Những chuyện vui nho nhỏ dọc đường.

Những  chuyện  vui  nho  nhỏ  dọc  đường.

Bài ghi ngắn của Đoàn Thanh Liêm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong vòng 15 năm nay, tôi đã đi đến mấy chục vòng xung quanh nước Mỹ và 3 lần đến Canada nữa. Thường thường  tôi đi bằng máy bay từ California ở phía bờ biển miền Tây (West Coast) qua phía bờ biền miền Đông (East Coast), rồi thì dùng xe lửa hay xe bus hoặc nhờ bà con chở bằng xe riêng để di chuyển đến các thành phố lân cận trong vùng.

Mùa Xuân năm 2015 này, cũng như mọi năm tôi lại từ West Coast đi qua East Coast và kể từ giữa tháng Ba đến nay là giữa tháng Tư, tôi đã lần lượt đi qua 4 thành phố, đó là Philadelphia, New York, Boston ở Mỹ và hiện nay đang ở thành phố Toronto thuộc Canada. Trong bài viết này, tôi xin kể lại hầu quí bạn đọc một số chuyện vui vui nho nhỏ gặp bất ngờ ở dọc đường, lần lượt theo thứ tự thời gian như sau đây.

1 – Trên máy bay từ Denver đến Philadelphia vào ngày 18 tháng Ba 2015.

Bữa đó, máy bay tôi đi từ Santa Ana thì đỗ lại ở phi trường Denver để cho một số hành khách xuống và lại rước thêm số hành khách mới để đi tiếp tới Philadelphia. Trên đọan đường Denver đi Philadelphia này, người ngồi bên cạnh tôi là một phụ nữ Mỹ vào độ trên 30 tuổi. Sau khi chuyện trò xã giao ít lâu, tôi đã tự giới thiệu tên, tuổi của mình cho cô và được cô cho biết tên của cô là Catherine (Katie). Cô làm việc ở Portland Oregon và đang trên đường về thăm gia đình với mẹ cô hiện sinh sống tại một thành phố ở tiểu bang New Jersey gần kề với Philadelphia.

Tôi cho Katie biết là tôi là một luật sư ở Việt nam, tôi đã sống sót qua cuộc chiến tranh dài đằng đẵng mấy chục năm trời, rồi lại đến 6 năm trời trong nhà tù cộng sản nữa. Và cuối cùng, tôi cùng gia đình đã đến định cư tại California từ gần 20 năm nay. Tôi mở laptop cho Katie xem vài bài bằng tiếng Anh tôi mới viết gần đây, cô đọc xong rồi tò mò hỏi : “Bác thật may mắn là đã sống sót trải qua bao nhiêu gian truân nguy hiểm của chiến tranh, của chế độ độc tài và của bao nhiêu năm bị giam giữ tù đày khốn khổ như thế. Cháu xin có lời chức mừng bác, thật vậy đó. Bác viết là có được một nền giáo dục rất tốt, xin bác cho biết rõ hơn làm sao mà bác lại có được điều đó, trong khi chiến tranh kéo dài hàng mấy chục năm ở Việt nam? ”

Trả lời cho Katie, tôi nói : “Có đến mấy năm, tôi không thể đến trường học vì phải tản cư chạy lọan. Nhưng khi được đi học lại, thì tôi phải miệt mài ngày đêm với chuyện bài vở học tập để mà bù lại những năm tháng phải bỏ học như thế. Cô biết không, trong thời gian chạy lọan lúc 14 – 16 tuổi, tôi còn được học cả tiếng La tinh nữa đó. Điều may mắn này giúp tôi sau này khi lên Đại học, thì tôi phải học nhiều về môn Triết học và các môn Luật nữa v.v…” Nghe vậy, Katie cười và nói : “Mẹ cháu xưa kia cũng là một cô giáo dậy tiếng La tinh cho các học sinh bậc trung học đấy. Nếu mà bác gặp mẹ cháu, thì chắc hai người sẽ chuyện trò tâm đắc lắm đấy nhỉ?” Tôi cười xòa và nói : “Đã trên 60 năm, vì ít có dịp đọc sách viết bằng tiếng La tinh, nên tôi cũng quên đi mất nhiều lắm rồi …”

Đại khái chuyện trò trao đổi thật là hồn nhiên cởi mở giữa Katie với tôi kéo dài trong suốt chuyến bay từ Denver đến Philadelphia dễ mất đến gần 3 giờ đồng hồ. Thật cũng là một kỉ niệm vui vui ngộ nghĩnh vậy đó.

2 – Trên chuyến xe bus từ New York đến Boston vào ngày 1 tháng Tư 2015.

Xe bus Greyhound từ New York đến Boston kéo dài đến 4 tiếng đồng hồ. Dọc đường, tôi thấy tuyết còn đọng trắng xóa và khá dày trên các vạt rừng cây, nơi ven các sông hồ. Số hành khách khá đông, chiếm hầu hết 50 chỗ ngồi trên xe. Người ngồi bên cạnh tôi là một phụ nữ ở tuổi ngòai 50. Sau hồi chuyện trò ít lâu, tôi trao cho chị danh thiếp trong đó có ghi số điện thọai, email và tổ chức mà tôi tham gia sinh họat. Đó là Vietnam Human Rights Network (Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam). Chị cũng trao danh thiếp cho tôi, với tên gọi là Susan Stanley và số điện thọai, địa chỉ email v.v…

Vì đường dài, nên chúng tôi có bao nhiêu chuyện để cùng trao đổi về đủ mọi thứ đề tài với nhau. Từ chuyện riêng tư trong gia đình đến chuyện họat động ngòai xã hội. Tôi còn mở laptop để Susan đọc một số bài viết gần đây của tôi. Chị hỏi rất kỹ về hòan cảnh tù đày của tôi ở Việt nam vào những năm 1990. Qua đó mà câu chuyện giữa chúng tôi mỗi lúc lại càng thêm thân mật đặm đà hơn. Nhất là khi tôi nói đến chuyện văn chương thi phú, thì Susan càng chú ‎tâm nghe và hăng hái góp phần trao đổi nhận xét của riêng mình.

Điển hình như khi tôi nhắc đến câu thơ của Walt Whitman ở thế kỷ XIX : “ Behold, I don’t give lectures or a little charity, When I give, I give myself”. Hay cả một đọan thơ của Robert Frost hồi đầu thế kỷ XX : “ The woods are lovely, dark and deep, But I have promises to keep, And miles to go before I sleep, And miles to go before I sleep” – thì Susan phải thốt lên : “Sao mà anh lại thuộc kỹ thơ văn của các tác giả Mỹ đến thế nhỉ!”

Nhân tiện, tôi cũng cho Susan biết là hồi ở trong tù, tôi có làm được nhiều bài thơ, mà vì không có giấy bút để ghi lại, nên đã quên đi khá nhiều. Tuy vậy, sau khi qua Mỹ, tôi đã cố gắng nhớ lại và ghi ra được vài chục bài thơ ngắn. Cụ thể như bài thơ chỉ gồm 4 câu cảm đề từ thơ của Robert Frost ghi ở trên – mà hai câu cuối được dịch ra tiếng Anh thế này : “The long march is indeed exhausting, But still I am adamant and firmly committed to this earthly life” (Nguyên văn tiếng Việt như sau : “Đường xa vạn lý mỏi mòn, Vẫn nòi quân tử sắt son với đời”.

Đại khái như thế, chuyện trò giữa Susan và tôi cứ miên man dàn trải suốt cuộc hành trình, không lúc nào mà cạn đề tài cả. Cuối cùng, trước khi chia tay ở bến xe South Station của Boston, Susan mới mở túi lấy ra cuốn sách và nói với tôi : “Tôi đem cuốn sách này để mà đọc cho khuây khỏa dọc đường. Ấy thế mà gặp anh bữa nay chuyện trò vui quá, nên cũng chẳng cần phải mở sách này ra đọc nữa. Xin cảm ơn anh nhiều. Và hẹn sẽ tiếp tục trao đổi qua email hay phone nha…” Tôi nói : ” Susan Stanley = SS bây giờ là “Soul Sister” của tôi đấy (Tâm hồn đồng điệu). Susan cười thật dòn đáp lại : “Anh nói đúng quá, tôi thật tâm đắc với hai chữ Soul Sister này….”

3 – Trên chuyến xe bus từ Buffalo đến Toronto Canada vào chiều ngày 7 tháng Tư 2015.

Buffalo là thành phố thuộc tiểu bang New York nằm kề sát với thác Niagara nơi biên giới giữa Mỹ và Canada. Hành khách đi xe bus từ phía Mỹ, khi đến trạm kiểm sóat của Canada, thì tất cả đều phải xuống xe mang theo hành lí và xuất trình passport cho cảnh sát. Bữa đó, việc kiểm sóat giấy tờ cho 50 hành khách chỉ hết chừng 30 phút; tôi không thấy có người nào bị giữ lại và mấy nhân viên cảnh sát cửa khẩu đều tỏ ra lịch sự, vui vẻ thân thiện đối với mọi người.

Người ngồi bên tôi trong chuyến xe này là một cô gái cỡ tuổi 25. Cô cho biết mình là người Canada sinh trưởng ở Montréal, tên là Mélanie. Thế là tôi có dịp chuyện trò với cô bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Dĩ nhiên là Mélanie nói thông thạo cả 2 thứ tiếng này, mà thường được gọi là lọai người bi-lingual. Cô cho biết từ vài năm nay thì qua dậy tiếng Anh cho các học sinh trung học tại Nam Hàn. Cô được cung cấp nơi ăn chốn ở tươm tất tại thành phố Quanjou ở phía cực nam của bán đảo Triều Tiên với dân số khỏang 1 triệu người. Ban trưa thì ăn ở nhà trường, các thầy cô giáo đều cùng ăn theo thực đơn như các học sinh. Cô rất thích các món ăn này mà cô gọi đó là thứ healthy food (thức ăn lành mạnh, tốt cho sức khỏe). Nói chung là cô có thiện cảm với người dân Đại Hàn vì trình độ văn hóa tương đối cao và lối sống đày tình người tại xứ sở này. Mélanie cũng học được tiếng Đại Hàn, đọc báo chí sách vở và nói chuyện được với người địa phương bản xứ. Nhưng cô lại sử dụng tiếng Anh nhiều hơn vì tại nhà trường các học sinh cũng như giáo chức thì đều nói thông thạo tiếng Anh.

Được hỏi về tình trạng liên hệ với Trung quốc, thì cô cho biết người Đại Hàn rất bực bội khó chịu vì phải chịu đựng nạn ô nhiễm bàu khí quyển do phía bên Trung quốc thổi qua eo biển từ phía Tây qua, nhiều khi ngột ngạt rất khó chịu. Mà tình trạng này đã kéo dài từ lâu, mà phía Trung quốc rõ ràng là bất lực không làm sao mà cải thiện tình hình tồi tệ của nạn ô nhiễm nặng nề như thế được.

Đến lượt Mélanie tò mò hỏi về chuyện của tôi ở Việt nam như thế nào mà bây giờ lại phải đến tỵ nạn trên đất Mỹ.Tôi cho cô biết là năm nay tôi đã bước vào tuổi 80, ngang tuổi với ông bà của cô đấy, phải không. Mélanie gật đầu “ Quả đúng vậy, ông ngọai của cháu năm nay 81 tuổi.” Tôi nói tiếp : “Chuyện tù đày của tôi nguyên do là vào năm 1990, lúc cộng sản ở Đông Âu sụp đổ, thì người cộng sản ở Việt nam rất hốt hỏang (panicked), họ mở chiến dịch bắt giữ những người có chính kiến bất đồng như tôi (dissident).

Tôi liền mở laptop cho cô đọc bài tôi viết “How I became a political prisoner in Vietnam”. Xem xong, Mélanie nói ngay : “Cháu thật không thể ngờ được là người cộng sản họ lại có thể độc tài tàn bạo như vậy được!” Tiếp theo tôi cho Mélanie coi Chứng chỉ của Amnesty International tuyên dương tôi là một Human Rights Hero trong Đại Hội mới đây ở New York. Tôi giải thích thêm : “Vì Amnesty đã góp phần cứu thóat tôi ra khỏi nhà tù ở Việt nam năm 1996, nên từ nhiều năm nay tôi tích cực tham gia họat động với Amnesty – do đó mà bây giờ họ mới tuyên dương tôi như vậy.” Mélanie gật gù và nói : “Thật là sự may mắn cho cháu được gặp một nhà Anh hùng về Nhân quyền như bác đấy.” Cả hai chúng tôi đều cười thật là vui vẻ, hồn nhiên, sảng khóai.

