Đường khuynh diệp (phần 2)

Đường khuynh diệp     (phần 2)

Khi xe chúng tôi chuẩn bị ra về thì có người chạy theo và hỏi xem chúng tôi có thể giúp gì được cho một gia đình có 2 người vừa bị chết. Tôi hỏi cặn kẽ hơn thì được biết rằng nạn nhân là một đôi vợ chồng trẻ làm nghề đánh cá tôm ở xã này. Để gia tăng thu nhập họ sử dụng bình điện xe hơi cho dây chạy vào trong nước để điện giật chết những con vật sống dưới nước quanh đó. Kết quả là bao nhiêu cá to tôm nhỏ rùa già lươn non trứng mỏng rắn rít gì ở vùng nước lân cận đều bị giết chết. Họ chỉ cần nhẹ nhàng lấy lưới vớt lên và đem bán. Lần này, không may vì bất cẩn, người chồng đã để hở tay và bị điện giật. Vợ thấy vậy chạy lại cứu chồng và cũng bị mất mạng theo. Sanh nghề tử nghiệp. Một anh tình nguyện viên nhún vai nói: “Chị thấy người mình có hai tếch không? Mình chẳng thèm câu từng con một, mình phải giết cả sông mới được.” Đây là phương cách “đánh cá” đang rất thịnh hành ở các nơi mặc dù có sự cấm đoán khắt khe của chính quyền. Hai vợ chồng xấu số này mất đi để lại 6 đứa con thơ. Mọi người đề nghị là chúng tôi nên nhận các em vào Trung tâm để nuôi. Tôi liền cho nhân viên FHF điều tra thêm vấn đề này. Nhưng điều làm tôi băn khoăn là người dân bất chấp hậu quả tìm kế sinh nhai bằng những phương thức nguy hiểm và bất hợp pháp để rồi phải trả những cái giá thật đắt. Vì miếng ăn, nhiều người đã không màng làm thiệt hại môi trường và nguy hại đến tính mạng. Lòng buồn buồn tôi tạm biệt xã Quan Hòa để đi lên xã Thụy Biều, vùng ngày xưa có giam nhiều tù binh, để thăm những gia đình nghèo mượn tiền vốn của Hội FHF để trồng rừng cao su. Những đồi cao su xanh mạnh mẽ nhưng mùi hương khuynh diệp lúc đó như đã bay rất xa tôi.

Rời Thụy Biều, chúng tôi đến một làng nhỏ ở xã Phú An. Làng này chỉ có 47 gia đình, tổng cộng dân số khoàng 350 người. Làng nhỏ, nhu cầu ít, người dân sống mộc mạc và đơn giản. Họ không xin chúng tôi giúp đỡ gì cả. Nhưng trời đất xui khiến cho chúng tôi gặp một đám tang đang trên đường ra bãi tha ma. Đường đưa người quá cố về nơi yên nghỉ đòi hỏi người ta phải đi qua một chiếc cầu xi măng rất hẹp bắc ngang con kênh nông đầy bùn ngăn trở Phú An với bên ngoài. Rất tiếc là chiếc cầu cũ đã lòi sườn sắt lại quá hẹp không đủ chỗ cho hai hàng người khiêng quan tài đi qua. Muốn dùng thuyền cũng không được vì kênh cạn không đủ nước. Thế là người phải khiêng hòm xuống kênh, lội bùn nặng nề từng bước tiến, vất vả chông chênh mãi mới qua được bên kia bờ kênh. Từ bao năm nay người chết ở vùng này đã phải gian truân như thế mới đến được nơi an nghỉ. Chúng tôi trong hội FHF nhìn nhau và biết là mình phải làm gì. Tuy không tìm ra hương vị khuynh diệp tại đất Thần kinh, tôi đã quên hết đi căn bệnh của mình và cảm thấy ngày sao quá ngắn.
Trên đường về, tôi thấy bóng tôi như một trong những người khiêng quan tài. Xác nặng hai vai, chân nặng bùn, chậm rãi tiến về phía trước.
“Tôi làm nghề cạp đất!” Anh bạn học chung trung học với tôi ngày xưa tuyên bố một câu bình dị. Tôi chăm chú nhìn mắt anh thắc mắc. Anh giải thích chậm rãi về công việc lấy đất nơi cao đổ xuống vùng bùn lầy nước đọng—một phương cách bán đất hai lần. Đất, nói chung, không còn chỉ là chuyện nặng hồn sỏi đá. Mà là câu chuyện của một cơn sốt thời đại. Điển hình là đất ở miền Nam.
   

  Sài Gòn.
Sau bao nhiêu ngày vất vả với khí hậu hai miền Trung Bắc, tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm khi đón nhận bầu không khí rất mát và dễ chịu của sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng cái dễ chịu đó dần dần bị mất đi trong khung cảnh chen lấn của những dòng người và xe sôi sục trên những con đường từ sân bay về trung tâm thành phố.
Tôi vào Sài Gòn để tư vấn cho một công ty Mỹ về việc lập hợp đồng với một số công ty nước ngoài hiện đang làm việc tại Việt Nam. Thế là kế hoạch đi tìm khuynh diệp của tôi bị lệch đi một chút. Vì ỷ y, phái đoàn chúng tôi đã không lo đặt phòng trước, nên vừa đặt chân xuống phi trường là đã phải đương đầu với việc đi tìm khách sạn có đủ 5 phòng ngủ. Chúng tôi bắt đầu với những khách sạn 4 sao trên đường Nguyễn Huệ, từ Rex đến Majestic. Họ chỉ có 1 hoặc 2 phòng trống chứ không đủ 5 phòng. Chúng tôi liền quay qua khách sạn 3 sao như Bông Sen trên đường Đồng Khởi nhưng cũng vô dụng. Tất cả đều bị “sold out”. Xe phái đoàn cứ loanh quanh những con phố, hết khách sạn này đến khách sạn khác, và sau 7 nơi dừng chân, chúng tôi may mắn tìm đến một khách sạn nhỏ trên đường Thủ Khoa Huân sau chợ Bến Thành. Giá phòng là $63 Mỹ kim cho một căn phòng hẹp, không có gì sang trọng, mà cách đây hơn một năm tôi chỉ phải trả khoảng $25 Mỹ kim. Khi chúng tôi trả phòng, một người trong nhóm chúng tôi nói với cô tiếp tân là anh ta cần quay lại vào đầu tháng 3, và được cô tiếp tân cho biết là giá phòng sẽ tăng lên $70 đô một người. Sự lên giá xảy ra ngay trước mắt chỉ trong vòng có mấy ngày. Hỏi ra mới biết cái xứ của nước dừa rau má này đang lên cơn sốt đất đai và giá cả!
Dù có mua bán hay không, chuyện giá cả đất đai lên cơn sốt nghe ra đến phải rùng mình. Cả nước Việt đang oằn oại trong tình trạng này. Riêng ở Sài Gòn, câu tục ngữ “bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu” đã trở thành hiện thực. Giá của cả đất lẫn vàng thi nhau vượt kỷ lục và qua một thời gian, chuyện định giá đất theo giá vàng (một phương cách quen thuộc mà xưa nay người Việt vẫn thường dùng) đã trở thành vô nghĩa. Đối với chuyện mua đi bán lại đất hoặc nhà cửa, nếu tính theo đồng đô la thì người ta có lời, lời nhiều lắm, nhưng nếu tính theo vàng thì người bán sẽ bị lỗ. Lỗ nặng.
Trong những câu chuyện họp mặt, chủ đề đất đai thường hay được đề cập đến. Đất đai giờ đây là chuyện gây lo âu và đồng thời cũng gây hào hứng vì đã làm giàu cho nhiều người. Tôi phải vuốt trán khi nghe một cuộc mua bán vừa xảy ra tại Quận Nhất với giá bán 315 triệu VND (20.000 ngàn Mỹ kim) một mét vuông! Ông thân chủ người Mỹ hỏi tôi: “Như vậy là đất ở trung tâm thành phố này còn đắt hơn cả đất của Tokyo ư?” Tuy tôi không giám khẳng định như thế nhưng cứ theo cái đà này, cái gì cũng có thể xảy ra. Anh bạn chuyên môn trong nghề đất cho tôi biết là đất trên đồi còn được giá hơn vì đất trên cao có một giá trị mới khác hơn xưa rất nhiều. Tôi hỏi thêm thì anh cho biết là ngoài nghề mua bán đất, anh còn có nghề “cạp đất”.
Anh bảo tôi rằng ngày xưa anh học phổ thông bị điểm yếu, bà anh thường chê rằng “sau này mày chỉ đi cạp đất mà sống.” Anh hiện đã làm theo lời bà. Anh mua đất trên đồi rồi bốc đất lên để bán cho những công trình xây dựng vùng bùn lầy hoặc các khu vực ven bờ sông cần làm thành ngăn ngừa đất lở. Sau khi sang bằng mặt đất và gỡ được một nửa số vốn, anh lại bán miếng đất đó đi. Kết cục anh lấy lại tổng số vốn cộng thêm một món tiền lời, coi như là mua một lời hai. Dĩ nhiên tất cả không đơn giản như vậy, cạp đất cũng đòi hỏi phải thông thạo nghề và nắm vững thông tin chính xác, chẳng hạn như phải tìm hiểu kế hoạch đầu tư của các thương gia nước ngoài và dự án khai thác giải tỏa của chính quyền địa phương như thế nào, từ đó người buôn đất mới biết nên đầu tư ở đâu thì mới nắm được phần thắng trong tay.
Cơn nóng sốt đất đai này có lẽ cũng ảnh hưởng ít nhiều đến sự sôi sục kinh tế tại Việt Nam. Chuyện đầu tư của các nước ngoài vào miền Nam thật sự là một hiện tượng đáng kể. Mới từ đầu năm đến giờ mà Việt Nam đã được hứa con số đầu tư trên 15 tỷ Mỹ kim từ các nước ngoài, đứng đầu là Canada và sau đó là Singapore. Có lẽ vì cơ hội làm ăn được gia tăng quá nhanh, dân chúng đổ dồn về các thành phố nên dân số tại Sài Gòn chắc hẳn đã tăng gấp đôi so với một năm trước đây. Đi đâu và bất cứ lúc nào cũng bị kẹt xe, không phải chỉ trong giờ cao điểm. Người và người ngập đầy phố chợ. Ai ai cũng dồn về Sài Gòn hoặc về các vùng có nhiều nhà máy lớn.
Nói đến các nhà máy lớn là tôi cảm thấy có gì đó sờ sợ. Trên đường từ thành phố đi ra các tỉnh như Bình Dương, Long An, v.v., tôi đã chứng kiến các hãng xưởng mới mọc lên thật quy mô và rầm rộ. Điểm đặc biệt là đa số các xưởng này không mang những cái tên được đặt bằng tiếng Việt.
Điều này làm tôi liên tưởng đến các khu vực tô giới quốc tế ở thành phố Thượng Hải thuở xưa lúc triều đình Mãn Thanh phải nhượng đất lại cho các cường quốc Tây phương và Nhật Bản. Hình như hiện tượng đó đang xảy ra trên miền Nam Việt Nam. Mỗi một khu vực cận Sài Gòn là nơi chiếm đóng của một số công ty lớn thuộc về một nước ngoài. Đi về phía Bình Dương, bạn chỉ thấy toàn những công ty Đài Loan, cây số này nối cây số khác. Qua một khu vực khác thì thấy toàn những công ty của Hàn Quốc. Rôì đến những khu vực của Trung Quốc. Và những hãng xưởng nước ngoài cứ thế mà nối tiếp nhau. Trên đường đi Long An, nếu đi đúng vào giờ “tan xưởng” của các công ty sản xuất giày dép (trong đó có cả công ty Nike), người ta sẽ không khỏi ngạc nhiên khi thấy hàng ngàn công nhân tràn ra như biển người làm kẹt cứng đường. Đúng ra điều này phải làm cho tôi phấn khởi, vì nếu có nhiều công ty đầu tư, thì người dân sẽ có nhiều cơ hội được công ăn việc làm, nhưng sao tôi cứ cảm tưởng như có cái gì không ổn.
Tôi được dịp theo thân chủ tôi vào thăm các hãng xưởng sản xuất ny lông. Khi nhìn thấy cảnh tượng và điều kiện làm việc của các công nhân, phản ứng đầu tiên của tôi là tìm máy chụp hình.
“Không! Xin chị đừng chụp.”
Người hướng dẫn viên chặn tay tôi lại, không cho tôi chụp hình. Thật cả là một tiếc nuối, vì tôi muốn bạn đọc nhìn thấy tận mắt những guồng máy bóc lột công sức lao động của người dân ở đây quy mô đến cỡ nào. Mỗi tòa nhà tôi bước vào là mỗi sự ngạc nhiên, trước tiên là hơi nóng từ các máy móc ùa ập vào người tôi như muốn hâm chín da thịt, kế tiếp là tiếng sầm sập của máy nghe ù cả đôi tai. Tôi đưa tay bịt lấy lỗ tai và bàng hoàng nhìn xung quanh để nhận xét tình hình. Ái chà, nó là cả một câu chuyện. Từ đầu bên này của tòa nhà, tôi không nhìn được đến đầu bên kia, nó là những tòa nhà khổng lồ sâu thăm thẳm. Những cuộn ny-lông to lớn sừng sộ từ trên cao tuôn chảy xuống, những máy kéo nhựa nghe như rên rỉ thay nhau hòa âm với những máy đập sình sịch chung quanh. Trong khung cảnh uy hiếp này là những công nhân nam nữ ốm tong teo, đứng thành hàng luôn tay làm những động tác giống như là đuổi theo các máy móc kia. Trong nhóm người này tôi nhận ra có những đôi mắt còn quá trẻ, quá non nớt. Bên cạnh các đôi mắt đó tôi thấy xuất hiện những nhãn hiệu quen thuộc như Albertson’s, Gamestop, Pizza Hut, 99 Cents, KFC, Safeway, v.v.
Hết khu vực này đến khu vực khác, tôi không thể ước lượng được có bao nhiêu những con người lam lũ kia đang làm việc trong hoàn cảnh đó. Họ làm việc trong cơn nóng ác nghiệt, trong sự ồn ào đe dọa của máy móc, không mũ bảo hiểm, không găng tay, không có gì để bảo vệ lỗ tai. Tôi không thể tưởng tượng được họ có thể làm việc như thế ngày này qua ngày khác. Thấy khó chịu, tôi muốn hỏi người quản lý công ty, nhưng không sao cất tiếng được vì tiếng máy quá ồn. Tôi chỉ có thể lên tiếng được mỗi khi đi ra hành lang để băng qua một khu xưởng khác. Tôi hỏi tại sao xưởng không có những trang bị an toàn cho công nhân. Người quản lý Đài Loan trả lời:
       “Lúc ban đầu chúng tôi cũng có cho họ mũ và găng tay, nhưng những người này ngoan cố lắm, họ không chịu sử dụng, nên chúng tôi dẹp đi, không dùng đến nữa.”
Tôi không thể tin vào những lời nói kia vì tôi đã biết khá nhiều về hoàn cảnh làm việc của các công nhân Việt Nam tại Đài Loan. Tôi đã nhìn thấy hình ảnh của những người bị cụt tay, cụt chân hoặc nằm chết trên giường bệnh tại nhà thương. Rồi đến hình ảnh những người cha, người mẹ với những khuôn mặt nhăn nheo thảm hại qua xứ người để nhận xác con về. Những người con này chết vì tai nạn lao động, và vì chết trước cha mẹ nên quan tài quấn khăn tang như nhắc nhở rằng họ đã không sống đủ để báo hiếu cho cha mẹ–để cho cha mẹ đã già còn phải ôm lấy đống nợ khổng lồ vì trước đó đã phải bôn ba vay mượn để có thể gửi con đi ra nước ngoài làm công!
Chuyện ở Đài Loan có lẽ cũng như chuyện của bao nhiêu người Việt đi làm mướn ở các nước khác như Mã Lai, Nam Dương, Cao Ly, Trung Quốc, Congo, hay Dubai. Gần một triệu con người bỏ sông Hương, sông Hồng và sông Cửu Long để đến đất người kiếm ăn, không hề biết rằng cứ một người thành công là có mười người phải chịu cảnh đọa đầy. Phụ nữ bị hãm hiếp là chuyện thường không mấy đáng sợ, nhưng làm sao bạn đọc có thể hình dung được có những phụ nữ bi giam cầm trong phòng tối không được mặc quần áo, hết ngày này qua ngày khác?
“Nếu lúc cần, chúng vào phòng hành xác, chúng dùng cây gậy hoặc nắm đấm để làm trò chơi với cơ thể tôi.” Một nạn nhân với khuôn mặt đờ đẫn thuật lại. “Bao nhiêu ngày không có quần áo, tôi phải ngồi nép vào góc tường co đầu gối lên để có thể che chở cho thân mình.” Rồi nước mắt chị từ từ tuôn ra: “Tôi lúc đó cảm thấy mình như một con thú vật. Không còn là người nữa chị à.” Liên tưởng tới những câu chuyện tôi gom góp được từ các nạn nhân lao động ở nước ngoài, tôi cố tự nhủ rằng có lẽ môi trường làm việc ở Việt Nam không đến nỗi tệ như thế? Trong trường hợp bất đắc dĩ thì những nhân công làm việc tại quê nhà còn có thể nghỉ việc ở các công xưởng này để đi bán vé số hoặc đạp xích lô.
Nam Dương.                                                                          

        Sang ngày hôm sau, tôi theo thân chủ cùng một số người nữa đi qua Nam Dương để tham quan một công ty chuyên sản xuất loại một thùng giấy đặc biệt. Tôi hí hửng nghĩ rằng có thể mình sẽ tìm ra đường khuynh diệp trong những ngày ở quần đảo này. Ngoài sự ăn hối lộ trắng trợn tại phi trường, thủ đô Jakarta (dạo trước gọi là Djakarta) đón chào tôi với những hàng cây xanh thắm nhìn no con mắt. Nhưng sống ở thành phố cây xanh này cũng có lắm điều không thoải mái, mà điều khó chịu nhất là sự khám xét rất chặt chẽ khi mình đi vào các nơi công cộng.
Đêm hôm đó, chúng tôi được chủ xưởng máy nổi tiếng kia mời đi ăn cơm Nhật. Một bữa ăn gần bốn tiếng đồng hồ, kéo dài từ 8 giờ tối đến gần 12 giờ khuya. Trong đời tôi có lẽ sẽ không bao giờ quên được buổi ăn sách vở này. Sau khi được xét duyệt kỹ càng, người tiếp tân dẫn chúng tôi vào một phòng riêng. Vừa ngồi xuống, một người đàn ông trung niên xuất hiện từ sau một bức màn lửng. Ông ta gập người chào rồi tự giới thiệu là một đầu bếp người Nhật nổi tiếng trong vùng, hôm đó được vinh dự phục vụ chúng tôi. Ông đến từng người để bắt tay và trao danh thiếp một cách rất trịnh trọng.
Chỉ cần nghi thức rửa tay bằng nước nóng thơm mùi hoa lài rồi uống rượu khai vị trước khi ăn cũng đã kéo dài hơn bốn mươi phút. Thế rồi món đầu tiên xuất hiện. Mỗi người một chiếc ly, cao như ly uống trà làm bằng đá có nắp đậy. Tôi thận trọng mở nắp ly. Một làn khói nhẹ bay lên thơm mùi trứng. Người đầu bếp lại xuất hiện giải thích đây là canh trứng hấp. Tôi lấy muỗng sắn nhẹ từng miếng mỏng, cảm tưởng như ăn chè đậu hũ hay bánh flan. Qua món thứ hai, chúng tôi mỗi người được dọn cho một chiếc thớt gỗ có chân trên đó có hoa rau trưng bày rất mỹ thuật gây chú ý cho một điểm tròn ở góc thớt: điểm tròn đó là cá thu tươi (sashimi). Tôi không thể nào diễn tả bằng lời hương vị của những miếng cá sống này. Ngọt, mềm, tan trong miệng. Quá lạ và quá ngon. Vị giác ăn cá sống này tôi chưa hề được cảm nhận. Nếu đây mới thật là cá tươi, thì từ trước đến giờ tôi ăn cái gì? Món thứ ba, rồi đến món thứ tư, tất cả đều rất cầu kỳ thịnh soạn và mỗi khi món ăn dọn ra, người đầu bếp lại trân trọng mời và giải thích nguồn gốc cho chúng tôi nghe. Khi món thứ năm được dọn ra, ông chủ xưởng máy Nam Dương lên giọng:
       “Tôi chắc hẳn quý vị chưa hề ăn món này. Đố quý vị nó là món gì?” Ông chủ xưởng là một người cao lớn vạm vỡ nhìn có uy lực, nói chuyện như một vị tướng ra lệnh cho mọi người. Trong sự lễ phép của ông có lẫn lộn một chút kiêu ngạo khác thường. Mỗi lần cụng ly, ông đều tuyên bố: “Không nơi nào tốt bằng Nam Dương.” Ông cho rằng Nam Dương thật hùng tráng và đang có đường hướng đi lên, và công ty ông là biểu hiển của sự thành công của Nam Dương. Tôi mỉm cười kín đáo. Rồi chăm chăm nhìn cái khay sứ trước mặt với những miếng gì đó thon dài như râu bạch tuộc nằm châu mình vào rong biển cuộn thành những vòng xoáy, trông rất cầu kỳ nhưng lại mộc mạc. Không ai đoán được nó là món gì. Tôi khẽ gắp một miếng bỏ vào miệng. Giòn như sụn, dai dẻo như cháy cơm nếp , ngọt bùi như khô mực, rất lạ vị và cũng rất quen thuộc. Trong mỗi miếng có bao nhiêu cảm giác khác nhau. Mọi người ai cũng đoán già đoán non, nhưng cuối cùng phải đầu hàng. Ông chủ xưởng nhìn mọi người một hồi rồi cất lên từng tiếng từng tiếng một:
   

    “Kính thưa quý khách, quý ông bà vừa thưởng thức đuôi của một con cá đuối già tuổi đời. Quý khách đã được gia tăng tuổi thọ rồi đó. Cá đuối này đã hy sinh để đem lại sự trường tồn cho việc hợp tác lâu dài của các công ty chúng ta!”

Trong lúc mọi người trầm trồ cụng ly, tôi thấy hiện ra một hình ảnh kinh hoàng của thuở xa xưa nay chợt trở về trong trí nhớ. Đó là hình ảnh đứa bé hàng xóm đứng hứng những lằn roi đuôi cá đuối quất lên tấm lưng để trần nhỏ bé đang rướm máu. Lúc đó tôi mới mười tuổi cũng bằng tuổi đứa bé kia. Tôi áp mặt vào tường để tránh phải nhìn cậu bé oằn oại trong cơn đau, khóc không thành tiếng. Ôm lấy tường, tôi cầu trời cho mưa to, thật to, để tôi không còn nghe tiếng roi cá đuối vun vút trên lưng cậu bé.
Trong khoảnh khắc đó, tôi biết ngay là hợp đồng trên 10 triệu Mỹ kim của thân chủ tôi đã không thi hành được. Khách sạn sang trọng mà chúng tôi được đài thọ cũng như buổi tiệc này và chai rượu Louis XIII vừa được gọi ra là để che lấp khả năng không sản xuất được hàng như đã từng hứa hẹn. Sau một tháng cố gắng, thân chủ tôi đã phải công nhận sự tiên đoán này của tôi là chính xác.
Đến món thứ 13 của đêm đó là tôi đã giơ khăn trắng lên đầu hàng. Tôi biết rõ là người chủ xưởng đãi chúng tôi buổi tiệc đó là để mua chuộc thân chủ của tôi, để thân chủ của tôi xiêu lòng gia hạn thêm thời gian cho họ thi hành hợp đồng. Đối với tôi, họ là cái thùng giấy rỗng tuếch. Thật là một bữa ăn tội lỗi, khi tôi liên tưởng đến các em bé lem luốc ngồi bên vệ đường ngấu nghiến những miếng bánh bao. Người đầu bếp khoe với chúng tôi trái “dưa mật”. Một trái dưa không khác gì dưa tôi thấy ngoài chợ, giá độ khoảng 5 Mỹ Kim. Vậy mà trái “dưa mật” này trị giá 350 Mỹ kim vì phải trồng trong mồ hôi kỳ ảo của các cô thiếu nữ còn trinh! Tôi lắc đầu không ăn. Phải chăng người ta thừa giấy vẽ voi?
Qua những diễn tiến phức tạp khi làm việc tại Nam Dương, tuy biết câu trả lời, tôi vẫn chất vấn các ông người Trung Hoa và Đài Loan là tại sao họ lại di chuyển công ty sang làm việc ở Việt Nam. Trên đường đi về Sài Gòn, mấy ông Trung Hoa giải thích cho tôi qua cô thông dịch viên:
    

   “Cô không biết là làm việc bên Trung Hoa khó đến thế nào? Luật chống ô nhiễm môi trường đòi hỏi quá nhiều ở chúng tôi. Nếu làm theo chính sách nhà nước thì lại mất hợp đồng với khách hàng bên Mỹ. Cô cứ hỏi thân chủ cô thì rõ, họ kỳ kèo từng xu thành ra giá phải thật là cạnh tranh. Thêm vào đó, các bao hàng có quai nhập vào từ Trung Quốc bị chính phủ Mỹ đánh thuế rất cao (high tariff). Nhưng hàng đi từ Việt Nam qua thì không sao. Và chỉ có ở Việt Nam chúng tôi mới không phải lo về vấn đề phá hoại môi trường.” Thân chủ tôi nhìn tôi gật gù.
“Thế còn các anh ở Đài Loan thì sao? Lý do gì thúc đẩy các anh sang đất An Nam?” Anh người Đài Loan cười hả hê:

“Ở đâu có tiền, thì ở đó có chúng tôi.” Anh ôn tồn giải thích là vì Việt Nam bằng lòng mua máy của họ. Máy của họ rẻ hơn máy của Đức nhiều. Chỉ trong vòng mấy tháng họ đã nhập bao đầu máy qua Bình Dương với giá trị trên 25 triệu Mỹ Kim.
“Vậy máy của các anh khác với máy của Đức như thế nào?”
“Thật ra thì cũng không khác là mấy. Chúng tôi mua máy của Đức về, mướn nhân công rẻ cho tháo gỡ ra, thay đổi hình dạng, bỏ vào một số bộ phận rẻ tiền, đơn giản hóa máy đi. Biến nó trở thành máy của chúng tôi. Dĩ nhiên chúng tôi cũng nói với cả Đức lẫn khách hàng là cơ bản máy này là máy Đức.”

