Cô dâu 14 tuổi và hành trình bị bán sang Trung Quốc

Cô dâu 14 tuổi và hành trình bị bán sang Trung Quốc

VOA
Trà Mi
20-9-2015
Ảnh cưới của Lý Thị Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Quốc. Ảnh cưới của Lý Thị Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Quốc.

Ảnh cưới của Lý Thị Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Quốc.
Ảnh cưới của Lý Thị Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Quốc.

Hôn nhân đổi chác giữa các cô gái Việt với đàn ông nước ngoài không phải là hiếm, nhưng câu chuyện gửi tới các bạn hôm nay sẽ phơi bày sự thật đau lòng về thảm trạng buôn người mà nạn nhân là các bé gái ở những vùng biên giới của Việt Nam đang hàng ngày bị bắt cóc bán cho những người đàn ông nông thôn ở Trung Quốc mua về làm vợ.

Đó là nghịch cảnh của 3 chị em Lý Thị Sua, Lý Thị Minh, và Lý Thị Sinh cùng bị bắt cóc và bị bán sang Trung Quốc vào năm 2011 lúc Sua mới lên 13, Minh tròn 14, và Sinh bước vào tuổi 20. Hai người em là Sua và Minh đã tìm cách thoát về Việt Nam, còn cô chị hiện chưa biết tung tích ở đâu, sống chết thế nào.

Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi với Minh, cô gái dân tộc Hmong không nói được tiếng Kinh, bị gián đoạn rất nhiều lần vì nỗi sợ hãi, lo lắng, và những chấn động tâm lý chưa nguôi ngoai sau khi cô vượt thoát người chồng Trung Quốc trở về Việt Nam với gia đình ở xóm Khuổi Vin, xã Lý Bôn, huyện Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng) hôm 22/7 vừa qua.

Minh vẫn còn nhớ như in cái ngày định mệnh đã rẽ ngoặc cuộc đời cô, thay đổi tương lai của cô bé tuổi cài trâm bị bán, bị ép làm vợ một người đàn ông quê mùa, ít học ở xứ lạ quê người. Không có ngày ấy thì giờ đây Minh lẽ ra đang là một thiếu nữ bước vào tuổi 18 đầy hoa mộng và hứa hẹn. Nhưng sau 4 năm bị bán sang Trung Quốc, Minh giờ đây là một bà mẹ trẻ đã bỏ lại đứa con thơ chưa dứt sữa để chạy trốn khỏi người chồng Trung Quốc.

Cô dâu 14 tuổi

Chuyện xảy ra ngày 28 tháng 4 năm 2011, khi chị em Minh được 3 thanh niên mới quen, trạc ngoài đôi mươi, người dân tộc Nùng, rủ đi lễ hội ở chợ Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Trong số này có một người tên là Lò Văn Hiền, trú ở xã Đức Hạnh, cùng huyện Bảo Lâm với 3 nạn nhân. Sau khi mời các cô ăn uống dọc đường, thay vì đi Hà Giang như hứa hẹn, nhóm thanh niên đã chở thẳng 3 chị em qua Trung Quốc sang tay cho một đường dây buôn người chuyên săn tìm các cô gái Việt bán cho những người đàn ông Trung Quốc không đủ khả năng lấy vợ bản xứ.

Qua lời thông dịch của anh trai, cô Minh thuật lại:

“Sau khi Hiền cùng đồng bọn đưa 3 chị em chúng tôi tới đường biên giới Việt Nam-Trung Quốc, họ cho chúng tôi xuống xe và tát chúng tôi mỗi người một cái. Lúc đó, chúng tôi mới tỉnh vì trước đó họ có cho chúng tôi uống nước và có thể có chứa chất gây kích thích tâm lý. Họ đòi điện thoại của chúng tôi. Hiền và đồng bọn đã đánh 3 chị em tôi, đưa dao kề cổ khống chế và dọa giết nếu chúng tôi bỏ chạy. Sau đó, họ đưa chúng tôi vào nhà một người Hmong ở Trung Quốc cách đường biên giới Việt Nam khoảng 7 giờ đồng hồ. Trong nhà này có một người đàn ông khoảng 45-50 tuổi chuyên mua bán phụ nữ từ Việt Nam sang Trung Quốc. Họ cho người canh gác 3 chị em tôi rất nghiêm ngặt. Sáng hôm sau, họ bán chị Sinh và Sua đi trước. Hiền và đồng bọn thì về Việt Nam. Khi tôi van xin được nhìn 2 chị em của tôi lần cuối thì ông chủ nhà đưa cho xem một khẩu súng ngắn và nói ‘Chúng tao sẽ dùng khẩu súng này đi đón 2 chị mày.’ Một ngày sau, có một cặp vợ chồng tới đón tôi chở thẳng tới tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc. Vợ là người Hmong Việt Nam.”

Minh không rõ tên của người đàn ông Trung Quốc tới đón cô đi bán, nhưng người đàn bà Hmong Việt Nam đi cùng, theo cô được biết, tên là Thào Thị Tráng, một tay buôn người chuyên nghiệp thường xuyên cung cấp gái cho những người Trung Quốc muốn lấy vợ Việt Nam. Minh nói lúc đó cô đã nhìn thấy bà Tráng bán 3 cô gái Việt khác, trong đó có một người tên là Mị từ huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.

Tới Sơn Tây, bà Tráng đưa hình 3 người đàn ông Trung Quốc cho Minh xem và bảo cô phải lấy một trong ba người này làm chồng, nếu không, sẽ bị mang đi bán xa hơn nữa. Không thể chống cự, cuối cùng Minh phải nhận lời làm vợ một người trong ảnh tên là Pay Long Phe, lớn hơn cô 20 tuổi.

Sau cuộc ngã giá, Minh bị bán cho ông Pay, một thợ hồ ngụ tại số 18 đường Bắc, thôn Hà Khẩu, xã Cao Hồng Khẩu, huyện Ngũ Đài. Đây là một vùng quê nghèo, hẻo lánh thuộc tỉnh Sơn Tây có đa phần dân cư là thành phần lao động chân tay, làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày.

Mẹ và em trai ông Pay, qua điện đàm với chúng tôi, dường như hơi bất thường, nói năng không được minh mẫn và mạch lạc. Sau rất nhiều cuộc gọi, khó khăn lắm chúng tôi mới gặp được ông Pay.

Người đàn ông này thừa nhận đã mua cô Minh với giá trên 60.000 nhân dân tệ, khoảng 130 triệu đồng Việt Nam, nhưng ông từ chối tiết lộ bất kỳ thông tin nào về kẻ môi giới. Ông nói ông không biết gì về người này và chưa từng gặp mặt trực tiếp. Ông Pay Long Phe kể:
“Một trong những bà con trong gia đình tôi giới thiệu tôi với người môi giới này vì anh ấy cũng lấy vợ Việt Nam thông qua đường môi giới này.”

Khi được hỏi cuộc mua bán diễn ra thế nào, ông Pay nói tới giờ hẹn, một người nào đó không phải là chủ môi giới đã thả cô Minh vào làng rồi gọi ông ra nhận. Chúng tôi thắc mắc vì sao ông không lấy vợ bản xứ mà đi mua vợ từ Việt Nam, người thợ hồ Trung Quốc không ngần ngại giải thích:

“Tôi nghe nói vợ Việt Nam rất dễ dạy, ngoan hiền, lại siêng năng làm lụng.”
Về số tiền khá lớn ông đã bỏ ra, ông Pay nói đó là giá trung bình phải chi để cưới vợ ở đây, nhưng cưới vợ Trung Quốc còn tốn hơn nhiều vì những đòi hỏi về tiền bạc, nhà cửa, và sính lễ vượt quá khả năng giới lao động như ông.

Kế hoạch vượt thoát

Minh cho biết sau khi bị ông Pay mua về, cô dâu bất đắc dĩ phải chung sống với gia đình chồng gồm 8 người. Hằng ngày cô phải đi làm mướn phụ tiền chi tiêu, nhưng bị gia đình chồng canh chừng rất nghiêm ngặt, tới điện thoại cô cũng không được dùng.
Ở tuổi 14, Minh đã phải chịu đựng biết bao tủi khổ trong cuộc hôn nhân cưỡng ép hơn 4 năm trời mà không một lần dám bỏ trốn vì cô được nghe kể có một trường hợp tương tự sau 2 lần vượt thoát bất thành bị bắt lại, bị đánh đập rất dã man. Minh chia sẻ:
“Mỗi lúc cãi nhau, ông chồng đều nhắc tới chuyện mua tôi và nói rằng nếu không nghe lời thì sẽ mang bán tôi đi một nơi thật xa nữa.”

Bản thân không rành ngôn ngữ bản địa, lại bị đưa đi quá xa, có tìm đường chạy về thì chắc gì đã thành công mà rủi bị bắt lại thì khó sống. Nghĩ vậy nên Minh đành khoanh tay chấp nhận số phận.

Mãi đến tháng 3 năm nay, lần đầu tiên Minh nhờ được một phụ nữ Hmong từ Hà Giang sang Sơn Tây làm vợ người Trung Quốc giúp thông tin với cha mẹ ruột ở Việt Nam. Từ ngày nối liên lạc được với gia đình, Minh nung nấu quyết tâm trở về.

Biết ý muốn của ông Pay bỏ tiền mua vợ chủ yếu kiếm một đứa con, Minh nghĩ chỉ có cách sinh con mới có thể được gia đình chồng tin yêu và có thể thuyết phục họ cho cô về Việt Nam thăm gia đình. Vì vậy, Minh đã cố gắng ‘ngoan ngoãn’ và sinh cho ông Pay một đứa con.
Kế hoạch của cô diễn ra suôn sẻ khi ông Pay cho phép cô lần đầu tiên sau hơn 4 năm ở với ông được về thăm cha mẹ hôm 22/7 vừa qua, lúc con của Minh vừa tròn 18 tháng. Ông đưa Minh tới cửa khẩu Săm Pun, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, và nhờ một phụ nữ buôn bán tại đây dắt qua biên giới, nơi cô đã điện thoại hẹn gia đình đến đón. Minh thuật lại:

“Lúc sắp về, gia đình chồng bàn bạc rất kỹ, nhưng tôi không biết họ nói với nhau cái gì. Lúc tới biên giới, ông chồng dặn về 3 ngày phải quay lại ngay vì đã có một đứa con rồi.”
Nhưng vừa bước chân qua biên giới Việt Nam, Minh đã quyết định không bao giờ trở lại Trung Quốc nữa. Ngay hôm sau, cô đã gọi điện báo cho ông Pay và lập tức thay đổi số điện thoại liên lạc.