Đại khái câu chuyện dọc đường của tôi trao đổi với các bạn đồng hành trên máy bay, trên xe lửa hay xe bus từ nhiều năm nay, thì thật có nhiều chi tiết ngô nghĩnh lý thú tương tự như mấy trường hơp mới đây nhất được ghi vắn tắt lại trên đây. Tôi nghĩ mình có thể viết thành cả một cuốn sách về bao nhiêu chuyên đại lọai mà tôi đã gặp trong hơn 10 năm rong ruổi khắp nơi trên đất Mỹ, Canada, Âu châu, Úc châu.

Nhưng bài viết đến đây, kể đã dài rồi, tôi xin được tạm ngưng ở đây. Và xin hẹn sẽ viết tiếp thêm chi tiết nữa trong những dịp khác vậy.

Thành phố Toronto Canada, ngày 14 tháng Tư năm 2015

Đoàn Thanh Liêm

HOA THƠM ANH ĐÁNH CẢ CỤM

HOA THƠM ANH ĐÁNH CẢ CỤM

PT Nguyễn Mạnh San

Polyamore

Trong đời sống thường nhật, nhất là trong một xã hội được coi là văn minh nhất thế giới, đã có nhiều sự việc éo le ngang trái xẩy ra thật qúa bất ngờ, hoàn toàn vượt trên sự dự đoán và điều ước muốn tốt đẹp của mọi người, tạo nên nhiều hoàn cảnh bi thương đầy nước mắt mà đôi khi những người ở trong cuộc phải âm thầm, chịu đựng nỗi đau khổ pha lẫn mối uất hận hoặc đau khổ pha lẫn với niềm ân hận triền miên trong suốt cả cuộc đời còn lại của mình. Nhưng không phải tất cả những trường hợp éo le ngang trái bất ngờ đó xẩy ra đều vượt trên sự dự đoán và điều ước muốn tốt đẹp của mọi người đâu. Xét cho cùng trong nhiều trường hợp, chẳng qua cũng tại một phần lớn vì người ta qúa tự tin vững chắc vào khả năng hiểu biết và sự suy luận chủ quan của lòng mình để thực thi một công việc gì hay để giúp đỡ một người nào đó, nhưng kết qủa lại bị người ta hiểu lầm mình hoặc chính mình lại là nạn nhân của sự việc, đúng như câu nói: Làm ơn nên oán hay Làm phúc phải tội. Nhân dịp mùa Phục Sinh lại đến mỗi năm, những người Thiên Chúa Giáo trên khắp hoàn cầu hân hoan đón mừng những hồng ân đang được ban phát cho mọi người, qua sự phục sinh của Chúa Cứu Thế trở lại với nhân loại. Chúng tôi xin cống hiến đến qúy độc giả một câu chuyện khá éo le, thương tâm với đầy nước mắt của một nhân vật chính trong câu chuyện, chỉ vì muốn thể hiện lòng thương người như thể thương thân, nhưng có lẽ vì một phần thiếu sự suy tính kỹ càng và không chịu tham khảo ý kiến với bạn bè thân thuộc trước khi thực thi ý định của mình, nên tự mình chuốc lấy đau khổ vì đã lỡ dại đi vẽ đường cho hiêu chạy như câu chuyện dưới đây.
Chị Thu Cúc đến văn phòng nhờ tôi góp ý kiến để giúp chị giải quyết một vấn đề rắc rối trong gia đình chị như sau: Cách đây hơn một năm chị có cô em gái cùng Cha khác Mẹ kém chị 5 tuổi, còn kẹt ở Việt Nam trong khi Cha Mẹ của chị và Mẹ kế của chị cũng đã qua đời cả rồi tại quê nhà và thấy em gái mình vẫn sống đơn độc, tối ngày than khóc với chị trong điện thoại để nhờ cậy chị giới thiệu cho bất cứ ai, trẻ đáng tuổi em út hay già đáng tuổi chú bác, người Việt hay Mỹ ở đây bằng lòng lấy cô ta làm vợ, để bảo trợ cho cô ta được sang Hoa Kỳ theo diện hứa hôn (Fiancée) hay theo diện vợ chồng (Spouse) vừa nhanh chóng và chắc chắn hơn, thay vì phải chờ đợi từ 8 đến 10 năm nữa mới có thể sang đây đoàn tụ với chị theo diện anh chị em ruột bảo trợ cho nhau. Nhận thấy sáng kiến của em mình đưa ra rất hữu lý nên chị quyết tâm giúp đỡ em mình sang đây sớm chừng nào tốt chừng ấy theo đúng như sáng kiến của em mình. Nhưng liên tục gần 2 năm trời, chị kiếm mỏi mòn con mắt cũng chẳng tìm ra một ai, kể cả người Mỹ da mầu và đã có lần chị hớn hở tìm ra được 2 nhân vật người Mỹ gốc Việt, bằng lòng với điều kiện chỉ gỉa vờ lấy em chị làm vợ, chứ không chịu lấy thiệt, một phần cả 2 vị này tuổi đã cao niên và một phần tối quan trọng khác là biết rõ ngọc thể của mình đang trong tình trạng hôn mê đã lâu năm, không có một thứ thuốc men nào có thể giúp hồi sinh được, ngoại trừ có một thứ thuốc có thể giúp được nhưng bác sỹ khuyên chớ có dùng loại thuốc này, uống vào là có thể đi tầu suốt luôn vì cả hai đương sự đang bị bệnh tim mạch. Biết tình trạng mình có thể về chầu Chúa không bao xa mà 2 nhân vật này vẫn làm cao, tỏ vẻ ta đây vẫn còn qúy giá hơn món đồ cổ nhiều, đòi hỏi phải có của hồi môn ứng trước toàn phần; phải chi nếu họ chấp nhận ứng trước nửa phần của hồi môn, phần còn lại xin được trả góp hàng tháng sau khi cô em gái của chị đã sang tới đây, thì chị đã bằng lòng ngay rồi. Nhưng khổ một nỗi họ vẫn nằng nặc đòi phải ứng trước toàn phần trong khi của hồi môn lại qúa cao, cho dù chị có phải vét sạch trương mục checking và trương mục saving đã để dành được 5 năm qua của cả 2 vợ chồng chị trong ngân hàng đi chăng nữa, thì cũng không đủ để trang trải toàn phần của hồi môn này. Thế rồi vì qúa thương yêu em mình, chị đã nghĩ ra được một phương kế tựu kế mà chị cho là thượng sách nhất, vừa hợp pháp đúng theo luật di trú Hoa Kỳ quy định mà lại vừa đưa được em gái mình qua đây một cách nhanh chóng không phải tốn một đồng xu cắc bạc nào. Thực thi vấn đề này không có gì khó khăn cả, chỉ làm sao thuyết phục được chồng chị bằng lòng làm theo lời yêu cầu của chị là xong hết mọi chuyện như đã dự tính.
Vào một buổi tối cuối tuần, sau khi chị đã lo săn sóc cho 3 đứa con còn nhỏ tuổi, đứa lớn nhất 12 tuổi, đứa thứ nhì 8 tuổi, đứa út 4 tuổi ăn uống xong đâu đó và đưa chúng vô phòng ngủ của chúng, chị mới tâm sự những sự việc diễn tiến vừa kể trên cho chồng chị nghe về tình trạng cô em gái của chị và tiếp theo chị mạnh dạn bầy tỏ ý định của chị với chồng, là xin anh hãy thương em bằng lòng để cho em nhờ luật sư làm đơn xin ly dị anh ở tòa án và chúng mình chỉ gỉa vờ ly dị nhau trên giấy tờ mà thôi, vẫn sống chung với nhau một nhà, không có gì thay đổi hết, để tình trạng anh trở thành độc thân, rồi sau khi bản án ly dị ban hành đã được đủ 6 tháng, anh có quyền nạp giấy tờ bảo trợ cho cô em gái của em sang đây theo diện hứa hôn, khi em gái của em sang tới đây, anh sẽ lập hôn thú với nó để trên giấy tờ nó là vợ của anh, như thế nó sẽ được ở lại đây hợp pháp để chờ có thẻ thường trú, sau khi nó có thẻ thường trú và ở đây đủ 2 năm rồi, anh sẽ nạp giấy ở tòa án xin ly dị nó, tới lúc đó anh và em lại tái lập hôn thú với nhau có sao đâu. Nếu anh bằng lòng chiều theo ý em làm công việc bác ái này, tức là anh sẽ để phúc đức lại cho con chúng ta sau này. Mới thoạt nghe xong vợ mình đưa ra ý kiến như vậy, lòng anh rất sửng sốt và anh từ chối ngay ý kiến của vợ. Anh giải thích cho vợ hiểu rằng làm như thế là gian dối với pháp luật Hoa Kỳ, vi phạm tội hình sự, nếu cơ quan chính quyền biết được sự thật gian dối này, cả 2 chúng ta sẽ bị truy tố ra tòa và sẽ bị ngồi tù nhiều năm, suốt thời gian ngồi tù, 3 đứa con của chúng ta sẽ bị Bộ An Sinh Xã Hội mang giao cho cha mẹ nuôi nuôi dưỡng chúng nó, thế là em và anh đã trực tiếp làm cho các con của chúng ta trở thành mồ côi cả cha lẫn mẹ. Vậy em có điên khùng không mà đi xúi giục anh làm chuyện gian dối này? Em hãy nên nhớ rằng ở đời có nhiều cách để giúp đỡ tha nhân, có nhiều cách để làm công việc bác ái, cách này không được thì phải đi tìm cách khác, chứ cách của em đưa ra không thực tế và còn nguy hiểm cho bản thân chúng ta nữa, anh nghĩ có lẽ em đang hay sắp bị bệnh tâm thần rồi, anh sẵn sàng đưa em đi khám bệnh với bác sỹ tâm thần nếu em muốn. Như em cho biết đã gần 2 năm em cố gắng tìm mọi cách để giúp cho em gái em sang đây cho mau mà không được, thì bây giờ em nên nạp giấy bảo trợ cho nó đi, dù nó có phải chờ đợi thêm 8 hay 10 năm nữa mới sang được là ngoài ý muốn và khả năng của em, nó đâu có lý do gì để trách móc chị của mình được. Nhưng vài ngày sau, vì qúa thương yêu em gái mình, chị lại tỉ tê cố gắng thuyết phục chồng mình làm theo ý chị, bằng cách viện ra lý lẽ cho rằng chuyện gian dối này chỉ có 3 người trong cuộc biết mà thôi, đó là anh, em và cô em gái và cả 3 người không nói ra chuyện này cho bất cứ ai nghe, thì em hỏi anh làm sao cơ quan chính quyền có thể biết được sự gian dối này và tất cả chúng ta đều hiểu rõ sự nguy hiểm đến tính mạng của mỗi người, nếu nói ra là cả 3 người đều bị ở tù nên điên khùng gì mà đem chuyện bí mật của gia đình mình kể cho người khác nghe để hại vào thân. Lần này nghe vợ mình giải thích một cách hữu lý như vậy, làm anh siêu lòng và anh bằng lòng để vợ xúc tiến mọi chuyện như nàng muốn. Thế là chỉ vài tháng sau cả 2 vợ chồng đều nhận được bản án ly dị của tòa án gửi tới. Giai đoạn kế tiếp là chị phải ở nhà một mình trông nom săn sóc 3 đứa con để chồng đi về Việt Nam, trước là giúp cho cô em vợ lo liệu các thủ tục giấy tờ tại địa phương, sau là phải chụp hình chung với cô em vợ để làm bằng chứng 2 người là tình nhân với nhau, để khi anh trở về lại Hoa Kỳ, sẽ kèm theo những tấm hình trông thơ mộng này với mẫu đơn bảo trợ diện fiancée tại Sở Di Trú. Không đầy 8 tháng sau cô em gái điện thoại từ Việt Nam báo tin vui cho chị biết là em đã được gọi đi phỏng vấn và đã được cấp giấy chiếu khán vào Hoa Kỳ, bây giờ em chỉ còn thu dọn nhà cửa, chờ đi khám sức khỏe và mua vé máy bay nữa là xong hết mọi sự, để lên đường qua Hoa Kỳ sum họp với chị. Chị Thu Cúc rất mừng rỡ khi nghe được em gái của mình báo cho chị tin vui này, nhưng đồng thời chị lại cảm thấy lo lắng cho cô em thân gái một mình, đường xá xa xôi hàng ngàn dặm, không biết nói tới một câu tiếng Mỹ nào, có thể đi lạc cổng lên máy bay mỗi khi phải chuyển máy bay tại phi trường quốc ngoại 1 lần và 2 lần phải chuyển máy bay ở phi trường quốc nội mới đến được đây. Nghĩ tới đó, để đề phòng trường hợp như vậy có thể xẩy ra cho cô em gái, chị lại đưa ý kiến với chồng là nếu anh đã hết phép thường niên rồi thì anh hãy xin sở cho anh nghỉ một tuần lễ không ăn lương để về Việt Nam lo chuyện khẩn cấp gia đình của anh. Như đã có ma đưa lối qủy đưa đường, cứ tìm những lối dặm trường mà đi nên anh chấp nhận ngay lời đề nghị này của chị. Một lần nữa chị lại phải hy sinh ở nhà một mình trông nom săn sóc 3 đứa con thơ trong một tuần lễ. Tới đúng ngày đúng giờ quay về của chồng cùng cô em gái như đã ghi trong 2 vé máy bay, chị vui sướng dẫn 3 đứa con thơ theo chị lên phi trường, chờ đợi sớm hơn 2 tiếng đồng hồ trước khi máy bay tới, để mừng đón chồng và để chào đón cô em gái cùng cha khác mẹ với chị mà lòng chị đã ấp ủ tình thương yêu, lo lắng, săn sóc gửi tiền về giúp đỡ em mình hàng tháng trong những năm qua như một người mẹ thương con. Nhưng hỡi ôi, có ai học được chữ ngờ bao giờ, máy bay đã tới, tất cả các hành khách trên chuyến bay đã bước ra khỏi máy bay, đôi mắt chị nhìn về tứ phía mà vẫn chẳng thấy bóng dáng người chồng yêu quý của mình đâu cả, cũng chẳng thấy bóng dáng cô em gái thân thương của chị đâu hết. 3 đứa con thơ cầm tay nối đuôi nhau chạy nhanh theo chân mẹ đến quầy hàng bán vé máy bay, để chị hỏi thăm tin tức. Tại đây chị được một nhân viên của hãng máy bay cho biết là có tên của 2 người này trong danh sách, nhưng không hiểu tại sao không thấy 2 người này đến trình diện để lên máy bay, có thể là 2 người này trình diện trễ sau khi máy bay đã cất cánh chăng? Vậy muốn biết chắc 2 người này sẽ đổi vé đến vào ngày mai không, thì sáng sớm mai hãy điện thoại cho họ để được xác nhận, vì giờ này đã khuya, không còn chuyến bay nào khác tới nữa. Như linh tính báo cho chị biết một điều bất hạnh đang xẩy đến cho chị, vì nếu trễ chuyến máy bay, chồng chị đã phải điện thoại cầm tay cho chị biết và chị đã điện thoại cầm tay nhiều lần cho chồng từ trước khi ra phi trường cho đến lúc này, nhưng vẫn không thấy anh kêu lại, mặc dù mỗi lần chị gọi, chị đều có để lại lời nhắn tin gọi lại chị khẩn cấp. Rồi niềm đau đớn trộn lẫn trong uất ức từ từ dâng lan tràn trong tâm hồn chị, nước mắt chị cứ tuôn trào ra như thác nước, cố lau đi cho khô bao nhiêu thì nước mắt lại tuôn trào ra bấy nhiêu, cuối cùng không thể kìm hãm nỗi xúc động rung chuyển trên toàn thân thể, từ trên đầu lan xuống dưới đôi chân, làm đôi chân chị lạnh run lên, gần như bước đi không nổi, chị đã phải bật òa lên tiếng khóc nức nở như con nít tại phi trường là nơi công cộng, hòa đồng với tiếng khóc thút thít của đứa con út thấy mẹ khóc, nó cũng khóc theo. Cả đêm hôm đó, chị đã khóc cạn nước mắt cho đến sáng sớm cố gắng ngồi dậy, chị soi gương thấy đôi mắt mình đỏ ngầu như 2 hòn máu, không thấy lòng trắng đâu hết, hai mí mắt sưng húp lên như 2 trái banh, không còn nhìn thấy rõ những cảnh vật ở chung quanh, Ðến giờ phút này chị mới nhận ra là vì chị