Giới thiệu sách mới (18) : Hành trình của người trí thức dấn thân nhập cuộc

Giới  thiệu  sách  mới (18) :

Hành  trình  của  người  trí  thức  dấn  thân  nhập  cuộc

Bài của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Nguyên tác bản tiếng Anh   :  Thinking the Twentieth Century.

by :   Tony Judt with  Timothy   Snyder (xin lưu ý : Chữ Tony Judt do tác giả Timothy Snyder cố ý ghi bằng chữ lớn hơn hẳn chữ Timothy Snyder là tên của mình – cốt ý đề cao vai trò chính yếu của Tony trong cuốn sách)

Nhà xuất bản The Penguin Press, New York ấn hành năm 2012

Sách dày trên 400 trang với bìa cừng.

www. Penguin.com

*     *     *

Tony Judt (1948 – 2010) sinh trưởng tại London Anh quốc, là một giáo sư về môn lịch sử và chính trị tại nhiều Đại học danh tiếng ở Âu châu và ở Mỹ. Ông cũng là tác giả hay biên tập của 14 cuốn sách, trong đó có cuốn “Postwar : A History of Europe Since 1945” xuất bản năm 2005 là được giới thức giả quốc tế chú ý và đánh giá cao. Ông còn đóng góp nhiều bài vở cho các tạp chí nổi tiếng như The New York Review of Books, The Times Literary Supplement, The New Republic… Do bị bệnh liệt não (bệnh Lou Gehrig), ông đã sớm từ giã cõi đời tại New York vào năm 2010 lúc mới ở vào tuổi 62.

Nhận thấy bậc đàn anh lâm bệnh ngặt nghèo, nên Timothy Snyder – cũng là một giáo sư trẻ tuổi người Mỹ về môn lịch sử – trong các năm 2009 – 2010 đã đến tư gia của Tony Judt tại New York để trao đổi thảo luận trong nhiều buổi nói chuyện thân mật tay đôi với ông. Và qua việc khai thác các băng ghi âm từ những cuộc đối thọai đó, Timothy đã hòan thành được cuốn sách có nhan đề thật bao quát là : “Thinking the Twentieth Century” –  sách này vừa mới cho ra mắt công chúng trong năm 2012. Có thể nói đây vừa là cuốn sách tự truyện của Tony Judt, vừa là một nhận định tổng hợp về sự dấn thân nhập cuộc của giới trí thức tại Âu châu suốt trong thế kỷ XX.

Để thuận tiện cho độc giả theo dõi câu chuyện đối đáp giữa hai vị chuyên gia về sử học tại Âu châu trong thế kỷ XX, người viết xin lần lượt trình bày về tiểu sử các tác giả trước khi đề cập đến những mục đáng chú ý nhất trong cuốn sách.

I – Tiểu sử các tác giả.

1 – Tony Judt (1948 – 2010)

Xuất thân từ một gia đình có cả cha mẹ đều là di dân người Do Thái gốc gác từ Đông Âu, nên Tony Judt dễ có điều kiện tìm hiểu về những biến chuyển lớn lao tại miền đất xưa kia là quê hương của dòng họ bên nội cũng như bên ngọai của mình. Tony được học ở trường Đại học nổi danh bậc nhất của Anh quốc, đó là trường Cambridge – rồi lại còn được học thêm ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm ở Paris (École Normale Supérieure) là cái nôi sản sinh ra những tinh hoa của nước Pháp. Ông thông thạo nhiều ngọai ngữ như tiếng Pháp, Đức,Tiệp khắc… và được coi là một chuyên gia có thẩm quyền về Lịch sử Giới Trí thức của Pháp thời hiện đại.

Luận văn để thi bằng Tiến sĩ của ông tại Cambridge được xuất bản thành cuốn sách trước tiên bằng tiếng Pháp vào năm 1976  – với nhan đề là “La Reconstruction du Parti Socialiste 1921 – 1926” (Sự Tái Xây dựng Đảng Xã hội (Pháp) 1921 – 1926).

Ông đã giảng dậy nhiều năm về Lịch sử và Chính trị tại các Đại học danh tiếng như Cambridge, Oxford và Berkeley và làm Giám đốc Sáng lập của Viện Erich Maria Remarque tại Đại học New York, Viện này chuyên chú vào công cuộc Trao đổi và Đối thọai giữa Âu châu và Mỹ châu.

Tony Judt cũng là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng, điển hình như :” Past Imperfect : French Intellectuals, 1944 – 1956” (xuất bản năm 1992), “Marxism and the French Left : Studies on Labor and Politics in France 1930 – 1982” (xb 1990), “The Burden of Responsibility : Blum, Camus, Aron and the French Twentieth Century (xb 1998)”, “A Grand Illusion? : An Essay on Europe” (xb 1996). Và đặc biệt cuốn “Postwar : A History of Europe Since 1945” (xb 2005), thì được tạp chí New York Times Book Review xếp lọai là “một trong 10 cuốn sách hay nhất trong năm 2005”.

Ở vào tuổi 16 – 20, Tony đã nhiều lần về Do Thái để tham gia xây dựng kibbutz ở nông thôn và làm cả việc phiên dịch cho các đòan thiện nguyện viên trong cuộc chiến tranh 7 ngày năm 1967. Nhưng sau đó, Tony đã có lập trường khác biệt với chính quyền Do Thái và trở về đi học lại để hòan tất học trình thi Tiến sĩ và bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu và giảng dậy chuyên môn về lịch sử và chính trị cho đến khi lìa đời vào tháng 8 năm 2010 tại New York.

Năm 2003, Tony Judt đưa ra chủ trương “Một quốc gia – hai dân tộc” (A bi-national State) như là giải pháp cho cuộc tranh chấp Do Thái & Palestine – thì gặp phải sự phản ứng gay gắt trong công luận – khiến cho một vài tạp chí phải từ chối sự cộng tác của ông.

Về đời tư của gia đình, thì Tony Judt có hai người vợ trước đều đã ly dị. Sau cùng, ông sống đến cuối đời với bà vợ thứ ba tên là Jennifer Homans và có hai người con trai với bà này được đặt tên là Daniel và Nicolas.

2 – Timothy Snyder (sinh năm 1969)

Sinh trưởng tại Mỹ, Timothy Snyder theo học tại Đại học Brown ở Mỹ và tốt nghiệp văn bằng Tiến sĩ từ Đại học Oxford Anh quốc. Ông còn tham gia nghiên cứu tại Paris, Warsaw, Vienna và Đại học Harvard. Ông chuyên giảng dậy tại Đại học Yale về môn Lịch sử chính trị của Đông Âu hiện đại.

Ông cũng là tác giả của 5 cuốn sách đều được giải thưởng – trong đó cuốn sách nhan đề “Bloodlands : Europe between Hitler and Stalin” (Miền Đất Đẫm Máu) đã trở thành sách bán chạy nhất tại 4 quốc gia và được 10 nhà xuất bản xếp vào lọai sách hay nhất trong năm.

Timothy Snyder là người thông thạo rất nhiều ngôn ngữ Đông Âu, cụ thể như tiếng Nga, Ba Lan, Ukraine, Belorussian, Tiệp khắc và cả tiếng Yiddish của người Do Thái ở Đức và Trung Âu – đó là chưa kể tiếng Pháp và Đức. Sách của ông đã được dịch ra đến 20 ngôn ngữ khác. Chính Tony Judt đã xác nhận trong Lời cuối sách rằng :  Với sự thông suốt về lịch sử và văn hóa Đông Âu, thì Timothy Snyder là phần bổ túc thật quý báu cho mình, mặc dầu Timothy trẻ hơn 21 tuổi so với Tony.

Tuy vậy, do sự khiêm tốn, trong cuốn sách này Timothy Snyder đã lọai bỏ bớt đi phần nói về tiểu sử của bản thân mình – cốt ý để cho Tony Judt đóng vai trò chính yếu trong việc hòan thành cuốn sách. Độc giả có thể nhận ra chi tiết đó ngay trên trang bìa sách, thì chữ Tony Judt cũng lớn hơn hẳn chữ Timothy Snyder – ông này tự coi như mình chỉ là ‘một tác giả phụ” của cuốn sách mà thôi.

II – Mấy nét chính yếu của tác phẩm.

1 – Có thể xếp lọai cuốn sách này là Lịch sử Tư tưởng Chính trị và giới Trí thức trong sinh họat chính trị của thế kỷ XX ở Âu châu – đó là một lãnh vực mà cả hai tác giả đều đã dày công nghiên cứu trong nhiều năm. Vì thế mà có ấn bản lại ghi thêm một nhan đề phụ nữa là : “ Giới Trí thức và Chính trị” (Intellectuals and Politics) để bạn đọc chú ý hơn đến nội dung của sách. Phần Tự thuật của riêng Tony Judt có tác dụng minh họa cho những nghiên cứu cũng như về sự gặp gỡ trao đổi của ông với nhiều vị thức giả có tên tuổi trong giới học thuật đặc biệt xuất thân từ Đông Âu.

Cuốn sách được thành hình qua nhiều cuộc trao đổi đối thọai giữa hai vị giáo sư chuyên về môn lịch sử ở Âu châu thời cận đại – nên có tính chất linh họat của lối văn nói hơn là văn viết.

2 – Về mặt bố cục, sách được chia thành 9 chương với Lời Nói đầu của Timothy Snyder và Lời Nói cuối của Tony Judt do ông này viết tại New York vào ngày 5 tháng Bảy năm 2010 – chỉ mấy tuần trước ngày ông từ giã cõi đời vào tháng 8 năm 2010. Mỗi chương đều có nhan đề riêng biệt, điển hình như sau :

ñ  Chương 3 : Familial Socialism : Political Marxist

ñ  Chương 5 : Paris, California : French Intellectual.

ñ  Chương 6 : Generation of Understanding : East European Liberal

ñ  Chương 7 : Unities and Fragments : European Historian

ñ  Chương 9 : The Banality of Good : Social Democrat.

Phần cuối sách còn có 6 trang kê khai rất nhiều tác phẩm được hai tác giả đề cập thảo luận tới trong các cuộc đối thọai. Cuốn sách thật hấp dẫn lôi cuốn đối với người đọc – vì trong nội dung mỗi đề tài thảo luận giữa hai tác giả, thì đều ghi xen lẫn cả nhiều chi tiết về quá trình sinh sống, gặp gỡ quen biết với các chuyên gia đày tài năng khác và cả sự miệt mài say sưa trong công việc nghiên cứu không biết mệt mỏi – đó là tính chất đặc trưng của Tony Judt.

3 – Vì chủ đề của những cuộc trao đổi thảo luận quá rộng rãi – bao quát nhiều khía cạnh của lịch sử tư tưởng và sinh họat chính trị tại Âu châu suốt trong thế kỷ XX, nên việc tóm lược cho thỏa đáng về những điểm cốt lõi của cuốn sách là một công việc hết sức khó khăn – nhất là lại phải gói gọn trong một bài giới thiệu không thể kéo dài quá 3,000 chữ như thường lệ. Do vậy, tôi chỉ xin nêu ra vài ba khía cạnh đặc trưng đáng chú ý nhất trong tác phẩm – đặc biệt đối với số người Việt vốn từng quen theo dõi tình hình sinh họat chính trị tại nước Pháp. Đó là nội dung được trình bày trong phần III sau đây.

III – Những khía cạnh đáng chú ý nhất trong cuốn sách.

1 – Cách tiếp cận của người vừa ở trong cuộc, vừa ở ngòai cuộc.  (Insiders/Outsiders Approach)

Như tác giả Timothy Snyder đã ghi trong Lời nói đầu, Tony Judt vừa là người trong cuộc, vì ông dấn thân họat động cụ thể trong một số lãnh vực như một người trí thức nhập cuộc (intellectuel engagé) – mà ông cũng còn là người ngọai cuộc, vì ông chủ trương theo đuổi cái viễn kiến rộng rãi hơn, thông thóang hơn của một nhà nghiên cứu lịch sử vốn đòi hỏi một tinh thần bao quát khách quan hơn. Điều này khác biệt với phong cách của một nhà viết tiểu luận (essayist) vì ông này cần bày tỏ lập trường nhận định của mình với sự xác tín và nhiệt huyết của cá nhân mình trong bài viết – mà không bó buộc phải cân nhắc đắn đo với những đối chiếu thận trong của một nhà viết sử.

Cụ thể là Tony lúc ở tuổi 16 – 20, thì đã từng về bên nước Do Thái để tham gia xây dựng tại các kibbutz. Nhưng sau này Tony lại có ý kiến khác hẳn với chủ trương của nhà đương quyền ở xứ này. Cũng vậy, Tony theo truyền thống Marxist trong gia đình, nhưng khi trưởng thành chín chắn, thì lại theo đường hướng Xã hội Dân chủ mà ông coi là nhân bản tốt đẹp hơn hẳn chế độ tàn bạo sắt máu trong hệ thống cộng sản do Liên Xô đứng đầu. Và nhờ tiếp cận thân thiết với giới trí thức lưu vong từ Đông Âu sau năm 1968, mà Tony có cơ hội thấu hiểu cặn kẽ hơn về cái bối cảnh tòan diện chính trị xã hội và văn hóa của cả hai phía Đông Âu và Tây Âu – điều mà ít có người thức giả thực hiện được.

2 – Nhận định phê phán về Giới Trí thức của nước Pháp.

Là một nhà nghiên cứu lâu năm về tình hình chính trị cận đại của nước Pháp, Tony Judt đã trình bày những nhận xét hết sức rõ rệt sắc nét về giới Trí thức của Pháp trong thế kỷ XX. Tony thẳng thừng phê phán những trí thức thiên tả hàng đầu của Pháp như Jean – Paul Sartre, Maurice Merleau-Ponty, Simone de Beauvoir … là những người cố chấp, thiên vị đến độ mù lòa (blindfully) đồng lõa với chủ trương tàn ác của Staline. Họ coi cách mạng ở Nga năm 1917 là sự tiếp nối của cách mạng Pháp năm 1789. Tony coi họ có tinh thần điạ phương cục bộ, khư khư bám víu vào cái hư danh của truyền thống cũ kỹ cổ xưa của mình (parochial). (Xin đọc chi tiết nơi cuốn “Past Imperfect : French Intellectuals, 1944 – 1956 – xuất bản năm 1992)

Trái lại, Tony Judt lại đề cao những trí thức như Léon Blum, Albert Camus và Raymond Aron là những người đã có sự dũng cảm đi ngược lại cái khuynh hướng thiên tả cố chấp của đa số trí thức đương thời – để nói lên sự cảnh báo trước nguy cơ bành trướng của khối cộng sản Liên Xô kể từ sau năm 1945. Ông đã viết cả một cuốn sách nhỏ xuất bản năm 1998 dưới nhan đề là “The Burden of Responsibility…” đề cập chi tiết hơn về ba nhân vật này.

