Người Lớn Tuổi Có Nên Về Nước (VN) Sống ?

Người Lớn Tuổi Có Nên Về Nước (VN) Sống ?

Thanh Thuong Hoang
Có nhiều độc giả ở vào lứa tuổi trên dưới 70 gửi thư cho tôi hỏi là có nên về Việt Nam sống nốt những ngày còn lại trên cõi thế này không? Vì dù sao quê hương vẫn là nơi ta sinh ra tại đó. Biết bao kỷ niệm thân thương, yêu dấu dù đi khắp bốn phương trời hằng mấy chục năm vẫn không thể nào quên. Nhất là khi tuổi đời chân đã vấp hoàng hôn, thân thể hao mòn không còn đủ “nội lực” để đi tiếp, để thực hiện những giấc mộng vàng nơi xứ người. Xét về mặt tình cảm của con người thì quả đúng như vậy.

Tôi còn nhớ một bài trong sách giáo khoa học lúc còn nhỏ: không có nơi đâu đẹp bằng quê hương ta. Hơn nữa có một điều mà những người lớn tuổi sống lâu năm trên đất Mỹ (và cả các nước Anh, Pháp, Úc, Canada vv…) đều phải nhìn nhận là chúng ta đã và đang sống những ngày tháng buồn bã cô đơn. Chúng ta không biết làm gì để “tiêu” hết thì giờ của một ngày, trong khi đó thời gian lại qua mau, quá mau. Có người lấy sách báo, phim bộ làm thú tiêu sầu giết thì giờ. Có người vui chơi với con cháu sau giờ chúng đi học về – dù giờ giấc ngắn ngủi – vì chúng còn phải lo bài vở. Có người đi các sòng bạc để “đốt” vài khoản “tiền lẻ”.
Có người ra chỗ công cộng quây lại với nhau chơi cờ tướng hoặc bàn bạc chuyện chính trị chính em, nhận xét phê phán thế sự thăng trầm, rồi kiếm vài tờ báo bỏ túi để tối về nhà “nghiền”. Nói chung mọi người vẫn không tránh khỏi cái cảnh ngày tháng buồn tênh đang vây bủa quanh đời sống của mình. Và nhiều cuộc tranh luận (trong gia đình, chỗ bạn bè và cả nơi công cộng) đã diễn ra quanh đề tài: người lớn tuổi có nên về nước (VN) sống không? Theo tôi, người lớn tuổi không nên về nước (VN) sống bởi những lý do sau đây.

Thứ nhất:
Có lẽ đây là nỗi buồn nhất (và cũng là sự khó chịu nhất?) của người “xin nhận lại nơi này làm quê hương” về cuối đời: mọi sinh hoạt từ suy nghĩ tới hành động, dù lớn hay nhỏ, đều có sự khác biệt như không có cùng một nền văn hóa, một nền giáo dục giữa người trong và ngoài nước! Người trở về có cảm tưởng mình là người khách lạ trên quê hương mình. Mọi người xung quanh, ngay cả bà con thân thuộc, đều nhìn mình như một con người khác: một Việt kiều chứ không phải một người Việt Nam cùng máu đỏ da vàng, tiên tổ. Y hệt như cái thủa 30 tháng Tư năm nào với tấn trò kỳ thị: “Bắc kỳ mới, Bắc kỳ cũ”, “phe ta phe nó”… Ngay cả ngôn từ thường dùng hàng ngày cũng vậy. Cùng câu cùng chữ đó mà “hai bên” đều hiểu nghĩa khác hẳn. Ngoài ra còn có quá nhiều chữ mới được “sáng tạo” mà người ở xa về không tài nào hiểu nổi, nghe nói mà cứ ngẩn tò te. Riêng về phương diện nói tục chửi thề thì phải nhìn nhận là đồng bào ta tiến bộ vượt bực!