qúa tự tin vào sự suy nghĩ của mình không chịu bàn thảo hay hỏi ý kiến với một ai trước khi yêu cầu chồng mình làm chuyện này, nên chị đã vấp phạm một điều sai lầm khủng khiếp, trong niềm đau xót tận cõi lòng, hối tiếc cho việc làm hết sức ngu xuẩn của mình thì đã qúa muộn, không còn cách nào để cứu vãn được tình thế nữa; rồi có những phút cảm xúc, buồn tủi nghẹn ngào trong nước mắt, và mối tức giận căm thù dâng lên tới cuống họng làm chị gần như bị nghẹt thở đứng tim như người mất hồn, cũng tại vì cô em gái yêu tinh, tàn nhẫn đã cướp đi mất người chồng yêu quý của chị, đã cướp đi người cha yêu dấu của 3 đứa con còn thơ dại, đang sống dưới sự đùm bọc của một người mẹ qúa đau khổ, mà giờ đây, người mẹ đó chính là chị, đang phải trả một cái gía qúa đắt, đắt hơn gấp trăm ngàn lần so với cái gía của hồi môn của 2 vị cao niên đòi hỏi chị trước đây, rồi chị lại tự an ủi thân phận mình, cho rằng đây là Thánh Ý Chúa định và đối với những người không thuộc cùng tôn giáo với chị, thì có lẽ cho rằng đây là Ý Trời, Ðịnh Mệnh an bài hay còn gọi là Nghiệp Chướng. Chị vẫn còn ghi nhớ rõ trong tâm trí của chị những câu mà chồng chị đã nói với chị ngay lúc ban đầu khi chị yêu cầu chồng chị hãy làm công việc này cho chị: Em hãy nên nhớ ở đời có nhiều cách để giúp đỡ tha nhân, có nhiều cách để làm công việc bác ái, cách này không được thì phải đi tìm cách khác, chứ cách của em đưa ra không thực tế và còn nguy hiểm cho bản thân chúng ta nữa, anh nghĩ có lẽ em đang hay sắp bị bệnh tâm thần rồi, anh sẵn sàng đưa em đi khám bệnh với bác sĩ tâm thần nếu em muốn. Bây giờ chị mới hiểu được chồng chị nói rất đúng, vì qúa thương yêu em gái mình mà trở nên mù quáng trong tư tưởng lẫn việc làm, vô tình chính chị là người đã vẽ đường cho hiêu chạy, để ngày nay chị mất chồng, các con mất cha, chị tự hỏi lòng mình thế thì lỗi về ai đây, lỗi mình chứ còn lỗi ai vào đây nữa.
Đúng một tuần lễ sau ngày chị và 3 con thơ trở về nhà từ phi trường, chị nhận được lá thư của chồng chị, nói những lời tạ lỗi với chị: anh đã phản bội em, xin em hãy rộng lòng tha thứ những lỗi lầm và hành động đáng ghê tởm của anh đối với em như hiện nay, anh không còn xứng đáng làm chồng của em nữa và anh cũng không xứng đáng làm cha của 3 đứa con của chúng ta nữa, xin em hãy can đảm tiếp tục nuôi dưỡng và dậy dỗ các con để sau này chúng nó sẽ trở thành những người có tư cách, gương mẫu trong xã hội, đừng để chúng nó giống tính cha nó sau này. Sở dĩ anh không dám quay trở về với em và với con cái là vì cô em gái của em đã dính bầu tâm sự với anh đã lâu mất rồi, kể từ lần đầu tiên anh đến Việt Nam lo thủ tục giấy tờ cho cô nàng mà anh đã làm theo lời yêu cầu của em. Vì thế anh và em gái em còn mặt mũi nào để quay trở về gặp em và các con của anh nữa, mong em thông cảm cho tình trạng trớ trêu này của anh. Tiện đây anh cũng xin nhắc lại là trong bản án ly dị, có ghi rõ anh phải cấp dưỡng tài chánh cho các con của anh hàng tháng. Ðiều này anh xin hứa danh dự với em, là ngay sau khi anh có việc làm, anh sẽ gửi tiền hàng tháng về cho em. Anh biết chắc trong trương mục tiết kiệm của anh và của em, vẫn còn đủ tiền cho em chi tiêu hàng tháng ít nhất cả một năm nữa mới hết. Vậy em đừng lo lắng về vấn đề tài chánh vì tháng tới là anh đã có việc làm rồi, thì anh sẽ gửi tiền về ngay cho em. Ðọc xong lá thư, lòng chị cảm thấy xót xa, sẵn lòng tha thứ lỗi lầm của chồng mình, nhưng sự tức giận và lòng hận thù cô em gái lại tràn ngập trong lòng chị không thể nào tha thứ cho đứa em gái vô ơn bạc nghĩa, ăn cháo đái bát, nhẫn tâm đã cướp đi người chồng yêu quý của chị, đã cướp đi người cha yêu dấu của 3 đứa con còn thơ dại, nên chị quyết tâm tìm cách trả thù bằng mọi giá để làm sao trục xuất đứa em gái yêu tinh này phải quay trở về mái nhà xưa nghèo đói khổ sở của nó ở Việt Nam, cho hả dạ nỗi lòng đau khổ của chị, để không còn phải ôm mối sầu hận suốt cuộc đời còn lại của chị trên thế gian này.
Sau khi chị Thu Cúc đã kể cho tôi nghe hết tất cả các sự việc diễn tiến từ đầu đến cuối câu chuyện ngang trái thương tâm như tôi vừa mới trình bầy trên đây, chị liền hỏi ý kiến tôi là chị có nên đến sở di trú để khai hết sự thật đầu đuôi câu chuyện của vợ chồng chị với cô em gái yêu tinh này không, để nơi đây thụ lý sự việc và áp dụng luật lệ về di trú để trục xuất đứa em gái yêu tinh này phải trở về Việt Nam, dù 2 vợ chồng chị có đi ở tù cũng được, các con có bị giao cho Cha Mẹ nuôi nuôi dưỡng chúng thì cũng chẳng sao, vì tội ai làm người đó chịu, đó là lẽ công bằng phải trả mà Thiên Chúa đã phán dậy bảo con cái của Ngài và cũng là lẽ công bằng của pháp luật được áp dụng trong một xã hội văn minh đã quy định. Trước khi tôi đi sâu vào chi tiết để trả lời về ý kiến của chị hỏi tôi, mà trong đó có 2 phương diện khác nhau, một phương diện về tâm lý tình cảm và một về phương diện về pháp lý thực dụng, nghĩa là áp dụng vào luật di trú Hoa Kỳ hiện hành, thì việc đầu tiên tôi xin nhắc lại lời nói của chị ở trên: Nào là Thánh Ý Chúa định, nào là Ý Trời, nào là Ðịnh Mệnh an bài hay còn gọi là Nghiệp Chướng. Nếu nói như thế là để an ủi, làm vơi bớt được nỗi buồn khổ trong tâm hồn chị, thì đó là điều tốt; chứ thực ra trường hợp của chị không phải là do Thánh Ý Chúa định mà là do chính chị định. Vì chị đã tự biết và tự thú nhận rằng tại qúa tự tin vào sự suy nghĩ của mình, không chịu bàn thảo hay hỏi ý kiến ai về chuyện này nên chị đã gây ra một lỗi lầm khủng khiếp này. Có rất nhiều người mỗi khi gặp phải sự đau khổ, cũng thường nói những câu y như chị nói để tự an ủi mình; tuy nhiên chị vẫn còn sáng suốt hơn nhiều người, là biết nhận ra lỗi lầm của mình làm. Ðể quay trở lại trả lời về ý kiến của chị đưa ra hỏi tôi, thì trước tiên trên phương diện tâm lý tình cảm, nếu có người đàn bà hay cô gái nào bị người yêu phụ bạc, thì có lẽ hầu hết họ cũng đều có những ý nghĩ và những phản ứng tương tự như của chị. Ai cũng hiểu câu: Giận qúa mất khôn, đúng thế, chị hãy cố gắng bình tâm suy nghĩ lại và thứ tự hỏi lòng mình xem: Ai là người khởi xướng vụ ly dị? Ai là người thuyết phục chồng chị chấp nhận để chị giả vờ ly dị anh ấy? Ai là người thúc đẩy chồng chị đi về Việt Nam lần thứ nhất để giúp đỡ lo thủ tục giấy cho cô em gái của chị bằng cách đóng kịch là tình nhân với cô em gái của chị? Rồi ai là người xúi giục chồng chị qua Việt Nam lần thứ hai để đón cô em gái chị qua đây? Chẳng cần trả lời thì chị cũng biết người đó là ai rồi. Chỉ cần nhìn sơ qua vào tấm hình chồng chị chụp chung với cô em gái của chị mà chị vừa đưa cho tôi xem, thì tôi phải nói thẳng với chị một câu rằng: Vô tình chị đã xúi giục anh ấy đi thám hiểm hai qủa núi Hỏa Diệm Sơn lộ thiên cao vút lên trời như thế, thì không riêng gì chồng chị mà bất cứ ai đã cả gan dám đến đó một mình, nếu không bị chết thiêu thì cũng khó tìm được lối thoát thân trở về nhà an toàn, hoặc gỉa dụ nếu cô em gái của chị đang đóng vai một trong hai vị nữ anh hùng Trưng Trắc hay Trưng Nhị mà đang cưỡi trên lưng voi, thì con voi đó cũng phải toát mồ hôi dù ngoài trời đang lạnh. Chắc chị thường nghe người ta nói: Hoa thơm anh đánh cả cụm, nhưng nếu đem áp dụng câu này vào trường hợp của chồng chị, thì tội nghiệp cho anh ấy, vì các dữ kiện xẩy ra cho thấy chồng chị không phải là người chủ động làm công việc này từ đầu đến cuối, chẳng qua anh ta đã phải chiều lòng theo ý của chị, để thi hành một công tác mà cả chị và anh ấy cũng không tiên liệu được những điều gì sẽ xẩy đến bất lợi cho gia đình mình. Vì lần đầu tiên thân trai dặm trường, xa vợ xa con, từ quốc ngoại trở về quê hương, được đứng trước một pho tượng nữ thần tình ái Venus bằng xương bằng thịt, với một thân hình nẩy lửa tràn đầy nhựa sống của cô em vợ như tôi vừa đề cập ở trên, thì làm sao ông anh rể có thể tránh khỏi hành động trao bầu tâm sự cho cô em vợ của mình được. Theo sự suy luận của riêng tôi, trong câu chuyện éo le này, chị và cô em gái của chị mới là 2 nhân vật đáng trách nhất, vì lòng ngây thơ vô tình của chị đã thúc đẩy anh ấy trở về Việt Nam thân trai một mình, không có chị đi hộ tống bên cạnh, cộng với sự chào đón qúa nồng thắm của người em gái đang độ tuổi thanh xuân, nên rất dễ dàng dẫn đưa 2 người cùng rủ nhau vào vườn địa đàng rong chơi, hóng mát và chồng chị thật sự đã dóng vai ông Adong, còn em chị đã đóng vai bà Evà như sự việc đã xẩy ra. Nói tới đây, chị Thu Cúc gật đầu nhiều lần, tỏ vẻ tán đồng quan điểm với tôi. Chị còn nói câu: Tội ai làm người đó chịu, nhưng chị đã quên đi mất một điều, là trong vấn đề này, 3 đứa con của chị có làm gì đâu mà chúng phải bị chia lìa xa cha mẹ ruột thương yêu của chúng, để đến ở với cha mẹ nuôi nếu vợ chồng chị bị đi ở tù. Tiếp theo tôi xin giải thích vấn đề này trên phương diện pháp lý: Cho dù chị có đến Sở Di Trú khai ra tất cả sự thật, Sở Di Trú không ở trong cương vị có thẩm quyền tài phán nội vụ của chị khai ra vì vấn đề rõ rệt ở đây, là chồng chị đã có nạp chứng từ ly dị với chị do tòa án cấp, đầy đủ các giấy tờ và hình ảnh đòi hỏi bởi đơn xin bảo trợ mà chồng chị đã nạp đầy đủ hồ sơ cho Sở Di Trú, là những bằng chứng hiển nhiên xác nhận em gái chị là tình nhân của người chồng cũ của chị, cho dù người tình này là em gái ruột của chị đi chăng nữa, pháp luật không hề ngăn cấm người chồng ly dị vợ không được quyền bồ bịch hay cưới người em gái ruột của người vợ cũ về làm vợ, miễn sao đương sự không vi phạm tội đa thê là được. Giấy tờ bảo trợ fiancée của người chồng cũ của chị đã được Sở Di Trú duyệt xét và chấp thuận và người fiancée này đã được tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ hay Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Việt Nam phỏng vấn và đã cấp giấy chiếu khán cho phép đương sự được quyền nhập cảnh Hoa Kỳ để được phép cư ngụ tại đây trong vòng 90 ngày, nếu vì lý do gì khác, người đứng tên bảo trợ không chịu làm giấy hôn thú với người fiancée, thì tới lúc đó, người fiancée này mới phải quay trở về nguyên quán của mình mà thôi. Hoặc gỉa thử sau khi cưới nhau rồi trong khoảng thời gian 2 năm, nếu có sự tố giác của người chồng kèm theo những bằng cớ cụ thể, chứng minh là người vợ chỉ gỉa vờ lấy anh vì anh có quốc tịch Hoa Kỳ, để được phép sang đây mau chóng mà khi sang tới đây rồi lại không chịu ăn ở với anh như là vợ, vì cô nàng có những lý do thầm kín riêng tư, thì người vợ này sẽ bị trục xuất về nguyên quán; trái lại người chồng có quốc tịch mà gỉa vờ lấy cô ta về làm vợ qua trực tiếp cá nhân với nhau hay qua trung gian những tổ chức dịch vụ thương mại mua bán tình yêu, nghĩa là cô ta trả tiền trực tiếp cho anh này hoặc trả tiền cho anh qua trung gian cơ quan dịch vụ để được nhập cảnh Hoa Kỳ, nhưng trên thực tế 2 người không hề sống chung với nhau như vợ chồng. Trường hợp như vậy, nếu cơ quan chính quyền biết được có bằng cớ cụ thể, thì cả 2 đương sự bị truy tố ra tòa: Một người bị trục xuất trả về nguyên quán, còn một người có quốc tịch có thể vừa bị phạt vạ bằng hiện kim và vừa bị lãnh án tù ở nhiều năm hay ít năm tùy theo tội trạng của đương sự. Trường hợp của chồng chị và cô em gái của chị sẽ không nằm trong các lý do vi phạm luật lệ vừa kể trên, vì chị đã chính thức ly dị chồng chị trước tòa án nên anh ấy đã trở thành độc thân, có quyền lấy vợ khác, và cô em gái chị độc thân đã được cấp giấy chiếu khán vào Hoa Kỳ để gặp lại người yêu là chồng cũ của chị, và để 2 người sẽ làm hôn thú với nhau khi cô em gái chị sang tới đây. Như thế không có điều gì bị coi là bất hợp pháp cả và câu chuyện của chị theo tôi, có thể điển hình bằng 2 câu ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa mà người ta vẫn thường nói: Cõng Rắn Cắn Gà Nhà hoặc Rước Voi Về Rầy Mồ.
Ðể kết thúc câu chuyện của chị, tôi xin chia sẻ cùng chị một vài ý tưởng thâm thúy mà tôi vẫn còn nhớ những lời chân thành, ân cần nhắn nhủ đến các học trò của một vị linh mục khả kính, cũng là thầy dạy học tôi khi tôi còn ở bậc trung học như sau: Sự thù hận mà cứ ôm ấp lâu ngày trong tâm hồn, sẽ làm nguy hại cho tinh thần lẫn thể xác của con người, trái lại chỉ có sự tha thứ sẽ là một liều thuốc bổ vô gía cho sức khỏe của con người, vì nó sẽ đem lại sự bình an đến trong tâm hồn mỗi người chúng ta và nhờ vào sự bình an này, chúng ta sẽ sống lâu sống khỏe cho tới ngày Chúa gọi về với Ngài.

