5 tác phẩm Việt Nam đoạt giải cuộc thi ảnh quốc tế

 5 tác phẩm Việt Nam đoạt giải cuộc thi ảnh quốc tế

Tác phẩm “Vượt qua đồi cát” của nhiếp ảnh gia Việt Nam Lê Minh Quốc giành chiến thắng tại hạng mục khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của cuộc thi ảnh CGAP 2015.

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

 Nhóm tư vấn hỗ trợ hộ nghèo (CGAP) tổ chức một cuộc thi ảnh hàng năm nhằm vinh danh các nhiếp ảnh gia giúp thúc đẩy quá trình hoà nhập tài chính cho người nghèo trên thế giới. Lê Minh Quốc, một nhiếp ảnh gia đến từ Việt Nam với tác phẩm “Vượt qua đồi cát”, đã chiến thắng tại hạng mục khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Nicole Crowde, nhiếp ảnh gia của The Washington Post và là thành viên ban tổ chức cuộc thi, nhận xét: “Bức ảnh khiến bạn tò mò và muốn biết nhiếp ảnh gia đã chụp nó bằng cách nào”. Ảnh: Lê Minh Quốc

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Nhiếp ảnh gia Lộc Mai, Việt Nam, đoạt giải khuyến khích với tác phẩm “Hành trình tiếp theo”. Những phụ nữ trong ảnh sống trong một làng chài ở Nha Trang. Họ đang sửa lưới đánh cá để chồng của họ sử dụng trong chuyến ra khơi tiếp theo. Ảnh: Lộc Mai

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Tác phẩm “Thu hoạch trứng vịt” của nhiếp ảnh gia Trần Văn Tuý ở Việt Nam đoạt giải khuyến khích. Ban tổ chức cuộc thi bình luận: “Bức ảnh khiến bạn thực sự thấy rằng chương trình tài chính có thể giúp cuộc sống của bạn trở nên tốt hơn”. Ảnh: Trần Văn Túy

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Tác phẩm “Buổi sáng” của tác giả Đỗ Hiếu Liêm, Việt Nam, đoạt giải khuyến khích. CGAP cho biết, khoảng 10% dân số thế giới sống dựa vào nghề đánh bắt, sản xuất thuỷ sản và hải sản. Ở Việt Nam, công việc này mang lại một nguồn thu nhập đáng kể. Ảnh: Đỗ Hiếu Lâm

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Ngô Quang Phúc, một nhiếp ảnh gia Việt Nam, giành giải khuyến khích với bức ảnh những người làm nghề đẩy xiệp tại thị trấn ven biển Bạc Liêu. Dù lao động rất vất vả, thu nhập của họ rất thấp. Ảnh: Ngô Quang Phúc

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Tác phẩm “Trồng lúa” của tác giả Sujan Sarkar, Ấn Độ, đoạt giải thưởng cao nhất của cuộc thi. Nó mô tả cảnh một gia đình làm việc trên ruộng lúa ở Tây Bengal, Ấn Độ. Corinne Dufka, một thành viên của ban tổ chức cuộc thi, nhận định, bức ảnh miêu tả thành công một hoạt động nông nghiệp. Ảnh: Sujan Sarkar

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Tác phẩm “Làm việc trên núi” của tác giả Tatiana Sharapova, Nga, khắc họa một bà lão người làm việc tại một cánh đồng trên núi ở Ấn Độ. Bà trồng rau để bán ở chợ. Ảnh: Tatiana Sharapova

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Giải nhì của cuộc thi thuộc về nhiếp ảnh gia Li Ming Cao của Trung Quốc với bức ảnh ngư dân quăng lưới đánh cá vào sáng sớm. Sau đó, ông lão bán cá ở chợ để kiếm tiền. Ảnh: Li Ming Cao

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

M.Yousuf Tushar, nhiếp ảnh gia người Bangladesh, giành giải khuyến khích khi chụp một người đàn ông làm hạt trầu để bán tại khu vực Teknaf, Bangladesh. Ảnh: .Yousuf Tushar

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Người đoạt giải cao nhất trong hạng mục khu vực Đông Âu và Trung Á thuộc về tác giả Bulent Suberk, Thổ Nhĩ Kỳ, với tác phẩm “Cà chua”. Ảnh mô tả một gia đình nông dân ở làng Bursa Aksu, Thổ Nhĩ Kỳ đang làm bột cà chua. Ảnh: Bulent Suberk

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Hailey Tucker, một công dân Mỹ, giành giải nhất trong hạng mục khu vực châu Phi cận sa mạc Sahara với bức ảnh người nông dân thu hoạch ngô tại Tanzania. Ảnh: Hailey Tucker

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Người phụ nữ trong ảnh đang phơi khô nguyên liệu làm mũ Panama ở Ecuador. Ảnh: Luis Sanchez Davilla

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Bức ảnh một chàng trai trẻ làm việc cùng cha trong một cửa hàng của Subhasis Sen, một người Ấn Độ, đoạt giải khuyến khích. Ảnh: Subhasis Sen

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Ảnh “Chăn gia súc vào buổi sáng” của Li Ming Cao tại Trung Quốc đoạt giải khuyến khích. Ảnh: Li Ming Cao 

 5 tác ph©m ViÇt Nam o¡t gi£i cuÙc thi £nh quÑc t¿

Trong tác phẩm đoạt giải ba của nhiếp ảnh gia Pranab Basak, Ấn Độ, một thiếu nữ đang giúp cha sản xuất đồ gốm. Ảnh: Pranab Basak

 

KITÔ GIÁO TẠI HÀN QUỐC

KITÔ GIÁO TẠI HÀN QUỐC

Tác giả:  Phan Vĩnh Tâm (lược dịch)

Năm 2016, chủ đề mục vụ của Giáo hội Việt Nam là “Tân phúc âm hóa đời sống xã hội”. Để có một cái nhìn cụ thể về việc này, xin giới thiệu mục từ “Kitô giáo tại Hàn Quốc” của từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, bản Anh ngữ, do Phan Vĩnh Tâm lược dịch. (Xin xem toàn bài bằng tiếng Anh và các chú thích tại https://en.wikipedia.org/wiki/Christianity_in_Korea )
Kitô giáo hiện diện tại Hàn Quốc xoay quanh hai chi nhánh lớn nhất là Tin lành và Công giáo, Tin lành chiếm 8,6 triệu [1] [2] và Công giáo 5,3 triệu [3]. Công giáo La Mã du nhập cuối thời triều đại Joseon. Vào năm 1603, Yi Gwang-jeong, nhà ngoại giao Hàn Quốc, từ Bắc Kinh trở về mang nhiều sách thần học của Matteo Ricci, một nhà truyền giáo dòng Tên đến Trung Quốc. [4] Ông phổ biến các thông tin trong sách và gieo những hạt giống đầu tiên của Kitô giáo trên đất Hàn. Năm 1758 vua Yeongjo của Joseon chính thức cấm đạo Công giáo, nhưng rồi một lần nữa, năm 1785, lại  được Yi Seung-hun cổ xúy.

Các Kitô hữu Hàn Quốc là đối tượng để đàn áp và gian khổ. [5] Nhiều người đã chịu tử đạo, đặc biệt là trong cuộc bách hại năm 1801 và sau đó. Giới quý tộc Joseon xem tôn giáo mới như một ảnh hưởng đưa tới lật đổ cho nên đã sớm bắt bớ những người theo đạo này, mà đỉnh cao là cuộc bách hại năm 1866, trong đó 8.000 người Công giáo trên khắp đất nước đã bị thiệt mạng, kể cả chín nhà truyền giáo Pháp. Việc Hàn Quốc mở cửa với thế giới bên ngoài trong những năm tiếp theo đem lại sự khoan dung tôn giáo cho những người Công giáo còn lại và đưa đạo Tin lành vào. Các nhà thờ Tin lành đầu tiên ở Hàn Quốc được Suh Sang-ryun thành lập và nhà truyền giáo Tin Lành đầu tiên vào Hàn Quốc là Horace Newton Allen, năm 1884. Horace Allen là một nhà truyền giáo hệ phái Presbyterian và là nhà ngoại giao Bắc Mỹ. Ông ở Hàn Quốc cho đến năm 1890, được nhiều người hỗ trợ. [6]

Vào năm 1945 cả hai hệ phái (Công giáo và Tin Lành) chiếm khoảng 2% dân số. Sau đó họ tăng trưởng rất nhanh: năm 1991, 18,4% dân số (8,0 triệu) là Tin Lành, và 6,7% (2,5 triệu) là Công giáo [7] Giáo Hội Công Giáo đã gia tăng thêm 70% trong vòng mười năm qua. [8] Anh Giáo ở Hàn Quốc cũng đã tăng trưởng đáng kể trong những thập kỷ gần đây…

Các Kitô hữu đã có ảnh hưởng quyết định trên nền giáo dục với 293 trường học và 40 trường đại học do họ điều hành, kể cả 3 trong số 5 tổ chức học thuật thế giá nhất. [9] Tin lành được coi là tôn giáo của tầng lớp trung lưu, thanh niên, trí thức và dân thành thị, và là nội lực giúp Hàn Quốc theo đuổi việc hiện đại hóa và chạy đua với Hoa Kỳ. [10] [11] Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của đạo Tin lành đã chậm lại, có lẽ do những vụ bê bối liên quan đến lãnh đạo giáo hội và vì xung đột giữa các giáo phái do quá hăng say trong việc truyền giáo. [12]

Tính đến năm 2014, khoảng 30% dân số Hàn Quốc khai rõ mình là Kitô hữu. [13]

Ý NGHĨA VĂN HÓA

Nhà nghiên cứu Grayson cho rằng đạo Tin lành đã là một lực lượng năng động trong cuộc sống của Hàn Quốc, và đã có một tác động tích cực đối với các tôn giáo khác. Nó đã tạo nên một cuộc chạy đua năng động khiến người Công giáo và Phật giáo phải cạnh tranh, cũng như tạo cảm hứng cho rất nhiều hệ phái nhỏ hơn. Các hệ phái này đã tiếp nhận nhiều phương thức mà những người Tin Lành đã đi tiên phong.