Nghe rất xuông tai nhưng tôi chắc hẳn chuyện không đơn giản như vậy.
Trên máy bay nhìn ra mây, tôi chợt quyết định phải kết thúc chuyến đi này bằng cách ghé qua Hàm Tân vài ngày. Tôi không thể trở lại Mỹ khi lòng vẫn chưa thanh thản. Tôi bỗng thấy thương cho số phận người dân nghèo Việt Nam. Những người này đầu tư làm giàu trên cái mạng quá rẻ của người dân tôi.
Nghèo là một cái tội, mà nghèo từ lúc còn thơ thì cái tội còn nặng hơn, hình phạt cũng nặng hơn. Ôi những cơn đau đuôi cá đuối!

     Đoạn Kết
Tôi đến Mỏm Đá Chim trong cơn hối hả, như đang chạy trốn một điều gì. Từ Indonesia về, tôi cố gắng hoàn tất một số công việc đã dự định trước nhưng rồi cũng không đuợc như ý muốn. Lòng bồn chồn, tôi cắn môi bấm điện thoại gọi Hoài, cô bạn khố chuối của tôi. Ngay hôm sau hai đứa tôi lên đường đến vùng đất đỏ xen cát trắng của Hàm Tân.
       Dinh Thầy Thím. Khi nói đến đất Hàm Tân Bình Thuận, ai ai cũng nhắc đến ngôi đền thờ Thầy Thím. Sau đêm đầu tiên dan díu với trăng và sóng biển, tôi lười biếng đợi đến lúc nắng xếch trưa hôm sau mới cùng Hoài tìm đến viếng Dinh. Khi vừa đến cổng vào sân Dinh, tôi bỗng thấy lòng hiếu kỳ nổi dậy khi đọc chữ “Thím” trên cổng và phát giác ra mình không nhớ chữ ấy khi đánh vần có cần chữ “ê” hay không. Tôi cười thầm chính mình và mỉm cười cảm nhận sự duyên dáng rất miền Nam trong cách phát âm chữ “Dinh”, chữ “Thím”.
“Cô ơi mua mấy ký gạo cúng Thầy Thím đi cô! Dinh không có lấy tiền cúng dường đâu Cô. Cô mua gạo dùm cháu đi Cô!”
“Cô mua chim thả phóng sinh đi Cô!”
“Cô mua giọt dầu cúng Dinh đi Cô!….” Những người bán hàng trước cổng Dinh phá vỡ sự quan sát thư thả của tôi và giục tôi phải mau mau vào Dinh để khỏi bị họ kêu réo. Có một người chạy vội vã qua mặt tôi, trên vai khệ nệ bưng một con heo quay. Tôi rời đám bán hàng và nhanh chân bước theo anh ta. Khói nhang bay cay mắt, sân Dinh gạch đỏ trải dài nắng chói. Tiếng rì rào khấn vái. Trong chánh điện người quỳ nhấp nhỏm. Và con heo quay đã được đặt lên bàn thờ.
Tôi miên man nhìn đám đông và những đĩa hoa quả xôi thịt đầy ắp nằm khuất trong khói nhang mà quên rằng Hoài đã biến mất tự hồi nào. Mãi tôi mới thấy nàng ta tất tả chạy vào hai tay ôm trầu cau, nhang, dầu và gạo. “Ê, sao bồ nghĩ mình có nên mua chim thả phóng sinh không zậy?” Tôi lắc đầu nhìn Hoài: “Sao Hoài lẩm cẩm quá. Thời buổi này mà còn tin vào chuyện phóng sinh sao?” Tôi đưa tay đỡ bịch gạo cho Hoài và tiếp tục trách cô ấy là không hiểu rõ vấn đề trong việc “phóng sinh”. Hoài cười nài nỉ: “để mình lấy chút phước đó mà.”

“Hoài ơi, nếu không vì tham vọng của mấy người muốn lấy phước thì những chú chim vô tội kia đâu có bị tù tội trong những cái lồng khốn khổ đó. Hoài nghĩ xem, vì những người suy nghĩ như Hoài mà khiến cho những kẻ buôn bán kia tìm đủ cách để giam bắt loài chim.”
“Ừa, bồ nói cũng phải, mấy tháng trước Hoài thả phóng sinh chim mà đến hôm nay vẫn còn bị ám ảnh.” 
Tôi nhìn bạn tôi thắc mắc.

“Hoài dốt lắm bạn biết không? Hôm đó Hoài đi chùa bên Thủ Thiêm. Hoài cũng mua một lồng chim nhưng không để ý mấy con chim ra sao. Khấn vái xong, Hoài đến cạnh bờ hồ và thả chúng ra. Không ngờ, mấy con chim vừa bay ra khỏi lồng là rớt tõm ngay xuống hồ…dãy dụa một hồi rồi chết chìm. Nhìn chúng chết, mà Hoài chẳng làm gì được. Có biết bơi đâu mà xuống hồ.” Bạn tôi nói một cách thiểu não như một đứa trẻ lạc đường. “Hoài đâu có biết là họ bỏ đói mấy con chim lâu quá như vậy đâu. Vừa thả ra là chúng té xuống, không bay được. Nếu biết trước, Hoài thả chúng trên đất thì chắc chúng không đến nỗi. Hoài buồn hết mấy ngày đó.” Tôi đã chạy trốn Sài Gòn ra đây để được thảnh thơi nên cố tình tránh ánh mắt của Hoài và tránh câu chuyện trùng ruột của cô ấy. Thảo nào nàng ta mải mê ngoài cổng Dinh, chắc định mua chim để phóng sinh. Tôi chuyển câu chuyện : “Sao mình không thấy hình của Thầy Thím, Hoài hả?”

“Bồ lãng xẹt, Thầy Thím đã thành thánh rồi, không cần hình nữa.” Câu nói ngây thơ của Hoài làm tôi vui trở lại. Hoài bằng tuổi tôi, một chồng hai con, đứng đầu một công ty doanh nghiệp, nhưng đối với tôi, cô ấy vẫn trẻ con hết sức. Có lẽ Hoài chỉ cư xử như vậy với tôi, vì mỗi lần gặp tôi, Hoài dường như được sống lại những ngày xưa đi học về, đạp xe dưới mưa, bụng đói meo và đầu óc hết sức là ngô nghê.

Đứng trước bàn thờ Thầy Thím, tôi cùng đám đông chắp tay trước ngực và liên tưởng đến những lời nói của cô bé nhân viên ở Mỏm Đá Chim. “Thầy Thím là hai vợ chồng bị đày tù oan về đây. Sau khi được thả ra, Thầy Thím xả mình cứu độ dân chài. Người ở đây xa gần ai cũng mang ơn của Thầy Thím. Nhưng khi hai vị này qua đời, người ta tìm không ra xác của hai vị. Người chài cho rằng hai vị đã thành thánh và từ đó thiết lập đền thờ.” Cô bé nói giọng pha chút nét đậm đà tiếng miền Trung. Đang giải thích về Thầy Thím, cô bé vội vã cắt đứt câu chuyện để đi tiếp khách mới vào tiệm ăn của khách sạn. Vì cô phải chạy lo cho nhiều bàn, nên tôi không được dịp hỏi thêm chi tiết. Lâu lâu tôi lại chặn cô lại: “Tại sao Thầy Thím lại bị tù hả em?” Rất nhiều câu hỏi của tôi tương tự như thế không có câu trả lời. “Em không biết nữa, em chỉ biết rằng Thầy Thím đã hiến dâng đời mình cho dân nghèo. Giỏi lắm và tận tụy lắm.” Tôi nhìn lên bàn thờ lòng ấm lại:
Các vị anh hùng dân tộc giờ ở mô? Tại sao các vị không ra tay cứu đỡ những kẻ đang quá sức lầm than. Đầu óc tôi nghĩ đến những chuyện vừa xảy ra ở Sài gòn. Con cảm thấy bất lực, con không sao giúp được người, nếu vậy thì cho con cảm nhận để làm gì? Tôi không để tâm cầu khẩn mà lại trách người quá cố một cách vu vơ. Tôi quay qua hỏi một người trung niên vừa khấn niệm xong.

“Anh ơi, người ta đến đây để cầu chi đó anh?” Người đàn ông nhìn tôi hồi lâu rồi nhanh lời giải thích: “Nếu ai đi biển thì phải đến đây. Cầu xin Thầy Thím đi theo mình và che chở cho mình tránh bị lật thuyền”. Chuyện sống chết, hai cõi âm dương gắn liền với đời sống người dân đây liên tục triền miên như thế. Trời nắng trong vắt, cảnh sắc hiền hòa, nhưng trong cái bình yên đó vất vưởng những đe dọa của cuộc sống. Tôi chạy đi đâu cũng không thoát. Sau khi tôi ngỏ lời cầu xin Thầy Thím tiếp tục phù hộ cho muôn người, tôi kéo Hoài đi về. Ra đến đầu cổng, tôi lại bị đám bán hàng bu lại. Những lồng chim lại được dâng lên trước mắt tôi. Nhưng lần này tôi không quay đi được mà dán mắt mình vào những đôi mắt chim bé tròn. Nhớ lời của Hoài, tôi ngần ngại không nỡ bước đi khi nghĩ rằng những chú bé chim kia đang bị giam cầm trong đói khát. Bụng tôi đầy ắp những bất mãn sẵn mang về tục phóng sinh, nhưng lòng tôi lại không muốn nhìn thấy các con vật bị hành hạ. Không biết làm sao, tôi lên tiếng trách người bán hàng: “Tôi nghĩ các chị bắt chim giam cầm như vậy là mang tội lắm.” Chị bán hàng lắc đầu ngay:

“Chị ơi, sống để làm phước là cuộc sống của những người có của. Còn em nghèo thì em đành mang tội để mua gạo cho con em ăn. Không bắt được hay không bán được mấy con chim này là ngày mai con em đói.” Tôi như một người mù quáng đưa tay mua hết hai lồng chim của chị ấy. Hoài mừng rỡ như thấy mẹ về chợ, loay hoay đốt nhang khấn vái gì đó. Thế rồi hai chị bán chim khác đến gây với chị này “Tui mời chỉ trước mà! Tại sao lại giựt khách của người ta.” Tôi giơ tay can các chị và trả giá mua hết tất cả các lồng chim. Hoài đắc chí. Biết rằng mình một lần nữa bị mắc bẫy nhưng những hành động của tôi lúc đó căn bản không còn suy tính nữa.
Tôi lưu lại Mỏm Đá Chim thêm một ngày nữa rồi lên đường trở lại Sài Gòn. “Tại sao lại đặt tên này cho khách sạn vậy em?” Trước khi giã từ, tôi không quên hỏi với theo. “Ở đây đất lành chim đậu chị ạ. Chim tứ phương kéo về đây….” Để rồi bị bắt, để rồi được thả. Tôi lẩm bẩm lên xe. Tôi từ giã những hàng thùy dương nghiêng ngả và dường như không còn cảm thấy cái nóng gay gắt nhiệt đới nữa. Đường về thành phố chói chang với những bảng hiệu “Cơm Phở” lác đác đây đó bên đường.

“Bác tài ơi, xin dừng xe lại!” Tôi nhảy ngay xuống xe khi xe vừa tấp vào lề đường. Hàng khuynh diệp phất phơ trước gió dưới bầu trời xanh ngắt như kêu gọi tên tôi. Hoài và người tài xế chắc hẳn nghĩ tôi không được bình thường. Tôi mon men mãi và khó khăn lắm mới xuống dốc vệ đường để đến gần mấy cây khuynh diệp. Vội vàng tôi tước hết lá này đến lá khác, vò vẫm rồi hít hà. Gíó lộng. Hương khuynh diệp man mác, dễ chịu nhưng không hồi sinh. Hoài cũng cố gắng leo xuống rồi hỏi tôi đủ điều. Làm sao tôi giải thích cho cô ấy hiểu được. Tôi hít vào đầy gió và ngắt một cành non trước khi trở lại xe. Tôi ép cành này vào cuốn sách đang đọc dở. Những bảng hiệu “Cơm Phở Bình Dân” lại chạy ngược qua xe tôi. Đâu đó vấn vương nỗi niềm trống vắng. Chạy đi đâu đi nữa rồi tôi cũng phải quay về với thực tại. Sài Gòn mấy hôm trước đã làm tôi quá buồn, tôi đã phải rời nó ra Hàm Tân thế rồi cũng phải quay về với nó. Đúng là “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”.
Mấy ngày trước đây, tôi dự định khi đi Indonesia về sẽ ghé qua thăm Viện Ung Thư Bướu cạnh nhà thương Nguyễn Văn Học cũ, rồi nhà thương dưỡng lão và viện trẻ em khuyết tật ở Thị Nghè. Nghĩ sao tôi lại đến trại khuyết tật trước.

Các phòng của trung tâm hôm đó tối om và các em nằm lây lất trên sàn nhà. Tôi ngồi đâu là bị muỗi cắn đến đó. Vậy mà các em nằm ngoắt ngoẻo, vất vưởng nơi đây hết năm này qua năm khác. Trong mười mấy năm nay tôi đã ghé qua đây mấy lần, nhưng lần đầu tiên năm 1990 là lần tôi chứng kiến cảnh tượng đau buồn thê thảm nhất. Các em bé lúc đó bị cột vào thành nôi để giữ cho các em khỏi leo ra ngoài. Mỗi lần tôi ngừng đến nôi nào là lại có một em nhón người từ trong nôi vươn ra để ôm lấy tôi—một người hoàn toàn xa lạ mà các em chưa hề thấy. Ở đây, nếu các em được cho ăn ngày hai bữa và được thay tã là tốt lắm rồi. Thì giờ đâu mà các cô bảo mẫu ôm ấp ve vuốt các em? Nên khi thấy hơi người đi qua là các em vồ lấy một cách thèm khát. Giờ đây môi trường sống của các em đã có phần hơn trước, không mấy em bị trói cột, nhưng sao tôi vẫn thấy lòng héo hắt. Tôi ôm lấy một em đầu ghẻ lở có khuôn mặt tươi sáng nhưng hai chân bị teo lại không đi được. Em cười rạng rỡ thích thú nhưng tôi không sao ngồi lâu được vì muỗi đã thịt hết đôi chân trần của tôi. Ngay lúc đó Soeur giám đốc trung tâm mời tôi lên văn phòng nói chuyện. Sau một lúc hàn huyên về chương trình và hướng đi của trung tâm, Soeur nhờ tôi giúp một việc:

“Thưa Sơ, Sơ cần gì xin Sơ cứ nhắn nhủ, nếu em không làm được em sẽ đi nhờ người khác giúp.” Tôi ân cần và hết lòng.
“Ồ nếu chị nói vậy thì tốt quá!” Ngay lúc đó Soeur vẫy tay ra lệnh ai đó. Trong chớp mắt hai đứa bé khập khễnh đi từng bước vào phòng. Ôi, thôi chết tôi rồi!
“Hai em này đang hết sức cần xe lăn chị ạ. Các em đi học tội nghiệp và vất vả lắm. Chị thấy hai chân gỗ này không? Nếu các em đi lâu thì thịt ở đầu chân cụt bị sưng lên.” Trước mặt tôi là một em trai và một em gái độ khoảng từ mười đến mười ba tuổi, đang vịn vào bàn để không phải dựa vào chiếc chân gỗ trọc cũ mèm.
Tôi nghẹn lời không nói được một câu vì sực nhớ ra là cách đây ba năm về trước mình đã ngồi đây và đã nói chuyện về hai em này, cũng câu chuyện chân gỗ, câu chuyện xe lăn, những lời hứa hẹn tôi trao cho Soeur. Ôi, thế mà tôi đã quên các em. Ba năm trước khi quay lại Mỹ tôi có đi xin xe lăn để rồi cuối cùng xin không được, tôi lại lao đầu lo cho những trại mồ côi khác, những trẻ em bị chất độc da cam, và tôi dần dần quên đi hai em này.
“Dạ, Sơ để đó em lo. Em sẽ kiếm xe lăn cho các em.”
 Tôi lí nhí nói trong miệng mà thấy hổ thẹn vô cùng. Soeur gật gù cám ơn mà không hề biết rằng tôi chính là người hứa “lèo” của ba năm trước. Tôi phân vân nhưng không dám thú nhận lỗi của mình trước mặt các em. Tôi không muốn các em phải thất vọng khi nhìn tôi. Mọi người đã không nhận ra tôi.
Tôi bước ra khỏi trung tâm mà lòng thắt lại. Ba năm trời các em phải chịu đựng vì tôi. Tôi từ đó bỏ quyết định đi thăm viện dưỡng lão cũng như viện ung thư bướu. Để rồi đi Hàm Tân như để chạy trốn lầm lỗi của mình. Trăng Hàm Tân đã khoan hồng cho tôi nhưng hình như Thầy Thím còn trách tôi. Nghĩ đến đây, tôi rút cành khuynh diệp để đưa lên mũi. Xin Thầy Thím tha cho con.

Ba ngày sau tôi về đến San Jose với một chương trình công việc đặt ra thật dài, vừa văn phòng luật, vừa viết văn, vừa chuyện cứu trợ dân nghèo. Bao nhiêu người đang chờ tôi, bao nhiêu dự án cần phải giải quyết. Song, tôi vẫn phải quay lại làm công việc hàng ngày. Trong một buổi họp tôi đang dự ở San Francisco thì điện thoại reo. Tôi nhìn xuống máy thì thấy số của mẹ tôi. Tôi vội vàng chạy ra khỏi phòng họp để nghe điện thoại:
“Con về đi, bé Thi đang nằm bệnh viện, nguy cập lắm!” Tôi bàng hoàng lấy áo choàng rồi chạy ra bến xe điện (BART Station). Thi là con gái đỡ đầu của tôi, cháu sắp gần hai tuổi, mắt xanh, da trắng, tóc quăn nâu óng ánh. Mẹ của bé và tôi cùng lớn lên với nhau từ lúc chín tuổi. Chúng tôi thương nhau và lo cho nhau như chị em ruột. Tôi là người đỡ cho cô ấy sanh và đón Thi chào đời. (Cô ấy cũng là người chăm nom và lo cho con tôi như con ruột. Con tôi gọi cô ấy là “Má”). Vì yêu thơ nên tôi đặt tên cho bé là “Thi”. Xe điện chạy gầm thét. Điện thoại lại reng.
“Em hả, anh không biết nói sao. Thi chết rồi em à!” Tiếng chồng tôi nói chậm rãi trong điện thoại.
“No!” Tôi hét lên. Chồng tôi giải thích thêm sự việc nhưng tôi đã không còn nghe rõ mấy. Cái gì là bé bị cảm, rồi nhiễm trùng phổi, rồi Kaiser bảo về đi không sao cả, rồi trong tích tắc hôm trước hôm sau, chúng tôi mất bé. Mãi sau tôi mới bình tĩnh lại và nhờ anh đón tôi ở sân ga. Anh bảo tôi:
“Anh sẽ đón em nhưng mình phải về đón bà ngoại của Thi để đưa bà lên nhà thương với cháu.” Ôi có cơn đau nào bằng cơn đau này, chắc Bác đang khổ lắm.
“Bác vẫn chưa biết chuyện em à. Anh nghĩ em cần phải nói cho Bác biết.” Trời ơi, nói thế nào đây. Biết bắt đầu làm sao?

Mẹ của bạn tôi ra mở cửa. Mắt cụ đỏ hoe: “Em nó không có nhà con à, nó đưa bé Thi đi nhà thương rồi.” Tôi cố gắng cầm nước mắt: “Bác ạ, cháu đến để đưa Bác vào nhà thương thăm bé Thi.” Cụ mắt sáng mừng rỡ, vội vàng đi lấy khăn lấy áo. Khi lên xe xong và sau khi cài dây an toàn hẳn hòi cho cụ, tôi mới ôm lấy cụ và nói cho cụ biết. Cụ khóc đập người vào ghế. Chúng tôi đi như chạy trong các hành lang của nhà thương. Khi đến được phòng ICU thì tim tôi như ngừng đập. Bé Thi của tôi đang nằm đó như một thiên thần đang ngủ say. Lời thơ Nguyễn Bính bỗng đâu vang vang: “…cạn giòng nước mắt còn đâu khóc người….”
Chiều hôm ấy tôi lái xe đưa hai vợ chồng bạn tôi từ nhà thương về. Họ như những người mất hồn không một lời trao nhau. Khi bước vào nhà, tôi như người điên, chạy tứ phía để vơ vét tất cả các đồ chơi của bé Thi đang còn nằm ngổn ngang khắp nhà. Tôi càng giấu chúng đi thì chúng lại càng tạo nên những tiếng động, của máy móc và ca nhạc chợt bật lên bởi dòng điện chạm. “I love you, you love me….” Mỗi lần như thế thì bạn tôi lại nấc lên nức nở. Cô ôm lấy tôi: “we lost our daughter!”

Ngày hôm sau, tôi và bố mẹ của Thi bôn bả đi mua đất để làm mộ cho bé. Tìm mãi mới chọn được một chỗ có bóng cây tươi mát.
Ngày chôn Thi, bé nằm trong chiếc áo đầm trắng lỗng lẫy mà tôi và Hoài khổ công lắm mới mua được cách đây khoảng mười ngày trước ở Sài Gòn. Chiếc áo mua để chuẩn bị cho tiệc sinh nhật của Thi, nhưng tôi đâu có ngờ rằng tôi mua áo để chôn bé.
Trong lúc thầy đang làm lễ để hạ huyệt, tôi buông tay thả bong bóng lên trời cho bé. Nhìn theo bong bóng bay, tôi mới sực nhận ra là tôi và mộ của bé đang nằm dưới bóng cây khuynh diệp!

Tôi òa lên khóc như chưa từng được khóc. Đáng lẽ ra, tôi phải là người ra đi chứ không phải Thi. Tôi xin thêm những ngày sống để làm gì, khuynh diệp đang theo tôi hay theo Thi? Khuynh diệp che chở cho ai? Trong tiếng chuông và tiếng khóc, tôi với tay nắm lấy một mớ lá khuynh diệp. Như cái máy, tôi vò nát và đưa lá lên mũi. Mùi khuynh diệp nồng hăng đến nỗi làm tôi muốn sặc. Thế là thế. Bây giờ tôi mới nhận thấy khuynh diệp ở đây to và đồ sộ, và mùi hương thì không một cây ở Đông Nam Á nào mạnh bằng. Như vậy nghĩa là sao? “Đi đâu loanh quanh cho đời…” chạm đời.
Khi tôi in hai tập của bài này lên báo thì một người thân chủ cũ của tôi gọi để xin vào thăm tôi. Anh là người chỉ có một chân khập khễnh đi từng bước từng bước một, hai tay ôm gói nấm linh chi và bao nhiêu thuốc khác.
“Trời ơi, những thứ này đắt tiền lắm, Jenny không dám nhận đâu anh ạ.” “Không, luật sư cần phải uống, luật sư cần phải sống.” Anh nói một cách khẳng định như ra lệnh.
Sau khi Thi nằm xuống, bố mẹ Thi yêu cầu trao tất cả tiền phúng điếu cho hội Friends of Huế Foundation để giúp các trẻ em khác. Mộ của Thi chưa xanh thì chúng tôi nhận được tin từ miền Trung là có 6 em nhỏ đang cần mổ tim cấp bách. Nếu không thì các em sẽ không thoát hiểm. Trong đó có một em cũng cùng ngày tháng sinh của Thi. Mỗi một cuộc mổ tim tốn khoảng 1000 Mỹ kim. Mẹ Thi yêu cầu Hội ra tay ngay. Chúng tôi liền lập tức chuyển số tiền phúng điếu khoảng 5000 Mỹ kim cộng thêm 1000 nữa của một gia đình khác cho để cứu sáu em này. Và chúng tôi cũng sẽ lo luôn thủ tục mua xe lăn cho hai em ở Thị Nghè.
Trên đường khuynh diệp, tôi đã đối diện những cánh chim đói khát gãy đường bay, những cặp chân gỗ khập khễnh, những lằn roi cá đuối, những bờ vai nhỏ quắp co trong cơn lạnh, những da thịt bị xâm lăng và hành hạ, những cái chết vì sinh nhai, những xác thân vô tội bị hành quyết trên thân cây, những bàn tay run rẩy nhận gạo, những nụ cười nhân ái, những ánh mắt đầy tình người, những vòng tròn nhân quả … Tôi đã đi suốt một vòng tròn. Đã tưởng mất mùi hương có tác động hồi sinh. Để tìm lại được nó ở nơi bất ngờ nhất. Ở điểm bắt đầu.
Đường khuynh diệp là thế. Không dài nhưng rất tròn. Vòng tròn tử sinh. Vòng tròn tiếp trợ. Đây là vòng tròn của những người tìm người để thấy mình, tìm ra rồi lại cho đi, cho đi nhưng vẫn còn đó, còn đó lại chia cho lẫn nhau, một chút tình người, một chút tương lân, một nỗi cảm thông, đơn sơ mà quyết liệt. Tôi đã đi tìm khuynh diệp ở vùng quá khứ. Nhưng khuynh diệp vẫn ở quanh tôi, trong hiện tại. Và trên vùng tương lai. Của tôi. Và của mọi người.
Jenny Đo (Friends of Hue Foundation)         http://www.friendsofhue.org

Đường khuynh diệp .(phần 1)

 Đường khuynh diệp (phần 1)

Bút ký công tác của Jenny Đỗ
.
giới thiệu của Giao Chỉ San Jose.

Đêm nay tôi tìm đọc bút ký có tựa đề lạ lùng của nữ luật sư Jenny Đỗ tại San Jose. Tôi hết sức xúc động. Xin viết đôi lời về tác giả.