Hồi Ký của một người kẹt lại Hà-Nội sau 1954

Hồi Ký của một người kẹt lại Hà-Nội sau 1954

(tựdo Nguyễn Văn Luận)

Với bút hiệu tựdo ‒ chữ thường, viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài “Người tìm tự do và tượng thần tự do” đã được bình chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ.

Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts.

Sau đây là bài viết mới nhất của ông.


TỰ DO

Tượng đài Thuyền nhân VN tìm Tự Do Westminster, California

Tác phẩm bằng đồng của Vi Vi Võ Hùng Kiệt dựng ở Tượng đài Thuyền nhân, Westminster, California, khánh thành năm 2009
(nguồn:http://vi.wikipedia.org/wiki/)

Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.

Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi, “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à…?”

Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười, “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, …nữa là bác!”

Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.

Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt .

Thời gian rồi cũng hiểu nhau.

Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.

Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.

Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là …Vẹm!

Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư.

vietminhtiepquanhanoi

Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại.

Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất.

Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!

Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.

Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn …

Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi :

“Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!”

xeluahanoi1954

Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”:đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và …” tiêu diệt giai cấp”! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép.)

Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành.

“Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”.

Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.

Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”.

Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”

Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là … “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo…cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học.

Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!

Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, …đi tù!

Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư.

Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.

Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội.

Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.

Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.

“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”.

Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.

Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.

Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”!

Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.

“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”

Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu …! Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ.

Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân …” là vậy!

“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.

“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là… nói dối!

Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.

Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you.”

Ở miền Bắc VN thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “Công tác” thế nào?” Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “…rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng… các nước anh em!”

Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.

Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”!

Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”.

Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy sụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!

Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.

Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”

Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.

Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này.

Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.

Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về…! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ!

Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng … nói dối!

Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển.

Hải Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.

Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.

Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”

“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ…!.”

Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”

Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi….”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.

Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”.

Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!

Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.

Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi”“đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”.

Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.

Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ…!

11,000 người bị rắc rối vì liên quan đến ‘tín dụng đen’

11,000 người bị rắc rối vì liên quan đến ‘tín dụng đen’

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Tội phạm liên quan đến “tín dụng đen” ở Việt Nam xảy ra liên tiếp nhiều năm qua, từ thành thị đến nông thôn, thậm chí cả những vùng quê hẻo lánh, khiến nhiều gia đình tan nát.

Với giấy nhận nợ đơn sơ này, nhiều người vẫn giao tiền cho người huy động
vốn do lãi suất quá hấp dẫn. (Hình: Người Lao Động)

Đó là đánh giá được đưa ra tại hội thảo “Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động ‘tín dụng đen’” do Bộ Công An tổ chức ngày 30 Tháng Bảy tại Hà Nội.

Người Lao Động dẫn phúc trình tại hội thảo, mặc dù thống kê chưa đầy đủ nhưng từ năm 2010 đến 2014, Việt Nam liên tiếp xảy ra hàng trăm vụ vỡ nợ lớn với thiệt hại lên đến hàng ngàn tỷ đồng, làm ảnh hưởng đến nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức.

Tin cho hay, có 10,885 bị can liên quan đến “tín dụng đen.” Cụ thể, vụ án liên quan đến “tín dụng đen” là 6,367 vụ, trong đó có 41 vụ giết người; 318 vụ cố ý gây thương tích; 588 vụ cướp tài sản; 1,089 vụ cưỡng đoạt tài sản; 1,707 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản; 2,496 vụ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; 104 vụ hủy hoại tài sản.

Ngoài ra, “tín dụng đen” còn mang lại những hệ lụy khác như bắt giữ người trái pháp luật, hủy hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng, làm nhục người khác, các vi phạm pháp luật về cầm cố, thế chấp tài sản.

Tại hội thảo, ông Lê Quý Vương, thứ trưởng Bộ Công An, cho biết, theo đánh giá, các loại tội phạm, vi phạm pháp luật có liên quan đến “tín dụng đen” xảy ra liên tiếp ở nhiều nơi tại Việt Nam, từ thành thị đến nông thôn, thậm chí cả những vùng quê hẻo lánh, miền núi làm cho nhân dân hoang mang, bất bình, giảm niềm tin vào các tổ chức tín dụng, các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan.

Trong khi đó, hoạt động phòng ngừa còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc vì những kẽ hở pháp luật trong quy định đối với loại tội phạm này. (Tr.N)

Đẹp sao là lá cờ đỏ sao vàng – Bùi Bảo Trúc

Đẹp sao là lá cờ đỏ sao vàng – Bùi Bảo Trúc

Đẹp sao là lá cờ đỏ sao vàng – Bùi Bảo Trúc

Phải nói ngay người vẽ cái poster đó vẽ rất khéo. Những ai không phải là người Nhật hay người Việt, không đọc được chữ Nhật và chữ Việt mà nhìn tấm poster ấy thì chỉ thấy lá cờ đỏ sao vàng quang vinh (?) của nước ta để rồi nghĩ ngay rằng (nội dung của tấm poster là) nước ta đang oai hùng tiến lên cùng năm châu thế giới.

Manbiki wa hanzai desu 万引き わ 犯罪 です
“ăn cắp là phạm tội”

Tấm poster này được một sinh viên Việt Nam học tại Đại Học Matsuyama Matsudo, Chiba tìm thấy ở trong khuôn viên của đại học. Nửa trên của poster là lá cờ đỏ sao vàng với ngôi sao phinh phính beo béo của nước ta, không thể lầm với bất cứ một ngôi sao nào trong các lá cờ của thế giới. Thực ra trong tấm poster đó cũng không hẳn là một lá cờ, mà là một khoảng mầu đỏ chẩy loang xuống nửa dưới của tấm poster. Khoảng mầu đỏ loang che gần hết hai chữ “Trộm cắp”. Một hình vẽ bàn tay, biểu tượng quốc tế cho chữ “STOP!”. Ngay phía dưới là hàng chữ Nhật mà kiến thức rất hạn hẹp về chữ Hán của tôi chỉ đọc được lõm bõm ba bốn chữ, nhưng chắc ý nghĩa của hàng chữ Nhật ấy chắc cũng không ngoài một lời nhắn là đừng ăn cắp. Ở cuối của tấm poster là hàng chữ Việt nguyên văn: “LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.