Trước chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), hai phần ba Tin Lành Hàn Quốc sống ở miền Bắc, nhưng sau đó hầu hết chạy trốn vào Nam. Người ta không biết chính xác có bao nhiêu Kitô hữu hiện còn ở Bắc Triều Tiên. Được biết, vào cuối những năm 1960 đã có khoảng một triệu người Tin Lành ở Hàn Quốc, nhưng trong quá trình giai đoạn bùng nổ kết thúc vào năm 1980, số người Tin Lành tăng nhanh hơn so với bất kỳ quốc gia nào khác. Năm 2005 điều tra dân số của Hàn Quốc cho thấy 29,2 phần trăm dân số là Ki tô hữu, tăng từ 26,3 phần trăm của mười năm trước đó. [14] Các Hội thánh Presbyterian là những hệ phái Tin Lành lớn nhất tại Hàn Quốc, với gần 20.000 nhà thờ liên kết thành hai hệ phái Presbyterian lớn nhất trong đất nước. [15]

Hàn Quốc hiện đang cung cấp số lượng nhà truyền giáo Kitô lớn thứ hai trên thế giới, qua mặt cả Hoa Kỳ. [16] GMS, lực lượng truyền giáo chính của Giáo hội Presbyterian Hàn Quốc, là tổ chức truyền giáo lớn nhất Hàn Quốc. [17] [18] Các nhà truyền giáo Hàn Quốc đặc biệt nổi bật ở các quốc gia vùng “Cửa số 10/40” (Bắc vĩ tuyến 10/ Đông kinh tuyến 40) vốn ít thiện cảm với người phương Tây. Trong năm 2000, đã có 10.646 nhà truyền giáo Tin Lành Hàn Quốc ở 156 quốc gia, cùng với một số các nhà truyền giáo Công giáo tương ứng. Một bài báo năm 2004 cho biết “Theo các tổ chức truyền giáo ở Hàn Quốc và phương Tây, Hàn Quốc đã cử hơn 12.000 người truyền giáo đến hơn 160 quốc gia so với khoảng 46.000 nhà truyền giáo người Mỹ và 6.000 nhà truyền giáo người Anh”. [19] Theo một bài báo năm 2007 “Hàn Quốc có 16.000 nhà truyền giáo đang làm việc ở nước ngoài, chỉ đứng sau Mỹ”. [20] Năm 1980, Hàn Quốc gửi đi chỉ mới 93 nhà truyền giáo nhưng vào năm 2009 đã lên đến khoảng 20.000 người. [16] [21] [22] [23]

Seoul có 11 trong số 12 Cộng đồng Kitô giáo (Tin lành) lớn nhất trên thế giới.  Một số Kitô hữu Hàn Quốc, trong đó có David Yonggi Cho, mục sư cấp cao của Giáo Hội Yoido Full Gospel, đã nổi danh trên toàn thế giới. Aaron Tân, giám đốc của công ty kiến ​​trúc Hồng Kông mang tên “Nghiên cứu Thiết kế kiến ​​trúc”, mô tả rằng về đêm Seoul rực sáng “tràn ngập những thập giá Kitô giáo “. [24]

GIÁO DÂN ĐỨNG HÀNG ĐẦU

… Kitô giáo tại Hàn Quốc đã bắt đầu như một phong trào giáo dân bản địa chứ không do một nhà truyền giáo nước ngoài đưa tới. Nhà nguyện Công giáo đầu tiên tại Seoul được Yi Seung-hun, một nhà ngoại giao đã lãnh bí tích rửa tội tại Bắc Kinh, thành lập năm 1784. [29] Năm 1786, ông Yi xúc tiến thành lập một hệ thống giáo phẩm giáo dân [30], nhưng năm 1789 Vatican phán quyết rằng việc bổ nhiệm tư tế giáo dân như thế không hợp Giáo luật. Kitô giáo đã khởi đầu rộng khắp tại Hàn Quốc do nỗ lực của thường dân, cho nên nó lây lan trong dân chúng nhanh hơn là nếu nó bắt nguồn từ người ngoài mà không được sự hỗ trợ của dân chúng từ đầu.

MẪU TỰ HÀN, XÓA MÙ CHỮ VÀ GIÁO DỤC

Hangul là hệ thống chữ quốc ngữ của người Hàn, với một bảng chữ cái để ký âm tiếng Hàn, được phát minh khoảng năm 1.446 do các học giả của triều đình Sejong Đại đế, [31] [32]. Do ảnh hưởng áp đảo của học thuật cổ điển Trung Quốc (chiếm một vị trí tương tự như tiếng Latin ở châu Âu ) suốt nhiều thế kỷ thứ chữ quốc ngữ này rất ít được dùng đến. Giáo Hội Công Giáo là tổ chức Hàn Quốc đầu tiên chính thức lấy chữ quốc ngữ của Hàn làm công cụ ưu tiên. Đức Giám mục Siméon-François Berneux buộc phải dạy cho tất cả trẻ em Công giáo biết đọc nó. [31] [33] Sách vở Kitô giáo in để dùng tại Hàn Quốc, kể cả những sách vở được dùng trong các trường do các giáo sĩ Kitô giáo thành lập, chủ yếu đều dùng Hàn ngữ với bảng chữ cái dễ học của quốc ngữ Hàn. Các nhân tố ấy kết hợp với nhau khiến tỷ lệ số người biết chữ tăng nhanh, và khiến giáo lý Kitô giáo lan rộng vượt khỏi tầng lớp trí thức vốn chuyên dùng chữ Hán. Đầu thập niên 1780, các phần của sách Tin Mừng đã được xuất bản bằng quốc ngữ Hàn; sách giáo lý “Jugyo Yoji” (Giáo huấn căn bản của Chúa) được xuất bản vào những năm 1790 và một quyển thánh ca Công Giáo đã được in vào khoảng năm 1800.

John Ross, một nhà truyền giáo Presbyterian người Scotland có trụ sở tại Thẩm Dương, đã hoàn thành việc dịch Kinh Thánh sang sang tiếng Hàn vào năm 1887 [34] và các vị lãnh đạo Tin lành đã phát hành một khối lượng lớn bản dịch này. Họ cũng đã thành lập những cơ sở giáo dục hiện đại đầu tiên tại Hàn Quốc. [35] Trường Paichai của hệ phái Methodist dành cho nam sinh được thành lập năm 1885, rồi trường Ewha Methodist dành cho nữ sinh (sau này trở thành Đại học nữ giới Ewha) vào năm 1886. Những trường ấy, và những trường tương tự được thành lập tiếp sau đó, đã giúp đạo Tin Lành lan rộng trong tầng lớp dân thường, và người Tin lành đã qua mặt người Công giáo, trở thành nhóm Kitô giáo lớn nhất tại Hàn Quốc. Trước kia phụ nữ không được đến trường nhưng giờ đây số phụ nữ biết chữ đã tăng vọt. [36]

KITÔ GIÁO DƯỚI THỜI HÀN QUỐC BỊ NHẬT BẢN CHIẾM ĐÓNG, 1910-1945

Nhật đã xâm chiếm Hàn quốc năm 1910. Với chế độ cảnh sát trị, họ đã tìm cách giảm thiểu ảnh hưởng của các nhà truyền giáo, đưa tới một hệ quả đáng buồn trong những năm 1911-1919. Những tuyên bố lý tưởng của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã góp phần làm cho tinh thần quốc gia của người Hàn tăng mạnh trong những năm 1920, nhưng rồi họ vỡ mộng khi phong trào bị thất bại không đạt được một cải cách có ý nghĩa. Năm 1924, người Tin Lành thành lập Hội đồng Kitô  giáo Toàn quốc Hàn để điều phối hoạt động bằng cách chia thành các khu vực được phân công cụ thể cho các hệ phái Tin Lành khác nhau. Tin Lành Hàn Quốc cũng thành lập những nhóm truyền giáo cho người Hàn hải ngoại, cách riêng là ở Trung Quốc.

Kitô giáo tăng trưởng đều đặn, vào giữa những năm 1930, dân số Công giáo đạt tới 147.000, và Tin Lành 168.000. Những căn cứ lớn cho cả hai nhóm đều ở phía Bắc. Vào năm 1937, Giáo Hội Presbyterian của Hàn Quốc đã khá độc lập với sự hỗ trợ tài chính từ Hoa Kỳ; năm 1934 Giáo Hội Methodist đã trở thành tự trị và chọn một giám mục Hàn Quốc. Các nhà truyền giáo tích cực nhất bên phía Công giáo là các tu sĩ dòng Maryknoll, đã mở trường y khoa Maryknoll tại Pusan ​​năm 1964; nay là Đại học Công giáo Pusan. [37]

TINH THẦN DÂN TỘC CỦA NGƯỜI HÀN

Một trong những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến sự chấp nhận Kitô giáo rộng rãi tại Hàn Quốc là nhiều Kitô hữu đã kiên quyết đứng về phía chính nghĩa của Hàn Quốc suốt thời kỳ Nhật chiếm đóng (1910-1945). Trong thời gian này, Nhật Bản đã tiến hành một chiến dịch áp đặt văn hóa Nhật lên người Hàn cách có hệ thống, đặc biệt là đòi người Hàn phải tôn thờ Nhật hoàng. Thậm chí năm 1938, việc dùng tiếng Hàn đã bị cấm. [38] Tuy nhiên, tính chất đặc biệt Triều tiên của Giáo hội Hàn quốc đã nổi rõ và được lớn mạnh thêm trong những năm ấy do biết  bao Kitô hữu đã tỏ rõ sự trung thành với quốc gia. Trong khi hiến pháp sau này của Nam Hàn đảm bảo cả tự do tôn giáo lẫn sự tách biệt giữa Giáo hội và Nhà nước, chính phủ Hàn Quốc đã ủng hộ Kitô giáo, coi đây như là một giáo lý có sức ngăn ngừa ảnh hưởng ý thức hệ của quốc gia anh em láng giềng.

Ngày 01 tháng 3 năm 1919, một hội đồng gồm 33 nhà lãnh đạo tôn giáo và các chuyên gia được gọi là ” Phong trào 01 Tháng Ba” thông qua một Tuyên ngôn độc lập. Mặc dù phong trào do các lãnh tụ của Thiên Đạo giáo (một tôn giáo dựa trên học thuyết Khổng Tử) đứng ra tổ chức, 15 trong số 33 người ký tên là người Tin Lành, [39] và nhiều người trong số họ đã bị bắt giam. Cũng trong năm 1919, còn xuất hiện phong trào hô hào độc lập do người Công giáo chủ xướng, mang tên “Ulmindan” [40], và một chính phủ lưu vong do một chính khách hệ phái Methodist là Syngman Rhee cầm đầu cũng đã ra đời và tồn tại được một thời. [41]

Kitô giáo còn gắn liền với phong trào yêu nước hơn nữa khi một số Kitô hữu từ chối không dự các nghi thức tôn thờ Nhật hoàng mà luật pháp năm 1930 đòi buộc. [38] [42] Mặc dù việc từ chối ấy là do niềm tin tôn giáo thúc đẩy hơn là do xác tín chính trị, nó đã khiến nhiều Kitô hữu bị bắt giam, và trong con mắt của nhiều người Hàn Quốc, điều ấy vẫn đồng nghĩa với tinh thần dân tộc chống lại sự chiếm đóng của Nhật. [43]

THẦN HỌC VỀ DÂN CHÚNG

Các khái niệm Kitô giáo về giá trị cá nhân đã được đề cao trong cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân quyền và dân chủ ở Hàn Quốc. Trong những năm gần đây, cuộc đấu tranh này còn mang hình thức Thần học về Dân chúng.  Thần học về Dân chúng tại Hàn là một dạng thần học giải phóng, dựa trên khái niệm “hình ảnh Thiên Chúa” trong Sáng thế ký 1: 26-27, kết hợp với tâm thức “Hàn” trong truyền thống Hàn Quốc, thuật ngữ này không có từ tương  đương chính xác bằng tiếng Anh, và có nghĩa là một cảm giác đau đớn vô vọng không sao an ủi. Thần học về Dân chúng mô tả tầng lớp dân thường trong lịch sử Hàn Quốc như những người chủ chân chính của vận mệnh của mình. Hai trong số các nhà lãnh đạo chính trị nổi tiếng nhất của đất nước đã hưởng ứng Thần học về Dân chúng, là Kim Young-sam, tín hữu Presbyterian, và Kim Dae-jung, người Công giáo,. [44] Cả hai đã đấu tranh chống lại chính phủ quân sự chuyên chế ở Hàn Quốc suốt nhiều thập kỷ và đã thường xuyên bị bỏ tù nhưng rồi sau khi được phóng thích vào năm 1988, cả hai đã lần lượt trở thành Tổng thống của nước Cộng hòa dân chủ này.