Thứ hai:
Vấn đề ô nhiễm môi sinh. Có thể nói ở các thành phố lớn như Hà Nội, Saigon người và xe cộ lúc nào cũng kẹt cứng mặt đường. Tiếng động cơ của đủ loại xe lớn nhỏ suốt ngày đêm ồn ào gầm rú đinh tai nhức óc. Các chất khói từ động cơ nhả ra mù mịt cả đường phố cộng với bụi bặm làm cho không khí vốn không tốt càng thêm vẩn đục ô nhiễm. Những bệnh về đường hô hấp phát sinh từ đây. Đó là chưa kể đường xá vô cùng tệ hại vừa sửa xong đã hư. (Vì không mau chóng hư để có cớ sửa lại thì làm sao có thể chấm mút kiếm chác!). Ổ gà, sống trâu đầy rẫy mặt đường tạo ra biết bao tai nạn thảm khốc. Theo thống kê của nhà nước mỗi năm tai nạn giao thông giết chết cả ngàn người! Bạn đã sống ở Mỹ quen với môi trường vệ sinh sạch sẽ, không khí trong lành, đường xá thênh thang phẳng lỳ, không một chút bụi bay, không một cộng rác dưới bánh xe lăn thì làm sao bạn có thể “hội nhập”với cảnh cũ người xưa?

Thứ ba:

Có lẽ do nước đổi chủ nên khí hậu cũng đổi theo chăng? So với mấy chục năm trước thì khí hậu Việt Nam (nhất là ở miền Nam) hiện nay thay đổi rất nhiều. Theo những người về thăm quê cũ cho biết khí hậu rất khắc nghiệt: nóng nực và ẩm ướt như chưa từng có, khiến con người cứ rã rời, bứt rứt, nhức nhối. Còn ở miền Bắc thì cái lạnh và buốt giá mỗi năm một tăng dữ dội, đến nỗi mạnh như trâu bò cũng phải lăn đùng ra chết. “Bên này” cái lạnh cũng chẳng thua kém gì “bên đó” nhưng chúng ta có thừa áo ấm chăn dầy và nhất là nhà nào cũng có máy “hít”. Còn bên đó điện còn chưa có đủ để thắp sáng trong nhà lấy đâu ra để chạy máy “hít”! Cái sự nóng lạnh bất thường và quá độ này dễ đưa những người lớn tuổi (kém sức chịu đựng) mau về bên kia thế giới lắm.

Thứ tư:

Thức ăn đồ uống phải nói là rất kém vệ sinh nếu không muốn nói là mất vệ sinh và độc hại. Chúng ta từng nhiều lần thấy báo chí trong nước loan tin (chứ không phải báo chí ngoài này bịa đặt) về thức ăn nấu nướng không hợp vệ sinh, dùng cả rau củ thịt cá hư thối. Lấy một vài điển hình. Bánh phở, món ăn thường xuyên hàng ngày của mọi người, thì cho chất “phoọc môn” dùng ướp xác người vào để bánh được dai và lâu hư. Còn rượu đế – thứ rượu người Việt Nam quen dùng từ bao đời nay – pha thuốc giết rầy vào để cho rượu trong và tăng độ nồng! Về nước uống và nước nấu ăn thì dầy đặc vi khuẩn độc hại và đục ngầu chứa đầy chất han rỉ của ống dẫn nước đã quá cũ kỹ. Rau quả thì chứa toàn độc chất. Đa số Việt kiều về nước chơi mắc chứng đau bụng tiêu chẩy vì ăn uống những thứ mất vệ sinh và độc hại này! Lại thêm những nạn “dịch” thường xuyên xẩy ra. Nào dịch gà vịt, nào dịch heo tai xanh, nào dịch thổ tả, kiết lỵ…toàn thứ giết người không gươm!

