Bệnh viện lớn nhất tỉnh Bến Tre chia nhau từng lít nước ngọt

Bệnh viện lớn nhất tỉnh Bến Tre chia nhau từng lít nước ngọt
Nguoi-viet.com

BẾN TRE (NV) Ngày 14 tháng 3, bệnh viện Nguyễn Ðình Chiểu, thành phố Bến Tre, cho biết, bệnh viện vừa có kế hoạch chia từng lít nước vì thiếu nước ngọt trầm trọng.

Theo ông Lê Thanh Nguyễn, trưởng phòng Hành Chính Quản Trị bệnh viện, nước sinh hoạt bị nhiễm mặn gây ảnh hưởng cho quá trình điều trị cho bệnh nhân chạy thận nhân tạo, vận hành các máy xét nghiệm, nước và thực phẩm cho người bệnh và gây rỉ sét các dụng cụ y tế của các khoa trong bệnh viện.


Mỗi ngày, công ty cấp nước Bến Tre chở cho bệnh viện Nguyễn Ðình Chiểu 10 mét khối nước ngọt. (Hình: Tuổi Trẻ)

Do nguồn nước máy bị nhiễm mặn 3g/lít, không thể sử dụng nên mỗi ngày bệnh viện Nguyễn Ðình Chiểu được công ty cấp nước chở tới khoảng 10 mét khối nước mỗi ngày. Số nước này chỉ đủ để phục vụ những nhu cầu thiết yếu của bệnh viện và được chia ra từng lít cho các phòng, khoa.

Trong đó, khoa nội A – thận nhân tạo được cấp nhiều nhất với 10,000 lít nước/ngày, các khoa còn lại như ngoại tổng quát, ung bướu, ngoại thần kinh, chấn thương chỉnh hình và tim mạch chỉ được cấp 30 lít/ngày/khoa.

Nói với phóng viên Tuổi Trẻ, cùng ngày, ông Cao Văn Trọng, chủ tịch tỉnh Bến Tre cho biết, hiện chỉ còn vài nơi ở phía Bắc chưa ảnh hưởng, còn lại 162/164 xã, phường, thị trấn của tỉnh đều bị nước mặn “bủa vây” với độ mặn 1-3g/lít.

Tại các huyện ven biển Bình Ðại, Ba Tri, Thạnh Phú,… nước ngọt đang cực kỳ khan hiếm. Với nước ít nhiễm mặn người dân phải mua 100,000 đồng/khối. (Tr.N)

Nỗi khó xử của Giáo sư Lý Chánh Trung

Nỗi khó xử của Giáo sư Lý Chánh Trung

 Đòan Thanh Liêm

 Cũng như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung là giáo sư dậy môn Triết học

tại các Đại học ở miền Nam Việt nam trước năm 1975. Vì cả hai người đều

có tên là Trung, nên để phân biệt thì bà con thường gọi là Trung Lý, Trung

Nguyễn. Trung Lý thì viết ít, nhưng các bài nhận định thời sự đày tràn nhiệt

huyết của ông được nhiều giới trẻ hồi đó rất hâm mộ. Còn Trung Nguyễn thì

lại là một nhà biên khảo nổi tiếng với nhiều tác phẩm được phổ biến khá

rộng rãi trước 1975. Cả hai ông đều xuất thân từ trường đại học Louvain nổi

tiếng ở nước Belgique hồi đầu thập niên 1950. Nói chung, thì cả hai ông

giáo sư này là những trí thức có đầu óc cởi mở tiến bộ, chịu ảnh hưởng của

“phe tả, không cộng sản” ở Âu châu sau thế chiến, và không có mấy thiện

cảm với chính sách của người Mỹ ở Việt nam. Cả hai ông còn là thành viên

họat động của Phong trào Trí thức Công giáo Pax Romana, thời Đệ nhất

Cộng hòa, cùng với các Bác sĩ Nguyễn Văn Ái, Nguyễn Văn Thơ, Luật sư

Nguyễn Văn Huyền, các Giáo sư Phạm Thị Tự, Phó Bá Long, Trần Long,

các chuyên gia kinh tế Lâm Võ Hòang, Anh Tôn Trang, kỹ sư Võ Long Triều

v.v…

Lại nữa, có hai Dân biểu trẻ tuổi, năng động, người miền Nam với lập

trường đối lập với phe đa số thân chánh quyền của Tổng thống Nguyễn Văn

Thiệu mà hay được báo chí nhắc đến, thì cũng có tên là Chung, đó là Lý

Quý Chung và Nguyễn Hữu Chung. Đọc lên, thì tên Chung nghe cũng tương

tự như tên Trung, nên nhiều người khó phân biệt được. Cả hai ông Chung

này cũng vừa qua đời cách nay mấy năm rồi : Nguyễn Hữu Chung thì mất ở

Canada, còn Lý Quý Chung thì mất ở Saigon.

Lý Chánh Trung, ngòai việc đi dậy học lại còn làm việc lâu năm tại Bộ Quốc

gia Giáo dục với các chức vụ Công cán Ủy viên, Giám đốc Nha Trung học

và làm cả Đổng Lý Văn Phòng tại bộ này. Vào thời Đệ nhị Cộng hòa, ông

còn hay viết bài cho các nhật báo, tạp chí có khuynh hướng đối lập với

chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu. Là người xuất thân từ miền Trà Vinh –

Vĩnh Bình, ông Trung Lý sát cánh gần gũi với “ Nhóm Liên Trường” của

các nhà họat động chính trị xã hội của miền Nam trước năm 1975. Và một

bộ phận không nhỏ của Nhóm Liên Trường này đã vận động cho “giải pháp

Dương Văn Minh” để thay thế cho chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu.

Sau năm 1975, thì Lý Chánh Trung được cử làm Phó chủ tịch Hội Trí thức

Yêu nước và đặc biệt được sắp xếp ra tranh cử chức vụ Đại biểu Quốc hộ

tại một đơn vị bàu cử ở Saigon. Ông còn điều hành một văn phòng thường

trực của Đòan Đại biểu Quốc hội , tọa lạc tại đường Thống Nhất, nơi căn

nhà của vị mục sư phụ trách Nhà Thờ Tin Lành của những người nói tiếng

Pháp (Eglise Réformée de Langue Francaise). Vào hồi đầu thập niên 1980,

ông sát cạnh với cánh miền Nam để đòi hỏi cho có chánh sách phù hợp hơn

với người dân Nam bộ, mà sau này nổi bật nhất là “Nhóm Câu lạc bộ Kháng

chiến” do các đảng viên kỳ cựu như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng… lãnh đạo.

Và trong những năm tháng cộng tác với chánh quyền cộng sản sau năm

1975, ông Lý Chánh Trung đã gặp phải nhiều điều phiền phức khó xử, mà

điển hình là một số sự việc được mô tả như sau đây.

 

1/ “Triết học Mác Lênin là môn chẳng ai muốn học, mà cũng chẳng ai muốn

dậy”.

Vào năm 1988, báo Tuổi Trẻ có đăng một bài báo gây chấn động dư luận ở

miền Nam, đó là bài viết của Giáo sư Lý Chánh Trung có nội dung đại khái

như trên. Ông viết đại ý như sau : Là một nhà giáo dậy môn triết học đã lâu,

ông thấy hiện nay cái môn Triết học Mác Lênin đang được giảng dậy ở các

trường Trung cũng như Đại học ở Việt nam thì là điều áp đặt miễn cưỡng,

học trò chẳng ai muốn học, mà thầy giáo cũng chẳng ai thực sự còn muốn

dậy nữa. Lời phát biểu này quả là một trái bom nổ, phủ nhận hòan tòan cái

lối giáo dục “giáo điều, nhồi sọ “ cứng nhắc của người cộng sản.

Một ông cụ ngòai tuổi 70 mà đã rất phấn khởi khi được đọc bài báo này. Cụ

đã trao cho tôi một số tiền nhỏ và nhờ tôi gửi đến vị giáo sư tác giả bài báo.

Cụ nói với tôi : “Tôi chưa bao giờ quen biết với giáo sư Trung, nên phải cậy

nhờ đến ông vốn là chỗ thân quen lâu ngày với giáo sư, để trao đến tay tác

giả món quà nhỏ này, vốn chỉ là tượng trưng cho sự quý mến và khâm phục

của một ông già đã vào tuổi thất thập đối với vị giáo sư đã có sự can đảm nói

lên tiếng nói lương tâm như vậy…” Và tôi đã làm theo lời của vị bô lão này,

để trao tận tay cho giáo sư Trung nơi văn phòng của ông tại đường Thống

Nhất như đã ghi ở trên.

Nghe tôi trình bày, anh Trung đâm nghi ngờ và nói : “Món tiền này là của

chính anh có ý muốn tặng riêng cho tôi. Chứ làm gì mà lại có một ông cụ già

lạ hoắc nào rút bóp đem tặng tiền bạc cho tôi?” Tôi phải trả lời : “Anh

Trung, chúng ta quen biết nhau từ mấy chục năm rồi, việc gì mà tôi phải bày

ra cái trò này đối với một người bạn thân thiết của mình, để làm gì cơ chứ?

Anh không nên đa nghi như Tào Tháo ấy. Ông cụ là người đáng kính, là

người đồng hương đáng bậc vị anh cả của tôi. Cụ tuy chưa bao giờ gặp gỡ

anh, nhưng qua bài báo này, cụ cảm phục và muốn bày tỏ tấm lòng quý mến

đối với anh vậy thôi. Đó là tiêu biểu cho số quần chúng nhân dân tại thành

phố Saigon này, tôi nghĩ anh là một người Đại biểu Quốc hội, anh phải nhận

ra và trân quý đến cái tình cảm chân thật, sâu sắc như thế này chứ?…”Và rút

cục, anh Trung đã hoan hỉ tiếp nhận món quà và nhờ tôi gứi lời cảm ơn vị ân

nhân.

Ông cụ nay đã quy tiên từ lâu, nên bây giờ tôi có thể nêu danh tánh của

cụ.Đó là cụ Đinh Văn Năm, nguyên trước năm 1954 cụ đã giữ chức vụ Phó

Tỉnh trưởng Tỉnh Bùi chu, mà người dân địa phương đều biết đến và mến

chuộng đức độ và sự tận tâm phục vụ của cụ cả trong việc đời, lẫn việc đạo.

 

2/ “ May mà bây giờ có sự Đổi mới rồi, nếu không thì mình đã bị mất cái

đầu đi rồi”.

Vào đầu năm 1989, có tin đồn là ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh có rày

rà, ám chỉ giáo sư Lý Chánh Trung sao đó, ông nói đại ý như : “Có một số

người trước đây là đồng minh với chúng ta trong cuộc chiến đấu chống đế

quốc, thực dân. Nhưng bây giờ họ lại có lập trường khác, làm cản trở sự

nghiệp xây dựng đất nước của ta v.v…” Nghe vậy, tôi có đến gặp anh Trung

và nói ngay : “Tôi nghe thiên hạ đồn rằng bây giờ ông bạn giáo sư đang bị

“rét”, vì bị Tổng bí thư ” xát xà bông” làm sao đó. Sự thực ra sao vậy?” Anh

Trung liền trả lời : “Quả là bây giờ có sự Đổi mới rồi, chứ nếu không, thì

mình bị “ lấy mất cái đầu đi rồi” đấy! Nói xong anh bèn rút từ ngăn kéo ra

bức thư viết tay của ông Nguyễn Van Linh gửi cho anh và trao cho tôi. Bì

thư cũng như giấy viết đều là của một khách sạn ở Ấn Độ, nơi mà Tổng bí

thư mới đi thăm vào năm 1988. Bì thư cũng như lá thư đều được viết bằng

tay, nắn nót cẩn thận, có đề “ Xin gửi Anh Lý Chánh Trung (Nhờ các Anh

Thành Ủy chuyển giao). Nội dung bức thư hòan tòan có tính cách trấn an,

xoa dịu do ông Nguyễn Văn Linh gửi riêng đến với Lý Chánh Trung. Anh

Trung giải thích : “Đây là thư hồi âm của ông Linh gửi cho mình, vì trước đó

mình đã gửi thư cho ông ấy, nêu thắc mắc về sự ám chỉ trong bài nói chuyện

với cán bộ đảng viên, mà có liên hệ đến mình. Sự việc như vậy, kể như đã

tạm yên, thiết nghĩ chẳng cần phải bận tâm thắc mắc gì thêm nữa…”

 

3/ “Các anh định bắt tôi ư?”