Tháng 2 năm 1984 chuyến bay Air France từ Phi qua San Francisco chở nhóm gia đình con lai đầu tiên đến Hoa Kỳ. Cô gái lai Đặng Thị Phương Khanh đi cùng bà mẹ và em trai. Ngày hôm đó là ngày sinh nhật của Phương Khanh. 18 tuổi. Cô sinh ra tại Vũng Tàu. Lúc đó người cha Hoa Kỳ chưa hề biết mặt đã ra đi từ mấy tháng trước. Thế giới của cô là bên ngoại. Mẹ và ông bà ngoại. Quê ngoại ở ngoài Bắc xa xôi thuộc miền Nam Định. Họ Đặng cùng với Trường Chinh, một lãnh tụ cộng sản nhưng riêng gia đình cô lại có nhiều người bị “cách mạng” giết. Sau 9 năm sống với Việt nam Cộng Hoà cô bé Phương Khanh khá vất vả vì hoàn cảnh con lai. Sau 75 lại còn cay đắng hơn trong 9 năm vì thuộc thành phần con lai không có hộ khẩu. Cuộc sống hết sức đau thương từ kinh tế mới Túc Trưng cho đến Sài Gòn thời bao cấp. Năm 1984 đi Mỹ là cơ hội cho cô gái lai 18 tuổi chắp cánh bay cao. Hành trang là kinh nghiệm cuộc sống dưới 2 chế độ. Với cộng hòa cô bé học được căn bản đạo đức gia đình và văn hóa miền Nam. Với cộng sản cô trải nghiệm giai đoạn đau thương phải phấn đấu để sinh tồn.Thân phận con lai trở thành tấm vé cho cả gia đình bỏ quê ngoại trở về đất nước của người cha chẳng bao giờ gặp lại. 18 tuổi với 9 năm thuộc nền giáo dục của xã hội chủ nghĩa qua chế độ tem phiếu, khi đến Hoa Kỳ, Phuơng Khanh không có vốn Anh ngữ nên đã phải bắt đầu hoàn toàn từ số không. Cô đi làm, đi học, tốt nghiệp luật sư và đặc biệt thành lập cơ quan bất vụ lợi, tổ chức bạn của Huế ra đời. Phương Khanh trở thành luật sư Jenny Đỗ và là chủ tịch hội đồng quản trị Friends of Hue. Những chi tiết về tổ chức này được gián tiếp giới thiệu trong bút ký cô viết về chuyến thăm viếng năm 2009. Nhưng định mệnh khắt khe đã rung hồi chuông báo tử.

Khi khám định kỳ Jenny phát giác ra bệnh ung thư vú. Sau thời gian hóa trị có kết quả tại San Jose, hy vọng bình phục, Jenny lạc quan tiếp tục đi công tác vào năm 2009. Bút ký Đường Khuynh Diệp ghi lại chuyến đi 6 năm trước. Niềm vui lớn lao là ngày nay tổ chức đã xây dựng hoàn tất một trung tâm cộng đồng tại Huế. Biết bao nhiêu kỷ niệm đấu tranh với công an Thừa Thiên khi từ chối treo hình Hồ chí Minh và cờ đỏ trong trung tâm. Friends of Hue nuôi các trẻ em ăn học để trở thành một lớp công dân hữu dụng tương lai. Tất cả các em đều có phía sau cả một câu chuyện đau thương bi đát. Trở lại San Jose, Jenny năm nay 49 tuổi quyết định ra tranh cử tại khu 4 với một ước vọng chính là xây dựng cho người Việt San Jose một trung tâm sinh hoạt cộng đồng. Nhiều bạn bè hứa hẹn yểm trợ, tinh thần rất mạnh mẽ và phấn khởi hướng về cuộc tranh cử năm 2016. Nhưng niềm vui đã nằm trong thiên tai. Tuần trước đi khám định kỳ, bà bác sĩ tuyên án bất ngờ. Bệnh ung thư tái phát cấp thời mạnh mẽ và thời gian còn lại của Jenny chỉ đếm được hàng tháng. Hai hay 3 tháng. Chúng tôi hỏi thăm tin dữ và tối thứ ba vừa qua luật sư Đỗ Quý Dân và Jenny Đỗ ghé đến nhà chúng tôi để kể chuyện về công tác thiện nguyện tại quê nhà và dự án trung tâm cộng đồng như một giấc mơ mới hình thành tại San Jose. Cô sẽ không còn sức khỏe để ra tranh cử và cũng không có ngày giờ để bàn chuyện lâu dài. Sẽ chuẩn bị công bố về hoàn cảnh cá nhân và trình bày cho bằng hữu về giấc mộng sau cùng. Jenny bình tĩnh ngồi tâm sự suốt 4 giờ đồng hồ. Thể hiện một ý chí vô cũng mạnh mẽ, sẽ tiếp tục đấu tranh với Ung Thư trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Cô cho biết tâm sự và văn chương qua bút ký công tác xin bác tìm đọc Đuờng Khuynh Diệp. Vào lúc 2 giờ sáng qua tôi tìm thấy bài văn lạ lùng này trên thế giới ảo.Trong số các bài văn thuộc loại thăm dân cho biết sự tình, tôi nghĩ rằng tác phẩm này có thể được coi là xuất sắc nhất. Tấm lòng của tác giả giãi bày trên từng trang giấy. Nhưng trong chuyện buồn cũng còn có lúc hết sức vui. Chuyện buồn là những đứa bé gái Việt lên 10 chưa có ngực phải làm điếm bên Cam Bốt. Người phụ nữ Việt ngày đêm bị nhốt trần truồng trong phòng kín. Những con chim tội nghiệp bán ở cửa đền khi phóng sinh bay không được chết chìm dưới nước. Cô gái bán tôm trên bãi cát, bóc từng con cho khách ăn để rồi nhìn ra biển tâm sự rằng lo cho chồng một ngày ra khơi đánh cá sẽ không trở về. Phương Khanh mang thân phận con lai, 18 tuổi trở về quê cha Hoa Kỳ gọi là Coming Home, nhưng một đời sống trong cửa chùa còn nhớ mãi mùi khuynh diệp quê nhà. Hơn 20 năm sau, cô luật sư Jenny trở về tìm mùi hương quá khứ. Không thấy khuynh diệp kỷ niệm bên Cam Bốt. Không có ở Hà Nội, ở Huế chỉ có chuyện nước lụt và đàn con chịu rét. Không có ở bãi biển Hàm Tân. Sau cùng cô tìm thấy múi hương quá khứ ngay bên đường. Cây khuynh diệp còn gọi là bạch đàn mang hương vị thuốc, y khoa gọi là Eucalyptus. Nhưng khuynh diệp trong tâm tư cô gái lai tìm về cội nguồn không phải là tìm vị thuốc, cô chỉ tìm lại mùi hương trong nhang khói kỷ niệm nơi cửa Phật. Khuynh diệp của cô chính là lá Diêu Bông của Phạm Duy…
.
Hàng triệu người Việt đã ra đi và hàng triệu chuyến trở về của du khách trên quê hương cũ.  Tôi đã nghe kể lại chuyện khốn cùng thời kỳ 80. Chuyện đổi mới thời 90 và người về khoe khoang những hình ảnh rực rỡ của quê nhà khi bước vào thế kỷ 21. Không một ai đem lại cho chúng ta mùi hương của Đường Khuynh Diệp. Rồi mai đây, những đứa con của sông Huơng trưởng thành trong tình thương của người bạn Huế. Giấc mơ cuả Jenny về một trung tâm Việt Nam ở San Jose có thành hay không, Đường Khuynh Diệp sẽ còn mãi trong lòng độc giả để ghi dấu tấm lòng tác giả với quê hương.

Người phụ nữ can trường 49 tuổi đang chiến đấu những ngày tháng cuối cùng với định mệnh. Ba người phụ nữ tại Mỹ gặp ung thư thì 1 người chết. Jenny biết rằng cô chính là người đó. Cô nói trong tiếng cười rằng việc riêng đã thu xếp xong. Việc chung cần thêm chút thời gian.
Ung thư ơi, Chào mi. Ta cất đầu thật cao. Không một lời than thở…
Xin các bạn cùng tôi theo chân Jenny đi tìm mùi hương khuynh diệp.

blank

Luật sư Jenny Đỗ trả lời Dân Sinh Media tại VietMuseum.    

        Đôi lời thưa với cộng đồng Việt San Jose, các bạn con Lai, các đồng bệnh ung thư và  cô vĩnh biệt các con Friends of Hue tại trung tâm sinh hoạt Thừa Thiên.
Xuân này cô không về, các con cố gắng sống cho cô hãnh diện, sống để giúp cho các bạn không đau khổ như các con…

         Monday, March 30, 2009. Bút ký của Jenny Đỗ.

       ĐƯỜNG KHUYNH DIỆP     

     Mặn.
Hàm Tân biển không người. Đêm rằm tháng Giêng trăng sáng đến màu nhiệm. Nơi đây, đất của vùng tù đày ngày xưa, cũng là điểm cuối trong cuộc hành trình tìm thuốc của tôi. Đêm lộng lẫy hi hữu khi đất trời có trăng cao hoan hỷ, biển óng ánh ngút ngàn, và hạnh phúc nhỏ của tôi. Rung động trước sự hài hòa của nước trời, tôi quỳ trong biển, dang tay đón nhận sóng, và van xin trăng cho thêm những ngày sống để có ích cho người. Còn bao nhiêu việc cần phải làm, còn bao nhiêu người đang trầm luân.
Khởi bước hành trình, tôi từ Hoa Kỳ về Châu Á với hai mục đích, trước là để dưỡng bệnh và sau là để thăm 40 đứa trẻ mồ côi do hội Friends of Huế Foundation đang nuôi dưỡng tại Huế. Tất cả cần phải làm xong trước khi tôi trở về lao đầu vào công việc luật pháp, sau bao tháng nghỉ ngơi để điều trị bệnh ung thư vú. Các thân chủ tôi đã khuyên nhủ: “Luật sư cần phải về Việt Nam chữa trị,…hốt thuốc tam thất, hốt lá đu đủ, uống cỏ…gặp thầy lang 90 tuổi, v.v.” Những lời thật chân tình. Mặc dầu tôi không mấy tin tưởng về những phương pháp này, thay đổi không khí, giải tỏa tâm trí, tìm thêm sức sống là chuyện tôi nên làm.
.
Một trong những hương vị mà tôi nhớ và thèm tìm lại được là mùi hương lá khuynh diệp ở Việt Nam. Ngày còn bé sống trong chùa, tôi thường ngâm lá khuynh diệp để làm thuốc hay rượu cho Thầy trụ trì. Vì nghịch ngợm, tôi hay vò lá cho xanh cả tay và hít hà hơi nồng thơm của khuynh diệp. Mỗi lần như vậy, tôi hình dung là đã tận hưởng sức sống với mùi ngai ngái của lá, và cảm thấy người mình như tăng thêm năng lực. Trong những tháng yếu ớt vì hóa trị (chemotherapy), tôi đã ước mong được trầm mình trong hương vò của lá. Bạn có thể thắc mắc là tại sao tôi lại phải quay về Việt Nam để tìm khuynh diệp khi những cây này mọc đầy rẫy tại California, như những hàng cây bạn thấy chạy dọc theo các đường lộ ở Santa Rosa hay tỏa bóng mát trong sân trường đại học Stanford? Tôi đã từng hái lá khuynh diệp ở những nơi này nhưng hương vị không đậm đà bằng lá khuynh diệp trong trí nhớ của tôi, và cảm giác được gia tăng năng lực thì hoàn toàn không có. Vì khác khí hậu chăng? Mùi vị húng quế của California cũng thế, không được thơm như húng quế ở Việt Nam. Trang bị đầy đủ lý do, tôi lên đường.
.
Phnom Penh
Trước khi về đất Mẹ, tôi tự nhủ phải nên ghé thăm đất thánh thần Kampuchea. Biết đâu khuynh diệp nơi này còn tốt hơn ở quê nhà Âu Lạc. Phnom Penh tiếp nhận tôi lặng lẽ như thiếu lòng chào đón. Có một cái gì đó quen thuộc nhưng xa lạ. Một thành phố hỗn tạp, đầy rẫy những xe lam đủ màu gọi là “tuk tuk”. Đất khô bụi đỏ nằm phơi dưới ánh nắng cháy da, người dân đen lam lũ. Không một bóng cây khuynh diệp.
       Rồi tôi phạm một lỗi lầm lớn. Tôi ghé thăm bảo tàng viện Diệt Chủng Toul Sleng và nơi chôn người tập thể Choeung Ek. Hai nơi địa ngục của trần gian. Toul Sleng trước đây là trường trung học. Những căn lầu ba tầng nối hàng nhau im lặng dưới trưa. Các lớp học cửa gỗ ngây ngô sơn đã phai màu, với những hành lang gạch đầy bóng mát, nằm dưới sự che chở dịu dàng của các rặng dừa lao xao trong gió lộng. Nhìn thoáng qua, Toul Sleng là một khung cảnh nên thơ, nơi khách viếng thăm có cảm tưởng như nghe được tiếng cười của trẻ em vang vang đâu đó. Thế nhưng ở cái khung cảnh thanh bình ấy, những thảm cảnh khủng khiếp về tội ác của loài người đã diễn ra.
Bước vào các lớp học, tương phản với các ô gạch dưới sàn nhà là hàng ngàn, hàng vạn những tấm hình chụp. Đây là hình ảnh những nạn nhân và những cuộc tra tấn hành hình mà họ phải gánh chịu. Những đôi mắt của các em bé đáng yêu, của các chị phụ nữ sợ hãi ngơ ngác, của các thanh niên bất lực và tuyệt vọng, của các cụ già cam chịu, như dõi theo từng bước chân tôi. Các câu hỏi hình như còn đọng lại trong mắt họ. Họ đã nghĩ gì trước khi bị tra tấn và tử hình? Kìa những hình ảnh của các phụ nữ ôm con trước khi họ và con họ bị phân thây. Nước mắt tôi ướt áo. Đưa tay chặn nước mũi, hồn tôi nghe đau nhức cho thân phận những người xấu số chết không toàn thây dưới lưỡi hái của tử thần mang danh là chính quyền Pol Pot. Những người này đã không được “ân huệ” chết bằng đạn bắn. Bị bắn chết là một sự may mắn. Vì tiết kiệm đạn, chính sách của Pol Pot là hành hạ nạn nhân cho đến chết. Bọn sát nhân đã chế ra những cái xiềng và ghế tra tấn khủng khiếp. Như để khoe thành tích của mình, chúng đã chụp hình nạn nhân trước khi, trong khi, và sau khi tra tấn họ. Đi qua các lớp học, tôi không còn hình dung được tiếng cười của trẻ thơ, mà chỉ cảm thấy chung quanh vang lên tiếng kêu khóc thê thảm của các em. Gần 3 triệu người đã mất mạng một cách dã man trên đất này, trong đó có một số không nhỏ là người Việt. Mấy ai trong chúng ta có thể tưởng tượng được sự ác độc của loài người lại sâu thẳm đến thế.
Khi thăm trại chôn người Choeung Ek, tôi phải đối diện với sự hãi hùng chưa từng gặp. Ngoài các mộ tập thể loang lở trên khu đất rộng, ngoài tòa lầu sọ người cao đến rùng mình, ngoài những đống quần áo phảng phất dấu bùn và máu khô, những đôi dép há mõm, những đống xương ống chân tay, những cái ly đựng răng hàm của nạn nhân, tôi còn thấy những cây có bát nhang và giỏ trái cây treo lơ lửng trên cành. Tôi cố nén xúc động. Tự hỏi tại sao người dân lại thờ những cây này? Mấy giây sau thì tôi vỡ lẽ. Trên thân cây có những vết dao sâu hoắm ngang dọc chi chít. Thì ra trẻ em đã bị đè vào những cây này trước khi thân hình bị chặt ra. Ở các hố chôn người đã được tìm thấy ở chung quanh, có biết bao xác đã không được nguyên vẹn hình hài. Có một hố đa số xác phụ nữ và trẻ em không có đầu và quần áo. Hơn 30 năm đã trôi qua, vậy mà người viếng thăm Choeung Ek vẫn còn có thể nhìn thấy xương vụn và quần áo của nạn nhân nằm rải rác đâu đó bên bờ các ngôi mộ tập thể.
Lúc lính của Pol Pot tràn qua biên giới Tây Nam đánh giết người Việt, tôi còn sống tại SàiGòn. Theo sự hiểu biết ít ỏi của tôi lúc đó thì Trung Quốc không muốn cho Việt Nam được độc lập, Thế nên họ không hài lòng lắm khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Tôi nghe phong phanh là họ muốn dạy cho Việt Nam một bài học. Trung Quốc đã tiếp tay với chính quyền Pol Pot để tấn công Việt Nam ở biên giới Tây Nam và đồng thời dẫn quân tràn vào vùng Lào Cai nơi biên giới Hoa Việt. Sau khi lính Cộng Sản Việt Nam tấn công và chiếm được Phnom Penh, Trung Quốc lại tiếp trợ cho tàn binh Khmer Đỏ của Pol Pot chạy trốn trong rừng để chống Việt Nam. Biết bao thanh niên Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến Miên Việt này. Trong số những người hy sinh, một người bạn học chung lớp của tôi đã đạp phải mìn chết nơi đất người vào năm 1984. Sự mất mát của người Việt tại Kampuchea thật nặng nề, vậy mà ít ai nhắc tới. Người Việt sống tại Kampuchea rất đông, và đã bị chính quyền Pol Pot giết gần hết vào lúc đó. Người Chàm (Chiêm Thành) chạy loạn từ Việt Nam sang Kampuchea từ thế kỷ 13 cũng khá đông. Khoảng 2/3 dân số Chàm tại Kampuchea cũng bị Pol Pot tiêu diệt.
Điều đáng buồn là không phải chỉ riêng chính quyền Pol Pot, mà người dân Kampuchea nói chung cũng rất căm hận người Việt Nam. Tôi biết chuyện này một cách mơ hồ cho đến khi có mặt tại xứ người. Lịch sử như sống dậy trước mắt. Qua những cuộc nói chuyện với dân bản xứ, tôi được biết là từ bao nhiêu năm qua người Miên đã luôn cảm thấy bị người Việt đô hộ, bằng áp lực quân sự cũng như bằng sức mạnh kinh tế. Là người Việt, phản ứng tự nhiên là tôi muốn phủ nhận chuyện này. “Người Việt không tốt với chúng tôi.” Người lái xe tuk tuk nói trong một buổi ăn trưa. Khi bị hỏi cặn kẽ, anh chỉ lắc đầu, và lại lắc đầu. Mặc dầu có mấy đài tưởng niệm sự hy sinh của các chiến sĩ Việt tại Phnom Penh và Siem Reap, người Miên không chút ái mộ người Việt. Tôi đến chợ trò chuyện với các chị thúng rổ người Việt. Hỏi xem gia đình họ ở đây có bị ngược đãi không? Hoàn toàn không. Họ khẳng định với tôi và vồn vã cho rằng buôn bán ở Phnom Penh rất thuận lợi. Người bản xứ cũng hòa nhã. Hai bên không hiểu nhau chăng?
“Người Việt đẹp lắm!” Cô gái Miên có đôi mắt to đen cười nói với tôi. Tôi được biết là người Việt rất được chuộng trên thị trường sex của đất Kampuchea. Các trẻ em và phụ nữ Việt ở đây “bán” rất được giá, khách mua dâm chịu trả tiền cao cho những người có làn da trắng hơn da người Miên bản xứ.
Nếu hôm qua người Miên và người Việt là nạn nhân của phong trào diệt chủng của Pol Pot, thì hôm nay họ là nạn nhân của một tội ác mới. Đó là tội buôn người. Những cuộc mua bán người Việt Miên để làm nô lệ tình dục đang được tiếp diễn hàng ngày tại Kampuchea. Khi phái đoàn chúng tôi đến Siem Reap, một em bé gái độ chừng 9 tuổi đã tìm đến một người đàn ông Mỹ trong nhóm du lịch của chúng tôi và hỏi “You need yum yum?” Ông trợn mắt nhìn em bé: “What did you say to me?” Em bỏ chạy.
Dựa trên báo cáo TIP (Trafficking In Persons Report) đưa ra vào năm 2005, 2006 và 2007, rất nhiều phụ nữ và trẻ em Việt đã trở thành nạn nhân của các cuộc mua bán người ở Kampuchea. Tôi thử đến một vài phòng trà tại Phnom Penh để tìm hiểu tình hình. Vào thế giới đêm đầy muỗi đói tôi phải đối diện với ánh mắt dò xét của các ông khách dị hợm người da trắng đổ dồn vào mình. Đa số các “nhân viên” phòng trà đều là người Việt. Họ đã từng nghe lời dụ dỗ vượt biên giới để có được những công việc ngon lành. Những lời dụ dỗ ấy đã chấm dứt ở đây. Những ước mơ đơn giản vỡ vụn khi va chạm với thực tế phũ phàng. Trên đất người, trong ánh đèn lờ mờ sau khói thuốc, tôi nghe một cảm giác thật lạ khi quanh tôi vang lên những giọng nói miền Nam đặc dẻo hòa lẫn tiếng hát của Celine Dion. Thấp thoáng những khuôn mặt xinh tươi chỉ độ khoảng tuổi con tôi.
Tôi ghé qua nhiều phòng trà như thế nhưng không thấy một người khách Á Đông nào. Hỏi ra thì được biết có những nơi kín đáo khác dành riêng cho họ. Người lái taxi rất ngần ngại không tiết lộ cho tôi, nhưng theo tôi được biết thì thế giới đen này còn bỉ ổi hơn. Nơi đó người ta sẽ thấy rất nhiều các em bé.
Trẻ em thì không tự mình đi đến chốn này. Bị ép, bị dụ hoặc bị bán. Gia đình các em bán rẻ hoặc thả liều cho các em đi qua đất Angkor bán cà phê hay buôn gạo. Kết quả là các em trở thành nô lệ tình dục mà không có cách nào tìm ra lối thoát. UNICEF ước lượng 1/3 phụ nữ “bán hương” ở Kampuchea tuổi dưới 18 mà trong số đó phần đông là gái Việt. Nhu cầu “hàng” nhỏ tuổi, chưa dậy thì, ngày càng gia tăng, vì khách hàng muốn mua gái còn trinh, gái không mang bệnh tật. Theo điều tra của một số người chuyên môn, các thương gia Á Đông, nhất là các thương gia Trung Hoa, tin rằng ăn ngủ với con gái còn trinh sẽ đem may mắn cho việc làm ăn của họ đồng thời giúp cho họ tăng thêm sức khỏe. Do đó gíá của các em rất cao, cao đủ để trinh tiết của các em bị gia đình “hy sinh”. Nhưng gia đình các em không biết rằng họ đã giết chết các em tự thuở đó. Chết cả tinh thần lẫn thể xác. Một em thuật lại với nhân viên xã hội là khi em bị bán đi, ngực em vẫn chưa thành hình. Sau bao nhiêu năm bị hành hạ, em đã không còn muốn sống và đã thường dùng dao để tự cắt mình.
Chuyện buôn người hiện nay đang diễn ra khắp nơi trên thế giới, từ Việt Nam đến Dubai, từ Đông Âu đến Ai Cập, song theo thống kê thì đây là bi kịch dài của vùng Đông Nam Á. Bi kịch này tôi xin hẹn bạn đọc ở một bài tường trình khác.

Mùi khuynh diệp đã không đến với tôi tại Phnom Penh.

Siem Reap
Khi tàu tốc hành của chúng tôi đến cảng Siem Reap, tôi đã không thể kiềm chế nổi nỗi xúc động khi chứng kiến cái nghèo thê thảm của người dân vùng này. Dưới cái nóng ngộp thở của bến cảng là cảnh tượng hỗn loạn của những người tranh nhau kiếm ăn. Người dân bu quanh khách du lịch để bán hàng hoặc mời gọi đi xe tuk tuk. Bụi bay mịt mờ trên những con đường đầy ổ gà to lớn. Tất cả nằm trong một bầu không khí nồng nặc mùi tanh của cá. Hai bên vệ đường đất đỏ là những ngôi lều được dựng lên bằng những mảng ny lông. Dưới những mảng ny lông đó, vợ chồng con cái chen nhau sống. Các em bé trần truồng như nhộng chạy lông nhông trên đường. Tôi đã đi qua rất nhiều nước và đã đến những vùng nghèo khó của Mễ Tây Cơ và Việt Nam, nhưng chưa nơi nào thảm thương như nơi này.
Vào để hiểu thêm Siem Reap, người ta sẽ thấy cái nghèo và tệ nạn xã hội đi đôi với nhau. Trẻ em đi ăn xin đầy đường đến khó chịu. Những em bé sơ sinh được bồng như một dụng cụ để ăn xin. Tôi để ý thấy những em này lúc nào cũng ngủ say mê man. Tôi đoán là họ, những thành phần của cơ cấu “cái bang”, đã cho các em bé này uống thuốc để ngủ, để chuyện đi ăn xin được dễ dàng hơn.

Trước các cảnh tượng này, tôi phải làm gì?
Ở Kampuchea có rất nhiều cơ quan hoạt động phi chính phủ (NGO), nhưng qua nhận xét của các chủ khách sạn thì các cơ quan hoạt động hữu hiệu rất ít. Tôi không sao tìm ra một cơ quan nào do người Việt quản lý, tuy người Việt định cư ở nơi này rất tấp nập. Đa số các quán hàng lớn, sạp bán ngoài chợ đều do người Việt làm chủ. Họ sống sung túc và thành công, trái với cái tôi nhìn thấy ở người bản xứ.
Nợ máu, nợ đất, tôi không biết ai nợ ai giữa hai phía Việt và Miên, điều đó đối với tôi không quan trọng. Tôi cảm thấy mình phải làm cái gì đó trước khi rời khỏi miền đất khổ sở này. Tôi may mắn được sự hỗ trợ của hội Friends of Huế Foundation, và đã qua đó để nối kết với một ngôi chùa Phật Giáo cùng các sư tăng đi đến vùng người dân chài sống để giúp họ gạo và nước mắm. Những người lam lũ và khốn khổ này đã quỳ xuống lạy phái đoàn một cách hết sức chân tình khi tiếp nhận sự cứu trợ. Tôi đã ứa nước mắt đứng tránh ra không dám nhận lễ của họ.