Thần học về Dân chúng đã nổi bật vào những năm cuối của chế độ Park Chung-hee (1961-1979) với sự ra đời của một số phong trào xã hội Kitô giáo, như Phong trào Nông dân Công Giáo và Phong trào công nghiệp đô thị Tin Lành, vận động tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Chính phủ quân sự coi những phong trào này như một mối đe dọa cho sự ổn định xã hội, cho nên đã cầm tù nhiều lãnh tụ của họ; trong thực tế, những cuộc đấu tranh này trùng với một thời kỳ bất ổn dẫn đến đỉnh điểm là vụ ám sát Tổng thống Park Chung-hee vào ngày 26 tháng 10 năm 1979. [45]

BIẾN ĐỔI XÃ HỘI

Nhiều Kitô hữu Hàn Quốc tin rằng giá trị Kitô giáo đã tác động tích cực đến các mối quan hệ khác nhau trong xã hội. Xã hội truyền thống của Hàn Quốc đã được tổ chức tôn ti trật tự theo nguyên tắc Khổng giáo dưới quyền một vị vua được xem như con Trời. Phụ nữ không có quyền lợi xã hội, [46] con cái hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ, [47], cá nhân không có quyền nào khác ngoài những gì được quy định trong hệ thống xã hội. Cấu trúc ấy đã bị các giáo huấn Kitô giáo thách thức. Theo giáo huấn Kitô giáo, mọi người đều được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và vì thế ai cũng bình đẳng và có phẩm giá cốt yếu như nhau. [48] Theo Kim Han-sik, khái niệm ấy cũng hỗ trợ cho quan niệm quyền sở hữu tài sản là của cá nhân chứ không phải của gia đình (hay người đứng đầu gia đình).

Các Kitô hữu coi hoàng đế cũng chỉ là người và cũng ở dưới quyền của Thiên Chúa như các thần dân của ông, [49]. Các giá trị Kitô giáo ủng hộ cho việc giải phóng phụ nữ và trẻ em về mặt xã hội. [46] [47] Giáo hội cho phép các quả phụ được tái hôn (theo lời dạy của tông đồ Phaolô, ngược với truyền thống của các xã hội Đông Á vốn không cho phép),  cấm chế độ hầu thiếp và chế độ đa thê, và cấm ngược đãi vợ, cấm bỏ vợ. Bậc cha mẹ Kitô giáo được dạy phải coi con cái là quà tặng của Thiên Chúa, và phải chu toàn việc giáo dục con cái. [50] Cấm tảo hôn và cấm bỏ bê con gái (trong văn hóa Á đông, con gái thường ít được cha mẹ mong ước hơn so với con trai).

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Hàn Quốc trong những năm 1960 và 1970 thường được cho là do chủ trương của Park Chung-hee nhắm công nghiệp hóa hướng đến xuất khẩu, nhờ các giá trị văn hóa bản địa và tinh thần làm việc nghiêm túc, nhờ liên minh vững chắc với Hoa Kỳ, và nhờ nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Nhiều Kitô hữu Hàn Quốc vẫn xem tôn giáo của họ đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của đất nước trong hơn ba thập kỷ qua, họ tin rằng sự thành công và thịnh vượng kinh tế là dấu hiệu sự chúc lành của Thiên Chúa. [51]

Năm 2003 hai kinh tế gia Robert J. Barro và Rachel McCleary đưa ra một Một nghiên cứu cho thấy những xã hội càng có niềm tin cao vào trời và có mức độ đi nhà thờ nhiều càng có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. [52] Luận điểm của Barro và McCleary có ảnh hưởng lớn trong giới học thức sau đó, và theo một số nhà quan sát, nó hỗ trợ cho sự tin tưởng rằng Kitô giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công kinh tế của Hàn Quốc. [53] [54] Tuy nhiên nghiên cứu ấy đã bị các học giả như Durlauf, Kortellos và Tân chỉ trích (2006). [55] Từ năm 2000 có một xu hướng xây dựng những giáo đường vĩ mô khiến một số nhà thờ phải nợ tài chính. [56]

PHÚC ÂM HÓA

“Trong những năm 1960, Giáo hội đã đến với những người bị đàn áp, như gái mại dâm và lớp người lao động công nghiệp mới. Khi nền kinh tế Hàn Quốc phát triển, việc tìm lối thoát cho giới công nhân lao động nổi bật lên như một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của công tác truyền giáo . Giáo Hội thành lập ngành tuyên úy cho công nhân trong các nhà máy. Ngoài ra, nghĩa vụ quân sự là chuyện bắt buộc đối với nam giới ở Hàn Quốc, sự hiện diện của các tuyên úy quân đội cũng trở thành quan trọng không kém. Nhiều quân nhân cải sang Kitô giáo trong thời gian thi hành nghĩa vụ quân sự.” [57 ]

NIỀM TIN VỀ SÁNG TẠO

Ở Hàn Quốc, nhiều nhóm Kitô giáo đã tham gia vận động nghiên cứu về sáng tạo, đặc biệt là Hiệp hội Hàn Quốc nghiên cứu về sáng tạo (KACR) đòi phải hiểu sự sáng tạo theo sách Sáng Thế, và Hiệp hội Duyệt lại sách Giáo khoa (STR), một ủy ban thay thế cho chương trình Duyệt lại vấn đề Tiến hóa trong sách Giáo khoa (CREIT). [64] Đó là một nhánh độc lập của KACR, và đã tự tách khỏi học thuyết của KACR. [65] Đầu năm 2008, tại Seoul Land, một công viên giải trí hàng đầu, KACR đã tổ chức một triển lãm “khoa học về sáng tạo”, có hơn 116.000 lượt khách ghé thăm trong ba tháng, và đến năm 2012, họ thương lượng với công viên để tổ chức một cuộc triển lãm khác kéo dài suốt năm. [65]

Năm 2012, do áp lực từ STR, Bộ Giáo dục đã công bố duyệt lại nhiều sách giáo khoa trung học để loại bỏ một số ví dụ về tiến hóa, chẳng hạn như của ngựa và khủng long. [64] [65] [66] Người ta đã giới hạn vào việc loại bỏ hoặc sửa đổi một số ví dụ [67] hoặc do không còn được chấp nhận hoặc hiện đang tranh cãi; [64] sự thay đổi này không kéo theo việc loại bỏ sự tiến hóa hoặc đưa sự sáng tạo vào sách giáo khoa [67] Tuy nhiên, STR có kế hoạch tiếp tục đệ trình kiến nghị để loại bỏ quá trình tiến hóa của con người và sự thích ứng của mỏ chim, với mục tiêu cuối cùng là giảm thiểu vai trò của quá trình tiến hóa Darwin trong việc giảng dạy. [65]

XUNG ĐỘT TÔN GIÁO

Sự đối kháng giữa những người Tin Lành từ chương (tin rằng Kinh thánh đúng từng chữ) với Phật giáo là một vấn đề lớn cho việc hợp tác tôn giáo ở Hàn Quốc, đặc biệt là trong những năm 1990 đến cuối những năm 2000. [60] [71]

Ngược lại, người Công giáo Hàn Quốc với Phật giáo và các tôn giáo khác vẫn giữ được quan hệ hợp tác chủ yếu, một phần nhờ nhiều phong tục và triết lý Phật giáo và Nho giáo được hội nhập vào Công giáo Hàn Quốc, nổi bật nhất là việc tôn kính tổ tiên. [72]

Tác giả:  Phan Vĩnh Tâm (lược dịch)

Xì dầu do TQ làm, vô chai tại VN, ghi made in France

Xì dầu do TQ làm, vô chai tại VN, ghi made in France

Posted by: Viet VungVinh

 

Cách Nhìn “Bên Dưới” Hàng Chữ In Trên Nhãn Một Sản Phẩm
Huỳnh Chiếu Đẳng

Kính thưa quí bạn, hôm nay xin gởi đến các bạn một chuyện xó bếp nhưng chắc là quan trọng vì nó ảnh hưởng tới sức khỏe của các bạn:

Đó là cách “Nhận diện Chân Dung Của Một Sản Phẩm” nói rõ hơn là chân dung thật sự của một thực phẩm Trung Quốc hay là do người Trung Quốc ở ngoài lục địa làm ra mập mờ gạt bà con ta. Tại sao gọi là gạt bà con Việt Nam ta, thưa chúng thường chỉ bán tại tiệm thực phẩm (tại Mỹ) của người Hoa và người Việt (hay trên Internet). Tôi tin là những tiệm buôn ngoại quốc không lầm. Trường hợp điển hình bên dưới.
HCD (20-Apr-2014)

Số là một bằng hữu mang ba chai nước chấm nầy đến đố tôi coi thật hay giả. Theo lời một bằng hữu nầy thì nhiều người quen biết còn cải lại là đồ thiệt chánh tông.

bây giờ mời các bạn đi mua thực phẩm cùng với tôi. Tôi được lịnh cấp trên phải nghiên cứu về thực phẩm mọi mặt cho gia đình từ mấy chục năm nay. Do vậy tuy tôi không đi chợ nhưng các bạn đưa món nào ra tôi đoán được nó có những thứ gì không nên ăn pha trong đó.

Người Tàu biết rằng hễ để nhãn hiệu Tàu hay ghi Made In China, ghi Made in P.R.C.(P.R.C=Popular Republic of China=Làm tại nước Trung Hoa (Lục Địa) thì người ta không mua, nên tìm cách ghi né hợp pháp. (Để khi nào có dịp tôi sẽ nói về hàng chữ Made In “đủ thứ chữ mập mờ” của các người Trung Hoa. Họ tìm mọi cách né chữ Made In China và tìm cách “mập mờ” để bà con ta đọc sơ qua tưởng là sản phẩm của Mỹ).

Số là một bằng hữu mang ba chai nước chấm nầy đến đố tôi coi thật hay giả làm tại đâu. Hỏi thì tôi nói theo ý tôi. Còn phần các bạn thì suy xét theo ý mình. Bây giờ chúng ta đi chợ mua nước chấm thử coi nghe. Đây chỉ là một thí dụ về cách chọn mua thực phẩm của tôi xưa nay. Chọn thôi, còn mua thì tôi ít khi tự tay mua.