Thứ năm:
Bước ra khỏi nhà là thấy thần chết bay lởn vởn trên đầu. Đường xá đã nhỏ hẹp hư hỏng tồi tệ, lại thêm xe cộ lớn nhỏ dầy đặc chạy phóng ẩu tả bạt mạng mất trật tự nên thường xuyên gây ra tai nạn chết người bỏ chạy. Đó là chưa kể tới những cuộc đua xe (của các con ông cháu cha) nổi hứng bất thần, lần nào cũng làm cho dăm bẩy mạng người đi đường
chết oan. Ngoài ra với những người đi xe hơi thuộc loại đắt tiền cũng luôn là nạn nhân ngoài đường phố. Có một bọn bất lương chuyên giở trò rạch mặt ăn vạ như kiểu anh chàng Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Họ tìm cách lao xe (xe đạp hay gắn máy) của mình và cả người nữa vào đầu hoặc hông xe hơi rồi nằm lăn ra đường la lối kêu gào hoặc vờ vịt bất tỉnh nhân sự. Thế là muốn cho êm chuyện, chủ xe phải dúi vào tay “nạn nhân” một khoản tiền. Rồi còn cái “quốc nạn công an đường phố”, bất cứ thuộc thành phần giai cấp nào (trừ dân cuốc bộ trên lề đường và các quan to) mọi người đều phải nộp tiền mãi lộ, khi tiếng còi của “anh đồng chí công an” ré lên, bất cần phải trái. Không dúi tiền là xe và người được “cầm chân” tại chỗ vài giờ rồi sau đó chuyển về “bót” giam giữ chơi ít ngày cho tới khi đóng đủ tiền nộp phạt!

Thứ sáu:
Dù trải qua mấy chục năm rồi mà cái cảm giác bất an sợ sệt vẫn cứ ám ảnh tâm trí người Việt về nước thăm bà con. Bất cứ lúc nào công an cũng có thể tóm cổ mình vào nhà tù vu cho đủ thứ tội. Như mới đây một Việt kiều về nước ăn tết bị công an phi cảng Saigon “phát giác” có vũ khí dấu trong va ly quần áo. Không biết cơ quan an ninh phi trường của Mỹ qua mấy cổng kiểm tra gắt gao với những máy móc tối tân, có thể coi như nhất thế giới, lại không phát giác được, phải đợi tới công an cộng sản? Hay “bọn đế quốc Mỹ” đồng lõa âm mưu tạo loạn? Hay loại vũ khí này thuộc loại biết tàng hình? Rồi còn cái nạn các đồng chí thuộc đủ loại cơ quan đoàn thể tới nhà vòi vĩnh tiền bạc với cớ ủng hộ, gây quỹ vv… Như vậy dù muốn dù không chúng ta luôn luôn bị đe dọa và quấy rầy. An ninh không bảo đảm chút nào. Còn tự do thì tất nhiên vắng bóng, từ năm 1975 tới giờ vẫn không thay đổi, nói gì tới cởi mở tiến bộ như bọn “ăn cơm tự do tuyên truyền cho cộng sản” thường vẫn la lối! Cứ thử đụng vào một sợi lông chân của đảng thôi là biết tay nhau liền! Chỉ có ăn chơi trụy lạc là tự do thả dàn, chẳng những nhà nước không cấm đoán mà còn chiêu dụ thanh niên nam nữ đi vào con đường này!

Thứ bẩy:

Những người lớn tuổi thường mắc nhiều chứng bệnh. Nào cao máu, cao mỡ, đau tim, đau dạ dầy, đau nhức gân cốt… Ở Mỹ đa số đều được hưởng chế độ khám chữa bệnh thuốc men miễn phí. Nay về nước sống thì lấy đâu ra tiền chi phí chữa trị những bệnh này? Đó là chưa kể tới nền y tế của Mỹ “hiện đại” gấp nhiều lần nền y tế Việt Nam và nhất là các thầy thuốc Mỹ có lương tâm nghề nhiệp hơn thầy thuốc ở Việt Nam. Không có cái trò không tiền miễn chữa bệnh!

Thứ tám:

Những người thuộc lớp tuổi trên dưới 70, đa số là dân HO, hầu như tất cả đều hưởng tiền trợ cấp của chính phủ Mỹ. Nay về Việt Nam chỉ quá một tháng thôi là bị cúp trợ cấp liền. Vậy lấy đâu ra tiền sinh sống để an hưởng tuổi già nơi quê hương? Trông cậy vào con cháu ư? Nếu có con cháu giầu có thì chúng cũng chỉ chi cho một thời gian mà thôi.(Tục ngữ ta có câu: cha mẹ nuôi con như trời như biển, con nuôi cha mẹ con tính từng ngày). Có một sự thật đau lòng phải kể ra đây là lớp người mới thuộc những thế hệ sau trong nước, phất lên bạc muôn tiền tỷ nhờ mánh mung phe phẩy, tuy giầu tiền nhưng lại rất nghèo tình nghĩa! (Xã hội đã “hun đúc” họ trở thành như vậy). Sau một thời gian đầu có vẻ vui vẻ, họ sẽ coi chúng ta như những của nợ báo đời! Còn những người chẳng may có con cháu nghèo khó xin miễn bàn. Chúng chẳng nuôi nổi chúng và vợ con chúng thì còn lo được cho ai! Việt kiều mà không tiền bạc lại sống bám vào kẻ khác sẽ trở thành phó thường dân ngay lập tức và sẽ vĩnh viễn “bái bai” trò nay đón mai đưa như trước đây khi trong túi còn sột soạt rủng rỉnh đồng đô la xanh thắm!

Viết tới đây tôi nghĩ cũng đã tàm tạm đủ, chứ kể ra hết những điều tai nghe mắt thấy thì có lẽ phải viết hàng trăm trang giấy. Vậy thì để kết luận, theo tôi, nếu chúng ta nhớ quê hương đất nước, họ hàng thân thuộc bạn bè quý mến thì chỉ nên về thăm một thời gian mà thôi, không nên ở lại lâu dài. Chẳng những không được gì mà còn mất tất cả từ tình cảm tới vật chất và có thể còn… chết sớm nữa! Quê hương, nơi chôn nhau cắt rún, đã là người ai chẳng yêu thương nhung nhớ! Nếu quê hương là chùm nho ngọt, là cỏ cây hoa lá mượt mà xanh tươi thơm ngát, là bầu trời tự do lồng lộng gió mát trăng trong và ánh dương rực rỡ thì chúng ta nên về sống để làm tươi thắm thêm những ngày tháng còn lại trên cõi đời này. Nhưng quê hương bây giờ chỉ là chùm khế chua và chát thì tội gì chúng ta dấn thân vào cho tủi, cho khổ, cho đau, cho nhục cái tấm thân già gần đất xa trời!

Thanh Thuong Hoang

Bắc Kinh đang lún dần

Bắc Kinh đang lún dần

Các nhà khoa học mới đây đã đưa ra cảnh báo rằng thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc đang chìm dần.

Quận Chaoyang tại Bắc Kinh được cho là điểm yếu nhất trước mối đe dọa từ sụt lún do khai thác nước ngầm. Ảnh: EPA

Việc khai thác bừa bãi nguồn nước ngầm đã khiến địa chất của thành phố thủ đô Trung Quốc bị tổn thương nghiêm trọng.

Qua các hình ảnh vệ tinh, giới khoa học đưa ra kết luận rằng hàng năm Bắc Kinh (đặc biệt là những quận trung tâm) đã lún sâu thêm 11 cm.

Điều này dẫn đến mối đe dọa tiềm tàng với hệ thống đường sá, gây nguy hiểm cho 20 triệu người dân Bắc Kinh.

Bắc Kinh và vùng lân cận có hàng chục nghìn giếng nước đang bị tận dụng cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp 

Kết quả của công trình nghiên cứu do các chuyên gia Trung Quốc và nước ngoài thực hiện đã được đăng trên tạp chí Remote Sensing.

Chính quyền Bắc Kinh đang đầu tư 66 tỉ USD để mở hệ thống kênh đào nhằm đưa 44,8 tỉ mét khối nước đến thủ đô.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng còn khá sớm để khẳng định rằng kênh đào đắt đỏ này có thể hãm phanh được tình trạng lún sâu của Bắc Kinh hay không.

Nhiều thành phố trên thế giới cũng đang phải đối mặt với tình trạng tương tự như Bắc Kinh.

Thủ đô Mexico City đang lún 28 cm/năm. Jakarta cũng đang lún với tốc độ tương tự. Bangkok lún sâu 12 cm mỗi năm.

Hà Linh (Theo Guardia)

Tranh cãi gia đình, bà mẹ Mỹ bắn chết hai con gái

Tranh cãi gia đình, bà mẹ Mỹ bắn chết hai con gái

Tin Tức TTX 26/06/2016

Một bi kịch liên quan tới súng mới đây lại gây rúng động tại Mỹ khi một bà mẹ ra tay nổ súng bắn chết hai con gái sau tranh cãi trong nội bộ gia đình.