Tôi muốn mua sắm rất nhiều thứ để phân phát cho các trẻ em mồ côi. Một đất nước chỉ có 6 triệu dân, vậy mà số trẻ em không cha mẹ lên tới 670,000 (theo thông tin của UNICEF). Khi đi chợ tôi mới khám phá ra là ở Kampuchea, mọi việc mua bán đều tính bằng đô la Mỹ, và vật giá đắt đỏ hơn ở VN rất nhiều. Đôi khi còn đắt hơn cả ở Mỹ. Phẩm chất thì kém mà giá tiền lại cao, chẳng hạn như về mặt ăn uống. Ngoài việc giúp tiền cho các trại mồ côi, tôi còn muốn mua các trái banh nhựa cho các em để các em có thêm phương cách sinh hoạt chung. Không ngờ là những trái banh nhựa lại quá đắt, một trái banh nhỏ xấu xí giá 4USD còn trái lớn giá 10USD, trong khi gạo thì 10USD/kg. Sau khi tìm hiểu vấn đề, tôi được biết là Kampuchea không sản xuất mà chỉ nhập cảng hàng hóa nhựa từ Việt Nam. Những quả cầu lông cũng do Việt Nam sản xuất. Mua sỉ giá 1USD một cái trong khi ở VN thì chỉ có 2000VND. Tôi chợt nhớ là ở Việt Nam, mọi mặt hàng đa số do Trung Quốc sản xuất! Người ta ngồi chồng lên nhau một cách thật thứ tự: Trung Quốc ngồi lên Việt Nam, và Việt Nam thì lấn người Miên.
Tôi rời khỏi Kampuchea mà lòng thật không ổn. Người dân của hai nước láng giềng này có rất nhiều nét tương tự với nhau. Từ chén chè đậu trắng nước dừa cho đến mùi hơi của đất trong mưa rào. Nhưng họ lại không muốn hiểu nhau và không cảm thông nhau. Tôi hoàn toàn không tìm được hương vị khuynh diệp nơi xứ sở của kỳ quan Angkor Wat, nhưng cảm thấy người tôi thêm được một sức sống mới vô hình. Tôi sẽ phải làm một việc gì đó.
.
     Hà Nội

Từ cơn nóng hơn 30 độ C của Siem Reap, tôi bay vào vùng đất rét 7 độ C của Hà Nội. 26 Tết thủ đô những hàng hoa muôn màu sắc. Đỏ hồng vàng rực trời trong những cơn gió buốt xương. Hoa đào và cây cam quát (quất) ngập đường, đèn cờ rợp lối, điểm thêm sức sống cho bầu trời xám tái của miền Bắc. Xe cộ quá nhiều kẹt cứng trên đường trong những cơn mưa lạnh căm, đám đông chen chúc tranh nhau mua hàng ngoài phố, nhưng sự hỗn độn của cái xã hội thiếu trật tự kia không làm mất đi không khí của ngày đón Xuân. Hàng hóa từ Trung Quốc tràn về ngự trị đất Hà Nội, kể cả những vật trang trí cho ngày Tết Mậu Tí. Khách viếng thăm không thể phủ nhận được cái nhộn nhịp tưng bừng của một thành phố háo hức đón xuân, mặc dù thời tiết còn đang khắc nghiệt.
Tôi nhập bọn với các anh bạn họa sĩ của tôi để lên rừng hái hoa. Họ là thế. Lúc nào cũng phải khác người, không thích chạy theo đám đông. Tuy hoa đào đầy rẫy khắp chợ hoa, các anh lại muốn đi tìm hoa mận. Thời buổi này mọi người chạy xe Honda với những model mới nhất như SH300 gì gì đó, thì các anh họa sĩ của tôi lại chạy những chiếc Vespa cũ kỹ của thời 70. Mấy năm qua tôi vẫn thường về thăm và trao đổi nghệ thuật với họ. Tôi đã gia nhập những chuyến đi xa với những mục đích thật vu vơ chẳng hạn như lên miền cao Hà Giang tìm rượu ngô của Cô Thu Bột. Hoặc những cuộc hành trình sưu tầm gốm cổ nhà Mạc, hay đi kiếm xác chiếc xe Landrover mãi tận đảo Ngọc Vừng hoang dã cuối Vịnh Hạ Long. Thú vị nhất là chuyến đi về làng gốm cổ truyền Phù Lãng, nơi mà cả ngàn năm nay vẫn duy trì cách nấu gốm bằng củi, mặc dầu xung quanh làng không một bóng cây ngọn gió. Tôi nhớ mãi lời nói của một anh họa sĩ khi chúng tôi đứng ngắm nghía một số mẫu gốm tân thời trang trí theo tính cách lập thể (cubism): “đây là cái tát vào nghệ thuật!” Họ có những nhận xét rất khắt khe và cực đoan trong lãnh vực nghệ thuật, chẳng hạn như đến nay họ vẫn không chịu nghe dĩa nhạc CD mà chỉ nghe dĩa nhựa (vinyl records) hoặc băng nhựa (audio tapes). Một anh cho rằng những dĩa này có những lỗi do thời gian và bụi bặm tạo ra, nhưng do đó đã mang theo lịch sử và thời gian của nhạc. Có lẽ vì những sự cực đoan đó, tôi hết sức yêu mến họ.

Chúng tôi đánh xe lên Hòa Bình, đất đỏ, núi xanh rì cao sững như trong tranh cổ Trung Quốc. Xe chúng tôi đi sâu vào các miền đất của người Dao, cứ thế mà đi mãi đi mãi, hết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu lần dừng lại ngẩn ngơ ngắm sương mù rơi xuống các nhà tranh bên đường. Hoa mận vẫn biệt tăm. Thì ra năm nay hoa mận nở sớm và đã rụng hết khi cái rét tràn về. Chúng tôi tay trắng quay về Hà Nội, đến Lê Thạch Quán gần bờ Hồ Gươm, nơi tụ tập thường xuyên của giới văn nghệ, thì trời đã tối. Riêng tôi cảm thấy một cái gì đó thật hả hê và thỏa mãn, mặc dù không hái được một nhánh hoa mận nào, và mặc dù cây khuynh diệp vẫn vắng bóng. Có lẽ là do những mẩu chuyện vụn trên đường, nhất là những chuyện của trước ngày “đổi mới”.

blank

                                Bạn của Huế xây dựng tương lai Việt Nam

Anh “Tâm Mải Chơi” chắc hẳn phải hắt hơi vì chúng tôi nói rất nhiều về anh hôm ấy. Anh là một họa sĩ mê chơi hơn mê tranh. Có lần anh dặn vợ ở nhà để anh đi ăn sáng với bạn, rút cuộc là 3 ngày sau anh mới quay về nhà. Còn khi vào Sài Gòn triển lãm, anh thuê 2 chiếc xích lô, một chiếc chở anh và chiếc kia chở tranh. Đi giữa đường gặp người quen vẫy vào quán uống cà phê, anh liền nhảy xuống xe và quên mất xe tranh. Ngày khai mạc cuộc triển lãm của anh, anh đến tay không và cười trừ với mọi người. Tệ hơn nữa là có lần anh Tâm bắt gặp một anh bạn của mình hớn hở dẫn cô tình nhân mới quen vào một căn nhà nhỏ trên lầu cao để tỏ tình. Chủ nhà này lúc ấy vắng nhà đi Tam Đảo. Anh Tâm Mải Chơi bèn lén lút khóa cửa nhốt họ lại. Chỉ định đùa nghịch đôi tình nhân kia một lúc cho vui nhưng rồi anh bỏ đi nhậu với bạn bè và quên béng mất mọi chuyện. Ba ngày sau anh mới nhớ ra và chạy đến mở cửa cho cặp tình nhân nọ thì hai người này đã bơ phờ rũ rượi. Chuyện kể lại là từ đó hai người tình nhân kia không bao giờ nhìn mặt nhau nữa.
Rồi lại đến chuyện lạc núi. Mấy anh họa sĩ thì thường đi lên miền cao để tìm “cảm hứng sáng tác”. Đêm về sương mù dày đặc các anh không sao tìm ra được đường xuống núi. Cuối cùng các anh ghé vào một căn nhà bên đường để xin trọ qua đêm. Đó là căn nhà tranh của 2 bố con người thiểu số. Ông bố bằng lòng cho 3 anh họa sĩ ở trọ và quay dặn dò cô con gái bằng tiếng bản xứ, cô gái này người độ khoảng trong ngoài 18 tuổi có làn da trắng mịn. Cô nghe bố dặn rồi lui vào nhà trong. Các anh họa sĩ ngồi bên ngoài uống trà trên nền đất. Họ đợi mãi vẫn không thấy cô gái trở lại và cũng không được chỉ dẫn chỗ ngủ ở nơi nào. Cơn lạnh miền núi tràn ngập gian nhà nhỏ, cằm của các anh bắt đầu run lên thì cô gái kia lại đột ngột xuất hiện. Ông bố lúc đó mới quay lại nói với các anh bạn tôi rằng: “con tôi đã nằm sưởi ấm chăn giường cho các anh rồi đó, xin mời các anh vào nghỉ.” Đêm đó các anh bạn tôi ngủ rất ngon!

Và còn bao nhiêu câu chuyện thú vị khác nữa đã làm tôi lưu luyến họ. Chuyện họ kể không có gì thâm thúy lắm nhưng khi người kể có duyên thì chuyện gì cũng hấp dẫn.
Tôi luôn luôn tìm ra những nguồn sinh lực mới khi gặp lại những người bạn này, nhưng dù mến họ cách mấy tôi cũng không muốn nương lại Hà Nội ăn tết năm nay vì cái rét quá tàn khốc. Ở khách sạn, nước không đủ nóng để tắm và máy sưởi không đủ ấm nên tôi không sao chạy trốn được cái lạnh. Vì không khí mang nhiều hơi nước nên cơn lạnh dường như lúc nào cũng bám vào da và ngấm vào tận xương tủy. Các người dân miền núi phải bỏ nhà dắt trâu bò xuống núi để tránh tuyết, dẫu rằng họ phải ngủ ngoài đường chợ. Nếu trâu bò chết là họ mất hết gia sản. Có những người phải đem hết chăn mền của họ đắp cho súc vật để rồi bị lâm bệnh vì cơn lạnh. Có người chở con đi trên xe gắn máy ngồi đằng trước, khi xuống xe mới biết con đã chết cứng tự lúc nào.

blank

                                        Bạn của Huế nuôi những đứa con của Huế
.
Nha Trang.                                                                                       
Tôi đầu hàng cái lạnh nên phải chạy vào Dốc Lết gần Nha Trang tìm hơi nóng. May cho tôi vùng cát trắng biển xanh này quá thơ mộng nên tôi có chỗ dừng chân để thảo vội bài tường thuật này gửi về bạn đọc. Dốc Lết cũng thật hoang dã, nhưng sau vài bữa lang thang, cuối cùng tôi cũng tìm được bóng mát của cây khuynh diệp đợi mong. Tôi vò mãi lá khuynh diệp để tay thêm xanh nhưng không hiểu sao bàn tay tôi vẫn trắng và mùi hương chỉ thoang thoảng. Thế nghĩa là sao? Tay tôi đã khác xưa và mùi khuynh diệp đã thay đổi?
Tôi lần mò đến một ngôi chợ hải sản ven biển. Vừa ngồi xuống chiếc ghế bố thuê 5000 đồng, vài người bán hàng đã lại vây quanh tôi mời mua mực và tôm tích ăn tại chỗ. Tôi hiếu kỳ nên bằng lòng mua nửa kí tôm tích và nửa kí mực. Con tôm này chắc có họ hàng với con rết nên có rất nhiều chân. Chị bán hàng là một phụ nữ nhìn già dặn hơn tôi nhưng khi hỏi ra thì chị còn nhỏ tuổi hơn tôi nhiều. Tuy da chị bị nám nắng biển muối, chị không dấu được cái vẻ đẹp duyên dáng rất Việt Nam. Nghe lời chị, tôi ngồi ăn rất “dã chiến”, ăn trong gió cát không có khăn lau tay hay bát muối chanh mà tất cả chỉ nằm vẹn trong hai bao ny lông. Không sao. Tôi xin nửa chai rượu đế để phòng hờ không bị đau bụng và sẵn sàng chiến đấu với mực và tôm. Chị bán hàng nhất định không để tôi bóc tôm lấy. Tôi hỏi tại sao thì chị bảo rằng nếu bóc không quen thì thịt tôm sẽ nát vì tôm này mang nhiều trứng. Thế là chị ngồi dưới cát bóc từng con tôm cho tôi ăn. Và nhất định không ăn chung với tôi rồi cũng không chịu ngồi trên ghế sợ tôi tốn tiền. Trong gió cát mờ mắt, tôi thấy tôm thật đậm đà.
Tôi bắt chuyện vu vơ và hỏi về chồng con của chị. Nghe giọng chị hạnh phúc tôi phán một câu chung chung: “cuộc sống của các chị đây coi ra thì vất vả về thể xác một chút nhưng tinh thần thật thoải mái, không căng thẳng như chúng tôi bên đó.” Chị đỡ lời tôi ngay: “Căng thẳng lắm chị! Không đơn giản như chị tưởng. Chị có khi nào lo sợ chồng chị đi làm mà không bao giờ về nữa không?” Tôi lắc đầu.
“Chồng em đi đánh cá, mỗi đêm là em mỗi phập phồng. Khi bão lớn mà chồng em chưa về thì em cảm thấy mình già đi mấy tuổi. Đã mấy lần thuyền bị lật mà chồng em may sao vẫn chưa mất mạng.” Tôi nhìn ra những chiếc thuyền thúng tròn nhỏ đang lao chao trên biển trong nắng chói chang, rồi quay qua đỡ con tôm từ tay chị và ăn một cách rất thận trọng. Đây là do công sức của nhiều người tôi mới có được bữa ăn đó. Tuy mùi khuynh diệp nơi đây không nồng đủ, tôi rời Dốc Lết cảm thấy lòng mãn nguyện.

     Huế.                                                                                                    

Đã đến ngày tôi phải bay ngược ra Huế để thăm các con tôi, 40 đứa trẻ của Hội Friends of Huế Foundation (www.friendsofhue.org). Huế thân thương vẫn đang còn say sưa trong hương vị Tết, nhưng không may cơn lạnh miền Bắc đã xâm lấn đất Thần kinh. Tôi đến thăm Trung tâm trong khí trời lạnh giá. Tuy nhiên, đêm hôm đó chúng tôi cảm thấy thật ấm vì hơn 50 người vừa trẻ con vừa người lớn (tôi và các bảo mẫu) ngồi xung quanh căn phòng học nhỏ hàn huyên tâm sự. Ánh mắt các em sáng rỡ trong niềm vui, nụ cười nở ròn tan trong sự hân hoan. Có ai biết được quá khứ của mỗi em khó khăn sóng gió như thế nào? Nơi đây, các em đã có đại gia đình sống trong tình thương và sự bảo bọc của nhiều người, được như thế này một phần lớn là nhờ công đức của các nhà hảo tâm bên Mỹ.
Đêm khuya tôi đi quan sát nơi các em ngủ mới giật mình khi thấy các em co rúm trong một chiếc chăn mỏng. Tôi giận run lên và chất vấn các bảo mẫu là tại sao lại để đến tình trạng như thế. Một chị bảo mẫu rươm rướm nước mắt trả lời: “thưa cô, em cũng định thưa với cô để mua thêm chăn cho các em nhưng bận ri chăn mắc quá cô nờ. Và các thức ăn gạo nước còn mắc hơn. Hội đã mấy lần tăng chi phí cho mỗi em nhưng chúng em đòi hoài thì sợ Hội hiểu lầm. Món chi rứa cũng lên quá cao, cô nì.” Tôi cũng thấy chuyện này trong lúc ở ngoài Hà Nội nhưng không nghĩ nó ảnh hưởng Huế nhiều như vậy. Theo báo chí thì vật giá leo thang đến 14% nhưng lương bổng cho công nhân vẫn vậy. (Ngày tôi gửi bài này đến tòa soạn thì vật giá đã lên đến 17%.)
Tôi vẫn không chấp nhận để các em nằm trong cơn lạnh này, nhất là các phòng đều không có máy sưởi. Tôi yêu cầu các chị là bằng mọi giá ngày mai các em phải có thêm chăn. Tôi hỏi: “nhưng đắt là đắt bao nhiêu, thưa chị?”
       “Phải chăn Trung Quốc thì mới ấm, mà một cái thì khoảng 170 ngàn chị Jenny à.”
“Tại sao chúng ta từ trước đến giờ không chuẩn bị chăn ấm này cho các cháu để giờ phải ra cảnh này?”
“Thưa chị, vì xưa nay có bao giờ lạnh như chừ đâu. Lần cuối là khoảng 40 năm trước.”

Đêm hôm ấy tôi mới nếm mùi. Khi về khách sạn, tôi bật máy sưởi lên 30 độ C và ngồi trùm chăn để chờ người được ấm lại. Ngồi mãi, càng ngồi càng lạnh. Tôi gọi tiếp tân cho người lên xem tại sao máy sưởi không ấm.
     

  “Thưa chị, máy của khách sạn chúng em chỉ có một chiều thôi chị ạ.” Tôi mới hiểu ra là máy này chỉ là máy lạnh mà không có máy sưởi. Đã lạnh tôi còn bật thêm máy lạnh! Đêm ấy tôi mặc quần jeans, 2 đôi vớ và 5 cái áo để đi ngủ.
Ngày hôm sau, người bảo mẫu hớt hải vào phòng làm việc của tôi và báo cho tôi biết là giá chăn đã tăng lên 230,000 đồng một cái. Tôi đồng ý cho chị mua với giá này. Đến chiều chị lại lấp ló trước cửa phòng họp của chúng tôi. Tôi mời chị vào và chị rụt rè nói là không tìm đủ số lượng chăn ấm.
Chị cho biết thông tin ở ngoài chợ là chăn bắt đầu không còn để bán. Các cửa tiệm đã thông báo cho Hà Nội để chở thêm chăn vào. Ngay hôm đó, xe chuyển hàng đang đi giữa đường vào Huế thì bị điều trở lại Hà Nội vì nhu cầu ngoài Bắc cao hơn. Khách mua hàng từ Trung Quốc phải qua Việt Nam để mua lại chăn chính họ nhập qua, bây giờ mua lại giá một gấp hai. Cuối cùng chúng tôi chỉ mua được 20 cái chăn và các em phải ngủ chung giường để đủ ấm. Sáng hôm sau các em gặp tôi cám ơn rối rít. “Chăn ấm quá cô nì.”
Đương đầu với cái lạnh và bao nhiêu chuyện phức tạp của công việc Hội FHF, tôi không nhớ đến chuyện đi tìm cây khuynh diệp.

Lo xong mọi chuyện cho Trung tâm, tôi lại cùng một số tình nguyện viên đi thăm các vùng lân cận nơi bị bão lụt của năm 2007 tàn phá. Biết bao nhiêu nơi cần sự giúp đỡ của hội FHF, hội không thể nào giúp cho xuể. Một nơi đã gây lại ấn tượng cho tôi là xã Quan Hòa. Nơi này là một trong các vùng thấp nhất của Tỉnh Thừa Thiên Huế. Đường vào xã chỉ như con đê hẹp rộng độ 2 mét ngang. Xung quanh là ruộng lúa nước xanh thắm. Nhưng khi lụt đến thì các xã ở khu vực này chìm trong biển nước mênh mông. Bao nhiêu xã hợp lại cũng không có được một ngôi nhà hai tầng để chạy khi nước lên. Trong thời gian bị lụt của năm 2007 vừa qua thì các xã này bị cách biệt hẳn với các xã lớn bên ngoài. Cả tuần lễ sau mới có thuyền vào để cứu người già và trẻ em. Người dân nơi đây van xin chúng tôi xây thêm tầng 2 cho ngôi trường làng để họ có nơi chạy lụt trong mùa nước dâng. Chúng tôi đến khảo sát ngôi trường mới cảm thấy thật xúc động. Ngôi trường chỉ là một căn nhà cũ lụp xụp 3 gian nền đất, nơi tập trung 76 trẻ em đi học hàng ngày. Hai người chủ nhà bên cạnh ngôi trường thấy chúng tôi đến liền chạy ra. Họ nói rằng nếu chúng tôi cần thêm đất để xây cầu thang cho trường thì họ xin dâng vì sự cần thiết quá cao. Họ mong cho con cháu trong làng có thêm chỗ học, đồng thời có tầng lầu cao để dùng làm nơi chạy lụt. Dân làng đã thu góp lại được 100 triệu đồng và mong hội chúng tôi giúp cho phần còn lại của cuộc xây cất. Tôi rất muốn nhận lời nhưng không dám vì vẫn cần phải thông qua Ban Chấp Hành FHF.

Con chó đợi đèn

Con chó đợi đèn
Nguoi-viet.com      

Tạp ghi Huy Phương

Hình ảnh trên YouTube ghi lại chuyện một con chó nhất quyết đợi đèn xanh mới sang đường trong khi có hai cô gái vượt đèn đỏ khiến nhiều người xem không khỏi ngạc nhiên, vì đây là một câu chuyện lạ đối với nhiều người.

(Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Hẳn con chó này chưa hề ngồi qua một lớp dạy luật lệ giao thông dành cho chó, hay được ai dạy dỗ, căn dặn về chuyện tôn trọng luật lệ đi đường. Nhưng có một điều tôi biết chắc là người chủ của con chó là một người “công dân có giáo dục” và là một người tử tế. Từ khi con chó được lớn lên trong gia đình này, đi theo người chủ, chưa bao giờ nó thấy người chủ vi phạm luật giao thông, ông chưa bao giờ vượt đèn đỏ để qua đường, và con chó đã học được thói quen ấy trong nhiều năm.

Bây giờ không có người chủ đi bên cạnh, không có cảnh sát hướng dẫn, không có cây chắn đường, con chó vẫn ngồi chờ cho đến khi có đèn xanh, để qua đường. Cử chỉ này xem qua có vẻ đơn giản nhưng quá khó khăn, vì hiện nay hàng triệu người Việt Nam văn minh, tử tế vẫn chưa làm được như con chó này.

Chuyện con chó chờ đèn xanh để qua đường gây được sự chú ý của dư luận, lẽ cố nhiên, phần lớn là ở trong nước, vì ở ngoại quốc, người ta xếp hàng trước tiệm ăn, hay một con chó chỉ chịu qua đường khi đèn xanh bật lên thì đâu có gì lạ. Không thấy ai khen ngợi con chó, không ai chấp nhận nó còn hơn cả con người, sinh vật mà lâu nay đi bằng hai chân, một tác phẩm tuyệt hảo của Thượng Đế hay sao?

Thật là ngu như chó! Nó không thông minh, không linh hoạt, không thích ứng như con người. Vì vậy người ta xem nó hành động cứng nhắc vì nó không biết cách “uyển chuyển theo tình huống” bằng con người, nghĩa là khi không có xe thì cứ qua, khi không có cảnh sát thì cứ vượt đèn đỏ.

Bình luận cho việc một con chó đợi đèn, một người trong nước cho biết ý kiến: “Tôi không cổ xúy cho việc phải phá vỡ luật nhưng mình cứ chọn đúng thời điểm, chớp thời cơ thì không có gì là sai cả!” Theo ý kiến người này, không cần thiết phải đợi đèn, cứ vượt đèn đỏ đúng lúc, “miễn là đúng thời điểm” và chớp thời cơ, phải chăng là khả năng của con người XHCN trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cách đây 70 năm, Hồ Chí Minh đã “chọn đúng thời điểm, chớp thời cơ” nhảy ra cướp chính quyền, việc lớn cũng không sao, huống gì ngày nay với dăm ba việc lẻ tẻ, sống sao có lợi cho bản thân mình là được.

Bí quyết thành công của con người hôm nay là phải quên cái câu “mình sống vì mọi người,” ngày nay muốn thành công “phải đạp lên đầu người khác mà đi!”

Ở Việt Nam hiện nay, họa là ngu mới đứng lại ở đầu đường khi đèn trở màu đỏ. Tai nạn vượt đèn đỏ không nguy hiểm tàn khốc bằng tai nạn khi chúng ta tuân hành đèn giao thông và dừng lại khi thấy đèn đỏ, vì chúng ta sẽ bị những loạt xe đằng sau tiến lên cán nát.

Một người khác thì cho rằng: “Đèn giao thông chẳng qua là một quy định chung cho số đông, nhưng cái mà nó tiến đến cũng là phục vụ sự thuận tiện cho con người!”

“Phục vụ sự thuận tiện cho con người!” có nghĩa là sống theo luật rừng, thuận tiện nhưng không cần đến quy luật. Phục vụ cho sự thuận tiện của con người, phải chăng là thấy đói thì ăn, không biết thức ăn đó là của ai, khát thì uống dù thức uống đó không phải của mình, phóng uế bất cứ nơi đâu khi cần, và buông thả thú tính khi không có ai kèm thúc, ràng buộc.

Không thấy hổ thẹn khi con người phá bỏ ngay quy ước và luật lệ do con người đặt ra để bảo vệ an toàn chính cho con người. Bài báo này hẳn không có mục đích để ca tụng một con chó, con vật mà trong xã hội Việt Nam, lâu nay vốn đã xem nó là thấp hèn, hạ tiện biết chừng nào. Từ việc xem chó như một con vật bình đẳng của một số rất nhỏ hiện nay, tiến tới chuyện con người Việt Nam biết thương yêu và tôn trọng những con vật như chó, người Việt Nam phải trải qua, ít nhất là vài trăm năm nữa!

Có nhiều điều rất mâu thuẫn trong cung cách đối xử giữa con người với nhau, và sự khinh miệt của con người đối với một con chó. Tuy khinh miệt loài chó, loài người Việt Nam có thể hung hãn giết một con người bằng đủ loại hành động tàn khốc, man rợ thời trung cổ, để bênh vực một con chó, dù chỉ là một con chó qua đường, không thuộc quyền sở hữu của họ.

Có một đất nước nào tôn trọng, bênh vực sự sống tốt đẹp của loài chó như trong “thiên đường” Việt Nam không, để cho bất cứ con chó nào trên trái đất này đều có một mơ ước trở thành một con chó Việt Nam? Nghĩa là vì sự sống của một con chó, người ta có thể giết một con người. Nhưng sự thật là không phải vậy. Phải ở trong xã hội Việt Nam mới thấy cái “chó” của những vở kịch đẫm máu này!

Bài viết nhỏ nhoi này không hề có ý bệnh vực loài chó vì trong câu chuyện này vẫn có người khẳng định: “Con người hơn chó là vậy đấy. Người hơn chó vì biết chớp thời cơ!”

Câu chuyện còn đưa đến một kết luận: “Đơn giản là chú chó sợ chết hơn con người.” Sợ chết, muốn sống là bản năng của sinh vật, bất kể con người hay con chó. Nhưng vì sao con chó trong câu chuyện này sợ chết, mà con người lại không?

Những bản tin trên báo chí Việt Nam đọc đến nhàm chán: – “Ba xe chờ đèn đỏ bị xe tải chạy tới hất văng,” – “Đang đứng lại đầu đường vì đèn đỏ, thiếu nữ bị tông xe, ngã nhào,” – “Xe container đâm hàng loạt xe đang chờ đèn đỏ,” – “Vợ chồng dừng lại đèn đỏ, vợ bị xe sau tông chết…” Như vậy, chúng ta đi xe dừng lại khi thấy đèn đỏ bật lên là đúng luật hay sai luật? Nhưng quan trọng là con người lại muốn sống hơn là được công nhận thi hành đúng luật giao thông hay không?