Chuyện ăn cắp thì ở đâu mà lại không có. Ăn cắp không chỉ thấy ở những người thuộc riêng một quốc tịch nào nghĩa là những người ăn cắp thì nước nào cũng có. Nhưng theo một bản tin của đài BBC mới đây, thì người Việt ở Nhật dính vào hơn 40% những vụ ăn cắp vặt. Các vụ này thường diễn ra tại các siêu thị, luôn cả các cửa tiệm bán quần áo, mỹ phẩm sang trọng. Thủ phạm là những thành phần lao động, du sinh, và luôn cả các phi công và tiếp viên hàng không. Tình trạng này diễn ra nhiều đến nỗi cảnh sát của một thành phố (Nhật) nọ phải đưa người sang Việt Nam để học tiếng Việt ngõ hầu giải quyết những trường hợp ngôn ngữ bất đồng giữa cảnh sát và những người Việt phạm tội ăn cắp. Ở một số nơi đã xuất hiện những poster có nội dung cảnh cáo những người trộm cắp viết bằng tiếng Việt hăm là hình phạt sẽ rất nặng. Điều an ủi duy nhất là, vẫn theo bản tin của đài BBC, thành tích ăn cắp của người Việt ở Nhật vẫn còn thua Trung Quốc.

Nhưng người ta phải đồng ý là không có một tấm poster cảnh cáo nào có nội dung độc địa (nhắm vào Việt Nam) như tấm ở Đại Học Matsuyama. Có thể nó cũng xuất hiện ở những nơi khác nữa chứ chẳng lẽ chỉ in ra vài tấm treo trong khuôn viên đại học thôi.

Người designer vẽ tấm poster đó rất khéo nhưng cũng rất đểu. Thay vì chỉ là mấy dòng chữ Việt cũng đủ để răn đe những người có toan tính bất lương, phạm pháp thì designer dùng ngay lá cờ và những hàng chữ Việt để đích danh nói thẳng với các công dân của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chứ không hề nhắm vào các lao động đến từ Phi Luật Tân, Nam Dương, Đại Hàn…

Lá cờ được ghép vào tấm poster nhưng không phải là môt lá cờ tung bay ngạo nghễ trong gió, mà là một khoảng mầu đỏ loang lổ.

Sau hết, cái đểu của người vẽ tấm poster đó ghép vào tấm poster đó là câu mà nhà nước vẫn đem ra để bảo ban, dậy dỗ những người dân cùng khổ của Việt Nam: “LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.

Người design tấm poster rất đểu khi đem câu này ra để mỉa mai, rỉa rói, xỏ xiên nhà nước Việt Nam… Này mấy anh kia, cứ hô hào, cổ vũ cho chuyện lao động là vinh quang thì hãy cứ nhìn lại coi người dân của các anh có làm đúng theo lời cổ vũ của mấy anh không. Họ có thực tâm tin rằng lao động là vinh quang không? Hay những công dân khốn khổ của nước Việt Nam mà các anh xuất cảng đi làm nô lệ ở khắp mọi nơi (nhưng không thấm nhuần đạo đức Hồ Chí Minh và những lời kêu gọi của các anh) chỉ là thứ hàng xuất cảng trây lười, chỉ biết trộm cắp sang nước Nhật của chúng tôi và làm bẩn, làm ô nhiễm đất nước của chúng tôi.

Tấm poster xuất hiện từ hồi cuối năm 2014 nhưng tới nay, đại sứ quán của nước ta vẫn chưa có bất cứ một phản ứng nào. Không có một công hàm phản đối gửi cho chính phủ Nhật đòi tháo gỡ những tấm biểu ngữ có nội dung lăng mạ người dân và đất nước Việt Nam.

Hay là chúng nó cũng đồng tình với những lời chửi cha chúng nó lên như vậy?

NhatAnCap

Đáng lẽ ra Bộ Ngoại Giao phải gọi đại sứ Nhật tới than phiền, đòi chính phủ Nhật phải ra lệnh cho thành phố Chiba dẹp bỏ, thu hồi những tấm poster đó và xin lỗi người Việt Nam và lá cờ đỏ sao vàng. Nhưng Bộ Ngoại Giao, Sứ Quán Việt Nam ở Tokyo không hề mở mồm, mặc cho người Việt và lá cờ (dơ dáy ấy) bị mặc tình bôi bẩn thêm.

Nhưng làm thế nào được, khi mà cả nước chúng nó toàn là một bầy trộm cướp, đạo tặc với nhau. Cứ tìm chữ kleptocracy (chế độ ăn cắp) trong internet là lại thấy có tên Việt Nam ngay lập tức.

Cái danh dự của Việt Nam sau năm 1975 bị bọn chó dại ném xuống đất đen biết đến bao giờ mới gột rửa cho sạch đây!

Bùi Bảo Trúc

Nhật in poster chống ăn cắp với hình cờ đỏ sao vàng vẽ theo dạng những giọt máu tươi – Nguyễn Văn Tuấn

Nhật in poster chống ăn cắp với hình cờ đỏ sao vàng vẽ theo dạng những giọt máu tươi – Nguyễn Văn Tuấn

Báo chí mới rộ lên một tin làm nhiều người Việt buồn rầu và tức giận. Đó là bản tin hai người du khách từ Việt Nam bị cảnh sát Thuỵ Sĩ bắt vì tội ăn cắp trong một tiệm bán hàng đắt tiền (1). Dĩ nhiên, đây không phải là trường hợp cá biệt, vì đã xảy ra nhiều vụ như thế trong quá khứ.

Ngoài vụ ăn cắp, báo chí còn làm ồn ào một vụ nhục nhã chẳng kém là một số hành khách nữ bị chận lại ở phi trường Tân Gia Ba, không cho nhập cảnh (3), vì họ bị nghi ngờ là sang đó làm điếm (4-5).

Cả hai sự việc đều liên quan đến quốc thể. Một vụ là người ta in hình quốc kỳ của nước Việt Nam hiện nay để như cảnh cáo bàn dân thiên hạ là người mang quốc tịch Việt Nam hay ăn cắp. Lá cờ đó với cách in như thế cũng ngầm để hiểu rằng đó là biểu tượng của một nhóm người ăn cắp. Cũng như cái hộ chiếu của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là tín hiệu của “có vấn đề”. Vấn đề cụ thể là làm điếm.

Điều làm tôi suy nghĩ là họ thiết kế cái poster theo thể loại tuyên truyền của Việt Nam. Tôi nghĩ họ (người Nhật) thừa biết rằng Việt Nam là nước theo Cộng Sản, và tuyên truyền là một trong những “món ăn tinh thần” không thể thiếu được. Chính vì thế mà họ sử dụng chiêu “gậy ông đập lưng ông” để tuyên truyền ngược lại. Nhưng tại sao lá cờ đỏ rỉ máu? Tại sao có dòng chữ “lao động là vinh quang”? Có lẽ họ muốn người ăn cắp hay có ý định ăn cắp phải nhận thức rằng để làm ra những sản phẩm này họ phải bỏ sức lao động, phải làm việc cực nhọc đến đổ máu. Do đó ăn cắp làm cho họ rỉ máu.

Cả hai vụ (lá cờ ăn cắp và hộ chiếu làm điếm) đều là nhục nhã. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc có hai sự hạ nhục quốc thể như thế. Hai sự việc có thể làm cho người nói câu “thời đại ngày nay là thời đại huy hoàng nhất trong lịch sử” cảm thấy ngượng, nếu không muốn nói là xấu hổ.

Nguyễn Văn Tuấn

(1) http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/251857/du-khach-viet-an-cap-hang-hieu-o-thuy-si.html
(2) http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=200475&zoneid=1#.VbFwkOiqpBc
(3) http://dulich.vnexpress.net/tin-tuc/viet-nam/singapore-tu-choi-nhap-canh-nhieu-nu-hanh-khach-viet-3252322.html
(4) http://vtc.vn/nhung-truong-hop-du-khach-nu-viet-co-the-bi-tu-choi-nhap-canh-vao-singapore.1.563827.htm
(5) http://antgct.cand.com.vn/Nguoi-trong-cuoc/Khu-pho-den-do-o-Singapore-Nhung-dieu-trong-thay-ma-dau-314718/

Cô gái Úc gốc Việt thay đổi cả thế giới bằng công nghệ

Cô gái Úc gốc Việt thay đổi cả thế giới bằng công nghệ

Chỉ mới 16 tuổi, Tan Le đã được nhận vào Đại học Monash, rồi tốt nghiệp loại ưu chỉ trong vòng 3 năm ở cả hai ngành Luật và Thương mại.

Năm 1998, lần đầu tiên tại Úc, một nữ sinh viên gốc Việt 18 tuổi đã đạt danh hiệu “The Young Australian of the Year”, giải thưởng thường niên dành cho một cá nhân ưu tú dưới 30 tuổi có ảnh hưởng nhất trong xã hội.

Cô gái ấy tên là Lê Thị Thái Tần (Tan Le), vị Chủ tịch trẻ nhất của Trung tâm Dịch vụ Nhân lực Việt – Úc. Ở tuổi 15, Tần đã lãnh đạo nhiều nhóm thiện nguyện giúp đỡ hàng trăm dân nhập cư tìm việc và ổn định cuộc sống trên đất Úc.

Dù bận rộn với cộng đồng, nhưng cô vẫn hoàn thành xuất sắc chương trình trung học ngay từ tuổi 16, vào thẳng Đại học Monash, giành học bổng toàn phần của KPMG để học 2 ngành Luật và Thương mại.

Đến tuổi đôi mươi, sự nghiệp của Tần đã vững vàng khi cô là một luật sư của hãng luật hàng đầu thế giới FreeHills, vừa đảm nhận nhiều chức vụ trong Chính phủ Úc và liên tục được mời làm đại sứ của nhiều chuyến đi ngoại giao.

Song, kỳ lạ là 12 năm sau, cả thế giới lại dồn sự chú ý cả vào Tần như ngôi sao khởi nghiệp sáng nhất tại Thung lũng Sillicon, Mỹ.

Từ năm 2003, cô đồng sáng lập Emotiv System cùng Ðỗ Hoài Nam, với ý tưởng dùng ý nghĩ và cảm xúc để điều khiển thiết bị điện tử. Đến năm 2010, ý tưởng đó thành hiện thực với chiếc mũ đọc sóng não EPOC của Emotiv System gây sốt toàn cầu, thu về hơn 10 triệu USD.

EPOC hiện được ứng dụng rộng khắp các lĩnh vực như trò chơi điện tử, nghiên cứu khoa học và điều trị bệnh liên quan đến não bộ.

Khát khao được công nhận

Rời Việt Nam từ khi 4 tuổi, Tần cùng gia đình đến Úc bắt đầu cuộc sống mới hệt như nhiều dân nhập cư khác: nghèo khổ và túng thiếu. “Chúng tôi thường mang hai đôi tất. Chủ yếu là chiếc này để bịt lỗ thủng của chiếc kia,” Tần hồi tưởng. Nhưng đói khổ không ám ảnh cô bằng sự ghẻ lạnh của bạn bè cùng lớp. Tần từng chờ đợi giờ học trôi qua nhanh để trốn vào thư viện một mình. “Con bé gầy rộc đi vì nỗi sợ đó,” mẹ Tần nhớ lại.

Hoàn cảnh đó lại nảy sinh trong Tần hai phản ứng thú vị. Một mặt, cô tự nhủ “ta sẽ vượt qua tất cả các người” bằng cách ép mình học. Kết quả là cô học xuất sắc đến mức kết thúc sớm chương trình học hơn so bạn đồng lứa. Chỉ mới 16 tuổi, cô đã được nhận vào Đại học Monash, rồi tốt nghiệp loại ưu chỉ trong vòng 3 năm ở cả hai ngành Luật và Thương mại.

Mặt khác, “Tần quan tâm đặc biệt về tác động của cộng đồng lên mỗi cá nhân,” thầy giáo tiếng Anh Ruth Willis nhận xét. Chính môi trường cô lập ấy đã vô tình nung nấu trong Tần khát vọng kết nối cộng đồng. Cô hạ quyết tâm “thay đổi nước Úc thành một nơi tốt đẹp hơn để sống và làm việc”.

Kể từ lớp 9 (15 tuổi), Tần không còn trốn trong thư viện nữa mà nhiệt tình bước ra giúp đỡ cộng đồng nhập cư tại vùng Footscray (phía tây Melbourne).  Trong vòng 4 năm sau đó, Tần đã được bầu làm Chủ tịch Cộng đồng người Việt tại vùng Footscray và Trung tâm Dịch vụ Nhân lực Việt – Úc, chuyên hỗ trợ dân nhập cư tìm việc và ổn định cuộc sống trên đất khách.

