnh tổng hợp của quần chúng hầu thực hiện được những công trình có quy mô rộng lớn.

*  Chương trình phát triển ở các quận 6,7,8 Saigon mới chỉ là một thí điểm trong thời gian ngắn ngủi có 6 năm đó (1965 – 1971) – mà lại giữa cái thời chiến tranh ác liệt – thì cũng chỉ mới gặt hái được một số thành quả tương đối còn khiêm tốn hạn chế mà thôi.

* Tuy nhiên, chương trình này cũng đã có thể coi như là một chứng minh cho cái phương thức vận động quần chúng phấn khởi hăng hái tham gia nhập cuộc vào những dự án phát triển cụ thể thiết thực ở mỗi địa phương. Điểm đáng ghi nhớ tại đây là ở chỗ chương trình đã tìm cách đáp ứng đúng với nguyện vọng sâu xa cuả quần chúng là được sống an vui trong một xã hội trong đó phẩm giá của mỗi con người đều được tôn trọng đúng mức.

*  Cụ thể là cái ý hướng “Xây dựng Đời Sống Mới” đã được thể hiện thông qua nhiều công trình xây dựng cải tiến thiết thực – ngay tại nơi những xóm hẻm khuất nẻo nghèo túng, trong các khu nhà ổ chuột của tầng lớp người dân lao động cần cù lương hảo.

Và đây cũng là một minh họa cho vai trò của các đơn vị thuộc khu vực Xã hội Dân sự trong công cuộc xây dựng một cuộc sống tươi vui tốt đẹp cho chính khối quần chúng nơi những khu vực kém may mắn trong xã hội chúng ta vậy (the most underpriviledged areas)./

Costa Mesa California, trung tuần tháng Bảy năm 2013

Đoàn Thanh Liêm

Phụ   Lục

Vào giữa năm 1990, lúc tôi bị giam giữ tại trại B34 trong khu Tổng Nha Cảnh Sát cũ ở Saigon, thì nhân kỷ niệm năm thứ 25 ngày khởi sự của Chương trình Phát triển Quận 8 (1965 – 1990), tôi có làm mấy câu thơ để tặng các bạn cùng làm việc chung với nhau tại Chương trình này trong khuôn khổ của Kế Hoạch Xây Đời Mới (1965 – 1971).

Bài thơ gồm có 4 câu như sau đây. Xin được ghi lại để đính kèm bài viết có nhan đề “Ý hướng Xây Đời Mới trong Chương trình Phát triển Quận 6,7,8 Saigon (1965 – 1971)

Tặng các bạn Xây Đời Mới

Quận Tám năm xưa cùng Phát Triển

Ngày đêm lặn lội – vai sánh vai

Đời Mới ước mơ thời trai trẻ

Vẫn còn tươi nét – chẳng phôi phai.

Trại B34 Saigon

Tháng 8 năm 1990

Đoàn Thanh liêm

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý DỰ THẢO 4 LUẬT TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý DỰ THẢO 4 LUẬT TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

Kính gửi: – Ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam,
– Ông Phạm Dũng, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ,

Đáp lại yêu cầu xin góp ý cho bản Dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi tắt là Dự thảo 4), chúng tôi, Ban Thường vụ, nhân danh Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, xin có một số nhận định và đề nghị sau:

I. NHẬN ĐỊNH CHUNG

Bản Dự thảo 4 chưa làm rõ mục đích của luật, vì luật được tạo ra nhằm đảm bảo quyền con người, tạo sự bình đẳng cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, đem lại bình an cho xã hội cùng cộng đồng dân tộc.

Điều kiện tiên quyết đem lại bình an cho cộng đồng dân tộc là việc người dân chu toàn bổn phận làm người, – tu thân, tề gia, trị quốc, – phải mang tính thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Thiên thời là thuận ý trời. Địa lợi là lợi cho truyền thống văn hoá đạo đức dân tộc. Nhân hòa là hoà với lòng nhân, lòng đạo của người dân.

Trong bản Dự thảo 4 có những điều luật chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho nhà cầm quyền (như Điều 9, cùng những Điều nói về việc đăng ký…), mà quên đi quyền lợi của người dân, chưa làm rõ tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo.

Điều thiếu sót quan trọng nhất của Dự thảo 4 là không công nhận sự “tồn tại” hợp pháp của một tổ chức tôn giáo trước pháp luật Việt Nam, qua việc không công nhận tổ chức tôn giáo là một “pháp nhân” chiếu theo Điều 84-85 của Bộ Luật Dân sự 2005.

Nhìn chung, bản Dự thảo 4 đi ngược lại với quyền tự do về tín ngưỡng và tôn giáo, gây lo ngại nhiều hơn là đem lại sự bình an cho mọi người.