Trong cuộc đàm đạo với Timothy, thì Tony còn thuật lại vào tháng 2 năm 1948, cựu lãnh đạo Mặt trận Bình Dân ở Pháp năm 1936 (Front Populaire) là chính Léon Blum đã phải viết trong bài xã luận của tờ báo Le Populaire của Đảng Xã hội rằng : Ông nhận sự sai lầm của mình khi tin rằng phe Xã hội có thể hợp tác với phe Cộng sản” (trang 214) .

3 –  Về chính sách kinh tế, Tony Judt bênh vực John Maynard Keynes.

Giữa hai quan điểm đối nghịch của John Maynard Keynes là kinh tế gia người Anh giữa thế kỷ XX và của Friedrick Hayek người gốc Áo quốc gần đây, thì Tony Judt có vẻ thiên về tác giả Keynes là người cổ võ cho chính sáchTòan dụng trong nền Kinh tế Vĩ mô (Full Employment in Macro-economics) – mà ông coi là bổ túc cho khuynh hướng của chủ trương kế họach hóa do Sir William Beveridge đề xuất ở nước Anh. Tony biện minh rằng chủ trương của Keynes có tính cách mềm dẻo linh động, chứ không có sự khe khắt khắc nghiệt làm tê liệt sáng kiến của giới doanh nhân –  như Hayek đã nặng nề phê phán, đặc biệt trong tác phẩm nổi danh “The Road to Serfdom” của ông (Con Đường dẫn đến Sự Nô dịch).

Tony coi trọng thành quả của Tây Âu là đã xây dựng vững chắc được các định chế dân chủ và đặt nền móng sâu rộng cho một số quốc gia có nền phúc lợi xã hội khả quan (The Social Welfare State). Đặc biệt là sự thành công của chế độ Dân chủ Xã hội tại các quốc gia ở Bắc Âu châu (Social Democracy).

IV – Để tóm lược lại.

1 – Tuy chủ đề của cuốn sách quá rộng lớn bao quát, nhưng vì nội dung của các buổi thảo luận được trình bày xen kẽ với nhiều chi tiết sinh động về tiểu sử có tính cách tự thuật của Tony Judt, nên người đọc dễ theo dõi câu chuyện với sự thích thú kỳ diệu mà lại nhẹ nhàng. Cả hai tác giả đều là những nhà giáo – nhà nghiên cứu uyên bác và đã từng có những tác phẩm được đánh giá cao trong học giới cũng như trong công chúng độc giả. Vì thế, sự trình bày của họ trong cuốn sách thì rất là phong phú khúc chiết – nó giúp chúng ta có được một cái nhìn tổng hợp về tư tưởng và hành động của giới trì thức tiêu biểu tại Âu châu trong thế kỷ XX. Có thể nói các tác giả đã cung cấp cho người đọc một thứ lộ đồ (a road map) để khám phá cái không gian tư tưởng cực kỳ bao la đa dạng và phức tạp của thế kỷ XX.

2 – Đúng như nhan đề của bài viết, cuốn sách này là một thứ tự thuật của Tony Judt về quá trình nhập cuộc của bản thân mình trong sự tìm kiếm một giải pháp thỏa đáng cho xã hội đương thời. Mà đồng thời cũng trình bày những nét chính yếu về vai trò của tòan thể giới trí thức ở Âu châu trong sinh họat chính trị văn hóa suốt thế kỷ XX. Các tác giả đã bày tỏ sự lạc quan và xác tín của mình trước viễn tượng của một nền Dân chủ Xã hội mà các thế hệ trẻ của thế kỷ XXI có thể xây dựng được – sau khi rút kinh nghiệm từ những thất bại của các thế hệ đàn anh của thế kỷ XX.

*     *  Người viết xin hân hạnh được giới thiệu với quý bạn đọc cuốn sách rất hấp dẫn lôi cuốn và cũng thật có giá trị vững chắc này vậy./

Costa Mesa California, Tháng 12 năm 2012

Đoàn Thanh Liêm

Gặp nữ tài tử khai sinh nghề nail cho cộng đồng Việt tại Mỹ

Gặp nữ tài tử khai sinh nghề nail cho cộng đồng Việt tại Mỹ

Nguoi-viet.com

*40 năm hội ngộ của Weimar Hope Village – chiếc nôi nghề nail của người Việt tị nạn


Ngọc Lan/Người Việt

WESTMINSTER, Calif. (NV) – “Nhớ đến trại Weimar là nhớ đến những ân nghĩa người Mỹ dành cho mình, dạy học tiếng Anh, dạy học đánh máy, dạy lái xe, dạy nghề nail, tất cả giúp cho mình nhiều lắm để hòa nhập vào đời sống nơi đây.” Ông Trần Dật, 80 tuổi, hiện ở Glendale, bày tỏ suy nghĩ.

Ông Dật, 80 tuổi, cựu phi công trong Quân Lực VNCH, là một trong số đông những người có mặt tại tòa soạn Nhật Báo Người Việt vào trưa Chủ Nhật, 26 Tháng Bảy, để cùng tham dự buổi hội ngộ đầu tiên của những người từng trải qua ngày tháng sống tại Weimar Hope Village, nơi được xem là chiếc nôi của nghề nail của người Việt tị nạn từ 40 năm trước.

40 năm vẫn muốn nói một lời tạ ơn

40 năm – thời gian bằng nửa đời người – có được một lần hội ngộ, để gặp lại những người xưa năm cũ, để được nói một lời cám ơn những ân tình nhận được trong những ngày tháng lao đao nhất, quả thật có nhiều cảm xúc.

Những người từng ở Weimar Hope Village năm 1975 gặp lại sau 40 năm (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Bà Trương Kim Dung, hiện ở Laguna Niguel, người khởi xướng cho buổi gặp gỡ đặc biệt này, cho biết: “Lý do để 40 năm mới tổ chức được buổi này là vì khi ra khỏi trại, mọi người đi tản mác khắp nơi, không liên lạc được với ai, nên sự thân mật gần gũi không đủ mạnh để tổ chức được điều gì. Đến dịp 40 năm vừa rồi cứ nghe trên đài trên báo nói nhiều quá nên lòng tôi cũng hơi xốn xang, tôi nghĩ mình phải có một dịp để cám ơn tổ chức “Food For the Hungry”, cám ơn những người đã giúp mình từ những ngày đầu đến Mỹ nên tôi cố gắng viết thư liên lạc, để chuẩn bị nhiều thứ cho ngày họp mặt này.”

Nghe hỏi “Cô nhớ gì nhất trong những ngày ở trại Weimar?”, bà Dung chùng giọng, “Tôi đến Mỹ khi đó mới 26 tuổi, cùng hai đứa con, chồng thì mất trước đó, nên tâm trạng không vui. Thế nên khi đứng đâu ngồi đâu cũng tìm, cũng nhìn những gì gợi quê hương, vì vậy mà những hàng thông ở Weimar, mùi thông ở Weimar là thứ làm tôi nhớ nhất, bởi nó làm tôi nhớ nhà.”

Với ông Nguyễn Cao Đạt, người con trai thứ ba của cựu thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, thì Weimar Hope Village mang đến nhiều kỷ niệm không quên, bởi ông chính là “thiện nguyện viên đầu tiên đặt chân vào trại này cùng cựu Đại Tá Không Quân Jack Bailey.” Ngày đó, Nguyễn Cao Đạt mới là một thanh niên 19 tuổi.

Ông Đạt kể: “Khởi đầu Weimar Hope Village vốn là một nhà thương. Khi người ta không còn dùng nó làm bệnh viện nữa thì tổ chức ‘Food For the Hungry’ mướn chỗ này để đưa người Việt Nam tị nạn đến. Khi đó cựu Đại Tá Không Quân Jack Bailey liên lạc với bố tôi là Nguyễn Cao Kỳ nói rằng ông muốn giúp những người tị nạn Việt Nam, đặc biệt là những người Không Quân. Bố tôi nói làm gì được cho người tị nạn bố tôi đều sẵn sàng. Tôi nghe được cuộc nói chuyện giữa hai người nên nói với bố là tôi tình nguyện đi với ông Bailey.”

“Có thể nói tôi là người thiện nguyện đầu tiên bước chân vào trại này, lúc đó chưa có ai hết. Tôi cùng ông Bailey đến đây sắp xếp mọi thứ trước khi đón mọi người đến. Rồi nhiều người cùng đến giúp đỡ, trong đó có Bác Sĩ Larry Ward, có tài tử Tippi Hedren…” Ông Đạt nhớ lại.

40 năm, lần đầu gặp lại, ông Đạt thấy “vui lắm, đặc biệt lắm.”

Ông nói, “Ngày đó mình còn trẻ, có nhiều người cũng trẻ như mình, giờ bao nhiêu năm gặp lại thấy vui, thấy quý lắm. Đặc biệt nhất là con nuôi của ông Jack Bailey là cậu Minh, 40 năm mình mất liên lạc với nhau, vậy mà hôm nay nhờ buổi này mà mình mới gặp lại nối lại tình bạn tình anh em ngỡ như đã mất.”

Cũng cùng cảm xúc đó, ông Trần Dật bày tỏ, “Gặp lại những người từ 40 năm trước thấy rất xúc động. Có người ở Sacramento xuống, có người ở tiểu bang khác về. Gặp nhau vui lắm. Vui nhất là mình còn sống để được nhìn thấy mọi người, chứ nhiều người đã mất rồi. Ngày đến trại tôi mới 40, giờ đã 80 rồi còn gì.”

Nữ tài tử Tippi Hedren (ngồi, bên phải), người mang nghề nail đến cho người Việt tị nạn từ năm 1975

và những học viên nghề nail đầu tiên trên đất Mỹ, hội ngộ sau 40 năm. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Bà Ánh Vũ, 67 tuổi, ở Thousand Oaks thuộc Ventura County, tỏ ra rất vui khi nhớ lại ngày tháng cũ: “Nhớ lại thời đó cái gì cũng làm, ai kêu gì mình cũng giúp. Ban đêm ban khuya có loa gọi đi thông dịch, mình cũng đi. Tôi cũng đi học nail cùng mọi người để giúp thông dịch cho những người không biết tiếng Anh nữa.”

Bà Ánh nghỉ hưu từ 7 năm trước, sau một ngày duy nhất đi làm nail và 32 năm liên tục làm việc cho ngân hàng. Bà nói, “Tôi không có thói quen nghĩ về những điều đau buồn đã qua. Những gì không vui hãy cứ để nó trôi qua. Tôi chỉ muốn hướng đến những gì tốt hơn, và giúp mọi người với tất cả khả năng mình có.”

Tại buổi gặp gỡ, những người có mặt nhắc nhiều đến Bác Sĩ Larry Ward, người sáng lập tổ chức “Food For The Hungry”, tổ chức đã giúp đỡ cho các gia đình tị nạn Việt Nam tại Weimar Hope Village.

Bà Cao Thị Hoa Đào, hiện ở Elk Grove, từng là thư ký của Bác Sỹ Larry Ward từ những ngày còn ở Sài Gòn, cũng có mặt tham dự buổi hội ngộ 40 năm. Bà nói trong sự xúc động, “Được hiện diện ở đây tôi muốn cám ơn người sáng lập ra hội ‘Food for the Hungry’ mà tôi may mắn được làm thư ký cho ông từ lúc còn ở Việt Nam. Tôi tin rằng ông vẫn còn đâu đó quanh chúng ta, hướng về chúng ta để giúp chúng ta như ông đã từng.”

Nhiều giọt nước mắt đã lăn trên những gương mặt hằn nhiều vết nhăn của thời gian, không kể đàn ông hay phụ nữ, khi nghe người này, người kia nhắc lại, ôn lại ký ức xưa, kể từ những phút cuối cùng họ trắng tay, mất gia đình, mất sự nghiệp, mất cả quê hương.

Gặp người khai sinh nghề nail cho cộng đồng Việt

Có lẽ nhân vật được chú ý nhiều nhất, được mọi người vây quanh chụp hình nhiều nhất trong buổi hội ngộ của Weimar Hope Village chính là nữ tài tử Tippi Hedren, người được xem là khai sinh ra nghề nail cho cộng đồng Việt tại Hoa Kỳ từ năm 1975.

85 tuổi, nhưng nét đẹp quý phái, sang trọng vẫn rạng rỡ trên gương mặt của người diễn viên nổi tiếng trong cuốn phim kinh dị The Birds của đạo diễn Alfred Hitchcock. Không chỉ vậy, vẻ đẹp nhân hậu của một tâm hồn luôn hướng về những người đau khổ dường như lại vượt lên tất cả khi nhìn ngắm bà.

Tài tử Tippi Hedren, người có công mang nghề nail đến cho cộng đồng Việt Nam. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)

Trò chuyện với phóng viên Người Việt, bên cạnh là nữ tài tử Kiều Chinh, người cũng trải qua một thời gian ngắn ở Weimar Hope Village, bà Hedren kể lại những công việc mà bà đã làm để giúp đỡ tha nhân nói chung và người tị nạn Việt Nam buổi đầu nói riêng.

“Trong thời gian làm thiện nguyện cho ‘Food For The Hungry’, tôi đi vòng thế giới để giúp mọi người ở những nơi bị động đất, sóng thần, hay bất cứ tai ương nào. Khi Sài Gòn bị thất thủ, biết được có nhiều người Việt Nam vượt thoát trên những chiếc thuyền nhỏ, chúng tôi bèn mướn một chiếc tàu cùng thủy thủy đoàn của Úc đi vòng vòng trên biển China Seas để giúp cho những thuyền nhân.” Bà Herden bắt đầu câu chuyện.

Bà tiếp tục, “Chúng tôi cho họ thức ăn, quần áo, thuốc men. Nhưng do luật hàng hải quốc tế, nên những người Việt Nam không thể ở trên tàu được. Tuy nhiên chúng tôi có thể hướng dẫn họ đi đến những bến bờ nào an toàn vì tôi nghĩ nhiều thuyền không có la bàn, họ không biết nơi mình đến. Đó là một phần quan trọng trong số những việc mà chúng tôi làm.”

“Sang đến Mỹ, trại Weimar Hope Village ở miền Bắc California vốn là một bệnh viện trị lao trước đây nên rất lớn, có rất nhiều phòng. Họ dùng nơi đó cho người tị nạn ở. Rồi chúng tôi đi tìm sự đỡ đầu, tìm những thứ cần thiết để giúp cho người tị nạn như dạy họ lái xe, hướng dẫn họ thi lấy bằng lái, tìm việc làm… Tôi mang đến trại Weimar những người thợ dạy cắt may, dạy đánh máy để giúp cho những người chưa có việc làm có việc để học, để họ có được một nghề trong tay để mà đi kiếm việc.” Diễn viên Tippi Hedren nhớ lại.

Theo lời kể của bà Hedren, trong thời gian lui tới giúp đỡ cho những người tị nạn Việt Nam tại Weimar, bà làm bạn với khoảng 20 người phụ nữ khác ở đây, những người theo bà là “rất thân, rất tử tế, dịu dàng” và bà “thích họ lắm”.