Tháng Tư năm 1990, tôi bị công an bắt và đưa vào trại tạm giam trong khu

Tổng Nha Cảnh sát cũ. Đó là trong vụ càn quét bắt giữ các cán bộ đảng viên

nòng cốt như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu …, và bắt quản chế

linh mục Chân Tín, giáo sư Nguyễn Ngọc Lan… Trong suốt 3 tháng điều

tra, người phụ trách thẩm vấn tôi là Đại tá Quang Minh (tên thật là Ngô Văn

Dần). Có lần ông Quang Minh cho tôi biết là ông có đến tận nhà các anh Lý

Chánh Trung, Ngô Công Đức để cật vấn họ về họat động liên quan đến âm

mưu đòi “đa nguyên, đa đảng” sao đó. Ông kể lại : Ông Lý Chánh Trung có

ý thách thức tôi với câu hỏi rằng “Các anh định bắt tôi ư?” Tôi phải trả lời

rằng :”Nếu cần phải làm điều đó, thì chúng tôi vẫn có thể “rút lại cái quyền

bất khả xâm phạm của người đại biểu Quốc hội như anh đang nắm giữ hiện

nay được lắm chứ”. Ông Quang Minh mô tả là cuộc trao đổi giữa hai người

lúc đầu khá căng thẳng, gay gắt; nhưng về sau thì cũng ổn thỏa êm diụ thôi.

Chỉ có Ngô Công Đức, thì ông ta nói hơi sỗ sàng, đại khái ông Đức nói :

“Tôi có 2 điều không ưa : đó là tôi không ưa thích mấy người công an, và tôi

cũng không ưa thích người Bắc kỳ”. Tôi phải giải thích với ông Đức là “Phải

tốn biết bao xương máu, bây giờ nước nhà mới thống nhất. Thái độ kỳ thị

Nam/Bắc của ông như vậy là đi ngược lại với chiều hướng đòan kết, thống

nhất của tòan thể dân tộc chúng ta…”

 

4/ “Anh Trung Lý bây giờ bị lẫn mất rồi”

Đó là lời mô tả của anh chị Phó Bá Long nói với tôi vào giữa năm 2008, lúc

tôi đến thăm và ở lại nhà anh chị tại Virginia. Anh Long kể lại là vào năm

2007, anh chị có về Việt nam thăm lại bà con, bạn hữu. Và anh có đến thăm

gia đình Lý Chánh Trung vẫn ở căn nhà cũ tại khu Làng Đại học Thủ Đức

gần với xa lộ Biên hòa. Ban bè lâu ngày mới gặp nhau, nên có dịp tâm sự

nhiều. Thế mà anh Trung đã quên lãng rất nhiều, đến nỗi đi ra khỏi nhà

không xa bao nhiêu, mà anh cũng quên luôn lối trở về nhà nữa. Năm nay anh

Trung mới chỉ cỡ 83-84 tuổi thôi à!

Mấy tháng trước đây, thì Lý Tiến Dũng lại bị mất chức Tổng biên tập báo

Đại Đòan Kết của Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Dũng

chính là con trai trưởng của Lý Chánh Trung. Cháu đã đi bộ đội tham gia

chiến đấu ở Cambodia trên 20 năm trước và sau này gia nhập ngành báo chí

của chánh quyền cộng sản. Nhưng có lẽ cũng vì tiếp nối cái tinh thần khí

phách của cha mình, mà Dũng đã có đường lối thông thóang không phù hợp

với chánh sách “xiết chặt tự do ngôn luận của đảng cộng sản”, cho nên mới

bị lọai bỏ khỏi chức vụ như vậy chăng?

Như vây là về cuối đời, lúc đã về nghỉ hưu rồi, ông bạn giáo sư của chúng

tôi vẫn còn gặp điều khó xử nữa, xuyên qua cái vụ việc bị cất chức của con

trai Lý Tiến Dũng này vậy.

Và để tóm tắt lại, xuyên qua trường hợp của giáo sư Lý Chánh Trung như

đã trình bày sơ lược trong bài này, chúng ta có thể ghi nhận rằng : Con

đường hợp tác với người cộng sản ở Việt nam quả thật vẫn đày dãy chông

gai, trắc trở và bạc bẽo lắm vậy đó !

California, Tháng Chín 2009

Đòan Thanh Liêm

Mạn đàm về Đại học Việt Nam

Mạn đàm về Đại học Việt Nam

    Đoàn Thanh Liêm & Phạm Xuân Yêm

Bài này viết ra như một tiếp nối so với những gì mà GS Hoàng Tụy đã từ lâu nhận xét, đặc biệt câu sau đây trích trong Kỷ Yếu Sĩ phu Thời nay [1]: Thật ra, giáo dục và khoa học của ta không chỉ tụt hậu mà đi lạc ra ngoài con đường chung của thế giới, hết sức ‘không giống ai’ và đó là nguồn gốc của mọi vấp váp, khó khăn khi hội nhập nếu không kịp chấn chỉnh.”

1- Triết học không phải là một giáo điều

Đại cương, sinh viên ngành triết học được hướng dẫn về phương pháp suy luận và cách thức đặt vấn đề nhằm tìm hiểu sự thật trong cuộc sống nội tâm, cũng như khám phá ra những quy luật vận hành của xã hội, của vũ trụ nhân sinh. Triết học cũng trình bày cho sinh viên hiểu biết được lịch sử phát triển về tư duy và nhận thức của con người, nhờ vào những tìm kiếm nhẫn nại không ngừng của các triết gia tại Đông cũng như Tây phương, liên tục từ biết bao năm trường. Nói chung, môn triết học cung cấp cho chúng ta một chân trời luôn mãi mở rộng, một viễn tượng toàn cầu, một tầm nhìn thật là bao quát và thông thoáng. Đó là kim chỉ nam, tấm bản đồ giúp cho con người hướng thượng để đi tới mãi trong cuộc hành trình lâu dài của mỗi cá nhân, cũng như của toàn thể cộng đồng nhân lọai, mà không sợ bị lạc lối trong cái mê hồn trận của cuộc sống mỗi ngày một thêm phức tạp xáo động trong xã hội ngày nay.

Cũng như môn khoa học tự nhiên, triết học là cả một kho tàng kiến thức vô cùng phong phú và quý báu mà nhân lọai đã tích lũy được, trải qua bao nhiêu thế hệ tìm kiếm, phân tích và đãi lọc thành những sản phẩm tinh hoa của trí tuệ con người, không phân biệt sắc tộc, màu da hay khuynh hướng chính trị, học thuật và tôn giáo nào. Và như vậy, việc giảng dậy môn triết học không bao giờ chỉ tập trung, đóng khung chật hẹp vào một triết thuyết độc tôn duy nhất nào, mà trái lại cần phải giới thiệu cho các sinh viên tìm hiểu được nhiều trường phái triết học, các lý thuyết cổ xưa cũng như hiện đại của các nhà tư tưởng kiệt xuất của nhân lọai từ Đông sang Tây, Bắc xuống Nam.

Xin trích dẫn mấy dòng ngắn ngọn sau đây về sự tương đồng cũng như khác biệt giữa khoa học và triết học [2]:

Triết học nghiêm túc giống khoa học đích thực ở hai điểm:

1- đều dựa vào một số nguyên lý. Những nguyên lý này, ta chỉ có thể tán thành hay không, không chứng minh tuyệt đối, vĩnh viễn được. Do đó phát triển khoa học hay triết học đều đòi hỏi ý thức tự do và sáng tạo.

2- trên cơ sở đó, đòi hỏi một kiểu suy luận khắt khe, chặt chẽ, nhất quán xuyên qua những bộ ngôn từ tương xứng. Thiếu ngôn ngữ khoa học, không thể tiếp thu và phát triển tư duy khoa học. Thiếu ngôn ngữ triết học “cho ra hồn”, không thể tiếp thu và phát triển tư duy triết.

Triết học và khoa học khác nhau ở hai điểm :

1 – Giá trị của lý thuyết khoa học được xác định bằng thử nghiệm : ứng dụng nó thì hành động đạt được kết quả đã dự đoán. Lý thuyết khoa học đúng hay sai là phải do thực nghiệm kiểm chứng được hay không.

2 -Giá trị của triết thuyết được xác định qua nghiệm sinh của con người ở đời. Có thể bỏ mạng mà vẫn đáng sống.

Cả hai đều cần thiết để làm người. Nếu chua thêm được tí ti văn nghệ trong cuộc sống thực thì tuyệt.

Vậy mà từ lâu rồi, theo Trần Đức Thảo : “ở Việt nam không có triết học, mà chỉ có chính trị”, nền giáo dục Việt Nam lại đặt nội dung giáo dục ý thức hệ Marx-Lenin làm trọng tâm. Trẻ vào mẫu giáo đã nghe những bài hát chính trị. Người soạn sách giáo khoa nhiều khi cũng cố lồng chính trị vào, coi đó là một thành tích [3]. Việc giảng dậy môn triết học Marx Lenin tại các trường ở Việt nam từ mấy chục năm nay là một hạn chế khiên cưỡng, sinh viên phải học tập duy nhất có một học thuyết mà không được tiếp cận trên cùng một bình diện cả một vườn hoa tư tưởng muôn màu muôn sắc của nhân lọai. Rõ ràng là triết học do Karl Marx khởi xướng từ trên 150 năm nay và sau đó bổ xung bởi Lenin đã và tiếp tục là một đóng góp đáng kể cho nhân lọai, tuy nhiên nó không phải là một đường lối tư tưởng duy nhất, tuyệt đối và vĩnh viễn. Như vậy, thì lại càng không thể đem học thuyết này mà áp đặt trên quần chúng học sinh, sinh viên, buộc thế hệ thanh niên phải chấp nhận nó như một giáo điều chính thức của quốc gia. Sự áp đặt như vậy nào có khác chi việc thiết lập một thứ quốc giáo độc quyền, độc tôn trên toàn thể dân tộc?

Qua sự trình bày trên, thiết nghĩ ta cần phải dứt khoát thay đổi lề lối và nội dung của việc giảng dậy môn triết học hiện nay. Cụ thể trong thời buổi hội nhập này là nên áp dụng các phương thức phổ quát trên thế giới, đó là hướng dẫn cho sinh viên nâng cao tầm nhận thức và trình độ hiểu biết rộng rãi, thấu đáo hơn mãi về lịch trình tiến triển của tư duy loài người từ xưa đến nay, thông qua những tìm kiếm vô cùng phong phú và kiên trì của biết bao lớp nhà tư tưởng ưu tú vĩ đại của nhân lọai. Chứ không phải chỉ đóng khung hạn hẹp trong bất kỳ một học thuyết duy nhất nào. Khác nào xưa kia thời quân chủ phong kiến hàng ngàn năm bên Đông Á, học thuyết cửa Khổng sân Trình đã thống trị tư duy thần dân. Cũng như Cơ đốc giáo với giả thuyết điạ tâm sai lầm bên Âu châu đã đưa Giordano Bruno lên dàn hỏa thiêu (1600) và Galileo Galilei (1633) phải quỳ gối tự chối bỏ tác phẩm nền tảng của Khoa học hiện đại như Vật lý, Cơ học, Thiên văn. Điển hình gần đây hơn là thời Stalin đã dùng quyền lực chính trị để áp đặt lý thuyết về di truyền của Lysenko, gây tai hại trầm trọng cho nền khoa học của Liên Xô vào giữa thế kỷ XX vậy. Cũng vậy giáo điều quốc xã thời phát xít Đức đã đẩy lùi nền khoa học Âu châu trong bao năm.

Chúng ta hãy lắng nghe ý kiến sau đây [4]:

Tôi đề nghị chúng ta vẫn giữ học thuyết Marx – Lenin, nhưng chúng ta không chỉ biết và vận dụng duy nhất học thuyết Marx-Lenin, mà cần phải biết và vận dụng những học thuyết tinh hoa của nhân loại như chúng ta bắt đầu làm từ khi đổi mới. Từ đó Đảng ta mới phát huy được dân chủ, tự do trong Đảng, trong nhà nước và trong xã hội ta. Vì chỉ có dân chủ tự do mới có thể có điều kiện thật sự cho sự phát triển vững mạnh, mới có sức mạnh vô địch để vượt qua mọi khó khăn thử thách, bảo vệ được thành quả của Cách mạng và không ngừng đưa Cách mạng Việt Nam tiến lên phía trước cùng với bạn bè năm châu bốn biển ”.

Các nước tư bản họ cũng làm như vậy. Họ vẫn nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác-Lênin ở các trường đại học. “ Giữ học thuyết Marx – Lenin ” không phải để tôn sùng và mù quáng vâng theo mà có chăng chỉ để gạn đục khơi trong, để ôn cũ biết mới .

Điểm son của triết lý giáo dục tiến bộ trên thế giới là sự bao dung, tôn trọng và bàn cãi tự do những tư tưởng, văn hóa, chính kiến, tín ngưỡng khác nhau, chúng bổ túc cho nhau. Tư duy độc lập, phê phán, phản biện, tự vấn không ngừng là những yếu tố quyết định của một nền giáo dục tiến bộ và phổ quát. Không thể áp đặt một hệ tư tưởng bất luận nào đó – cho dù ưu việt đến mấy trong một thời – lên sự nghiệp giáo dục đào tạo con người. Nó chỉ kìm hãm tư duy sáng tạo. Triết lý giáo dục công lập ở Pháp dựa trên hai nền tảng : nhà trường thế tục và cộng hòa. Nhà nước tôn trọng và trung lập đối với mọi tín ngưỡng, chính kiến, tư tưởng, nhân sinh quan, triết học. Nhà trường là nơi hòa trộn mọi thành phần, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc, giai cấp xã hội của học sinh.

