Đại Hội Mẹ La Vang tại Las Vegas 2015

Đại Hội Mẹ La Vang tại Las Vegas 2015

Ghi ngắn của Đoàn Thanh Liêm

DoanThanhLiemĐại Hội Mẹ La Vang năm 2015 vừa diễn ra trong 3 ngày 16, 17 và 18 tháng Mười tại Đền Thánh Mẹ La Vang nơi thành phố Las Vegas thuộc tiểu bang Nevada. Đây là Đại Hội lần thứ VIII quy tụ đến trên 6,000 giáo dân đến từ nhiều tiểu bang lân cận, đặc biệt là từ California. Nhiều thánh lễ trọng thể đã được liên tiếp cử hành trong Đại Hội với sự chủ tế của Đức Cha Joseph A. Pepe là vị Giám mục sở tại và hai vị Giám mục đến từ Việt nam là Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên giáo phận Hải Phòng và Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống giáo phận Phan Thiết. Với sự đồng tế của trên 30 vị Linh mục đến từ nhiều địa phương ở hải ngọai cũng như ở Việt nam.

Chủ đề của Đại Hội năm nay là: “Cùng Mẹ Sống Chứng Nhân Hy Vọng”. Chủ đề này đã được phản ánh thật rõ nét trong các bài thuyết giảng tại buổi lễ cũng như trong các bài thuyết trình tại các cuộc hội thảo. Đặc biệt trong bài thuyết giảng vào Chủ nhật 18 tháng Mười, Đức Cha Vũ Duy Thống đã nhấn mạnh đến sứ mệnh tận tâm phục vụ trong mọi hòan cảnh của các tín hữu Công giáo – để góp phần vào công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô tại khắp nơi trên thế giới.

216193-Dai-Hoi-La-Vang-1-4

Cụ thể Đức Cha Thống cũng nhắc đến tinh thần hy sinh của các anh chị thiện nguyện viên trong Ban Ẩm Thực để phục vụ các bữa ăn cho tòan thể cộng đồng hành hương – mà tổng số lên đến năm sáu ngàn người trong suốt 3 ngày của Đại Hội – cũng như của rất nhiều em trong tổ chức Thiếu Nhi Thánh Thể, các Nữ Tu và các thành viên của Hội Đồng Mục Vụ đã không quản ngại công lao khó nhọc trong việc bảo đảm trật tự vệ sinh cũng như giữ được bàu không khí trang nghiêm đạo đức trong suốt các buổi lễ và hội thảo.

Cũng nên ghi thêm là các ca đòan từ nhiều giáo xứ ở xa như từ California cũng đã liên kết với nhau thành một ca đòan tổng hợp với số ca viên lên tới 50 – 60 người. Các thành viên đều được tập luyện riêng với nhau trong từng ca đòan cơ hữu của mình theo các bài hát đã được thỏa thuận chọn lựa từ trước – nhờ vậy mà đến khi các đơn vị này ráp nối lại chung với nhau thì mới đạt được sự ăn ý nhịp nhàng với nhau trong một ban hợp ca duy nhất.

Dai-Hoi-La-Vang-2-4

So với Đại Hội Thánh Mẫu được tổ chức vào đầu tháng 8 mỗi năm tại Missouri, thì Đại Hội La Vang tại Las Vegas vừa mới mẻ, nhỏ bé và khiêm tốn hơn nhiều. Nhưng nếu ta chú ý đến quá trình thành lập và phát triển của Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas, thì từ một nơi trước đây là khu đất hoang do các thành phần vô gia cư chiếm đóng gây tình trạng mất an ninh lộn xộn hỗn tạp với nạn ma túy, cướp bóc hòanh hành mà nay – do cố gắng kiên trì của tu sĩ và giáo dân Việt nam trong vòng chua đày 20 năm qua – chúng ta đã có một cơ sở truyền giáo thật có triển vọng tốt đẹp như ta thấy giữa vùng đất xưa kia là sa mạc của tiểu bang Nevada này.

Một phần do vị trí của Las Vegas tương đối gần gũi với California là nơi có rất đông giáo dân ở cả hai khu vực phía bắc như San Jose, San Francisco và khu phía nam như Orange County, San Diego – mà đi xe đến viếng Đền Thánh Mẹ La Vang thì chỉ mất chừng 6 – 7 giờ, nên nhiều bà con có thể đi lại thuận tiện dễ dàng – nhất là đối với các vị cao niên với sức khỏe yếu kém không thể đi đường quá xa xôi mệt nhọc được. Thứ nữa là vào giữa tháng Mười, thì khí hậu tại Las Vegas vào mùa thu đã mát dịu nhiều, chứ không còn nóng bức như vào mùa hè với nhiệt độ oi ả nóng bức lên đến trên 100 độ F nữa.