Người phụ nữ có đôi mắt thật đẹp này nhớ tiếp, “Trong thời gian quen biết họ, tôi nhận ra là họ rất thích hai bàn tay tôi với những móng tay dài, được chăm chút kỹ lưỡng, và hay sơn màu san hô. Thế là tôi nghĩ, ồ, đây là cơ hội tuyệt nhất cho những người phụ nữ này đi học nghề nail, để trở thành những người thợ nail chuyên nghiệp.”

20 phụ nữ gốc Việt đầu tiên được học nghề nail

từ trại Weimar Hope Village 40 năm trước (Hình: Facebook củaWeimar Hope Village)

Nghĩ là làm. Nữ tài tử xinh đẹp Tippi Hedren bèn “đề nghị người thợ làm móng của tôi ở Los Angeles lên Weimar dạy cho những người phụ nữ đó làm nail. Cô ta đồng ý và mỗi tuần một lần cô ta lên Weimar dạy cho những người phụ nữ Việt Nam các bước làm móng, rồi họ thực tập làm với nhau, họ tập làm luôn trên cả tay của tôi.”

“Chúng tôi đã có một thời gian rất vui khi nhìn thấy một cơ hội đầy thú vị để trở thành thợ nail chuyên nghiệp. Nghề nail có thể là một nghề sang cả, một nghề mang đầy tính nghệ thuật.” Bà nói.

Bà tiếp tục kể lại chuyện của 40 năm trước, bằng giọng dịu dàng, “Người thợ nail của tôi tên là Dusty, tôi không nhớ họ cô ta. Cô ta thích công việc làm nail, thích cả việc dạy cho những người phụ nữ này làm nail. Nhiều người cũng thích cổ và theo học tới cùng, dù không phải tất cả.”

“Rồi chúng tôi mướn một chiếc xe bus chở họ đến một trường mà tôi quên tên rồi, ở phía Nam của Sacramento, để họ học tiếp lấy bằng. Họ đều đậu khi thi bằng tiếng Anh. Tôi nghĩ chương trình giúp đỡ cho những người tị nạn này đã rất thành công Họ đi ra khỏi Weimar, và đi làm.”

“Tôi vẫn giữ liên lạc với họ. Lúc đó nghe có người khoe mua nhà, người thì mua xe Cadillac. Tất cả đều như chuyện hoang đường, không tin được. Bởi vì thật không hề dễ dàng cho bất kỳ ai đặt chân đến một nơi xa lạ mà mình hoàn toàn không biết, ngay sau khi vừa bước ra khỏi sự hoang tàn cuộc chiến. Điều tuyệt vời nhất để nhìn về sự thành công của họ chính là ở chỗ họ đã từng cảm thấy rất sợ hãi vì họ mất tất cả mọi thứ, kể cả quê hương.” Người phụ nữ góp phần mang lại sự giúp đỡ lớn lao cho người tị nạn Việt Nam nói về những suy nghĩ đầy nhân bản của mình.

Trả lời cho câu hỏi, “Khi tìm người dạy nghề nail cho 20 người phụ nữ Việt Nam đầu tiên, bà có nghĩ đến việc nghề nail sẽ thành công và phát triển như hôm nay không?”

Bà Hedren tròn mắt, “Thật không thể tưởng tượng được. Hiện nay nail đã trở thành ngành công nghiệp mang lại hàng tỉ đô la. Tôi ước gì tôi có được một phần nào số tiền đó.”

“Tôi thật sự không ngờ nó lại thành công và phát triển đến mức như vậy. Tôi rất vui khi nghề nail đã mang sự thành công đến với những người thợ nail và cả gia đình của họ để có được cơ sở tài chánh vững vàng, để có cuộc một cuộc đời tươi đẹp nơi đây.” Bà mỉm cười.

Liên lạc tác giả: Ngoclan@ngươi-viet.com

Ông tướng Phùng Quang Thanh đi xem ‘giao lưu nghệ thuật’

Ông tướng Phùng Quang Thanh đi xem ‘giao lưu nghệ thuật’

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Mãi cho đến hôm Thứ Hai, truyền thông chính thống CSVN mới đưa tin kèm theo hình ảnh và video clips ông đại tướng bộ trưởng quốc phòng để giải tỏa các lời đồn đoán ông ta đã chết.

Tướng Phùng Quang Thanh ngồi cạnh Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng
tham dự buổi “giao lưu nghệ thuật” có chủ đề là “khát vọng đoàn tụ” ở Hà Nội.
(Hình: VnExpress)

Các báo ở Việt Nam đưa tin ông tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng Quốc Phòng CSVN tới hội trường Bộ Quốc Phòng, buổi tối ngày 27 tháng Bảy, 2015, tham dự “chương trình giao lưu nghệ thuật” với chủ đề “Khát vọng đoàn tụ” nhân kỷ niệm “68 năm Ngày Thương Binh-Liệt sĩ do Ban Chỉ Đạo Quốc Gia 1237 phối hợp với Đài Truyền Hình Việt Nam, Trung Tâm Phát Thanh-Truyền Hình Quân Đội tổ chức.”

Chương trình này được truyền hình trực tiếp trên VTV1 thấy có sự có mặt của một số nhân vật hàng đầu của chế độ như ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang, phó chủ tịch Quốc Hội Tòng Thị Phóng, phó thủ tướng Vũ Đức Đam, chủ tịch MTTQ Nguyễn Thiện Nhân, trưởng Ban Dân Vận Trung Ương Hà Thị Khiết. Và đặc biệt, có mặt ông Phùng Quang Thanh.

Một vài đoạn video clips ngắn và một số hình ảnh được hệ thống báo đài nhà nước trưng ra để chứng minh một ông Phùng Quang Thanh bằng xương bằng thịt còn sống chứ không phải đã chết, kể cả chuyện bị ám sát, như những lời đồn đãi tràn lan trên mạng từ một tháng nay.

Cho tới khi báo chí trong nước đưa tin ông Phùng Quang Thanh về đến phi trường Nội Bài, Hà Nội, sáng ngày 25 tháng Bảy, 2015, vẫn có những lời nghi ngờ vì tấm hình duy nhất mà tờ Tuổi Trẻ trưng ra được chụp từ xa. Người được nói là ông Phùng Quang Thanh đứng lố nhố cùng với một số người phía sau chiếc Lexus SUV không được rõ nét, nên không đánh tan được ngờ vực.

Ông Phùng Quang Thanh qua Pháp chữa bệnh nghi là bị ung thư phổi nhưng ngụy trang dưới hình thức sang Pháp gặp bộ trưởng Quốc Phòng Pháp ngày 19 tháng Sáu. Ngay ngày hôm sau thì ông vào bệnh viện George Pampidou rồi được giải phẫu cắt “khối u” ở phổi và rồi bệnh viện ngày 10 tháng Bảy.

Trong khi đó, Ban Bảo Vệ Sức Khỏe Trung Ương ở Hà Nội thì loan tin dối trá là ông vào bệnh viện ở Paris ngày 24 tháng Sáu, khác với sổ bệnh nhân của bệnh viện nói trên.

Các tin tức liên quan đến sức khỏe, bệnh tật của những người cầm đầu chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam thường được che giấu kỹ lưỡng cho tới khi nào không thể che đậy được nữa thì mới xì ra một ít.

Nếu không có những lời đồn đại ông ta bị ám sát hoặc tin ông ta đi chữa bệnh rồi chết ở Pháp thì chuyện ông Phùng Quang Thanh mượn cớ sang Pháp chữa bệnh sẽ hoàn toàn không được thấy trên mặt báo chí chính thống của chế độ.

Tin ông Nguyễn Bá Thanh bị ung thư chạy sang Mỹ chữa bệnh ở Seattle chỉ được báo chí trong nước thuật lời quan chức “Ban bảo vệ sức khỏe trung ương” nói đến khi hình ảnh ông Nguyễn Bá Thanh nằm trên giường bệnh viện ở Mỹ truyền đi rộng rãi trên các diễn đàn thông tin “lề trái.”

Dù vậy, không hề có tấm hình nào của ông Nguyễn Bá Thanh nằm bệnh viện trên báo chí nhà nước CSVN. Thậm chí, ngày ông bị bệnh viện Mỹ “chê” tức là họ đã làm hết cách và khuyên ông về Việt Nam cho gia đình lo hậu sự, vẫn bị che giấu. “Ban bảo vệ sức khỏe trung ương” vẫn còn đưa ra các lời lẽ lạc quan cho đến ngày ông ta sắp chết về phương pháp điều trị phối hợp động Tây y. Và không hề có một tấm hình nào về ông Nguyễn Bá Thanh xuất hiện.

Chuyện sống chết và sức khỏe của ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh cuối cùng được nhiều báo điện tử ở Việt Nam đưa thông tin chỉ nhằm đối phó với các mạng xã hội.

Ông Phùng Quang Thanh, 66 tuổi, được một số nhà bình luận thời sự dự đoán ông là một trong mấy ứng viên vào các ghế chủ tịch nước hay tổng bí thư Đảng CSVN tại kỳ họp đại hội đảng dự trù tổ chức vào đầu năm 2016 tới đây.

Nếu ông có vấn đề sức khỏe nghiêm trọng thì tương lai chính trị của ông ta coi nhưng đóng lại. Không có những tai tiếng tham nhũng trực tiếp nhưng con trai ông, đại tá Phùng Quang Hải, Chủ tịch Hội đồng thành viên của Tổng Công Ty 319 Bộ Quốc Phòng CSVN, bị trang mạng “Chân Dung Quyền Lực” đưa ra nhiều hình ảnh, tài liệu để “giới thiệu” tài sản kếch xù và đời sống xa hoa trụy lạc của một “ông giời con” tại Bộ Quốc Phòng.

Nếu không có ông bố chống lưng, ông con Phùng Quang Hải không thể có cơ hội thâu tóm những hợp đồng khổng lồ để vơ vét hàng triệu đô la cho bố con nhà ông. Bây giờ, ít ra, người ta thấy ông Phùng Quang Thanh còn ngồi trên ghế bộ trưởng Quốc Phòng, ủy viên Bộ Chính Trị và phó chủ tịch Quân Ủy Trung Ương, đại biểu Quốc Hội, cho đến đầu năm 2016, nếu ông ta không chết trước đó. (TN)

5 “chuyện lạ” ở đất nước Nhật Bản

5 “chuyện lạ” ở đất nước Nhật Bản

Dường như người Nhật Bản rất thấm nhuần và áp dụng giáo lý đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày, cho nên họ quí trọng xem con người đều bình đẳng vì cùng có Phật tánh như nhau, chứ không dựa vào dáng vẻ giàu nghèo bên ngoài, thường xuyên làm chuyện phải có lợi ích cho người khác, cũng như không dám trộm cắp, hại người, để được nghiệp quả tốt.

Chuyện thứ nhất: Trung thực

Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao? Các bác tài sẽ tự chở bạn thẳng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”.

Sự trung thực của người Nhật in đậm nét ở những “mini shop không người bán” tại Osaka. Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân. Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm. Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh. Người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng. Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà. Nhẹ nhàng và đơn giản. Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka… cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ, túi xách.

Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào. Người Nhật tự hào khẳng định động từ “ăn cắp vặt” gần như đã biến mất trong từ điển. Nếu bạn đến Nhật, toàn bộ các cửa hàng sẽ tự động trừ thuế, giảm 5 – 10% khi biết bạn là khách nước ngoài.

Chuyện thứ hai: Không ồn nơi công cộng

Nguyên tắc không gây tiếng ồn được áp dụng triệt để tại Nhật. Tất cả đường cao tốc đều phải xây dựng hàng rào cách âm, để nhà dân không bị ảnh hưởng bởi xe lưu thông trên đường. Osaka bỏ ra 18 tỷ USD xây hẳn 1 hòn đảo nhân tạo để làm sân bay rộng hơn 500ha ngay trên biển. Lý do đơn giản chỉ vì “người dân không chịu nổi tiếng ồn khi máy bay lên xuống”.

Tại các cửa hàng mua sắm, dù đang vào mùa khuyến mãi, cũng không một cửa hàng nào được đặt máy phát ra tiếng. Tuyệt đối không được bật nhạc làm ồn sang cửa hàng bên cạnh. Muốn quảng cáo và thu hút thì cách duy nhất là thuê một nhân viên dùng loa tay, quảng cáo với từng khách.

Chuyện thứ ba: Nhân bản

Vì sao trên những cánh đồng ở Nhật luôn còn một góc nguyên, không thu hoạch? Không ai bảo ai, những nông dân Nhật không bao giờ gặt hái toàn bộ nông sản mà họ luôn để phần 5 – 10% sản lượng cho các loài chim, thú trong tự nhiên.

Chuyện thứ tư: Bình đẳng

Mọi đứa trẻ đều được dạy về sự bình đẳng. Để không có tình trạng phân biệt giàu nghèo ngay từ nhỏ, mọi trẻ em đều được khuyến khích đi bộ đến trường. Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất. Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.

Việc mặc đồng phục vest đen từ người quét đường đến tất cả nhân viên, quan chức, cho thấy một nước Nhật không khoảng cách. Những ngày tuyết phủ trắng nước Nhật, từ trên cao nhìn xuống, những công dân Nhật như những chấm đen nhỏ di chuyển nhanh trên đường. Tất cả họ là một nước Nhật chung ý chí, chung tinh thần lao động.

Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật. Không có bất cứ sự ưu tiên. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày ở Nhật, bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là Thủ tướng.

Chuyện thứ 5: Nội trợ là một nghề.

Ở Nhật Bản, hàng tháng chính phủ tự trích lương của chồng đóng thuế cho vợ. Do đó, người phụ nữ ở nhà làm nội trợ nhưng vẫn được hưởng các tiêu chuẩn y như một người đi làm. Về già, vẫn hưởng đầy đủ lương hưu.

Độc đáo hơn nữa là nhiều công ty áp dụng chính sách, lương của chồng sẽ vào thẳng tài khoản của vợ. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình vì thế luôn được đề cao, tôn trọng.

Ngày tổng tuyệt thực toàn cầu kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm VN

Ngày tổng tuyệt thực toàn cầu kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm VN

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2015-07-25

Ngày tổng tuyệt thực toàn cầu kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm VN Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

HN5-622.jpg

Ngày tổng tuyệt thực toàn cầu kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm VN

Nhiều người tại Hà Nội hưởng ứng ngày tổng tuyệt thực toàn cầu kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm trong nước hôm 25/7/2015.

Courtesy DLB

Your browser does not support the audio element.

Nhiều người tại Việt Nam hôm nay hưởng ứng ngày tổng tuyệt thực toàn cầu kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm trong nước. Thực tế diễn ra thế nào tại các địa phương ở Việt Nam?

Hưởng ứng

Sau khi có kêu gọi tiến hành ngày tổng tuyệt thực, một số nhà hoạt động ở Việt Nam công khai địa điểm sẽ tiến hành tuyệt thực trên khắp ba miền.

Cụ thể tại khu vực Hà Nội có thông báo từ 8 giờ sáng ngày 25 cho đến 8 giờ sáng ngày 26 tháng 7 hoạt động tuyệt thực kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm tại Việt Nam sẽ được tiến hành tại công viên Bách Thảo, đường Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình. Tại Nha Trang là ở công viên bờ biển Trần Phú, và tại Sài Gòn là tại văn phòng Công Lý- Hòa Bình, Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế 38 Kỳ Đồng.