Minh nói dứt áo ra đi khi con thơ hãy còn khát sữa là một quyết định hết sức đau lòng và đầy uẩn khúc, nhưng người mẹ trẻ cương quyết thà bỏ con chứ không thể trở lại kiếp sống ‘nô lệ mới’:

“Tôi có nhớ tới đứa con của tôi, nhưng nghĩ lại thấy họ mua bán tôi như một món đồ chơi và một thứ vật nuôi, tôi thấy rất buồn. Nỗi nhớ con tới đâu thì thời gian rồi sẽ quên đi, không đau bằng họ bán tôi như vật nuôi và đánh đập tôi lúc tôi bị họ bắt cóc. Nghĩ tới đó tôi thấy rất cay, rất buồn. Nỗi nhớ con rồi sẽ qua nhưng nỗi đau về thể xác và tinh thần lúc tôi hãy còn là một đứa trẻ con sẽ không qua được, nên tôi quyết định không về nữa.”
Quyết định của Minh khiến người chồng Trung Quốc hết sức bàng hoàng. Ông nói những cô gái được mua về làm vợ như Minh trong làng của ông, có người đã ở đây hơn chục năm nay mà không hề bỏ chạy. Ông Pay trần tình:

“Tôi chỉ muốn cô ấy quay về, đứa con tội nghiệp còn quá nhỏ, nhưng tôi không liên lạc được với cô ấy nữa. Nếu cô ấy quay lại, tôi sẽ cho cô ấy đi đi về về thăm gia đình.”
Tố cáo buôn người và hồi đáp của chính quyền

Vừa về được Việt Nam, Minh đã lập tức trình báo công an huyện Bảo Lâm và gửi đơn tố cáo lên công an tỉnh Cao Bằng về vụ bắt cóc phụ nữ-trẻ em bán sang Trung Quốc mà 3 chị em cô là những nạn nhân trực tiếp.

Người anh cả trong gia đình Minh, anh Lý Thành Lương, cho biết:
“Họ bảo ‘Về được thì tốt rồi,’ chỉ như vậy thôi. Lúc 3 chị em vừa mới mất tích, gia đình đi tìm khắp nơi và lên trình báo công an huyện Bảo Lâm nhiều lần và xin giấy thông hành qua Trung Quốc tìm kiếm, nhưng công an huyện nói không đủ thẩm quyền làm việc này và chỉ lên đồn biên phòng làm. Tới đồn biên phòng, họ bảo không phải thẩm quyền họ làm, mà của công an. Trở lại công an huyện, họ chỉ lên công an tỉnh Cao Bằng. Không có giấy phép đi, gia đình chúng tôi, tôi đây, trực tiếp liều mạng đi tìm ở khu vực giáp biên giới 1, 2 lần nhưng không thấy. Vì mình không có người thân, không biết liên lạc ở đâu nữa, cho nên bó tay. Chỉ biết nhờ vào công an thôi mà họ cũng không giúp được.”

Anh Lương kể hôm 5/4 sau khi nối được liên lạc với Minh, gia đình anh đã gặp trực tiếp ông Lý Hữu Cư , Đội trưởng Đội Phòng chống Tệ nạn Xã hội của Công an huyện Bảo Lâm, nhưng ông Cư nói công an không giúp được và bảo rằng “Biết được còn sống là mừng lắm rồi.”
Trong ba chị em bị bắt cóc bán sang Trung Quốc vào năm 2011, cô Lý Thị Sua là người đầu tiên may mắn chạy thoát về Việt Nam và đã nhiều lần làm đơn tố cáo gửi công an tỉnh, huyện xin can thiệp giải cứu hai chị em còn lại, nhưng cũng không được hồi đáp. Có lần cô nhận diện được kẻ bắt cóc và báo công an, nhưng Lô Văn Hiền bị câu lưu không lâu lại được thả. Phó trưởng công an huyện, ông Dương Minh Hải, nói với gia đình rằng xác minh Hiền không phạm tội nên phóng thích.

Chúng tôi rất nhiều lần liên lạc với công an huyện Bảo Lâm để ghi nhận ý kiến giới hữu trách, nhưng không lần nào được hồi đáp. Trong nhiều tuần lễ liên tiếp, chúng tôi gọi vào số di động của Phó trưởng công an Dương Minh Hải đều không được bắt máy.

Bộ Công an Việt Nam nói đã phối hợp với công an Trung Quốc tấn công tội phạm buôn người từ Việt Nam sang Trung Quốc, nhưng không cho biết đã giải cứu được bao nhiêu trường hợp.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, đồng sáng lập Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Á Châu (CAMSA), tổ chức phi vụ lợi hỗ trợ các nạn nhân bị buôn người tại các vùng biên giới Việt Nam trong đó có trường hợp của cô Minh, cho biết CAMSA đã có phương án can thiệp:

“Chúng tôi đang chờ thêm một thời gian ngắn nữa để xem sự hồi đáp của chính quyền Việt Nam tới đâu, lúc đó chúng tôi sẽ khởi động một cuộc vận động chính phủ Hoa Kỳ can thiệp. Chúng tôi thật sự đã báo động Bộ Ngoại giao Mỹ rồi. Đến nay chúng tôi đã can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp cho 11.000 nạn nhân đã được giải cứu mà không hề có một trường hợp nào được chính quyền Việt Nam điều tra , chưa kể tới vấn đề trừng phạt. Nhưng dù sao chúng tôi cũng phải đi qua thủ tục báo động với chính quyền địa phương trước đã. Luật pháp Hoa Kỳ có điều khoản giải cứu cho nạn nhân và chính phủ Mỹ có cơ quan đánh giá từng quốc gia mỗi năm. Chính phủ nào không hợp tác phòng-chống buôn người thì có thể bị đưa vào cấp hạng 3, có thể bị chế tài. Chúng tôi tin rằng với sự can thiệp của Mỹ, chính phủ Việt Nam sẽ có động cơ để tích cực hơn trong vấn đề giải cứu nạn nhân và trừng trị thủ phạm buôn người.”
Báo chí nhà nước nói trong quý đầu năm nay có 70 vụ buôn người bị phát hiện trên cả nước, với 145 nạn nhân. Trong đó, cứ 10 vụ thì có 8 trường hợp bị bán sang Trung Quốc và các tỉnh trọng điểm bao gồm Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An.

Theo thống kê của CAMSA, chỉ riêng trong xã Lý Bôn của chị em cô Minh hiện có trên dưới 20 phụ nữ bị mất tích. Thời gian gần đây cứ 1, 2 tháng lại xảy ra một trường hợp như thế.
Trong khi chưa có giải pháp chống buôn người hiệu quả, những kẻ buôn người chưa biết sẽ phải trả giá như thế nào, nhưng những trường hợp như cô Minh là một kinh nghiệm đau đớn cho các nạn nhân Việt Nam, một bài học cay đắng cho những người đàn ông Trung Quốc mua vợ, và là hồi chuông cảnh báo cho toàn xã hội.

Những đứa trẻ từ các cuộc hôn nhân kiểu ‘nô lệ mới’ như thế, số phận chúng rồi sẽ ra sao? Làm sao có thể chấm dứt những hậu quả đau lòng này? Thật đáng buồn, câu trả lời hãy còn bị bỏ ngõ.

Blogger Tạ Phong Tần được trả tự do và trên đường tới Mỹ

Blogger Tạ Phong Tần được trả tự do và trên đường tới Mỹ

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-09-19

Blogger Tạ Phong Tần được trả tự do và trên đường tới Mỹ

Ta-Phong-Tan-305.jpg

Blogger Tạ Phong Tần tại phiên sơ thẩm sáng 24/9/2012 tại Tòa án Nhân dân TPHCM

Photo by Nguyễn Lân Thắng

Your browser does not support the audio element.

Tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần được thả trước thời hạn và trên đường tới Mỹ.

Theo nguồn tin đã được kiểm chứng mà chúng tôi có được cho biết bà Tạ Phong Tần đã rời nhà tù và lên phi cơ trên đường đến Hoa Kỳ. Sau khi ghé Taipei tối nay vào lúc 11 giờ 30 bà Tần sẽ tiếp tục bay đến phi trường Los Angeles bằng chuyến bay China Air 8 và sẽ đáp xuống phi trường LAX vào lúc 8 giờ 35 tối giờ California.

Đi cùng với bà Tạ Phong Tần là tham tán chính trị của Hoa Kỳ ông David Muehlke.

Bà Tạ Phong Tần là người thứ ba được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ can thiệp và trả tự do ngay tại nơi giam giữ. Người đầu tiên là TS Luật Cù Huy Hà Vũ được thả vào ngày 7 tháng 4 năm 2014. Ba tháng sau người thứ hai là blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải được thả và tới Mỹ vào ngày 21 tháng 10 năm 2014.

Bà Tạ Phong Tần từng là một sĩ quan công an. Bà bị bắt về tội tuyên truyền chống nhà nước với bản án 10 năm tù giam. Bà là thành viên sáng lập Câu Lạc Bộ Nhà báo tự do cùng với blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải.

Sáng ngày 30 tháng Bảy năm 2012, bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ của Tạ Phong Tân, đã tự thiêu bên ngoài Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc Liêu để phản đối việc bắt giữ con gái bà. Bà Liêng chết vì các vết bỏng quá nặng trên đường đến bệnh viện.

Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và loan tin ngay sau khi bà đặt chân tới Mỹ.

Sự Diệu Kỳ.

Sự Diệu Kỳ.

Một đêm khuya, lâu lắm rồi, tôi lang thang trên mạng và bất ngờ “tầm” được tấm ảnh anh chiến sỹ VNCH quỳ cầu nguyện giữa ngôi thánh đường đổ nát, hoang tàn, và tôi đã chia sẻ trên FB.
Bất chợt cách đây vài ngày, tôi nhận được một lời mời của một người hẹn gặp tại Bmt, và tôi đã đến.
Trong buổi gặp gỡ, tôi thật ngỡ ngàng đến sững sờ: người hẹn gặp tôi chính là anh chiến sỹ trong ảnh, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, lúc đó anh mới ra trường, mang quân hàm Thiếu úy thuộc đội đặc nhiệm của Lữ đoàn Dù. Theo lời anh kể: Năm ấy, ngôi thánh đường La Vang, Quảng Trị sau một trận cuồng pháo của phía Bắc Việt nhưng cây thánh giá và tượng Đức Mẹ không hề bị một mảnh đạn pháo nào và một niềm tin vào Chúa, anh đã quỳ xuống… Tấm hình này hiện được trưng bày ở bảo tàng San Jose California USA.
Lời cuối cùng khi chia tay, anh nói: “Anh đạo Phật nhưng anh tin Chúa”


Công ty HP tái cấu trúc: 30,000 người mất việc

Công ty HP tái cấu trúc: 30,000 người mất việc

Nguoi-viet.com

PALO ALTO, California (AP) Hewlett-Packard Co. hiện đang chuẩn bị sa thải thêm 30,000 người nữa trong tiến trình tái cấu trúc công ty tiền phong tại vùng Silicon Valley này.