2- Nhân sự giảng dạy và nghiên cứu

Đại học, nơi tụ hội những tinh hoa của xã hội, mặc nhiên có vai trò làm gương mẫu cho mọi sinh hoạt. Nó phải là một môi trường lành mạnh, đạo đức để phục hồi và củng cố niềm tin của tuổi trẻ. Sự nghiệp của đại học là khai sáng tư duy, là đào tạo chất lượng cao về tri thức tổng quan và chuyên ngành. Những tiêu cực như giả dối, nạn dỏm trong nhân sự phải tuyệt đối vắng mặt, thày ra thày, trò ra trò. Đó là điều kiện tiên quyết của nền giáo dục nói chung mà đại học đi tiên phong. Người sinh viên phải được hưởng quyền nổi loạn trong học thuật. Họ có quyền tụ tập để tranh luận học thuật dưới mọi hình thức và về bất cứ chủ đề nào [5].

Đội ngũ nhân sự giảng dạy đại học cần phải có trình độ tiến sĩ theo tiêu chuẩn quốc tế, số lượng tiến sĩ đủ tiêu chuẩn này hiện nay quá nhỏ so với số sinh viên, hiện tượng thạc sĩ dạy cử nhân cần phải giảm đi đến mực tối thiểu. Chuyển giao tri thức chuyên môn cho sinh viên chỉ là một trong hai nhiệm vụ chính của giảng viên đại học, điều quan trọng không kém là nghiên cứu khoa học theo tiêu chuẩn quốc tế để cập nhật thường xuyên tri thức chuyên môn, đào sâu tăng trưởng kiến thức và tìm tòi sáng tạo. Tiến sĩ chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để thành giảng viên đại học, chức vụ này đòi hỏi một thời gian ‘sau tiến sĩ ‘(postdoc) khá gian nan để đạt tới sự độc lập chín chắn trong quá trình giảng dạy và khám phá, mở rộng trao đổi với các môi trường khác nhau để sàng lọc, đua tranh lành mạnh nhưng gay gắt. Tiêu chuẩn quốc tế được hiểu theo nghĩa sau đây:

(a) công trình khảo cứu khoa học đăng trên các tạp chí đẳng cấp quốc tế (hầu hết bằng tiếng Anh mà ISI thu thập). Trong hàng chục ngàn tạp chí của ISI, có nhiều cái cũng chỉ vừa phải về chất lượng, vậy có lẽ nên linh động hơn, đừng thái quá về vai trò quyết định của ISI. Trong mỗi ngành chuyên môn, ai cũng rõ cấp bậc nọ kia (xếp loại theo impact factor cao là một thí dụ) của các tạp chí để tự mình chọn mặt gửi vàng đến các tạp chí với hệ thống bình duyệt và phản biện nghiêm túc. Mỗi ngành nghề chuyên hẹp chỉ có chừng vài chục tạp chí đủ chất lượng cao mà ta cần tập trung vào đó.  (b) số lần trích dẫn (hay/và H index) các công trình khoa học bởi đồng nghiệp khắp thế giới, (c) sách giáo trình cao học phát hành bởi các nhà xuất bản uy tín (d) báo cáo trong hội nghị quốc tế và sự giao lưu thường xuyên với các cơ quan giảng dạy-nghiên cứu trên thế giới, (e) sự nghiệp đào tạo các nghiên cứu sinh và tiến sĩ, (f) đối với các ngành khoa học ứng dụng, văn bằng sáng chế và cộng tác với các công ty kỹ nghệ mang lợi nhuận cho cơ quan.

Ðó là ít nhiều hành trang thông thường của nhân viên giảng dạy-nghiên cứu của một đại học chuẩn mực quốc tế mà nền đại học cần đạt tới. Qua các tiêu chí  (a) – (f), ta thấy rõ sự liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và giảng dạy, sự thăng chức thăng ngạch trong mỗi hàm nên tùy thuộc chủ yếu vào các công trình nghiên cứu khoa học. Cũng như ở nhiều nước phát triển cao, tổng số giờ giảng dạy trong một năm của giáo sư đại học ở Pháp chỉ có khoảng 130 giờ để thấy rõ tầm quan trọng mà họ phải bỏ hết thời gian còn lại làm nghiên cứu. Vì thế họ mang tên gọi là nhân viên giảng dạy-nghiên cứu (enseignant-chercheur).

Chương trình dài hạn đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế (bằng cách tuyển chọn sinh viên tài năng gửi đi soạn cao học, tiến sĩ và hậu tiến sĩ ở các nước khoa học tiền tiến) một đội ngũ mới giảng viên đại học để tiếp nối dần thế hệ trước, phải là ưu tiên hàng đầu của nền đại học. Đội ngũ nhân viên giảng dạy cần được coi là trọng tâm của mọi sinh hoạt trong đại học, ban quản lý chỉ có nhiệm vụ duy nhất là hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi sao cho được tối ưu hai sự nghiệp chính của giảng viên là chuyển giao tri thức và nghiên cứu khám phá. Ngoài ra vai trò quan trọng của hai môn Lịch sử Đảng và Triết học Mác- Lê khoảng 15% trong học trình của các ngành khoa học tự nhiên là điều hoàn toàn khác lạ với tiêu chuẩn quốc tế. Nên coi môn trước nằm trong kiến thức chung của triết học nhân loại và môn sau trong lịch sử  thăng trầm quốc gia. Trong hồ sơ các sinh viên trong nước sang ghi tên du học về ngành khoa học tự nhiên, hai môn kể trên có hệ số tính điểm khá cao chẳng thua các hệ số về toán, lý, hoá, sinh, ngoại ngữ. Ở các nước phát triển, không đâu có hai môn bắt buộc này trong học trình của các ngành khoa học tự nhiên. Nhiều bạn bè trên thế giới đã mất công sức giải bầy với đồng nghiệp và bộ máy hành chính của đại học mình khi họ xét hồ sơ tuyển chọn sinh viên Việt Nam sang du học. Ðể so sánh công bằng với sinh viên các nước khác trong việc tuyển chọn vào đại học, hai môn ‘không khoa học tự nhiên’ này bị loại bỏ tự động, làm lãng phí thời gian tiền của.

Rồi chuyện học hàm học vị nhiêu khê của hệ thống giáo dục hiện nay; nhiều người có học vấn thật bị đứng vào chỗ văn hoá giả tạo, và ngược lại. Chức giáo sư, phó giáo sư đại học cần phải hiểu theo những tiêu chuẩn phổ quát quốc tế, đó chỉ là chức vụ để giảng dạy-nghiên cứu với trách nhiệm cụ thể trong các đại học, chứ không phải là phẩm hàm quí tộc hình thức để quản lý hay hoạt động ngoài môi trường đại học. Nguyên tắc để xác nhận hai khả năng giảng dạy-nghiên cứu nói trên cần giản dị, minh bạch, không gây khó khăn bởi những thủ tục hành chính xa lạ với chất lượng nghiêm túc.

Ngoài vấn đề đội ngũ giảng dạy ra, quy chế tự chủ và tự do trong môi trường học thuật, chính sách đãi ngộ và đồng lương tương xứng, hướng nghiên cứu và phương pháp đào tạo, mở rộng cộng tác (theo hợp đồng dài ngắn hạn) với các cơ quan và chuyên gia nước ngoài là những điều vô cùng quan trọng cần thực hiện để đảm bảo cho sự thành công của đại học chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Sự liên kết mật thiết giữa Đại học và viện Khoa Học & Công Nghệ (VAST) nên phát huy tận lực, cơ chế hành chính của hai cơ quan cần điều hòa ra sao để hai bên cùng có lợi trong sự nghiệp nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Đó là điều mà các nước khoa học tiền tiến đã từ lâu thực hiện.

Tăng cường và xây dựng nhanh chóng cơ sở vật chất, phòng làm việc thường trực của nhân viên giảng dạy-nghiên cứu, thư viện phong phú với sách giáo trình và tạp chí khoa học quốc tế, máy tính và truy cập internet, cư xá cho sinh viên thuê giá rẻ, học bổng trợ cấp sinh viên chăm chỉ tài năng mà gia cảnh thiếu thốn.

Với hàng ngàn vạn tuổi trẻ trong và ngoài nước đang thành công tốt đẹp trong nhiều lãnh vực trên trường quốc tế, chúng ta tin tưởng rằng khi có môi trường thuận lợi, con người Việt còn có thể vươn cao hơn nữa. Thí dụ tượng trưng, trong các cựu sinh viên sang du học ở Pháp khoảng hơn mươi năm nay gần đây, một số đã trở thành giảng sư các Đại học hay nghiên cứu viên của Trung tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học (CNRS). Ðó là tiềm năng chất xám quý báu của dân tộc ta, chất xám ấy lại mang thêm một đặc điểm nữa mà hiếm các quốc gia khác có được, đó là sự phong phú đa dạng của các thành phần đến từ nhiều chân trời văn hóa khác nhau nhưng bổ túc cho nhau, từ Ðông qua Tây Âu, từ Bắc đến Nam Mỹ, Đông Bắc đến Tây Nam Á, Úc, được thử thách chọn lọc theo tiêu chuẩn quốc tế. Lại thêm biết bao tài năng, đặc biệt với thế hệ thứ hai, nằm trong cộng đồng ba triệu người Việt ở nước ngoài sinh hoạt trên khắp năm châu.

Thực ra vấn đề xuất cảng rồi sớm muộn trở thành giao lưu chất xám đã xảy ra từ lâu rồi ở các nước lân cận Việt Nam. Do lòng gắn bó với cội nguồn, môi trường hoạt động thoải mái thoáng đãng và chính sách đãi ngộ thích ứng ở các nước đó, phần đông các nhân tài đã trở về cố hương đóng góp cho sự phát triển kỳ diệu của nước họ, trong đó các đại học và viện công nghệ mang tầm quốc tế giữ vai trò không nhỏ.

Người viết tâm tình với lòng thành là nền đại học Việt Nam không thể không đạt tới chuẩn quốc tế, vấn đề chỉ là thời gian khoảng mươi năm. Nó đến sớm hay muộn là ở trong tay chúng ta từ chính quyền đến người dân hữu trách, và lời chúc đầu năm là chúng ta sẽ thành công nhanh hơn và trội hơn ước tính.

Tham khảo

[1] Kỷ Yếu Sĩ phu Thời nay, nxb Tri Thức (2008) Hà Nội, trang 161

[2] Phan Huy Đường, Tạp chí Tia Sáng (2010),

http://amvc.free.fr/PHD/LangThangChuNghia/TrietHoc-KhoaHoc.htm

[3 ] Trong cuốn giáo trình “Nhiệt động lực học và Vật lý thống kê, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), ngay ở trang 11, tác giả, một nhà vật lý, viết: Như Lenin đã chỉ rõ “ Khái niệm nhân quả của con người …”, điều chẳng liên đới chút nào đến toàn bộ nội dung cuốn sách.

[4] Nguyễn Văn An, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên trưởng Ban Tổ chức TƯ Đảng, nguyên Chủ tịch Quốc hội qua những trả lời phỏng vấn “ Tuần Việt Nam ” ngày 12 tháng 12 năm 2010.

[5] Phạm Anh Tuấn, hội thảo “Sự xuống cấp văn hóa và đạo đức trong xã hội ngày nay” do Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh tổ chức ngày 27.11.2010 tại Hà Nội.

http://boxitvn.wordpress.com/2010/11/30/khi-tm-h%E1%BB%93n-con-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-b%E1%BB%8B-t%C6%B0%E1%BB%9Bc-do%E1%BA%A1t/

TÔI ĐÃ RA KHỎI TRỤ SỞ CÔNG AN

TÔI ĐÃ RA KHỎI TRỤ SỞ CÔNG AN

Đôi lời: “Xin lỗi cộng đồng vì hôm nay tôi đã nói dối!” Tại sao LS Võ An Đôn phải nói dối? Nếu tôi (Ngọc Thu) là ông thì tôi sẽ nói thật, rằng tài khoản Facebook Đôn An Võ là của tôi, rằng những gì tôi viết trên Facebook không vi phạm bất cứ điều luật nào, rằng đó là quyền tự do ngôn luận của người dân, đã được ghi nhận tại điều 25, hiến pháp mới, năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Những bài viết trên Facebook của tôi không vi phạm pháp luật vì nó nói lên sự thật. Còn nếu có thông tin nào trong những bài viết kia là sai thì hãy cho tôi biết, tôi sẽ đính chính hoặc nghiêm trọng hơn, có thể căn cứ vào luật pháp để xử lý.

Thiết nghĩ, là luật sư, ông Võ An Đôn cần sử dụng luật pháp để biện hộ cho mình, thay vì dùng “thủ thuật” nói dối. Ông cần phải chỉ ra những kẻ vi phạm pháp luật chính là những viên công an kia. Những kẻ vi phạm pháp luật chính là những người đang thực thi luật pháp (law enforcement), không phải ông Võ An Đôn. Còn nếu ông không thể sử dụng luật pháp biện hộ cho chính mình, thì khó có thể tin rằng ông có thể sử dụng luật pháp để biện hộ cho các thân chủ của ông, là những người dân thấp cổ bé họng!