Ngoài ra còn một số người ở các địa phương khác như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng cho biết tiến hành tuyệt thực tại gia.

Tuyệt thực – tọa kháng

Đúng ngày giờ đã thống nhất những người tham gia tuyệt thực để kêu gọi trả tự do cho những tù nhân lương tâm tại Việt Nam thực hiện kế hoạch của họ; dù một số bị an ninh ngăn chặn không cho ra khỏi nhà. Ngoài ra một số người cho biết công viên Bách Thảo, cũng như vườn hoa Mai Xuân Thưởng tại Hà Nội vào sáng ngày 25 tháng 7 bị lực lượng chức năng phong tỏa.

” Chúng tôi chỉ là 19 người trong số hằng trăm người tham gia ngày tuyệt thực tại Việt Nam. Vì vẫn biết sự sách nhiễu của nhà cầm quyền Việt Nam nên chúng tôi phải chia ra từng nhóm nhỏ. Nhóm này do chị Sông Quê và tôi khởi xướng có tên là ‘Tuyệt thực và Dã ngoại’.
-Anh Trương Minh Tam”

Anh Trương Minh Tam, một cựu tù nhân, tham gia ngày tổng tuyệt thực ở khu vực Hà Nội cho biết hoạt động tại đó vào lúc gần 11 giờ như sau:

“Chúng tôi chỉ là 19 người trong số hằng trăm người tham gia ngày tuyệt thực tại Việt Nam. Vì vẫn biết sự sách nhiễu của nhà cầm quyền Việt Nam nên chúng tôi phải chia ra từng nhóm nhỏ. Nhóm này do chị Sông Quê và tôi khởi xướng có tên là ‘Tuyệt thực và Dã ngoại’. Vào buổi sáng chúng tôi đến dâng hương cho các bậc tiền nhân là đền thờ An Dương Vương; chúng tôi hy vọng những suy nghĩ của chúng tôi sẽ được linh nghiệm bởi những bậc tiền nhân. Chúng tôi thấy đúng là có sự linh nghiệm vì sáng hôm nay ở Hà Nội trởi đổ mưa rất lớn; nhưng khi chúng tôi bước vào đền làm lễ thì thời tiết bên Đông Anh, tại di tích Cổ Loa thời tiết rất tốt. Chúng tôi đã tiến hành căng băng rôn thể hiện tinh thần chia sẻ với các tù nhân lương tâm, kêu gọi – thúc giục chính quyền Việt Nam phải tôn trọng các quyền tự do biểu đạt của chúng tôi.

Chúng tôi thực hiện đúng cam kết với ban tổ chức cuộc tuyệt thực là đúng thời điểm từ 8 giờ cho đến nay chúng tôi chỉ sử dụng nước sạch. Chúng tôi chuẩn bị đầy đủ hậu cần cho đoàn gồm nước sạch, khăn ướt, khăn khô.

Chúng tôi rất vui khi chúng tôi thực hiện chương trình tuyệt thực thì tại Cổ Loa cũng đang có lễ hội, và rất nhiều người tò mò quan tâm đến sự kiện của chúng tôi và chúng tôi hy vọng tinh thần đó sẽ lan tỏa trong nhân dân.

Cũng giống như tại các khu vực khác thì có một số an ninh từ Hà Nội hay khu vực kéo sang; tuy nhiên chúng tôi cũng ghi nhận là đến thời điểm này họ cũng đối xử với chúng tôi hết sức ôn hòa, chưa có động thái sách nhiễu nào với chúng tôi.”

aT-SG2-400.jpg

Nhiều người tại Sài Gòn hưởng ứng ngày tổng tuyệt thực toàn cầu kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm trong nước hôm 25/7/2015. Courtesy DLB.

Bốn nhà hoạt động tại khu vực trung miền trung cũng tiến hành tuyệt thực và tọa kháng tại tư gia của anh Nguyễn Đức Quốc ở thị trấn Lăng Cô. Chủ nhân cho biết:

“Chúng tôi tuyệt thực tại tư gia của tôi là 284 Lạc Long Quân thị trấn Lăng Cô, Huế. Cuộc tuyệt thực của chúng tôi gồm 4 anh em: Nguyễn Đức Quốc, kỹ sư-blogger Nguyễn Văn Thạnh, kỹ sư – blogger Lê Anh Hùng và bạn trẻ Nguyễn Thái Sơn ở Đà Nẵng. Chúng tôi bắt đầu cuộc tuyệt thực vào lúc 8 giờ sáng nay, 25 tháng 7, 2015 cho đến sáng ngày mai 26 tháng 7.

Chúng tôi tọa kháng tại tư gia và chuẩn bị tất cả nếu có điều gì xảy ra với chúng tôi thì sẽ có tiếng nói của mình để phản ánh sự làm khó của nhà cầm quyền nhưng thực sự hôm nay chúng tôi không bị làm khó.”

Những người tham gia tuyệt thực tại thành phố Nha Trang gồm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trương Hoàng Anh, Nguyễn Phi Tâm, Võ Trường Thiện, Phạm Văn Hải bị lực lượng an ninh ngăn trở và thậm chí hành hung.

Anh Phạm Văn Hải cho biết khi đang có mặt tại Phường Lộc Thọ:

“Khi tôi ra chỗ công viên ở đường Trần Phú thì có công an hình sự, cảnh sát giao thông chặn xe lại đưa tôi về công an phường Lộc Thọ làm việc. Ban đầu họ hỏi thì tôi cung cấp một số thông tin cần thiết; nhưng từ 10:30 giờ thì tôi tuyên bố không nói chuyện nữa để tiết kiệm năng lượng còn lại cho ngày tuyệt thực. Tôi sẽ tuyệt thực tại đây.”

Tại Sài Gòn, những người thoát được sự ngăn trở của lực lượng an ninh không cho ra khỏi nhà đến được tại Văn phòng Công Lý- Hòa Bình, Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế cũng tiến hành được cuộc tuyệt thực như lời kể của ông Đinh Quang Tuyến sau đây:

” Nói chung rất nhiều thành phần. Không khí rất vui, có thể nói so với một số nơi khác thì Sài Gòn yên ổn hơn. Ai bị ngăn rồi thì ở nhà, còn ai không bị ngăn, thoát được thì đến được Nhà thờ là nơi an toàn không bị quấy nhiễu.
-Ông Đinh Quang Tuyến”

“Hiện tại bên hông Nhà thờ có hơn 40 người, hồi sáng khoảng 30 nay tăng thêm mười mấy người nữa, có cả dân oan. Nói chung rất nhiều thành phần. Không khí rất vui, có thể nói so với một số nơi khác thì Sài Gòn yên ổn hơn. Ai bị ngăn rồi thì ở nhà, còn ai không bị ngăn, thoát được thì đến được Nhà thờ là nơi an toàn không bị quấy nhiễu. Dù cho đến bây giờ lực lượng an ninh ngồi trước Nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế cũng chừng mười mấy-hai chục người nhưng họ không dám manh động so với những nơi khác.

Chúng tôi chỉ chào hỏi, nói với nhau về nhân quyền, nói với nhau về vấn đề tù nhân lương tâm và nói với nhau về ý chí cũng như dự định tương lai. Hôm nay chúng ta gặp nhau một cách hữu cơ và chúng ta nên không chỉ làm một lần mà làm đi, làm lại nhiều lần vì lúc này chúng ta có sự quan hệ hữu cơ rồi, tạo được niềm tin, tạo được sự hứng khởi ban đầu rồi; trong tương lai cứ thế mà phát triển.

Không khí ở đây rất thân thiện, rất lạc quan. Hiện có nghệ sĩ Kim Chi, toàn bộ Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng ở đây; rồi nhiều người lắm.”

Thông tin kịp thời lên mạng xã hội

Những người tham gia cuộc tổng tuyệt thực toàn cầu kêu gọi trả tự do cho tù nhân lương tâm tại Việt Nam vào ngày 25 tháng 7 đã đưa những hình ảnh cuộc tuyệt thực lên các trang mạng xã hội cũng như các mạng truyền thông công dân để chia sẻ việc làm của họ.

Ngoài việc tuyệt thực, khi tập trung lại với nhau những người tham gia còn trao đổi với nhau về kinh nghiệm đấu tranh, cách thức luyện khí công để bảo toàn sức khỏe khi tuyệt thực…

“Đến giờ trưa bình thường là mọi người ăn cơm thì nghệ sĩ Kim Chi sẽ chia sẻ phương pháp khí công – thở để điều tiết cơ thể giúp thích ứng được việc tuyệt thực không có hại cho sức khỏe.”

Nhà hoạt động Đinh Quang Tuyến ở Sài Gòn cho biết những người tham gia nhận thức rõ ràng các quyền tự do, dân chủ không phải tự trên trời rơi xuống mà phải đấu tranh hy sinh xương máu để có được.

Alan Phan: “Làm ăn ở Việt Nam phải có chống lưng đỡ đầu!”

Alan Phan: “Làm ăn ở Việt Nam phải có chống lưng đỡ đầu!”

Nguoi-viet.com

Hà Giang/Người Việt (thực hiện)
LTS: Tiến sĩ Alan Phan là một tên tuổi quen thuộc trong giới kinh doanh, với 43 năm kinh nghiệm về đầu tư vào thị trường Trung Quốc, Hồng Kông và cả Việt Nam. Ông hiện là sáng lập viên của Alan Phan Associates (APA) có trụ sở tại California và Hồng Kông, chuyên tư vấn chiến lược kinh doanh toàn cầu cho các công ty đa quốc. Là tác giả của 11 cuốn sách về kinh tế, xã hội của những thị trường mới nổi, Tiến sĩ Alan Phan còn là một cây bút quen thuộc với nhiều bài phân tích sâu sắc, với thương hiệu “góc nhìn Alan” được nhiều người biết đến. Nhân dịp sắp đến buổi ra mắt hai cuốn sách mới “Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Kinh Tế Toàn Cầu” và “42 Năm Làm Ăn Tại Mỹ Và Trung Quốc -Ấn Bản Usa,” vào lúc 2 giờ chiều thứ Bảy, 25 tháng Bảy, 2015, tại hội trường nhật báo Người Việt,  ông dành cho ký giả Hà Giang cuộc phỏng vấn dưới đây:

Hà Giang (NV): Vừa là một người cầm bút, một nhà đầu tư, một giáo sư dậy về kinh doanh, ông tự tả về mình như thế nào?

Alan Phan: Thực tình thì cũng không có gì nhiều để tả. Tôi 70 tuổi, thì đương nhiên là có nhiều trải nghiệm, sống qua bao nhiêu những tình huống, khác hơn là những thế hệ trẻ hơn. Nhưng tôi là con người rất là bình thường: đi học, làm việc, sống cho gia đình, bạn bè, vui chơi. Cũng hưởng thụ nhiều, cũng đau khổ nhiều khi làm ăn. Nhưng nói tóm lại thì cũng là một đời rất là bình thường, không có cái gì đặc biệt. Tôi rất bình an với những gì mình đã có, đă mất, đã thua, đã thắng, nghĩa là cái chuyện nó đã xẩy ra rồi, thế thôi.

Tiến sĩ Alan Phan trong buổi phỏng vấn với ký giả Hà Giang, nhật báo Người Việt (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

NV: Ông có thể nói sơ về Alan Phan Associates có trụ sở tại California và Hồng Kông?

Alan Phan: Tôi làm việc bên Hồng Kông cũng khoảng 14, 15 năm, làm một cái quỹ đầu tư do tôi và ba anh bạn khác, người Trung Quốc và người Hồng Kông sáng lập. Chúng tôi đầu tư vào những công ty nhỏ và đem họ lên sàn chứng khoán, mà mình đồng thời cũng là một nhà đầu tư có lợi trong cái dịch vụ đó. Quỹ đầu tư đó hiện giờ vẫn được những người bạn tôi tiếp tục điều hành, thực tình thì là thế hệ sau của những người bạn tôi. Cách đây hai năm, tôi về lại Mỹ, có thể nói là tìm một cuộc đời an lành khác. Nhiều người bạn vẫn đưa công việc tới cho Alan Phan Associates do tôi và khoảng chừng sáu người chuyên gia tư vấn độc lập. Chúng tôi giúp họ tạo ra chiến lược toàn cầu, giúp họ làm những cái M & A (Merger and acquisition), tức thâu tóm và sát nhập vào những công ty bên Mỹ. Thay vì bỏ sức bỏ tiền lập những công ty ở đây, tôi luôn luôn tôi khuyên họ là lợi dụng những công ty có sẵn thị trường ở đây, có sẵn tên thương hiệu, có sẵn những sản phẩm đặc thù, và mình sát nhập vào với công ty của mình bên Trung Quốc hay bên Việt Nam, thì tương đối chặng đường nó dễ hơn, nhanh hơn, thì đó là chiến lược (M&A) toàn cầu mà tôi luôn luôn chủ trương và cổ võ.

NV: Qua 70 năm thăng trầm của cuộc sống, nếu được làm lại, thì ông sẽ giữ phần nào và thay đổi phần nào? Ông có điều gì hối tiếc không ?

Alan Phan: Thật tình thì tôi ít khi suy nghĩ về quá khứ, những chuyện gì nó qua thì nên để cho nó qua luôn. Có những chuyện mình rất là tự hào, rất là vui thú, thì nhìn lại ở cái điểm khác có thể nó không vui thú, không tự hào như mình nghĩ. Hay là những chuyện ngày xưa mình xấu hổ, mình thua thiệt, thì bây giờ nhìn lại nó lại là cái bài học hay. Thành ra thật tình tôi không quan tâm lắm về chuyện quá khứ. Mình sống thì bây giờ đã hơn bảy mươi năm thì cũng trải qua nhiều, từ đỉnh hạnh phúc đến đáy đau khổ, ông trời đã định như vậy rồi, bây giờ mình ngồi nghĩ là nên giữ cái này, vứt cái này, thì với tôi không cần thiết.

Dĩ nhiên có những cái hối tiếc lặt vặt, nhưng mà rồi mình quên đi. Thực tình theo tôi nghĩ những người mà gọi là thành công, không phải thành công lớn như Warren Buffet hay Bill Gates, mà thành công bình bình như tôi, thì khi về già có nhiều thất vọng mang theo, những điều mà mình chưa thực hiện được. Có khá nhiều hối tiếc, đáng lẽ mình nên làm như này, nên làm như thế kia và thêm một cái nữa là thích khuyên bảo như là để lại một cái di sản gì đó cho thế hệ sau. Nhưng với tôi điều quan trọng là mình sống thực với mình, mình không làm hại ai, không chơi xấu ai, tất cả rất là fair play, theo Mỹ nói. Tất cả những cuộc chơi gì mình vào, lúc mình bước ra ngửng cao đầu, dù thắng dù thua, đó là quan trọng.

NV: Hai nền kinh tế Việt Nam và Trung Quốc có những điểm gì tương đồng và dị biệt? Liệu rồi kinh tế Trung Quốc có sụp đổ vì thị trường chứng khoán đang bị thụt giá của họ không?