Chúng ta hãy nghe một tài xế vượt đèn đỏ gây tai nạn giải thích lý do: “Đèn bật đỏ! Tôi tưởng cái xe chạy trước tôi đi luôn, nhưng không hiểu sao, nó dừng lại!” Các bạn đã thấy một đám xe gắn máy khi gặp đèn đỏ chưa? Họ hung hãn, tống chân ga, chen lấn, ào lên, lấn lách, tràn lên hè phố, nơi người ta buôn bán, đi bộ.

Đứa nào đứng lại, không thuộc loại dại cũng là ngu, không thuộc loại lừ đừ cũng là thứ gà chết. Cuối cùng, đứng lại khi thấy đèn đỏ cũng chết, vượt đèn đỏ sai luật lại càng dễ chết hơn.

Ở Mỹ này, có khi bạn đi về rất khuya, đến chỗ đèn đỏ, dù lúc bấy giờ đường sá vắng tanh, không có một ai qua lại, bạn vẫn tự động dừng xe lại chờ. Không phải vì bạn sợ chết như chuyện con chó đợi đèn, hay bạn sợ một ông cảnh sát nào đó bỗng nhiên lù lù hiện ra, mà đó chỉ là một thói quen, một phản ứng tự nhiên. Để có một phản ứng như vậy, bạn phải có chừng năm, bảy năm sống trong một cộng đồng loài người văn minh, ở một xứ sở văn minh.

Sài Gòn có thể cần $5 triệu để chống ngập lụt, $5 triệu nữa để chống nạn kẹt xe, nhưng thật tình tôi không biết phải cần bao nhiêu tiền nữa để sửa cái “công tắc” trong đầu mỗi người dân, cái “công tắc” đó để chỉ huy người lái xe, tự động đứng lại khi gặp đèn đỏ và chỉ chạy xe khi có đèn xanh?

Luật sư Jenny Đỗ tâm sự về cuộc đời bên bờ sinh tử

Luật sư Jenny Đỗ tâm sự về cuộc đời bên bờ sinh tử

Nữ luật sư Jenny Đỗ đã chính thức rút tên ra khỏi cuộc bầu cử nghị viên khu vực 8 của Hội đồng thành phố San Jose, sau khi đã chuẩn bị thật chu đáo. Lý do rút lui là để dành thời gian để chống lại căn bệnh ung thư đang tái phát, vào giai đoạn 4. Bác sĩ cho biết cô chỉ còn có thể sống 3 tháng nữa mà thôi. Là một luật sư tuổi còn khá trẻ, nhiều đam mê và mộng ước, cô nghĩ gì khi đứng trước định mệnh biệt ly? Mời cùng nghe tâm sự…

Bấm vào đường dẫn dưới đây để nghe/xem:

Luật sư Jenny Đỗ tâm sự về cuộc đời bên bờ sinh tử

YouTube player

TƯ TƯỞNG CỦA MỘT BÁC SĨ TỬ TẾ.

TƯ TƯỞNG CỦA MỘT BÁC SĨ TỬ TẾ.

Bài diễn thuyết sâu sắc của một vị Giáo sư bên Tàu đã nói đúng thực trạng đáng báo động của nền Y khoa hiện nay, khiến cả hội trường với hơn 300 người nghe phải tĩnh lặng.

y khoa, nhân văn, im lặng, hội trường, Hội nghị, diễn thuyết, chữa bệnh, bệnh viện, Bài chọn lọc, bac si,

Giáo sư Viên Chung diễn thuyết tại Hội nghị. (Ảnh: Internet).

Trong “Hội nghị Quốc tế thường niên về Quản lý khoa Lâm sàng”, Giáo sư Viên Chung, Giám đốc nhà xuất bản Đại học Y khoa Dung Hợp TC đã phát biểu chủ đề diễn thuyết mang tên “Bác sĩ làm việc thích ứng với văn hóa”. Ngữ điệu của ông bình thường nhưng lại chỉ ra những sai lầm khắp nơi, rất nhiều ví dụ làm cho người ta phải suy nghĩ sâu sắc; Hội trường với hơn 300 người nghe đều lặng ngắt như tờ. Rốt cục, Giáo sư Viên Chung đã nói đến những điều gì?

Dưới đây là toàn bộ bài diễn thuyết của ông:

Một người tìm anh xem bệnh, họ đem hết những việc riêng tư của mình nói cho anh biết, cởi hết quần áo cho anh kiểm tra, đem hết những thống khổ kể cho anh, đem cả sinh mệnh mà giao cho anh, những người này (Bác sĩ) chỉ đứng thứ hai sau Thần, chứ không còn là một người bình thường nữa .

Bởi vì có thương yêu mới có việc chữa bệnh và bệnh viện, nếu như sự yêu thương này mất đi thì không thể gọi là chữa bệnh, mà nó trở thành giao dịch, một giao dịch sẽ không có sự tôn nghiêm.

Khi đài Truyền hình Trung ương truyền bá những quảng cáo giả dối: “Ngậm ăn đông trùng hạ thảo”, “Cuộc sống số một”…, thì chúng ta có thể nói trắng ra rằng: toàn bộ các nhánh sông đều đã bị ô nhiễm, không có con cá nào có thể thoát khỏi bị ô nhiễm, phương pháp hành xử  ô nhiễm chỉ có thể là bắt đầu từ thượng du.

Thường xuyên có nhiều Sinh viên hỏi tôi tính Nhân văn của Y khoa có chỗ lợi ích nào? Tôi muốn từ hai mặt mà nói:  mặt thứ nhất là giá trị Quan, mặt thứ hai là giá trị Nhân văn. Giá trị Quan là Đạo, giá trị Nhân văn là Thuật.

Sự tôn nghiêm bên trong giá trị Quan:      

Đầu tiên, tôi muốn nói một chút về “Đạo”. Hiện nay đã đến cuối năm rồi, rất nhiều bệnh viện đều sẽ mở Đại hội tổng kết trong tháng này. Tôi có nghe qua một chút khi Viện trưởng bệnh viện bắt đầu Đại hội, ông nói: “Một năm đã qua, trải qua nỗ lực không ngừng của toàn thể công nhân viên chức bệnh viện, bệnh nhân nằm ở viện chúng ta tăng 20%, bệnh nhân ở phòng khám bệnh của chúng ta tăng 30%, thu nhập của chúng ta tăng thêm 10%”.

Thế đấy, những lời này có phải là có vấn đề gì không? Có thể các vị Giám đốc, và các Bác sĩ ngồi đây đều sẽ cảm thấy đây là một việc rất tự nhiên. Kỳ thực, tôi nói cho mọi người biết: những lời này không nên được nói ra từ một Viện trưởng, mà phải là lời của nhà Kinh doanh, Viện trưởng chúng ta nên nói những điều gì? Điều chúng ta nên nói là: “Chúng ta đã chữa khỏi cho bao nhiêu người, chúng ta đã giúp được cho bao nhiêu người” ?.

Chúng ta đã quên mất cái gì gọi là bệnh viện, chẳng phải giá trị Quan đã gặp bất trắc. Cũng có Bác sĩ nói cho tôi biết: bản thân anh ta làm Bác sĩ là để kiếm tiền. Điều này vốn không sai, nhưng tôi muốn nói cho các vị rằng: nếu chỉ muốn kiếm tiền thì đừng bao giờ làm Bác sĩ !. Có nhiều công việc trong xã hội này so với nghề Bác sĩ vẫn kiếm được rất nhiều tiền, buôn bán bất động sản, khai thác mỏ, tài chính, IT… Thế nhưng, chỉ có hai nghề vừa kiếm ra tiền vừa được sự tôn nghiêm, một là Bác sĩ, hai là Giáo viên. Ở Nhật Bản, chỉ có hai nghề có thể được gọi là “Tiên sinh”, đó chính là hai nghề này: Bác sĩ và Giáo viên !.

Tôi có một người bạn, là Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học bệnh viện Hiệp Hòa, Bắc Kinh TC, ông ta là người Tân Cương. Ông ấy từng kể cho tôi một chuyện, người Duy Ngô Nhĩ tin rằng: con người khi chết đi có thể lên trời, nhưng không phải ai cũng có cơ hội lên trên đó, mà phải trải qua thảo luận tập thể. Tham quan, công an xấu, trật tự đô thị xấu … phải bị đọa xuống địa ngục; nhưng chỉ có hai nghề có thể lên trời mà chẳng cần bàn cãi nhiều, đó chính là nghề Bác sĩ và Giáo viên !.

Điều gì gọi là tôn nghiêm? Tôi cũng là một Bác sĩ, tôi cũng có nhận thức về điều này. Một người tìm tôi xem bệnh, đem hết những tâm tư thầm kín kể cho tôi nghe, cởi hết quần áo cho tôi kiểm tra, đem hết những thống khổ nói cho tôi biết, giao cả sinh mệnh cho tôi, loại người này chỉ xếp sau Thần mà thôi, không phải người bình thường. Nếu như Bác sĩ không xem thật kỹ bệnh mà chỉ xem túi tiền của người bệnh, người bệnh sẽ hận các vị đến chết !.

Cơ Đốc Giáo có hai điều rất quan trọng: một là quan niệm Thần thánh, hai là tinh thần Bác ái. Quan niệm Thần thánh cho tôi biết Bác sĩ là tập thể những người ưu tú. Hội trưởng Hiệp hội Bác sĩ TC là Trương Nhạn Linh từng nói với tôi, ông ấy đến Nhật Bản vào thập niên 90. Ở Nhật lúc đó có một người thường xuyên đến thăm hỏi các Bác sĩ, điều này khiến tập thể Bác sĩ TC rất lấy làm lạ, “Chúng tôi không phải đoàn đại biểu chính trị, cũng không phải đoàn đại biểu kinh tế, cũng không phải đoàn đại biểu ngoại giao, chỉ là một nhóm Bác sĩ” !.  Cuối cùng, người kia mới nói một câu: “Tôi cả đời muốn làm Bác sĩ, nhưng thi không đậu, thế nên tôi tôn kính Bác sĩ” !.

Chủ tịch bệnh viện Hòa Mục Gia, Bắc Kinh, Lý Bích Tinh, là người Do Thái, bà từng nói với tôi vì sao người Do Thái nhiều người thành công, thông minh hơn những người khác. Kỳ thực là vì người Do Thái có quan niệm Thần thánh. Người Do Thái tin rằng: họ là con dân của Thượng Đế, cho nên họ so với người khác càng nỗ lực, càng chăm chỉ, cũng càng dễ thành công !.

Bác sĩ nếu có được quan niệm Thần thánh, họ sẽ là những người ưu tú nhất, bất kể là ở phương diện nào, dù cho là thầy thuốc làng, họ cũng sẽ là những người ưu tú nhất nơi đó !. Hai ngày trước, Đài Loan có một Bác sĩ rất ưu tú là Kha Văn Triết, hiện đã thành Thị trưởng thành phố Đài Bắc. Không chỉ là Bác sĩ, ông còn là Lãnh đạo, một Bác sĩ giỏi không chỉ về chuyên môn, mà còn về nhân phẩm, nó giúp ông sự ủng hộ và tán thành của mọi người.

Tuy nhiên, ai ai trong chúng ta cũng biết, mấy năm nay xã hội chúng ta phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Sinh viên Y khoa Đại học Phục, Thượng Hải, đầu độc chết chính bạn học cùng ký túc xá, cậu ta đã nói một câu: “Tôi là ‘cái xác người trống rỗng’, không có giá trị Quan”!.

Tôi không biết mọi người có từng nghĩ tới chưa, tại sao cậu ta là “cái xác người trống rỗng”? Suy nghĩ một chút mấy năm nay, vẫn có một số Sinh viên Đại học giết người, như Mã Gia Tước, Dược Gia Hâm. Những năm nay chúng ta đã sáng tạo ra tài phú vật chất cực lớn, thế nhưng chúng ta đã sáng tạo được tài phú tinh thần chưa? Mọi người có thể để tay lên ngực tự hỏi lòng mình. Quốc gia chúng ta có rất nhiều mỹ đức truyền thống, lòng yêu nước, yêu quê hương, giảng hiếu tận, giảng cần kiệm, giảng lấy đức phục người, giảng thiên hạ công bằng, giảng tiết kiệm phục lễ, khắc kỷ phục lễ (lời của Khổng Tử: ước chế tự thân khôi phục lễ nghĩa), giảng lễ nghĩa nhân trí tín, thế nhưng dường như hiện nay chẳng ai giảng về điều này nữa !.

Sự cứu rỗi của tinh thần Nhân văn:

Thư cục Trung Hoa vừa xuất bản hai cuốn tài liệu giảng dạy cơ sở văn hóa truyền thống Trung Hoa của Đài Loan. Các bạn Đài Loan của tôi đều cho tôi biết, họ từ nhỏ đều đọc “Luận ngữ”, còn chúng ta thì làm gì? Bài học đạo đức phẩm cách tư tưởng của chúng ta ở tập thể là “bịt tai lại mà đi trộm chuông”. Có Giáo sư Bắc Đại nói rằng: chúng ta mấy năm nay đều bồi dưỡng rất nhiều “người tư tưởng ích kỷ một cách tinh xảo”, cái gì gọi là người tư tưởng ích kỷ một cách tinh xảo? “Tinh xảo” là thông minh, “tư lợi” là mọi thứ đều lấy tự ngã làm trung tâm.

Chúng ta nên thật sự phản tỉnh lại, có một lần tôi và Sa Beining nói chuyện tại Vũ Hán, ông ta hỏi tôi: “Ngành nghề chữa bệnh như thế nào?”. Tôi liền đáp lại: “Trước hết đừng nói ngành nghề chữa bệnh như thế nào, khi Đài Truyền hình Trung ương truyền bá những quảng cáo giả dối như “Ngậm ăn đông trùng hạ thảo” “Life No.1”…, đã nói rõ toàn thể dòng sông đã bị ô nhiễm, không có con cá nào thoát khỏi ô nhiễm, cách hành xử  ô nhiễm là khởi từ thượng du. Tổng bí thư trung ương Đảng là họ Tập, hiện đang xử lý thượng du, dòng sông có lẽ rất nhanh sạch sẽ” !.

Điều này kỳ thực là giá trị Quan. Các vị đều là những Chuyên gia lớn nắm giữ kỹ thuật tiên tiến các loại, có đầy người bản lĩnh có thể làm hai chuyện. Một là thấy việc nghĩa hăng hái làm, thấy việc bất bình ra tay tương trợ; hai là chặn đường cướp bóc. Làm tốt làm xấu, bản chất văn hóa trong nội tâm người ấy sẽ quyết định lựa chọn cuối cùng của mình.

Có vị Bác sĩ cho tôi biết: ông ta trong ngày đầu tiên đi làm ở khoa Tiêu hóa, mỗi ngày ít nhất phải hoàn thành chỉ tiêu là chữa bệnh được cho 1 người. Thế nhưng hôm đó ông ta cả ngày 1 bệnh nhân cũng không có, mà giờ tan ca sắp đến. Khi ấy, một nông dân bị bệnh tim mạch, vì bị đeo sai số nhầm Khoa và tìm đến. Do đó, ông đã làm trái lương tâm mà xem bệnh, và kê thuốc cho người nông dân này. Khi bệnh nhân lấy thuốc rồi quay lại hỏi, ông ta cảm thấy nội tâm thật sự áy náy. Ông ta bèn bảo người nông dân này hãy tới lấy số lần nữa để đi khám tim mạch, người nông dân đó đột nhiên khóc ròng nói: “Tôi đã dùng hết tiền rồi !”. Vị Bác sĩ này sau khi đã bộc bạch chuyện của mình với đồng nghiệp, thì cảm giác xấu hổ cứ vây lấy tâm can, từ đó rời bỏ bệnh viện, không làm Bác sĩ nữa.

Khi các Viện trưởng, cán bộ cấp trên chế định chính sách, đừng bao giờ để Bác sĩ chúng ta phải phải hy sinh sự lương thiện để đổi lấy quyền lợi chính đáng lúc đó. Vốn dĩ anh ta nên có tiền lương 1 vạn đồng, nhưng chỉ phát cho anh ta 2.000, còn 8.000 đồng để anh ta tự mình kiếm lời; đây là hành vi gian ác !.

Cái gì là bệnh viện? Trong thời Trung cổ, xã hội của Cơ Đốc giáo có rất nhiều người nghèo là ăn mày lang thang khắp nơi, không ai quản đến. Vì thế, họ đã bố trí một nơi để họ giảm bớt khổ cực, cuối cùng từ từ tạo thành bệnh viện. Cái gì là chữa bệnh? Chữa bệnh khởi nguyên là một tấm lòng đồng cảm, con người quý ở chỗ có tâm đồng cảm, lòng thương xót. Vì chứng kiến thấy người khác bị đau khổ, chịu khổ chịu nạn mà mình cũng cảm thấy  thương xót mà giúp đỡ người ta, đây mới gọi là chữa bệnh.. Bởi vì yêu thương mới có chữa bệnh và bệnh viện, nếu mất đi tinh thần này thì không thể gọi là bệnh viện, mà gọi là giao dịch, nó không có tôn nghiêm.

Chúng ta cơ hồ đem bệnh viện trở thành một cái xí nghiệp, nhóm lãnh đạo của chúng ta cả đám mở hội họp, điều thích nhất nói đến là “Bệnh viện chúng ta 500 triệu, bệnh viện chúng ta 800 triệu, bệnh viện chúng ta 900 triệu, bệnh viện chúng ta 1,2 tỷ, bệnh viện chúng ta 2 tỷ !”. Tại sao Trưởng khoa Phụ sản bệnh viện Hiệp Hòa, Lang Cảnh, và Viện sĩ nói rằng:  nhân viên phòng Y tế mỗi tuần phải đọc một cuốn sách ngoài chuyên môn, chính là vì để mở rộng mặt tri thức. Bác sĩ chúng ta nên học được cách giao tiếp với người, chúng ta không thể chỉ học mỗi cách giao tiếp với bệnh tật thôi !.

“Có khi đi trị liệu, thường xuyên giúp đỡ, lại luôn là an ủi”, luôn là an ủi, thế nhưng chúng ta có năng lực an ủi không? Cái này hoàn toàn là nhân văn Y học phải được bồi đắp. Chỗ khác biệt giữa Bác sĩ TC, và bác sĩ Mỹ Quốc là ở chỗ nào? Bác sĩ TC hiện nay kinh nghiệm lâm sàng vô cùng phong phú, chúng ta đã làm nhiều giải phẫu như thế. Thế nhưng so sánh Bác sĩ TC và Mỹ Quốc một chút, điều khác biệt ở chỗ “thương yêu”. Bác sĩ Mỹ Quốc làm bệnh nhân cảm nhận được tình yêu, bác sĩ TC không làm được !.

Không đủ tin tưởng khoa học kỹ thuật, đây là một bộ phận rất quan trọng của văn hóa truyền thống dân tộc chúng ta. Toàn thế giới đại đa số dân tộc đều tin rằng: con người chết rồi có thể luân hồi, có cuộc đời sau này. Thế nhưng dân tộc chúng ta muốn truy cầu trường sinh bất tử, thế nên chúng ta phát minh ra rất nhiều phương pháp trường sinh bất tử. Chúng ta tuyệt đối là một dân tộc không có sự chuẩn bị cho cái chết. Người TC nào cũng có thể nhẫn chịu, mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn công việc, mâu thuẫn xã hội đều có thể nhẫn, thế nhưng khi đối mặt với cái chết thì không nhẫn chịu được. Chúng ta không có chuẩn bị, đối mặt với cái chết, hành động tâm lý đầu tiên là phẫn nộ và khiếp sợ. Do đó, văn hóa truyền thống của chúng ta quá cần tinh thần Nhân văn Y học !.

Tôi nói một vấn đề cuối cùng, cũng là vấn đề làm thế nào để trở thành một người Bác sĩ tốt. Thứ nhất, tôi không muốn nói mọi người ai cũng phải đi học Lôi Phong, học Bạch Cầu Ân, tôi chỉ cần nói cho các vị Chuyên gia và Lão sư, các vị nhất định phải nghĩ đến khi mình già rồi thì cũng sẽ rơi vào trong tay một Bác sĩ nào đó. Các vị trước hết làm một Bác sĩ tốt, học trò của các vị mới có thể là Bác sĩ tốt, đợi khi các vị già rồi, vị Bác sĩ này sẽ chăm sóc các vị. Hiện nay các vị không làm được một Bác sĩ tốt, đợi khi các vị già rồi, học trò của các vị sẽ chiếu theo phương pháp của các vị mà trừng phạt các vị. Chúng ta không thể khiến học trò học Lôi Phong khi chính mình đang học theo Hòa Thân.

Thứ hai, vì con cái mà làm một người tốt. Rất nhiều việc, người Tàu chỉ có vì con mới làm, vì con mới cải biến. Tôi từng giảng về vấn đề cai thuốc, tuy chúng ta học người nước ngoài trên hộp thuốc lá in hình đầu lâu và phổi đen, nhưng rất nhiều người căn bản sẽ không cai thuốc. Chúng ta dưới tình huống nào mới cai được? Chỉ có khi trên bao thuốc có viết “Hút thuốc sẽ khiến cho con của các bạn biến thành dị dạng”, tôi nghĩ người đọc câu đó nhất định sẽ cai !.

Thứ ba, con người cả đời này vì cái gì mà đến đây? Nếu như có cơ hội đi trong sa mạc Tân Cương để quan sát 1 lần, nếu như có một vũng nước, thì nhất định phải trồng cỏ, có cỏ mới có dê bò, có dê bò mới có người. Giá trị của cỏ là vì để cho dê bò sống tốt, giá trị của dê bò là để cho con người sống tốt, giá trị của con người là khiến cho những sinh vật khác sống tốt. Xã hội này vì có bạn mới có thêm 1 phần tốt đẹp, đừng vì có bạn mà lại thêm lại một phần thống khổ hoặc bất hảo nào khác !.

Nhà cầm quyền có thể chai lỳ trước một bản án oan khốc sắp đem thi hành?

Nhà cầm quyền có thể chai lỳ trước một bản án oan khốc sắp đem thi hành?

Cái lũ người thuộc về cái thể chế gây án oan, sau khi “rút kinh nghiệm sâu sắc” vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn, đã tìm ra những biện pháp tự che giấu bộ mặt thật của mình.

Chúng “thả” ông Huỳnh Văn Nén ra, cho tại ngoại, với lý do bênh tật. Chúng “miễn khởi tố” Nguyễn Quang Lập và Hồng Lê Thọ… chẳng vì lý do gì sất.

Còn với ngưởi tử tù Lê Văn Mạnh mà chúng đã bức cung và nhục hình để cố giết cho bằng được… thì chúng sẽ cho thi hành án trong vòng ít giờ nữa.

Này, những Nghị, và những Rứa, và những Phiêu, lũ người cùng quê Thanh Hóa, lũ người tự hào là “của Dân, do Dân, vì Dân”, hãy nhìn vào tấm áo em Mạnh gửi cho mẹ, chi chít chữ cốt nói với mẹ là em vô tội.

Lũ các người có mẹ hay không?

Lũ các người có còn biết xúc động nữa không?

Chí ít, hãy can thiệp, hãy tạm cho em Mạnh chịu án chung thân.

Hãy một lần trong đời, biết xúc động.

Hãy tha mạng sống cho một thanh niên.

Những cặp mắt khắp Việt Nam, khắp năm châu, đang đổ dồn vào các người.

Hãy một lần trong đời tỏ ra biết nghĩ, biết cảm xúc, biết lo cho tương lai của những con những cháu những chắt nhà các người!

Hãy ra lệnh ngừng giết em Lê Văn Mạnh.

Hãy làm người!

Phạm Toàn

Hỡi các nhà lãnh đạo,

Hãy động lòng trước tiếng kêu oan ức thống thiết của một tử tù sắp bị xử chết

Ngày 26/10/2015, tử tù Lê Văn Mạnh (trú tại xã Yên Thịnh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá) sẽ bị thi hành án tử hình với tội danh hiếp dâm, giết người.

Trong vụ án này có nhiều oan khuất chưa được làm rõ. 11 năm qua bà mẹ của tử tù đã kêu oan cho con khắp các cửa, chưa được soi xét thấu đáo. Tử tù đã viết nỗi oan ức bị tra tấn, bức cung… không nhận tội theo mớm cung thì chết! Người tử tù đã miệt mài bao ngày tháng viết những dòng chữ chi chít trên tấm áo để giãi bày nỗi oan ức của mình…

Trường hợp này cũng y như trường hợp Nguyễn Thanh Chấn: Phải nhận tội để khỏi bị tra tấn chết. Nhận rồi đi kêu oan. Ông Chấn kêu oan mãi cũng vô vọng. May kẻ thủ ác đã ra đầu thú, nếu không ông Chấn cũng bị xử chết rồi.

Các vị cần biết rằng, sau vụ oan sai của ông Chấn, những người bức cung đã bị xử lý, đền bù, thì vụ này, những người đã tra tấn, bức cung anh Lê Văn Mạnh rất lo sợ, họ muốn thi hành án càng nhanh càng tốt, cho xong mọi chuyện, để trốn tránh trách nhiệm.

Các vị cần biết rằng, đã có nhiều người chết oan ức trong tay công an rồi. Vụ em Dư mới đây đang làm nhức nhối lương tri cả xã hội. Lại đến vụ này nữa, lòng dân sao yên!

Xin các vị lãnh đạo hãy một lần lắng nghe, thấu cảm tiếng kêu oan thống thiết của một người mẹ có con sắp bị xử chết tức tưởi.

Xin các vị hãy cho dừng thi hành án lại để điều tra làm rõ những uẩn khuất của vụ án.

Bằng cương vị của mình, các vị hãy ra lệnh hoãn thi hành án anh Mạnh để điều tra cho rõ. Hãy cứu lấy một mạng người có thể bị chết oan.

Mạc Văn Trang

TRÍCH ĐƠN KÊU OAN CỦA TỬ TÙ LÊ VĂN MẠNH

(Nguyên văn từ lá thư và chiếc áo của tử tù Lê Văn Mạnh nhờ bạn tù gửi ra)

Trịnh Bá Phương

23-10-2015

clip_image002

Mặc dù chúng tôi đang phải mang trên mình nỗi oan quá lớn này và chúng tôi luôn tin tưởng rằng, không có nỗi oan nào là không được minh oan dưới sự công bằng của pháp luật cả. Vấn đề chỉ là thời gian bao lâu mà thôi, nhưng nhất định sẽ có ngày tôi được minh oan.