Sau 15 năm, xứ người mà Tần tìm mọi cách hòa nhập ấy cuối cùng đã đón nhận cô. Chính người dân Úc đã bầu cô là gương mặt trẻ tiêu biểu nhất của quốc gia họ vào năm 1987. Cuộc đời và cống hiến của cô gái Việt trở thành phim tư liệu lưu ở Bảo tàng Úc cho thế hệ trẻ noi theo. Riêng cô đã nhận ra rằng, “à một kẻ không được thừa nhận vẫn ổn. Thậm chí tôi xem đó là một món quà. Là kẻ được thừa nhận, bạn dễ dàng chấp nhận thành kiến bao quanh. Riêng tôi lại bị đẩy ra, nhưng đối mặt với chúng không chút sợ hãi”.

“Đứa con” Emotiv System

Qua những chuyến công tác xã hội và hoạt động ngoại giao ở nhiều nước, Tần  gặp gỡ nhiều người sống theo đam mê hơn vì mưu sinh. Nghề luật sư không còn là mảnh ghép khớp với lựa chọn của cô gái đa tài này nữa.

Năm 2003, cô táo bạo rời Úc đến Thung lũng Silicon, Mỹ cùng 3 người bạn mở ra công ty Emotiv System. Tần tin công nghệ là cách nhanh nhất để thay đổi cả thế giới. Emotiv System ấp ủ ý định cho ra đời những thiết bị điều khiển mọi thứ bằng suy nghĩ và cảm xúc của con người.

Đội ngũ Emotiv System mất 7 năm trời nghiên cứu sản phẩm đầu tiên là Emotiv EPOC, nâng cấp từ công nghệ đo điện não (EGG).

Năm 2010 đánh dấu bước ngoặt lớn cho cả Emotiv System và cả nền công nghệ thế giới. Emotiv EPOC ra đời như một chiếc mũ EGG nhỏ gọn, kèm với 16 nút điện cực ghi lại mọi hoạt động trong não và cử chỉ gương mặt.

Giả sử bạn muốn kéo rèm cửa, suy nghĩ này sẽ truyền tín hiệu trong não được ghi vào EPOC. Lần tới, khi ý định kéo rèm xuất hiện trong đầu, đường truyền lần trước ngay lập tức thông qua EPOC ra lệnh cho máy tính kéo rèm từ xa, thay vì kéo tay hay bấm nút.

Ngoài ra, mấu chốt khiến Emotiv EPOC trở nên thông dụng vì nó chỉ tốn khoảng 300 USD, rẻ gấp nhiều lần so với một chiếc máy EGG hàng chục triệu USD ở phòng thí nghiệm. Emotiv EPOC bắt đầu được ứng dụng rộng rãi trong y học (cho phép bệnh nhân điều khiển xe lăn bằng suy nghĩ hoặc giao tiếp dễ dàng hơn với người thân) hay nguồn cảm hứng mới cho trò chơi điện tử.

Trong khi Emotiv EPOC đang thành tâm điểm trên thế giới, Tần vẫn chưa dừng lại.

Năm 2013, sản phẩm thứ hai Emotiv Insight đã gọi vốn thành công hơn 1,6 triệu USD trên Kickstarter, dự kiến ra thị trường vào cuối 2015. Đi kèm tính năng đã có với Emotiv EPOC, Emotiv Insight nghiêng về ứng dụng y học.

Thiết bị này có thể thu thập và phân tích hoạt động trong não từng ngày để phát hiện sớm nhất các dấu hiệu bệnh lý hay chấn thương. Ngoài ra, dữ liệu thu thập từ người dùng trên khắp thế giới sẽ thành nguồn nghiên cứu não bộ lớn nhất từ trước đến nay.

Với Tần, mảnh ghép Emotiv Insight liệu có là miếng ghép cuối cùng? Tần nhìn nhận ứng dụng đã mở ra chân trời mới trong công nghệ: “Những gì chúng tôi làm chỉ mới chạm vào phần nổi của vô vàn ứng dụng khác mà thôi!”.

Việt Trinh/Theo Nhịp cầu đầu tư

Bạn học hé lộ vụ cô gái Việt thuê sát thủ giết cha mẹ

Bạn học hé lộ vụ cô gái Việt thuê sát thủ giết cha mẹ

Jennifer Pan, 28 tuổi, bị tuyên án tù chung thân vì tội âm mưu giết cha mẹ.

Jennifer Pan, 28 tuổi, bị tuyên án tù chung thân vì tội âm mưu giết cha mẹ.

VOA Tiếng Việt

Một người bạn thời trung học của cô gái Việt ở Canada bị cáo buộc thuê sát thủ giết cha mẹ mới lên tiếng cho biết rằng Jennifer Pan “từng có một cuộc sống bị kìm kẹp và luôn phải tìm cách làm hài lòng cha mẹ”.

Cô Karen Ho còn cho biết thêm rằng cho tới tận năm 22 tuổi, cô gái gốc Việt này ít khi được đi tiệc tùng với bạn bè và chưa khi nào đi nghỉ mát mà không có cha mẹ và gia đình bên cạnh.

Cô Ho kể với VOA Việt Ngữ:

“Cô ấy nói tại tòa cũng như nói với bạn bè rằng cô ấy bị trầm cảm và bản thân cô ấy cũng có nhiều dấu hiệu của việc đó, như dùng dao tự cứa vào cơ thể mình. Cô ấy cũng nói về chuyện cha đẻ của cô rất hà khắc. Cô ít được đi chơi với bạn bè”.

Viết trên trang Facebook vào tháng Hai năm 2009, Jennifer Pan kể: “Sống trong nhà tôi giống như bị quản thúc tại gia”.

Cô gái này đầu năm nay đã bị kết án tù chung thân vì thuê sát thủ giết chết mẹ đẻ, bà Bích Hà, và khiến người cha bị một vết thương nặng ở đầu.

Ba đồng phạm của Jennifer, trong đó có người yêu cũ, cũng đã bị tòa án Canada kết án tù chung thân và không có cơ hội giảm án trong vòng 25 năm.

Cô Karen Ho cho biết rằng không ai trong đám học cùng trung học với cô có thể tưởng tượng được chuyện này lại xảy ra. Cô nói:

“Khi mới biết tin về chuyện xảy ra đối với cha mẹ của cô ấy, tôi và các bạn cùng trường có viết lên trang Facebook của cô ấy rằng chúng tôi rất lấy làm tiếc về những gì xảy ra, và nếu cần chúng tôi giúp gì thì hãy cho chúng tôi biết. Nhưng khi mọi chuyện vỡ lở, cô ấy bị truy tố vì tội âm mưu giết cha mẹ mình, bất cứ khi nào tôi gặp các bạn cùng trường chúng tôi không thể không nói về câu chuyện này và chúng tôi cảm thấy như bị phản bội. Chúng tôi không còn tin vào những gì cô ấy đã nói với chúng tôi”.

Cô Ho cho biết cô đã nói chuyện với một người không muốn nêu tên và bạn này đã tỏ ra cảm thông với Jennifer về những gì cô gái này đã phải chịu đựng cách giáo dục khắc nghiệt của người cha.

Một độc giả của VOA Việt Ngữ tên là Tạ Tốn viết rằng “suy cho cùng, trách nhiệm thuộc về cha mẹ Jennifer. Họ đã không hiểu thấu đáo về đứa con của họ và đã đặt lên vai nó một gánh nặng mà khả năng nó không mang nổi, đã đẩy nó vào hoàn cảnh phải nói dối nếu muốn tồn tại”.

Nhiều tờ báo Việt Nam cũng đã đăng tải câu chuyện buồn này và lấy đó làm ví dụ cảnh báo cho các bậc làm cha làm mẹ trong nước.

Lòng mẹ, tình cha

Lòng mẹ, tình cha

Nguoi-viet.com

Phan Ngọc Vinh
(Viết nhân ngày lễ ra trường của con trai yêu quý)

Trên chuyến bay 6 giờ sáng, từ thành phố New York đến Chicago độ 2 tiếng rưỡi, ngồi trên máy bay với đứa con thứ nhì, lòng tôi bồi hồi khó tả, dù dậy thật sớm từ 3 giờ sáng, nhưng tôi vẫn không tài nào ngủ lại được.

Mẹ (bên phải) cùng con trai lớn (giữa) và con trai nhỏ trong ngày tốt nghiệp.
(Hình: Tác giả cung cấp)

Hôm nay là ngày tốt nghiệp Master của thằng con trai lớn của tôi, thằng nhỏ thì đã lấy Master of Science in Civil Engineering 2 năm về trước, đã có việc làm ổn định, hôm nay dắt mẹ đi dự lễ tốt nghiệp Master của thằng anh.

Sở dĩ thằng lớn lấy Master trễ hơn, vì sau khi tốt nghiệp 4 năm ở trường Business Wharton nó thấy bố mẹ vất vả quá, nên sẵn các hãng đến mời dụ đi làm, nó nghe lời đi làm với mức lương béo bở, sau vài năm dành dụm một số tiền không nhỏ, cộng với những kinh nghiệm làm việc, nó thi và được nhận vào trường Business Kellogg, rồi học thật nỗ lực với 2 môn, mà nó nói với mẹ là hãng trả tiền học.

Xin quý độc giả đừng nghĩ tôi khoe, tôi người Nam, ít học, có sao thì nói vậy, đang vui với hạnh phúc của gia đình tôi, của các con tôi, nên lời lẽ thiệt tình, xin quý độc giả lượng thứ, bao dung, nếu không vừa ý.

Đầu óc miên man suy nghĩ, gợi lại những kỷ niệm cách đây 29 năm…

Ngày ấy, một em bé ra đời, người đàn bà nghèo lớn tuổi cùng chồng ôm đứa con thơ, sống thật chật vật khó khăn, hai vợ chồng nghèo nhường hết tất cả những gì mình có cho đứa con đầu lòng, nhường từ miếng ăn, giấc ngủ, sao cho con được no đủ để trí thông minh nó phát triển toàn vẹn.

Ông nhịn riêng cho mình mọi thứ để mua từng lạng thịt về luộc rồi xé nhỏ, xào khô ông tự làm chà bông cho con ăn (vì “chê” bà làm không đúng cách) để con có chất thịt trong người, bà thì cắt từng cái áo, cái quần của ông và bà để may cho con, sống kham khổ chật vật, tất cả nhường cho con, để nó ăn đầy đủ chất bổ, cho con mặc ấm trong mùa đông khi tiết trời trở lạnh.

Con bị ngộp khi sinh khó khăn nên mẹ bị mổ, khi ra đời , đứa bé bị vấn đề về đường thở, nay ốm mai đau, bao nhiêu tiền dành dụm đổ hết vào tiền bác sĩ, nhà thương, ông làm tất cả những công việc bần cùng nhất khi được ai thuê, ai mướn, hầu có chút tiền mà lo cho con.

Mẹ và con trai 29 năm trước. (Hình: Tác giả cung cấp)

Sống chật vật kham khổ, bữa đói bữa no, rồi thì trời cũng ngó xuống, chương trình HO, đưa những cựu tù đến Mỹ, một chân trời mới mở rộng, đón chào ông bà cùng hai con nhỏ…

Khi sang Mỹ, trình độ tiếng Anh không nhiều, ông theo người Mỹ phụ sửa nhà, đi giao hàng, rồi vào làm hãng. Bà đi bưng đồ ăn, đi babysit cho những nhà có con nhỏ, đi phụ bán hàng, nhận lái xe chở con nít đi học thêm sau giờ học chính ở trường. Con thì còn nhỏ, bằng mọi cố gắng tất cả vì con, làm sao cho hai con thành đạt ở xứ người.

Ngày bay đi dự lễ tốt nghiệp của con, ông không đi được, vì trước một năm ông ngã bệnh, không thể đi xa, bà cùng thằng con thứ hai bay sang tiểu bang này dự lễ.

Trong chiếc lều căn lớn giữa sân trường rộng mênh mông, trường đãi các phụ huynh những món ăn ngon, nhẹ, nhạc êm dịu, tha thiết trỗi lên từ chiếc loa, thật là cảm động, nghĩ đến sự cố gắng, miệt mài học tập của con, quyết chí lấy hai bằng trong trường Business Kellogg, mà con tôi được lọt vào danh sách Top 10% trong số 600 sinh viên ra trường năm nay. Tôi ôm con vào lòng khóc nức nở, vì vui sướng, hạnh phúc và hãnh diện cho những thành tựu mà con của chúng tôi đạt được.