Alan Phan: Chính sách kinh tế của những nhà nước độc tài rất giống nhau, đó không phải là những nền kinh tế thực sự thị trường. Về việc thị trường chứng khoán đang tuột dốc tại Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc sẽ có những biện pháp chống đỡ, có thể sẽ kéo dài năm mười năm. Tại Việt Nam cũng vậy, lúc trước tôi cũng gây nhiều tranh cãi về vấn đề bất động sản tại Việt Nam, tôi cho rằng cứ để cho những dự án này chết, rồi sẽ có nguồn đầu tư khác và sẽ làm lại, nhưng với chính quyền thì họ không thích như vậy. Thà rằng hy sinh kinh tế để giữ cho xã hội ổn định, luôn luôn là phương châm của Trung Quốc và của Việt Nam. Thành ra thị trường chứng khoán của Trung Quốc nó cũng giống như thị trường bất động sản tại Việt Nam, đáng lẽ thì nó phải chết, nhưng chính phủ họ cứ nhất định nuôi. Họ cứ chống đỡ cho càng lâu càng tốt, hy vọng 10 năm sau đó sẽ có phép lạ hay có gì thay đổi, hay những thế hệ sau sẽ giải quyết, phải giải quyết bằng một cách nào đó.

Về dị biệt thì có hai điểm. Thứ nhất là kích cỡ. Trung Quốc, kinh tế của nó phải nói là lớn gấp 15 lần Việt Nam, và nó đi trước Việt Nam khoảng 12, 13 năm, thành ra Việt Nam nghĩa là đang copy những gì Trung Quốc đã làm và đôi khi đã thất bại rồi, nhưng mà mình vẫn cứ làm thế. Và thị trường mình nó nhỏ, không thể phát huy được. Điểm yếu thứ hai là doanh nhân và con người. Tôi đã làm việc với doanh nhân Trung Quốc lẫn Việt Nam thì tôi thấy người Trung Quốc họ chịu khó hơn người Việt Nam nhiều, họ tiết kiệm nhiều hơn, họ cần cù hơn, và họ thủ đoạn hơn, dù là Việt Nam rất là mánh mung không kém ai về mặt thủ đoạn, nhưng để lấy lời ngay lập tức. Người Trung Quốc họ thâm hiểm hơn, họ nghĩ xa hơn, dài hơn, Việt Nam mình so với Trung Quốc thì “mì ăn liền” hơn, còn Trung Quốc thì nó biết nấu nướng, và nó biết đợi.

NV: Ông có lời khuyên gì cho người muốn mang tiền về Việt Nam đầu tư?

Alan Phan: Thật ra thì tôi không dám khuyên, nhưng có hai điều cần yếu quan trọng để thành công ở Việt Nam. Thứ nhất là phải có quan hệ, phải có người chống lưng đỡ đầu thì mới đi xa được. Thứ hai là phải có một sự kiên nhẫn, quan hệ với người Việt Nam mà muốn cho sâu đậm, cũng phải mất vài ba năm, chứ không phải đi vào làm ào một cái mà được, người ta chưa tin mình. Muốn có sự tin cậy cũng phải mất vài ba năm. Sau đó thì là chuyện hên xui may rủi, nếu quan hệ đúng với người đang lên, có quyền lực chính trị quan trọng, thì tiền sẽ vào như nước. Còn đi nhằm một cái ông đang đi xuống, thì có thể bị tù tội dễ như chơi, đó là chuyện rất bình thường ở Việt Nam. Cái thằng đấy mình đang tính là mấy năm nữa nó lên, mà đùng một cái nó qua bên Tây chữa bệnh, hay nó bị ám sát thì điều đó phiền lắm (cười.)

NV: Điều gì khiến ông bắt đầu sự nghiệp viết lách, cho ra đời nhiều bài viết rất được ưa chuộng, và thương hiệu nổi tiếng “góc nhìn Alan?”

Alan Phan: Khi còn ở bên Trung Quốc thì cuối tuần tôi có đi dạy, dạy những lớp MBA cho executives. Dạy thì phải soạn bài, nên tôi bắt đầu viết lách từ đó, nhưng cũng không viết nhiều. Đến năm 2007 thì tôi về Việt Nam thường xuyên hơn. Lúc đó mấy anh bạn, anh Trần Trọng Thức, báo Doanh Nhân, anh Tuấn ở Vietnamnet, họ nhờ tôi viết về Trung Quốc. Bài đầu tiên tôi viết là cái chuyện về  “Con voi Trung Quốc,” khi viết xong lại tạo ra được một luồng sóng thích thú. Thì người viết giống như người nghiện, có một chút thuốc vô rồi lại say, lại viết tiếp tục. Giờ thì lớn tuổi rồi, viết cũng là một lối tiêu khiển, ngày xưa khi mình còn trẻ thì mình lông nhông ngoài đường, bây giờ thì ăn uống cũng sợ, sức khỏe cũng lo, thành ra mình không đi ra ngoài tiệc tùng, ăn uống chơi khuya nhiều nữa. Ở nhà không có gì thì viết đại cho rồi.

NV: Ông có thể kể lại vài kỷ niệm vui, lý thú khi làm việc ở Việt Nam?

Alan Phan: Ở Việt Nam thì luôn luôn nó đi cập với hai vấn đề.  Thứ nhất là mình sẽ có rất nhiều bạn, vì thứ nhất là mình có tiền mà thứ hai là họ có thì giờ, cho nên bất cứ lúc nào, mình không kêu họ thì họ kêu mình, cho nên luôn luôn bao quanh bởi bạn bè, gia đình, muốn hay không muốn, tương đối khá vui. Đi chơi biển, đi chơi núi, tất cả đều dễ dàng hơn ở Mỹ. Ở Mỹ mà muốn tập trung được ba, bốn người đi, mà có thì giờ đi chung với nhau thì là cả một sự xếp đặt. Còn ở Việt Nam thì rất dễ, nếu hứng, thì chỉ 5 phút sau là lên đường thôi. Nghĩa là niềm vui nó tự phát, nhưng đồng thời nó cũng có nhiều cái bực, đi ra xa lộ một tí là tai nạn này, tai nạn kia, rồi ô nhiễm, rồi khói bụi, rồi người này người kia, rồi môi trường hỗn loạn, đôi khi mình muốn bình an cũng không được. Đôi khi mình muốn muốn góc lặng nào đó để đừng ai quấy rầy mà kiếm cũng không ra. Trong khi ở Mỹ thì mình có muốn quấy rầy người ta, người ta cũng không muốn. Đó là cái khác biệt giữa  hai văn hóa và môi trường. Với lại người Việt Nam thì sống rất là open, nhà hàng xóm biết nhau, biết đủ thứ, và ai cũng nhẩy xổm vào. Cái câu hỏi mà tôi được hỏi nhiều nhất là ‘anh có bao nhiêu tiền? Hồi trước anh làm gì, làm gì?’ họ muốn biết tất cả mọi điều về đời mình. Trong khi người Mỹ thì người ta tôn trọng cái riêng tư của mình. Nó hơi khác một tí, nhưng rồi mình ở đâu rồi cũng điều chỉnh được. Vấn đề là mình muốn điều gì.

NV: Đã sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới, tại sao cuối cùng ông lại về Mỹ, mà không nghỉ hưu ở Việt Nam, chẳng hạn?

Alan Phan: Thực tình thì có nhiều tiền thì ở đâu nó cũng vui cả, Việt Nam hay Trung Quốc, hay Mỹ hay là Monaco hay là bất cứ chỗ nào. Thành ra cái yếu tố quan trọng là yếu tố có nhiều tiền. Thực tình trong một lựa chọn của con người, ngoài vấn đề tiền bạc còn vấn đề môi trường sống, còn vấn đề bạn bè, gia đình, còn vấn đề mà mình không muốn phải đối diện hàng ngày, nó cũng đôi khi làm mình bức xúc. Mình muốn tâm mình được an bình hơn. Lúc trẻ thì những điều này không quan trọng lắm, mình thích stress, thích áp lực, thích tất cả những chuyện thử thách, nhưng mà đến khi già rồi thì những áp lực thử thách, những khó khăn phải đương đầu thì mình muốn giảm thiểu tối đa. Tôi nghĩ môi trường Mỹ nó giúp cho tôi được điều đó. Với tôi đó là lý do quan trọng.

NV: Cảm ơn tiến sĩ Alan Phan đã thì giờ cho cuộc phỏng vấn, và chúc ông nhiều thành công trong buổi ra mắt sách vào 2 giờ chiều thứ Bảy, ngày 25 tháng Bảy này, tại hội trường nhật báo Người Việt.

Tàn rồi giấc mơ… Mỹ

Tàn rồi giấc mơ… Mỹ

Nguoi-viet.com

Ngọc Lan/Người Việt

Nàng xinh xắn, giỏi giang, nhưng lại không gặp may trên đường tình duyên.

Chưa đến tuổi 30, nàng đã phải kết thúc cuộc hôn nhân kéo dài 5 năm với người chồng không như ý. Vừa một mình nuôi đứa con trai 5 tuổi vừa một tay coi sóc cửa tiệm mua bán đồ gỗ trang trí nội thất ở ngoại thành Hà Nội, đồng thời nàng cũng phụ gia đình kinh doanh thuốc tây.

Tranh minh họa: Họa sĩ Nguyễn Thanh Vân/Người Việt

Từ ngoài nhìn vào, nàng là một người giàu có trong mắt nhiều người.

Sau đôi năm một mình lẻ bóng, chí thú làm ăn, lo cho mình, cho con, một ngày cuối năm 2009, nàng được một người bạn gái thời hoa niên hiện đang ở Mỹ mai mốt giới thiệu cho một anh Việt kiều tại Quận Cam, lớn hơn nàng 11 tuổi.

Theo thỏa thuận ban đầu thì đây chỉ là sự mai mối cho một cuộc hôn nhân giả. Chàng Việt kiều sẽ ra tay nghĩa hiệp, đứng ra kết hôn và bảo lãnh cho mẹ con của nàng sang Mỹ để hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên, sau 3 tháng tìm hiểu, email qua lại, điện thoại tâm tình, chàng Việt kiều quyết định về nước gặp nàng kèm theo câu, “Anh đã yêu em mất rồi nên anh sẽ cưới em thật chứ không phải là giả. Chúng mình sẽ là vợ chồng.”

Chàng cũng không giấu diếm chuyện chàng từng trải qua một cuộc hôn nhân cơm không lành canh không ngọt nên “anh đường anh, em đường em”, vợ cũ chàng nhận phần chăm sóc đứa con trai.

Dĩ nhiên là nàng cảm thấy lòng ngập tràn hạnh phúc.

Chàng về, nàng đón chàng trong tâm trạng của một cô dâu mới. Họ sống bên nhau như đôi uyên ương trong suốt hai tuần chàng Việt kiều có mặt nơi quê nhà. Nếu có điều gì khác lạ, thì chỉ ở chỗ tất cả việc gì có liên quan đến chi tiêu tiền bạc thì nàng là người phải móc hầu bao.

Sau hai tuần chăn gối, chàng Việt kiều trở về Mỹ để thu xếp công việc và tám tháng sau, chàng trở lại quê nhà chính thức làm giấy kết hôn và đám cưới với nàng.
Dĩ nhiên là nàng cảm thấy lòng ngập tràn hạnh phúc.

Vì chàng không có thời gian để lo liệu chuyện đám cưới, cũng không có thời gian đi mua nhẫn cưới cho ngày thành hôn nên nàng chủ động làm người đứng ra tổ chức lo liệu mọi bề.

Nghĩ rằng quan trọng là yêu nhau thật lòng, là để dành dụm chắt chiu tiền sang Mỹ, đâu cần thiết phải nhẫn hột xoàn kim cương, cũng đâu cần phải tiệc cưới rình rang, mời khắp cả họ, nên nàng ra chợ mua cặp nhẫn giả và chỉ mời bà con họ hàng vài ba mâm cỗ tại nhà sau khi được linh mục làm lễ cưới tại nhà thờ.

Nàng cùng chồng Việt kiều cũng có tuần trăng mặt đây đó. Và dĩ nhiên, móc hầu bao cho mọi thứ vẫn không ai khác ngoài nàng.
Sau chuyến đi chơi trở về, chồng Việt kiều hỏi nàng về giá trị của chiếc nhẫn cưới có nạm viên hột xoàn. Nàng nhanh nhẩu, “Ôi, nhẫn dỏm đó anh ạ. Em mua chỉ vài chục bạc ngoài chợ.”

Trả lời xong, nàng nhận ra ngay vẻ cau mày thất vọng của chồng. Ít hôm sau, chàng Việt kiều vào Sài Gòn thăm gia đình rồi bay luôn về Mỹ, kèm theo lời hứa sẽ làm giấy tờ bảo lãnh cho mẹ con nàng.

Ba tháng sau, chồng Việt kiều trở lại Việt Nam lo hậu sự cho ba chàng. Nàng trong vai trò của một người con dâu cũng từ Bắc bay vào Nam làm bổn phận ma chay tang chế.

Cũng như những lần trước, mọi chi phí khách sạn, ăn uống, bất kỳ thứ gì liên quan đến tiền đều do nàng móc hầu bao.

Đến trước ngày trở lại Huê Kỳ, chồng Việt kiều hỏi liệu nàng có thể đưa cho chàng ít ngàn dằn túi được không, bởi công việc làm ăn của chàng ở Quận Cam đang hồi khó khăn nên hơi kẹt tiền. Nàng dịu dàng, “Công việc buôn bán của em dạo này cũng không thuận lợi, thôi anh cầm tạm $200 đi đường vậy.”

Về đến Mỹ, chồng Việt kiều đề nghị nàng gửi tiền sang để chàng lo thủ tục bảo lãnh, bởi tiền trong tài khoản của chàng cũng không dư dả mấy. Nàng nhờ người gửi sang cho chồng $5,000.

Tuy nhiên, đời không như là mơ, tình không như là thơ, chồng Việt kiều bỗng dưng đổi ý, bởi sau bao năm chia tay, giờ chàng muốn quay trở lại với má của con chàng.

Nàng sững sờ. Nhưng vẫn dịu dàng, “Anh muốn trở lại với người xưa để con anh có đủ cha và mẹ cũng là điều tốt. Nhưng anh đã giúp thì giúp cho trót bảo lãnh mẹ con em sang Mỹ rồi em sẽ đi làm kiếm tiền trả lại cho anh.”

Chàng nghe rồi ậm ừ, lần lữa. Một năm trôi qua. Hai năm trôi qua. Ba năm trôi qua. Giờ đã là bốn năm. Nàng chỉ cầu mong nếu không thương, không giúp thì cũng ký dùm nàng một chữ vào tờ giấy ly hôn.
Chàng Việt kiều thì bảo thủ tục ly dị bên Mỹ tốn mất $400. Nàng ngã giá 50-50, đưa chàng $200. Tuy nhiên, chàng nhận thêm lần tiền nữa nhưng vẫn cứ lặng im, không ký không rằng.