HP khi loan báo kế hoạch giảm nhân viên hôm Thứ Ba cho hay điều này sẽ xảy ra trong công ty mới hình thành có tên Hewlett Packard Enterprise, bao gồm nhiều đơn vị kỹ thuật trong Hewlett-Packard Co. trước đây như nhu liệu, tư vấn và phân tích dữ kiện, khi được tách ra khỏi phần vụ máy điện toán cá nhân và máy in.


Trụ sở chính của HP tại Palo Alto, California. (Hình: Justin Sullivan/Getty Images)

Việc tái tổ chức công ty này dự trù sẽ hoàn tất vào cuối tháng tới, khiến từ 25,000 đến 30,000 người sẽ mất việc do sắp xếp lại nhân sự bên trong HP Enterprise.

Ðiều này có nghĩa là từ 10% đến 12% trong tổng số 252,000 nhân viên của HP Enterprise sẽ mất việc trong nỗ lực của công ty nhằm giảm chi phí điều hành khoảng $2 tỉ mỗi năm.

Hiện còn khoảng 50,000 nhân viên làm việc cho HP Inc., vốn là tên mới của công ty với phần vụ chuyên về điện toán cá nhân và máy in.

Việc cắt giảm này mở rộng thêm các biện pháp khắc khổ mà HP đã theo đuổi trong mấy năm qua nhằm đương đầu với các thua lỗ gây ra bởi việc mua lại các công ty khác với giá cao mà không đóng góp được vào nỗ lực chung, và cũng vì sự thay đổi trong chiều hướng sử dụng kỹ thuật từ máy PC sang những máy di động như điện thoại, khiến ảnh hưởng tới nhiều loại sản phẩm của công ty.

HP đã cắt giảm khoảng 55,000 công việc trong mấy năm trước đây dưới thời Tổng Giám Ðốc Meg Whitman, người sẽ đứng đầu công ty mới hình thành HP Enterprise.

“Hewlett Packard Enterprise sẽ nhỏ hơn và có mục tiêu rõ ràng hơn là HP của ngày hôm nay,” bà Whitman hứa hẹn trong bản thông cáo đưa ra hôm Thứ Ba. (V.Giang)

Sự đền đáp đầy cảm động

Sự đền đáp đầy cảm động

Liz Woodward (24 tuổi) – một cô phục vụ bàn, trẻ, ở bang New Jersey – Mỹ, đã trả tiền bữa ăn sáng cho 2 lính cứu hỏa và bất ngờ nhận được sự đền đáp đầy cảm động.

Buổi sáng 23/7, anh Tim Young và Paul Hullings ghé vào nhà hàng Rt. 130 Diner ở quận Delran để ăn sáng sau khi trải qua 12 giờ vất vả chiến đấu với ngọn lửa tại một nhà kho thuộc khu vực Bắc Brunswick.

Theo trang báo Acbnews đưa tin, chứng kiến vẻ mệt mỏi của hai người lính cứu hỏa xả thân vì nhiệm vụ, Liz đã rất xúc động và quyết định dùng tiền túi để trả bữa sáng cho họ. “Đây là bữa ăn đầu tiên của họ trong 24 giờ qua. Điều tôi có thể làm là mua cho họ ít đồ ăn để đền đáp những gì họ đã làm được” – Liz nói.

Thay vì hóa đơn, Liz gửi đến hai lính cứu hỏa lời nhắn thể hiện sự cảm động của mình vì sự cống hiến của họ.

Rất cảm động, Tim đã chia sẻ lời cảm ơn của mình lên trang cá nhân kèm theo bức ảnh lời nhắn của Liz. Thông điệp này nhanh chóng gây được chú ý và nhận được gần 4.000 nghìn lượt share.

Tim Young chia sẻ câu chuyện xúc động trên trang cá nhân của mình và nhận được gần 4000 lượt chia sẻ.

Sau đó, Tim Young và Paul Hullings vô tình phát hiện cha của cô Liz Woodward, ông Steve, mắc chứng liệt tứ chi suốt 5 năm qua. Cô đang gây quỹ trên một trang web để quyền tiền mua tặng bố mình một chiếc ô tô dành riêng cho người đi xe lăn. Tim Young biết điều đó và muốn được giúp đỡ.

Khi yêu cầu giúp đỡ của Tim Young được phương tiện truyền thông Mỹ đăng tải, hàng chục nhà từ thiện đã quyên tiền vào tài khoản của Liz. Chỉ trong vòng vài ngày, tổng số tiền sau cùng lên tới 69.000 USD, vượt xa con số 17.000 USD dự kiến ban đầu.

Bố của Liz Woodward, ông Steve, mắc chứng bệnh liệt tứ chi suốt 5 năm.

Trong cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình WPVI, ông Paul Hullings đến chia sẻ: “Chúng tôi không chỉ là nhân viên cứu hỏa. Chúng tôi cũng quan tâm người khác và muốn trở thành một phần cuộc sống của họ”.


 

 

 

 

 

 

T

 

Tim Young và Paul Hullings đến nhà thăm bố của Liz.

Còn Liz không ngờ hành động nhỏ của mình lại được đền đáp một cách bất ngờ và xúc động đến thế. Liz nói: “Tất cả những gì tôi đã làm là mời họ một bữa ăn sáng. Tôi không chờ đợi hơn một nụ cười. Điều này cho thấy, sự chân thành và thậm chí một hành động nhỏ cũng có thể làm thay đổi một cuộc đời”.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Bác sĩ ở California bị truy tố gian lận bảo hiểm $150 triệu

Bác sĩ ở California bị truy tố gian lận bảo hiểm $150 triệu

Nguoi-viet.com

LOS ANGELES, California (AP) Một bác sĩ chuyên về chỉnh hình đã bị truy tố vì tình nghi là người đứng đầu một trong những đường dây gian lận bảo hiểm lớn nhất tiểu bang California từ trước đến nay, gồm cả việc để cho một phụ tá không có bằng cấp đứng mổ khiến các bệnh nhân bị mang tật suốt đời, theo hồ sơ tại tòa hôm Thứ Ba.


(Hình minh họa: wisconsinsmp.org)

Bác Sĩ Munir Uwaydah và 14 người khác, kể cả một bác sĩ và một luật sư, đã gửi các hóa đơn tính tiền tổng cộng là $150 triệu đến các công ty bảo hiểm, theo Chánh Biện Lý Jackie Lacy của Los Angeles County.

Có gần 20 bệnh nhân được hứa hẹn là chính Bác Sĩ Uwaydah sẽ mổ cho họ, nhưng thực ra là do phụ tá của ông, một người chưa hề đi học trường y, đứng mổ. Bác Sĩ Uwaydah cũng chẳng hiện diện trong các ca mổ này.

“Tất cả 21 bệnh nhân có các vết sẹo và thương tật, có nhiều người phải mổ lại nhiều lần và bị tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần vì những gì xảy ra cho họ ở trung tâm y tế của ông Uwaydah,” theo công tố viện.

Ông Uwaydah, 49 tuổi, bị bắt ở Ðức theo cáo trạng gồm 57 tội danh và đang chờ được dẫn độ.

Có 11 người bị coi là đồng lõa đã ra trình diện trước tòa ở Los Angeles và đều không nhận tội. Số tiền thế chân để được tại ngoại hậu tra của những người này lên cao tới $21.5 triệu.

Trong vụ án này còn có một vụ truy tố khác liên quan đến người phụ tá văn phòng của Bác Sĩ Uwaydah, người được tha bổng hai năm trước đây về tội siết cổ bạn gái cũ của ông Uwaydah.

Công tố viện từng miêu tả bà Kelly Soo Park là một “James Bond nữ,” người được thuê để giết Juliana Redding vì sự bất hòa trong việc làm ăn chung giữa cha của Redding, một dược sĩ ở Arizona, và Uwaydah. Bà Park bị tòa ấn định số tiền thế chân lên tới $18.5 triệu.

Ngoài ra, một công tố viên trong vụ xử bà Kelly Soo Park trước đây nay lại trở thành luật sư biện hộ và đại diện cho một bị cáo trong vụ án gian lận bảo hiểm này.

Phó Biện Lý Dayan Mathai cho hay ông sẽ yêu cầu tòa không để Luật Sư Alan Jackson, người từ chức công tố viên để ra hành nghề tư nhân sau khi thua trong cuộc tranh cử chức biện lý, không được tham dự vào vụ xử vì có sự trái ngược quyền lợi.

Hồ sơ tòa án cho hay trong số các bị cáo có những người là luật sư và những người dẫn mối được trả tới $10,000 mỗi tháng để đưa người có bảo hiểm đến văn phòng của Bác Sĩ Uwaydah.

Nếu bị kết tội, Bác Sĩ Uwaydah và 11 người bị truy tố trong đợt đầu có thể bị án tù chung thân. (V.Giang)

 

Đến lúc ‘nước tắm cũng không còn, đừng nói lũ’

Đến lúc ‘nước tắm cũng không còn, đừng nói lũ’

TuanVietNam

Trần Văn Tuấn

16-9-2015

“Nếu các bạn quan tâm đến những gì các nước trên thượng lưu đang làm đối với sông Mekong, thì khoảng chục năm nữa chúng ta muốn có nước tắm đã khó chứ đừng nói đến “nước chìm, nước nổi”

LTS: Đầu tháng 9 vừa qua, Chính phủ Lào đã chính thức thông qua dự án thủy điện gây tranh cãi Don Sahong trên sông Mekong, đoạn chảy qua nước này. Có nghĩa rằng vùng hạ lưu Mekong như Đồng bằng sông Cửu Long của VN sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Chúng tôi giới thiệu bài viết của chuyên gia phát triển Trần Văn Tuấn.