Không nên từ bỏ quyền tự do ngôn luận, cụ thể trong trường hợp này là quyền được viết trên Facebook! Vì cái quyền đó đã được quy định trong hiến pháp và người dân không phải xin phép ai để sử dụng chính cái quyền mà mình có.

____

FB LS Võ An Đôn

7-3-2016

LS Võ An Đôn. Ảnh trên FB cá nhân của tác giả.

Tôi đến trụ sở Công an tỉnh Phú Yên đúng 08 giờ sáng, mới bước vào Phòng an ninh Chính trị nội bộ, tôi đã nhìn thấy 03 cán bộ điều tra an ninh ngồi chờ, cùng với máy camera đặt sẵn quay về phía ghế tôi ngồi.

Sau khi mời tôi ngồi, các anh an ninh điều tra làm việc ngay. Họ hỏi tài khoản Facebook Đôn An Võ có phải của tôi không ? tôi trả lời là không phải. Họ hỏi hiện nay tôi có sử dụng tài khoản Facebook nào không ? tôi trả lời cách đây khoảng một năm tôi có lập một tài khoản Facebook mang tên Luật sư Võ An Đôn, dùng được chừng một tháng thì bị cướp mất mật khẩu. Họ hỏi tiếp còn những hình ảnh, bài viết, lịch trình công việc nếu không phải của tôi thì của ai ? tôi trả lời Facebook là trang mạng ảo, nhiều người có thể làm giả tên tôi. Họ hỏi tiếp Facebook Đôn An Võ mạo danh tôi đăng nhiều nội dung ảnh hưởng đến uy tín tôi, có cần nhờ Công an điều tra ra người sử dụng không? Tôi trả lời là không cần, vì các bài viết không ảnh hưởng đến tôi và bất kỳ ai.

Sau khi hỏi tôi xong, các anh an ninh điều tra cho in toàn bộ các bài viết đăng trên Facebook Đôn An Võ ra đưa cho tôi ký xác nhận với nội dung là Facebook Đôn An Võ và các bài viết không phải của tôi. Đến 10 giờ 30 phút thì kết thúc buổi làm việc, tôi ra về.

Công an tỉnh Phú Yên mời tôi làm việc liên quan đến Facebook của tôi đã vi phạm pháp luật trắng trợn, cụ thể là quyền tự do ngôn luận và tự do bày tỏ quan điểm của mỗi công dân đã được Hiến pháp và pháp luật qui định, cũng như Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 mà Việt Nam đã ký kết. Hơn nữa, việc này còn nhằm mục đích giằng mặt vì tôi nộp đơn tự ứng cử đại biểu Quốc hội khóa 14 này.

Tôi là người trung thực không biết nói dối, hôm nay là lần đầu tiên trong đời tôi nói dối, không phải tôi hèn nhát không dám nhận Facebook Đôn An Võ là của mình, mà chính là tôi muốn tiếp tục được làm luật sư bào chữa cho dân nghèo và người cô thân yếu thế trong xã hội. Nếu hôm nay tôi thừa nhận Facebook Đôn An Võ là của tôi, thì họ sẽ tìm cách tước Thẻ luật sư của tôi và vĩnh viễn tôi không bao giờ giúp được người dân.

Xin lỗi cộng đồng vì hôm nay tôi đã nói dối !

Lần đầu tại Việt Nam: Hai bé sinh đôi có 2 bố khác nhau

Lần đầu tại Việt Nam: Hai bé sinh đôi có 2 bố khác nhau

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) Giám đốc Trung Tâm Kỹ Thuật và Phân Tích Gen ở Hà Nội, ông Lê Ðình Lương, xác nhận rằng hai trẻ sinh đôi vừa được nghiên cứu là từ hai ông bố khác nhau.

Hai em nhỏ này được gia đình đưa đến trung tâm và thử nghiệm DNA cho biết kết quả như vậy. Theo lời ông Lương, không có sự lầm lẫn của bệnh viện khi giao hai đứa bé sơ sinh, thử nghiệm xác định là chúng có cùng mẹ nhưng khác cha.


Các em nhỏ mới sinh và mẹ tại một bệnh viện phụ sản ở Hà Nội. (Hình minh họa: Getty Images)

Ông từ chối không cho biết thêm chi tiết gì hơn vì tôn trọng thỏa thuận với gia đình về việc bảo vệ tính cách riêng tư.

Tuy nhiên Thông Tấn Xã Việt Nam tiết lộ gia đình này ở tỉnh Hòa Bình và hai đứa trẻ hiện được 2 tuổi. Ðiều khiến gia đình chúng ngạc nhiên là hai đứa bé sinh đôi nhưng hoàn toàn khác hẳn nhau, không có nét gì giống nhau như thông thường. Một đứa mập và tóc quăn, đứa kia gầy và tóc thẳng.

Ðây không phải là trường hợp đầu tiên được biết trên thế giới. Năm ngoái tại New Jersey đã có một vụ rắc rối như vậy được đưa ra tòa án để giải quyết vấn đề trách nhiệm cấp dưỡng. Thẩm Phán Sohai Mohammed phán quyết rằng đương sự được biết với tên là “A.S.” không phải chi tiền cấp dưỡng cho cả hai đưa bé, chỉ trả $28 một tuần về phần đứa bé qua thử nghiệm DNA được xác định là con của đương sự.

Nghiên cứu của Bác Sĩ Karl-Hanz Wurzinger, chuyên gia DNA, ước lượng rằng trong 13,000 trường hợp sinh đôi có 1 là do từ hai người cha. Tuy nhiên hầu hết những trường hợp như vậy không được biết hoặc không được công bố, và vụ việc New Jersey năm ngoái là trường hợp thứ ba được biết trên thế giới.

Một nghiên cứu khác nói rằng trong 400 cặp trẻ song sinh có thể một cặp có hai người cha khác nhau. Nguyên nhân đơn giản là hai trứng của người mẹ đã thụ tinh từ hai người đàn ông. Nhiều động vật, chẳng hạn như chó có thể rụng nhiều trứng nhưng với con người, thường chỉ có một trứng mạnh khỏe mỗi chu kỳ rụng trứng. Nếu có hai trứng mạnh và cùng thụ tinh cùng một lúc thì đưa đến sinh đôi như bình thường. Nhưng trứng rụng có thời gian sống tới 5 ngày, và do đó hiếm thấy hơn nhiều, là mỗi trứng có đủ thời gian để chờ đợi chấp thuận một người cha khác. (HC)

Hai mẹ con bị chém dã man tại nhà riêng

Hai mẹ con bị chém dã man tại nhà riêng
Nguoi-viet.com

BÀ RỊA-VŨNG TÀU (NV)Ðang ở nhà hát karaoke, bà mẹ trẻ và đứa con 3 tuổi bị một ông lạ mặt xông vào đâm chém tới tấp rồi bỏ trốn, khiến cả hai phải vào bệnh viện cấp cứu.


Chị Ðậm đang được cấp cứu tại bệnh viện Bà Rịa. (Hình: Thanh Niên)

Theo báo Thanh Niên, ngày 7 tháng 3, 2016, công an thành phố Vũng Tàu đang điều tra truy bắt hung thủ vụ hai mẹ con chị Bùi Thị Ðậm (28 tuổi) và con gái Nguyễn Thị Phương Trang (3 tuổi) bị chém dã man tại nhà riêng.

Hiện chị Ðậm vẫn đang bị hôn mê, đang được các bác sĩ bệnh viện Bà Rịa phẫu thuật cấp cứu với 4 nhát chém ở lưng, hai tay đứt gân, và nhiều vết chém trên đầu. Trong khi đó, cháu Trang cũng bị nhiều vết chém nghiêm trọng, đang được các bác sĩ bệnh viện Lê Lợi, thành phố Vũng Tàu phẫu thuật cấp cứu.

Ông Lê Ðình Chiến (34 tuổi), một người ở gần nhà nạn nhân 4 kể lại, khoảng 17 giờ 10 ngày 7 tháng 3, khi ông đi làm về thì thấy một người đàn ông chạy xung quanh nhà chị Ðậm.

“Người này hốt hoảng nói với tôi là trong nhà có người bị chém, gọi ngay công an. Tôi gọi cho công an xong thì gọi ngay một chiếc taxi. Khi xe chưa tới thì ông này chạy vào nhà bế cháu bé mình bê bết máu lên xe máy cho một người khác chở đi bệnh viện cấp cứu,” ông Chiến kể.

Tiếp đó, ông Chiến cùng hàng xóm vào nhà thì thấy chị Ðậm nằm bất động dưới nền nhà. “Tôi thấy máu rất nhiều. Chị Ðậm mình đầy máu nên cùng mọi người đưa lên taxi chở đi bệnh viện Bà Rịa cấp cứu,” anh Chiến nói tiếp.

Tin cho biết, nhiều nhân chứng kể, trước khi hai mẹ con nạn nhân bị thương, họ đang hát karaoke trong nhà. Một lúc sau mọi người nghe tiếng hét cứ tưởng hai vợ chồng chị Ðậm cãi nhau nên không ai chạy qua. Một lúc sau, khi chồng chị Ðậm về nhà thì phát hiện sự việc như trên. (Tr.N)

“Đội quân hacker” của Việt Nam chỉa mũi nhọn sang Mỹ và Pháp

Đôi lời: Đúng ngày này, ba năm trước, ngày 8-3-2013, “một đội quân hacker bí mật, ủng hộ chính phủ”, đã tấn công vào máy tính của tôi (Ngọc Thu), trước khi hack vào trang Ba Sàm và chiếm quyền kiểm soát trang này trong một thời gian. Sau khi tấn công vào máy tính của tôi, chúng đã lấy cắp một số thông tin, hình ảnh, rồi giả danh tôi viết một bài “tự thú”, trong đó chúng trộn những thông tin, hình ảnh thật với những thông tin, hình ảnh giả, nhằm đánh lừa các độc giả.

Kỷ niệm 3 năm, ngày tin tặc “chúc mừng” tôi nhân ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3, xin được giới thiệu lại bài viết của phóng viên AP, Chris Brummitt, nói về cuộc tấn công này. Sau khi bị tấn công, tôi đã chuyển tất cả những chứng cứ mà hacker để lại trong máy tính của tôi, cho ông Morgan Marquis-Boire, là nhà nghiên cứu của Đại học Toronto, từng là nhà nghiên cứu tin tặc của Google. Ông Morgan là người đã trực tiếp điều tra vụ tấn công này.

Nhân dịp này, cũng xin được cám ơn một vị ân nhân ẩn danh, đã giúp tôi lấy lại trang Ba Sàm. Hai lần trang Ba Sàm bị tấn công và chiếm quyền kiểm soát trước đây, tôi không gặp trở ngại khi lấy lại, nhưng lần tấn công này, do tin tặc đã chiếm quyền kiểm soát tất cả các hộp thư của tôi, nên tôi không thể liên lạc với WordPress lấy lại. Vị ân nhân này đã liên lạc với Matt Mullenweg, là người sáng lập trang mạng xã hội WordPress, giúp tôi lấy lại trang Ba Sàm, gỡ bỏ bài viết giả danh của tin tặc.

8-3-2016

___

“Đội quân hacker” của Việt Nam chỉa mũi nhọn sang Mỹ và Pháp

Tác giả: Chris Brummitt/AP

Dịch giả: Lê Anh Hùng

20-01-2014

Trong bức ảnh ngày 14.5.2013 này, ba cô gái Việt Nam sử dụng laptop và điện thoại thông minh để lên mạng tại một quán cà phê ở Hà Nội. Các nhà hoạt động dân chủ và blogger Việt Nam đang chiến đấu chống lại một chiến dịch ngăn chặn, hack và do thám mà một đội quân bí mật ủng hộ chính phủ tiến hành trên mạng. Mặc dù họ không thể chứng minh được điều đó, song các nhà hoạt động và chuyên gia phân tích rất nghi ngờ sự dính líu của chính phủ Việt Nam trong chiến dịch, vốn đang kìm hãm phong trào dân chủ ở đất nước này. Ảnh: (AP Photo/Na Son Nguyen, File)

HÀ NỘI, Việt Nam (AP) – Một hôm, khi đang làm việc với blog của mình ở California, nhà hoạt động dân chủ Ngọc Thu bỗng cảm thấy có điều gì đó không ổn. Gõ bàn phím thì phải sau một lúc máy tính mới tiếp nhận. Lệnh cắt-dán thì không thực hiện được. Cô có “cảm giác như có ai đó” bên trong máy tính của mình. Trực giác của cô hoá ra là đúng.

Vài hôm sau, một số email và ảnh cá nhân của cô bị đăng trên chính blog đó, cùng với những thông điệp bôi nhọ. Cô không thể xoá chúng; cô bị chặn khỏi blog của mình một số ngày trong khi những kẻ tấn công tiếp tục đăng lên những thông tin chi tiết về đời tư.