 
Hình chụp nhãn phía tay trái cả ba chai
 
Hình chụp nhãn phía tay mặt cả ba chai

Hai chai hai bên thì tạm coi như không giả đi, đế tính sau. Bây giờ chúng ta chú trọng tới chai nhỏ. Tôi phóng đại nhãn nó để các bạn xem. Đã được cho biết là “không thật”, có thể nó cũng là hàng thật nhưng “mập mờ” gạt bà con. Các bạn đọc nhãn nó và nhận xét coi sao, làm y như khi các bạn lựa mua nước “tương” trong tiệm thực phẩm Việt Nam hay của người Trung Hoa.

 
Đọc thử hàng chữ dưới cùng. In chữ Paris và in hình tháp Eiffel coi ngon lành. Ghi cả tiếng Anh lẫn tiếng Tây chung.
 
Các bạn chú ý tới nơi tôi ghi mủi tên trắng, nghỉ một chút đừng đọc tiếp coi có thấy chi lạ không (trừ hai mủi tên trên cùng sẽ nói sau).

Và đây là hình phóng đại cái nhãn dán bên tay trái của chai giữa (chai nhỏ):

 

Các bạn thấy chi lạ không?

Các bạn dừng lại tính toán y như khi đi mua nó trong tiệm coi bao lâu thì các bạn quyết định được nên mua hay không.
………..chờ …
………..chờ tính coi….

Tôi đưa cái chai nầy cho con tôi coi, chỉ trong vòng một phút nó nhìn thấy sai hai thứ:

– Cái sai đầu tiên là ghi Product of French: Không đúng chữ đúng tiếng Anh.

Phải ghi là Product of France. Chữ France (danh từ) là nước Pháp, chữ French là tĩnh từ, ghi như nhãn là sai. Các bạn để ý đi ít tháng nữa chai nầy ghi lại đúng văn phạm ngay. Rồi thì cũng có thêm nhiều người lầm, mà tôi cũng e rằng sẽ sập tiệm nếu cơ quan US FDA (hay chi đó) để mắt vào. Phải ghi thế nầy: Product of France hay thế nầy:

– Cái sai thứ hai thật rõ nét

Hình trên ghi là 200ml (200cc). Hình trên nữa ghi là 13 serving và mỗi serving là 150ml (150cc). Hai cái nầy chưởi nhau.

Chai chỉ có dung tích là 200 phân khối, thế mà ăn được 13 lần, mỗi lần 150 phân khối, vị chi theo bàn toán Tàu thì ăn được tới 13×150=1950 phân khối. Sơ ý tới mức đó thì chắc không phải là do người Pháp làm ra cái nhãn đâu.

Các bạn nghĩ sao về hàng chữ: “Vegetable and salty meals are used” trên cái nhãn chánh chai giữa (nhỏ). Tiếng Anh nầy ba trợn quá chừng. Tôi đoán ý của tác giả cái nhãn nầy muốn nói “ăn chay ăn mặn gì cũng dùng được hết”. Ông Tây ơi, nếu quả cái món nầy do mấy ông làm thì tôi lấy làm buồn giùm cho nước Pháp. Buồn là sao? Thưa buồn rằng (thìa là) cho tới bây giờ nước Pháp chỉ mới đuổi theo kịp nước Tàu về tiếng Anh.

Bây giờ tôi hỏi quí bạn vậy chớ người Pháp có thể nào in cái nhãn lỗi nhiều như vậy không?

***
Tới đây mà ngưng quả là vô duyên. Tôi tiếp tục nghiên cứu cho ra xuất xứ món nước tuơng nầy. Tìm hai câu trả lời cho hai câu hỏi:

1. Nó sản xuất nơi đâu? Nó ghi là Product of French mà, bạn nào tin nó do Pháp sản xuất thì đưa tay tôi đếm coi.

2. Và do ai làm ra? Tức là do ai: thí dụ người Pháp, người Hoa, người Việt, người Nhật… làm ra.

Tôi tin là phần lớn các bạn không thể biết được. Tôi thì cũng nhìn nhãn như quí bạn mà thôi, nhưng có kinh nghiệm hơi các bạn tới 20 năm về mua thực phẩm, nên tôi biết được.

Hẳn xưa nay các bạn biết đã nhiều lần tôi nói rằng đừng có tin những gì in trên nhãn mà phải đắn đo nghi ngờ. Ngoài chữ Product Of French (ba trợn không đúng văn phạm) ra, nó còn in mập mờ gạt các bạn hay quí bạn nội trợ thuộc nhóm thấy chữ là tin liền:

Thấy chữ USA thì tin ngay là hàng hóa Mỹ, không đâu tụi nó mánh lắm, nó ghi hợp pháp là “Phân phối bởi hãng V.L. Trading, USA” tức trụ sở hãng phân phối tại USA. Đại lý tại USA thôi, đại lý không phải là hãng làm ra món hàng.

Bây giờ trở lại câu hỏi cái món nầy sản xuất nơi đâu?

Nó nói là tại Pháp, đại lý phân phối tại Mỹ,

Bây giờ thì sai lung tung như vậy, sau nầy chúng ta sẽ thấy cái nhãn được in lại đúng mà mọi chuyện được hoàn hảo tươm tất hơn và lúc đó bà con ta lầm xuất xứ sâu hơn.

Hàng chục lần tôi nới với các bạn là barcode không nói được xuất xứ với kiểu làm ăn đa quốc gia hiện giờ. Thí dụ nước mắm Trung Quốc làm dõm mang sang Phú Quốc vô chai, chở qua Mỹ ghi rên chai sản xuất tại Phú Quốc Việt Nam ai mà kiện.

Tuy nhiên với món chúng ta thấy thì cái barcode nó ghi là

 

Ba số đầu barcode là 893. Và chúng ta dò trong list barcode (đúng phần nào thôi, đừng tin hẳn) sẽ thấy sản xuất tại Việt Nam.

 

Vậy thì chai nước tương nầy làm tại Việt Nam ghi là sản xuất tại Pháp, dùng chữ Tây và chữ Mỹ trên nhãn.

Câu hỏi số 1 trả lời rồi, sang câu hỏi thứ hai là do người nước nào làm ra?

Cái nầy bí mật bật mí do kinh nghiệm. Chúng ta nhìn đáy cái chai. Mời các bạn nhìn hình chụp:

 

Nhường hàng chữ Hoa cho quí vị biết đọc, thấy chữ Vạn Lợi Trading ở đây.

Nếu người Việt Nam làm sao lại có chữ Tàu trên chai, nếu người Tàu làm thì làm tại Việt Nam là nơi cầu chứng cái nhãn.

Kết luận về chuyện ai làm: Các bạn tự suy tính theo mình, tôi không biết người nước nào sản xuất.

Xin hiểu cho rằng, tôi chỉ trình với các bạn cách tôi lựa thực phẩm. Tôi không có nói là món nước tương nầy không phải sản phẩm của Pháp. Tôi cũng không nói nó ngon hay dở, không có khuyên nên mua hay không chi hết. Quí bạn hãy tin ở chính mình, đừng có tin tôi. Cái chai bạn tôi mua còn giữ đây để làm bằng.

Huỳnh Chiếu Đẳng

Bé Canada gốc Việt cần được hiến tủy để có thể sống còn

Bé Canada gốc Việt cần được hiến tủy để có thể sống còn
Nguoi-viet.com

CANADAAaryan Ðinh, bé trai Canada gốc Việt tại Ontario, mắc bệnh hiểm nghèo về máu, đang tìm người có tế bào thích hợp để có thể nhận hiến tặng tế bào mầm.

Aaryan Ðình Ali – một cậu bé người Canada gốc Việt 10 tuổi mắc bệnh aplastic anemia, căn bệnh hiểm nghèo bẩm sinh về máu. Ðây là căn bệnh hiếm (một triệu người có 2 người bị), cơ thể luôn thiếu máu do không tạo đủ huyết cầu. Hiện khoa học không có cách điều trị, trừ giải pháp duy nhất: em cần tìm một người hợp tế bào để có thể nhận hiến tặng tế bào mầm.


Bé Aaryan Dinh. (Nguồn: FB Match4AAry)

Ngày 20 Tháng Mười Hai vừa qua, em bị xuất huyết nội, gia đình phải đưa vào bệnh viện Nhi tại Toronto.

Jenny Dinh, mẹ Aaryan cho biết: “Bệnh viện đã có thể ổn định cơ thể em trong 36 giờ.” Ðó là 36 giờ liên tục truyền máu và steroid vào cơ thể em.

Cơ hội cứu sống em là phải thực hiện ghép tế bào gốc. Nhưng huyết thống hiếm hoi của em – cha Afghanistan, mẹ Việt – đang khiến việc tìm kiếm người hiến tặng càng khó khăn hơn.

“Mỗi nhóm chủng tộc có sự khác biệt về di truyền, do đó, với cha mẹ từ tổ tiên khác nhau sẽ tạo thách thức nhiều hơn,” Dena Mercer, phát ngôn viên của OneMatch, mạng lưới về tủy và tế bào gốc của Dịch Vụ Máu Canada, nói với CBC News.

Em Aariyan nhận được hỗ trợ rất lớn của các bác sĩ, y tá, bạn bè, gia đình, tất cả đã phát động một chiến dịch tìm người thích hợp để cứu mạng sống cho em. Mọi người nỗ lực nhắm mục tiêu vào người Trung Ðông và các dân tộc Châu Á, đặc biệt là Việt Nam, Afghanistan và vùng Trung Á.

Hiện nay, các điểm thử máu tìm người đã được tổ chức ở Toronto, Vancouver và Hoa Kỳ. Gia đình và bạn bè em cũng kêu gọi rộng rãi thông qua các phương tiện truyền thông xã hội.

Cộng đồng người Việt tại Toronto hiện đang tích cực lan truyền lời kêu gọi giúp em. Tại Hội Chợ Tết được tổ chức vào ngày 16 Tháng Giêng này, Hội
Người Việt Toronto sẽ phối hợp cùng tổ chức OneMatch, thiết lập một trạm thử nghiệm mong tìm được người có tế bào thích hợp để cứu em.

Bác Sĩ Lê Thuần Kiên, phó chủ tịch Ngoại Vụ Hội Người Việt Toronto cho biết, việc thử nghiệm rất đơn giản bằng phương pháp cheek swab. Chuyên viên y tế sẽ dùng 4 que bông gòn quẹt vào 4 nơi: khu hàm trên, hàm dưới của má phải và má trái để thu thập thông tin về di truyền tế bào của người muốn hiến tặng.

Ngoài ra, những ân nhân khắp nơi muốn hiến tặng cứu Aaryan cũng có thể liên lạc với Canada Blood Service (https//www. blood.ca/en/stem-cell) để nhận một bộ swab thử nghiệm. (L.Q.T.)