Dai-Hoi-La-Vang3

Mặt khác nữa, đó là khách hành hương có thể nghỉ ngơi tại các khách sạn tương đối tiện nghi với giá thật nhẹ nhàng, đặc biệt dành cho các tập thể. Điển hình là có đến mấy chục xe bus lọai lớn cỡ 50 chỗ ngồi do các đòan thể như Hội Cao Niên, Liên Minh Thánh Tâm, Legio v.v… tổ chức, thì năm nào cũng có rất đông giáo dân từ California hưởng ứng tham gia. Đó là chưa kể đến con số hàng mấy trăm những xe hơi cá nhân do các gia đình tự tổ chức riêng với nhau nữa.

Rõ ràng là cộng đòan tương đối nhỏ bé khiêm tốn với chưa đến một ngàn gia đình tín hữu của Giáo xứ Mẹ La Vang tại Las Vegas (cả hai đều viết tắt là LV cả, nên thật dễ nhớ) – mà đã có những cố gắng hy sinh vượt bậc để tổ chức được một Đại Hội Thánh Mẫu hàng năm rất là thành công có sức thu hút được nhiều ngàn khách hành hương từ khắp nơi đến tham dự – như trong Đại Hội lần thứ VIII năm 2015 này.

Và đó cũng là một điểm son rất đáng phấn khởi, là niềm hy vọng tươi sáng cho tòan thể đại gia đình công giáo Việt nam ở hải ngọai – đặc biệt là ở phía bờ biển miền Tây (West Coast) của nước Mỹ vậy./

Costa Mesa California, ngày 19 tháng Mười 2015

Đoàn Thanh Liêm

Thông báo về bác Alan

Thông báo về bác Alan

ALANKính thưa quí vị,

Chúng tôi rất đau đớn loan báo để qui vị cùng biết là chồng và trưởng nam của gia đinh chúng tôi, Ái, ALAN PHAN đã được đưa vào cấp cứu tại bệnh viện Fountain Valley tối thứ Ba ngày 14 tháng 10 trong tình trạng hôn mê. Dù đã được cứu chữa, Ái vẫn không tỉnh lại và bác sĩ cho biết không có hy vọng hồi sinh nên gia đình Ái (vợ Ái(Melissa) và hai con của Ái) đã chấp nhận rút ống dưỡng khí vào ngày thứ hai này 19 tháng 10. Theo qui định của nhà thương, ICU chỉ cho vợ con được vào.

Vì vậy, sau đó khi Ái (ALAN) được đưa về nhà quàn, gia đình chúng tôi sẽ xin thông báo sau để quí vị đến viếng lần cuối.

Admin

Ngày 18/10/2015

————————————

Kính gửi BCA,

Vừa qua bác Alan có trở bệnh và hiện nay tình trạng sức khỏe của bác đang diễn ra rất xấu. Ngay lúc này, gia đình và bạn bè của bác vẫn đang cầu nguyện cho bác, do đó, dù là một sự hy vọng từ phép màu, nhưng cũng mong mọi người hãy chung tay nguyện cầu cho bác mau bình phục và sớm trở lại với trang Gocnhinalan.com thân thuộc của chúng ta.

Chân thành cám ơn.

Admin

http://www.gocnhinalan.com/bai-tieng-viet/thong-bao-ve-bac-alan.html

Rộ nạn buôn người ở Việt Nam dưới nhiều hình thức

Rộ nạn buôn người ở Việt Nam dưới nhiều hình thức
Nguoi-viet.com
CẦN THƠ (NV) – Tình trạng buôn người ở Việt Nam đang diễn biến phức tạp, nhất là các tuyến biên giới với quy mô ngày càng lớn. Chỉ trong nửa năm 2015, công an đã phát hiện thêm 200 vụ, liên quan 310 người lừa bán 508 nạn nhân.

Một vụ xét xử sơ thẩm hai phụ nữ về tội buôn người ở Cần Thơ
vào Tháng Tám. (Hình: Thanh Niên)

Tờ Thanh Niên dẫn tin, ngày 17 Tháng Mười, tại hội nghị cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm mua bán người trên tuyến biên giới Việt Nam – Lào, và Việt Nam – Cambodia, do Bộ Công An tổ chức tại thành phố Cần Thơ, ông Hồ Sỹ Tiến, cục trưởng Cục Cảnh Sát Hình Sự, nhận định, tình hình sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng.