Các cuộc gọi thưa dần và đến lúc nàng không thể gọi cho chàng được nữa vì chàng không bắt phone.

Nàng nói trong nước mắt: Đâu có ngờ mang tiếng lấy chồng Việt kiều mà lại phải ngậm trái đắng như thế này. Có thể người ta nghĩ rằng mình có quá nhiều tiền, nhưng thực tế không phải như vậy.

Điều nàng mong muốn bây giờ, chỉ là một chữ ký ly hôn, chấm dứt một giấc mơ có chồng sang Mỹ.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh về nước ngày mai, sức khỏe ổn định?

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh về nước ngày mai, sức khỏe ổn định?

2015-07-24

daituongphungquangthanh.png

Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam.

Photo: RFA

Báo Thanh Niên Online do nhà nước quản lý, vừa đưa tin Đại tướng Phùng Quang Thanh Bộ trưởng Quốc phòng sẽ về nước vào ngày mai thứ Bảy 25/7/2015.

Tờ báo dựa vào nguồn tin riêng, cho biết tướng Thanh sẽ đáp chuyến bay VN-18 của Vietnam Airlines từ Paris về sân bay Nội Bài Hà Nội.

Vẫn theo Thanh Niên Online, tình trạng sức khỏe của Đại tướng Phùng Quang Thanh tốt và ổn định sau giai đoạn điều trị tại một bệnh viện ở Pháp.

Được biết một tháng qua Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh không xuất hiện trước công chúng. Chính quyền Việt Nam chỉ đưa tin vắn tắt cho biết ông Thanh đi Pháp chữa bệnh và được giải phẫu khối u phổi lành tính ở bệnh viện Georges Pompidou, Paris Pháp.

Ngày 20/7 hãng tin Đức DPA loan tin Đại tướng Phùng Quang Thanh không qua khỏi và từ trần ngày 19/7 tại Bệnh viện. Tin này bị phía Việt Nam ngay sau đó bác bỏ.

Trước đó các tin ngoài luồng cho là tướng Thanh đã chết vì bệnh ung thư hoặc bị thanh toán chính trị, loại ra khỏi bộ máy quyền lực.

Tướng Thanh được cho là có lập trường thân Trung Quốc và có thể được tuyển cử làm Chủ tich nước hoặc Tổng bí thư khóa 12 vào sang năm.

Desiderata: Một áng văn “lời hay ý đẹp”

Desiderata: Một áng văn “lời hay ý đẹp”

Đoàn Thanh Liêm giới thiệu

Max Ehrmann (1872-1945)

Trước năm 1975, ở Saigon tôi có dịp được đọc bản văn tiếng Anh mà có nhan đề bằng tiếng la tinh là “Desiderata” có nghĩa là “ Những điều mong ước”. Đây là một “bài thơ không vần” (poeme en prose) như người Pháp thường nói. Lời văn rất súc tích, gọn gàng, chứa đựng những lời khuyên nhủ rất thân tình, cụ thể và thẳng thắn. Tôi đã chép bài đó vào một cuốn vở. Nhưng lâu ngày hóa ra lạc mất. Nay cũng lại nhờ có internet, mà tôi đã tìm ra được, không những nguyên tác bản văn, mà còn cả nhiều chuyện ngộ nghĩnh xung quanh áng văn có thể được xếp vào lọai “bất hủ “ này nữa. Tôi xin đính kèm trong Phần Phụ Lục của bài này cả bản dịch tòan văn và cả nguyên tác bằng Anh ngữ nữa.

Xin trích dẫn vài đọan tiêu biểu như sau :

“ Hãy giữ bình thản tự tại ở giữa sự ồn ào vội vã, và nhớ đến sự an bình trong trạng thái thinh lặng”. “Bạn là một người con của vũ trụ này, không thua kém gì so với cây cối và tinh tú; bạn có quyền được có mặt nơi đây.” “Hãy vui thú với những thành tựu cũng như các dự án của bạn.” “ Hãy tránh xa người hay ồn ào lớn tiếng và hay gây hấn ; họ là lọai người hay gây phiền nhiễu cho tinh thần.” “Bạn cũng đừng nên hòai nghi yếm thế về tình yêu, bởi lẽ đối mặt với tất cả sự khô cằn và vỡ mộng, thì tình yêu vẫn tồn tại miên viễn như cây cỏ.” …

Tác giả bài thơ này là Max Ehrmann (1872-1945). Ông sinh tại thành phố Terre Haute, tiểu bang Indiana. Sau thời gian ngắn hành nghề luật sư, thì ông về nhà chuyên viết văn, làm thơ. Bài Desiderata này được suy đóan là được viết vào năm 1927, lúc ông đã được 55 tuổi. Nhưng phải đến giữa thập niên 1960, thì bài thơ mới được công chúng say mê ưa chuộng và phổ biến khá rộng rãi.

Có hai lý do khiến gây ra sự chú ý của công luận. Thứ nhất là nhờ người bạn thân thiết của vị Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc là Adlai Stevenson, vừa mới mất tại London vào năm 1965, thì có khám phá ra được là ông đại sứ để trong phòng làm việc riêng của mình một bản văn của bài thơ Desiderata này, mà ông dự định sẽ cho in vào trong tấm Thiệp Noel sắp tới để gửi cho các bạn hữu của ông. Mẩu tin này càng khiến cho công luận chú ý đến bài thơ.

Còn một lý do khác nữa, đó là không hiểu vì sao mà lại có một ấn bản khác của bài thơ lại ghi là “Được tìm thấy tại Nhà thờ cổ St Paul năm 1692”. Công chúng thắc mắc, vì ngôn từ tiếng Anh của bài thơ này là của thời hiện đại, chứ không thể là từ thế kỷ 17 được. Và qua các vụ tranh tụng trước Tòa án, cũng như bút chiến trên báo chí, thì gián tiếp càng làm cho công chúng chú ý hơn đến bài thơ này hơn nữa.

Nhiều bà mẹ đã đọc cho con cái nghe bài thơ, đến nỗi các cháu đều thuộc làu. Ngay cả đến cháu bé mới có 3 tuổi, mà đã vanh vách đọc lớn tiếng tòan bộ bài thơ, mặc dầu cháu chưa hề biết đọc được chữ viết.

Bạn đọc muốn biết thêm chi tiết nữa, thì xin cứ mở internet qua Google hay Yahoo, thì sẽ thấy tài liệu rất đày đủ, phong phú và chính xác liên hệ đến bài thơ “Desiderata này.

Người viết rất vui mừng được giới thiệu với các độc giả người Việt thêm một áng văn nổi danh khác nữa trong kho tàng văn học hiện nay của nước Mỹ.

California, Tháng Năm 2009

Đoàn thanh Liêm

Phụ Lục

Desiderata (1927)

by Max Ehrmann

Bản dịch : Đòan Thanh Liêm(2009)

Hãy giữ bình thản tự tại ở giữa sự ồn ào vội vã, và nên nhớ đến sự an bình có được trong trạng thái thinh lặng.

Hãy đối xử thuận thảo với mọi người, trong chừng mực tối đa có thể được mà không phải là sự đầu hàng.

Hãy nói sự thật của bạn một cách ôn tồn và rõ ràng; và lắng nghe mọi người khác, kể cả người ngu đần, dốt nát; họ đều có câu chuyện của họ.

Hãy tránh xa người hay ồn ào lớn tiếng và thích gây hấn; họ là lọai người gây phiền nhiễu cho tinh thần.

Nếu bạn mà so sánh mình với các người khác, thì bạn có thể đâm ra kiêu ngạo hay cay cú, bởi lẽ luôn luôn có người hơn hay kẻ kém so với chính bản thân bạn. Hãy vui thích với những thành tựu và dự án của bạn.

Hãy chú trọng đến nghề nghiệp riêng tư của bạn, mặc dù nó khiêm tốn đến mấy; bởi vì đó mới đích thực là sở hữu của riêng bạn giữa sự thăng trầm của thế sự.

Hãy thận trọng trong công việc làm ăn, vì thế giới đày dãy những lừa lọc dối trá Nhưng cũng đừng nên tự bịt mắt mình trước điều nhân đức; bởi lẽ vẫn có nhiều người tranh đấu vì lý tưởng cao cả, và bất cứ ở đâu thì cuộc sống cũng đày dãy lòng dũng cảm.

Hãy đích thực là mình. Đặc biệt không nên giả vờ tỏ ra sự âu yếm.

Mà cũng đừng nên hòai nghi yếm thế về tình yêu, bởi lẽ đối mặt với tất cả sự khô cằn và vỡ mộng, thì tình yêu vẫn tồn tại miên viễn như cây cỏ.

Hãy lịch lãm nghe theo lời khuyên của các bậc cao niên, và biết duyên dáng nhường bước cho tuổi trẻ.

Hãy bồi dưỡng sức mạnh tâm trí để che chắn cho bạn trong lúc họan nạn.

Nhưng đừng gây phiền muộn cho mình với những tưởng tượng đen tối.

Nhiều nỗi sợ hãi phát xuất từ sự mệt nhọc và nỗi cô đơn.

Vượt lên trên cả kỷ luật lành mạnh, hãy lịch sự nhỏ nhẹ với chính mình.

Bạn là một người con của vũ trụ này, không thua kém gì so với cây cối và tinh tú; bạn có quyền được có mặt nơi đây.

Và dù tỏ tường hay không rõ rệt đối với bạn, chắc chắn là vũ trụ này phải tỏ lộ ra cho con người.

Bởi vậy, hãy hòa hõan với Thượng Đế, dù bạn quan niệm Ngài bất kể như thế nào.

Và bất kể sự vất vả và ước vọng của bạn ra sao trong cái hỗn độn ồn ào của cuộc sống, bạn hãy ráng giữ được sự an bình trong tâm hồn.

Với tất cả nỗi nhục nhằn, vất vả, và giấc mộng đổ vỡ, thì thế giới này vẫn là tuyệt diệu.

Hãy vui lên. Hãy phấn đấu để mà được sống hạnh phúc.

Desiderata

(something desired as essential)

Go placidly amid the noise and the haste, and remember what peace there may be in silence.

As far as possible, without surrender, be on good terms with all persons.

Speak your truth quietly and clearly; and listen to the dull and ignorant; they too have their story.

Avoid loud and aggressive persons; they are vexations to the spirit.

If you compare yourself with others, you may become vain or bitter, for always there will be greater and lesser persons than yourself.

Enjoy your achievements as well as your plans.

Keep interested in your career, however humble; it is a real possession in the changing fortunes of time.

Exercise caution in your business affairs, for the world is full of trickery.

But let this not blind you to what virtue there is; many persons strive for high ideals and everywhere life is full of heroism.

Be yourself. Especially do not feign affection.

Neither be cynical about love; for in the face of all aridity and disenchantment, it is as perennial as the grass.

Take kindly the counsel of the years, gracefully surrendering the things of youth.

Nurture strength of spirit to shield you in sudden misfortune.

But do not distress yourself with imaginings.

Many fears are born of fatigue and loneliness.

Beyond a wholesome discipline be gentle to yourself.

You are a child of the universe, no less than the trees and the stars and you have a right to be here.

And whether or not it is clear to you, no doubt the universe is unfolding as it should.

Therefore, be at peace with God, whatever you conceive Him to be.

And whatever your labours and aspirations, in the noisy confusion of life, keep peace with your soul.

With all its sham, drudgery and broken dreams, it is still a beautiful world.

Be cheerful. Strive to be happy.

Max Ehrmannn, 1927

Hướng dẫn viên kể chuyện khách Việt ăn cắp ở Thụy Sĩ

Hướng dẫn viên kể chuyện khách Việt ăn cắp ở Thụy Sĩ

– Hai du khách người Việt Nam vừa bị cảnh sát Thụy Sỹ bắt vì trộm cắp 3 cặp kính mắt của các nhãn hàng nổi tiếng.

Trao đổi với VietNamNet, hướng dẫn viên dẫn đoàn cho biết, đoàn du lịch của anh gồm 30 người, khởi hành từ ngày 9/7 đi tham quan Pháp và Thụy Sỹ. Đến ngày 15/7, ngày cuối cùng trước khi lên đường trở về nước thì xảy ra vụ việc đáng xấu hổ là hai du khách bị cảnh sát Thụy Sỹ bắt vì trộm cắp.

du khách, trộm cắp, Thụy Sỹ, người Việt xấu xí
Trung tâm mua sắm nhộn nhịp ở Zurich. Ảnh: Rediff/Zing.

Vụ việc xảy ra ở khu mua sắm ở Zurich, Thụy Sỹ. Sau khi đoàn rời khu mua sắm tới nhà hàng ăn tối thì 3 du khách trong đoàn đã ở lại và đề nghị sẽ tự về khách sạn. Tới 22h đêm thì hướng dẫn viên nhận được điện thoại của cảnh sát khu vực thông báo 2 trong số 3 du khách trên đã bị bắt (một người lạc tại khu mua sắm và được người địa phương đưa về khách sạn).

Qua máy quay giám sát, nhân viên đã phát hiện hai du khách bóc nhãn, thẻ giá của 3 chiếc kính có trị giá 300 euro/chiếc và đem ra khỏi cửa hàng. Cảnh sát nhận được thông báo từ cửa hàng đã nhanh chóng bắt 2 vị khách này.

Cả hai đã phải nộp phạt 2.000 franc (khoảng 46 triệu đồng) để được thả và đoàn có thể lên chuyến bay về Việt Nam vào sáng hôm sau.

Hướng dẫn viên của đoàn cho biết, ngay từ khi nhận đoàn, anh đã thấy một sự “không tử tế” ở hai du khách này.

“Nhỏ tuổi nhất trong đoàn, ngồi chỗ đẹp nhất trên xe, ăn nói ngang ngược nhất, luôn trễ giờ bắt cả đoàn phải đợi. Tôi biết là họ nhiều tiền và tiêu tiền nhiều nhất cả đoàn. Tôi và hướng dẫn viên địa phương cũng đã cảnh báo không được tắt mắt nhưng không vào tai họ”, hướng dẫn viên này chia sẻ.

Người dẫn đoàn cho biết, trước khi xảy ra vụ việc đáng xấu hổ này thì du khách này cũng vừa khiến anh mất mặt với nhân viên an ninh sân bay ở Zurich. Du khách này đã khai gian để được hoàn thuế, khi nhân viên sân bay đưa tiền, anh này “sáng mắt” đã cầm vội và chạy đi. Nhân viên sân bay thấy lạ, họ kiểm tra lại giấy tờ, và đề nghị người dẫn đoàn phải gọi anh này trả lại tiền nếu không sẽ giữ cả đoàn ở lại.

du khách, trộm cắp, Thụy Sỹ, người Việt xấu xí
Giấy phạt tiền đối với 2 du khách.

“Khi bạn đứng ở đồn cảnh sát, nghe người ta nói về việc trộm cắp của hai du khách mà bạn dẫn đoàn. Bạn phải lấy mọi giấy tờ, uy tín của bản thân để thuyết phụ họ giải quyết nhanh. Bạn sẽ hiểu cái cảm giác xấu hổ và bực bội như thế nào. 30 con người, 30.000 đô tiền vé máy bay, nếu vì hai du khách này mà kẹt lại ở Thụy Sỹ thì ai sẽ gánh trách nhiệm”, người dẫn đoàn thở dài.