Chương trình H.O tái định cư: Tất cả là bước khởi đầu

Chương trình H.O tái định cư: Tất cả là bước khởi đầu

Cát Linh, phóng viên RFA
2015-12-31

Những thương phế binh VNCH trong một buổi nhận tiền từ thiện tại chùa Liên Trì, TPHCM hôm 9/4/2015.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Tiếp tục loạt bài về Tái định cư thương phế binh VNCH, Cát Linh xin gửi đến quí vị những lời chia sẻ của nhạc sĩ Trúc Hồ và Bà Hạnh Nhơn, là hai người sáng lập Hội H.O Cứu trợ thương phế binh, goá phụ VNCH và cũng chính là hai người đã phát động hé mở lại chương trình định cư cho các thương phế binh VNCH.

Trước tiên Bà Hạnh Nhơn cho biết:

“Chúng tôi rất mong mỏi việc đó. Tuy nhiên, việc này, đầu tiên là nhạc sĩ Trúc Hồ của đài SBTN phát động ra, nói với hội chúng tôi cung cấp danh sách thì được 580 người. Chúng tôi đã cùng với SBTN đi gặp bà Lora Funseth, ông McCain, dân biểu Alan Lowenthal, dân biểu Ed Royce. Ai cũng hứa yểm trợ nếu việc này được đưa ra bàn cãi ở Bộ Ngoại giao.”

Năm 1990, chương trình H.O cho các tù nhân chính trị phải chịu cảnh tù đày sau biến cố 30 tháng 4 đã mở ra một chương lịch sử lớn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam với gần 300 ngàn sĩ quan viên chức chế độ cũ cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vẫn là sức người có hạn. Vẫn còn rất nhiều những người lính sau khi kết thúc chiến tranh, dù là sĩ quan nhưng là thương phế binh nên họ không đi “học tập cải tạo”, không ở tù, và như thế, họ không đáp ứng được yêu cầu của dự luật H.O năm đó.

Từ tiếng kêu gọi của một người bạn bên kia bờ đại dương

“ Việc này, đầu tiên là nhạc sĩ Trúc Hồ của đài SBTN phát động ra, nói với hội chúng tôi cung cấp danh sách thì được 580 người. Chúng tôi đã cùng với SBTN đi gặp bà Lora Funseth, ông McCain, dân biểu Alan Lowenthal, dân biểu Ed Royce. Ai cũng hứa yểm trợ nếu việc này được đưa ra bàn cãi ở Bộ Ngoại giao.
-Bà Hạnh Nhơn”

40 năm sau, những phận đời lính oai hùng ngày nào, giờ đang trải qua những tháng ngày nhọc nhằn với một cơ thể không còn lành lặn. Không những khó khăn trong cuộc sống, con, cháu của họ cũng phải đối diện với những đối xử bất công trong xã hội. Họ chia sẻ nỗi niềm với những đồng đội cũ, những người may mắn hơn trong chương trình H.O hơn 20 năm trước. Và điều này đã làm cho nhạc sĩ Trúc Hồ cùng với nhóm những người H.O (Hội thương phế binh, cô nhi quả phụ do nhạc sĩ Trúc Hồ và Bà Hạnh Nhơn sáng lập từ năm 1992 đến nay)  nghĩ về việc vận động cho một chương trình tái định cư:

“Đây là tấm lòng thành thật của người Việt Nam ở hải ngoại từ tiếng kêu gọi của một người bạn ở bên kia bờ đại dương, là một thương phế binh sĩ quan gọi cho một người sĩ quan bên Hoa Kỳ, nói rằng có cách nào giúp cho họ đi không. Họ cũng là sĩ quan, gãy tay, gãy chân. Bây giờ con của họ bị đì, cháu của họ bị đì.”

Theo lời Bà Hạnh Nhơn, sau khi nhận được lời đề nghị từ nhạc sĩ Trúc Hồ, dân biểu Alan Lowenthal đã kêu gọi những dân biểu khác cùng đưa vấn đề này lên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.

Về phía nhạc sĩ Trúc Hồ thì ông cho biết mình đã tìm gặp ông John McCain, một trong hai tác giả của dự luật H.O để vận động mở lại chương trình tái định cư cho thương phế binh VNCH:

“Tôi gặp ông Alan, rồi đến ông Ed Royce, rồi đến ông John McCain. Tất cả những người dân biểu tôi gặp đều chỉ về ông John McCain hết, tác giả của đạo luât H.O. Tôi đã vận động ông McCain hai lần rồi, và sẽ tiếp tục vận động trong mùa bầu cử này.”

Chương trình được vận động từ hơn một năm nay. Cho đến ngày 17 tháng 12 vừa qua, năm vị Dân biểu Hoa Kỳ gồm các Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ Viện Quốc hội Hoa Kỳ, Dân biểu Alan Lowenthal, Dân biểu Christopher Smith, Dân biểu Gerald Connolly và Dân biểu Zoe Lofgren đã kêu gọi Ngoại trưởng John Kerry xem xét về việc có thể dùng các luật lệ hiện hành để tái định cư các Cựu quân nhân thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn sót lại tại Việt Nam.

Cho đến ‘Chương trình H.O nối tiếp’

000_Hkg10174176

Những thương phế binh VNCH trong một buổi nhận tiền từ thiện tại chùa Liên Trì, TPHCM hôm 9/4/2015

Như lời Bà Hạnh Nhơn đã cho biết, Hội H.O Cứu trợ Thương phế binh VNCH đã gửi 580 bộ hồ sơ của cựu sĩ quan thương phế binh để chờ xem xét cho chương trình tái định cư. Nói về lý do vì sao đối tượng của các bộ hồ sơ chỉ là sĩ quan, cả nhạc sĩ Trúc Hồ và Bà Hạnh Nhơn đều cho biết bởi vì chương trình mà họ vận động là một chương trình nối tiếp cho dự luật H.O đã có sẵn vào năm 1990. Thời gian để dự luật H.O được thực thi năm 1990 là phải trải qua 7 ,8 năm thương thảo, thay đổi rất nhiều điều lệ. Chính vì thế, theo Bà Hạnh Nhơn, không ai dám chắc rằng sẽ không phải chờ đến 7 hoặc 8 năm để làm hết tất cả hồ sơ cho các thương phế binh còn lại ở Việt Nam:

“Chúng tôi không phải là phân biệt đối xử mà không lo cho anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Mà tại vì có chương trình H.O có sẵn, và trước đây chính phủ Hoa Kỳ đã cho chương trình H.O để sĩ quan qua đây trước chứ không có chương trình cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Cái đó là do quyết định ở trên, chúng tôi không rõ. Bây giờ chúng tôi chỉ cho sĩ quan với cái số ít như vậy để cho người ta mở chương trình H.O đã có sẵn thì dễ hơn là mở ra 1 chương trình khác. chúng tôi xin hé mở chương trình H.O nối tiếp cho số sĩ quan thương phế binh qua trước cái đã rồi mình sẽ tính về sau.”

Nhạc sĩ Trúc Hồ cũng chia sẽ những ý tưởng của ông trong bước đầu của cuộc vận động này:

“Chúng tôi có nói với thượng nghị sĩ Việt Nam mình là bà Janet Nguyễn giúp một tay. Ý tưởng ban đầu là dựa vào dự luật H.O có sẵn. Mình chỉ muốn mở rộng thêm cái dự luật H.O thôi vì hồ sơ của thương phế binh, mà sĩ quan thì H.O đã có sẵn. Mình làm sao để người ta cộng thêm một số người mà dự luật này bỏ quên là những người sĩ quan mà thương phế binh. Những dân biểu mình gặp thì họ đã lên tiếng. Bà Janet Nguyễn thì lại muốn hết tất cả thương phế binh.”

Chưa có quyết định cụ thể

“ Hiện tại chưa có một quyết định nào hết. Chưa đưa ra bàn cãi gì hết. Chúng tôi rất dè dặt phổ biến, vì nếu đưa ra mà không được chấp thuận thì tội cho anh em ở Việt Nam người ta hy vọng quá. Cho nên chúng tôi vẫn âm thầm.
-Bà Hạnh Nhơn”

Cho đến thời điểm hiện tại thì chương trình này vẫn còn đang trong quá trình xem xét, chưa có một quyết định cụ thể nào từ phía Hoa Kỳ. Và theo như lời Bà Hạnh Nhơn cho biết, mặc dù lá thư của các vị dân biểu đã được gửi ra, nhưng thật sự đây chỉ là một sự khởi đầu:

“Hiện tại chưa có một quyết định nào hết. Chưa đưa ra bàn cãi gì hết. Chúng tôi rất dè dặt phổ biến, vì nếu đưa ra mà không được chấp thuận thì tội cho anh em ở Việt Nam người ta hy vọng quá. Cho nên chúng tôi vẫn âm thầm.”

Chính nhạc sĩ Trúc Hồ cũng nói rằng con đường phía trước còn rất dài, vì tất cả những gì mà ông và hội H.O cũng như chính lá thư của các vị dân biểu đều đang ở thời kỳ vận động cho việc mở lại chương trình tái định cư:

“Đây là những gì đang trong thời gian vận động, chưa có gì thật hết. Những người lính trong nước đừng nghe lời ai mà đưa tiền làm hồ sơ. Hiện giờ còn nằm trong vận động và những người dân biểu lên tiếng ủng hộ thôi.”

Bà Hạnh Nhơn bày tỏ sự lo lắng trước những thông tin không chính xác sẽ làm  cho số người thương phế binh VNCH ở Việt Nam hy vọng trong khi tất cả vẫn còn là bước khởi đầu:

“Hiện tại chưa có quyết định gì hết. mà bên này cứ tin đồn về Việt Nam làm rất tội cho anh em. Họ cứ tưởng là đã quyết định rồi, được rồi. Rồi có những dịch vụ đưa ra để làm giúp hồ với giá rẻ làm cho anh em rất tội nghiệp. Họ đang bình an, đang chấp nhận cuộc sống. Chúng tôi trấn an anh em là khi nào chính phủ Hoa Kỳ quyết định thì sẽ phổ biến rộng rãi, khi đó mới biết được chắc chắn.”

Vạn sự khởi đầu nan. 40 năm là một đoạn đường dài cho một cuộc đời, đối với những người lính thương phế binh VNCH năm xưa sẽ còn vô tận và gian nan hơn nhiều nữa. Cho dù tất cả chỉ là bước khởi đầu, nhưng chúng ta hãy cùng cầu chúc cho niềm hy vọng của những người lính ấy mau chóng thành hiện thực.

Chúc Mừng Năm Mới

Happy-New-Year-2016

Năm mới kính chúc quý độc giả, quí anh chị em, bà con thân mến được nhiều sức khỏe , niềm vui và được bình an trong mọi sự.