Theo phúc trình, các thủ đoạn buôn người cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tính chất hoạt động phạm tội xuyên quốc gia và hình thành nhiều đường dây, gây cản trở cho công tác điều tra, khám phá và giải cứu nạn nhân.

Tại biên giới Việt Nam – Lào, nạn nhân chủ yếu tập trung từ các tỉnh miền Trung đã bị đưa sang Lào làm gái mại dâm hoặc lao động khổ sai trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, các công trường và bị bóc lột sức lao động tại các khu khai thác khoáng sản.

Tin cho hay, bọn buôn người thường dụ dỗ, lừa gạt phụ nữ, trẻ em để đưa vào hoạt động trong các ổ mại dâm trá hình hay đưa đến các mỏ vàng, công trường xây dựng ở Lào để bóc lột sức lao động.

Ông Nguyễn Xuân Bắc, phó cục trưởng Cục Phòng Chống Tội Phạm Ma Túy, Bộ Tư Lệnh Biên Phòng, cũng cho biết, các dịch vụ giải trí như vũ trường, sòng bạc, massage phía Cambodia phát triển, kéo theo nhu cầu tuyển nhân viên nữ. Trong khi đó, một bộ phận phụ nữ ở các tỉnh miền Tây thiếu việc làm, trình độ thấp đã bị lừa gạt đưa sang Cambodia.

Chỉ trong năm 2014 và sáu tháng đầu năm 2015, các đơn vị chức năng đã phát hiện trên 1,000 phụ nữ, trẻ em đi khỏi nơi cư trú với lý do “đi làm ăn xa,” nhưng chủ yếu là qua Cambodia và Trung Quốc.

Cụ thể, năm 2014, Việt Nam có 469 vụ buôn người, liên quan 685 người và 1,031 nạn nhân. Khoảng trong nửa năm 2015, Việt Nam phát hiện thêm 200 vụ, liên quan 310 người đã lừa bán 508 nạn nhân.

Đáng lưu ý, theo ông Tiến, tình hình hoạt động tội phạm mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, trong đó có cả trẻ sơ sinh, học sinh tại các tỉnh biên giới phía bắc cũng diễn ra phức tạp. Chỉ riêng ba tỉnh Lào Cai, Hà Giang, và Lai Châu, trong sáu tháng đầu năm 2015, có 20 vụ xảy ra.

“Đây là những nạn nhân tiềm tàng của hoạt động mua bán người. Do vậy, số vụ trên tuyến biên giới Việt Nam – Lào, Việt Nam – Cambodia trung bình hàng năm chiếm khoảng 6% trên tổng số vụ buôn người được phát hiện ở Việt Nam,” ông Bắc cho biết.

Theo đánh giá của Tổng Cục Cảnh Sát, thời gian qua, những nhóm buôn người luôn thay đổi phương thức, thủ đoạn để ép các nạn nhân hoạt động mại dâm, ép làm vợ bất hợp pháp; mua bán người thông qua môi giới hôn nhân bất hợp pháp, cho nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài, thông qua hình thức đưa người lao động ra nước ngoài, đi du lịch, tham quan, đẻ thuê, mua bán trẻ sơ sinh… Các đối tượng chủ yếu đưa nạn nhân ra nước ngoài bán (chiếm 90%, trong đó sang Trung Quốc chiếm 70% tổng số vụ). (Tr.N)

Báo chí quốc tế đưa tin vụ “Cậu Thủy” lừa đảo hài cốt của liệt sĩ

Báo chí quốc tế đưa tin vụ “Cậu Thủy” lừa đảo hài cốt của liệt sĩ

RFA
2015-10-17

000_APH2000042811263-305.jpg

Những hài cốt bộ đội bị chết từ năm 1967 và 1969 được phát hiện năm 2000 tại thành phố Hồ Chí Minh.

AFP PHOTO
 
 Báo chí quốc tế đồng loạt đưa tin vụ Tòa án Việt Nam tuyên án chung thân cho Nguyễn Văn Thủy và 6 người khác với mức án nặng nề về tội lừa đảo hài cốt của liệt sĩ trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Các hãng tin AP, Reuters, AFP cũng như ABC, Washington Post đều có bài tường trình hay dẫn lại từ các nguồn tin của báo chí Việt Nam trong vụ án này.