GIA DINH 1

 

 

 

 

 

 

 

Lực lượng chức năng tại hiện trường vụ thảm sát.

Vụ việc xảy ra vào 5 giờ tối ngày 24/6 (giờ địa phương) tại một ngôi nhà ở ven khu ngoại ô Fulshear, thành phố Katy, bang Texas.

Cảnh sát trưởng Hạt Fort Bend cho biết lực lượng chức năng đang điều tra về động cơ đằng sau vụ thảm sát gia đình trên tuy nhiên dường như thảm họa ập đến khi tranh cãi giữa các thành viên đã đi đến đỉnh điểm.

Truyền thông địa phương đưa tin các nạn nhân được xác định là Taylor Sheats (22 tuổi) và Madison Sheats (17 tuổi) trong khi hung thủ là người mẹ Christy Sheats (42 tuổi).

Madison đã tử vong ngay tại hiện trường còn Taylor được đưa đến bệnh viện trong tình trạng nguy kịch nhưng sau đó cũng không qua khỏi.

Các điều tra viên cho biết người chồng Jason Sheats cũng ở nhà vào thời điểm xảy ra vụ việc và đã chạy đến hàng xóm đề cầu xin sự giúp đỡ. Hiện ông Jason không bị thương nhưng đang gặp phải chấn động tâm lý.

HAI NAN NHAN

 

 

 

 

 

 

Hai nạn nhân Taylor Sheats (phải) và Madison Sheats.

BA ME V A CON

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bà mẹ Christy Sheats (phải) và con gái Madison Sheats.

Các nhân chứng cho biết họ đã thấy Jason, Taylor và Madison cùng chạy ra khỏi nhà. Hai cô con gái đều đã bị thương, Taylor gục ngay trên đường trong khi Christy tay vẫn lăm lăm cầm súng. Viên cảnh sát đến hiện trường vụ việc sớm nhất đã yêu cầu Christy hạ vũ khí tuy nhiên bà này đã phản kháng khiến cảnh sát buộc phải nổ súng. Christy sau đó đã tử vong.

Katy là thành phố với 14.000 cư dân, cách Houston 48 km về phía Tây. Hàng xóm của gia đình Sheats đã vô cùng hốt hoảng về vụ việc. Một người hàng xóm cho biết bà mẹ Christy là người phụ nữ tốt.

Trong khi đó, Austin Enke, cậu bé hàng xóm từng là bạn học của một trong hai cô con gái kể lại rằng chưa bao giờ thấy gia đình này có điều bất thường.

Theo tài khoản Facebook cá nhân, Christy là người được sở hữu súng và bà ủng hộ tu chính án thứ hai bảo vệ quyền mang vũ khí của người dân và lực lượng an ninh Mỹ.

Hà Linh

(Theo DM, ABC News, NBC News)

Buổi điểm danh cuối cùng

Buổi điểm danh cuối cùng
Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương

Ngày mới bước chân đến Mỹ, với tuổi mới trên 50, lo chuyện dựng vợ gả chồng cho con cái, tham gia niềm vui của con cháu mình và con cháu bạn bè, tháng nào chúng tôi cũng phải tham dự một hai tiệc cưới. Bây giờ suýt soát tuổi 80, sắp lên chức “cố,” cả năm không còn khăn áo chỉnh tề, lên xe “phó hội” ký tên vào sổ vàng, tươi cười đóng hụi chết, mà áo trắng, cà vạt đen, mặt mày buồn thảm đi viếng tang cũng khá nhiều.

(Hình minh họa: David McNew/Getty Images)

Bạn bè, đơn vị cũ, một thời chinh chiến hay là long nhong thời thơ ấu, ông thì nằm trong nhà hưu dưỡng đã hơn năm, ông thì đi gậy chống, walker hay ngồi xe lăn, ông thì đã thành tro bụi chứa trong cái hũ có khắc tên để trên chùa, hay ra nằm ngoài nghĩa địa với bia mộ đề tên!