Nhức nhối vacin Việt Nam

Nhức nhối vacin Việt Nam

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-12-30

  • RFA

Một người đàn ông bế con đến cơ sở tiêm vacin ở Hà Nội

RFA

Sự kiện hàng trăm người chen lấn, giẫm đạp lên nhau từ 9h đêm cho đến sáng hôm sau để ghi danh tiêm vacin năm trong một và cuối cùng phải thất vọng ra về ở 182 Lương Thế Vinh, Thanh Xuân, Hà Nội chỉ là giọt nước làm tràn thêm chiếc ly nhức nhối về tiêm phòng cho trẻ em. Có thể nói rằng hiện nay, vấn đề tiêm phòng cho trẻ em là câu chuyện đầy may rủi và trắc ẩn cho trẻ em Việt Nam bởi hàng loạt cái chết đã xảy ra vì loại vacin này cũng như cách làm việc hết sức ầu ơ của ngành y tế Việt Nam.

Tính rủi ro quá cao

Một phụ huynh tên Hà, sống ở quận Thanh Xuân, Hà Nội, chia sẻ: “Cán bợ yt ế phường, xã họ làm việc mình thấy cũng không đáng tin cậy lắm. Nói chung là như trường hợp ở Quảng Trị, họ xạc (hút vào xilanh – nói theo ngôn ngữ nhà nghề) nhầm thuốc gây mê, sau đó chích cho tụi trẻ nên chết là chắc rồi. Họ không có trách nhiệm, cứ nhắm mắt nhắm mũi làm theo qui trình nên đâm ra tính mạng trẻ em nguy hiểm…”

Theo bà Hà, vấn đề tiêm vacin cho trẻ em luôn là nỗi trăn trở lớn của những bậc cha mẹ như bà. Bởi lẽ, hiện trạng xã hội Việt Nam đang là một hiện trạng đánh đu với mạng sống. Giải thích thêm, bà Hà cho rằng hầu hết vacin đều được đưa về các trung tâm y tế phường để chích. Trong khi đó, trình độ của cán bộ y tế phường là hết sức ầu ơ, chính vì trình độ ầu ơ, chuyên môn rất cà chớn của phần lớn cán bộ y tế phường mà mỗi lần đưa con đi tiêm vacin là một lần nhắm mắt đưa chân với hên xui may rủi.

Bà Hà nói rằng theo chỗ tìm hiểu của bà, hầu hết cán bộ y tế cấp phường xã, đều là những đảng viên Cộng sản trong phong trào đoàn vào những năm thập niên 1980, 1990 và họ được đào tạo chuyên một theo diện chín cộng hai. Nghĩa là thời đó, ai học đến lớp chín phổ thông, có gia đình thuộc diện có gốc có rễ trrong chế độ nhưng lại không thi nổi đại học thì được đào tạo thêm hai năm thực hành ở các bệnh viện huyện để thành cán bộ y tế.

Và hầu hết cán bộ y tế cấp xã đều làm việc theo kinh nghiệm và thói quen chứ không hiểu biết gì về tính năng hay tác dụng của những loại thuốc mới. Ví dụ như có vacin mới, loại năm trong một chẳng hạn, thì họ được đưa đi tập huấn vài ngày về kĩ thuật tiêm, tác dụng và dấu hiệu phản ứng xấu sau khi chích. Về phần khám sức khỏe trước khi chích vacin, hầu như làm theo kinh nghiệm là chính.

Có nhiều trường hợp mà theo bà Hà là hết sức buồn cười. Ví dụ như bà có hai đứa con nhỏ cách nhau hai tuổi, khi bà đưa đứa nhỏ đi chích vacin, cán bộ y tế thấy đứa lớn ngồi trên ghế khám là nhắm mắt nhắm mũi khám, khám xong ghi kết quả vào kết quả khám của đứa nhỏ và cho đi chích. Bà thắc mắc thì cán bộ y tế quát: “Tại sao bà cho đứa lớn ngồi vào ghế khám?”. Lúc này bà mới nói cho họ biết là chính cán bộ y tế bảo đứa lớn ngồi vào ghế khám trong khi nó chỉ đi theo em nó chứ không hề chích vacin. Cuối cùng, ông cán bộ y tế phường hỏi bà Hà sức khỏe đứa nhỏ có tốt không, bà nói tốt, ông cho chích vacin luôn chứ không hề khám đứa nhỏ.

Điều đó chứng tỏ cách khám sức khỏe trước khi chích vacin của cán bộ y tế phường chỉ có tính hình thức. Và nói một cách nghiêm túc thì họ cũng không có đủ khả năng để chẩn đoán sức khỏe cho đứa trẻ., Trong khi đó, lịch chích vacin chung cho cả nước là ngày 25 hằng tháng. Có ngày trùng với ngày Rằm âm lịch và việc chích diễn ra từ sáng sớm.

Người Saigon xếp hàng chờ tiêm vacin cho con

Người Saigon xếp hàng chờ tiêm vacin cho con

Bà Hà cho rằng lịch chích vacin như vậy hoàn toàn thiếu khoa học bởi trong những ngày Rằm, đồng hồ sinh học của đứa trẻ sẽ bị tác động mạnh bởi hấp lực mặt trăng, sức khỏe của đứa trẻ sẽ không bình thường, dễ bị phản ứng xấu với các chất lạ khi đưa vào cơ thể. Bên cạnh đó, chích vacin quá sớm như vậy cơ thể đứa trẻ cũng chưa hoàn toàn tỉnh thức bởi trẻ em cần ngủ đủ giấc, ăn uống no nê và có thời gian nghỉ ngơi sau khi ăn mới có thể chịu được việc chích vacin hay tiêm bất kì loại thuốc nào vào cơ thể.

Bà Hà cho rằng những cái chết oan nghiệt của các em bé ở Nghệ An, Quảng Trị, Hà Tĩnh sau khi chích vacin năm trong một có thể là phát xuất từ nguyên nhân sức khỏe của các em bé, chích thuốc lúc các em bé đói bụng, chích không đúng qui trình và vacin cũng không được bảo quản đúng qui trình. Tất cả những cái chết của các bé thơ sau khi chích vacin năm trong một, theo bà Hà là do trình độ chuyên môn của cán bộ y tế quá kém và nạn tham nhũng quá cao, lương tri nghề nghiệp cũng không có.

Trách nhiệm ngành y tế năm ở đâu?

Ông Kha, cựu cán bộ y tế quận, hiện sống ở quận Hà Đông, Hà Nội, chia sẻ: “Thứ nhất là cái qui chế, nó giống như mọi ngành khác nó bị cán bộ hóa. Tiêu cuẩn nghề nghiệp lại dựa trên pháp đồ, không ai dám chịu trách nhiệm. Người ta làm theo qui trình và không hề có suy nghĩ gì bên ngoài cái qui trình do nhà nước ban hành. Một khi cán bộ hóa, qui chuẩn hóa thì yếu tố tư duy sẽ bị kém…!”.

Theo ông Kha, vẫn có những cán bộ y tế phường và quận được học hành, đào tạo căn bản nhưng họ còn quá trẻ và chưa nắm bất kì quyền lực, trách nhiệm nào trong cơ quan. Hầu hết các trưởng trạm y tế cấp phường, xã trên cả nước đều là những cán bộ có trình độ “chín cộng hai” hoặc “mười hai cộng một” và sau này họ tiếp tục học chuyên tu, tại chức để tiến thân. Và chắc chắn là trăm phần trăm, không sót một mảy may nào cán bộ lãnh đạo y tế phải là đảng viên Cộng sản. Họ được mệnh danh “vừa hồng lại vừa chuyên” theo yêu cầu đặt ra của đảng và nhà nước.

Vì họ là đảng viên nên họ luôn trụ ở vị trí lãnh đạo mặc dù trình độ chuyên môn của họ rất thấp, nếu không muốn nói là không có gì trước yêu cầu quá khắt khe của thời đại khoa học công nghệ và y tế đã phát triển đến đỉnh cao. Bởi chính vì thiếu chuyên môn nhưng thừa quyền lực nên hầu hết các tuyến y tế từ xã đến huyện, tỉnh đều có nạn tham nhũng hoành hành, tham ô, móc ngoặt và hối lộ cũng không kém.

Bởi ngay từ đầu vào, muốn xin được việc, một điều dưỡng hay một bác sĩ mới ra trường phải bỏ ra một số tiền không nhỏ để đút lót lãnh đạo, và khi làm nghề, họ phải lấy lại số tiền đó, sau đó tiếp tục lấy lãi và lúc này, hấp lực đồng tiền kéo họ đi đến chỗ không có điểm dừng. Sức khỏe của bệnh nhân trở thành cái cớ để cán bộ y tế đục khoét, nhũng nhiễu.

Đặc biệt, ngân sách cũng như viện trợ hằng năm cho các tuyến y tế phường, xã là rất cao nhằm mua sắm những trang thiết bị hiện đại, xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng hầu hết các công trình hàng chục tỉ đồng, thậm chí hàng trăm tỉ đồng đều là những công trình sớm nở tối tàn, chưa hoàn thiện đã bong tróc, nứt nẻ bởi nạn tham nhũng, rút ruột và toa rập giữa cán bộ lãnh đạo với nhà thầu xây dựng.

Lấy một ví dụ nhỏ, ông Kha so sánh bản chi tiết xây dựng công trình nhà nước và công trình tư nhân. Ví dụ tiền công xây dựng của một công trình tư nhân nhà cấp bốn không có đổ trần bê tông hiện tại là 800 ngàn đồng trên mỗi mét vuông hoàn thiện. Nhưng với công trình nhà nước, bản chi tiết của mỗi mét vuông xây dựng sẽ gồm 800 ngàn đồng xây dựng cộng với tiền đắp tường, tiền chạy chỉ, tiền xử lý chống thấm, tiền làm đẹp trần nhà và đủ các loại tiền khác sẽ lên đến hai triệu đồng mỗi mét vuông, đó là giá chung trong xây dựng công trình nhà nước. Chưa kể đến nâng giá khống vật liệu xây dựng rồi sau đó rút ruột công trình.

Ông Kha chua chát đưa ra nhận xét là hầu hết các cán bộ lãnh đạo nhà nước, đặc biệt là lãnh đạo ngành y tế đều rất giỏi tính toán nâng giá công trình xây dựng nhưng lại kém về chuyên môn y học. Và chuyện này sẽ còn kéo dài rất lâu nếu như ngành y tế vẫn tiếp tục quan tâm đến viện phí, tiền dịch vụ y tế nhưng lại không quan tâm đến đạo đức, lương tâm từ lãnh đạo cao nhất đến cán bộ nhỏ nhất.

Câu chuyện vacin Việt Nam, nếu nói đúng bản chất thì cần phải tiêm cho mỗi cán bộ ngành y tế một mũi vacin chống tham nhũng, chống vô cảm, chống nói khoét, chống cậy quyền, chống hành hạ bệnh nhân – đó là mũi vacin năm trong một của cán bộ y tế trước khi họ được phép chích vacin năm trong một cho trẻ em.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

 

Vị tướng già trong nhà dưỡng lão

Vị tướng già trong nhà dưỡng lão

Nguoi-viet.com

Huy Phương/Người Việt

“Anh hùng mưu sự chẳng nên
Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời!”

(Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai)

DALLAS Một người bình thường lúc về già sống cô đơn trong nhà dưỡng lão đã là một chuyện buồn, một vị tướng lãnh đã từng bao năm trận mạc, hôm nay sống trong một nhà dưỡng lão quạnh hiu đã gây không ít cho chúng tôi những cảm xúc bùi ngùi đau xót khi đến thăm ông.

Cùng với anh Thái Hóa Lộc, chủ nhiệm tuần báo Người Việt-Dallas, chúng tôi đến thăm Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai vào một chiều Chủ Nhật mùa Ðông tại “Pleasant Valley Healthcare and Rehabilication Center, 1525 Pleasant Valley Rd., Garland, TX 75040.” Khi chúng tôi bước vào phòng, thấy ông đang ngồi trên chiếc xe lăn, ông cho biết đang thay y phục, nên chúng tôi tạm lui ra chờ. Khi trở lại, ông đã tươm tất hơn trong bộ đồ mới.


Ký giả Huy Phương và Thiếu Tướng Giai trong nhà dưỡng lão ở Dallas Ft Worth tháng 12, 2015. (Hình: Thái Hóa Lộc)

Nhận ra anh Lộc là người quen, thường thăm viếng ông, ông vui vẻ chuyện trò và nhờ chúng tôi đẩy ông ra ngoài phòng khách ngay lối ra vào, nơi mà các y tá có thể quan sát. Ở đây đã có nhiều ông bà già hiện diện, tất cả đều ngồi xe lăn. Ðây là một thói quen của ông, mỗi chiều, hoặc là ngồi đây vui hơn, hoặc là ông đang chờ ai đó, có thể vào thăm ông. Vào chiều Chủ Nhật, nhưng tôi không thấy có một thân nhân nào đến thăm những bệnh nhân ở đây, ngoài chúng tôi đang ngồi với Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai.

Ông chuyện trò rời rạc, khi đáp những của thăm hỏi của tôi, là người khách lần đầu đến thăm ông.
Lúc còn khỏe và tỉnh táo, trí nhớ tốt, mỗi tuần ba ngày, ông đến sinh hoạt tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên tại thành phố Garland.

Bà Ðỗ Kế Giai qua đời vào tháng 11, 2012 sau khi ông vào bệnh viện được ba tháng. Từ bệnh viện, ông được chuyển thẳng về trung tâm này.

Ông bà có tất cả bảy người con, một gái và sáu trai. Bốn người đều ở các tiểu bang xa, chỉ còn lại ba người con trai ở gần ông. Hiện nay, ông còn có thể tự ăn uống và lo chuyện vệ sinh cho mình. Ông đã ở đây hơn ba năm, và tỏ bày: “Ở đây buồn quá!”

Những vị cao niên nằm trong viện dưỡng lão như hoàn cảnh của ông, còn nhớ chuyện này chuyện nọ, còn biết buồn, biết vui, có lẽ cảm thấy khổ hơn là những người đã mất trí nhớ hoàn toàn.

Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai sinh năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đình điền chủ, ông theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên Quân Ðà Lạt, ra trường vào tháng 4, 1952, và đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, đóng tại Bắc Việt.

Lần lượt ông đã giữ các chức vụ tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù (1962), tham mưu trưởng Sư Ðoàn 25 BB, tư lệnh Sư Ðoàn 10 BB (tiền thân của SÐ 18BB-1966). Năm 1967 ông mang cấp bậc chuẩn tướng. Năm 1972, ông là chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân và được vinh thăng thiếu tướng vào tháng 4, 1974.


Hình Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai 42 năm về trước. (Hình: Gia đình cung cấp)

Ngày 28 tháng 4, 1975, Tướng Times bên Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp đưa cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông quyết định ở lại vì trách nhiệm của một tướng lãnh. Ngày 15 tháng 5, 1975, Cộng Sản đến nhà mời ông đi họp và đưa thẳng vào khám Chí Hòa, sau đó đưa ông cùng với các vị tướng lãnh khác ra Bắc Việt.

Ðến ngày 5 tháng 5 năm 1992, sau 17 năm ông mới được trả tự do, là một trong 4 vị cấp tướng cuối cùng ra trại với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo và Chuẩn Tướng Thiếu Tướng Lê Văn Thân.

Ông và gia đình được xếp vào danh sách H.40 nhưng cuối cùng được đôn lên H.07, đến Mỹ vào tháng 11 năm 1994 và định cư tại thành phố Garland, Texas.

Theo lời kể của anh Thái Hóa Lộc, không phải là thân thích của ông, người vẫn thường ghé thăm ông, cho biết ông thích ăn các thức ăn Pháp và thích nhâm nhi chút rượu, nếu có thể. Lúc còn khỏe, ông cũng sẵn sàng nói chuyện xảy ra trong thời loạn lạc, một số chi tiết về Ðại Tướng Cao Văn Viên liên quan đến vụ đảo chánh 1963, cái chết của Thiếu Tá Nhung và một số chi tiết nhưng ông yêu cầu không nên đưa lên báo chí.

Bây giờ có chuyện nhớ chuyện quên nhưng ông cho biết vào mùa Ðông thân thể thường đau nhức, “chỉ có Wishky mới trị nổi thôi,” điều mà bác sĩ hoàn toàn cấm, nhưng đôi khi các cô y tá cũng thông cảm cho ông, khi biết ông xưa kia là một tướng lãnh.

Ông tâm sự với chúng tôi, là ông đã nghĩ đến ngày ra đi và không sợ chết. Ngày ông mất, xin nhờ bên anh em thuộc binh chủng Nhảy Dù lo chuyện hậu sự cho ông tươm tất là ông cảm thấy mãn nguyện rồi.
Ông đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ dài ông đã làm trong nhà tù Bắc Việt sau 9 năm bị giam cầm (khoảng năm 1984.) Bài thơ dài 65 câu, lời thơ đầy bi phẫn, xót xa của một tướng lãnh thất trận và là của một người tù không bản án, vô vọng không có ngày về.

Chỉ trong vòng mười lăm phút, ông đã đọc đi đọc lại cho chúng tôi nghe bài thơ này ba lần, điều này chứng tỏ ông đã đi vào thời kỳ lú lẫn. Anh Thái Hóa Lộc cho tôi biết, ông thường vào thăm ông, mang thức ăn cho ông, và lần nào, anh Lộc cũng nghe ông đọc bài thơ này. Ông cho biết trong nhà tù ông đã làm bài thơ và ghi nhớ trong đầu, đọc đi đọc lại nên thuộc nằm lòng, mà không dám viết ra giấy.

Trong khi Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đọc đi đọc lại bài thơ viết trong nhà tù Việt Bắc, chúng tôi đã ghi âm lại và chép ra để các chiến hữu và độc giả hiểu được phần nào tâm sự của ông, một vị tướng già, thất trận đang sống những ngày cuối cùng xa quê hương, lẻ loi trong một nhà dưỡng lão xa lạ. Vì khuôn khổ của trang báo, chúng tôi chỉ xin trích một đoạn trong bài thơ của ông, bài thơ chưa đặt tên:

…“Ý thức hệ miền Nam kiếp nạn
Chín năm (1984) cố quốc dạ nào quên.
Không xoay thế cuộc, anh hùng lụy
Hào kiệt ngục trung, nợ nước đền.
Anh hùng mưu sự chẳng nên
Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời.
Mài gươm rồi để hận đời
Chôn vùi thế hệ lụy người tù chung.
Oán thế nhân, xin đừng trách nữa
Lỗi lầm này hãy sửa sai chung.
Ðem xương máu học bài đắt giá
Chi đem thành bại luận anh hùng.

(Ðỗ Kế Giai-1984)

‘Luật sư Trần Trừng Trị’ qua đời

‘Luật sư Trần Trừng Trị’ qua đời
Nguoi-viet.com

Ðức Tuấn/Người Việt


FOUNTAIN VALLEY (NV)
Khi niềm vui của mùa lễ Giáng Sinh chưa kịp đến, thì giới nghệ sĩ hải ngoại nhận được tin buồn, nghệ sĩ hài Kiều Linh, hay Phero Linh Kiều vừa qua đời lúc 6 giờ 20 chiều Thứ Tư, 23 Tháng Mười Hai, năm 2015, do bị ung thư phổi và ung thư gan.


Nghệ sĩ Kiều Linh trả lời phỏng vấn truyền thông. (Hình: Trần Quốc Bảo cung cấp)

Hầu như giới thưởng ngoạn biết đến tên tuổi nghệ sĩ hài Kiều Linh, qua vai hài Luật Sư Trần Trừng Trị, trong một chương trình ca nhạc do trung tâm Thúy Nga thực hiện.

Nhạc sĩ Thành Hammer cho chúng tôi biết, nghệ sĩ hài Kiều Linh trước đây từng là thành viên trong ban nhạc Chí Tài Brother, tài nghệ của anh là sử dụng kèn saxophone.

Sau đó anh chuyển sang diễn hài với vai diễn đầu tiên là luật sư “Trần Trừng Trị,” đó cũng là vai diễn khẳng định tài năng mang đến tiếng cười cho khán giả trên sân khấu kịch, cũng từ sau vai diễn đó anh hóa thân từ nhạc công trở thành diễn viên chuyên đóng những vai hài, hay vai bi trên các sân khấu kịch tại hải ngoại.


Nghệ sĩ Kiều Linh trong một vai diễn. (Hình: Trần Quốc Bảo cung cấp)

Nghệ sĩ Trần Quốc Bảo nói với nhật báo Người Việt:”Anh Kiều Linh phát giác bị ung thư phổi từ Tháng Tư năm 2014, anh vào bệnh viện nhiều lần, tuần trước anh được bác sĩ cho về, vì không còn cách cứu chữa, lúc đó bác sĩ tiên đoán anh sẽ ra đi bất cứ lúc nào trong vòng 12 tuần, nhưng không ngờ thời gian cướp đi sinh mạng của anh nhanh quá, vì chỉ mới được vài ngày thôi.”

Cách đây khoảng 6 tháng trước, nhật báo Người Việt có tìm đến anh, xin được phỏng vấn để có bài viết nói về anh trên trang ca nhạc điện ảnh, nhưng lúc đó anh từ chối khéo, không tiếp nhận phỏng vấn, với lý do: “Cho tôi hẹn một dịp khác thuận tiện hơn.”

Nghệ sĩ Kiều Linh ra đi để lại một vợ, và 3 người con.

Nhật báo Người Việt sẽ cập nhật tin tức với độc giả, về lễ an táng của người nghệ sĩ tài hoa này.

Người Việt thích rượu bia hay sách báo?

Người Việt thích rượu bia hay sách báo?

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-12-25

Những người tham dự lễ hội bia hàng năm của địa phương tại Hà Nội vào ngày 07 Tháng Mười Hai 2014.

Những người tham dự lễ hội bia hàng năm của địa phương tại Hà Nội vào ngày 07 Tháng Mười Hai 2014.