Nguyễn Văn Thủy còn có biệt danh là “Cậu Thủy” tự xưng có thể tìm hài cốt thất lạc nhờ có khả năng ngoại cảm. Thủy cùng với đồng bọn tới các gia đình có con em là bộ đội mất tích trong chiến tranh ra giá từ 10 tới 15 triệu ứng trước và khi nào nhóm của Thủy tìm ra hài cốt sẽ đóng phần còn lại từ 100 triệu đồng trở lên.

Nhóm của Thủy trộm hài cốt của những liệt sĩ khác trong các nghĩa trang và đem về giao cho người bị lừa. Theo cáo trạng thì nhóm của Thủy đã lừa 70 gia đình với các hài cốt ăn trộm.

Vụ án được truyền thông quốc tế đưa tin không phải vì bản án nặng nề mà do tính lừa gạt tinh vi và qua mắt được dư luận cũng như chính quyền trong một thời gian rất dài.

Trước đây nhiều cán bộ đang tại chức cũng công khai đồng tình với những phong trào ngoại cảm và rất nhiều vụ lường gạt người dân đã xảy ra.

Báo chí Việt Nam cũng từng có thời gian chạy theo thị hiếu người dân thay vì phân tích sự việc theo hướng khoa học để ngăn cản các loại lừa đảo dưới dạng mê tín.

Thông Báo Tin Khẩn Cấp – LM JB Nguyễn Sang

https://www.youtube.com/watch?v=E46zZElCgfA

Thông Báo Tin Khẩn Cấp – LM JB Nguyễn Sang

Trong thời gian qua có nhiều người giả danh là LM Nguyễn Sang trên facebook và trên youtube nhằm lừa đảo đặt mua CD hay DVD cũng như quyên góp cho chương trình tiếng hát vì người nghèo do LM Nguyễn Sang phụ trách. (LM Nguyễn Sang hiện tại không có tài khoản chính thức trên facebook cũng như trên youtube)

Linh mục JB. Nguyễn Tấn Sang, hiện đặc trách Giới trẻ Giáo phận Mỹ Tho, chánh xứ Nhà thờ Ba Giồng thuộc Giáo phận Mỹ Tho. Ngoài công việc mục vụ chăm lo giáo xứ Cha còn quan tâm đến những người nghèo tại các vùng xa xôi hẻo lánh gặp rất nhiều khó khăn.Xin Ông Bà Anh Chị Em giúp đỡ cho chương trình Tiếng Hát Vì người Nghèo bằng cách mua ủng hộ CD & DVD Thánh Ca Gốc.

– Mọi chi tiết xin liên hệ: Cha Nguyễn Tấn Sang
NHÀ THỜ BA GIỒNG
Ấp Tân Quới, Xã Tân Lý Đông, Huyện Châu Thành,Tỉnh Tiền Giang
ĐT: 0918.32.33.00
Email: sangmytho2004@yahoo.com

GIẢI THÍCH -TẢN MẠN BA TÀU

GIẢI THÍCH -TẢN MẠN BA TÀU

Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:
“…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v… Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”.
“…Kêu Các-chú là bởi người Minh-Hương mà ra; mẹ An-Nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”.
“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-Nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc …”
Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê Ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa. Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:
Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ tíu Tiều Châu. Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.
Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.
Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang. Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại(Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.
Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ). Trong lĩnh vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.
Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị. Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.
Theo Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
– Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
– Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
– Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
– Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:
– Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
– Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
– Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về
Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu… Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).
Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi. Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?). Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá…còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!
Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.

Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại…Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc. Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “…Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa. Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).
Những từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…
Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.
Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay. Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối… Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.
Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướpngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng!
Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát. Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưa)
Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.
Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là „đại gia“. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…
Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.
Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos! Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).

Ảnh của Kimtrong Lam.
Ảnh của Kimtrong Lam.

Cựu Nghị Sĩ Jim Webb, cựu chiến binh Việt Nam, ứng cử tổng thống

Cựu Nghị Sĩ Jim Webb, cựu chiến binh Việt Nam, ứng cử tổng thống
Nguoi-viet.com

LAS VEGAS, Nevada (NV)Cựu Thượng Nghị Sĩ Jim Webb (Dân Chủ-Virginia) là người duy nhất còn nhắc tới kỷ niệm thời chiến tranh Việt Nam trong cuộc tranh luận của năm ứng cử viên tổng thống đảng Dân Chủ hôm Thứ Ba, 13 Tháng Mười, ở Las Vegas.

 
Cựu Thượng Nghị Sĩ John Webb trong cuộc tranh luận tối Thứ Ba. (Hình: Joe Raedle/Getty Images)

Khi điều hợp viên yêu cầu nêu lên một kẻ thù, bốn ứng cử viên kia đều nhắc tới những đối tượng mà người Dân Chủ vốn chống: ngành bảo hiểm, nhóm vận động cho kỹ nghệ than đá, giới tài chính Wall Street, hiệp hội dùng súng NRA.