Bây giờ không còn vào nhà hộ sinh để thăm cháu ra đời, hay chúc mừng hôn lễ của ai nữa, mà toàn đi nhà dưỡng lão, bệnh viện hay tang nghi quán!

Có người bạn mới gặp ở quán cà phê, tươi vui, yêu đời, vài hôm sau vừa nghe tin đột quỵ. Sau một vài tuần ở bệnh viện và trung tâm phục hồi trở về, bây giờ không còn nói được, tay chân lẩy bẩy, gặp nhau, ứa nước mắt, mà không khóc, sợ bạn buồn nản chí.

Trong nhà hưu dưỡng, đi thăm một người bạn khác, gặp một người bạn biến chứng tiểu đường, mắt đã mù, nằm ở đây đã bốn năm, còn nhớ tiếng nói của bạn mà mừng, nhưng không còn trông thấy nhau nữa. Rồi có người mang ống dẫn tiểu, có người mang tã, có người sống nhờ thức ăn chuyền thẳng vào bao tử, mà phải sống không chối từ, không thể dễ dàng chọn cái chết dù muốn chết.

Tôi cũng biết có trường hợp, anh nằm đây đã trên 10 năm, sau lần “tai biến.” Anh mở lớn đôi mắt nhìn tôi, anh nhớ tôi hay không, tôi không rõ, đôi mắt đờ đẫn, mệt mỏi, đầy những chịu đựng. Lần nào vào thăm anh, tôi cũng thấy chị ngồi đó, theo anh suốt một cuộc hành trình dài lâu, mà vẫn như đi một mình. Nhan sắc chị đã tàn phai, thân gầy như xác ve, sức tàn, lực kiệt. Chỉ sợ một ngày nào đó, chị ra đi, bỏ anh lại cho ai? Rồi một ngày, nghe tin anh mất, buồn, nhưng mừng cho chị, từ nay được giải thoát.

Nhưng chỉ ít lâu sau thôi, nghe tin chị cũng theo anh. Chút dầu còn lại trong cây đèn nhỏ đã cạn!

Tuần rồi vào bệnh viện thăm một thằng bạn thời niên thiếu, cái thuở bạn bè mùa Hè nào cũng rong chơi, tinh nghịch mà vô tư, có đêm ngủ lại nhà nhau, mà bây giờ nó nằm đó, hôn mê. Cũng một thời hạnh phúc, cũng một thời đau khổ, cũng vật vã trong chiến tranh, cũng tủi nhục trong tù đày, giờ này đâu còn gì vui buồn mang theo nữa. Thôi ra đi bình yên!

Những người lính cũ dự định tổ chức họp khóa, thời còn sung mãn, một năm một lần, bây giờ ba năm chưa muốn gọi nhau. Ngày trước tập họp vài ba trăm có dư, nay là vài ba chục cũng khó kiếm. Trong điện thoại, ở xa, có bạn nói thều thào không ra hơi, có anh điếc ù phải đeo máy, có người kêu than đau chân đi không nổi, thì làm sao mà họp khóa, điểm danh với anh em được. Ở gần thì đau mắt, không lái xe được, cũng có nhớ bạn thương bè, nhưng sức đã tàn, lực đã kiệt, cũng chẳng còn vui thú gì những lúc gặp gỡ anh em. Thôi đành một tiếng “xin lỗi” là xong!

Trước đó, thăm một anh bạn cùng khóa nhà binh, tuy già yếu, đau ốm trên giường bệnh, nhưng thấy còn lạc quan vui tươi: “Thế nào tháng sau, họp khóa, tôi cũng đến! Lâu quá không gặp anh em!” Lời hứa vui vẻ ấy không ngờ không bao giờ thực hiện được. Chúng tôi “họp khóa” năm ba thằng với anh tại nhà quàn trong ngày tiễn đưa. Rõ ràng là anh có hẹn với chúng tôi là anh sẽ đến, nhưng ở một nơi khác.

Hôm nay họp khóa, chị đã trở thành bà quả phụ, nhận bó hoa từ anh em, nhắc lại như một lời chia buồn. Lần “điểm danh” này, vắng mặt quá nhiều anh em, trong đó có anh. Vắng mặt có lý do – Miễn tố!