Tôi tưởng như mình đang nằm mơ, khi nghĩ từ một người đàn bà lam lũ nơi quê nhà, giờ được đứng chung với những người Mỹ, những ông bà Mỹ lịch sự, giàu có, sang trọng, giờ được sánh vai ngang hàng với họ, được ăn chung, không phân biệt giai cấp, trưởng giả sang hèn, chỉ có xứ Mỹ này lòng người mới bao la như thế. Ôi! thật khâm phục, cảm ơn tấm lòng của người Mỹ và nước Mỹ.

Được ôm con vào lòng như ôm đứa bé 29 năm về trước, tôi thốt ra tiếng nói trong tiếng nấc nghẹn ngào, “Ôi, con tôi giỏi quá, mẹ vui quá con ơi. Con tôi sao nó giỏi thế này!”

Đúng như ai đó đã nói, “khi buồn quá mình cũng khóc, và khi vui quá mình cũng khóc.” Ngày này tôi vui quá, nên không kiềm được nước mắt mà ôm con và khóc nức nở trên vai con.

Giá dầu thô xuống thấp kỷ lục

Giá dầu thô xuống thấp kỷ lục

Nguoi-viet.com

WASHINGTON, DC (NV) – Thị trường dầu thô tiếp tục biến động mạnh. Theo CNN, dầu thô rớt 20% giá chỉ trong tháng này, xuống dưới $47 một thùng vào Thứ Ba, 28 Tháng Bảy, thấp kỷ lục kể từ năm 2009 đến nay.

Mới Hè năm ngoái, giá mỗi thùng dầu còn trên $100.

Giá dầu lên xuống ở mức kỷ lục trong một năm qua. (Hình: Getty Images)

Kỹ thuật mới của Mỹ, giúp khai thác dầu từ đá, là một trong những lý do quan trọng ảnh hưởng mạnh đến cán cân cung-cầu về dầu thô.

Tin vui cho khách dùng xăng dầu là các chuyên gia dự đoán xu hướng dùng kỹ thuật này vẫn sẽ tiếp tục, và giá dầu có thể còn thấp nữa.

Vào cuối năm nay, theo phân tích của chuyên gia Tom Kloza thuộc văn phòng định lượng giá dầu Oil Price Information Service, người ta có thể mong đợi mức giá dưới $2/gallon tại các tiệm xăng.

Biến động lớn của thị trường xăng dầu có thể được thấy qua mức giá $107/ thùng vào Tháng Sáu 2014, xuống còn $43/thùng vào Tháng Ba 2015, rồi lại lên thành $61/thùng. Việc lên giá này được cho là vì các dự đoán tin rằng Mỹ sẽ giảm tiến độ khai thác dầu từ đá. Tuy vậy, các dự đoán này đã sai.

“Sản lượng dầu của Mỹ có sức thay đổi đáng kể. Bất kỳ việc tăng giá nào cũng sẽ phải đối mặt với việc Mỹ tăng sản lượng dầu để ngăn giá tiếp tục tăng,” ông Vincent Piazza, một chuyên gia phân tích của Bloomberg Intelligence, nói với CNN.

Hiện tại, Mỹ sản xuất khoảng 9.5 triệu thùng dầu mỗi ngày, tăng khoảng 1 triệu thùng so với thời điểm này năm ngoái.

Bên cạnh đó, thỏa thuận nguyên tử mới đây của Iran cũng có thể tác động lên giá dầu. Khi cấm vận bị dỡ bỏ, mỗi ngày Iran có thể đưa thêm hàng ngàn thùng dầu vào thị trường thế giới.

Nền kinh tế Trung Quốc cũng là tâm điểm trong vấn đề giá dầu. Tốc độ tăng trưởng của quốc gia này đang chậm lại, và nhiều người lo rằng tương lai sẽ còn ảm đảm hơn. Điều này có nghĩa là thị trường không thể đặt hy vọng vào nền sản xuất Trung Quốc sẽ tiêu thụ số dầu dư giả hiện tại trên thị trường.

Ngoài ra, cũng như giá vàng hay giá khoáng sản, dầu thô sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng với việc giá đồng đô la đang lên. Những vật liệu được tính và bán bằng Mỹ kim sẽ trở nên tốn kém hơn cho các khách hàng quốc tế.

Tất vả những điều trên đang tác động đến ví tiền của những người tham gia thị trường chứng khoán Hoa Kỳ. Giá xăng có tăng 1.5% vào Thứ Ba, thúc đẩy phần nào bộ phận năng lượng của S&P 500. Tuy nhiên, nhìn chung, tỉ số chứng khoán vẫn sụt 6% trong tháng Bảy này, và là 12% nếu tính cả năm nay.

Giá dầu sẽ tiếp tục giảm, hay sẽ tăng lại? Theo các phân tích gia, trong vòng chín tháng tới, giá dầu khó mà tìm được một tác động nào đó giúp tăng lại. Theo đà này, giá dầu có thể xuống thấp hơn cả mức giá dầu những năm 2008- 2009 khi kinh tế suy thoái. (T.A.)

Bé trai bị mất hai tay vì nhiễm trùng, được ghép đôi bàn tay mới

Bé trai bị mất hai tay vì nhiễm trùng, được ghép đôi bàn tay mới

Nguoi-viet.com

PHILADELPHIA, Pennsylvania (AP) – Một bé trai 8 tuổi bị mất cả hai bàn tay và hai bàn chân vì nhiễm trùng đã trở thành bệnh nhân trẻ tuổi nhất được ghép cả hai bàn tay, theo các bác sĩ hôm Thứ Ba.

Bé Zion Harvey với hai bàn tay mới. (Hình: AP Photo/Matt Rourke)

Tay của em Zion Harvey được băng dầy chặt nhưng hai bàn tay được nhìn thấy rõ ràng khi em tươi cười xuất hiện trong cuộc họp báo được tổ chức tại bệnh viện.

Em biểu diễn cho các nhà báo thấy là sử dụng được đôi tay tuy vẫn còn có chút ngượng ngùng.

Em cho biết thức dậy với đôi bàn tay mới “lúc đầu thấy lạ, nhưng sau rất tốt.”

Em bé, sinh sống trong khu vực Owings Mills, ở ngoại ô thành phố Baltimore tại Maryland, được ghép tay hồi đầu tháng này tại bệnh viện nhi đồng The Children’s Hospital of Philadelphia, dù rằng các bác sĩ không công bố cuộc giải phẫu kéo dài 11 giờ cho đến tuần này.

Toán giải phẫu gồm 40 người sử dụng các mảnh thép và đinh ốc để gắn xương mới vào xương cũ. Các bác sĩ cẩn thận nối lại các mạch máu, bắp thịt, gân và dây thần kinh cho em Zion.

“Em bé mỉm cười khi tỉnh dậy,” theo lời Bác Sĩ L. Scott Levin, người đứng đầu toán giải phẫu. “Em không hề khóc lóc hay than thở gì.”

Em Zion bị nhiễm trùng khi còn rất nhỏ, và phải cắt bỏ hai tay và hai bàn chân. Lúc lên 4 tuổi em phải được ghép thận do mẹ cho.

Cho đến nay, chân giả giúp cho em Zion chơi đùa chạy nhảy. Em tập dùng cẳng tay để viết, ăn và chơi trò chơi điện tử. Các bác sĩ hy vọng nay em có thể làm được nhiều điều hơn như ném banh.

“Việc ghép tay không nguy hiểm hơn là ghép thận,” theo bà mẹ Pattie Ray. “Do đó tôi không ngần ngại chấp nhận rủi ro này, vì đó là điều con tôi muốn.” (V.Giang)

Giới thiệu sách (10): Hồi ký của Condoleezza Rice

Giới  thiệu  sách (10): Hồi  ký của  Condoleezza  Rice

Đoàn Thanh Liêm

* Nguyên tác bằng Anh ngữ nhan đề :

“ Extraordinary, Ordinary People

A Memoir of Family”

by Condoleezza Rice

* Nhà Xuất bản Crown Archetype ấn hành tại Mỹ năm 2010

*      *      *

Condoleezza Rice sinh năm 1954 là người phụ nữ da đen đầu tiên nắm giữ chức vụ Cố vấn An ninh bên cạnh Tổng thống, rồi lại là Ngọai trưởng Hoa kỳ vào những năm đầu của thế kỷ XXI dưới thời của George W Bush là vị Tổng thống thứ 43 của nước Mỹ. Bà là giáo sư lâu năm về môn Chính trị học và có thời gian còn giữ chức vụ Provost (Phụ tá Hành chính) tại Đại học danh tiếng Stanford ở California.

Năm 2009, sau khi rời khỏi chính trường, bà đã dành thời gian để viết cuốn Hồi ký Gia đình và cho ấn hành vào năm 2010. Sách dầy 342 trang, bìa cứng được in trên giấy trắng – dàn trải trong 38 chương, kèm theo nhiều hình ảnh riêng tư của gia đình, cũng như trích từ kho tư liệu của nhiều cơ sở văn hóa xã hội trong nước Mỹ.

Bằng một giọng văn gọn gàng mạch lạc, bình dị và trong sáng, tác giả đã cống hiến cho người đọc một câu chuyện thật sinh động hấp dẫn về những cố gắng vươn lên của một gia đình người da đen tại tiểu bang Alabama là nơi có nạn kỳ thị chủng tộc cực kỳ nghiệt ngã tàn bạo trong những thập niên 1950 – 60.

Vì là cuốn Hồi ký Gia đình, nên câu chuyện được kể lại xoay quanh ba nhân vật chính yếu, đó là người cha John Rice, người mẹ Angelena Ray và người con gái duy nhất Condoleezza Rice – mà chính là tác giả của cuốn sách này. Tác phẩm có thể coi như là một chứng từ khả tín về tình hình sinh họat chung của xã hội Mỹ trong vòng nửa thế kỷ qua – bắt đầu từ năm 1960 vào lúc cô bé Condi lên 6 tuổi và đã bắt đầu biết quan sát nhận định về những sự việc xảy ra xung quanh gia đình mình tại khu vực ngọai ô thành phố Birmingham thuộc miền Nam nước Mỹ – cho đến nay vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI.

Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, tôi xin lần lượt trình bày chi tiết trong một số mục đáng chú ý sau đây.

I – Sự đùm bọc gắn bó chặt chẽ trong gia đình và dòng họ nội ngọai.

Đúng theo nhan đề của cuốn sách, tác giả Condoleezza Rice đã kể lại rành rọt về sinh họat trong nội bộ gia đình của “bộ ba” (the threesome) tức là người cha John, người mẹ Angelena và người con gái Condi. Đây là một gia đình vào lọai trung lưu (middle class) với cuộc sống thật ấm cúng hạnh phúc – vì cả hai cha mẹ đều hy sinh hết mực trong việc hướng dẫn chăm sóc và “đầu tư trong việc giáo dục” cho cô con gái cưng của ông bà. Suốt trong cuốn sách, Condi đã thuật lại chi tiết về những cố gắng vươn lên của cha mẹ mình, ngay tại vùng đất Alabama còn nặng nhọc với nạn kỳ thị chủng tộc thời kỳ giữa thế kỷ XX.

Condi ngòai tình thương yêu đậm đà đối với cha mẹ, lại còn có sự ngưỡng mộ thán phục hết mình trước những thành tựu mà hai ông bà đã đạt được, mặc dầu phải trải qua bao nhiêu nghịch cảnh éo le. Nàng coi cha mẹ là thứ gương mẫu (role model) để mình noi theo. Khi lấy nhan đề cho cuốn Hồi ký là : “Extraordinary, Ordinary People”, thì rõ ràng là tác giả muốn nói rằng : Cha mẹ của bà là những người bình thường, nhưng cũng lại là những con người phi thường nữa. Dưới đây, căn cứ trên những mô tả rải rác ở nhiều nơi trong cuốn sách, ta sẽ vẽ lại chân dung của người cha và người mẹ tuyệt vời của tác giả.

A – Người cha : Ông John Rice ( 1923 – 2000)

John Rice là con của một vị mục sư Tin lành trong hệ phái Presbyterian, sinh trưởng ở tiểu bang Louisiana và sau này chính John cũng là một mục sư coi sóc một Hội thánh do cha ông thiết lập ở vùng ngọai ô thành phố Birmingham tiểu bang Alabama. Vốn là người tháo vát năng nổ, mục sư John đã gây dựng được một cộng đòan tín hữu sinh họat rất tấp nập sầm uất, không những về mặt phụng vụ, học hỏi giáo lý thánh kinh, mà đặc biệt về mục vụ cho giới thanh thiếu niên tại địa phương.

Ít lâu sau, thì ông chuyển đi phục vụ trong ngành giáo dục nơi các trường cao đẳng và đại học ở Tuscaloosa Alabama, Denver Colorado và sau cùng tại đại học danh tiếng Stanford California là nơi con gái của ông là Condoleezza làm giáo sư từ lâu. Là người có tài tổ chức, ông lôi cuốn thuyết phục được nhiều người hưởng ứng tham gia các chương trình hành động nhằm phục vụ giới sinh viên, đặc biệt trong lãnh vực thể thao và sinh họat tập thể ở ngòai trời. John có người chị là Theresa có bằng Tiến sĩ và đi dậy về văn chương tại các Đại học.