Riêng ông Jim Webb trả lời: “Đó là những binh sĩ địch đã ném lựu đạn làm tôi bị thương” và thêm: “Nhưng họ không có ở đây để nói đến”.

Cựu Thượng Nghị Sĩ Jim Webb là thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Ông được tưởng thưởng huy chương Navy Cross do thành tích chiến đấu anh dũng được Military Times ghi lại. Sau khi cho nổ một trái mìn định hướng (claymore) mở lối vào địa đạo bắn hạ hai lính địch và tiếp tục lục soát những đường hầm khác, địch quân còn lại ném về phía ông một trái lựu đạn. Ông Webb đã dùng thân mình che chở cho các đồng đội và bị thương nặng nhưng vẫn chiến đấu cho tới khi tiêu diệt hết kẻ thù trong các địa đạo.

Ông Jim Webb, 69 tuổi, có lẽ là cựu chiến binh Việt Nam cuối cùng còn có thể ứng cử tổng thống. Gần nửa thế kỷ sau, những quân nhân Mỹ trong cuộc chiến tranh ấy nay đều đã ở lứa tuổi trên 70 và không còn trong thời gian hoạt động nhiều nữa.

Trong kỳ bầu cử tổng thống năm 2004 và 2008, hai ứng cử viên John Kerry và John McCain, cũng là hai thượng nghị sĩ, là các cựu chiến binh nổi tiếng. (HC)

Người Hoa đang đổ tiền mặt vào thị trường địa ốc Mỹ

Người Hoa đang đổ tiền mặt vào thị trường địa ốc Mỹ
Nguoi-viet.com

(CNBC) Từ những công trình phát triển đô thị tại thành phố Irvine nắng ấm của California, tới những tháp condo mới bóng loáng nhìn ra chân trời của Manhattan, New York, người Hoa đang đổ tiền mặt vào thị trường nhà ở tại Hoa Kỳ.

Theo Hiệp Hội Ðịa Ốc Toàn Quốc (NAR), hiện giờ người Hoa đứng đầu danh sách những người nước ngoài mua bất động sản trong nội địa Hoa Kỳ, và trong số đó gần nửa trả bằng tiền mặt, theo RealtyTrac, một công ty phân tích và mua bán bất động sản.


Gần một nửa người Hoa mua nhà trả bằng tiền mặt. (Hình minh họa: Getty Images)

Trong năm 2015, tính tới nay, khoảng 46% người Hoa mua nhà tại Mỹ bằng tiền mặt, tăng 229% so với một thập niên trước đây, trong khi tỉ lệ người mua nói chung trả bằng tiền mặt là 33%, tăng 65% so với một thập niên trước.

“Những người mua bằng tiền mặt thuộc mọi thành phần đang đóng một vai trò lớn hơn nhiều trong thị trường nhà ở hiện nay so với 10 năm trước đây, và điều đó đặc biệt đúng đối với những người mua bằng tiền mặt là những người Hoa nói tiếng Quan Thoại, những người thường không có quốc tịch Mỹ,” theo ông Daren Blomquist, phó chủ tịch của RealtyTrac.

Ông nói: “Những người ngoại quốc mua bằng tiền mặt đã giúp gia tốc việc tăng giá nhà tại Mỹ trong mấy năm vừa qua, lý do là những người mua này thường không bị kềm chế bởi lợi tức như những người mua tại địa phương, thường phải vay tiền ngân hàng để mua.”

Sự bất ổn gần đây trong nền kinh tế của Trung Quốc và thị trường chứng khoán đã thúc đẩy thêm người mua nhà tới Hoa Kỳ.

Những người Hoa có con cái thuộc mọi lứa tuổi muốn con cái họ được theo đuổi một nền giáo dục tốt, từ tiểu học tới đại học. Ðó là một trong những ưu tiên hàng đầu của những người Hoa mua nhà.

Người mua gốc Á Châu chiếm khoảng 35% mọi người ngoại quốc mua bất động sản tại Hoa Kỳ trong thời gian 12 tháng chấm dứt vào Tháng Ba, 2015, khi họ chi tiêu hơn $28 tỉ. Cho tới nay họ rất năng động trong các thị trường nhà đắt tiền, đặc biệt ở California và thành phố New York.