‘Bình ắc quy’ đã phớt lờ mọi cảnh báo

Trong một hội nghị gần đây, bàn về các giải pháp “sống chung với lũ” cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong mùa nước nổi, một đại biểu đã nhận định: “nếu các bạn quan tâm đến những gì các nước trên thượng lưu đang làm đối với sông Mekong, tôi đoán rằng chỉ khoảng chục năm nữa chúng ta muốn có nước tắm đã là khó rồi chứ đừng nói chi đến “nước chìm, nước nổi”!

Đến lúc đó chỉ sợ không còn lũ để được ngắm chứ chưa muốn nói là chung sống.

Từ lâu, sông Mekong không chỉ đem lại phù sa, nguồn nước và nguồn sống cho hàng triệu con người trong phạm vi gần 800 ngàn km2 lưu vực (trong đó khoảng 606 ngàn km2 thuộc hạ lưu vực) mà còn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc liên thông, kết nối và gắn kết các nền văn hóa khác nhau. Những cộng đồng được hưởng lợi từ nước và các tài nguyên liên quan của một dòng sông vốn được người dân các nước Campuchia, Lào và Thái Lan trân trọng gọi là “Mẹ” (Me) này.

Trong suốt hàng ngàn năm qua, sông Mẹ đã cần mẫn chuyên chở phù sa bồi đắp nên một vùng châu thổ rộng lớn; là vựa cá của khu vực và trên thế giới.

Với chiều dài khoảng 4900 km (nguồn MRC), Mekong được xem là một trong số 10 con sông dài nhất thế giới. Bên cạnh việc cung cấp nước và các nguồn tài nguyên liên quan phục vụ hơn 60 triệu người  trong lưu vực, Mekong còn được xem là dòng sông có tiềm năng thủy điện vô cùng to lớn.

Sông Cửu Long. Ảnh: blogspot.com

Sông Cửu Long. Ảnh: blogspot.com

Chính bởi tiềm năng này, hiện nay, lưu vực sông Mekong trên thượng nguồn đang bị các nước ven sông tàn phá nham nhở. Trong số đó có 8 con đập thủy điện trên thượng lưu do TQ đã và đang xây dựng, 70 con đập lớn nhỏ đã, đang và sẽ được dựng lên trên dòng nhánh Mekong thuộc lãnh thổ Lào (chưa kể đến Thailand và Việt Nam) và 11 con đập lớn trên dòng chính (9 thuộc Lào và 2 thuộc Campuchia) đang được gấp rút triển khai.

Kể từ năm 2012 – khi các quốc gia thành viên Ủy hội Sông Mekong (MRC) thất bại trong việc đàm phán với chính phủ Lào trì hoãn xây dựng đập thủy điện Xayaburi với lý do “cần có các nghiên cứu đánh giá sâu, rộng hơn về những tác động mà con đập có thể gây ra cho khu vực hạ lưu trên các Phương diện môi trường, kinh tế và xã hôị”.

Với định hướng đưa Lào trở thành “bình ắc quy” của Đông Nam Á, chính phủ nước này đã và đang có bước đi nhằm khai thác tối đa nguồn thủy năng dồi dào trên lãnh thổ. Tiềm năng to lớn của 9 (trên tổng số 11) con đập trên dòng chính, hạ lưu vực Mekong, vốn đã được các chuyên gia thuộc Ủy Ban Mekong (tiền thân của MRC) chỉ ra từ những năm 1960s không dễ gì bị bỏ qua.

Hiệp định Mekong (ký kết năm 1995 – nền tảng của MRC) đòi hỏi mỗi nước thành viên phải thông báo và tham vấn các nước còn lại khi có bất kỳ dự án hay kế hoạch nào can thiệp trên dòng chính của sông Mekong.

Nguyên tắc này được cụ thể hóa bởi một trong số năm thủ tục quản lý tài nguyên nước mà các nước thành viên của MRC cam kết – thủ tục thông báo, tham vấn trước và thỏa thuận (PNPCA).

Do chưa từng có tiền lệ nên có thể nói đập Xayaburi được xem như phép thử  đầu tiên của Lào đối với phản ứng của Chính phủ và người dân của 3 nước ven sông còn lại trên con đường ắc quy hóa của mình

Trước tiên, Thailand thực sự không bị ảnh hưởng đáng kể gì do tác động của con đập cộng với việc con đập này được công ty SEAN & Ch. Karnchang Public Co Ltd của nước này đầu tư xây dựng, nên phản ứng của nước này có chăng chỉ dừng lại ở hình thức “cần nghiên cứu thêm…”.

 

Campuchia tuy được đánh giá là sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều đến chế độ thủy văn, phù sa, và nguồn cá, nhưng vì nước này cũng có kế hoạch xây dựng hai đập thủy điện trên dòng chính là Stung Treng và Sambor,  nên cuối cùng họ cũng chỉ phản ứng kiểu chiếu lệ.

Đầu xuôi, đuôi lọt?

Thông tin Quốc hội Lào chính thức phê chuẩn cho phép triển khai dự án thủy điện Don Sahong trên dòng chính Mekong – vốn đang có nhiều tranh cãi, đã củng cố thêm nhận định và lo ngai của nhiều người về tương lai dòng chảy Mekong sau phép thử Xayaburi.

Như vậy câu nói “đầu xuôi, đuôi lọt” đang được các nước thượng lưu vận dụng rất linh hoạt. Điều này có nghĩa rằng sẽ rất nhanh thôi, vì quyền lợi quốc gia của mình, nhiều nước ven sông đang đi ngược lại với tinh thần của “Hiệp định Mekong, 1995”-  “thúc đẩy, phối hợp quản lý và phát triển tài nguyên nước cũng như tài nguyên có liên quan một cách bền vững vì lợi ích chung của các quốc gia và an sinh của cộng đồng”.

Các nước đã cố tình lờ đi những tác động mang tính xâu chuỗi và cộng hưởng đối với khu vực hạ lưu.

Thay vào đó, các báo cáo đánh giá tác động môi trường chỉ được xây dựng cho từng con đập riêng lẻ.

Vấn đề sẽ trở nên rất khác nếu sau Don Sahong, có thêm nhiều con đập nữa được dựng lên trên dòng chính, và vào mùa khô, nếu mỗi con đập chỉ cần tích nước trong 3 ngày thì độ trễ thủy văn có thể lên đến cả tháng trời. Khi đó rất khó có thể lường hết các tác động tiêu cực cho khu vực ĐBSCL trên nhiều phương diện.

Vựa lúa của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do chế  độ thủy văn làm thay đổ cơ cấu mùa vụ. Đói phù sa sẽ khiến cho các cù lao bị xói lở cũng như mất đi một nguồn dinh dưỡng quan trọng cho cây trồng do bị cắt lũ.

Đặc biệt vào mùa khô khi các đập thủy điện đồng loạt tích nước, ĐBSCL sẽ thiếu nước ngọt để có thể ém phèn hiệu quả như cách lâu nay chúng ta vẫn làm. Kết hợp với xâm nhập mặn gia tăng, một diện tích lớn đất nông nghiệp hiện nay có thể không còn sử dụng được nữa.

Ngoài ra, phù sa ít đi sẽ làm giảm dinh dưỡng, năng suất sinh học sơ cấp và qua đó làm  giảm sản lượng, chất lượng cá và các loại thủy sản khác. Chức năng cắt lũ của các con đập cũng làm giảm năng suất sinh trưởng của cá, do dòng lũ bị thấp đi và thời gian lũ ngắn lạ. Đặc biêt ngành nuôi trồng thủy sản và khai thác ven bờ trong khu vực sẽ bị giảm sút đáng kể do nguồn nước đổ về xanh hơn và cũng đói phù sa hơn.

Còn rất nhiều các tác động và ảnh hưởng khác trên phương diện môi trường, xã hội, và kinh tế phải cần đến những báo cáo chuyên môn mới có thể truyền tải hết.

Câu hỏi đặt ra ở đây là với vị trí địa lý nằm ở cuối nguồn và phải chịu nhiều thiệt thòi, liệu VN đã có những hành động cần thiết cũng như lên tiếng đủ mạnh để bảo vệ sông Mekong mà cụ thể là vựa lúa, vựa cá ĐBSCL của chúng ta hay chưa?

Thiết nghĩ, trong bất kỳ cuộc đàm phán thỏa thuận song phương hay đa phương nào, các tính toán mang tính ngoại giao là cần thiết, nhưng trên tất cả, quyền lợi quốc gia – ở đây là vận mệnh của khu vực ĐBSCL phải được đặt làm ưu tiên số một.

Sài Gòn tê liệt vì mưa, phố biến thành sông

Sài Gòn tê liệt vì mưa, phố biến thành sông

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV)Giao thông Sài Gòn hỗn loạn vào buổi sáng khi mặt đường cầu vượt “triệu đô” nằm ngay cửa ngõ bị sạt lở. Chiều cùng ngày, sau cơn mưa trắng trời cả thành phố “ngập chưa từng thấy” và gần như tê liệt.


Hiện trạng đoạn đường sạt lở nằm ngay dưới chân dốc cầu vượt. (Hình: Tuổi Trẻ)

Truyền thông Việt Nam loan tin, khoảng 7 giờ ngày 15 tháng 9, nhiều người dân đi trên quốc lộ 1 hướng từ Ðồng Nai vào trung tâm thành phố Sài Gòn phát hiện mặt đường dẫn lên nhánh cầu vượt Thủ Ðức (cầu vượt Trạm 2), được xây dựng khoảng 120 tỷ đồng, bị nứt tạo rãnh lớn và ngay sau đó thì sạt lở, với nhiều vết rạn nứt kéo dài, khiến nhiều người hoảng sợ.

Theo Tuổi Trẻ, tại hiện trường nhiều mảng đất đá ở độ cao 10 mét đổ xuống công viên phía dưới cầu. Ðoạn đường rộng hơn 2 mét, dài gần 20 mét bị kéo sập, hở hàm ếch, taluy biến dạng. Phần đường sạt lở làm hở một phần mố cầu Thủ Ðức.

Tình trạng khá nghiêm trọng, song ông Vũ Kiến Thiết, giám đốc Khu Quản Lý Giao Thông Ðô Thị số 2, nơi quản lý cầu vượt này cho rằng, do ảnh hưởng của cơn mưa lớn kéo dài làm đất đá mất độ kết dính cộng với rung chấn của các xe cơ giới qua cầu gây sạt lở.

Cũng theo Tuổi Trẻ, cơn mưa trắng trời chiều cùng ngày đã khiến hàng loạt đường tại thành phố Sài Gòn ngập nặng.