“Họ khiến tôi và gia đình tôi bị tổn thương. Họ hạ nhục chúng tôi, để chúng tôi không làm việc với blog nữa”, cô Ngọc Thu – một công dân Mỹ – chia sẻ. Cô đã trở lại với việc đăng tải blog, nhưng giờ thì chính quyền Việt Nam lại chặn blog của cô.

Các nhà hoạt động và chuyên gia phân tích rất nghi vai trò của nhà cầm quyền Việt Nam trong vụ tấn công đó, cũng như hàng loạt vụ tấn công tương tự.

Theo họ, một đội quân hacker bí mật ủng hộ chính phủ đang chặn, hack và do thám các nhà hoạt động người Việt Nam trên khắp thế giới hòng cản trở phong trào dân chủ ở đất nước này.

Các chuyên gia IT đã điều tra vụ cô Ngọc Thu bị tấn công vào năm ngoái; họ cho biết, bọn hacker đã bí mật kiểm soát hệ thống của cô sau khi cô bấm vào một link chứa mã độc mà ai đó gửi cho cô qua email. Bằng cách cài đặt phần mềm theo dõi thao tác bàn phím, các hacker đã nắm được password và xâm nhập vào các tài khoản cá nhân của cô.

Cuộc điều tra tiếp theo còn phát hiện ra rằng một bản nâng cấp của phần mềm chứa mã độc kia, do chính nhóm đó gửi, đã được phát tán qua email tới ít nhất là 3 người khác: một phóng viên AP ở Hà Nội; một giáo sư toán học và là nhà hoạt động dân chủ người Việt ở Pháp; và một thành viên người Mỹ của tổ chức bảo vệ nhân quyền trên mạng Electronic Frontier Foundation (EFF) hiện đang sống ở Mỹ. Tuy nhiên, không một ai trong ba người này bấm vào cái link đó cả.

Đây dường như là vụ việc đầu tiên được ghi lại bằng chứng về hiện tượng những người ngoài quốc tịch Việt Nam bị tấn công bởi một nhóm hacker ủng hộ chính phủ, vốn đã thực hiện nhiều vụ tấn công nằm ngoài biên giới Việt Nam. Hoạt động của nhóm này dường như đã vi phạm pháp luật, ít nhất là ở Mỹ.

“Các bạn thấy là người ta đang tiến hành các chiến dịch nhằm vào những tiếng nói bất đồng chính kiến người Việt Nam ở những khu vực cách biệt về địa lý. Giờ thì chúng ta đã nhận ra một sự leo thang nhằm vào những người đưa tin về những tiếng nói như vậy.” Đó là nhận định của Morgan Marquis-Boire, nhà nghiên cứu của Đại học Toronto và là nhà hoạt động bảo vệ quyền riêng tư trên mạng, người đã phân tích mã độc và công bố phát hiện của mình với EFF. “Đây không thể là việc làm của một cá nhân cơ hội chủ nghĩa.”

Những nghi vấn về sự dính líu của nhà nước một phần là dựa trên thực tế theo đó những kẻ tấn công đã bỏ hàng chục ngàn dollar để thuê máy chủ ở nhiều nơi trên thế giới rồi từ đó phát động các vụ tấn công, thường là thay đổi chúng sau vài ngày. Theo Diêu Hoàng (một kỹ sư máy tính ở Australia, người vẫn đang cùng với một số nhà hoạt động khác giúp bảo vệ các nhà hoạt động Việt Nam trên mạng) thì điều này là vì những kẻ tấn công hiểu rằng các nhà hoạt động sẽ yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ gỡ bỏ các vụ tấn công kia.

Những nỗ lực theo dõi và sách nhiễu người bất đồng chính kiến trên mạng là sự phản chiếu nỗ lực của chính quyền hòng trấn áp họ ngoài đời thực, nơi các nhà hoạt động vẫn phản ảnh về tình trạng các nhân viên nhà nước thường xuyên sách nhiễu họ, thậm chí đôi khi còn dùng cả bạo lực. Theo tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch, năm 2013 nhà nước Việt Nam đã kết án ít nhất 63 blogger và các nhà hoạt động dân chủ ôn hoà khác về các tội hình sự.

Việt Nam không phải là trường hợp cá biệt khi tìm cách do thám hoạt động thông tin liên lạc điện tử, như những tiết lộ gần đây về hoạt động của Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) ở Mỹ đã cho người ta thấy. Tuy nhiên, hoạt động của Việt Nam lại gây ra quan ngại đặc biệt bởi bức tranh toàn cảnh về nhân quyền của họ.

Khi được đề nghị bình luận về những nghi vấn liên quan đến sự dính líu của nhà nước trong hoạt động giám sát có chủ đích, cũng như vụ tấn công nhằm vào phóng viên AP, chính phủ Việt Nam đã đưa ra tuyên bố ngắn gọn sau: “Việt Nam chia sẻ mối quan tâm của các quốc gia khác trong việc đảm bảo an ninh cho mạng Internet và sẵn sàng hợp tác với các quốc gia khác trong hoạt động đấu tranh chống tội phạm công nghệ cao nói chung và tội phạm Internet nói riêng.”

Việc trấn áp bất đồng chính kiến trên mạng tại Việt Nam trở nên khó khăn hơn vì mức độ sử dụng Internet ở đây đang tăng mạnh. Gần 40% trong tổng dân số 90 triệu người của Việt Nam có cơ hội tiếp cận Internet, và vì Việt Nam không hiệu quả như Trung Quốc trong việc hạn chế cơ hội tiếp cận đó, nên nhiều người vẫn xem được những tin tức không bị kiểm duyệt. Những người bất đồng chính kiến có thể liên kết với nhau và công khai hoá hoạt động của mình – cũng như hoạt động trấn áp của nhà nước – khá dễ dàng.

Các chuyên gia nghiên cứu về an ninh mạng đã phát hiện ra những chỉ dấu về việc Hà Nội có thể đang xứng phó với mối thách thức này như thế nào.

Năm 2010, Google và McAfee xác nhận rằng phần mềm mã độc đã được sử dụng để do thám hàng chục nghìn người Việt Nam đang sử dụng Internet. McAfee nói những kẻ tấn công “khả dĩ có một mức độ trung thành nào đó” với chính phủ Việt Nam. Năm ngoái, một nhóm nghiên cứu do Marquis-Boire (người cũng là kỹ sư an ninh mạng của Google) dẫn đầu đã tiết lộ bằng chứng cho thấy một phần mềm do thám mang tên FinFisher đang được sử dụng để theo dõi thông tin liên lạc qua thiết bị di động của các nhà hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam, thông qua các cơ quan truyền thông nhà nước, thừa nhận là đã chặn hàng ngàn “trang mạng và blog xấu, độc hại”, và các trang mạng của họ cũng bị tấn công, mà người ta cho là từ những người đồng cảm với giới bất đồng chính kiến. Hồ Quang Lợi, Trưởng ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội, phát biểu hồi năm ngoái rằng cơ quan này đã sử dụng tới 900 người để chống lại sự chỉ trích trên mạng.

Vụ tấn công nhằm vào blog của cô Ngọc Thu cho thấy biện pháp hack và chặn các trang mạng có thể trở thành “song kiếm hợp bích” hữu hiệu như thế nào để chặn đứng sự chỉ trích.

Blog mang tên “Ba Sàm” nói trên là một trong những xuất bản phẩm bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất. Nó chuyển tải những tin tức, quan điểm, video và hình ảnh liên quan đến Việt Nam mà truyền thông nhà nước không bao giờ đụng tới. Sau khi blog bị hack, cô Ngọc Thu phải mất một tuần mới giành lại được quyền kiểm soát, chuyển nó sang địa chỉ mới và đưa lên mạng trở lại.

Vài tuần sau, nhà chức trách Việt Nam bắt đầu ngăn chặn người sử dụng mạng trong nước truy cập vào Ba Sàm. Giờ đây, để xem blog này, người Việt Nam ở trong nước phải sử dụng một máy chủ proxy (proxy server), một kỹ thuật tương đối phổ biến để tránh kiểm duyệt nhưng đòi hỏi hỏi người sử dụng phải nắm được một vài bí quyết. Điều này cũng có nghĩa là lượng người xem blog ít đi.

Cô Ngọc Thu nói số lượt truy cập (page-view) suy giảm đáng kể, và cô buộc phải đóng phần bình luận vốn rất được ưa chuộng của mình bởi một chiến dịch lạm dụng và spamming (tin rác) có tổ chức nhằm vào phần đó.

“Quá nhiều rắc rối đến từ phần bình luận này”, cô nói. “Họ gửi cho tôi những thông điệp đe doạ, nói rằng ‘Tao sẽ đến thăm mày ở California.’”

Hack một trang mạng rồi sau đó chặn nó lại là một thủ thuật quen thuộc, Diêu Hoàng nói.

“Việc thay đổi giao diện và bôi nhọ do một lực lượng giấu mặt thực hiện phi chính thức”, anh nói. “Còn thế lực chính thức thì tiến hành chặn.”

Hầu như tất cả các phần mềm chống virus thương mại không phát hiện nổi thứ mã độc mà cô Ngọc Thu và những người khác nhận được. Các email kèm theo link chứa mã độc mà người ta gửi tới phóng viên AP thể hiện một ý đồ và mức độ chủ đích nào đó: một email tự nhận là từ Human Rights Watch, email còn lại là từ Oxfam. Hai email này được gửi vào tháng 11 và tháng 12 năm ngoái.

Chứng minh sự dính líu của nhà nước Việt Nam trong các vụ tấn công là một việc khó.
“Thông thường, việc chỉ ra chủ thể đứng sau là chuyện không hề dễ dàng. Điều này còn khó hơn nhiều so với việc mổ xẻ mã độc”, Eva Galperin – nhà hoạt động của EFF nhận được link chứa mã độc – nhận xét. “Tôi nghĩ nghi vấn là có cơ sở; tuy nhiên, tôi không nói được là tôi biết chính phủ Việt Nam đứng đằng sau chuyện này.”

Trong khi một số nhóm hoạt động ở hải ngoại tổ chức các khoá đào tạo về an ninh mạng cho các thành viên của mình thì giới hacker dường như sẽ giành chiến thắng, Diêu Hoàng nói.

“Xét về thời gian và nỗ lực, lực lượng và tiền bạc, chúng tôi không thể sánh với họ. Chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ kiệt sức. Họ kìm hãm dân chúng, khiến người ta chán nản, khiến người ta sợ hãi. Họ sẽ khiến cho ngày càng ít người thể hiện chính kiến của mình.”

Nguồn: Lê Anh Hùng

Đoàn Hòa bình Mỹ đã bước vào tuổi 50 (The US Peace Corpsat its 50 th)

Đoàn Hòa bình Mỹ đã bước vào tuổi 50 (The US Peace Corpsat its 50 th)

Anniversary 1961 – 2011)

 Bài viết của Đoàn Thanh Liêm

Được thiết lập vào năm 1961, ngay trong những ngày đầu của

nhiệm kỳ Tổng thống John F Kennedy, đến năm 2011 này Đòan

Hòa bình đang hân hoan tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50,

thông qua rất nhiều chương trình sinh họat trong các lãnh vực

chính trị, xã hội và văn hóa nghệ thuật. Tính ra, trong vòng 50 năm

qua, đã có tổng cộng trên 200,000 thanh niên sinh viên Mỹ tự

nguyện tham gia phục vụ trong khuôn khổ họat động của Đòan

Hòa bình tại 139 quốc gia trên khắp thế giới.

Qua nửa thế kỷ với biết bao đổi thay, mà Peace Corps vẫn trung

thành với ý hướng căn bản đã được xác định ngay từ thuở ban đầu,

đó là góp phần xây dựng hòa bình và tình thân hữu trên thế giới,

thông qua 3 mục tiêu đơn giản, mà cũng thật lớn lao như sau:

1/ Giúp nhân dân các quốc gia liên hệ trong việc đào tạo chuyên

môn;

2/ Giúp nhân dân các nước hiểu rõ hơn về dân tộc Mỹ; và

3/ Giúp người dân Mỹ hiểu biết rõ hơn về các dân tộc khác.

Năm 2011, Peace Corps cũng đặc biệt tưởng nhớ đến công lao vĩ

đại của vị Giám đốc tiên khởi của mình, đó là Luật sư Sargent

Shriver, người em rể của Tổng thống Kennedy và là thân phụ của

Maria Shriver cựu Đệ nhất Phu nhân của California. Ông vừa qua

đời vào tháng Giêng 2011 ở tuổi thọ 95.

Nhằm cung ứng đến quý bạn đọc những chi tiết đáng ghi nhớ của

Peace Corps, người viết đã tham khảo nhiều thông tin trên Internet

và đặc biệt là tìm đọc trong cuốn sách mới nhất do nhà xuất bản

Beacon Press phát hành vào đầu năm 2011 của tác giả Stanley

Meisler, dưới nhan đề

When The World Calls – The Inside Story of The Peace Corps

And Its First Fifty Years. (Khi Thế giới Kêu gọi – Câu chuyện

bên trong của Đòan Hòa bình và Năm mươi Năm Đầu tiên của

Đoàn). Cuốn sách dài 272 trang, bìa cứng.