Theo bà Kathy Sloane, một địa ốc viên làm việc cho công ty Brown Harris Stevens ở Manhattan, nhiều người Hoa giàu có, thường đem theo con cái, muốn mua nhà ở New York. Họ muốn biết cách để con cái họ được thu nhận vào các trường học và làm cách nào để cha mẹ họ được chăm sóc sức khỏe.

Một vài người Hoa, nhưng chắc chắn không phải là tất cả, muốn những căn chung cư đắt tiền ở New York. Họ thường ưa nhà mới xây, như người ta thấy ở Irvine, California, nơi những nhà thầu xây dựng đang bán và ngay cả thiết kế nhà cho những người mua gốc Hoa.

Những người này không phải muốn chuyển tài sản ra ngoại quốc. Họ muốn thay đổi đời sống của họ và di chuyển ra khỏi Trung Quốc vì nhiều lý do khác nhau.

Giáo dục, y tế và triển vọng tăng giá nhà là những gì đang hấp dẫn những người mua gốc Hoa, trong khi cho tới nay họ thường nhắm vào những căn nhà đắt tiền, có thể các thị trường nhà vừa với túi tiền hơn như trong vùng giữa bờ biển Ðại Tây Dương sẽ bắt đầu chứng kiến nhu cầu gia tăng.

Tiền mặt là một lợi thế đặc biệt trong thị trường nhà đất eo hẹp ngày nay, và rõ ràng những người mua gốc Hoa ý thức điều đó. (n.n.)

Câu chuyện về nhà thơ Hữu Loan

Vài ngày gần đây, những tự sự của nhà thơ Hữu Loan, cha đẻ “Màu tím hoa sim nổi tiếng” đã tạo ra niềm xúc động lớn trong với cộng đồng mạng. Tự sự đớn đau này được chia sẻ rất nhiều trên Facebook tạo nên nhiều thổn thức. “Rất cảm động, vì sự chân thành, vì tình người, tính người. Và có thể hình dung cả bối cảnh một thời cuộc tao loạn. Mỗi số phận cá nhân đều chứa trong lòng nó những bi kịch của lịch sử” – (Kim Dung)

Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ “Màu tím hoa sim đầy xúc động”. Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn, đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.

alt

Nhà thơ Hữu Loan

Nàng có ba người anh

Đi bộ đội
Những em nàng, có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!

Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê …

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh …

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím 
áo nàng màu tím hoa sim 
Ngày xưa một mình 
đèn khuya 
bóng nhỏ 
Nàng vá cho chồng tấm áo 
ngày xưa… 

Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim …,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết 
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu

Hữu Loan

 Xin trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:

“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. 

Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. 

Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.

Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. 

Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. 

Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..

Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ…

Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. 

Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

– Thầy có thích ăn sim không ?

Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…

Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.

– Thầy ăn đi.

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:

– Ngọt quá!

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! 

Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! 

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. 

Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. 

Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”. 

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: “yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. 

Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. 

Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. 

Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..

Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! 

Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…

Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. 

Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. 

Đó là bài thơ Màu tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… 

Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời… từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều… Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!

Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…

Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông…

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý…

Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. 

Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản…

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. 

Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. 

Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . 

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. 

… Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc….

Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. 

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! 

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ…

Năm 1988, tôi “tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. 

Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán”.

Nhà thơ Hữu Loan

Mùa mưa ngập và đời hàng rong

Mùa mưa ngập và đời hàng rong

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
RFA

10122015-hanoi-rain-season-n-stree-vend.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

 Hà nội mùa mưa

Hà nội mùa mưa

 

 Những người buôn gánh bán bưng trái cây trên thủ đô, những người đạp xe cọc cạch từ con phố này qua con phố khác, từ ngày này qua tháng nọ, bươn bả kiếm cơm, những người bán quán vỉa hè cả nhà trông chờ vào nồi nhưn phở hay tủ bánh mì… Tất cả họ đang gặp khó khăn trong mùa mưa này, khi thành phố Hà Nội thi thoảng tự biến thành những dòng sông uốn lượn, người dân tự biến thau nhựa, thùng nhựa thành thuyền để bơi và nhiều người bán trái cây lang thang bắt cá trên phố để cải thiện bữa cơm. Chuyện như nói đùa nhưng lại rất thật trên thành phố Hà Nội.

Ế ẩm, buồn và lo…

Một người tên Lò gốc Hưng Yên, buôn trái cây tại thành phố Hà Nội, mỗi sáng, bà và những người buôn bán trái cây khác cùng chở trái cây ra đứng ở góc đường Yết Kiêu, gần tòa soạn báo Công an thủ đô để bán, quãng đường đi từ nhà trọ đến điểm bán cho bà nhiều trải nghiệm, bà chia sẻ: “Ngày bình thường thì cũng có khách nhưng mà trời mưa thì hàng bán kém lắm, không có khách, ế lắm! Ngày có khách thì bán được năm chục nghìn, nhiều thì trăm nghìn, ngày hiếm khách thì có khi không được đồng nào, khó lắm!”