Nước ngập tới yên xe trên đường Nguyễn Hữu Cảnh, quận Bình Thạnh. (Hình: Tuổi Trẻ)

Cụ thể, đường Nguyễn Hữu Cảnh từ chân cầu Sài Gòn cho tới cầu Thủ Thiêm ngập sâu khoảng 1 mét tính từ mặt đường. Nhiều xe máy ngập đến yên xe khi đi vào mép đường.

Cảnh kẹt xe cục bộ cũng diễn ra trên con đường này do người dân đứng ở hai đầu điểm ngập để chờ nước rút và sửa xe. Nhiều xe hơi và xe máy chết máy được người dân giúp đưa ra khỏi điểm ngập.

Do mưa ngập, kẹt xe nặng xảy ra tại nhiều tuyến đường, giao lộ vào giờ cao điểm. Tại cầu vượt Hàng Xanh, hàng nghìn xe kẹt cứng kéo dài từ chân cầu sài Gòn dọc theo đường Xô Viết Nghệ Tĩnh đến bến xe miền Ðông. Do kẹt xe trầm trọng, nên người dân cho xe máy chạy luôn qua cầu vượt Hàng Xanh bất chấp lệnh cấm.

Nhiều tuyến đường khác như Kha Vạn Cân, quốc lộ 13, Linh Ðông, quận Thủ Ðức; Phan Văn Hớn, huyện Hóc Môn; đường Ấp Chiến Lược, quận Bình Tân; Bạch Ðằng, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Chu Văn An, quận Bình Thạnh; xa lộ Hà Nội đoạn ở cầu Rạch Chiếc, quận 2… ngập nặng, khiến người dân phải dắt bộ xe máy trong dòng nước đen ngòm, hôi thối. (Tr.N)

Một vài kỷ niệm nho nhỏ với Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện

Một  vài  kỷ  niệm  nho  nhỏ  với  Thi  sĩ  Nguyễn  Chí  Thiện

Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Thi sĩ, Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện (1939 – 2012) là một nhân vật được nhiều người quý trọng mến phục vì tinh thần kiên cường bất khuất của ông chống lại chế độ độc tài tàn bạo của đảng cộng sản tại Việt nam. Đã có rất nhiều người viết về ông, đặc biệt kể từ ngày ông lìa trần tại California vào tháng 10 năm 2012. Nay nhân ngày giỗ đọan tang của ông, tôi xin ghi lại một vài kỷ niệm thật dễ thương và đáng nhớ với một người bạn đã từng sát cánh với anh chị em chúng tôi trong tổ chức Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (MLNQ) có trụ sở chính đặt tại miền Nam California.

Từ hồi năm 2001, khi dọn về cư ngụ tại California, anh Thiện đã thường xuyên sinh họat với MLNQ chúng tôi. Anh được mời tham gia với tư cách là một thanh viên trong Ban Cố vấn của MLNQ – trong đó có những nhân vật có tên tuổi như Bác sĩ Nguyễn Tường Bách là bào đệ của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Luật sư Trần Thanh Hiệp, Giáo sư Đoàn Viết Họat v.v…

Trong các phiên họp định kỳ mỗi tháng, anh Thiện thường có mặt và anh luôn đóng góp những ý kiến thật là xây dựng tích cực và quý báu cho Ban Điều hành chúng tôi.

Với sự hiểu biết sâu sắc về tình hình chính trị xã hội ở trong nước và nhất là qua những thông tin chính xác mà anh thu thập được từ nơi các bạn bè thân tín của anh tại quốc nội – anh Thiện đã góp ý hướng dẫn rất tận tình cho anh chị em chúng tôi trong MLNQ trước những vấn đề quan trọng tinh tế liên quan đến công cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt nam. Anh luôn biểu lộ một lập trường kiên định dứt khóat đối với chế độ độc tài thâm độc của người cộng sản từ xưa đến nay. Mà anh cũng được tất cả anh chị em chúng tôi quý mến vì cái phong cách điềm đạm nhân ái của một sĩ  phu quân tử, theo đúng với truyền thống xưa nay của dân tộc chúng ta.

Và qua anh Thiện, chúng tôi còn được biết thêm về cái tư cách đáng quý của những người bạn tù chính trị thân thiết lâu năm với anh, cụ thể như các anh Kiều Duy Vĩnh, Phan Hữu Văn v.v…

Anh Thiện không lái xe, nên nhiều người trong số anh chị em chúng tôi thay phiên nhau đến đón anh và chở anh về mỗi khi có các buổi họp của MLNQ. Và mỗi lần đi chung xe với anh Thiện, chúng tôi lại còn được anh chuyện trò tâm sự về nhiều khía cạnh trong cuộc sống riêng tư ở Việt nam, cũng như ở nhiều quốc gia trên thế giới mà anh đã có dịp đi qua. Còn ngòai ra, thì anh Trần Phong Vũ mới là người tài xế thường xuyên lo chuyên chở anh Thiện đi khắp nơi.

Vào khỏang năm 2008, trong lần đi chung xe với anh sau một phiên họp của MLNQ, thì anh Thiện có than thở tâm sự riêng với tôi đại để như thế này: “Ở vào cái giai đọan già yếu bệnh tật như lúc này, sao tôi thấy chán nản bi quan quá đối với cuộc đời tại thế này đấy, anh ạ…” Nghe vậy, tôi không khỏi thắc mắc, vì đối với một con người chiến sĩ kiên cường sắt đá như “Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện” vốn đã từng vượt qua được bao nhiêu đày đọa áp bức trong nhà tù cộng sản suốt gần 30 năm ròng rã – ấy thế mà lúc này đang sinh sống tại một nơi có đày đủ tự do và tiện nghi thỏai mái như ở nước Mỹ, anh lại đâm ra chán chường yếm thế đến như vậy!

Và tôi nhớ mình đã trả lời anh như sau: “ Thông thường vào lúc cuối đời, sau khi đã trải qua bao nhiêu sóng gió đọan trường trong cuộc sống, thì các cụ xưa hay nói đến chuyện “Tu Thân Tích Đức” để rồi chuẩn bị “về với ông bà tổ tiên” thôi. Nói cách khác, người lớn tuổi thì tìm cách nâng cao tâm hồn mình lên một bình diện tâm linh và tôn giáo – như trong tiếng Pháp người ta gọi đó là một thứ “dimension spirituelle/religieuse” vậy mà… Nghe tôi nói như vậy, anh Thiện tỏ vẻ trầm ngâm và không nói gì thêm nữa cho đến lúc chúng tôi chia tay nhau ở một địa điểm mà anh phải đến để tham dự một phiên họp khác nữa.

Vào năm 2013, nhân dịp Đại Hội lần thứ XI của MLNQ được tổ chức tại miền Nam California, Bác sĩ Lâm Thu Vân, một đại biểu đến từ Canada đã phát biểu trong phần Tưởng niệm hai vị Cố vấn vừa mới qua đời mới đây, đó là Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện và Bác sĩ Nguyễn Tường Bách. Bằng một giọng thật xúc động Bác sĩ ThuVân nói :”Đây là hai người chiến sĩ mà tôi luôn kính trọng như là thần tượng gương mẫu cho công cuộc tranh đấu gian khổ vì lý tưởng Tự do, Dân chủ và Nhân quyền của dân tộc Việt nam chúng ta vậy…”

Như dân gian vẫn thường nói: “Cọp chết thì để lại bộ da, người ta chết thì để lại cái nết”. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã đi xa, lìa khỏi cõi tạm này. Nhưng cái nết na, đạo hạnh và cái chí khí kiên cường bất khuất của anh thì vẫn còn lại mãi như là một tấm gương sáng ngời cho các thế hệ mai sau vậy./

Westminster California, tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Tôi đã gặp lại Chị Lài tại Ba lan

Tôi đã gặp lại Chị Lài tại Ba lan

Bút ký của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Tháng 6 năm 2012 vừa rồi, trong chuyến đi Âu châu, tôi đã có dịp đến thăm gia đình chị Trần Thị Lài tại thành phố Cracovie là cố đô của nước Ba lan. Chị Lài theo học Ban Cử nhân Văn chương Pháp tại Đại học Văn khoa Sài gòn vào giữa thập niên 1950. Hồi đó, chúng tôi cùng sinh họat chung với nhau trong Nhóm Sinh viên Công giáo do cha Nguyễn Huy Lịch làm Tuyên úy hướng dẫn.

Nhóm chúng tôi có chừng 30 thành viên là sinh viên thuộc nhiều phân khoa khác nhau và thường gặp gỡ trao đổi với nhau sau khi cùng tham dự Thánh lễ ngày Chủ nhật tại nhà nguyện thuộc Tu viện Mai Khôi trên đường Nguyễn Thông gần với Bệnh viện Saint Paul. Ở độ tuổi 20 – 25, chúng tôi sinh sống thật hồn nhiên, vô tư lạc quan yêu đời giữa lòng một xã hội tương đối thanh bình và thịnh vượng ở miển Nam Việt nam thời đó.

Sau khi tốt nghiệp đại học, chị Lài đi dậy môn Pháp văn mấy năm tại Nữ Trung học Gia Long. Rồi chị đi qua Pháp để học thêm lên bậc cao học. Vào khỏang năm 1964, chúng tôi được tin là chị Lài thành hôn với anh Stefan Wilkanowicz và theo chồng về sinh sống tại Ba lan. Có thể đây là trường hợp đầu tiên mà một người từ miền Nam Việt nam lập gia đình với người Ba lan và đến sinh sống tại quốc gia dưới chế độ cộng sản này.

Mùa hè năm 1970, chị Lài về thăm gia đình tại Việt nam nhân dịp Lễ Giỗ Đầu của thân phụ là Cụ Trần Văn Lý – người đã từng giữ chức vụ Thủ Hiến Trung Việt dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại vào năm 1950. Và các bạn chúng tôi đã thật vui mừng được gặp lại chị Lài sau mấy năm xa cách. Buổi hội ngộ thân tình ấm cúng này cũng diễn ra như xưa tại văn phòng của cha Lịch trong Tu viện Mai Khôi.

Chị kể cho chúng tôi về nhiều chuyện khó khăn phức tạp dưới chế độ cộng sản ở Ba lan, đặc biệt là nếp sinh họat của người công giáo thời đó. Chị cho tôi địa chỉ của anh Stefan Wilkanowicz là phu quân của chị lúc đó đang làm cho văn phòng của Pax Romana quốc tế có trụ sở tại thành phố Fribourg Thụy Sĩ. Thế mà vào cuối năm 1970, khi tôi có việc qua Genève thì cũng tìm đến Fribourg để thăm anh Stefan luôn thể, nhưng vì đúng vào dịp nghỉ lễ Noel, nên tôi đã không gặp được anh.