Quân số hôm nay đã hao hụt nhiều, phần lớn bất khiển dụng, hoặc được xếp loại 2, nhưng không bao giờ được bổ sung!

Chắc các bạn còn nhớ giờ điểm danh cuối cùng, hay là buổi chào cờ cuối cùng trong đơn vị vào cái Tháng Tư nghiệt ngã của đất nước, rồi anh em, mỗi người một nơi. Có anh em may mắn trôi giạt, sống sót đến xứ người, có người thất thân lâm cảnh tù đày. Đã có bao người chết trong trại tù hung hãn, bao nhiêu người chìm sâu xuống đáy biển oan khiên.

Bây giờ quê người lận đận, mà vẫn có đồng đội, rỗi công đi tìm người thất tán, tái cấu trúc, hay tái bố trí, gọi là đồng môn cùng quân trường, là khóa học, là binh chủng, là đơn vị! Họ gặp nhau, già yếu hơn xưa, tóc đã bạc phơ, câu chuyện ngày cũ, nhớ nhớ, quên quên. Họ gặp nhau mà nước mắt lưng tròng. Nhưng những lần tập họp thưa thớt dần, xa dần, mệt mỏi dần trong ngày tháng phai tàn.

Không phải là một lời nói bi quan, đây có thể là lần điểm danh cuối cùng. Ở tuổi ngoài bảy mươi, cuộc đời còn lại chỉ có thể tính bằng giờ. Nhiều đồng đội đã bỏ anh em đi xa, nhiều người đã không đến. Con số người mất cũng lớn bằng người còn. Răng, tóc, trí nhớ cùng với bạn bè đã bỏ chúng ta ra đi biền biệt.

Tướng MacArthur đã để lại một câu nói để đời: “Old soldiers never die; they just fade away” (Người lính già không chết; họ chỉ phai nhạt dần đi).

Tôi thích và yêu kính những người lính chết trận. Tôi không thích những người lính sống cũng như chết, sống như cái bóng ma. Phải có sự khác biệt của một người lính hy sinh trên chiến địa ngày xưa và một người lính cũ chết trong nhà dưỡng lão. Không thể coi họ như nhau.

Sống mà phai nhạt dần, cho đến một ngày nào đó, không ai còn nhớ đến mình nữa, thì cuộc đời này buồn biết mấy!

Mà thôi, chuyện gì rồi cũng qua, cái gì rồi cũng đến!

Người lính VNCH Nguyễn Văn Răng

 Người lính VNCH Nguyễn Văn Răng

Huỳnh Anh Tú (Danlambao) – Trong một chiều mưa tầm tã chú Răng ghé thăm tôi. Hai chú cháu ngồi tâm sự bên tách cà phê đắng. Chú đã ôn lại quá khứ bi hùng trong đời lính và nhắc lại những kỷ niệm vui buồn trong chốn lao tù cũng như bao nỗi gian truân khốn khó sau thời gian chú vượt ngục.

Chú Nguyễn Văn Răng sinh năm 1952 là một cựu tù nhân chính trị vừa mãn án ngày 18/9/2015.

Một người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), dù trong mọi hoàn cảnh vẫn nêu cao tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Một tù nhân chính trị, dù trong mọi tình huống vẫn giữ được ý chí kiên cường và tinh thần bất khuất, luôn trung thành với lý tưởng của mình đã chọn – chống chế độ độc tài toàn trị.

Chú Răng xuất thân từ gia đình nông dân thật thà chất phác sinh sống tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đôi bàn tay của chú chai sạn, thô kệch với những vết sẹo đã vẽ lên một quãng đời gian nan nguy khó, trải qua bao thống khổ cùng cực và đau buồn. Đặt tách cà phê lên bàn, đôi mắt chú nhìn xa xăm, hồi tưởng lại…

Ký ức thời lính

“Vào một buổi trưa, trên chiếc xuồng chở đầy ắp mía mới thu hoạch, chú hớn hở chèo về. Khi vừa tới nhà thì có một người quen chạy đến báo tin: “Chị Chiến của mầy và chồng của chỉ bị Việt Cộng giết rồi. Sau đó Chú hốt hoảng chạy theo người báo tin để xác nhận thông tin này thực hư ra sao.”