Theo bà Lò, mùa mưa tới là mùa ế ẩm của nhiều loại hàng hóa bán dạo, không riêng gì trái cây mà hầu hết các loại hàng bán rong đều gặp khó khăn, từ việc di chuyển cho đến số lượng người mua. Bởi thường thì những ngày trời mưa, các gia đình hay chọn cách cùng nhau đi đến siêu thị vào cuối tuần để mua sắm hàng loạt và để dành dùng cho cả tuần, chỉ hiếm họa lắm mới có giới lao động nghèo mua hàng dạo.

Rất tiếc là giới lao động nghèo hiếm có ai sống ở trung tâm Hà Nội, hoàn toàn không có. Chính vì vậy, những ngày mưa, hầu hết người bán rau hành hay trái cây phải tản về các khu ngoại ô để bán. Và đây là khoảng thời gian đáng sợ nhất đối với họ. Vì đường sá mưa lạnh, có khi nước ngập đến gối, thậm chí có ngày nước ngập đến bụng, rau cải, trái cây bị ngâm trong nước dơ theo người, mỗi khi có xe lớn chạy qua, từng đợt sóng đánh ập vào hàng hóa khiến trái cây hay rau cải trôi lỏm ngỏm, lại phải đi nhặt từng bó rau, từng trái cam, trái táo trong dòng nước đục ngầu.

Và những bó rau, trái cây như vậy phải tìm nguồn nước sạch để rửa trở lại trước khi bán nhưng không mấy tự tin. Nhiều khi bà muốn bỏ đi nhưng nếu bỏ đi thì mất vốn, mà bán thì lại áy náy lương tâm. Nhiều lúc gặp một người lao động nghèo, cầm đồng tiền còn xoắn tròn do thói quen bó dây thun, lựa tới lựa lui rồi lựa trúng ngay những trái cam vừa rớt xuống nước để mua vì nhìn nó bóng bẩy, sạch sẽ, mặc dù rất áy náy nhưng bà cũng không thể nói thật với họ, xem như nhắm mắt làm liều vì chén cơm manh áo.

Cũng theo bà Lò, hầu hết người bán hàng rong đều là dân tỉnh đến từ Hưng Yên, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Ninh Bình, thậm chí Bắc Kạn tìm lên Hà Nội buôn thúng bán mẹt với ước mơ đời bớt khổ. Riêng bà Lò, với người chồng nằm liệt giường do bệnh tai biến não, một người mẹ già và ba đứa con, đứa đầu đi làm thợ hồ, hai đứa nhỏ còn học phổ thông, bà và đứa con trai đầu phải làm lụng cật lực để đắp đổi qua ngày cho cả nhà.

Trung bình, những ngày trời nắng, bà Lò kiếm được từ một trăm đến một trăm rưỡi ngàn tiền lãi từ việc bán trái cây hoặc rau đậu, bữa nào trúng lắm thì kiếm được chừng hai trăm ngàn đồng nhưng hiếm có ngày nào trúng như vậy. Mỗi ngày, sau khi mua thức ăn, trả tiền điện, tiền nước và tiền nhà trọ, bà dư được từ bốn chục ngàn đồng đến bảy chục ngàn đồng để gởi về quê lo cho gia đình.

Một cụ bà ngồi bán rau bên đường

Một cụ bà ngồi bán rau bên đường (RFA)

Bà Lò nói như cười mà như khóc rằng bà cũng là người trong số hiếm hoi những lao động nghèo tỏ ra mừng rỡ khi đường ống sông Đà bị vỡ. Vì ngày đó bà không phải tốn tiền nước cho việc giặt dũ, tắm táp, chỉ cần chờ đêm đến, đạp xe ra bờ hồ Tây, tìm chỗ để giặt và tắm luôn một lượt là xem như thành công, tiết kiệm được ít nhất cũng mười ngàn đồng.

Nhưng bà Lò cũng nói rằng bà không mong chi đường ống sông Đà bị vỡ nữa, bởi vì khi thiếu nước xài thì người ta cũng không có nước để rửa rau hay nấu canh, bán rau hay bán trái cây gì cũng ế ẩm vì đường ống vỡ. Chuyện tưởng như không liên quan nhưng lại rất quan trọng và có mối liên hệ mật thiết với nhau cả.