I – Sự nô nức hăng say phấn khởi của thanh niên Mỹ.

Thanh niên Mỹ đã thật sự sôi nổi nô nức trước lời kêu gọi hùng

hồn của Tổng thống Kennedy trong bài diễn văn nhậm chức vào

tháng Giêng năm 1961, lời kêu gọi bất hủ đó như sau : “Các bạn

đừng hỏi quốc gia có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể

làm gì cho quốc gia của bạn” (Ask not what your country can do

for you, ask what you can do for your country). Và họ đã đua nhau

tự nguyện gia nhập Đoàn Hòa bình để đi đến phục vụ tại các quốc

gia xa lạ ở Phi châu, Á châu,châu Mỹ Latinh… Họ phải học nói

được ngôn ngữ của nước sở tại và nhất là phải sống trong những

điều kiện cực kỳ thiếu thốn khắc nghiệt của người dân địa phương.

Nhưng với tính tình hồn nhiên cởi mở của tuổi trẻ, với tấm lòng

hăng say nhiệt thành theo đuổi lý tưởng phục vụ nhân quần xã hội,

phần đông những thanh niên Mỹ này đã lần hồi vượt qua được mọi

thử thách, và tạo được sự thông cảm quý mến của các dân tộc nơi

họ sinh sống qua sự tự nhiên chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân

cũng như kiến thức và kỹ năng chuyên môn.

Khởi đầu với con số 3,000 đòan viên, Peace Corps từ năm 1964 trở

đi mỗi năm đã có đến trên 10,000 thiện nguyện viên, và con số

mấy năm gần đây từ 2003 đến 2009 trung bình ở vào khỏang gần

8,000 đòan viên.

II – Một số trường hợp điển hình ngộ nghĩnh tại miền đất xa xôi.

1/ Ông “Tổng thống Peace Corps”. Năm 1964, cô Nancy Deeds

được một gia đình người xứ Peru, Nam Mỹ cho ở chung trong nhà

tại làng đánh cá Chimbote phía bờ biển Thái bình dương. Cậu bé

Alejandro Toledo con trai chủ nhà có dịp học thêm tiếng Anh bằng

cách dậy tiếng Tây ban nha cho Nancy. Ít năm sau, cậu được qua

Mỹ học và được Nancy giúp đỡ hướng dẫn lúc học ở San

Francisco. Và với sự cố gắng phi thường cậu đã thành công với

bằng cao học và tiến sĩ về môn kinh tế học. Toledo đã lần lượt làm

việc cho Liên hiệp quốc, Ngân hàng Thế giới, Đại học Harvard,

Đại học Waseda ở Nhật và làm cố vấn kinh tế cho chính phủ nước

Peru… Vào năm 2000, ông còn được bầu vào chức vụ Tổng thống

của nước Peru nữa. Trong dịp gặp gỡ với giới lãnh đạo Peace

Corps tại Washington, Tổng thống Toledo đã xác nhận: “Một mảng

lớn con đường tôi trải qua – từ việc học tập và đi ra khỏi cái làng

tồi tàn Chimbote – thì Peace Corps đều có liên hệ với những

chuyện đó… Quý vị đều có trách nhiệm cho cái ông Tổng thống

này!”

2/ Những y tá người Mỹ của Peace Corps tại Afghanistan đã hết

sức tận tâm săn sóc bênh nhân địa phương, đến nỗi đã tạo được sự

chuyển biến rõ rệt trong lề lối phục vụ của các y tá bản xứ, vốn

xưa nay ít bị xúc động trước nỗi đau đớn bất hạnh quá dồn dập

trong đời sống thường ngày của đồng bào mình.

Alice O’Grady là một trong nhóm Peace Corps đầu tiên đến dậy

học ở xứ Ghana Phi châu từ năm 1961. Năm 1968 cô trở lại dậy

môn khoa học tại đây trong 4 năm. Năm 2008 Alice trở lại thăm

Ghana, thì được các học viên cũ – nay đã là những bác sĩ, kỹ sư rất

thành đạt – họ góp tiền lập một quỹ học bổng lấy tên cô giáo

“Alice O’Grady” để giúp cho thế hệ đàn em có cơ hội học tập tốt

hơn, và họ còn gửi vé may bay mời cô qua tham dự lễ trao học

bổng cho sinh viên đầu tiên được trúng giải. Trong buổi lễ trao học

bổng này, các cựu học viên đã hết lòng ca tụng “sự tận tâm, kỷ luật

và hăng say của cô giáo O’Grady là người đã nhóm lên ngọn lửa

say mê kiến thức khoa học cho lớp môn sinh của cô trên 40 năm

trước…”

3/ Niên lịch của Nhóm Cựu Thiện Nguyện Viên Peace Corps ở

Madison, Wisconsin.

Sau khi hết thời hạn phục vụ ở ngọai quốc, các thiện nguyện viên

trở về Mỹ thường tụ họp lại với nhau thành từng Nhóm Ái hữu, để

ôn lại những kỷ niệm và còn tìm cách phát triển và củng cố những

mối liên hệ thân thiết với các bạn từ những khu vực mà họ làm

việc, thông qua vô số những dự án nho nhỏ về giáo dục, về cải tiến

dân sinh tại các địa phương. Các nhóm Ái hữu này gia nhập tổ

chức National Peace Corps Association mà hiện nay có đến khoảng

30,000 thành viên (Hiệp hội quốc gia Peace Corps).

Riêng Nhóm Cựu Thiện nguyện viên ở thành phố Wisconsin lại có

một sáng kiến độc đáo là kêu gọi các bạn trên tòan quốc gửi hình

ảnh sinh họat tại các quốc gia để nhóm thực hiện cuốn lịch mỗi

năm và đem bán để gây quỹ giúp một số công trình tại các địa

phương. Trong loại niên lịch này, có nhiều chi tiết đáng chú ý, điển

hình như January 6 là Maroon Day ở Jamaica, April 27 là Lễ Độc

lập xứ Togo, July 13 là Jagannah Festival ở Ấn độ, và November 9

là Sinh nhật của Sargent Shriver. Kể từ năm 1988 đến nay, số thu

nhập từ việc bán các niên lịch này đã lên tới tổng cộng gần 1 triệu

US dollar. Và trong năm 2008, số tiền thu nhập được sử dụng để

mua máy quay roneo cho trường Tubman ở Liberia, xây dựng 15

nhà vệ sinh tại Cộng hòa Dominica, giúp đào tạo nữ hộ sinh tại

Moroco, bảo trợ câu lạc bộ chơi cờ ở Bolivia và yểm trợ một phần

cho 65 dự án nhỏ ở các nơi khác.

III – Peace Corps giữa thời kỳ chiến tranh lạnh.

Trong các thập niên 1960, 70 và 80, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh

đoàn viên Peace Corps ở nhiều nước thường gặp khó khăn do sự

tuyên truyền chống Mỹ của phe cộng sản. Cụ thể như vào năm

1961, chuyện tấm bưu thiếp của cô Margery Michelmore gốc từ

Boston gửi cho người bạn trai, trong đó cô mô tả về chuyện người

dân Ghana nấu ăn ngòai phố, buôn bán ngòai đường và cả đi vệ

sinh ở ngòai đường nữa. Tấm postcard này không hiểu làm sao lại

rơi vào tay người khác ở Ghana và liền bị sao chụp thành nhiều

bản để tung ra cho giới sinh viên học sinh ở thủ đô Accra. Từ đó

mà đã gây ra cả một chiến dịch rất mãnh liệt tố cáo “đế quốc Mỹ”

với lời hô hào vang dội khắp nơi “Yankees, go home” ( người Mỹ,

hãy cút về nước).

Tuổi trẻ vốn ngây thơ, hồn nhiên, nên các đoàn viên Peace Corps

tuy tự nguyện đi phục vụ tại nước ngoài, nhưng vẫn giữ tinh thần

độc lập, không muốn để cho mình trở thành “công cụ của chính

sách ngọai giao của chính quyền Mỹ”. Vì thế mà có sự đối kháng

căng thẳng trong mối liên hệ giữa Peace Corps và giới lãnh đạo

chính phủ Mỹ ở Tòa Bạch ốc. Điển hình như mấy trường hợp sau

đây:

1/ Phản đối việc quân đội Mỹ xâm chiếm Cộng hòa Dominica.

Năm 1965, nhân cuộc nội chiến tại địa phương, chính quyền

Johnson đã phái quân đội đổ bộ lên đảo quốc Dominica. Một số

đoàn viên Peace Corps đã không chịu di tản theo lệnh của tòa Đại

sứ, ở lại chăm sóc các nạn nhân tại thành phố thủ đô Santo

Domingo, và họ còn tỏ ra có thiện cảm với “phe nổi dậy” mà bị

chính quyền Mỹ đang tìm cách dẹp bỏ. Thái độ ngoan cường bất

tuân mệnh lệnh của các đoàn viên này đã làm Tổng thống Johnson

hết sức giận dữ và rút cuộc đã bắt đầu tìm cách thay thế cả vị Giám

đốc đày uy tín Sargent Shriver nữa. Sự kiện này chứng tỏ Peace

Corps tuy do chính phủ Mỹ lập ra và tài trợ, nhưng tổ chức này vẫn

giữ được vị thế độc lập riêng biệt của mình, chứ không chịu răm

rắp đứng trong khuôn khổ chật hẹp của nền ngọai giao Mỹ. Đây rõ

rệt là một đơn vị thuộc khu vực xã hội Dân sự, chứ không phải là

một cơ sở thuộc chính quyền Nhà nước.

2/ Peace Corps cũng không chịu qua Việt Nam và Lào

Đầu năm 1966, Tổng thống Johnson yêu cầu giới lãnh đạo Peace

Corps phải nghiên cứu việc đưa các đoàn viên sang công tác ở Lào

và Việt Nam. Nhưng sau chuyến đi khảo sát tình hình tại chỗ của

hai nhân viên đặc trách về khu vực Viễn Đông, Peace Corps đã

quyết định không tiến hành chương trình hoạt động tại hai quốc gia

này, bất kể chỉ thị của vị Tổng thống đầy quyền uy lúc đó. Cũng có

thể là vì hồi đó tại Việt nam đã có Đòan Thanh niên Chí nguyện

Quốc tế (IVS = International Voluntary Service) đã từ Mỹ đến họat

động sẵn từ năm 1957 rồi, nên Peace Corps xét thấy nên dành ưu

tiên cho những quốc gia khác chăng.

Đàng khác, nhiều đoàn viên Peace Corps lại còn tham gia tích cực

vào phong trào chống đối cuộc chiến tranh Việt Nam mỗi ngày một

sôi nổi lan rộng khắp nước Mỹ hồi cuối thập niên 1960 nữa. Và vì

sự chống đối này, mà Tổng thống Nixon rất giận dữ đến nỗi muốn

tìm cách dẹp bỏ cả Peace Corps đi. Nhưng vì sau năm 1972, ông

bị rắc rối nặng nề với chuyện Watergate, nên đã không thể làm gì

với ý muốn dẹp bỏ tổ chức này được nữa.

Tại nhiều quốc gia khác ở Phi châu, cũng như ở châu Mỹ Latinh,

các đoàn viên Peace Corps cũng gặp phải những khó khăn tương tự

phát xuất từ thái độ bài Mỹ và nhất là do ảnh hưởng của những

lãnh tụ marxist quá khích như Fidel Castro, Ché Guevara… Nhưng

kể từ khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt và sau khi Liên Xô giải

thể vào đầu thập niên 1990, Peace Corps đã có thể họat động tương

đối êm thắm thoải mái hơn lúc ban đầu vào thập niên 1960 – 70 rất

nhiều.

Ngân sách của Peace Corps vào năm 2010 vừa được Quốc hội Mỹ

thông qua đã lên tới 400 triệu dollar, nhiều hơn con số 373 triệu mà

Tổng thống Obama đề nghị với Quốc hội. Sự kiện này chứng tỏ

Peace Corps vẫn còn giữ được tín nhiệm lớn lao trong công luận

của nước Mỹ ngày nay vậy.

IV – Nhận định tổng quát về Peace Corps trong nửa thế kỷ qua.

Peace Corps được đánh giá là một thành tựu lâu bền đáng kể nhất

của chính phủ do Tổng thống Kennedy lãnh đạo. Chương trình này

được đa số người dân Mỹ ủng hộ tán thành và đã liên tục phát triển

và hoàn thiện cho đến ngày nay qua thế kỷ XXI.

1/ Giới truyền thông báo chí Mỹ vốn chuyên môn xét nét moi móc

những sai sót của chính quyền và không ngớt chỉ trích các nhân vật

trong giới lãnh đạo xã hội được coi như là những khuôn mặt của

công chúng (public figures). Nhưng nói chung, họ lại có thiện cảm

với việc làm của những thiện nguyện viên trẻ tuổi của Peace Corps

trên khắp thế giới, và họ đã mô tả khá chi tiết về các thành tựu và

ảnh hưởng của Peace Corps tại các quốc gia nơi Peace Corps có

chương trình hoạt động.