Từ ngày qua định cư ở Mỹ năm 1996, tôi đã dò hỏi nhiều nơi, nhưng cũng không làm sao liên lạc được với chị Lài, kể cả qua địa chỉ e-mail do một anh bạn gửi cho. Mãi đến khi tôi qua Paris vào mùa Xuân năm 2012, thì nhờ được bà con ở Ba lan cho biết số điện thọai chính xác của gia đình chị ở thành phố Cracovie, nên tôi mới liên lạc nói chuyện được với chị Lài. Qua điện thọai, tôi nghe được giọng nói của chị thật rõ ràng và mạnh mẽ, biểu lộ nỗi vui mừng được tin về một số bạn bè thân thiết từ cái thời còn đi học đã trên 50 năm xưa ở quê nhà Việt nam.

Và vào đầu tháng 6, tôi đã bay từ thành phố Frankfurt nước Đức để tới thăm anh chị Lài & Stefan Wilkanowicz tại cái thành phố là cố đô của Ba lan. Như vậy là kể từ ngày gặp nhau lần cuối ở Saigon vào năm 1970 cho đến năm 2012 này – tức là sau 42 năm thì chị Lài và tôi mới lại có cơ hội gặp nhau ở Ba lan là quê hương của chồng chị. Rõ ràng đây là một cuộc hội ngộ trùng phùng rất mực kỳ thú đối với cả hai phía chúng tôi.

Trong dịp này, tôi đã đến sinh sống vài ngày với gia đình anh chị tại một căn hộ trên lầu ba của một chung cư tọa lạc trong khu trung tâm thành phố Cracovie. Anh chị có hai cháu gái đều đã trưởng thành và có gia đình ở riêng, nên hiện trong nhà chỉ còn có hai vợ chồng già sống chung với nhau mà thôi. Mỗi ngày thì có người đến giúp dọn dẹp nhà cửa bếp núc và đi chợ mua sắm thực phẩm cho gia đình.

Ở vào tuổi 83, chị Lài đã bắt đầu có dấu hiệu suy thóai về mặt trí nhớ, nên khi chuyện trò trao đổi với tôi, thì có nhiều câu hỏi chị cứ nhắc đi nhắc lại hòai. Trái lại, anh Stefan ông xã của chị, thì dầu đã ở tuổi 87 mà anh vẫn còn rất sáng suốt tinh tường. Anh nói tiếng Pháp khá trôi chảy lưu lóat và ra tay lo lắng chăm sóc cho tôi thật là chu đáo tươm tất.

Để bạn đọc tiện bề theo dõi câu chuyện của ”một gia đình Việt – Ba lan” này, tôi xin lần lượt ghi lại chi tiết hơn về chị Lài, anh Stefan và cháu gái tên Việt nam là Lan.

1 – Câu chuyện của chị Lài.

Gặp lại chị Lài lần này, tôi được nghe chị kể lại nhiều kỷ niệm xa xưa ở Việt nam mà chị nhớ rất kỹ. Cụ thể như chị nói về chuyện ông cụ hồi làm Quản Đạo ở Đà lạt hồi trước năm 1940, thì đứng ra tổ chức cho một số bà con từ miền Bắc vào làm nghề trồng rau ở vùng cao nguyên này. Chị còn nhớ lúc đi theo thân phụ ra bến xe để đón lớp người này mang theo cả gia đình cùng với mọi thứ gồng gánh nồi niêu chén bát từ mãi xứ Hà Đông Nam Định vào lập nghiệp ở địa phương.

Chị cũng kể lại những năm tháng theo học nội trú tại trường của mấy ma soeur người Pháp với kỷ luật khá nghiêm khắc – mà nhờ vậy chị tiếp thu được số vốn kiến thức vững chắc, nhất là với môn Pháp văn và cổ ngữ La tinh – khiến cho chị có thể tiến xa trên đường học vấn sau này.

Chị vẫn còn nhớ cái thời tham gia viết báo Thông Cảm với Nhóm Sinh viên Công giáo chúng tôi năm xưa ở Saigon. Chị gọi các bạn thời đó đều có tinh thần của người chiến sĩ dấn thân phục vụ xã hội và là những người đồng điệu với chị nữa (militants – âmes soeurs). Khi nghe tôi nhắc đến tên những người đã ra đi – điển hình như cha Nguyễn Huy Lịch, anh Dược sĩ Trần Quý Thái v. v…, thì chị đều nhớ đến và bày tỏ lòng thương tiếc đối với những nhân vật mà chị đã từng sát cánh gắn bó thân thiết trong thời gian cùng sinh họat chung với nhau đã đến trên nửa thế kỷ trước đây.

Trên Internet, tôi còn được đọc một bài phỏng vấn khá nhiều chi tiết do chị Lài trả lời cho một nhà báo người Ba lan tên là Malgorzata Dzieduszycka vào khỏang năm 1994. Bài báo có nhan đề tiếng Anh là : ” An interview with Lai Wilkanowicz, a Vietnamese woman who has been living in Poland for 30 years “ (Bài Phỏng vấn với bà Lài Wilkanowicz, người phụ nữ Việt nam đã sống ở Ba lan suốt 30 năm). Chị Lài kể lại về mối tình của chị với anh Stefan mà chị gặp gỡ lần đầu tiên khi cùng tham dự một Hội nghị quốc tế của Pax Romana được tổ chức vào năm 1957 tại San Salvador ở Nam Mỹ.Và mãi đến năm 1964, sau khi vượt qua bao khó khăn trở ngại, thì chị mới có thể đến Ba lan để cùng chung sống với anh được.

Cũng trong cuộc phỏng vấn này, chị Lài còn cho biết chị đã dịch nhiều tài liệu từ tiếng Ba lan sang tiếng Pháp – đặc biệt là các sách của Tổng Giám Mục Karol Wojtyla. Nhờ vậy mà chị mới có đủ phương tiện tài chánh để lo giúp trang trải mọi phí tổn rất nặng nề cho người em ở Việt nam có thể qua định cư bên nước Pháp. Chị cũng còn dịch cả cuốn tiểu sử của nữ tu Faustyna là người được coi như một “Sứ giả rao truyền về sự sùng kính Lòng Thương Xót Chúa” (Divine Mercy) nữa.

Và mới đây vào tháng 10/2012, báo Đàn Chim Việt còn giới thiệu cuốn Tự truyện của cháu Lan là con gái đầu lòng của anh chị, thì bài báo còn ghi là chị Lài đã cho xuất bản vào năm 2004 một cuốn Hồi ký bằng tiếng Ba lan với nhan đề : “ Từ Việt nam đến Ba lan : truyện của một người con gái quan huyện”. Các chi tiết này, quý bạn đọc đều có thể đọc trên Internet, nên tôi khỏi cần ghi thêm ở đây nữa.

2 – Câu chuyện của anh Stefan.

Anh Stefan năm nay đã ngòai 87 tuổi mà vẫn còn làm việc đi đứng vững vàng. Stefan là một trí thức Công giáo có tên tuổi ở Ba lan, anh đã từng làm Tổng Biên tập trong nhiều năm cho nhà xuất bản có tiếng Znak và cả cho một tờ tuần báo nữa. Anh là một thành viên của tổ chức “Bảo tàng Khu Thiêu người Auschwitz” xưa kia của Đức Quốc Xã. Và Stefan cũng có chân trong Hội Đồng Giáo Hòang về Giáo Dân (Pope’s Council for Lay Catholics).

Anh dẫn tôi đi khắp nơi trong thành phố bằng xe taxi hay xe bus để làm việc này chuyện nọ một cách dễ dàng. Chị Lài có nhắc anh dẫn tôi đến thăm nhà xuất bản Znak là cơ sở anh đã gắn bó cộng tác từ nhiều năm, nhưng đúng lúc đó thì cơ sở này đang đóng cửa để sửa chữa lại, nên tôi đã không có dịp đến thăm viếng nhà xuất bản có danh tiếng này.

Stefan cho tôi biết : Bản luận văn tốt nghiệp đại học của anh lấy chủ đề là : “L’émancipation ouvrìere selon Emmanuel Mounier” (Sự Giải phóng giới Lao động theo chủ trương của Emmanuel Mounier là người khởi xướng ra chủ thuyết Nhân vị (Personnalisme) ở Pháp từ sau Đệ Nhất Thế chiến và cũng là sáng lập viên của tạp chí Esprit mà hiện vẫn còn tiếp tục ấn hành). Và chúng tôi có dịp trao đổi về các tác giả thuộc trường phái Nhân bản Thiên chúa giáo ở Pháp vào giữa thế kỷ XX như Jacques Maritain, Gabriel Marcel – mà từ hồi còn là sinh viên chúng tôi đã say mê theo dõi học hỏi. Trong nhà anh, tôi thấy vẫn còn các số báo mới nhất của tạp chí Esprit từ Pháp gửi cho anh – báo này từ sau 1975 thì tôi không hề thấy xuất hiện tại Việt nam nữa.

Stefan còn kể lại cho tôi cái kỷ niệm sinh họat sôi nổi với các “Công nghị cấp giáo phận” (synode diocésain) dười thời Giám mục Karol Wojtyla cai quản giáo phận Cracovie (mà sau này đó chính là vị Giáo hòang nổi danh Jean Paul II của Giáo Hội Công giáo La mã). Anh nói : Phải có đến 500 đơn vị các synode này với khí thế nô nức của mọi giới công giáo hội họp thảo luận về các khía cạnh đổi mời của Giáo hội Công giáo tại địa phương. Đó là một phong trào tự phát của quần chúng công giáo mà chính quyền cộng sản không thể làm cách nào mà cấm cản hay dẹp bỏ được. Tuy vậy, lên đến cấp quốc gia (synode national), thì các công nghị này lại không thể nào đạt kết quả mong muốn được.

Trả lời câu hỏi của tôi là : “Liệu bây giờ có thể gây lại phong trào quần chúng tôn giáo như vậy nữa chăng?”, thì Stefan cho biết : “Bây giờ nhờ có Internet, thì giới trẻ có nhiều điều kiện thuận tiện để phát động phong trào canh tân như đã khởi sự từ khỏang 40 năm trước ngay tại giáo phận Cracovie này.” Cuộc trao đổi giữa anh và tôi kéo dài trong nhiều giờ với nhiều chi tiết lý thú về quá trình xây dựng và phát triển phong trào canh tân của giới Công giáo Ba lan  –  mà tôi sẽ có dịp ghi lại đày đủ hơn trong một bài riêng biệt khác.