Công an rượt, chuyện cơm bữa

Một người bán trái cây khác tên Diễn, cũng thường đứng ở góc đường Yết Kiêu, Hà Nội, chia sẻ: “Mưa gió thì người ta đi lại khó khăn, ít người đi lại, hàng bán được có 50%, một nửa thôi. Mưa gió đi lại khó khăn, kinh tế nữa, phải có tiền thì mới mua được nhiều. Khó khăn là khó khăn chung, mưa gió bao giờ mà không khó khăn chung, người lao động ai cũng khó hết, phải có tiền thì mới tiêu thụ được hàng hóa chứ, chỉ có công nhân viên chức mới có lương bổng, thu nhập đều nó khác!”

Theo ông Diễn, bán trái cây bây giờ khó hơn trước đây rất nhiều, hơn nữa, đang là mùa mưa, mọi thứ cứ nhặng xị cả lên. Khi đường sá bị ngập, việc đi lại khó khăn, những con đường nào ráo nước trở thành nơi tập kết của lực lượng giao thông, góc ngã ba Yết Kiêu cũng không ngoại lệ. Mà khi công an giao thông hay công an khu vực đến đây thì cơ hội đứng bán trái cây, bán rau hay bán hoa hầu như không có. Người bán lo mà chạy trước khi họ ra tay.

Hoặc là bị hất đổ trái cây, tịch thu phương tiện làm ăn, hoặc là bị rượt đuổi chạy bán sống bán chết, hoặc là bị phạt với mức tiền rất nặng, chiếm đến bốn, năm ngày buôn bán. Nói chung, gặp công an là xem như tuần đó quá đen đối với người buôn bán hàng rong. Đối với con người, nhất là người lao động chân chính, buôn thúng bán mẹt để nuôi con ăn học mà đe nẹt, quát tháo, rượt đuổi, giật gánh… Tất cả những hành vi đó không hề có chút tính người.

Mùa mưa này, có biết bao nhiều gia đình phải bó gối trông chờ vào gánh rau, xe trái cây của những lao động nghèo giữa thủ đô. Và có bao nhiêu người trong số họ đủ sức khỏe để lội qua những con phố ngập nước, lội miệt mài ngày này qua ngày khác để kiếm cơm cho gia đình?!
Đây là một câu hỏi buồn cho những người bán hàng rong giữa lòng Hà Nội.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Việt kiều Mỹ bị đập đầu chết trong nhà giữa Sài Gòn

Việt kiều Mỹ bị đập đầu chết trong nhà giữa Sài Gòn
Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) Một ông Việt kiều Mỹ về thuê nhà sống một mình ở quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn, bị kẻ thủ ác dùng búa đập đầu giết chết mà không ai hay biết.

Thanh Niên loan tin, trưa 13 tháng 10, thi thể một người đàn ông đang trong quá trình phân hủy mạnh được phát hiện tại một căn nhà trên đường Phan Ðình Phùng, phường 1, quận Phú Nhuận.

Căn nhà nơi xảy ra vụ án mạng. (Hình: Thanh Niên)

Theo tin điều tra ban đầu cho biết, nạn nhân là Huỳnh Công Anh (68 tuổi), Việt kiều Mỹ về thuê nhà sống một mình tại đường Phan Ðình Phùng hơn 2 năm nay. Thường ngày, ông Anh vẫn ra vào hẻm 270 mua đồ ăn, thức uống…

Vào sáng 13 tháng 10, một người giao báo hàng ngày cho ông cảm thấy lạ vì đã 4 ngày nay ông Anh không lấy báo, nên đã thông báo cho chủ nhà trọ ở ngay nhà cạnh bên. Sau đó, chủ nhà phát hiện có mùi hôi thối liền báo công an. Khi công an đến hiện trường kiểm tra thì thấy thi thể nạn nhân đang trong quá trình phân hủy mạnh.

Một cán bộ trong đoàn khám nghiệm hiện trường cho biết, ông Anh được phát hiện chết tại lầu 1 căn nhà 3 tầng đã thuê trong tư thế nằm dưới sàn nhà, đầu chảy máu.

Tại hiện trường có một số dấu hiệu nghi vấn như xuất hiện vết máu trên công tác đèn, ở bậc cầu thang có một đôi dép nữ dính máu và một chiếc búa, một số đồ đạc trong nhà bị xáo trộn…

Nhiều nghi vấn có thể ông Việt kiều bị giết chết để cướp của. Hiện nguyên nhân cái chết của ông Anh đang được cơ quan chức năng điều tra. (Tr.N)