B – Người mẹ : Bà Angelena Ray (1924 – 1985).

Angelena Ray là một người con giữa trong gia đình có 5 anh chị em. Người anh lớn Albert Ray làm mục sư Tin lành trong hệ phái Presbyterian. Tuy người có tầm vóc nhỏ nhắn, nhưng Angelena lại có sự kiên trì theo đuổi việc học tập để hòan tất chương trình Đại học và theo đuổi nghề dậy học ở các trường trung học trong nhiều năm. Đặc biệt, theo gương thân mẫu bà còn trau dồi riêng về âm nhạc và trong nhiều năm đã phụ trách điều khiển chương trình hát thánh ca tại nhà thờ. Cái tên Condoleezza bà chọn đặt cho con gái chính là một từ ngữ âm nhạc bằng tiếng Ý có nghĩa là “ với sự dịu dàng êm ái” (with sweetness).

Vào thời nạn kỳ thị chủng tộc còn rất tàn bạo hắc ám tại nhiều tiểu bang ở miền Nam, người mẹ như Angelena chỉ còn biết hạn chế sinh họat trong phạm vi gia đình, giữa cộng đồng tín hữu nơi các khu xóm dành riêng cho người da đen. Bà luôn nhắc nhở con gái Condi rằng : “Con phải cố gắng hết sức để mà có thể “giỏi gấp đôi người ta” (twice as good). Vì nếu như vậy, thì dù người ta có thể không ưa con, nhưng ít nhất người ta cũng phải trọng nể con…”

Với cả hai cha mẹ đều là những người đạo hạnh, lương hảo và siêng năng cần cù như vậy, nên ngay từ tấm bé Condi đã được thừa hưởng một nền giáo dục tuyệt vời trong gia đình – với tình yêu thương nồng ấm của cha mẹ cũng như của bà con nội ngọai và cả của cộng đòan tín hữu ở địa phương mà cả cha lẫn mẹ đều góp phần tích cực xây dựng và phát triển.

II – Cố gắng vượt thóat khỏi nghịch cảnh của lớp người bị áp chế.

Cả cho đến thập niên 1950 – 60, thì tại miền Nam nước Mỹ nạn kỳ thị chủng tộc vẫn còn khắc nghiệt gay gắt, cụ thể là nạn khủng bố do nhóm người da trắng cực đoan 3K Ku Klux Klan thường xuyên gây ra. Trong khu vực người da đen cư ngụ, thì cái cảnh bom nổ liên miên, các nhà thờ bị đốt cháy, nhiều thường dân vô tội bị sát hại…là “chuyện thường ngày ở huyện”, đến nỗi mà thành phố Birmingham được gọi trại đi là “Bombingham”. Vị chỉ huy cảnh sát Birmingham tên là Bull Connor là một thứ hung thần ra tay đàn áp người da đen với đủ mọi thủ đọan thâm độc tàn ác.

Condi mô tả lại cái cảnh bom nổ kinh hòang tại một nhà thờ gần kề với gia đình mình vào ngày Chủ nhật 15 tháng 9 năm 1963 sát hại 4 em gái mới ở vào tuổi 11 – 14. Một trong những nạn nhân này là Denise McNair là người bạn vẫn thương chơi trò búp bê với Condi. Cũng trong thời gian đó, phong trào tranh đấu đòi Dân quyền do mục sư Martin Luther King phát động đã gây sôi nổi trong dư luận tòan quốc Hoa kỳ và được sự hỗ trợ của cả một bộ phận khá đông đảo của người Mỹ da trắng tiến bộ nữa.

Mặc dầu phải sinh sống trong môi trường xã hội tồi tệ đến như thế, cha mẹ của Condi vẫn nhẫn nại tìm cách vượt lên được do cố gắng học tập, làm việc và nhất là gắn bó liên đới chặt chẽ với tập thể người da đen đồng cảnh và đồng đạo với mình. Năm 1968, gia đình Rice dọn đến thành phố Denver tiểu bang Colorado, nhờ vậy mà Condi có cơ hội được học tập trong những trường học tốt nhất để hòan thành bậc trung học và đại học. Vào năm 1981 khi vừa đủ 26 tuổi, Condoleezza Rice đã được cấp phát văn bằng Tiến sĩ về ngành chính trị học. Cuộc sống của Condi bắt đầu từ thập niên 1980 đã diễn ra thật tốt đẹp, cả trong môi trường đại học ở Stanford California, cũng như trong hệ thống chính quyền Liên bang Mỹ ở Washington DC. Ta sẽ tìm hiểu chi tiết về sự đóng góp chuyên môn của vị nữ lưu này trong mục sau.

Ông bà Rice đã dồn hết khả năng tài chánh và công sức của mình để cho cô con gái Condi có được cơ hội học tập tốt nhất, kể cả trong lãnh vực nghệ thuật và thể thao. Từ thời thơ ấu 3 – 4 tuổi, Condi đã được học đàn piano và đã trở thành một nhạc sĩ dương cầm điêu luyện, được mời trình diễn hợp tấu trong nhiều dịp trình diễn văn nghệ, cũng như trong các thánh lễ. Condi cũng được cho học tập nhiều năm về môn nhảy múa trên băng (ice skating). Và Condi cũng theo gương người cha để tham gia ủng hộ rất nhiệt thành cho các đội banh Football, Basketball nổi tiếng trên tòan quốc.

III – Sự nghiệp của một chuyên viên cao cấp về bang giao quốc tế.

Mới vào đại học ở Denver vào năm 1971 -72, Condi có cái may được sự hướng dẫn tận tình của một vị giáo sư là chuyên viên  có nhiều kinh nghiệm thực tế về Liên Xô, đó là giáo sư Joseph Korbel thân phụ của Madeleine Albright sau này cũng là một vị Ngọai trưởng của Hoa kỳ.

Cô sinh viên trẻ đã hăng say học tiếng Nga và sau nhiều năm miệt mài trong việc học tập nghiên cứu, Condi đã trở thành một chuyên viên thành thạo trong ngành bang giao quốc tế – đặc biệt về tình hình chính trị quân sự của Liên bang Xô Viết. Và tiếp theo là được mời tham gia giảng dậy và nghiên cứu tại đại học danh tiếng Stanford ở California.

Tác giả thuật lại những khó khăn trong việc được cấp phát quy chế làm giáo sư thực thụ của đại học (tenure) – vì phải thông qua một thủ tục duyệt xét cam go của cả một hội đồng các vị giáo sư đàn anh gọi là “peer review”. Sự đánh giá về năng lực chuyên môn vừa căn cứ trên thành tích giảng dậy, mà nhất là trên những công trình nghiên cứu được phổ biến trong các tập chuyên san có uy tín, hay trong các sách do mình cho xuất bản. Điển hình là cuốn sách đầu tay do nhà xuất bản Đại học Princeton ấn hành, nhan đề là : “Uncertain Allegiance : The Soviet Union and the Czechoslovak Army” – đã được các thức giả đánh giá cao. Nhờ vậy, mà sau mấy năm làm phụ tá giáo sư, thì Condoleezza Rice đã được tuyển nhận vào ngạch giáo sư thực thụ của đại học Stanford.

Cũng tại đại học này, Condoleezza lại còn được mời giữ nhiệm vụ là Provost (Phụ tá hành chánh) trong một thời gian, trong khi vẫn tiếp tục công việc giảng dậy và nghiên cứu. Và trong nhiều năm, chuyên viên nổi danh về Liên Xô là Condoleezza Rice lại còn được mời tham gia cộng tác với chánh quyền Liên bang tại thủ đô Washington DC nữa. Từ năm 1989, bà bắt đầu tham gia trong văn phòng Ban Cố vấn An ninh cho Tổng thống George H Bush (Bush Cha).

Thời kỳ này, hệ thồng do Liên Xô lãnh đạo đang gặp những xáo trộn lớn lao, khiến cho vị lãnh đạo nước Mỹ luôn phải tham khảo với giới chuyên viên về Liên Xô như Condoleezza để có thể kịp thời đối phó với những biến chuyển có tầm vóc quan trọng như thế. Và quả thật ý kiến của Condi luôn được đánh giá cao vì sự cân nhắc thận trọng của một chuyên gia có sự hiểu biết tường tận về nội tình của khối cộng sản. Condi thuật lại những ngày tháng sát cánh với vị Cố vấn trưởng là Brent Scowcroft, đến độ phải làm việc căng thẳng liên miên suốt trên 15 tiếng đồng hồ mỗi ngày trong văn phòng tại Tòa Bạch Ốc.

Rồi dưới thời Tổng thống George W Bush (Bush Con), kể từ năm 2001, Condoleezza Rice lại giữ chức vụ Cố vấn trưởng về an ninh và sau đó thì thay thế Colin Powell để giữ chức vụ Ngọai trưởng Hoa kỳ. Bà đã hòan thành xuất sắc trong cả hai nhiệm vụ cao cấp nhất trong guồng máy của chánh phủ Liên bang – như giới báo chí ở Mỹ cũng như trên thế giới đã từng đánh giá. Nên thiết tưởng không còn phải nhắc lại ở đây nữa.

IV – Để tóm lược lại :

Nói chung, cuốn Hồi ký này được viết với một giọng văn mạch lạc trong sáng. Nhưng lại cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin về cuộc sống lương hảo, cần cù đạo hạnh trong nội bộ một gia đình người da đen giữa thời kỳ nạn kỳ thị chủng tộc còn rất tàn bạo khắc nghiệt trong khu vực các tiểu bang tại miền Nam nước Mỹ vào thập niên 1950 – 60. Đại khái, ta có thể ghi lại một vài đặc điểm như sau :

1 – Ngòai truyền thống gia đình, thì phải kể đến ảnh hưởng của tôn giáo đối với sự thăng tiến của lớp người da đen trong xã hội nước Mỹ. Có thể nói Tôn giáo đã giúp mỗi đơn vị cộng đòan tín hữu gắn bó liên kết chặt chẽ với nhau hơn hầu đối phó được với sự ngược đãi phũ phàng do người da trắng cực đoan gây ra. Đó chính là cái nguồn vốn xã hội (the social capital) có khả năng nâng cao phẩm chất cuộc sống của mỗi thành viên của cộng đòan. Trong suốt cuốn Hồi ký, tác giả luôn nhắc lại những lời nguyện cầu của mình gửi lên Thiên chúa, mỗi khi gặp một biến cố nào xảy ra cho gia đình hay cho chính bản thân mình.

2 – Là một người đã có một sự nghiệp vững chắc trong môi trường hàn lâm đại học cũng như trong guồng máy chính quyền của một siêu cường, nên Condoleezza Rice luôn có một thái độ bao dung trước vấn nạn kỳ thị chủng tộc vốn là một thực trạng mà tác giả gọi là thứ “khuyết tật bẩm sinh” (birth defect) từ nhiều thế kỷ nay trên đất Mỹ. Noi theo lời khuyên bảo của cha mẹ, bà đã cố gắng hết mức để mà “tài giỏi gấp đôi người khác” – nhờ vậy mà gặt hái được những thành công vượt bậc trên đời như ta đã thấy. Condi đã không chấp nhận thái độ “ bi quan buông xuôi tuyệt vọng”, mà cũng không chấp nhận giải pháp “bạo động nóng nảy quá khích” của một số người là nạn nhân của tình trạng kỳ thị tệ hại này (victimhood). Thái độ tích cực đó đã khiến cho Condi được nhiều người mến phục và trọng nể.

3 – Riêng trong ngành ngọai giao của nước Mỹ, thì từ hai chục năm nay các vị Ngọai trưởng đều là những vị xuất thân từ nguồn gốc di dân, thiểu số da màu và nhất là phụ nữ. Đó là những Madeleine Albright (phụ nữ gốc di dân từ Tiệp khắc), Coli Powell (gốc da đen từ Jamaica), Condoleezza Rice (phụ nữ gốc da đen) và hiện nay là Hillary Clinton (phụ nữ). Các vị Ngọai trưởng này đều đã có những đóng góp tuyệt vời trong việc nâng cao uy tín của nước Mỹ trên trường quốc tế vậy.

Vắn tắt lại, cuốn Hồi ký Gia đình này của Condoleezza Rice quả thật là một tác phẩm rất có giá trị vì chân thực, gọn gàng và lôi cuốn. Người viết xin trân trọng giới thiệu cuốn sách thật quý báu với quý bạn đọc./

Costa Mesa California, Mùa Trung Thu Nhâm Thìn 2012

Đoàn Thanh Liêm