Vị hướng dẫn viên kỳ cựu này cũng chia sẻ rằng, bao nhiêu năm dẫn đoàn, anh đã gặp không biết bao nhiêu kiểu người, nhưng có nhiều người Việt hay nói dối, lươn lẹo.

“Một câu chuyện có thật, có 1 đứa trẻ ở Nga nói dối mẹ đã làm xong bài tập để được đi chơi. Khi cậu bé về, mẹ cậu bé hỏi bài tập đâu để mẹ kiểm tra thì cậu bé thừa nhận mình đã nói dối. Bà mẹ thấy lạ và đã đưa con đến viện tâm lý để điều trị 1 tuần. Cậu bé phải nộp phạt 500 euro, số tiền tự tiết kiệm suốt những mùa Noel đã qua. Ở phương Tây, người ta dạy trẻ nghiêm như thế. Còn ở Thụy Sỹ, nếu bạn vi phạm giao thông và đưa tiền hối lộ cho cảnh sát, cảnh sát sẽ tố ngược lại. Còn nếu cảnh sát nhận tiền thì sẽ bị bêu riếu trên toàn đất nước”, anh chia sẻ.

Vị hướng dẫn viên này rất buồn khi sự việc xảy ra, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến cả đoàn, mà còn khiến hình ảnh người Việt ở nước ngoài càng trở nên xấu xí. Anh chỉ mong rằng, du khách Việt khi ra nước ngoài hãy tôn trọng nước bạn, tuyệt đối không có hành động tương tự như hai vị khách trên.

Kim Minh

Những Tín Hiệu Gửi Từ Kon Tum

Những Tín Hiệu Gửi Từ Kon Tum

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tien

RFA

Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc.

Lý Hồng Xuân

Kon Tum và Pleiku, nhìn trên bản đồ, giống y như hai thành phố (chị em) nằm kề cạnh bên nhau. Tuy thế, “đường tình duyên” của hai “kiều nữ” này lại không chạy song song mà đi theo chiều hoàn toàn trái ngược.

Kon Tum tựa một cô gái không mặn mà nhan sắc. Thiên hạ chỉ biết đến có mỗi em Pleiku má đỏ môi hồng (thôi) theo như cách tán tụng của Phạm Duy, qua thơ của Vũ Hữu Định:

Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn

Anh khách lạ đi lên đi xuống

May mà có em đời còn dễ thương

Em Pleiku má đỏ môi hồng

Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông

Nên mắt em ướt và tóc em ướt

Nên em hiền như mây chiều trong

Xin cảm ơn thành phố có em

Xin cảm ơn một mái tóc mềm

Mai xa lắc trên đồn biên giới

Còn một chút gì để nhớ để quên

Pleiku còn được cả nước “nhớ mãi” qua hai câu thơ của Bút Tre:

Anh đi công tác Pờ-lây

Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra

Kon Tum không có cái duyên tương tự với thơ văn nên dù phố núi cũng cao, phố xá cũng gần (và chắc chắn cũng có vô số những mái tóc rất mềm) nhưng vì thiếu bước chân của thi nhân nên … chả khiến ai nhớ thương, hay bâng khuâng gì ráo trọi.

Có người mới chỉ nghe tên địa danh Kon Tum (lần đầu) qua “Bài Giảng Mùa Chay” của linh mục Nguyễn Văn Đông, tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, vào ngày 4 tháng 3 năm 2001 :

“ Tôi xin tự hào khoe rằng, xứ tôi phụ trách cái gì cũng nhất, lớn nhất, có người dân tộc đông nhất, có nhiều đồng bào từ khắp mọi miền về nhiều nhất, có nhiều rừng núi nhất và nghèo nhất.”

Người cùi ở Kontum. Ảnh: Kontum Missionary and Friendship

Không chỉ là nơi “nghèo nhất,” Kon Tum còn là nơi bệnh nhân phong cùi đông nhất – và bị quên lãng một cách tệ hại nhất, giữa núi rừng heo hút – vẫn theo như lời của linh mục Nguyễn Văn Đông:

“Có lần, anh chị em có biết là tôi lội bộ 12 cây số để vào thăm một buôn người dân tộc, họ có tục lệ là đối với người bị phong cùi, làng sẽ cất nhà riêng trong rừng cho ở, không cho ở chung. Mà đồng bào nghèo quá, khổ quá, nên ngay cái nhà họ ở đã không ra cái gì, giờ thì lại cất nhà cho người cùi ở, thật là không gọi là nhà, phải gọi là ổ mới đúng, chỉ một mùa mưa đã nát. Mỗi lần đến thăm họ, tôi phải cúi đầu lom khom mới vào ‘nhà’ họ được. Thấy tôi đến họ mừng lắm anh chị em à. Họ cứ nhìn tôi họ cười, họ nói Bab đến thăm con là quý lắm, mừng lắm. Họ cười mà tôi khóc anh chị em ơi.”

Kon Tum còn khiến cho thiên hạ ứa nước mắt, hay “sửng sốt” (theo như nguyên văn cách dùng chữ của phóng viên VnExpress) vì cách qua sông của cư dân ở địa phương này:

“Nhớ lại, hồi tháng 5 năm 2010, chúng ta cũng từng sửng sốt khi báo chí đăng tải hình ảnh những người dân ở một làng không tên tại Đắk Nông, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum vượt sông Pô Kô bằng cách… đu dây.”

Đưa con đến trường. Ảnh: Tuổi Trẻ

Học sinh vượt sông Pô Kô. Ảnh: Tuổi Trẻ

Và mới đây, Kon Tum vừa “bị” tất cả các cơ quan truyền thông trong nước nhắc đến với rất nhiều … phẫn nộ:

– “Bắt Ba Đối Tượng Ném Đá Xe Khách” – Báo Nhân Dân 2/7/2015

– “Sẽ Khởi Tố Các Đối Tượng Ném Đá Vào Xe Khách Ở Kon Tum” –  Báo Tiền Phong 3/07/2015.

– “Phó Thủ Tướng Yêu Cầu Xử Nghiêm Những Vụ Ném Đá Xe Khách” – Báo Pháp Luật 3/07/2015.

– “Kon Tum: Kiên Quyết Làm Rõ Vụ Việc Và Xử Lý Nghiêm Các Đối Tượng Có Hành Vi Ném Đá Vào Xe Ôtô Khách”  – Tin Tây Nguyên 04/07/2015.

Riêng báo Giao Thông, tiếng nói của BGTVT, còn có bản tin (“Công An Mật Phục Bắt Gọn 5 Đối Tượng Chuyên Ném Đá Xe Khách”) đọc cứ như là chuyện phim trinh thám vậy:

Công an huyện Đăk Glei đã chỉ đạo, bố trí lực lượng mật phục, xác minh các đối tượng khả nghi. Qua đó, Công an huyện Đăk Glei đã xác định được 5 đối tượng là A Huấn (SN:2001), A Dũng (SN 2000), A Tùng (SN 2001), A Mười (SN 1999), A Khê (SN 2002) đều trú tại thôn Brông Mỹ, xã Đăk Môn khả nghi nhất. Qua đấu tranh, 5 đối tượng này đã khai nhận hành vi ném đá vào xe khách rạng sáng 1/6 sau khi đã uống rượu.

Ảnh: Báo Lao Động

Tôi xem tên tuổi, và hình ảnh sáu “đối tượng” mà lực lượng công an Kon Tum đã “bố trí lực lượng mật phục” để “bắt gọn” mà không nén được một tiếng … thở dài! Tất cả đều là những trẻ em bản địa, và trông hoàn toàn không có vẻ gì dính dáng đến rượu chè cả. Vóc dáng còi cọc của các em cũng khiến tôi ta chợt nhớ ra rằng Kon Tum là một trong 16 địa phương đã nộp đơn xin chính quyền trung ương cung cấp gạo cứu đói hồi đầu năm nay, năm 2015.

Thống kê (năm 2012) của Sở LĐ-TB&XH tỉnh Kon Tum cho biết:

Toàn tỉnh  có 183.148 trẻ em trong độ tuổi từ 0-16 tuổi, chiếm 39,7% tổng dân số; trong đó khoảng 25.643 em có hoàn cảnh đặc biệt (2.037 em khuyết tật, tàn tật; 2.169 em mồ côi không nơi nương tựa; 1.147 em bị tai nạn thương tích; hàng trăm em bị dị tật bẩm sinh hoặc bị bệnh hiểm nghèo…). Ngoài ra còn có trên 80.000 em sống trong diện hộ nghèo, hộ cận nghèo… cần được quan tâm, hỗ trợ về mọi mặt.

Thảo nào mà ở Kon Tum tệ đoan xã hội và trộm cắp … như rươi – theo như tổng kết tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh trong phiên họp (vào ngày 3 tháng 7 năm 2015) vừa rồi của ngành công an:

Qua 15 ngày đã phát hiện 22 vụ phạm pháp, trong đó giết người 02 vụ, cố ý gây thương tích 03 vụ, trộm cắp tài sản 11 vụ, cưỡng đoạt tài sản 01 vụ, trộm cắp + cưỡng đoạt tài sản 01, vận chuyển lâm sản trái phép 01 vụ, mua bán tàng trữ trái phép chất ma túy 03 vụ,… Cơ quan cảnh sát điều tra các cấp đã khởi tố 26 vụ – 34 bị can, hoàn thành hồ sơ chuyển Viện kiểm sát đề nghị truy tố 10 vụ – 20 bị can. Qua công tác bắt giam giữ, các lực lượng nghiệp vụ đã bắt 16 đối tượng (trong đó bắt tạm giam 10, bắt quả tang 05, bắt khẩn cấp 01), bắt và vận động đầu thú 07 đối tượng có Quyết định truy nã.

Nhà Rông Kon Tum năm 1898. Nguồn Ảnh: kontumquetoi

Kon Tum (nói riêng) hay Tây Nguyên (nói chung) không băng rã và tan nát qua đêm. Cũng không phải trong một sớm một chiều mà mảnh đất này (bỗng dưng) biến thành một nơi “lý tưởng” cho tội phạm sát nhân, trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, vận chuyển lâm sản trái phép, hay mua bán tàng trữ chất ma túy … Nhà văn Nguyên Ngọc đã lên tiếng cảnh báo về những bất ổn trong cách “phát triển” của Tây Nguyên tự lâu rồi:

1. Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn… Đầu thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số. Đến năm 1975, tỷ lệ này là 50%. Hiện nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa bàn…

2. Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiểm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng ; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu tan vỡ…

3. Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng. Cho đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về nhiều mặt không thể lường.

4. Người bản địa bị mất đất. Việc mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.

5. Văn hoá Tây Nguyên bị mai một. Việc mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình… tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá.

Nhà Thờ Gỗ Kon Tum năm 1967. Nguồn Ảnh: kontumquetoi

Tuy thế, trong phiên họp của Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Kon Tum (kỳ họp lần thứ 10, khóa X, nhiệm kỳ 2011-2016, tổ chức vào hai ngày 8 và 9 tháng 7 năm 2015) không một giới chức nào lên tiếng về chuyện thiếu đói, tệ trạng xã hội, và những mất mát cùng thua thiệt của sắc dân bản địa tại đây. Chỉ có mỗi “Vấn Đề Ném Đá Xe Khách Làm ‘Nóng’ Kỳ Họp HĐND Tỉnh Kon Tum” mà thôi – theo như cách đưa tin của Thông Tấn Xã Việt Nam:

Tại kỳ họp này, vấn đề ném đá xe khách được nhiều đại biểu quan tâm vì trong 2 tháng qua, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ ném đá lên các phương tiện giao thông ở 4 huyện, thành phố trong tỉnh gồm Đăk Glei, Đăk Tô, Đăk Hà và thành phố Kon Tum.

Tại kỳ họp, các đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh đều khẳng định việc ném đá trên là hành vi nguy hiểm cần được ngăn chặn. Các vụ ném đá đã gây tâm lý bất an đối với lái xe và hành khách đi trên xe, đồng thời ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn…

Truyền thông, báo chí nhà nước, cũng như  Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh đều đồng tình làm ngơ trước những vấn nạn đau lòng của Kon Tum. Từ trung ương, Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng chỉ “yêu cầu phải xử lý nghiêm những vụ ném đá xe khách” chứ không bận tâm đến bất cứ chuyện gì khác nữa.

Sự vô tâm này chỉ mang lại cho mọi người sự an lòng nhất thời và giả tạo. Rồi ra, tất cả chúng ta – Kinh cũng như Thượng – sẽ phải trả giá rất không rẻ vì thái độ “giả ngây” này.

Đã có những biến động lớn ở Tây Nguyên vào năm 2001, 2004, và ở Mường Nhé năm 2011. Sẽ còn nhiều biến động khác nữa, trong tương lai gần, khi những tín hiệu gửi đi (bằng đá) từ những vùng đất này không được “giải mã” một cách nghiêm trang, và đứng đắn.

Ngày 9 tháng 7 vừa qua, báo Giáo Dục lại vừa loan tin nóng: “Trung Quốc Rót Tiền Cho Campuchia Làm Đường Đến Biên Giới Giáp Việt Nam.” Khi bị gạt ra bên rìa cuộc sống, và “buộc phải lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình” thì người ta không chỉ cầm đá mà còn sẵn sàng cầm súng, nếu có. Và vũ khí – từ nước lạ, nay mai – rất có thể sẽ được tuồn vào Tây Nguyên, theo biên giới phía Tây.

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc.” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

Bằng cách này hay cách khác, chắc chắn, “Bọn bành trướng Bắc Kinh” cũng sẽ tìm cách “tràn sang” lần nữa. Dù vậy, “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng “sai lầm” tệ hại hơn!

Người dân nghĩ gì về 2 vụ tàn sát man rợ?

Người dân nghĩ gì về 2 vụ tàn sát man rợ?

Văn Quang

Chỉ trong vòng một tuần đầu tháng 7 này, hai vụ án mạng man rợ tàn sát trọn hai gia đình đã xảy ra tại VN. Hai vụ tàn sát ở hai thái cực hoàn toàn khác nhau. Một gia đình cực nghèo tại Nghệ An xảy ra vào ngày 02 tháng 7-2015 và một gia đình cực giàu tại Bình Phước xảy ra ngày 07 tháng 7-2015. Một vụ chưa tìm ra thủ phạm và một vụ đã tìm ra thủ phạm.

Hai vụ án vô cùng tàn độc này đã khiến dư luận khắp nước bàng hoàng, căm phẫn và cũng không khỏi lo sợ. Tôi tường thuật sơ lược 2 vụ án này theo thứ tự vụ xảy ra trước, vụ xảy ra sau.