2/ Và giới báo chí tại các quốc gia địa phương nói chung cũng đều

đánh giá cao họat động của Peace Corps và đặc biệt là tác phong

cởi mở hòa nhã và hăng say phục vụ của các thiện nguyện viên.

Sự phản ánh dư luận báo chí ở Mỹ cũng như trên thế giới như thế

rõ ràng đã chứng minh được rằng Peace Corps đã đạt được mục

tiêu chính yếu của mình đã đề ra lúc khởi đầu, đó là : “Giúp cho

các dân tộc trên thế giới hiểu rõ hơn về người Mỹ”.

Tại quê quán và các đại học xuất phát của các thiện nguyện viên,

Peace Corps cũng đều nhận được sự yểm trợ và cảm tình rất bền

vững và các báo chí truyền thông địa phương cũng liên tục theo

dõi mọi công việc của thiện nguyện viên vốn là cư dân hay đồng

song với họ. Đó là một sự gắn bó liên kết chặt chẽ trong các cộng

đồng địa phương, nơi bản quán hay nơi trường học thân thương

yêu quý năm xưa (alma mater) của các thiện nguyện viên. Và như

vậy là Peace Corps đã “Giúp người dân Mỹ hiểu biết hơn về thế

giới” như là một mục tiêu đã được đưa ra lúc ban đầu.

3/ Con số đồ sộ của trên 200,000 Cựu Thiện nguyện viên đã là một

lực lượng tinh thần vĩ đại góp phần thật đáng kể trong việc làm

thay đổi nếp suy nghĩ và tình cảm của dân tộc Mỹ trước một thế

giới bao la rộng lớn với tất cả sự phong phú về văn hóa, lịch sử

phong tục, ngôn ngữ và với một tiềm năng vô biên của các quốc

gia đang vươn lên trên trường quốc tế ngày nay ở thế kỷ XXI.

Nhân tiện cũng xin ghi ra một số nhân vật nổi bật xuất thân từ

hàng ngũ của các Thiện nguyện viên Peace Corps. Về mặt chính

trị, thì có 2 Thương nghị sĩ Liên bang, đó là Paul Tsongas của

Massachusetts (công tác ở Ethiopia), và Chris Dodd của

Connecticut ( công tác ở Cộng Hòa Dominica). Rồi đến rất nhiều

Dân biểu Liên bang, điển hình như: Mike Honda của California (El

Salvador), Thomas Petri của Wisconsin (Somalia), Tony Hall của

Ohio (Thailand), Mike Ward của Kentucky (Gambia), James Walsh

của New York (Nepal)… Các Thống đốc Jim Doyle của Wisconsin

(Tunisia), Bob Taft của Ohio (Tanzania). Cũng như các Thị trưởng

của Pittsburgh, San Angelo, Texas và Urbana, Illinois. Hai chục vị

Đại sứ xuất thân từ Peace Corps, điển hình như Christopher Hill

(Cameroon) là thương thuyết viên chính về năng lượng hạt nhân

với Bắc Triều Tiên, và Robert Gelbard là Đại sứ tại Bolivia từ

1988 đến 1991 rồi làm Phụ tá Bộ trưởng Ngọai giao từ năm 2009;

ông này hồi thập niên 1980 đã từng phục vụ trong đoàn Peace

Corps ở Bolivia.

Về số nhà văn, nhà báo xuất thân từ Peace Corps, thì cũng có rất

nhiều, mà điển hình nhất là: Paul Theroux (Malawi), Peggy

Anderson (Togo), Peter Hessler (China), Chris Matthews của

MSNBC (Swaziland), Karen De Witt của ABC News (Ethiopia),

Al Kamen của Washington Post (Dominican Republic)…

Riêng trong số người Mỹ gốc Việt thì phải kể đến tên tuổi của anh

Bùi Văn Phú hiện dậy học và viết báo tại Bắc California. Sau khi

tốt nghiệp Đại học Berkeley vào đầu thập niên 1980, anh Phú đã

gia nhập Peace Corps và được cử đi dậy môn vật lý tại Togo Phi

châu là cựu thuộc địa của Pháp, nên anh Phú lại được dịp học thêm

tiếng Pháp để làm việc tại đây từ năm 1983 đến 85. Sau này cũng

còn nhiều sinh viên gốc Việt Nam cũng gia nhập Peace Corps như

anh Phú nữa. Người viết sẽ tìm hiểu chi tiết thêm về các Thiện

nguyện viên gốc Việt và sẽ trình bày trong một dịp khác vậy.

California, tháng Tám 2011

 Đoàn Thanh Liêm

Hình: Anh Bùi Văn Phú những ngày làm tình nguyện viên của

Peace Corps ở Togo, Phi châu

Ủy Hội Venice vừa tròn 20 tuổi .

Ủy Hội Venice vừa tròn 20 tuổi .

(The Venice Commission 1990 – 2010)

Đòan Thanh Liêm

Vào ngày 10 tháng Năm 1990, sau khi bức tường Berlin xụp đổ, thì 18

quốc gia thuộc Hội Đồng Âu châu (Council of Europe) đã quyết định

thành lập một cơ cấu chuyên môn mệnh danh là “ Ủy Hội Âu châu Xây

dựng Dân chủ thông qua Luật pháp” (The European Commission for

Democracy through law). Ủy hội này thường cũng được gọi là Ủy hội

Venice, vì lý do thường hội họp tại thành phố Venice của nước Italia.

Mục đích ban đầu của Ủy hội là nhằm giúp đỡ các quốc gia vừa thóat

khỏi các chế độ độc tài tòan trị xây dựng được những bản Hiến pháp và

các đạo luật căn bản khác sao cho thích hợp với các tiêu chuẩn của Hội

đồng Âu châu : đó là Dân chủ, Nhân quyền và Nền Pháp trị (the rule of

law). Đây là một cơ quan tư vấn về các vấn đề liên hệ đến Luật Hiến

pháp, mà thành phần gồm các chuyên gia được bổ nhiệm trên cơ sở kinh

nghiệm của họ trong các định chế dân chủ, hay sự đóng góp của họ vào

trong lãnh vực tăng cường luật pháp và khoa học chính trị.

Hầu hết các quốc gia “ cựu cộng sản” mới gia nhập vào Hội đồng Âu

châu trong thập niên 1990, thì đều được Ủy hội giúp đỡ trong việc sọan

thảo Hiến pháp của mỗi nước và chuẩn bị để được chấp thuận gia nhập

vào làm một thành viên của Hội đồng.

Ngòai những bản văn Hiến pháp ra, Ủy hội Venice cũng quan tâm đến

những khía cạnh khác của quá trình dân chủ hóa, cụ thể như việc cải tổ

ngành lập pháp, cải tổ tư pháp, việc thiết lập tòa án hiến pháp cùng lề lối

điều hành, chế độ liên bang và khu vực địa phương, và cả việc chuẩn bị

pháp chế mới về bàu cử, và những luật lệ nhằm bảo vệ các sắc dân thiểu

số. Ủy hội cũng tập chú vào việc tìm kiếm những phương cách pháp lý

nhằm giải quyết những tranh chấp về chính trị có nguồn gốc từ sự mâu

thuẫn chủng tộc.

Ủy hội cũng thường thực hiện những cuộc nghiên cứu đối chiếu về

những vấn đề pháp lý hiện hành, và tổ chức các “ seminars UniDem”

(Universities for Democracy) và các khóa huấn luyện riêng về những đề

tài có tính cách quan trọng đối với các nước tham dự viên.

Từ ngày thành lập, Ủy hội đã được khắp quốc tế thừa nhân như là trung

tâm quy chiếu (reference) cho các tiêu chuẩn cao về dân chủ ở Âu châu.

Ủy hội đã đóng góp hàng mấy trăm những ý kiến và phát triển hàng mấy

chục những nghiên cứu, bô luật và bản hướng dẫn về vô số đề tài của

luật Hiến pháp. Với sự gia nhập của Mexico và Tunisia vào năm 2010

mới đây, thì Ủy hội hiện có 57 quốc gia là thành viên thực thụ, kể cả số

quốc gia thành viên không nằm trong Âu châu; với khả năng phục vụ về

chuyên môn cho 1300 triệu người dân. Từ năm 2002, Tòa Án Âu châu

về Nhân quyền (European Court of Human Rights –ECtHR) thường xin

Ủy hội cho ý kiến về pháp lý, và đã thỉnh ý Ủy hội trong hơn 45 vụ án.

Ủy hội cũng còn đóng vai trò nòng cốt trong việc thiết lập Hội nghị

Quốc tế về Công lý Hiến định (the World Conference on Constitutional

Justice) nhằm khai mở hệ thống án lệ tòan cầu về Nhân quyền, và tính

cách độc lập của ngành tư pháp trên khắp thế giới.

Năm 2004, Ủy hội đã cho xuất bản một bộ sách gồm 2 cuốn dày tới

2,000 trang với đày đủ tòan văn các bản Hiến pháp của 46 quốc gia

thuộc Âu châu. Bộ sách có nhan đề chính là :“ Constitutions of Europe”

với phụ đề là “ Texts collected by the Council of Europe Venice

Commission”. Đây là bộ sách đày đủ nhất về hiến pháp của các nước Âu

châu, mà được cập nhật hóa cho đến năm 2002, đặc biệt là của các quốc

gia cựu cộng sản, kể cả Cộng hòa Liên bang Nga hiện nay vào đầu thế

kỷ XXI.

Nhân tiện cũng xin lưu ý về sự khác biệt giữa tổ chức Hội đồng Âu châu

( Council of Europe CE) hiện có 47 quốc gia hội viên, thì khác với tổ

chức Liên Hiệp Âu châu (European Union EU) mà hiện mới có 27 quốc

gia thành viên.

Nhằm đánh dấu 20 năm ngày thành lập, Ủy hội Venice đã quyết định sẽ

tổ chức một buổi lễ Kỷ niệm thật long trọng vào ngày 5 tháng Sáu 2010

săp tới tại thành phố Venice, với sự tham dự của các nhà Lãnh đạo Quốc

gia và nhiều nhân vật cao cấp khác. Khi được giới truyền thông báo chí

phỏng vấn vừa đây, Vị Chủ tịch của Ủy hội là Gianni Buquichio đã phát

biểu trong một tinh thần phấn khởi lạc quan, đại khái như sau : “ Mối

thử thách đối với chúng ta ngày nay, đó chính là phải củng cố cho vững

chắc được cái nền tảng của tương lai dân chủ tại Âu châu và còn đi xa

hơn nữa, bằng cách bắt rễ thật chặt xã hội chúng ta vào với những giá trị

của di sản hiến định truyền thống của Âu châu, mà chúng ta sẽ tiếp tục

củng cố và phát triển hơn mãi.”

Trải qua mấy thế kỷ chiến tranh đẫm máu và tranh chấp căng thẳng liên

tục tại khắp các vùng đất thuộc Âu châu, cũng như phải gánh chịu hai

nền độc tài khắc nghiệt, tàn bạo của Đức quốc xã và của cộng sản mới

đây trong thế kỷ XX, lúc này Âu châu mới bắt đầu có cơ duyên phục hồi

lại được nền Dân chủ Đa nguyên, Tinh thần Tôn trọng Nhân quyền và

các Tự do nền tảng, cũng như nền Pháp trị.

Và trong 20 năm qua, với sự ra đời của Ủy hội Venice, cũng như nhiều

định chế văn hóa xã hội cũng như chính trị khác nữa, thì người Âu châu

cũng như người ở những châu lục khác trên thế giới đã bắt đầu thấy

được một niềm hy vọng tràn đày lạc quan về một thế giới trật tự hơn, an

hòa hơn và nhân ái hơn nữa vậy./

Washington DC, Mùa Xuân Canh Dần 2010

 Đòan Thanh Liêm

Hòn ngọc Viễn Đông ‘mất duyên’

Hòn ngọc Viễn Đông ‘mất duyên’

Sài Gòn từng được mệnh danh là ‘Hòn ngọc Viễn Đông'.

Sài Gòn từng được mệnh danh là ‘Hòn ngọc Viễn Đông’.

Trà Mi-VOA

06.03.2016

Sài Gòn, nơi từng được mệnh danh là ‘Hòn ngọc Viễn Đông’, đang ngày càng kém duyên và biến thành một đô thị xô bồ, ô nhiễm. Những ngợi khen về con người Sài Gòn chân tình, hào sảng đang dần mất dạng để nhường chỗ cho một xã hội bon chen, trộm cướp hoành hành.

Vì đâu nên nỗi? Làm cách nào lấy lại được những tiếng thơm đã mất và khôi phục lại vẻ đẹp vốn có của thành phố năng động này?

Đó là chủ đề của Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay, với 3 khách mời là những cư dân trẻ của Sài thành: Phạm Văn Lộc, Nguyễn Trần Hoàng, và Hoàng Kim Sơn. Mời các bạn cùng gặp gỡ.