Mà ở đây, tôi muốn ghi ra sự nhận xét của mình về sự bền vững của tình yêu giữa hai anh chị Lài & Stefan – đó là cả hai người đều ôm ấp theo đuổi cùng một lý tưởng của người chiến sĩ – như chính chị Lài đã nói với tôi :  Chúng ta đều là những “militants”, là “âmes-soeurs” với nhau. Và cả hai anh chị suốt cuộc đời đều họat động trong lãnh vực văn hóa của Giáo hội Công giáo Ba lan – cụ thể là sát cánh chặt chẽ với Tổng Giám mục Karol Wojtyla ở Cracovie là người sau này trở thành Giáo Hòang Jean Paul II nổi tiếng.

Hồi ký của chị Lài cũng như Tự truyện của cháu Lan đã ghi chi tiết về mối tình này. Kể cả trong bài phỏng vấn vào năm 1994 đã nêu ở trên, thì chị Lài cũng đã nói nhiều về mối tình keo sơn tuyệt vời này nữa.

Và tôi cũng còn chứng kiến việc anh Stefan chăm sóc tận tụy và trìu mến đối với người bạn đời hiện đang có triệu chứng của bệnh Alzheimer nữa.

3 – Câu chuyện của cháu Lan, trưởng nữ của anh chị Lài – Stefan.

(tên đày đủ là : Lan Marzena Wilkanowicz – Devoud)

Tôi chưa có dịp gặp cháu Lan, vì anh Stefan cho biết cháu sống tại Paris với người chồng là dân Pháp. Tôi đóan cái chữ Devoud ở cuối cái tên dài như được ghi ở trên, thì đó là tên họ của chồng cháu. Lan là tiếng Việt như Hoa Lan (Orchidea), Marzena mới là tên tiếng Ba lan. Còn Wilkanowicz là tên họ nội của cháu. (Tên mẹ là Lài (Jasmine) – em gái chị Lài có tên là Huệ (Lily), thì cũng lại là một thứ Hoa nữa)

Cuối tháng 10 năm 2012, cháu Lan có cho ấn hành cuốn Tự truyện bằng tiếng Ba lan tại thủ đô Varsovie và đã có nhiều bà con người Việt tại Ba lan đến dự buổi ra mắt. Cuốn sách này đã được giới thiệu trên báo điện tử Đàn Chim Việt và được nhiều độc giả chú ý theo dõi. Vì không đọc được nguyên tác bằng tiếng Ba lan – mà cũng chưa thấy có bản tiếng Anh hay tiếng Pháp – nên tôi xin phép được trích dẫn một vài đọan trong bài báo của Đàn Chim Việt như sau đây để giới thiệu với quý bạn đọc câu chuyện của cháu Lan :

…”Lan Marzena là kết quả của mối tình “không tưởng vô cùng lãng mạn của người trí thức Ba lan với cô gái Việt Nam dòng dõi – trong khi chiến tranh, chính trị và khỏang cách địa lý là những rào cản thách thức tưởng như không thể vượt qua.”

“Mẹ cô, Maria Teresa Trần Thị Lài là con gái của quan Trần Văn Lý, người từng giữ chức cai quản tại Đà lạt thời Pháp thuộc. 28 tuổi, bà gặp người chồng tương lai trong cuộc Họp mặt Thanh niên Công giáo Pax Romana tại San Salvador (Nam Mỹ) và … sau 7 năm xa cách, bà quyết định lấy ông Stefan Wilkanowicz khi đó là ký giả của tuần báo Công giáo Tygodnik Pawzechny…”

“… Mối tình của ông bà Wilkanowicz “ly kỳ và có khi còn hay hơn cả phim Hollywood, vì là chuyện có thật” (theo lời ghi của cô Lan)”.

“… Lan Marzena dẫn ta tới gặp các nhân vật lịch sử cận đại của Ba lan mà chị gặp, kết thân và học hỏi – trong đó có Thủ Tướng đầu tiên của Ba lan dân chủ Tadeusz Mazowiecki, các nghệ sĩ, nhà văn, các tên tuổi tạo mode Anh, Pháp mà chị từng làm việc cùng trong 13 năm làm Tổng biên tập đầu tiên của nguyệt san “Elle” Ba lan…”

4 – Để tóm lược lại.

Khi tìm đến thăm gia đình chị Lài ở Ba lan, tôi chỉ nhắm mục đích thật đơn giản là gặp lại người bạn thân thiết từ thuở còn đi học ở Saigon trên nửa thế kỷ trước. Nhưng sau cuộc viếng thăm này, tôi thật không ngờ là chị bạn của mình đã trải qua một cuộc sống cam go mà thật sôi động giữa lòng một đất nước xa lạ dưới sự kềm kẹp ngặt nghèo của chính quyền cộng sản. Và tôi thật vui mừng thấy được anh chị Lài – Stefan đã vượt qua được bao nhiêu nghịch cảnh sóng gió và giữ vững được niềm tin son sắt của mình đối với Đạo Công giáo – mà cả hai dòng họ của anh chị ở Việt nam cũng như ở Balan đã gắn bó vững chãi từ bao nhiêu thế hệ trước.

Bài viết này chỉ nhằm ghi lại một cách sơ lược về chuyến thăm viếng của tôi đến với gia đình anh chị. Do vậy, nó chỉ có tính cách riêng tư về tình cảm bạn hữu giữa chúng tôi – kể cả giữa một số bằng hữu quen biết trong thế hệ sinh viên chúng tôi ở Saigon thời trước mà thôi.

* Vì thế, tôi hy vọng sẽ có bà con hiện sinh sống ở Ba lan có điều kiện tham khảo trực tiếp từ các tài liệu viết bằng tiếng Ba lan – để rồi trình bày cho công chúng độc giả người Việt hiểu biết tường tận hơn về một gia đình “Việt – Balan” với nhiều tình tiết thật là ly kỳ sinh động này. Mong lắm thay!

Costa Mesa California, Tháng 11 năm 2012

Đòan Thanh Liêm

Ghi chú: Chị Teresa Maria Trần Thị Lài đã qua đời tại Cracovie vào đúng ngày 15 tháng Tám năm 2014.

LÊN ĐƯỜNG KHAI PHÓNG!

LÊN ĐƯỜNG KHAI PHÓNG!


Bài phát biểu của ông Nguyên Ngọc
tại lể khai giảng Trường Đại học Phan Châu Trinh

Hôm nay, mồng 9 tháng 9 năm 2015, kỷ niệm ngày sinh của nhà chí sĩ, nhà văn hóa và nhà giáo dục kiệt xuất Phan Châu Trinh, cũng là ngày truyền thống của trường ta, trường Đại Học Phan Châu Trinh làm lễ Khai giảng khóa K 15, khóa học 2015-2019.

Thay mặt lãnh đạo nhà trường, tôi xin chào mừng và chân thành cám ơn các vị đại biểu đã đến chia vui cùng thầy trò chúng tôi. Xin chào mừng tất cả các thầy cô, các cán bộ nhân viên, các sinh viên và cựu sinh viên của trường. Và đương nhiên, lời chào nồng nhiệt nhất hôm nay của tất cả chúng ta là dành cho các tân sinh viên, chào mừng các em nữ và nam từ khắp nơi, có em từ tận Thái Bình cuối Đồng bằng sông Hồng, có em từ tận Thành phố Hồ Chí Minh xa xôi, đã đến với không gian Phan Châu Trinh thân yêu của chúng ta. Tôi xin phép, và tôi tin chắc tất cả quý vị đều đồng ý cho phép tôi hôm nay dành diễn từ khai giảng này để chủ yếu nói với các tân sinh viên, những thành viên mới mẻ và trẻ trung của gia đình Phan Châu Trinh.

Các em thân yêu,

Như các em đều biết, trường của chúng ta có tên là trường Đại học Phan Châu Trinh. Và tôi xin nói: Những người sáng lập ngôi trường này đã chọn cái tên ấy với tất cả tâm huyết và với một ý tứ sâu xa. Bởi vì đấy là tên của một con người rất đặc biệt, cũng có thể nói rất kỳ lạ, hết sức độc đáo và là người sáng suốt nhất trong lịch sử cận đại và hiện đại của nước ta. Sự sáng suốt của ông còn soi đường cho chúng ta đến tận ngày nay.

Phan Châu Trinh sinh ra khi đất nước chìm đắm trong vòng nô lệ tối tăm và thảm khốc. Và khi ông bước vào đời, nghĩa là đến tuổi như tuổi các em hôm nay, thì tất cả các cuộc nổi dậy cứu nước của tất cả những người anh hùng dũng cảm và tài năng nhất để chống ngoại xâm giải phóng dân tộc bấy giờ đều thất bại đau đớn. Cha của Phan Châu Trinh là một vị tướng anh hùng đã chết trong một cuộc khởi nghĩa anh hùng, tuyệt vọng và thất bại cay đắng như thế … Trước tình hình bức thiết đó, nảy sinh câu hỏi nóng bỏng: Vì sao? Và làm thế nào? Tất cả bấy giờ đều chỉ có một câu trả lời: Phải anh hùng hơn nữa! Dám hy sinh nhiều hơn nữa ! Tất cả. Trừ một người. Người đó là Phan Châu Trinh. Ông nói: Không, không phải như vậy, không thể đi con đường ấy nữa. Ông là người duy nhất đi tìm và đã tìm thấy nguyên nhân mất nước, dân tộc bị đày đọa vào vòng nô lệ thảm khốc, không phải trong sự thiếu anh hùng của nhân dân, mà là ở trong văn hóa, trong sự lạc hậu nguy hiểm về văn hóa của đất nước, so với thế giới, một thế giới đã đổi khác về căn bản – ngày nay ta gọi là thế giới toàn cầu hóa – mà ông cũng là người duy nhất hồi bấy giờ nhận ra. Ông nói chính sự tăm tối và ngu dốt, sự lạc hậu quá xa so với thế giới hiện đại là nguyên nhân khiến Việt Nam mất nước. Ông khẳng định căn bệnh chết người của dân tộc là căn bệnh về văn hóa, ngu dốt và lạc hậu về văn hóa. Và để chữa trị một căn bệnh về văn hóa thì chỉ có một phương thuốc duy nhất, đó là Giáo dục. Phan Châu Trinh chủ trương một cuộc cải cách giáo dục căn bản, hiện đại, triệt để, toàn diện, rộng lớn, đưa Việt Nam thành một nước văn minh, tiên tiến, cùng nhân loại năm châu. Có như vậy thì nền độc lập đươc dành lại dù bằng cách nào mới là độc lập thật sự, độc lập mới bền vững, nhân dân mới thật sự có hạnh phúc …