AFP

Theo báo cáo tổng kết năm 2015 , được báo chí trong nước đăng tải lại, người Việt đã chi ra trên sáu chục ngàn tỷ đồng vào bia rượu nhưng chỉ hai ngàn tỷ đồng để mua sách đọc.

Nên hay không nên dựa vào số liệu này để cho rằng người Việt ngày nay thích ăn nhậu hơn là thích đọc sách ? Thanh Trúc tìm câu trả lời tromg bài sau đây:

Báo cáo tổng kết 2015 và chương trình công tác trọng tâm 2016 của Cục Xuất Bản, In Và Phát Hành thuộc Bộ Thông Tin –Truyền Thông, cho thấy tính đến lúc này toàn ngành đã xuất bản được hơn 24.000 cuốn sách với trên 270 triệu bản, bên cạnh 375 loại văn hóa phẩm với hơn 22 triệu bản.

Và theo đó tổng doanh thu toàn ngành đạt hơn 2.000 tỷ đồng.

Trong khi đó theo số liệu mới nhất của Bộ Công Thương, tính đến tháng Mười Một 2015 thì sản lượng bia các loại ở trong nước đạt 3 tỷ lít, tăng 6,8% so với cùng thời gian năm ngoái.

Như vậy, theo các chuyên gia, với hơn 3 tỷ lít bia hàng năm trị giá 63.000 tỷ đồng, Việt Nam là quốc gia tiêu thụ bia cao nhất Đông Nam Á, đứng hàng thứ ba Châu Á tức chỉ thua Nhật Bản và Trung Quốc.

Điều này cho thấy khoản tiền 2.000 tỷ mà người Việt chi ra cho việc đọc sách rất ít ỏi, chỉ bằng 1/3 so với trên 63.000 tỷ đổ vào những buổi nhậu nhẹt bia rượu.

Phải chăng việc đọc sách, hay có thể nói là văn hóa đọc của người Việt ngày nay, đang bị lấn át bởi những thú giải trí nặng phần hưởng thụ khác. Được hỏi ý liến việc này, viện trưởng Viện Thông Tin, Khoa Học Và Xã Hội ở Hà Nội, giáo sư tiến sĩ Hồ Sĩ Quí nói:

Câu hỏi rất thú vị nhưng chuyện này thì khắp thế giới chứ cứ gì ở ta. Người Mỹ, người Anh hay người Pháp cũng thế, bỏ tiền uống bia uống rượu chứ bỏ tiền mua sách mấy, sự thực là thế chứ không phải khác đâu. Một chai rượu mua bao nhiêu cuốn sách cho nên điều ấy không kết luận được cái gì cả, không nên hàm ý ở đây để nói rằng người Việt mình không quan tâm đến sách vở hay không quan tâm đến tri thức .

“ Chuyện chê người Việt ít đọc sách tôi cho là không đúng, ấy là chưa nói đến sách vở 10 cuốn thì 9 cuốn vứt đi, nhiều sách cũng chẳng cần phải đọc vì đọc vào càng dốt đi thì đọc làm gì

Giáo sư tiến sĩ Hồ Sĩ Quí”

Tôi nghĩ chuyện mua sách và đọc sách thì người Việt mình không có gì đáng chê trách lắm đâu. Cụ thể thì đúng là có những người cần đọc họ lại không đọc, còn người lao động chân tay suốt cả ngày thì sách cuốn nào đọc được tốt cuốn đó , chẳng đọc cũng chả sao. Chuyện chê người Việt ít đọc sách tôi cho là không đúng, ấy là chưa nói đến sách vở 10 cuốn thì 9 cuốn vứt đi, nhiều sách cũng chẳng cần phải đọc vì đọc vào càng dốt đi thì đọc làm gì.

Từ Hà Nội, nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng nhận định:

Trong số có khả năng tiêu xài thì những người bỏ tiền ra mua sách rất ít. Tôi cũng là người in sách, dịch sách, in sách ra chủ yếu chỉ là tặng hay biếu chứ không hy vọng người ta mua sách của mình. Các phương tiện nghe-nhìn hấp dẫn người ta hơn thói quen đọc sách.

Riêng Việt Nam có một nguyên nhân mà tôi cho rất quan trọng, tức là xã hội không coi trọng người có những kiến thức tiếp thu từ sách. Nếu nói đơn thuần sách để giải trí thì quả thực nó không lại những phương tiện giải trí khác. Đọc sách để truyền bá kiến thức, nâng cao cái hiểu biết cái tầm suy nghĩ của trí tuệ thì đó là điều có lẽ trong xã hội Việt Nam bây giờ không ai khuyến khích mấy.

Sách cũ được bán theo kg không cần biết nội dung, thể loại.

Sách cũ được bán theo kg không cần biết nội dung, thể loại. (Vietnamnet)

Đối với nhà giáo Phạm Toàn, chuyện ít đọc sách là một thực trạng đáng buồn cho Việt Nam:

Nhìn vào những cửa hàng sách thì biết, có tác phẩm mới đâu, dịch những tiểu thuyết ba xu, tiểu thuyết tình vớ vẩn. Vào thư viện giờ cũng nghèo nàn lắm, tổng quát là như thế . Việt Nam rất ít mua sách, rất ít người đọc sách bây giờ . Trẻ con chỉ có đọc truyện tranh mà người lớn cũng đọc truyện tranh. Giáo viên dạy Kiều mà không đọc truyện Kiều, dạy Tắt Đèn của Ngô tất Tố mà chỉ đọc trích đoạn thôi thì làm sao có chuyện đọc sách được. Người 30 tuổi hỏi Nhân Văn Giai Phẩm là gì thì chết rồi. Rất nhiều những cái thông thường nhất do sách mnag lại họ không biết gì cả, họ không có động lực.

“ Đọc sách để truyền bá kiến thức, nâng cao cái hiểu biết cái tầm suy nghĩ của trí tuệ thì đó là điều có lẽ trong xã hội Việt Nam bây giờ không ai khuyến khích mấy.

Dịch giả Hoàng Hưng”

Còn theo bà Tuyết, chủ nhân tiệm sách Hồng Đức ở thành phố Huế, cần phân biệt rạch ròi số đông thích đọc sách với số đông người thiêng về nhậu nhẹt mà nhiều phần do tiêu cực là chính:

Tình trạng gọi là chung chi mời đi nhậu này kia là vấn đề như một tệ nạn. Giới trẻ thì lại ít tiêu cực hơn, may mắn thay là họ vẫn mê sách hơn, số người đó cũng nhiều chứ không phải là ít.

Nếu như sách hay thì người ta mua nhiều nhưng tiếc là sách hay ít quá. Thế hệ của chị hồi mới lớn đọc rất nhiều sách nước ngoài, giờ chừ thì quá ít sách hay. Bây giờ có sách hay người ta vẫn đọc, người ta vẫn thích mua sách giá cao.

Vẫn theo lời chủ nhân nhà sách Hồng Đức, nói rằng người Việt ít đọc sách là một kết luận khá bi quan. Vấn đề ở đây, bà khẳng định, giá sách ở Việt Nam có phần cao túi tiền những người thích đọc:

Có dịp mà sách cũ xả ra thì sinh viên bu đông, giảm 50% hay 70% thì học sinh ào vô mua nhiều lắm, chứng tỏ họ rất muốn mua sách nhưng mà giá sách rất là cao. Ví dụ một cuốn sách 100.000 mà giảm giá còn 30.000 thôi thì họ mua rất nhiều, tức nhiên họ vẫn ham muốn đọc sách nhưng họ không có tiền.

“ Uống bia uống rượu nhiều có thể xấu cho gan, cho thận, cho sức khỏe của mình, làm đầu óc mình không tỉnh táo minh mẫn. Trong khi bỏ mấy trăm ngàn đó mua sách đọc cho trí tuệ, cho tương lai và được thưởng thức nghệ thuật thì cái nào hơn

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng”

Ngoài chuyện chất lượng thì có phải giá sách xuất bản ở Việt Nam cao hơn so với thu nhập trung bình của số đông người dân hay không. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, giám đốc Công Ty Sách Thái Hà:

Với tư cách thành viên ban chấp hành trung ương Hội Xuất Bản Việt Nam có trách nhiệm hỗ trợ các nhà xuất bản và kết nối tác giả dịch giả với bạn đọc, tôi phải nói sách Việt Nam hiện nay là không đắt. Một cuốn sách có vài chục ngàn, đắt lắm thì hơn 100.000, nhưng nói chung là chỉ khoảng vài chục ngàn một cuốn sách. So với tiền Đô là khoảng vài Đô một cuốn, rõ ràng không đắt so với mức lương vài triệu một tháng, còn lương cao là vài chục triệu chứ không phải vài triệu một tháng.

Nếu so sánh một bữa nhậu mất vài trăm ngàn ở bất cứ chỗ nào thì một bữa nhậu thông thường có thể mua độ chục cuốn sách. Một bữa nhậu mà thậm chí uống bia uống rượu nhiều có thể xấu cho gan, cho thận, cho sức khỏe của mình, làm đầu óc mình không tỉnh táo minh mẫn. Trong khi bỏ mấy trăm ngàn đó mua sách đọc cho trí tuệ, cho tương lai và được thưởng thức nghệ thuật thì cái nào hơn. Tôi nghĩ bạn đọc đủ trí thông minh để chọn đầu tư vào đâu.

Theo các chuyên gia quan tâm văn hóa đọc sách, nếu ý thức đọc của người dân chỉ hạn chế trong khoảng 2.000 tỷ đồng/ năm trong lúc thú uống bia tăng vọt đến 63.000 tỷ đồng/ năm thì khoảng cách hai bên sẽ càng ngày càng rộng hơn khi mà các nha kinh doanh đầu tư bia hy vọng rằng một người Việt sẽ có sức tiêu thụ 60 đến 70 lít bia một năm .

Để khuyến khích người dân đọc sách, ngày 10 tháng Giêng năm 2016 , lãnh đạo thành phố Sài Gòn, phối hợp cùng Sở Thông Tin- Truyền Thông và Hội Xuất Bản Sách, sẽ khai trương con đường đọc sách trên đường Nguyễn Văn Bình cạnh Nhà Thờ Đức Bà, qui tụ 20 đơn vị xuất bản sách trong nước.

Đến ngày 7 tháng Hai 2016, chạy 28 Tết, Lễ Hội Sách trên đường Nguyễn Huệ chính thức khai mạc và kéo dài trong một tuần.

Tiếp đó, từ ngày 21 đến ngày 27 tháng Ba 2016, Hội Sách TP Hồ Chí Minh hai năm một lần sẽ diễn ra tại công viên Lê Văn Tám.

Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới

christmas

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhân Mùa Giáng Sinh, Chúa xuống thế làm người ,

Xin cầu chúc quí thân hữu và độc giả luôn nhiều sức khoẻ và luôn được bình an của Chúa.

Ban Biên Tập Kẻ Đi Tìm.