Trà Mi: Các bạn thấy hình ảnh Sài Gòn ngày nay khác xưa thế nào?

Phạm Văn Lộc: Sài Gòn bây giờ đã thay đổi rất nhiều, một thành phố khói bụi ô nhiễm, và đã mất đi nét văn minh của Sài Gòn xưa từ cách ứng xử của từng người. Ra đường chỉ cần một va quẹt nhỏ là người ta ứng xử với nhau thiếu văn hóa.

Trà Mi: So sánh Sài Gòn xưa và nay, Lộc nghĩ ngay tới những hình ảnh chưa đẹp. Còn Sơn, cảm nhận của bạn về Sài Gòn thế nào?

Hoàng Kim Sơn: Xưa dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Sài Gòn giữ được những nét cổ, đẹp theo văn hóa, quy hoạch của người Pháp. Nay, sau một thời quản lý của nhà nước này, có vẻ như hơi chệch choạt về quy hoạch đô thị cũng như về đạo đức con người. Dân ở đây giờ chủ yếu là dân nhập cư, chứ người gốc Sài Gòn rất ít. Do mặt bằng chung của xã hội và giáo dục đạo đức, không riêng ở Sài Gòn mà trên cả nước, đạo đức con người đã đi xuống, an sinh giáo dục cũng kém.  Nói chung do quản lý thôi.’

“ Sài Gòn bây giờ đã thay đổi rất nhiều, một thành phố khói bụi ô nhiễm, và đã mất đi nét văn minh của Sài Gòn xưa từ cách ứng xử của từng người. Ra đường chỉ cần một va quẹt nhỏ là người ta ứng xử với nhau thiếu văn hóa.

Phạm Văn Lộc, cư dân Sài Gòn, nói.”

Trà Mi: Nói tới Sài Gòn, người ta nghĩ ngay tới các tòa cao ốc, khu mua sắm, dinh thự nguy nga tráng lệ, hay những hàng quán sang trọng. Những hình ảnh đó không là niềm hãnh diện của Sài Gòn hay sao?

Hoàng Kim Sơn: Sài Gòn lâu nay vẫn là nơi giàu nhất Việt Nam mà.

Phạm Văn Lộc: Bây giờ rất xô bồ, không có nét gì để hãnh diện hết.

Trà Mi: Đất chật người đông, khó tránh được sự xô bồ hay ô nhiễm. Các bạn có thông cảm điều đó không?

Phạm Văn Lộc: Người lãnh đạo phải sáng suốt thì thành phố mới sạch, đẹp, văn minh. Đó chính là điều gây trăn trở. Sau năm 1975, nền giáo dục của mình xuống cấp. Những thế hệ sau bị nhồi sọ. Những sự dối trá từ miền Bắc đem vào. Tất cả ảnh hưởng đến thế hệ trẻ rất nhiều, chủ yếu từ nền giáo dục.

Hoàng Kim Sơn: Môi trường xã hội ảnh hưởng con người. Đạo đức con người là do môi trường xã hội. Khi cuộc sống quan trọng đồng tiền trên hết, người ta không còn quan tâm đến đạo đức và tự trọng nữa. Người ta làm mọi giá để kiếm được tiền dù làm chuyện xấu.

Trà Mi: Nếu cuộc do sống kim tiền khiến con người thay đổi thì xung quanh cũng có nhiều nơi phát triển hơn mình, họ chạy theo đồng tiền còn vội vã hơn nhưng vẫn giữ được nét văn minh-lịch sử, chẳng hạn như Thái Lan hay Singapore?

Hoàng Kim Sơn: Bần nông không được học lại lên làm cán bộ. Cho nên, chiếm vị trí trong xã hội không phải là người giỏi nhất mà là những kẻ giang hồ nhất. Họ làm điều xấu để họ vươn lên. Từ cái gốc đã xấu rồi thì cái ngọn đâu có đẹp nữa?

“ Môi trường xã hội ảnh hưởng con người. Đạo đức con người là do môi trường xã hội. Khi cuộc sống quan trọng đồng tiền trên hết, người ta không còn quan tâm đến đạo đức và tự trọng nữa. Người ta làm mọi giá để kiếm được tiền dù làm chuyện xấu.

Hoàng Kim Sơn”

Trà Mi: Có khách quan không khi đổ lỗi ở những người có vị trí, có trách nhiệm? Hay cũng có một phần nào đó do ý thức của từng cá nhân trong xã hội này?

Hoàng Kim Sơn: Đúng, mỗi người là một yếu tố trong xã hội. Bản thân mỗi người phải tự ‘vươn ra’, chứ cứ kiếm sống và an phận đến chết thì cuộc đời họ chỉ giống một con ốc trong một chuỗi ốc thôi, không được gì cả. Phải có ý chí ‘vươn ra ngoài’, vượt ra khỏi nhà tù nhỏ của cộng sản để đầu óc sáng sủa hơn, để biết cách sống và đóng góp cho xã hội, chứ không phải chỉ biết tích góp cho bản thân mà thôi.

Phạm Văn Lộc: Mình sống trong một xã hội không được tự do. Có rất nhiều nhân tài nhưng họ không được trọng dụng thì đất nước cũng khó phát triển. Sinh viên đại học bây giờ hai, ba bằng đại học vẫn không xin được việc làm vì không có thân thế. Con cháu của cán bộ thì được đưa vào. Nhân tài thì bị mai một. Đó là điều người trẻ trăn trở.

Trà Mi: Các bạn mong muốn những thay đổi như thế nào từ giới hữu trách?

Phạm Văn Lộc: Sống giữa chế độ độc đảng này, khó lắm, không thể nào nói được. Dân cất tiếng, họ vùi dập liền. Khi nào đất nước thật sự có tự do-dân chủ thì người trẻ mới phát huy được năng lực của mình.

Trà Mi: Ngoài những kỳ vọng ở giới hữu trách, trách nhiệm của người trẻ ra sao để thúc đẩy mọi việc khá hơn?

Nguyễn Trần Hoàng: Mỗi người trong xã hội đều phải có trách nhiệm. Từng người sống tốt thì xã hội tự nhiên sẽ tốt hơn. Đừng lường gạt, đừng hơn thua, đừng làm gì sai trái mà hãy sống một cách chân chính.

“ Ước muốn Sài Gòn ngày càng thay đổi tốt đẹp hơn phải từ con người thay đổi. Khi con người thay đổi, sống chân thật, tâm thiện, đối xử tốt với người khác thì xã hội mới đẹp hơn.

Nguyễn Trần Hoàng”

Phạm Văn Lộc: Mình mơ ước trước tiên thay đổi được nền giáo dục từ gốc thì mình mới tạo nên được những nét đẹp bên ngoài. Nếu vẫn theo nền giáo dục xã hội chủ nghĩa thì các thế hệ tiếp nối sẽ khó giữ được nét đẹp trong con người để từ đó có thể xây dựng được một thành phố tốt đẹp hơn. Ra nước ngoài thấy nhiều nơi họ treo bảng đề phòng người Việt trộm cắp, mình thấy xấu hổ cho một nền giáo dục dối trá.

Nguyễn Trần Hoàng: Ước muốn Sài Gòn ngày càng thay đổi tốt đẹp hơn phải từ con người thay đổi. Khi con người thay đổi, sống chân thật, tâm thiện, đối xử tốt với người khác thì xã hội mới đẹp hơn.

Hoàng Kim Sơn: Với Việt Nam, không đơn giản chỉ thay đổi giáo dục là được, mà phải thay đổi từ hệ thống nhà nước, từ luật lệ. Giống như Tổng thống Obama nói, muốn thấy sự thay đổi, bản thân mỗi người hãy tự thay đổi. Chỉ cần 30% dân Việt Nam thay đổi thì sẽ thấy được sự ‘cách mạng’ , không cần phải gì đâu.

Trà Mi: Cảm ơn các bạn rất nhiều đã đóng góp trong chương trình Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay.

7 gương mặt Việt rạng danh

7 gương mặt Việt rạng danh

 trên top 30 Under 30 Châu Á của Forbes

26 Tháng Hai, 2016
Danh sách 7 người Việt lọt vào “Top 30 gương mặt nổi bật nhất Châu Á” của Forbes trong nhiều lĩnh vực như truyền thông, thương mại, điện tử, chăm sóc sức khỏe và khoa học.

  1. Đinh Nhật Nam, Urban StationĐinh Nhật Nam, 26 tuổi, là người sáng lập nên chuỗi cửa hàng cafe Urban Station. Hiện chuỗi cửa hàng mở rộng hệ thống lên con số 38 cửa hàng trên cả nước.

    30under30(1)
    Forbes cho biết, cùng với nhóm các nhà đầu tư mới, Nam đang chuẩn bị ra mắt chuỗi cửa hàng cafe mới tại Trung Quốc, nơi có mức tiêu thụ cà phê đang gia tăng và dự định nhập một số thương hiệu đồ uống cao cấp từ Singapore về Việt Nam.
    Anh được Forbes vinh danh trong danh sách 30 Under 30 trong lĩnh vực nghệ thuật.

  2. Trần Đức Việt – JVevermind

Trần Đức Việt, 24 tuổi, chính là vlogger mang tên JVevermind trên YouTube. JVevermind bắt đầu đăng tải video tự đạo diễn và sản xuất lên YouTube từ năm 2011.
30under30(2)

Anh cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận giải ​

Golden Play Button Award của YouTube khi đạt hơn 1 triệu người ghi danh theo dõi.

Trần Đức Việt được vinh danh trong danh sách 30 Under 30 trong lĩnh vực quảng cáo, tiếp thị, truyền thông.

  1. Hà Lâm, Triip.me

Hà Lâm (Lâm Thị Thúy Hà), 29 tuổi, là người đồng sáng lập dự án khởi nghiệp du lịch Triip.me cùng chồng mình. Hai vợ chồng từng bán nhà để lấy vốn hỗ trợ cho dự án này.

30under30(3)

Mới đây, dự án được rót 500.000 USD từ quỹ đầu tư Singapore Gobi Partners. Nữ doanh nhân này được vinh danh trong danh sách 30 Under 30 trong lĩnh vực bán lẻ và thương mại điện tử.

4. Lê Hoàng Uyên Vy, VinEcom

Lê Hoàng Uyên Vy, 28 tuổi, hiện là phó giám đốc điều hành của VinEcom, công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử.

30under30(4)

Tốt nghiệp Đại học Georgetown trong ngành tài chính, Vy từng thành lập trang web thời trang Chon.vn vào năm 2009 cũng như Aiya, một chuỗi nhà hàng phục vụ đồ ăn đường phố của Việt Nam trong nhà.

Vy lọt vào danh sách 30 Under 30 trong lĩnh vực bán lẻ, thương mại điện tử.

5. Lương Duy Hoài, Giao Hàng Nhanh

Một người Việt khác cũng lọt vào danh sách 30 Under 30 trong lĩnh vực bán lẻ, thương mại điện tử là Lương Duy Hoài.

30under30(5)

Năm nay 27 tuổi, Hoài tốt nghiệp đại học ngành Công nghệ thông tin, là người sáng lập và CEO của Giao Hàng Nhanh với hơn 1.000 nhân viên. Anh đang làm việc với 5 đối tác để cung cấp dịch vụ vận chuyển.

Giao Hàng Nhanh làm việc với các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến nhỏ để hỗ trợ vận chuyển, trong đó bao gồm 30 trang thương mại điện tử và hàng trăm doanh nghiệp nhỏ khác. Tính đến cuối năm 2014, công ty đã vận chuyển được khoảng 10.000 đơn hàng mỗi ngày,

  1. Lê Hùng Việt Bảo

Lê Hùng Việt Bảo, 29 tuổi, hiện là nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Đại học Chicago về chuyên ngành số học, một trong những lĩnh vực lâu đời nhất của toán học. Trước đó, anh tốt nghiệp tiến sĩ toán học, Đại học Harvard sau khi lấy bằng đại học tại Cambridge.

30under30(6)

Bảo gọi mối quan hệ của các con số là “một sự phức tạp đáng ngạc nhiên nhưng chưa đẹp đẽ”. Anh tin rằng lĩnh vực của anh sẽ có nhiều hữu ích trong việc phát triển công nghệ bảo mật. Bảo lọt vào danh sách 30 Under 30 trong lĩnh vực y tế và khoa học.

  1. Tạ Minh Tuấn, Help International

Tạ Minh Tuấn, 27 tuổi là người sáng lập Help International. Lấy động lực khi cha anh mắc bệnh ung thư, Tuấn đã thành lập nên Help International để hỗ trợ giới thiệu bác sĩ tư nhân cho bệnh nhân tại Việt Nam.

30under30(7)
Hiện tổ chức của anh giúp đỡ cho hơn 10.000 gia đình. Anh đồng thời cũng là chủ tịch của Junior Chamber International, một tổ chức phi lợi nhuận dành cho người từ 18 đến 40 tuổi.

Tuấn lọt vào danh sách 30 Under 30 trong lĩnh vực y tế và khoa học.

Anh chị Thụ & Mai gởi