Tiếc thay, những điều kiện éo le của lịch sử đã khiến cho chương trình vĩ đại của Phan Châu Trinh bị dở dang. Lịch sử đã đi theo con đường khác. Độc lập và thống nhất đã được dành lại. Nhưng, tôi nghĩ hôm nay chúng ta cần dũng cảm và thẳng thắn nói với nhau, chúng tôi có trách nhiệm thẳng thắn nói với các bạn trẻ sự thật này: nay chúng ta đã có độc lập rồi, nhưng căn bệnh chết người Phan Châu Trinh đã thấy và thống thiết muốn chạy chữa cho dân tộc hơn một trăm năm trước thì về cơ bản vẫn còn nguyên đấy. Vẫn là nguy hiểm chết người. Việt Nam vẫn là nước lạc hậu, đứng ở hàng cuối không chỉ của thế giới, mà ngay của khu vực, của châu Á và Đông Nam Á. Chúng ta phải dũng cảm và thẳng thắn nói với nhau sự thật ấy. Chính vì vậy mà ngôi trường này mang tên là trường Phan Châu Trinh. Ngôi trường này được thành lập, tất cả chúng ta có mặt ở đây, các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên của trường, và các em sinh viên trẻ trung, quan trọng và chủ yếu nhất là các em, chúng ta có mặt ở đây là để góp phần, dù là nhỏ nhoi, tiếp tục chương trình sống còn do nhà giáo dục vĩ đại Phan Châu Trinh khởi xướng và còn bị dở dang. Trường của chúng ta nhỏ, còn non trẻ và nghèo, sức của mỗi chúng ta hạn chế, nhưng chúng ta có một lý tưởng lớn, chúng ta, người dạy, người học, chúng ta biết chúng ta tham gia vào một chương trình to lớn và có ý nghĩa sinh tử đối với đất nước này, hôm nay và ngày mai.

Thưa quý vị,

Các em thân yêu,

Ở trên tôi có gọi Phan Châu Trinh là một nhà giáo dục lớn, có lẽ điều ấy hơi lạ, xưa nay người ta thường vẫn coi và vẫn gọi ông là một chí sĩ yêu nước, hoặc có nhiều hơn nữa, là một nhà văn hóa. Song như ta vừa thấy, một trong những đặc sắc nhất của Phan Châu Trinh là ở chỗ ông đồng nhất giáo dục với giải phóng, theo ông chỉ có giáo dục mới thật sự giải phóng được con người, thật sự giải phóng được dân tộc. Ông quan niệm giáo dục tức là giải phóng. Ở đây có một ý tứ rất thâm sâu, mà hôm nay tôi muốn được nói với các em vì trường chúng ta thiết tha đi theo quan niệm này, sẽ cố gắng tối đa thực hiện nó trong mọi hoạt động của mình, đến cả trong “khí quyển’’ của không gian Phan Châu Trinh mà thầy trò chúng ta cố gắng cùng nhau xây dựng nên, cùng sống và làm việc trong đó. Suốt 4 năm. Và rồi các em sẽ mang theo ra đời, suốt đời.

Nhà thơ lớn của nước Anh John Keats có một câu nói thâm thúy về giáo dục, Keats nói: ‘’Giáo dục không phải là chất cho đầy, mà là đốt lên ngọn lửa’’. Chất cho đầy (kiến thức) tức là rót từ bên ngoài vào, từ bên trên xuống, đổ cho đầy vào đầu con người được coi là một cái thùng ù lì, bị động. Đốt lên ngọn lửa là khêu cháy từ bên trong. Giáo dục khêu cháy từ bên trong, vì giáo dục bắt đầu bằng lòng tin rằng trong mỗi con người đều có, tiềm ẩn, mầm mống của một ngọn lửa, tức những năng lực có thể và cần được đánh thức dậy để phát triển. Giáo dục là giải phóng, là đánh thức. Đánh thức cái vốn đã có sẵn trong từng con người, từng người học, từng sinh viên. Hôm nay, trong ngày đầu tiên các em bước chân vào trường, tôi muốn nói với các em điều này: ở trường này có một phương châm, một niềm tin: không có sinh viên kém. Em nào cũng giỏi, tất cả, không trừ một ai, tạo hóa rất công bằng, mọi người đều giỏi, mỗi người giỏi một cái, một cách, người giỏi toán, người giỏi văn, người giỏi ngoại ngữ, người giỏi tin học, người giỏi nhạc, người giỏi đá bóng, người hát hay, người vẽ đẹp, người năng nổ trong giao tiếp, người thâm trầm trong suy nghĩ …, đều quý, xã hội đều cần vì xã hội có những nhu cầu hết sức đa dạng. Sở dĩ ta coi người này hay người kia là kém, dốt, vì ta thường có lối đòi hỏi chủ quan, vô lý và kỳ quặc, cứ một mực đòi mọi người đều phải giỏi cùng một thứ mà ta cũng rất chủ quan coi là quan trọng nhất, ai không giỏi theo đúng đòi hỏi chủ quan của ta thì ta cho là dốt, khinh miệt và đẩy qua một bên trên đường đi tới của cộng đồng. Nói cho đúng, đấy là một tội ác, bởi vì người bị ta chủ quan coi là dốt sẽ đinh ninh mình dốt thật, chẳng đáng gì trong xã hội, mất hết tự tin, tự coi thường, tự khinh bỉ chính mình, sẽ lủi thủi với cái dốt tưởng tượng, thành một ám ảnh tủi nhục suốt đời.

Ở trường này chúng ta nhất quyết không làm như vậy, không đi theo con đường phi nhân bản, phi giáo dục đó. Chúng ta chủ trương làm một kiểu giáo dục khác, một kiểu giáo dục hạnh phúc, giáo dục đem lại cho con người hạnh phúc, giáo dục khiến cho con người hạnh phúc hơn, giáo dục làm cho con người tự tin và tự hào về chính mình, tôi muốn đề nghị chúng ta gọi là ‘’kiểu giáo dục Phan Châu Trinh’’. Trong 4 năm tới, bắt đầu từ hôm nay, trường chúng ta, thầy trò chúng ta quyết cùng nhau làm cho kỳ được một trong những việc quan trọng nhất: bằng mọi cách (trong đó có một cách rất quan trọng là chương trình giáo dục khai phóng mà chốc nữa thầy Chu Hảo sẽ trao đổi cùng các em), giúp cho mỗi em tự hiểu mình, tự khám phá và phát hiện chính mình, biết cho ra, hiểu cho rõ mình giỏi cái gì, đặc sắc nhất cái gì, từng em. Theo tôi, đó là công việc quan trọng nhất của mỗi thầy cô giáo, nằm trong chiều sâu căn bản của thiên chức nhà giáo nơi mỗi thầy cô. Nhưng cũng đương nhiên, trước hết, chủ yếu, đó phải là nổ lực của các em, từng em, với sự giúp đỡ của các thầy cô, của các bạn, của toàn bộ môi trường giáo dục mà chúng ta phải cùng nhau tạo ra ở đây. Trước hết ở các em, từng em, tôi nhắc lại. Bởi vì phát triển bao giờ cũng là tự phát triển, như cái cây phải tự nó lớn lên, không ai có thể lớn lên thay nó được.

Và một quá trình như vậy chỉ có thể có kết quả khi nó là một sự hợp tác khắng khít, dân chủ, tự do và bình đẳng giữa chúng ta, người dạy và người học, thầy và trò.

Ở trường này có một nhận thức rõ ràng: sinh viên là công dân đi học. Sinh viên cần ứng xử như một công dân có trách nhiệm, và cần được tôn trọng như một công dân tự do. Chúng ta tôn trọng đúng mức lễ độ truyền thống và hiện đại giữa thầy và trò, người lớn tuổi hơn và người ít tuổi hơn, người đi trước và người đi sau, nhưng chúng ta bình đẵng trước chân lý cuộc sống và chân lý khoa học. Trường có quy định: trên lớp học, sinh viên sẽ không xưng con, xưng cháu, mà xưng tôi, một cách bình đẳng và tự tin, hoặc cũng có thể xưng em với giáo viên, các giáo viên xưng thầy, cô với các em. Để cùng nhau trao đổi, và thảo luận, tranh luận, vì lẽ phải chung, trong một ngôi trường thật sự văn minh.

Các em thân yêu,

Giáo dục là việc khó, mà cũng là việc thật đẹp, rất khó mà cũng lại đẹp nhất. Bởi, như đã nói, đây là việc đánh thức dậy những gì những gì hay nhất, đẹp nhất trong mỗi con người để con người ấy phát triển tự do và hạnh phúc. Khó và đẹp còn ở chỗ con người là vô cùng đa dạng, mỗi em là một thế giới. Mỗi em một khác, mỗi lớp, mỗi năm, mỗi khóa một khác. Vừa rất căn bản, vừa rất mới lạ, luôn mới lạ. Vừa chắc chắn trên những nền tảng chung cơ bản, vừa lại rất cá biệt, bao giờ cũng mới mẻ, cũng khác thường. Cho nên tôi luôn nghĩ, nói theo cách nào đó, thì về cơ bản giáo dục là việc một thầy một trò, một người cùng với một người khó nhọc và tha thiết đi tìm ra chính mình. Tôi luôn mong ước, và tôi nghĩ các thầy cô giáo cũng vậy, luôn muốn được đến tận từng em, hiểu được từng em, gần gũi và là bạn của từng em, để ta cùng làm cho thành công công việc khó khăn mà đẹp đẽ này. Sẽ rất hạnh phúc cho cả thầy và trò ta.

Vậy đó, các em thân yêu, hôm nay ta lên đường.

Một lần nữa, thay mặt nhà trường, thay mặt các em, tôi xin cám ơn các vị đại biểu đã đến cùng thầy trò chúng tôi trong ngày lên đường của chúng tôi hôm nay.

Còn với các em, ta hãy cùng chúc nhau một hành trình khai phá thật đẹp và thật thành công.

Nguyên Ngọc.