Vụ thảm sát gia đình 4 người tại Nghệ An

Vào khoảng 15h ngày 2/7, trong lúc đánh bắt cá dọc con suối Tà Kén cách trung tâm bản Phồng xã Tam Hợp (huyện Tương Dương)  khoảng 5km, giáp với khu vực biên giới Lào, cha con ông Vi Văn Hoài và Vi Văn Tuyên đã hoảng hốt khi phát hiện thi thể của 4 nạn nhân trong gia đình anh Lô Văn Thọ chết quanh khu vực lán trông nương rẫy với nhiều vết chém. Anh Thọ chết cạnh lán với 2 vết chém trên cơ thể; bà Viêng Thị Chương (mẹ anh Thọ) chết ở bờ suối với vết thương ở bụng; thi thể chị Lê Thị Yến (vợ Thọ) và con gái 1 tuổi được phát hiện cách đó chừng 20m.

Khu vực lán nhà anh Thọ – nơi xảy ra vụ thảm sát khiến 4 người chết tại Nghệ An

Gia đình anh Thọ nghèo khó, không mâu thuẫn với ai nhưng toàn gia lại bị giết chết dã man ở lán trại. Bản Phồng vốn bình yên bấy lâu nay bỗng bị xáo trộn khi xuất hiện nhiều tin đồn xung quanh vụ án mạng. Bản Phồng Xã Tam Hợp, có 134 gia đình với hơn 500 người, hầu hết là đồng bào dân tộc Tày Toọng. Đây là bản cách xa trung tâm xã, đường sá đi lại cách trở, việc liên lạc bằng sóng điện thoại cũng rất khó khăn. Từ trước đến nay ở địa phương chưa bao giờ xảy ra một vụ án nghiêm trọng và kinh hoàng như vậy. Những ngày qua lực lượng công an và các đoàn thể đã cố gắng trấn an cho bà con dân bản hiểu và yên tâm làm ăn; bảo đảm an ninh trật tự ở địa bàn”. Tuy nhiên nhiều người lo lắng và hoang mang không dám vào rừng đi làm vì sợ hãi.

Công an tỉnh Nghệ An và công an huyện Tương Dương vẫn đang điều tra truy tìm hung thủ gây án. Kết quả khám nghiệm cho thấy, thi thể tất cả nạn nhân có nhiều vết chém, trong đó đều có nhát chí mạng ở cổ. Các manh mối điều tra hiện chưa thể khẳng định hung thủ gây án là một mình hay có đồng phạm. Tóm lại vụ án mạng này vẫn chưa tìm ra manh mối. Tai sao một gia đình nghèo khó suốt đời sống với nương rẫy lại bị sát hại dã man như vậy? Câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời. Vụ này quả là bí hiểm và phức tạp. Người dân mong các “cơ quan chức năng” sớm tìm ra thủ phạm và lý do của vụ thảm sát để yên tâm lên nương kiếm sống.

Vụ giết hại cả gia đình 6 người tại Bình Phước

Vụ thảm sát chấn động cả nước những ngày vừa qua lại là một gia đình doanh nhân giàu có và cũng sống chan hòa cùng làng xóm và hàng trăm công nhân trong Công ty chế biến gỗ Quốc Anh tại xã Minh Hưng, Huyện Chơn Thành, Tỉnh Bình Phước. Đây là vụ án lớn đặc biệt nghiêm trọng vì tính chất tàn độc của hung thủ. 6 người trong gia đình ông Lê Văn Mỹ (48 tuổi) bị giết, rạng sáng 7/7. Các nạn nhân có những vết thương chí mạng vào vùng trọng yếu. Tôi chắc bạn đọc ở nước ngoài cũng đã biết tin tức này qua các trang báo. Ở đây tôi chỉ lược thuật những tình tiết chính xác nhất qua lời công bố của những nhân viên điều tra và tìm hiểu thêm về nguyên nhân xảy ra vụ án cùng những mong đợi của người dân qua 2 vụ án này.

 

Hai hung thủ Nguyễn Hải Dương và Vũ Văn Tiến trong vụ án tại Bình Phước

Bởi tính chất của vụ án tại Bình Phước quá tàn độc nên Bộ Công An VN đã phải vào cuộc ngay tức khắc để phần nào làm dư luận bớt xôn xao. Tổng cục cảnh sát cũng đã xuống hiện trường, cùng công an tỉnh Bình Phước điều tra ngay từ đầu. .Một ban chuyên án được thành lập với những chuyên viên nhiều kinh nghiệm. Cả tuần lễ các báo tràn ngập tin tức và hình ảnh rất đầy đủ về vụ án này. Không cần “phóng đại tô màu” để câu khách, chỉ cần những công bố của ban điều tra vụ án đã đủ là một bản tin “rợn tóc gáy” rồi. Ban đầu nhắc đến vụ án, mọi nhiều đều sững sờ cho rằng đây là một vụ án “bí mật” rất khó điều tra, có lẽ cả mấy anh chuyên viên cũng vậy. Nhưng thật ra vụ án này lại không quá khó khăn như người ta tưởng. Chỉ cần gạn lọc những người thường qua lại trực tiếp với gia đình nạn nhân là có thể lần ra manh mối. Mặt khác cũng cần khách quan công nhận là ban chuyên án đã nhanh chóng phá án, chỉ trong vòng 3 ngày vụ án đã được lôi ra ánh sáng với các chứng cớ nêu ra đầy đủ khiến người dân bớt băn khoăn. Các cơ quan liên quan sẽ sớm hoàn tất hồ sơ, đưa ra xét xử lưu động, sớm nhất có thể là trong 1 tháng nữa. Có lẽ để người dân bớt xôn xao, hoảng sợ.

Chuẩn bị quy mô

13 giờ 30 ngày 11-7, Thứ trưởng Bộ Công an đã mở buổi họp báo vụ thảm sát ở Bình Phước. Đó là câu người dân thở phào kết luận “À thì ra đây là một chuyện tình”. Nhưng sự ra tay quá tàn độc vẫn còn ám ảnh mọi người dân. Không thể ngờ lại có kẻ nhẫn tâm đến như thế. Nguyên do chỉ vì bị thất tình nên chàng trai 24 tuổi đã mất hết tính người. Giết một loạt toàn bộ gia đình người tình cũ của mình.

Căn nhà nghèo nàn của gia đình Dương ở An Giang

Đây là một kế hoạch gây án rất bài bản, tỷ mỷ, không để lại tang vật gây án. Nguyễn Hải Dương (SN 1991, quê An Giang) bị bắt tại huyện Hóc Môn (TP Sài Gòn) và nghi can Vũ Văn Tiến (SN 1991), bị bắt tại tỉnh Bình Phước. Trình tự vụ giết người này có thể kể gọn lại như sau:

Nguyên nhân chính

Nguyễn Hải Dương là công nhân trong Công ty chế biến gỗ Quốc Anh (xã Minh Hưng, Huyện Chơn Thành, Bình Phước) do ông Lê Văn Mỹ và vợ là bà Lê Nguyễn Lê Thị Ánh Nga làm chủ. Ban đầu, Dương cũng làm công nhân như bao người khác. Sau đó, nhờ hiền lành, chịu thương, chịu khó nên Dương được chủ thương và giao cho công việc nhàn hơn. Càng về sau, Dương càng chiếm được cảm tình của ông bà chủ. Đến mức độ, nhiều công nhân cảm thấy ghen tỵ khi Dương gần như một “quản gia” trong xưởng gỗ. Thậm chí, có thời gian, Dương còn được giao nhiệm vụ đưa rước Lê Quốc Anh (15 tuổi) đi học. Từ việc được tiếp xúc, gần gũi với gia đình chủ, Dương đã nảy sinh tình cảm với Lê Thị Ánh Linh (22 tuổi, con gái của vợ chồng ông Mỹ). Gia đình ông chủ đã đã quá tin Nguyễn Hải Dương coi như con cái trong nhà và tình yêu của cô con gái Lê Thị Ánh Linh dành cho Dương ngày càng mặn nồng. Thậm chí cặp tình nhân này đã từng đi du lịch cùng nhau và cùng gia đình ông Mỹ du lịch Hàn Quốc. Nguyễn Hải Dương thường khoe hình ảnh tình yêu của mình với con gái nhà giàu trên facebook.

Nguyễn Hải Dương khoe hình cùng Lê Thị Ánh Linh trên facebook

Nhưng sau một thời gian, nhận thấy Dương có tiền sinh ra chơi bời, đán đúm nên gia đình khuyên con gái chấm dứt tình cảm với cậu con trai này. Ánh Linh cũng đã nhận thấy điều đó và chia tay với Dương. Trong khi đó Linh lại gặp con một đại gia khác và tình yêu thay đổi. Tên tuổi người yêu mới của Ánh Linh không được tiết lộ và anh ta không hề có liên quan gì đến vụ án.

Chính vì bị người yêu bỏ rơi nên Dương rắp tâm trả thù cả gia đình người yêu. Và sau vài tháng chịu đựng đau khổ Dương đã có kế hoạch hành động.

Chuẩn bị hết sức chu đáo

Khoảng tháng 4-2015, Nguyễn Hải Dương nảy sinh ý định giết Linh và gia đình ông Mỹ, cướp tài sản để trả thù.

Để chuẩn bị cho hành vi phạm tội Dương lên kế hoạch mua một súng bắn bi giá 6 triệu đồng, 1 khẩu súng điện giá 2 triệu đồng, 1 dao Thái Lan dài 30 cm, 1 dao bấm dài 7 cm, mua 1 sim rác để liên lạc, mua găng tay, khẩu trang bịt mặt, mượn xe máy của Trần thị Trinh (dì của Dương) lấy 10 dây rút nhựa, 1 cuộn băng keo dính để bịt miệng nạn nhân. Dương rủ Tiến đi đòi lại 900 triệu đồng vợ chồng ông Mỹ nợ từ hồi còn là người yêu của Lê Thị Ánh Linh. Dương hứa sẽ chia tiền cho Tiến ăn chơi..

Vị trí thi thể của các nạn nhân trong căn biệt thự

Đã quá quen thuộc với mọi sinh hoạt và đường đi lối lại nhà ông Vỹ nên Dương dễ dàng xông vào nhà ông Vỹ. Dương biết nhà ông Mỹ đều có khóa trong nên đã lừa Vỹ cho tiền và quà để Vỹ xuống mở cổng cho Dương vào nhà ông Mỹ. Theo đúng kế hoạch, vào 2 giờ ngày 7-7, Dương và Tiến đi xe máy đến, nhắn tin cho Vỹ ra mở cổng rồi trói và giết cháu Vỹ ngay tại cổng ra vào. Vỹ là con trai chị ông Mỹ gửi nuôi. Vỹ mở cổng cho Dương vì ngày thường Vỹ rất thích chơi game nên Dương hứa nếu mở cửa cho hắn vào lấy trộm tiền sẽ cho cậu 2 triệu đồng chơi game và một con gà chọi.

Thực hiện tội ác giết cả nhà người yêu

Sau khi giết Vỹ, chúng xông lên lầu, bắt trói cháu Linh và cháu Như, dùng băng keo bịt miệng Linh và Như, trói vào cửa sổ rồi xuống bắt trói ông Mỹ và cháu Quốc Anh (con ông Mỹ), khống chế bà Nga (vợ ông Mỹ) và yêu cầu bà Nga chỉ nơi cất giấu tiền và tài sản, bà Nga đã tự mở két sắt nhưng không có tiền và tải sản quý, bọn chúng đã lục soát trong phòng rồi cướp hơn 4 triệu đồng và 1 số đô la. (Chúng không biết rằng số tiền 1 tỉ 7 bà Nga để trong tủ âm tường và không chịu khai với kẻ cướp. Cho nên số tiền vẫn còn nguyên, ban chuyên án đã tìm ra).

Sau đó bọn chúng trói bà Nga lại, dẫn cháu Quốc Anh tra khảo, hỏi tiền và tài sản nhưng cháu Quốc Anh trả lời không biết, bọn chúng đã giết cháu Quốc Anh.

Sau khi giết Quốc Anh, bọn chúng trở lại phòng ông Mỹ, giết chết bà Nga và ông Mỹ. Rồi tiếp tục lên lầu tra khảo cháu Linh và cháu Như về tài sản nhưng không có nên bọn chúng giết Như và Linh đồng thời lấy đi 5 điện thoại, 1 Ipad của các nạn nhân.

Kể lể nỗi đau thất tình rồi hạ sát người yêu

Trước khi ra tay với người yêu cũ cũng là nạn nhân cuối cùng, Dương bắt Linh ngồi trước mặt, bên cạnh là thi thể của Tố Như. Dương tâm sự nỗi lòng của một gã thất tình bệnh hoạn. Mặc cho Linh cầu xin trong sợ hãi, Dương lạnh lùng ra tay với nhát dao ngay cổ sau khi “nói hết lời”. Tất cả những nạn nhân đều bị đâm bằng dao vào cổ.

Khi từ trên lầu xuống, bé gái 18 tháng tuổi òa khóc khiến cả 2 nghi phạm giật mình. Dương tiến lại và ẵm bé Na lên như mỗi lần sang nhà hay cùng đi chơi với gia đình ông Mỹ. Dương rất thương yêu cháu bé Na. Sau một lúc dỗ dành, bé gái nín khóc và ngủ thiếp đi, Dương tha chết cho cháu, đặt bé xuống và thoát khỏi hiện trường.
Sau đó Dương còn thản nhiên đóng vở kịch vô tội. Hắn còn dám đến đám tang gia đình ông Vỹ làm ra vẻ đau buồn thương tiếc. Dương ôm quan tài Linh khóc hết buổi sáng rồi ngủ lại căn phòng nghỉ của gia đình ông Mỹ. Quả là hắn có máu lạnh cực kỳ tàn độc. Nhưng nhân viên điều tra đã âm thầm theo dõi. Dương và Tiến bị bắt ngay sau đó và đã thú nhận toàn bộ sự thật về vụ án này. Một vụ án man rợ nhất từ trước tới nay.

Người dân đòi hỏi gì?

Những vụ giết người này đã cho thấy một sự thực là bọn ác độc ngày một hoạt động chuyên nghiệp hơn, bài bản hơn. Theo dư luận của người dân và nhiều tờ báo sau những vụ giết người này, nhân dân đòi hỏi hệ thống an ninh phải xem xét lại cách thức hành động của mình. Phải chăng những quan niệm, những phương thức của cơ quan công quyền không theo kịp thực tế xã hội?

Ai cũng nhận thấy trong vụ này công an giỏi phá án, nhưng đó là việc giải quyết “hậu sự kiện”. Vấn đề quan trọng hơn là làm sao ngăn chặn, phá tan những âm mưu tội ác khi chúng chưa xuống tay với dân lành chứ không phải chỉ tận tâm giải quyết hậu quả. Nói xa hơn nữa, chúng ta cần tạo ra một xã hội mà kẻ ác khó lòng lộng hành, người dân yên tâm làm ăn sinh sống. Đó thực sự là một đòi hỏi gắt gao, chính đáng của nhân dân vào hệ thống chính trị, hệ thống an ninh và hệ thống giáo dục.

Đến bao giờ người dân mới thực sự tin rằng mình có một cái quyền được sống không sợ hãi?

Văn Quang