Dù tôi còn sống hay đã chết, tôi và gia đình tôi sẽ kêu nỗi oan này cho đến hơi thở cuối cùng, cho tới khi chúng tôi được minh oan mới thôi. Vì tôi bị chết oan thực sự và gia đình tôi biết rõ điều đó, đối với cuộc đời của tôi đến bây giờ đã chấm hết tất cả, bằng những bản án đầy bất công, mà trên cuộc đời này có còn nỗi oan trái nào, và sự bất công nào, và nỗi đau nào trên cuộc đời lớn hơn những gì tôi và gia đình tôi đang phải gánh chịu một cách đầy oan ức, oan sai và đầy bất công này không?

Gia đình tôi tan nát, vợ tôi chán đời bỏ đi để lại hai đứa con thơ dại của tôi bơ vơ không cha không mẹ. Phải sống nhờ hai bên gia đình nội ngoại, mỗi đứa một phương trời đã không có cha có mẹ như những chúng bạn cùng trang lứa, hai anh em chúng lại không được ở cùng nhau. Tuy rằng bản thân tôi đang phải sống trong môi trường biệt giam tù đầy và cùm kẹp suốt ngày đêm, nhưng đó cũng chỉ là nỗi đau buồn của thể xác, chứ làm sao bằng được nỗi xót thương của các con khi mà phận làm cha như tôi không thể đem lại cho các con tôi một mái nhà hạnh phúc, đầy tình yêu thương, không nuôi dạy các con thành người, không lo được cho chúng một cuộc sống ấm no bằng bạn, bằng bè cũng trang lứa.

clip_image004

Phận làm con như tôi không một ngày phụng dưỡng cha mẹ mà còn bắt tất cả mọi người mang theo tôi một nỗi oan quá lớn này. Tất cả cũng chỉ vì nỗi oan này, vì sự bất công của pháp luật đã đem tôi đến và bắt tôi phải gánh chịu, và vì cái gọi là thành tích phá án của cơ quan điều tra đã đẩy tôi, toàn bộ gia đình tôi, dòng họ tôi vào nỗi oan nhục này.

Tôi biết rằng vì cái đau đớn của xác thịt khi bị đánh đập tra tấn tôi dã man để ép cung mà tôi không thể chịu đựng nổi cái đau đớn xác thịt đó để rồi tôi phải đi nhận nỗi oan vào người, phải nhận cái tội lỗi mà tôi không hề gây ra vào người theo lời mớm cung của điều tra viên, tôi biết đó là cái sai lầm lớn nhất của cuộc đời mình, và tôi cũng đã cố gắng hết sức mình để sửa lại cái sai này, nhưng tất cả mọi sự cố gắng của tôi và gia đình tôi đều trở nên vô vọng bằng những bản án quá bất công và khi tôi nhận được công văn trả lời của toà án nhân dân tối cao đã bác bỏ lá đơn xin giám đốc thẩm của tôi thì tất cả mọi niềm tin sau cuối của tôi đều sụp đổ hoàn toàn, bởi những quyết định quá bất công của các cấp có thẩm quyền, thực sự giờ đây tôi quá chán nản và suy sụp hoàn toàn, và tinh thần khủng hoảng nặng nề về tư tưởng, khi mà niềm tin vào công lý về sự công bằng của pháp luật sau cùng của tôi bị tước đoạt nốt đi.

Trong những ngày vừa qua tôi cũng chẳng ăn uống được gì, ngày hôm nay tôi cố gắng lắm mới có thể viết lên lời kêu oan thống thiết này, để trình lên ông chánh án toà án nhân dân tối cao, và cầu xin ông hãy soi xét cho mỗi oan này của tôi. Tôi biết khi toà án nhân dân tối cao bác đơn xin giám đốc thẩm của tôi thì tất cả đối với tôi đã hết, lúc này tôi chỉ còn biết rằng tôi bị chết một cách đầy oan ức, và đang phải gánh chịu tất cả những nỗi bất công của pháp luật.

clip_image006

Tôi chỉ biết rằng mình bị chết oan, và tôi sẽ cố gắng kêu nỗi oan này của tôi cho đến hơi thở cuối cùng của cuộc đời mình, còn các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước có giải quyết cho tôi hay không, hay giải quyết như thế nào thì đó là quyền hạn và trách nhiệm của họ. Còn tôi bị chết oan thì tôi phải kêu oan cho đến hơi thở cuối cùng, và khi tôi bị chết đi thì gia đình tôi sẽ tiếp tục kêu oan cho tôi, vì trong xã hội này mọi người đều phải tôn trọng pháp luật, sống và làm theo pháp luật, pháp luật làm đúng thì tôi và gia đình tôi được hưởng đúng và được minh oan. Pháp luật làm sai thì gia đình tôi phải chịu sai, và tôi phải chịu chết oan.

Suy cho cùng sống ở trên đời này ai mà không một lần phải chết, còn sống làm sao để hơn đời một cái tâm mới là cao quý. Còn tôi không gây nên tội lỗi cho cháu Loan nên tôi không có gì phải hổ thẹn với linh hồn của cháu Loan khi gặp nhau nơi chín suối cả và không có gì có thể làm tôi run sợ cả, kể cả cái chết, sống làm sao cho tâm hồn mình thanh thản, sống làm sao để không phải hổ thẹn với lương tâm của mình là được. Tôi còn sống ngày nào tôi sẽ cố gắng sống làm sao cho tốt cho bản thân, với anh em bạn bè đồng phạm đến giây phút cuối cùng, để không ai có thể trách tôi được một điều gì, để gia đình tôi, các con tôi bớt phần lo lắng cho tôi và cố gắng kêu oan cho đến hơi thở cuối cùng, còn được đến đâu thì đến, còn lại gia đình tôi sẽ giúp tôi tiếp tục kêu oan đến cùng, còn lúc nào pháp luật và nhà nước bắt tôi phải chết đưa tôi đi giết một cách oan ức thì tôi cũng hiên ngang đón nhận như một phần tất yếu của cuộc đời phải đến thôi.

clip_image008

Cuộc đời này cũng có còn nỗi đau đớn oan sai và bất công nào hơn tôi nữa không. Tất cả chỉ vì tôi được đẩy ra để làm vật thí mạng, để nhận thay tội cho một kẻ sát nhân, bệnh hoạn nào đó, và vì cái gọi là thành tích phá án của cơ quan điều tra công an tỉnh Thanh Hoá. Tôi không gây nên tội lỗi cho cháu Loan và gia đình tôi biết rõ điều đó cho nên từ trước đến giờ gia đình tôi không hề đền bù cho gia đình cháu Loan. Bởi không ai lại đền tiền cho một người khác khi mà họ biết rõ con họ không gây nên tội lỗi.

***

Kính thưa ông chánh án toà án nhân dân tối cao, nỗi oan này của tôi là có thật hoàn toàn.
Tôi khóc để máu mắt trình lên chánh án toà án nhân dân tối cao những lời kêu oan thống thiết này, cầu xin ông chánh án toà án nhân dân tối cao soi xét cho nỗi oan của tôi và cho thụ lý lại vụ án của cháu Hoàng Thị Loan để điều tra làm sáng tỏ vụ án, bắt đúng người đã gây nên tội lỗi với cháu Loan. Xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan làm sai cho ai cả, trả lại sự công bằng cho tôi được minh oan, để pháp luật luôn là chỗ dựa cho nhân dân và xã hội, để nêu cao tính công bằng và nghiêm minh cho pháp luật.

Tôi xin cam đoan những lời kêu oan thống thiết này của tôi để trình lên ông chánh án toà án nhân dân tối cao là sự thật, nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trước pháp luật. Tôi xin chân thành cảm ơn ông chánh án toà án nhân dân tối cao đã xem xét cho lời kêu oan thống thiết này của tôi.

Lời khẩn cầu kêu oan của người làm đơn.

Lê Văn Mạnh

Nguồn: https://www.facebook.com/trinhbaphuong.trinhba/posts/1634944223433941

__________

Khẩn: Chiếc áo kêu oan của người tử tù

Bạch Cúc

22-10-2015

clip_image010

Chiếc áo kêu oan của tử tù Lê Văn Mạnh. Ảnh: FB Nguyễn Đức Giang

Chiếc áo của người tử tù, chằng chịt những lời kêu cứu oan khuất, được một người bạn tù lén gửi cho gia đình theo ngả thăm nuôi, nhờ đưa về cho người mẹ già.

Người mẹ ấy suốt 11 năm ròng lang thang kêu cầu công lý nhưng vô vọng…

Chỉ còn 3 ngày nữa thôi, có còn kịp không? Ngày 26/10/2015, tử tù Lê Văn Mạnh (trú tại xã Yên Thịnh huyện Yên Định tỉnh Thanh Hoá) sẽ bị thi hành án tử hình với tội danh hiếp dâm giết người.

Bà Nguyễn Thị Việt (mẹ tử tù) cho hay:

– Anh Mạnh bị công an đánh chết đi sống lại, bị ngất và bị tạt nước vào mặt cho tỉnh, thòng lọng cổ treo lên đánh tiếp, anh Mạnh sợ chết nên phải khai nhận… Mạnh bị bịt mặt nên không thể nhận ra người tra tấn ép cung mình.

– Anh Mạnh có chứng cứ ngoại phạm: nhân chứng khẳng định ngày nạn nhân chết anh Mạnh ở nhà em gái phụ giúp chuyển đồ, nhưng tòa đã bác bỏ.

– Luật sư Việt Hoa ở Thanh Hóa, bào chữa cho Mạnh tại phiên tòa Sơ thẩm đã bị đình chỉ hành nghề một năm sau đó. Tại phiên tòa Phúc thẩm, Mạnh tự bào chữa cho mình vì trước đó đã từ chối Luật sư do tòa chỉ định.

Công lý trong trái tim mỗi người, xin cộng đồng hãy cùng lên tiếng, chia sẻ thông tin để hy vọng cứu được một mạng người!

clip_image011

clip_image012

clip_image013

clip_image014

Các bạn có thể tham khảo thêm thông tin tại đây:

– Cô Nguyễn Thị Việt kể về anh Lê Văn Mạnh bị ép cung đánh đập:

Bà Nguyễn Thị Việt Cùng dân oan 3 miền kêu cứu Đài Truyền Hình Đưa Tin về sự oan ức của mình (FB Dương Văn Tuyến).

B.C.

Nguồn: https://www.facebook.com/Bachcuc.kimchi?pnref=story

__________

Chúng ta đang sống trong một xã hội vô lương và mất nhân tính!

Bạch Cúc

Xã hội, văn hóa xã hội được định hình và phát triển ra sao một phần tùy thuộc vào thể chế chính trị điều hành và tác động vào nó.

Một thể chế chính trị văn minh và nhân văn thì sẽ tạo ra một xã hội bình đẳng, văn minh và nhân văn. Người ta có thể nhận diện, đánh giá chung một xã hội dựa trên những hành động, lời nói và cách đối nhân xử thế giữa người với người, giữa người với vật trong xã hội đó. Còn với một thể chế chính trị độc tài, tàn ác thì cái xã hội theo sau nó chắc chắn cũng tỉ lệ thuận với các “thuộc tính” này.

Bạn thấy Xã Hội Việt Nam ngày nay ra sao, thế nào? Có đáng để chúng ta trăn trở, xót xa và suy gẫm…?

Quay ngược trở lại khoảng mười mấy hai mươi năm trở về trước. Lúc ấy, chỉ cần nghe có tin “giết người, chết người” là hầu hết dân chúng đều bàng hoàng, ngạc nhiên lẫn phẫn nộ… Nhưng ngày nay, người với người có thể giết hại lẫn nhau một cách quá đơn giản và nhanh chóng. Hoặc, con người gặp vô số cái chết đến quá bất ngờ với đủ loại lý do khiến cho dân tình chẳng còn thấy lạ lẫm, để mà ngạc nhiên hay bàng hoàng nữa…

Người ta có thể giết chết nhau chỉ bởi do một ánh mắt, một lời nói…

Người ta có thể dễ dàng dùng “Pháp luật” để bắt bớ và cầm tù nhanh chóng những người dám lên tiếng vì chính nghĩa;

Chẳng ở nơi nào trên thế giới mà khẩu hiệu “Độc lập, tự do, hạnh phúc” được nhắc nhiều như vậy nhưng lại bị “vi phạm nghiêm trọng” như vậy!…

Bỏ qua thời kỳ chiến tranh, bạn có đồng ý với tôi rằng chưa bao giờ tính mạng người Việt lại có thể rẻ mạt đến như vậy?

Hằng hà sa số những cái chết oan ức ngoài đường do tai nạn xe cộ;

Hàng triệu bệnh nhân nơm nớp đau đớn chờ đến ngày giã biệt cuộc sống vì căn bệnh ung thư do thuốc độc từ môi trường sống lẫn thực phẩm;

Sản phụ đi sinh nở cũng chết ngang xương vì sự tắc trách của bệnh viện;

Trẻ em chết oan đơn giản và hàng loạt sau khi được tiêm chủng;

Đặc biệt, bạn có ngạc nhiên không khi chưa thấy ở nơi đâu giống như Việt Nam, nơi mà người dân chỉ cần bị bắt nhốt vào đồn Công an là bỗng dưng lăn đùng ra chết rồi được thông báo là họ tình nguyện “tự tử chết”!

Chúng ta đang sống ở một nơi nào vậy? Một thiên đường XHCN nhưng tìm mãi không thể thấy những giá trị nhân văn cơ bản nhất. Chúng ta đang sống ở một xã hội mà Lòng Tự Trọng và Sự Xấu Hổ chỉ được xem như điều xa xỉ!

Những người lẽ ra phải bảo vệ đất nước và bảo vệ nhân dân thì lại là những người bán rẻ đất nước và làm hại nhân dân;

Những người được trao trách nhiệm thi hành “công vụ” lại trở thành kẻ cướp ngang nhiên trấn lột dân chúng ngày đêm ngoài đường;

Những người có chức to thì ăn to, chức nhỏ thì ăn nhỏ và họ có thể ăn bất cứ thứ gì từ gạch cát, xi măng cho đến hố xí và cả tiền cứu trợ…

Xã hội này đang xây dựng giá trị con người bằng những điều gì vậy? Phải chăng là bằng đồng tiền, bằng quyền lực và cả bằng sự vô lương và mất nhân tính!

Tôi chẳng thể quên những năm tháng làm Quản giáo tại một trại cai nghiện. Dù chỉ là quãng thời gian ngắn ngủi nhưng hiện thực ở “xã hội thu nhỏ” đó đã biến đổi tôi hoàn toàn, và tôi mang theo những ký ức trăn trở đó làm hành trang để buộc mình phải có một lối sống khác và có cách nhìn khác về chế độ, về xã hội mà tôi đang sinh sống.
Bạn sẽ khó có thể hình dung được sự thật, nếu như bạn chưa từng được “trải nghiệm” để có thể hiểu một cuộc sống tù đày là thế nào? Nơi tôi làm việc trước kia chắc chắn không thể khắc nghiệt bằng những trại tù, nhưng cũng đủ khiến tôi phải “kinh hoàng” nhận ra: ở xã hội này người ta có thể dễ dàng tước đi những quyền sống cơ bản nhất của một con người, huống chi là trong một môi trường lao tù thật sự!

Bạn có thấy bất nhẫn không khi thấy người ta hành hạ súc vật? Vậy bạn thế nào, cảm xúc của bạn ra sao khi biết có những anh em chung dòng máu Việt của bạn đang bị người ta ngược đãi, đối xử ác độc còn tệ hơn cả súc vật. Tôi buộc phải nói rằng những người đang “hành xử” như vậy là những người có cách sống vô lương và mất nhân tính nhất! Tôi đau xót và không thể lý giải tại sao?

Tại sao cùng là con người, cùng là những đứa con được sinh ra trên một miền đất mẹ mà người ta có thễ nhẫn tâm tàn hại và hành hạ lẫn nhau như vậy?

Tại sao người ta có thể dửng dưng, im lặng và quay lưng trước lời khẩn cầu và kêu cứu của người khác?

Bạn ơi, Xã hội này sẽ ra sao? Thế giới này sẽ ra sao khi loài người đánh mất Tình Thương và lòng Trắc Ẩn?

Xin bạn hãy cùng tôi gửi một thông điệp, xin hãy chia sẻ và đồng hành với những “Người Khốn Khổ” – những “Tù Nhân Lương Tâm” đang trong song sắt nhà tù để đòi quyền được sống và quyền tự do cho họ.

Làm ơn hãy:

“CHIA SẺ, ĐỒNG HÀNH VỚI KHÁT VỌNG SỐNG, KHÁT VỌNG TỰ DO CỦA NHỮNG TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM VÔ TỘI!”

B.C.

Nguồn: https://www.facebook.com/Bachcuc.kimchi?pnref=story

__________

Chỉ còn mấy chục giờ nữa!

Nguyễn Đức Giang

22-10-2015

Em Lê Văn Mạnh bị Toà án tỉnh Thanh Hóa KẾT ÁN TỬ HÌNH vào ngày 26/10/2015 với tội danh “hiếp dâm & giết người”.

Bản án có nhiều điều khuất tất, chứng cứ em ngoại phạm (lúc đó có nhiều nhân chứng thấy em dọn đồ cho gia đình), Viện Kiểm sát cũng yêu cầu giám đốc thẩm vụ án, 11 năm nay mẹ em Mạnh là chị Nguyễn Thị Việt đi kêu oan cho con trai nhiều nơi, với 6 lần xét xử…, nhưng ” quả bóng ” trách nhiệm của các cơ quan luật pháp đã đùn đẩy, từ địa phương đến trung ương, không giải quyết.

Nhà chị Việt là một gia đình thuần nông, nghèo khó, không có tiền để thuê luật sư, khi biết tin con trai Lê Văn Mạnh sẽ bị tử hình vào ngày 26/10/2015, thứ hai, chị mới lo sợ chạy ra HN, kêu cứu các cơ quan pháp luật của trung ương, của Quốc hội, của Chủ tịch nước và sự chung tay của những người dân sống ở HN, giúp chị kêu oan cho con!

Kính mong sự quan tâm của cộng đồng, đồng hành, đoàn kết cùng gia đình chị Nguyễn Thị Việt cứu lấy con trai Lê Văn Mạnh! Gấp lắm rồi bà con ơi!

clip_image015

clip_image016

clip_image017

clip_image018

N.Đ.G.

Nguồn: https://www.facebook.com/giang.nguyenduc/posts/863869573729223

__________

Chúng tôi yêu cầu

CLB Nhà báo Tự Do

Chúng tôi YÊU CẦU nhà cầm quyền CSVN đình chỉ ngay lập tức vụ án Lê Văn Mạnh. Cho tiến hành mọi thủ tục tố tụng, tranh tụng lại từ đầu nhằm hạn chế sẽ xử tử oan một sinh mạng con người.

Bởi vì :

Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Lê Văn Mạnh phạm tội “Giết người”, “Hiếp dâm” và “Cướp tài sản” Số hiệu 14/2007/HS-GĐT ghi rõ:

“1. Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 756/2006/HSPT ngày 26-7-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án hình sự sơ thẩm số 61/2006/HSST ngày 13-3-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa;

2. Giao hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung;

3. Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Văn Mạnh cho đến khi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý lại vụ án.

Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

Trong lời khai nhận tội của bị cáo có nhiều mâu thuẫn và thiếu thống nhất nhưng chưa được điều tra làm rõ, vì vậy cần phải điều tra lại”.

Như vậy, vụ án có nhiều tình tiết khuất tất chưa được làm rõ. Giết một mạng người là điều rất nghiêm trọng.

Bà Nguyễn Thị Việt, mẹ của tử tù Lê Văn Mạnh ra Hà nội mang biểu ngữ kêu oan cho con trai ngày 22/10/15 đã bị nhân viên công quyền cướp biểu ngữ.

Theo thông báo mới đây Ngày 26/10/15 con trai bà Việt sẽ bị tử hình.

Rất mong cộng đồng lên tiếng để cứu một mạng người khỏi bị chết oan uổng.

C.L.B.N.B.T.D.

Nguồn: https://www.facebook.com/caulacbonhabaotudo

clip_image019clip_image020clip_image021clip_image022

99.9% xảy ra động đất lớn vùng Los Angeles trong 3 năm tới

99.9% xảy ra động đất lớn vùng Los Angeles trong 3 năm tới
Nguoi-viet.com

LOS ANGELES, California (AP)Có tới 99.9% là sẽ có trận động đất ở mức 5.0 Richter hay cao hơn trong vòng ba năm tới ở khu vực Los Angeles, nơi một trận động đất tương tự đã gây thiệt hại khoảng hơn $12 triệu hồi năm ngoái, theo một cuộc nghiên cứu của NASA và giới nghiên cứu trong đại học.


Một cuộc diễn tập chống động đất tại California hồi năm 2014. (Hình: Mark Ralston/AFP/Getty Images)

Kết quả cuộc nghiên cứu được công bố hôm Thứ Ba đã dựa trên đo đạc của hệ thống định vị GPS và radar đặt trên phi cơ về sự thay đổi trên vỏ ngoài của trái đất sau trận động đất 5.1 Richter hôm 28 Tháng Ba năm 2014 tại thành phố La Habra, nằm cách trung tâm Los Angeles chừng 20 miles (khoảng 32 km) về phía Ðông Nam. Trận động đất này gây một số thiệt hại, kể cả làm bể đường ống dẫn nước và nứt vỉa hè.

Vào năm 1994, một trận động đất khoảng 6.7 Richter, xảy ra ở thành phố Northridge, nằm về phía Bắc Los Angeles gây thiệt hại trị giá $25 tỉ, với hàng chục người thiệt mạng và khoảng 9,000 người bị thương.

Cuộc nghiên cứu xem xét khu vực bán kính khoảng 62 miles quanh tâm địa chấn ở La Habra. Các nhà nghiên cứu quan sát sự chuyển động của mặt đất, xem xét việc không có các trận động đất xảy ra lâu nay và tính toán sức nén của các đường nứt chưa được xả bớt.

Kết quả nghiên cứu cho thấy một trận động đất vào khoảng 5.0 Richter là điều rất có thể xảy ra từ nay tới ngày 1 Tháng Tư 2018, động đất ở mức 6.0 Richter hay mạnh hơn được cho biết là chỉ vào khoảng 35% và mức độ cao nhất lên tới khoảng 6.3 Richter.

Người đứng đầu cuộc nghiên cứu, nhà vật lý học địa chất Andrea Donnellan tại cơ quan Jet Propulsion Laboratory của NASA, cho hay đây không phải là sự tiên đoán mà là một xác suất của điều có thể xảy ra theo sự tính toán của họ.

Tham dự vào cuộc nghiên cứu của NASA có các khoa học gia từ các trường University of California, Irvine; Indiana University, Bloomington; UC Davis; và University of Nevada, Reno. (V.Giang)

Hành động của viên cảnh sát Mỹ đang gây xôn xao toàn dư luận nước này.

Hành động của viên cảnh sát Mỹ đang gây xôn xao toàn dư luận nước này.

Nhiệm vụ của viên cảnh sát này là sẽ viết giấy phạt cho các xe vi phạm bị bắt gặp trên đường! Và anh vẫn làm tốt nhiệm vụ của mình! Nhưng sẽ chẳng có gì đáng nói nếu không có hành động đằng sau tờ giấy phạt đó!

Theo kênh truyền hình CBS của Mỹ, một viên cảnh sát ở thành phố Plano, Texas sau khi viết xong vé phạt cho một người đàn ông trẻ tuổi đã lặng lẽ kẹp một tờ tiền 100 USD để trợ giúp anh ta nuôi con.

Hayden Carlo 25 tuổi sinh sống tại thành phố Plano, bang Texas, Mỹ có cuộc sống khó khăn và còn phải nuôi con nhỏ, vì không có tiền đi đăng ký xe ô tô nên đã để quá thời hạn đăng ký. Nhưng vì để kiếm tiền nên anh ta vẫn phải lái xe đi làm, kết quả đã bị một viên cảnh sát chặn lại bên đường.

Khi bị chặn lại, Hayden Carlo đã trình bày khó khăn của mình với viên cảnh sát. Viên cảnh sát này nghe xong nhưng cũng không vì thế mà thay đổi quyết định, anh ta vẫn viết một vé phạt cho Hayden. Khi Hayden Carlo tiếp nhận vé phạt này mới phát hiện ở bên trong tấm vé có kẹp thêm một tờ tiền mặt 100 USD.

Hayden đã bị sốc và vô cùng cảm động. Khi anh quay đầu lại nhìn thì phát hiện viên cảnh sát đã lặng lẽ rời đi. Một viên cảnh sát tại thành phố Plano đã chia sẻ: “Viên cảnh sát này đã làm đúng, nhưng chúng tôi hy vọng đây là việc riêng nên không phải tiết lộ tên của anh ấy.”

Sau khi thông tin này được đăng tải trên mạng, nó trở thành một chủ đề nóng của cư dân mạng và truyền thông.

Có người viết: “Thật bất ngờ! Tự nhiên mình cũng muốn bị phạt…”

Một người khác viết: “Một vé phạt 0 đồng kẹp một tờ tiền 100 USD, sự tôn nghiêm của pháp luật và sự ấm áp của tình người! Thật cảm động! Một chế độ tốt để nhân cách con người không ngừng thiện.”

Một cư dân mạng có nickname là Lisboa viết: “Tại sao tôi vẫn luôn được giáo dục rằng chế độ tư bản là một bóng đen hắc ám, là cần lên án phê bình mà lại có viên cảnh sát như vậy? Còn ở Trung Quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa mà luôn được cho là tốt thì lại rất ít gặp những cảnh tượng này? Rốt cuộc tình yêu thương là đến từ nơi nào?”

Nhiệm vụ của viên cảnh sát này là sẽ viết giấy phạt cho các xe vi phạm bị bắt gặp trên đường! Và anh vẫn làm tốt nhiệm vụ của mình! Nhưng sẽ chẳng có gì đáng nói nếu không có hành động đằng sau tờ giấy phạt đó!

H.O. ÔNG LÀ AI?

H.O. ÔNG LÀ AI?

(Viết để chào mừng Đại Hội 25 năm H.O. sắp tổ chức tại Westminster.)

Chu Tất Tiến

(Một nhóm chữ tắt gây nhiều tranh cãi nhất đã được phổ biến vào đầu năm 1990: H.O.