II. MỘT SỐ CHI TIẾT

Dự thảo 4 có rất nhiều Điều, khoản và những chi tiết bất cập, không nói lên được thiện chí của Nhà nước trong việc tôn trọng sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra một số Điều, khoản và chi tiết đáng quan tâm nhất:

1. Điều 2 khoản 4 chưa giải thích rõ cụm từ “quy định của pháp luật” là như thế nào.

2. Điều 6 khoản 5b quy định quá chung chung và mơ hồ, vì có thể có những mâu thuẫn về đạo đức, luân lý giữa quan điểm của tôn giáo và chính sách của Nhà nước, như vấn đề phá thai, ly dị, hôn nhân đồng tính… Vì thế, không thể chấp nhận một sự cấm đoán ở điểm này.

3. Điều 15 của Dự thảo 4 liệt kê các hoạt động của tổ chức tôn giáo sau khi được cấp đăng ký hợp pháp. Trong các hoạt động này, thiếu hẳn những quyền để duy trì sự “tồn tại” của tổ chức tôn giáo. Trong khoản 1 chỉ công nhận việc “sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tôn giáo”, nhưng lại không nói đến quyền sở hữu và sử dụng cơ sở.

4. Điều 18 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Điều 24 Hiến pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013) đều quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Vì vậy những người đang bị giam, giữ được đáp ứng nhu cầu tôn giáo theo quy định của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Hiến pháp.

5. Điều 9 và Điều 44 Dự thảo 4 là không khả thi, đòi hỏi này vô lý vì mâu thuẫn với Điều 2 khoản 2.

6. Điều 32: Hội nghị và đại hội của các tôn giáo không cần sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vì đây là việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo.

7. Điều 38: Điều này là một bước thụt lùi so với Điều 23 của “Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo”, Điều 19 của Nghị định 22 và Điều 23 của Nghị định 92.

8. Điều 49: Đòi hỏi quá nặng nề và phiền toái. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài là vấn đề thuần túy tôn giáo, không cần phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước. Nhà nước không nên xen quá sâu vào công việc nội bộ các tôn giáo.

9. Điều 50 qui định khá mơ hồ: “tổ chức tôn giáo quốc tế” là gì? Thế nào là “tham gia tổ chức tôn giáo quốc tế”? Qui định mơ hồ sẽ gây khó khăn cho các hoạt động tôn giáo.

10. Điều 51 khoản 1: “…tổ chức tôn giáo… được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến tặng, cho trên cơ sở tự nguyện…”. Điều này vẫn không nói đến hay hạn chế các hoạt động của tổ chức tôn giáo như: quản lý và sử dụng tài sản hay tài khoản ngân hàng, mua bán hay chuyển nhượng cơ sở tôn giáo theo nhu cầu thực tế…

11. Điều 52: Các tổ chức tôn giáo phải được tự do hoạt động trong các lãnh vực từ thiện, nhân đạo và không có hạn chế nào.

12. Điều 54: Phải hiểu như thế nào là “tài sản hợp pháp” khi các tổ chức tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân?

13. Điều 66: Quy định về việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, nhưng chỉ nói đến việc khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính theo luật tố tụng hành chính. Việc tổ chức tôn giáo có quyền khiếu kiện tại toà án các cấp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình không được đề cập: chẳng hạn khi bị lấn chiếm đất đai, cơ sở tôn giáo.

14. Chương X và chương XI không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoàn toàn mang tính chất áp đặt quyền lực của Nhà nước lên các tổ chức tôn giáo, tạo kẽ hở cho cơ quan hành pháp lạm dụng quyền lực. Vì vậy, hai chương này tự mâu thuẫn với Điều 2 trong Dự thảo 4 cũng như với Hiến pháp năm 1992 và sửa đổi năm 2013.

III. KIẾN NGHỊ

Bản Dự thảo 4 đi ngược lại với Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc Tế (Điều 18) và Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 (Điều 24). Chúng tôi nhận thấy Dự thảo 4 này là một bước thụt lùi so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Bản Dự thảo này tạo ra quá nhiều thủ tục rườm rà, nhiều cơ chế khắt khe, ràng buộc, khiến các sinh hoạt tôn giáo bị cản trở.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị:
– Không đồng ý Dự thảo 4 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
– Soạn lại một bản Dự thảo khác phù hợp với xu thế tự do, dân chủ và mang tầm vóc của xã hội tiến bộ.
– Bản Dự thảo mới phải được tham khảo ý kiến từ các tổ chức tôn giáo. Đặc biệt, các tổ chức tôn giáo phải được công nhận tư cách pháp nhân và được pháp luật bảo vệ.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 05 năm 2015
TM. Ban Thường vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Tổng thư ký
(đã ký)
+ Cosma Hoàng Văn Đạt SJ