Có người cho là Human Operation, người khác lại cho là Human Objects! Một  giới chức chuyên về thủ tục bảo lãnh, di trú thì quả quyết rằng đó chỉ là thứ tự trong chương trình Orderly Departure Program (Ra Đi có trật tự) mà thôi, khi đến nhóm những người tù cải tạo trên 3 năm, thì bất ngờ đến danh sách có chữ H. ở đầu, rồi người ta cho con số 0 tiếp theo ngay đó, để rồi nhiều người lầm lẫn gọi là H.O (Hát Ô). Mãi đến sau này, một người bạn cho xem lá thư của tướng Vessey, người tham gia vào kế hoạch này, mới biết: “H.O”. là viết tắt của hai chữ “Humanitarian Operation” (Chiến dịch Nhân đạo).

Chiến dịch này là gì?

Năm 1982, Nguyễn Cơ Thạch, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Cộng Sản Việt Nam đề nghị với Hoa Kỳ là sẽ trao cho Hoa Kỳ tất cả những tù nhân chính trị đã từng bị giam giữ từ năm 1975. Đề nghị này đã không được Hoa Kỳ chấp nhận ngay vì nghi ngờ thiện chí của Cộng Sản, đồng thời cũng e ngại rằng Cộng Sản Việt Nam sẽ trà trộn những gián điệp vào trong nhóm những người được sang Mỹ.

Đến tháng 5 năm 1985, Phạm Văn Đồng lại tái đề nghị vấn đề này. Tổng Thống Ronald Reagan, sau khi xem xét vấn đề một cách kỹ lưỡng, đã chấp thuận trên nguyên tắc là sẽ nhận tất cả những sĩ quan, viên chức thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa, từng bị tù đầy dưới chế độ Cộng Sản. Từ đó, ông đã giao cho Bộ Ngoại Giao lo tiếp xúc với Hà Nội để xúc tiến việc này. Ông Funseth, Phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ được giao nhiệm vụ quan trọng này.

Sau khi Tổng Thống Reagan bật đèn xanh, thì dư luận Mỹ ủng hộ nồng nhiệt. Ông Paul D. Wolfowitz, Phụ Tá Ngoại Trưởng về vấn đề Đông Nam Á Châu và Pacific, nói: “Cá nhân tôi nghĩ rằng không ai xứng đáng được vào Hoa Kỳ dưới diện tị nạn hơn là những ai từng bị đầy đọa trong tù chỉ vì có liên lạc với chúng tôi. Đón nhận việc thả tù chính trị là một trong các mục đích quan trọng nhất của chương trình Tị Nạn của người Mỹ.”

Nhiều tờ báo Mỹ hoan hô việc này và nói: “Chúng tôi không thể hình dung ra được giây phút hạnh phút nhất của người Mỹ chúng tôi khi chúng tôi đón nhận nhóm cựu tù chính trị đầu tiên vào nước Mỹ.”

Dân biểu Robert Dornan thuộc Garden Grove, thì mong viếng thăm Hà Nội với một phái đoàn Mỹ để tìm thêm tin tức về những người Mỹ mất tích trong chiến tranh cũng như để áp lực Cộng Sản thả hết tù nhân chính trị.

Trong khi đó, thì cộng đồng Việt Nam trên toàn nước Mỹ hân hoan đón nhận tin này. Đặc biệt, bà Khúc Minh Thơ là người đã kiên trì đi tìm danh sách các quân nhân, viên chức Việt Nam Cộng Hòa từng bị tù đầy để nộp lên Bộ Ngoại Giao. Nhóm bà Khúc Minh Thơ làm việc không nghỉ để tìm cho ra mọi tên tuổi của cựu tù chính trị, và mong không thiếu sót một ai. Sau khi các cuộc thương lượng đạt được kết quả khá quan qua sự liên lạc như thoi đưa giữa cộng đống Việt và chính quyền Mỹ, thủ tục lo cho nhập cảnh vào nước Mỹ, vấn đề ăn ở của người Việt mới sang, được giao cho Cơ Quan Di Trú Tị Nạn để lo liệu. Cơ quan này, đặc biệt vô cùng, là được điều khiển bởi ông Tổng Giám Đốc người Việt Nam: Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hạnh, cho nên việc di chuyển bằng máy bay,  ăn ở, trợ cấp, thuốc men, được  tiến hành chu đáo. Nói tóm lại , đây là một trục hình tam giác. Bà Khúc Minh Thơ lo tìm hồ sơ, danh sách người tù, giao cho ông Funseth, người liên lạc với Cộng Sản, sau khi mọi chuyện xong xuôi, thì bàn giao cho cơ quan Di Trú, Tị Nạn để nơi đây lo các thủ tục di chuyển và hành chánh sau đó cho người tị nạn.

Từ đó, danh xưng “chương trình H.O.” ra đời. Ngày 5 tháng 1 năm 1990, chuyến phi cơ đầu tiên cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất đưa nhóm H.O. 1 đầu tiên sang Bangkok, để nơi đây làm trạm trung chuyển, phân phối người đi các tiểu bang, tùy theo có thân nhân bảo lãnh hay không. Nếu có thân nhân ở đâu, thì sẽ có máy bay đưa đến đó. Đa số “dân H.O. 1” đều có thân nhân bảo lãnh nên những ngày đầu tiên ở nước Mỹ có phần dễ thở hơn là những người không có thân nhân, bạn bè. Sau môt thời gian định cư tại Mỹ, để tìm hiểu đời sống của “dân H.O.”, cá nhân tôi đã thực hiện một số cuộc phỏng vấn với một số chiến hữu đi theo diện H.O. như sau:

Ngày đầu tiên đến thăm anh Bực, một chiến sĩ Biệt Động, vì không có thân nhân họ hàng chi cả, nên được một gia đình Mỹ bảo lãnh qua New York. Tại đây, vì lạnh quá, hai đứa con anh cứ chẩy máu mũi hoài, chịu không nổi, anh ngỏ ý muốn về California để có khí hậu tốt hơn, thì bạn bè và ông Sponsor cho tiền anh mua vé xe buýt về Quận Cam. Tới nơi, được một người bạn cho “share” cái gara, không giường, chỉ có mấy cái nệm rách. Người viết đến thăm, thấy những cặp mắt ngơ ngác đang ngồi co gối trên nệm nhìn lên. Hỏi chuyện, anh Bực cho biết:

-Hôm qua, hai đứa con tôi vẫn chảy máu mũi. Tôi dắt vợ và cõng con đi dọc đường Bôn Xa, thấy phòng mạch nào của Viêt Nam cũng gõ cửa, xin giúp cho con tôi ngưng chẩy máu mũi, nhưng không ông bà nào thèm rớ tới. Họ còn nhăn mặt, nhìn chúng tôi như nhìn những con khỉ trong sở Thú ấy…

Ngao ngán, thở dài. Người viết cũng không biết làm gì hơn là gọi đến một anh bác sĩ quen, nhờ giúp. Anh bạn Lương Y như Từ Mẫu này mau mắn nhận lời và giục anh Bực dẫn con đến khám gấp.

Sau khi từ giã anh Bực, đến thăm anh Nghĩa, thì anh độp ngay một câu hỏi:

-Này, anh có rành về luật không? Cho tôi hỏi về chuyện li dị được không?

-Sao vậy? Anh chị định chia tay nhau hay sao?

-Không phải tôi! Mà vợ tôi. Từ hôm sang đây, tôi cứ cắm đầu cắm cổ đi làm, thử mấy nghề với mấy anh bạn, nhưng cũng chưa đi đến đâu. Xe thì không có. Tôi đi xe buýt. Tự dưng, cô ấy cứ nằng nặc đòi ly dị. Nghe đâu, lúc cô ấy được bạn dẫn đi chơi, tới nhà bạn, gặp môt thằng Tếch Ních Xân nào đó dụ dỗ, thế là cô ấy cứ đòi bỏ tôi. Tôi nhất định không ký. Không biết có sao không? Trường hợp tôi không chịu, không biết tòa có xử cho cô ấy thắng kiện không?

-Thế ý anh thì sao?

-Tôi cũng không tha thiết lắm. Người ta không ưa mình nữa, thì giữ cũng chả ích gì. Tôi chỉ muốn cô ấy ở lại cho đến khi tôi học xong, tôi có đủ phương tiện nuôi con, lúc ấy cô ấy muốn đi đâu thì đi.

-Nguyên nhân làm sao mà chị ấy lại cứ đòi chia tay?

-Thì .. tại tôi khố rách áo ôm, không tương lai, không job, cô ấy chán!

Nghe hỏi, mà người viết cũng chẳng biết cố vấn ra sao, chỉ biết khuyên anh bạn cố nhẫn nhịn, giải thích cho vợ hiểu về tình mẹ con, may ra đánh động được tình cảm mẫu tử của người mẹ mà chấp nhận thêm một thời gian.

Trường hợp cựu Đại Úy Phong thì bi đát hơn. Khi còn ở tù Việt Nam, bà vợ đã lăng nhăng rồi. Sau khi anh về được vài tháng thì bà vợ bỏ đi với người khác. Nhưng đến lúc nghe nói anh chồng cũ sắp đi H.O., thì chạy về, năn nỉ xin cho đi theo. Nghĩ tình xưa nghĩa cũ, anh bỏ qua mọi việc và làm giấy tờ cho bà vợ đi. Những tưởng sang Mỹ thì bà ấy thay đổi, ai ngờ, chỉ có 3 ngày thôi, sáng thứ 4, anh ngủ dậy, không thấy vợ đâu, ngoài một tờ thư nhỏ: “Xin lỗi anh nhé. Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi!” Hóa ra, trong 3 ngày mới chân ướt chân ráo, bà ấy đã liên lạc được với một người tình cũ, và sáng ngày thứ 4 thì người tình mang 4 ngựa đến rước nàng về dinh mới…

Anh Hùng, có tên trong trại là “Hùng Rống” vì hát rất khỏe, lại gặp cảnh oan trái khác.

Khi đến phi trường, ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ muốn xỉu, cũng chẳng thấy ai đến rước. Mãi đến tối, mới thấy ông con trai lái xe BMW đến, nhìn anh cũng chẳng chút tình cảm bố con nào, tửng tửng nói:

-Má không đến đón ba được. Má lấy chồng rồi. Má bảo lãnh cho ba để trả ơn thôi, con sẽ đưa ba về ở tạm nhà má rồi kiếm nhà khác cho ba ở.

Anh Hùng bàng hoàng đi theo con ra xe. Đến nơi, anh định nhấc chiếc va li lên để vào trong thùng xe, ông con giơ tay cản lại:

-Ba! Cẩn thận! Chiếc xe BM này con mới mua, ba đừng làm trầy!

Nỗi giận muốn bùng lên, nhưng vì đã tù bao năm, chịu đựng quen rồi, anh cố ráng khéo léo để lọt chiếc vali vào thùng xe mà không chạm đến chỗ nào… Chiếc xe lao đi vun vút. Ông con trai, đã gần 20 thong thả cho bố hay là “mẹ con vượt biên sang đây, nghèo khổ, nếu không có ông Dượng thì đã tiêu tùng. Ông Dượng cưu mang tụi con, cho đi học, chỗ ăn ở đàng hoàng, nên má phải lấy ổng để trả ơn chứ?”

Tim Hùng đau như dao cắt. Số phận nghiệt ngã đến thế là cùng. Đến nhà, anh gặp người vợ trẻ trung tiếp anh như tiếp người khách lạ. Bà lạnh lùng nói anh là “nên ký vào Quitclaim, cho xong duyên nợ!” Anh ngẩn người ra. “Quít lem là cái gì?” Bà vợ bảo, nếu anh không hiểu thì chờ luật sư giải thích  rồi bỏ vào phòng.

Anh Hùng ngủ ở sa lông, không có liên lạc nhiều với người ngoài vì mỗi khi anh nhấc điện thoại lên, hình như ở đầu dây  bên kia cũng có tiếng lụp cụp. Có lẽ là ông chồng mới hay chính bà vợ anh nghe lén? Nhưng rồi anh cũng liên lạc được với một, hai người bạn tốt. Vì con không chịu giúp anh học lái xe, bạn anh dậy, và giúp anh đi thi. Đậu rồi, anh được bạn cho một cái xe cùi, anh lái tuốt lên New Orland kiếm việc và đi xa nơi ngạt thở này. Điều anh hận nhất là vì anh có vợ bảo lãnh, nên không nhận được trợ cấp gì cả!

Một cựu chiến sĩ khác, anh Nguyễn Xuân, cũng mệt mỏi không kém. Anh kể:

-Anh biết không? Tôi qua đây nhờ người bạn của ông cụ bảo lãnh. Vì gia đình tôi không có ai ở Mỹ cả, đành nhờ ông ấy đứng tên bảo lãnh. Đi tuốt sang Louisiana, lạnh khủng khiếp, cả hai vợ chồng phải đi làm cho ông ấy, trả nợ bảo lãnh? (Thiệt ra, có bảo lãnh trên giấy tờ thôi, còn chúng tôi đi theo diện H.O. là đương nhiên được đi mà!) Vậy mà ông ấy lừa chúng tôi. Ông có mấy cái chợ, bắt hai vợ chồng tôi đứng từ 4,5 giờ sáng chờ xe hàng chở đồ tới. Đứng ngoài cửa kho, lạnh cóng người, quần áo bịt kín hết người, chỉ trừ hai con mắt. Lạnh cóng người. Làm đến 6 giờ chiều, ông ấy không trả đồng lương nào cả, chỉ cho mỗi tuần 10 đồng, hai vợ chồng được 20 đồng. Ông ấy lại không cho tụi tôi đi xin welfare gì hết, bắt tụi tôi phải dựa hoàn toàn vào ông ấy. Ngày được 3 bữa cơm, con bỏ liều ở nhà, sông chết cũng mặc. Mấy tháng trời, tụi tôi chịu không nổi, đòi đi, ông ấy chửi cho môt trận tơi tả… Nhưng rồi, tụi tôi cũng về Cali. May mà tôi còn trẻ, còn dễ xin việc…

Vậy, nếu già rồi, thì sao?

Trung Tá Phan.., nguyên Tiểu Đoàn Trường một Tiểu Đoàn Dù lừng danh, cười cười, vỗ vai tôi:

-Này cậu! Có việc gì cho những ông già như tớ làm với? Việc gì cũng được! Rửa cầu tiêu hay cọ nhà tắm chẳng hạn. Ở nhà, không có việc gì làm, chán bỏ mẹ!

Thiếu Tá Liên, nguyên Trung Đoàn Phó Bộ Binh cũng hỏi thật tình:

-Cậu có biết ở đâu cần người làm vệ sinh không? Giới thiệu cho tớ với! Hoặc giao hàng? Delivery? Tớ coi già vậy, mà còn khỏe lắm..

Không biết trả lời sao, đành nhăn răng cười trừ: “Dạ, nếu em thấy có việc gì, em sẽ báo anh hay ngay..”

Thực tế, rất nhiều những vị Chỉ Huy ấy, đành nghiến răng chấp nhận cuộc sống mới  như một thanh niên mới lớn, chưa có khả năng đặc biệt. Một số ngồi nhà tập đạp máy may kỹ nghệ, cả hai vợ chồng cùng đạp máy. Vị nào cao tuổi hơn, không thể điều khiển cái máy kỹ nghệ, chạy nhanh cái “vèo” từ bên nọ qua bên kia thì cắt chỉ, ủi đồ. Tại mấy shop may, thường thì người ta thấy có những ông già đầu bạc, đeo kính trễ, ngồi trên sạp, cắm cúi cắt những sợi chỉ dư từ người đạp máy ra. Cuộc sống thật căng thẳng với những người đến nước Mỹ trễ tràng.

Nhưng chỉ môt thời gian ngắn, với kinh nghiệm tù đầy, với quá khứ từng chỉ huy, tính toán, đa số đã ổn định. Anh Hương, Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh, nguyên Phó Tỉnh, xoa tay:

-Tôi có người con trai, vượt biên trước từ năm 1980, nay là Kỹ Sư điện tử. Đang ở Texas, nghe tin cha mẹ mới qua tới Thái Lan, liền di chuyển về Cali, thuê môt Appartment 2 phòng khá lịch sự cho bố mẹ ở.

Anh vừa nói vửa chỉ bộ salon tươm tất, những chiếc gối nệm trắng nhã, và cánh cửa sổ mở ra đường nhìn thấy chiếc xe Nissan đời 1982 mầu xanh đậu trước cửa. Anh cho biết với tiền trợ cấp 1 năm này, anh có đủ tiền trả tiền ăn, tiền bảo hiểm, tiền nhà và các thứ linh tinh khác. Ngoài ra, còn dư chút đỉnh thì đi mua sắm vài bộ quần áo. Anh đang học thêm Anh Văn, chuẩn bị thi vào làm Cán Sự ở County. Không lo lắng cho bản thân mấy, anh chỉ lo cho bạn bè:

-Từ trước đến nay, đại đa số những người sang đây đều có người thân bảo lãnh nên tương đối, cuộc sống cũng không có gì khó khăn. Chỉ ngại cho những người đến sau, thuộc diện “con mồ côi”, không thân nhân, chắc sẽ gặp nhiều vất vả. Chính tôi, dù có người thân, mà vẫn băn khoăn không biết phải làm gì? Học gì? Nhưng người kia, không có cố vấn, họ sẽ ra sao? Que Sera Sera!

Anh Nguyễn Quách, đến Mỹ theo diện H.O 1, sau 1 năm rồi cũng còn vất vả. Anh cho biết là “nếp sống ở đây khác lạ quá, con mình mà không phải con mình, muốn nói vài điều với chúng, chúng cũng chả nghe!” Đi làm về đến nhà, mệt mỏi quá, chỉ muốn lăn ra ngủ, cho nên chẳng có tình vợ chồng, con cái gì!”

Đến thăm nhà anh, gặp chị Quách, đang túi bụi với mấy đứa cháu nhỏ giữa đống đồ đạc, đồ chơi ngổn ngang. Từng đống sách vất lăn lóc trên bàn tiếp khách. Chị Quách ngượng ngùng:

-Xin lỗi anh nhé. Anh lại bất ngờ nên không dọn kịp. Mà thật ra, muốn dọn cũng không xong. Lũ trẻ con nhà tôi cùng với mấy đứa cháu, thay phiên nhau bừa ra, dọn không xuể. Tôi phải nấu cơm cho gia đình hơn 10 người. Mọi người đi làm hết, chỉ còn có tôi, hai tay hai chân, đôi khi cứ dính vào nhau…

Cả hai anh chị cũng an phận, nhưng chỉ có điều là vì không có phòng riêng, anh chị phải ngủ trên tấm nệm góc nhà, nên đổi đến địa chỉ này cả năm rồi, mà anh chị vẫn phải nằm quay lưng lại với nhau. Anh cười đùa, ngâm nga:

-Trời sinh ra kiếp đàn ông. Nằm ngay bên vợ mà không sơ múi gì?

Trong khi đó, anh Thi lại may mắn hơn. Vừa xuống phi trường, được một Mục Sư đến đón về một apartment đã có đầy đủ tiện nghi, tủ lạnh, bộ bàn ghế salon, một tủ quần áo, 3 chiếc giường, chăn mền, quần áo, đủ thứ chả thiếu gì, lại có riêng một phòng cho hai vợ chồng. Hội Tin Lành bảo trợ làm thủ tục cho chị đi học làm Nail ngay, còn anh được đưa đến một trung tâm dậy nghề. Tương lai của anh có phần tốt đẹp.

Anh Thi, cử nhân Luật, Sĩ quan Tình Bào, khi nhắc lại những ngày đầu đi xin trợ cấp, cho biết anh có cảm tưởng như nhân viên Xã Hội không thích tiếp những người mới sang. Nói chuyện như máy với khuôn mặt không có nụ cười nào. Hình như họ không muốn cho mình hưởng trợ cấp vì hưởng trợ cấp thì họ bị trừ lương hay sao ấy, mà đôi khi cái mặt cứ hầm hầm.

Những người có khả năng như anh Thi, luôn băn khoăn lo lắng làm sao thoát khỏi việc nhận trợ cấp, vì như thế có vẻ yếu quá. Anh lo lắng:

-Làm sao thoát khỏi trợ cấp đây? Tôi đâu có mong ăn Welfare suốt đời đâu. Nhưng làm sao mà sống? Tuổi tôi đã tròm trèm 50 rồi! Thằng em tôi, cử nhân Luật, nay đi in typo 13 tiếng một ngày, mỗi tiếng 5 đồng. Cậu em vợ tôi, sang sớm hơn tôi 5 năm, đã xong cái B.S. nay đi xin việc cả chục chỗ, vẫn chưa có chỗ nào kêu. Còn tôi? Có 6 đứa con, vừa đực vừa cái, khi còn ở Việt Nam, thấy ở cuối đường hầm, nên không cho con đi học, bây giờ cũng phải đi làm ngay, không có thời gian đi học. Thấy thảm quá! Nếu tụi nó được đi học thì còn có tương lai.. Mà, sao mấy lớp học ở đây không dậy phát âm, không dậy đàm thoại, không dậy nói, làm sao mà hiểu tiếng Mỹ được?

Gặp anh Nguyễn Nhâm, nguyên Giáo Sư trung học, trong một căn phòng sáng sủa, trông ra một sân chơi tennis. Mấy cậu con trai đang lui cui nấu ăn.

Anh chỉ vào mấy cái đồ đạc trong phòng:

-Đồ này toàn do USCC cho hết đấy! Chả là có một gia đình Mỹ dọn đi, không muốn mang đồ theo, nên để lại. USCC nhận hết và cho tôi. Tôi chỉ định lấy vài thứ, nhưng họ cứ băt tôi phải nhận đủ. Cũng may, chả phải mua sắm thứ gì!

Anh nhếch miệng, nhăn nhó:

-Mấy tháng đầu, ở chung với gia đình, không phải lo. Nay ra ở riêng, mới thấy thấm thía. Tôi  đã học xong khóa sửa xe rồi, mà chả ai nhận. Ở đâu cũng chỉ nói “có lấy tiền còm mít xông không thì cho làm, không nhận thì thôi”. Tôi thấy không khá, nếu lỡ cả ngày không có xe cho tôi sửa thì sao. Tôi đảnh đi thi làm Teacher Aid, rồi cũng chả ma nào kêu. Tháng tới, tôi không kiếm được dóp là nguy to.

Anh giơ tay xoa xoa cái đầu bạc:

-Có lẽ tại cái đầu này đây!
Sau đó một thời gian, khi nói chuyện với một nhà văn nữ đến Mỹ cùng thời gian với dân H.O. lại cho biết là tuy thế, mà người H.O. còn may mắn hơn người được bảo lãnh! Bà cho biết những ngày đầu tiên đến Mỹ là những kỷ niệm không vui, suốt đời không quên.

-Chúng tôi qua đây là để đoàn tụ với ông anh tôi, nhưng lúc đó ông anh tôi lại đang sửa nhà, nên phải “share”  với em tôi ở môt Appartment 2 phòng. Bốn mẹ con tôi, mẹ tôi trên 80 tuổi, phải ngủ dưới thảm, không phải một tấm thảm sạch mà đầy nước tiểu chó và phân chó, vì em tôi ở chung với một cô bạn gái người Mỹ có nuôi một con chó, mà cả hai người đó đều không biết dọn dẹp nhà cửa, nên chúng tôi luôn luôn phải có một cuộn “paper towel” để thấm nước đái chó.  Mẹ tôi lại già, mắt kém, nên suốt ngày tôi phải đi rửa dép cho mẹ bị dính phân chó.
Con chó của cô Mỹ này lại thích chơi bạo. Mẹ tôi ngồi dưới thảm, mà nó cứ nhẩy bổ vào làm mẹ tôi ngã ngửa.  Môt hôm chúng tôi đang ngủ thì nghe tiếng nước chẩy. Giật mình nhìn lên thì thấy thằng con của cô Mỹ đang vạch quần đứng tiểu ngay đầu chỗ ngủ của mẹ con tôi!  Những chuyện này xẩy ra liên tục làm chúng tôi ngột thở quá. Cho đến một hôm, hai mẹ con tôi đang ngồi ở giường, một chiếc giường nhỏ sau này đặt riêng cho mẹ tôi nằm, thì thằng bé con kia chạy đến, nằm lăn ra giường. Tôi hỏi nó: “Tại sao mày lại nằm đây?”. Nó trả lời: “Mẹ tôi bảo, giường này là của tôi, tôi muốn nằm thì cứ nằm!” Đó là cái giọt nước làm đầy ly, chúng tôi không thể chịu đựng được nữa, đành phải kéo nhau đi mà nước mắt lưng tròng, vì mẹ tôi sang Mỹ là để ở với con trai…

Người viết đã hỏi chị về sự khác biệt giữa người đi trước và người đến sau (H.O.) Nhà văn cho biết người đi sau có một điểm thiệt thòi hơn nhưng lại cũng có điều thuận lợi hơn người đi trước. Thiệt thòi về sự trợ cấp lúc ban đầu, nhưng thuận lợi ở chính cái tiềm năng của họ. Trải qua bao nhiêu đau khổ, họ đã hun đúc cho mình một bản lãnh cứng cáp, và không sợ gian nan. Việc gì cũng làm, khổ tới đâu cũng làm. Do đó, dựa theo kinh nghiệm của người đến trước mà người đến sau có thể hội nhập nhanh hơn người đến trước. Tuy nhiên, có một điểm chung mà nhà văn này đã đặc biệt nhấn mạnh về một điều không vui liên quan đến tinh thần của tất cả các lớp người đến Mỹ, đó là sự tan vỡ gia đình. Hầu hết những trường hợp chị quen biết đều đã chia tay hay đang chuẩn bị chia tay. Có gia đình mới sang Mỹ được 3 ngày thì đường ai, nấy đi. Gia đình khác thì kéo dài được vài tháng. Có cặp vợ chồng còn rất trẻ, con mới có 4 tuổi mà đã chuẩn bị ly dị.  Để trả lời cho câu hỏi tại sao lại chia tay, họ cho biết là đã có những xung đột từ lâu. Họ đã cố bấu víu, che đậy khi còn ở bên nhà, sang đây, thi gặp cơ hội, cho nên coi như đã trả xong nợ. Mang nhau ra khỏi Việt Nam là ai giải quyết chuyện người ấy.  Chị nói:

-Đối với những người vợ mới sang đây để đoàn tụ với chồng,  thì tôi thấy có hai vấn đề lớn nẩy sinh. Thứ nhất là người vợ luôn nghi chồng đã có vợ nhỏ, luôn thắc mắc về quá khứ của ông chồng trước đây. Không phải khách quan mà theo định kiến. Họ cứ cho rằng, nếu không khám phá ra được điều gì thì là do ông chống khéo léo dấu mà thôi. Không có bà vợ nào chịu tin ông chồng mình vẫn giữ độc thân khi vợ còn ở quê nhà. Nhất định phải có một bà vợ hoặc một cô nhân tình dấu diếm đâu đây. Thành ra, giai đoạn đầu mới gặp nhau, không khéo léo thì không thể “adjust” vào với nhau được.

Thứ hai là các bà vợ cứ hay so sánh chồng mình với những người khác. Lúc nào cũng thắc mắc là sao anh không có nhà, có xe láng như người ta? Anh đã làm gì với tiền kiếm được? Thì anh chả dành dụm gửi về nhà là gì? Gửi tiền về ư? (bà nguýt một cái rõ dài và lên giọng) Gửi được bao nhiêu? Có một hai trăm mỗi tháng mà ăn nhằm gì? Cứ thế mà dẫn đến xung đột trầm trọng.

Với các ông được vợ bảo lãnh qua đây, có ông chồng vẫn mang tính gia trưởng. Qua đây, thấy  bà vợ vuột khỏi tầm tay kiểm soát của mình thì phẫn nộ, bực bội. Thế là thành thảm họa cho những đứa con, vì cha mẹ cãi lộn hoài, đưa đến ly dị.

-Chị nghĩ thế nào về những gia đình H.O. mới sang, cả vợ cả chồng?

-Tôi thì thấy những anh H.O. mà tôi có dịp tiếp xúc đều có thái độ dứt khoát. Tuy hoàn cảnh hiện tại có khó khăn, nhưng họ vẫn tin tưởng, lạc quan và nhất định tạo lập cuộc đời mới.

-Thế còn những anh H.O. lâm vào tình trạng tuyệt vọng? Đã có 4 anh tìm cách giải quyết bằng cách đi tìm cái chết. May mắn mà 3 anh đươc cứu thoát vì họ uống thuốc độc, còn một anh thì không cứu được vì dùng dây thừng! Còn một số gia đình khác, đã tình nguyện xin trở lại Việt Nam?

-Chắc là có lẽ có những nguyên nhân nội bộ mà mình không được biết đến. Nhưng tôi nghĩ là thiểu số đó không thể thích hợp được với môi trường mới: về sinh ngữ, về nếp sống và công việc. Nhất là họ đến Mỹ khi nước Mỹ suy thoái. Và có những người đã “expect” quá nhiều, khi còn ở Việt Nam, họ đã kỳ vọng quá nhiều vào những giấc mơ tốt đẹp. Trong khi đó, thì gia đình lại không biết nâng đỡ nhau, yểm trợ nhau, dễ đi đến chỗ tuyệt vọng.

Những nhận xét của nhà văn rất chính xác. Theo một người bạn cho biết về trường hợp một chiến sĩ theo diện H.O. đã tự tử tại vườn sau, thì trước khi đi, anh đã tin vào những lời tuyên truyền quá đáng của một số người đi trước về những làng định cư cho cựu tù, về việc làm có ngay, về nhà ở… Đến nơi, thấy toàn bộ hiện thực khác giấc mơ quá nhiều, và bị quá nhiều áp lực từ cuộc sống, từ gia đình, anh đã tìm lấy cái chết để giải quyết tất cả.

Thực ra, bên cạnh anh, hầu như tất cả những người sang Mỹ theo diện H.O. đều gặp hoàn cảnh tương tự, nhưng vì trong gia đình, từ vợ đến chồng đều chấp nhận cuộc sống ở Mỹ tuy cơ cực nhưng vẫn còn hơn ở Việt Nam, lúc nào cũng nơm nớp e sợ bị bắt nhốt lại. Cho nên, họ vẫn nghiến răng tiến bước, dù bước vào môt khoảng vô định.

Và, không có hoàn cảnh nào giống hoàn cảnh nào.

Đa số các vị đến Mỹ theo diện H.O. đều cam phận, chấp nhận cuộc đời mới, nhưng cũng có vài trường hợp vì hiểu nhầm mà gây nên sự đau lòng.

Anh Nguyễn Ngọc Liên, Supervisor của Sở Xã Hội cho biết là có nhiều quan niệm nhầm lẫn giữa những người đến sau, theo diện Tù Cải Tạo. Anh nêu lên 3 trường hợp không vui:

-Thứ nhất là có những người đến Mỹ quan niệm rằng: “Chúng tôi đến đây, người Mỹ phải có trách nhiệm nuôi chúng tôi” nên có người đòi đóng hồ sơ xin trợ cấp, vì lôi thôi quá, có người lại đem con đến Sở Xã Hội, nói là “để trả cho Mỹ”!

-Thứ hai là một số người qua sau lại cho rằng những người đến Mỹ trước làm công cho Mỹ, tức là tay sai cho Mỹ, nay quay lại làm khó dễ người đến sau. Người Mỹ ngày xưa chiếm đất Việt, bây giờ mấy tên tay sai Mỹ lại làm khó dân mình!

-Thứ ba là có anh cho rằng mình đã phải đi tù cải tạo, thì bây giờ không phải đi làm! Nếu phải đi làm vất vả, thì đi Mỹ làm gì nữa?

Anh Hiệp Nguyễn cũng nói giống như anh Nguyễn Ngọc Liên. Vì anh là một “nurse” Việt Nam, nên thường phải làm thông dịch cho người mới tới. Có lần anh nói với người mới tới rằng, bệnh của bà nhà chưa đến nỗi nặng phải nằm nhà thương, nên bác sĩ chỉ cho thuốc mang về. Anh mới tới gầm lên:

-Tôi tù tội vì chính phủ Mỹ đã bao năm, nay bảo lãnh cho tôi qua đây, lại không cho vợ tôi nằm bệnh viện là sao?

Anh Hiệp phải giải thích mãi, người mới tới kia mới chịu đi về sau khi cằn nhằn: “xe không có, nhà cũng không, đến bệnh viện cũng không cho nằm!”

Một trường hợp muốn cười mà không cười nổi, là có anh mới sang, ở nhờ nhà người em được vài tháng thì đòi tiền người em là người bảo lãnh: “Chính phủ Mỹ trợ cấp cho tôi bao nhiêu năm, chú giữ giùm, bây giờ chú trả cho tôi chứ?” Thế là anh em hục hặc nhau, người em giận quá, đuổi ông anh bà chị ra khỏi nhà và thách: “Anh cứ đi kiện tôi đi! Tôi theo tới cùng!”.

Dĩ nhiên là chắng có vụ kiện nào, vì ông anh kia, sau đó mới ân hận là mình đã lầm, nghe theo những lời tuyên truyền của ai đó, trước khi đi, nên tưởng nhầm. Rất tiếc là đã muộn! Tình anh em chấm dứt từ khi đó.

Một ông khác, mới sang được vài tuần, ở nhờ nhà người em, đăng báo trong mục rao vật là “cần được giúp đỡ cho quần áo, chăn mùng và phương tiện…”

Thực tế, trường hợp hiểu nhầm như thế cũng không nhiều, vì trước sau cũng có người giải thích tường tận. Còn lại, tất cả hầu như thầm lặng đi tìm việc lao động, từ cắt chỉ đến giặt ủi, làm Waiter nhà hàng, lái xe giao bánh mì, giao hoa hồng, phụ cống nước…bất chấp có những sự kỳ thị giữa người trước và người sau rải rác đâu đó. Anh Tất, nguyên giáo sư Anh Văn, khi đi làm Salesman cho môt tiệm Furniture, nghe điện thoại reo, anh nhấc lên, vừa chảo hỏi vài câu, thì ông Manager đã chạy lại, giằng ống nghe và gắt:

-H.O. thì biết mẹ gì mà điện với thoại!

Một phu nhân Trung Tá Tiểu đoàn Trưởng, sang sau, gặp người vợ lính cũ, cho làm chức “Manager” shop may, nhưng thật ra là làm nô lệ cho chủ tiệm đi đánh bài liên miên. Làm mỗi ngày từ 10 đến 12 tiếng, bẩy ngày một tuần, lãnh lương có $800.00 môt tháng, tính trung bình 11 tiếng, thì một tháng làm 330 giờ, mỗi giờ như vậy có $2.42/ giờ, trong khi lương tối thiểu hồi đó cũng $4.50. Bà phu nhân làm mấy tháng thì tóc rụng gần hết, mặt nhăm nhúm như người mắc bệnh lao nặng, đi đứng chậm chạp, thỉnh thoảng lại dừng lại, thở dốc. Chịu không nổi, chị phải nghỉ, sau khi đi khám bệnh, Bác Sĩ bắt chị phải nghỉ ngơi, không thì chết ngay, vì trụy tim và thần kinh suy yếu.

Các bà chủ tiệm Furniture, nơi có những anh H.O. làm việc thì sai quần quật, không bao giờ cho nghỉ ngơi. Vừa đi giao hàng về, mồ hôi ướt đẫm, đã bị bà chủ sai dọn “floor” nghĩa là vác cái giường này ra góc kia, mang cái tủ kia lại góc này…Bầy hàng xong, thì ráp bàn ghế, liên tu bất tận, mà lương tháng cũng chỉ tròm trèm $3.00 hay $4.00. Không có bảo hiểm, dĩ nhiên. Nếu khiêng hàng mà quẹo lưng, gẫy tay, thì mất việc chứ không có bồi thường gì. Hai cha con một ông giáo sư kia, cùng đi khiêng hàng, bố thì bị quẹo tay, sái “tennis elbow” cả nửa năm cũng chẳng được thêm đồng nào. Ông con trai, bây giờ là Dược Sĩ, cũng sái chả vai, cả chục năm sau vẫn còn đau. Nhưng lúc đó, thiếu thốn quá, vẫn phải nghiến răng tiếp tục đi làm, không dám than thở gì, vì sợ mất việc thì đói.

Bà Manager nhà hàng ở Santa Ana thì đì ông phụ tá Manager gốc H.O., tới ngắc ngư, sai bảo như đầy tớ, hết bưng tô, lại rửa bát, lau nhà, dù lúc nào ông cũng mặc áo vét theo lời người chủ mướn ông. Một lần đang tiếp khách đặt tiệc cưới, thì bà Manager quát lên:

-Ông lại đây nhặt cái rác này cho tôi!

Rồi bà chỉ tay vào một miếng giấy trắng nhỏ bằng nửa ngón tay út ngay dưới chân bà. Ông H.O. phải lại cúi đầu nhặt rác, mà bà không nhích chân, nên đầu ông chạm vào gấu váy của bà, y hệt như chui dưới váy bà vậy. Cảnh tượng quái dị này làm cho toàn thể khách hàng trợn mắt vì ông H.O kia từng là Giám Đốc ở Việt Nam, trông tướng cũng sang, lại mặc vét nữa, mà bị bà kia làm nhục. Ông H.O. thấy nhục quá, phải nuốt nước mắt nhặt xong thì bước ra cửa mà khóc. Bà xếp gọi với theo:

-Này, đừng có mà ra cửa mà vất rác đấy. Police nó bắt cho bỏ mẹ!

Còn rất nhiều, rất nhiều trường hợp vừa cười vừa khóc xẩy ra giữa những người mới tới làm công cho người cũ đã thành đạt.

Anh Đặng Phố, cười ha hả:

-Mẹ kiếp, 15 năm qua, ở tù không chết, lao động không chết, sao qua đây lại chết được? Tới đâu thì tới! Sợ cóc gì!

Thật đấy, H.O. đã được trui rèn qua biết bao trại khổ sai, chết còn không sợ, thì sợ.. cóc gì nữa!

Bây giờ, thời gian đã chứng minh, đại đa số những ai từng đến Mỹ theo diện H.O., giờ đã vui hưởng an bình, hoặc với con cháu, hoặc ở riêng trong những căn Mobile Home, nhưng đều nhìn nhận một điều: tinh thần của người chiến sĩ Viêt Nam Cộng Hòa lúc nào cũng vẫn thế: Vẫn một lòng nặng chĩu với quê hương cho nên nếu có bất cứ một cơ hội này được phất cao lá cờ vàng, đi biểu tình chống Cộng hoặc họp mặt theo Binh Chủng, Quân Trường, hoặc đi yểm trợ Thương Phế Binh, thì nhất định chỉ muốn cầm cờ đi đầu và hát vang bài: Ngày bao hùng binh tiến lên…

Chu Tất Tiến.

Một chủ vườn cần sa Việt ở Anh phải hầu tòa

Một chủ vườn cần sa Việt ở Anh phải hầu tòa

Cảnh sát cho biết trị giá của vườn cần sa từ 96.750 – 109.300 bảng Anh.

22.10.2015

Một người Việt tại Anh vừa ra hầu tòa hôm thứ Tư sau khi bị phát hiện sở hữu vườn cần sa trị giá 100.000 bảng Anh ở trung tâm thành phố Liverpool.

Cảnh sát Anh đã nhận được cuộc gọi báo từ nhân viên cứu hỏa vào ngày 25/5 và phát hiện 215 cây cần sa trong một căn hộ ở đường Bridport của thành phố Liverpool.

Phạm Tuấn Anh, 28 tuổi, không có địa chỉ định cư cố định, đã bị cảnh sát bắt.

Vườn cần sa bị phát hiện khi nhân viên cứu hỏa buộc phải mở cửa vào nhà để truy tìm nơi bể ống nước.

Cảnh sát cho biết trị giá của vườn cần sa từ 96.750 – 109.300 bảng Anh.

Phạm Tuấn Anh được mô tả là mặc áo khoác xanh và phải nghe toàn bộ quy trình xử án thông qua một thông dịch viên. Tuấn Anh đã không biện hộ gì khi đứng trước tòa. Hiện anh này đang bị tạm giam và không được cho phép bảo lãnh.

Quan tòa đã chuyển vụ án cho tòa án Liverpool Crown, nơi Phạm Tuấn Anh sẽ phải có mặt cho phiên xử sơ bộ vào ngày 4/11.

Nguồn: Liverpool Echo, UK News, Scoopnest.

Sài Gòn: ‘Ðinh tặc’ lộng hành như chốn rừng xanh

Sài Gòn: ‘Ðinh tặc’ lộng hành như chốn rừng xanh

Nguoi-viet.com

Văn Lang/Người Việt

SÀI GÒN (NV)Ðô thị lớn nhất của Việt Nam đang có ba vấn nạn lớn ai cũng thấy, mà nhiều năm qua vẫn chưa có phương cách hữu hiệu để thay đổi đó là kẹt xe, ngập đường và nạn đinh tặc. Trong 3 vấn nạn này thì nạn rải đinh, gài bẫy người đi đường để kiếm ăn của những tên gian tặc luôn ám ảnh mọi người khi lái xe ra đường.


Một điểm bơm, vá xe ven đường ở Sài Gòn. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Còn nhớ, gần 30 năm trước, báo chí ở Sài Gòn từng rộ lên vụ, một đôi thanh niên nam nữ bị hại vì đinh tặc, trên xa lộ Hà Nội, xưa là xa lộ Biên Hòa.

Buổi chiều muộn, trên xa lộ, xe Honda Dream của đôi trai gái cán phải đinh của bọn đinh tặc rải trên đường. Lúc đó, xa lộ còn vắng vẻ chưa đông như bây giờ. Và xe Honda Dream lúc đó là một loại xe thời thượng nhất, là cả một gia tài, là cả một… giấc mơ, với những em gái ham “xế nổ.”

Khi đôi trai gái tìm được một tiệm sửa xe trên đường để vá, chưa kịp nổ máy chạy thì một toán cướp có súng ập tới. Vì tiếc của, chàng trai chống cự, bị bắn chết tại chỗ. Cô gái bị thương nặng, toán cướp lấy xe tẩu thoát.

Báo chí nhân vụ giết người này đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về tệ nạn đinh tặc đang hoành hành trên các cung đường cửa ngõ vô Sài Gòn.Thậm chí cả trong nội đô Sài Gòn chúng cũng không từ…

30 năm sau, câu chuyện đinh tặc có lẽ đã trở nên khủng khiếp hơn. Lần này trên xa lộ, bọn chúng ngang nhiên rải những loại đinh tự chế hình chữ V, chữ S cỡ lớn. Với mục tiêu nhắm tới không chỉ là xe Honda hai bánh, mà là xe hơi, xe tải lẫn xe container.

Thử tưởng tượng, những chiếc xe tải, xe container chở nặng, chạy nhanh cán phải “bẫy đinh” cỡ bự của bọn đinh tặc, bể bánh, lạc tay lái giữa dòng xe cộ đông đúc trên xa lộ. Hậu quả sẽ như thế nào?

Ngang nhiên lộng hành

Hơn 30 năm dân kêu, báo chí kêu, nhưng tệ nạn đinh tặc lộng hành chỉ có tăng mà không có giảm.

Báo chí từng nêu câu hỏi: “Nếu đinh tặc là những kẻ rải truyền đơn chống chế độ. Thì bao nhiêu năm qua, chính quyền có im lặng, có bất lực như vậy không?”

Ðến nước đó, thì chính chính quyền cũng lên tiếng… kêu.

Theo lời của một trưởng công an phường, thuộc quận 12, kể với báo chí, do người dân thường xuyên khiếu kiện, vì đoạn đường quốc lộ 1A, từ chân cầu vượt ngã tư Ga, qua Thủ Ðức đinh tặc lộng hành. Cá biệt, có người dân kể khổ, một tháng đi trên đường thì hết 15 lần phải thay ruột xe vì cán đinh, 6 lần phải thay cả vỏ lẫn ruột…

Nóng ruột, quận chỉ thị cho công an phường, bằng mọi giá phải bắt cho được bọn đinh tặc đem về “quy án.”

Hơn một năm trời, cả ngày lẫn đêm phường tung lực lượng tuần tra, hóa trang-mật phục, tất cả những ngón đòn nghiệp vụ của công an được tung ra. Cuối cùng cũng chả bắt được con ma đinh tặc nào.

Lại theo lời kể của một toán công an viên thuộc quận 9. Vì khó lòng bắt được đinh tặc, nên phường thường xuyên cho công an đi kiểm tra những điểm sửa xe trên đường. Nếu là dân địa phương thì bắt làm cam kết không rải đinh hại người. Nếu là dân ở nơi khác tới, không rõ lai lịch thì dẹp luôn.

Vì các tiệm vá xe ven đường sống nhờ sự bắt chẹt khách bị cán đinh với giá cắt cổ. Khả năng người hành nghề vá xe và đinh tặc là một, lên tới 99%, nhưng không bắt được quả tang thì không làm gì được họ…

Khi toán công an viên kể trên, đi kiểm tra các điểm vá xe. Họ bị một toán người lạ mặt, hung dữ ở đâu ập tới ngăn cản quyết liệt, không cho kiểm tra…Toán công an viên phải rút về phường.


Nhiều người dân Sài Gòn sợ sửa xe ở ngoài đường bị “chặt,” “chém,” chôm phụ tùng nên đem xe tới đại lý ủy quyền của hãng Honda sửa cho chắc ăn. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Nghe báo chí tường thuật, dân chúng cho rằng đinh tặc đâu phải là thứ “vô ảnh,vô hình” mà đến nỗi không bắt được.

Ngang với ‘khủng bố’

Ngày nay, phương tiện đi lại của người dân Sài Gòn chủ yếu là xe gắn máy 2 bánh. Dù là đi làm ăn hay du hí đây đó, đổi gió vào những ngày cuối tuần, nhưng nói tới đinh tặc thì ai cũng ngao ngán, cực chẳng đã chẳng muốn đi đâu. Vì những ai ở Sài Gòn, ít ra cũng một đôi lần nếm mùi đinh tặc.

Trên những con đường nắng chói chang, xe cộ đông đúc đầy khói bụi. Người bị cán đinh hì hục đẩy xe, ướt đẫm mồ hôi, dáo dác tìm điểm vá xe. Rồi những hôm trời mưa tầm tã, lại những đêm khuya, trời vắng. Ðàn ông còn sợ, huống hồ thân gái dặm trường… Rồi những đường xa mịt mù, lúc phải đi đêm về hôm. Lòng người lúc nào cũng nơm nớp chuyện cán đinh. Có thể nói đinh tặc là một nỗi ám ảnh thường trực với người dân.

Bọn đinh tặc chỉ việc ngồi rung đùi tại những tiệm vá xe trên đường, chờ những con mồi tới nạp mạng. Xe nào đã cán đinh thì đừng mong được vá, lúc mở ruột xe, chỉ một động tác nhà nghề, ruột nào cũng tét, đành phải thay. Nhẹ thì thay ruột đểu, xài vài ngày đã banh, nhưng với giá cắt cổ từ 80 ngàn, tới 90 ngàn đồng. Nặng thì phải thay cả vỏ, với giá từ trên 300 ngàn tới 400 ngàn đồng. Biết là bị làm tiền, nhưng khổ chủ chỉ còn biết ấm ức mở hầu bao, nếu không muốn đẩy bộ xe… mút mùa lệ thủy. Chưa kể tệ nạn trộm, cướp, thậm chí nạn “cướp tình” với những cô gái một thân, đường vắng…

Có những nhóm thanh niên lập ra đội vá xe giúp người bị hại. Hay hơn, họ chế tạo ra xe hút đinh, chạy rà trên đường mỗi ngày. Mất chỗ làm ăn, bọn đinh tặc ngang nhiên chặn đường hoặc gọi điện thoại hăm dọa sẽ “xử đẹp” nếu không dừng việc làm “đổ bể” nồi cơm của bọn chúng.

Kỳ lạ, giữa một thành phố đông người, mà bọn đinh tặc lộng hành chẳng khác nào những toán thổ phỉ trong chốn rừng xanh. Chỉ thương cho những cái chết tức tưởi trên đường.

Như một vụ kia, người chồng dùng xe Honda chở cô vợ trẻ đi sanh. Trên đường đi xe cán phải đinh của bọn đinh tặc, hai vợ chồng té văng xuống đường. Người chồng bị gãy chân, người vợ bị băng huyết, được đưa vô bệnh viện cấp cứu thì thai nhi đã chết…

Luật pháp bó tay

Cuối cùng, sau bao nhiêu ấm ức dồn nén, người dân đi đường trên quốc lộ 1A cũng phát hiện ra một tên đinh tặc với thủ đoạn rất tinh vi. Tên này chở vợ, chạy tà tà trên đường đông, nhưng dấu đinh tự chế dưới dép, lâu lâu lại nhẹ nhàng gạt đinh xuống mặt đường… Người dân lập tức tri hô và cùng nhau đuổi bắt gã đinh tặc giao cho công an.

Bên công an cho báo chí biết,hiện không biết xử tên đinh tặc bị dân bắt quả tang theo điều luật nào. Chỉ có thể quy hắn vào tội “hủy hoại tài sản” của người khác. Nhưng phải chứng minh được tài sản bị hủy hoại giá trị lên tới trên 2 triệu đồng thì mới có thể truy tố, nếu không thì chỉ phạt hành chánh rồi cho về. Dân chúng nghe tin mà cứ tức anh ách.

Gần đây, nhà cầm quyền Sài Gòn có trình lên Quốc Hội một dự luật về đinh tặc. Theo đó, nếu phạm tội lần đầu, tối đa bị phạt 30 triệu đồng và 3 năm tù. Nếu tái phạm (lần 2), thì bị phạt từ 100 triệu tới 500 triệu đồng và 12 năm tù.

Qua câu chuyện chống đinh tặc cho thấy luật Việt Nam vừa thiếu,vừa hở (dĩ nhiên trừ chuyện chống dân chủ). Hơn 30 năm chống đinh tặc lộng hành hại dân mà chỉ ra được có mỗi cái… dự luật.

Tệ hơn nữa, đạo đức suy đồi cùng cực, có những kẻ ác nhơn thất đức tới nỗi coi tính mạng đồng bào như là miếng mồi ngon. Ðể ngang nhiên đặt bẫy trên đường đông người qua kẻ lại, chứ chẳng thèm phải đi vào nơi rừng sâu núi thẳm.

Arizona: Xe đâm xuống hồ, chết cả gia đình 5 người

Arizona: Xe đâm xuống hồ, chết cả gia đình 5 người

Nguoi-viet.com

TEMPE, Arizona (AP)Trọn cả gia đình, gồm ba em nhỏ, tử nạn, sau khi chiếc xe loại SUV của họ đâm xuống một hồ nước nằm ở ngoại ô thành phố Phoenix, Arizona. Cảnh sát cho hay, có dấu hiệu cho thấy người cha lái xe đã cố tình lao xe xuống hồ.

 Nhân viên công lực điều tra hiện trường nơi một xe SUV lao xuống hồ Town Lake ở gần Phoenix, Arizona. (Hình: AP/The Arizona Republic)

Bé Nazyiah Baxter, 2 tuổi, mới đầu được đưa vào bệnh viện trong tình trạng nguy kịch nhưng sau đó qua đời trong cùng ngày.

Nhân viên cấp cứu được gọi đến hồ Tempe Town Lake vào khoảng 12 giờ 15 sáng Chủ Nhật, sau khi người qua đường trông thấy chiếc SUV lao xuống hồ.

Phát ngôn viên cảnh sát Tempe, ông Michael Pooley, nói: “Cảnh sát có mặt tại hiện trường thật nhanh. Ba người lập tức nhảy xuống nước, một ngư dân cũng nhảy theo.”

Cảnh sát đưa lên khỏi nước hai bé, Zariyah Baxter, 1 tuổi, và Nazyiah.

Kế đó họ vớt ông Glenn Edward Baxter, 27 tuổi, và bà Danica Baxter, 25 tuổi.

Ông Pooley cho biết tiếp, “người của chúng tôi làm hô hấp nhân tạo cho đến khi xe cứu thương đưa cả bốn nạn nhân vào bệnh viện,” nơi hai phụ huynh và bé Zariyah từ trần.

Tại bệnh viện, các nhà điều tra trong khi làm việc để nhận diện bà Danica Baxter; bấy giờ mới phát giác còn thiếu một em thứ ba là bé trai Reighn Baxter, 3 tuổi.

Cảnh sát trở lại chiếc xe còn chìm dưới nước và tìm thấy xác bé trai lúc 10 giờ sáng, đang còn ngồi trong ghế dành cho trẻ em ở băng sau.

Cảnh sát hiện chưa rõ nguyên nhân đưa đến tai nạn.

Được biết hồ Tempe Town Lake nằm trong thành phố đại học nơi có trường Arizona State University, Tempe. Town Lake là hồ nhân tạo khánh thành từ năm 1999, có thể chứa được đến 1 tỉ gallon nước. (TP)