Đầu Xuân năm 1968, Nguyễn Thị Chiến chị ruột của chú Răng đến thăm chồng tại đồn Cồng Cộc, xã Phú Quới, huyện Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Bất ngờ Việt Cộng ồ ạt tấn công vào đồn. Lúc bấy giờ chị Chiến đang có mặt cùng chồng dưới hầm truyền tin. Chị đã kịp thời chạy thoát ra ngoài. Vì không thấy chồng mình đâu nên chị vội trở xuống hầm và thấy chồng và một số chiến hữu đã chết. Chồng chị là Âm Thoại Viên và bản thân chị cũng học được từ chồng một số thao tác sử dụng máy để truyền tin. Không thể chậm trễ thêm nữa, chị bắt máy lên kêu gọi “hủy diệt” đồn Cồng Cộc. Liền sau đó, phía sau chị một người lính Việt Cộng từ ngoài xông vào, liên tục đâm “ba nhát” lưỡi lê vào lưng chị – Số phận của người lính “không số quân” Nguyễn Thị Chiến đã cùng chồng ra đi vĩnh viễn.

“Biết được sự thật này chú đau khổ lắm” Chú Răng xót xa giọng nói trở nên trầm buồn hơn, “Chú uất ức không nói nên lời, lặng lẽ nhận xác hai người về nhà để mai táng và chôn cất”.

Cái chết của người chị và anh rể quá thê thảm. Chú Răng đã quyết định đăng lính. Vì thời gian đó chú mới 17 tuổi nên không đủ tuổi để nhập ngũ. Tuy nhiên không vì thế mà chú từ bỏ quyết tâm của mình. Chú đã tìm người để giúp làm “khai sinh giả” cho mình. Cuối cùng anh Nguyễn văn Răng sinh năm 1951 chính thức được vinh dự đứng vào trong hàng ngũ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1968.

Đơn vị đầu tiên của chú Răng là đơn vị Biệt Kích 8, tỉnh Vĩnh Long. Sau đó chú qua tiểu đoàn 3, trung đoàn 16, sư đoàn 9 đóng tại huyện Châu Thành, Vĩnh Long. Thời gian này, một lần nữa chú Răng đã tự tay mình đem xác của người anh rể khác là lính thuộc Địa Phương Quân tử trận tại Ba Kè – Vĩnh Long, về quê nhà mai táng và chôn cất.

Năm 1972 chú vào đơn vị Địa Phương quân tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long.

“Đơn vị của chú liên tục “đụng độ” nhiều trận chiến ác liệt, đã khiến cho Việt Cộng phải khiếp sợ”, chú tự hào kể thêm, “Vào đêm 30/4/1975, tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long, chú đã cùng tỉnh trưởng tỉnh Vĩnh Long, đại tá Lê Chí Thành quyết tử thủ đến giờ phút cuối cùng. Nếu ai đã từng ở đơn vị Địa Phương quân tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long cũng đều biết đến những chiến công oanh liệt tại đây”.

Năm tháng tù đày

Sau 1975 chú Răng đã lẻn vào kho vũ khí tại xã Phú Quới, huyện Châu Thành – Vĩnh Long và lấy một số súng M16 và M79.

Sau đó chú đã liên kết một số anh em “ít ỏi” gồm Trần Hữu Phước, Trần văn Lợt, Nguyễn Văn Tư, Hoàng (đã quên họ) cùng một số người khác, thành lập tổ chức chống lại chế độ Cộng sản.

Ngày 23/6/1976 nhận thấy sự việc đã bại lộ, chú Răng cùng các anh em giải tán đến nơi khác. Trên đường di chuyển, người bạn tên Hoàng xin phép anh em ghé nhà bà ngoại mình để từ giã. Vì quá thương cháu và không hiểu hết tầm nghiêm trọng của vấn đề nên bà ngoại Hoàng đã báo lại công an địa phương. Cuối cùng chú Răng và tất cả anh em bị bắt ngay trong ngày hôm đó.

Những ngày đầu tiên tạm giam tại nhà khám lớn Vĩnh Long, họ nhốt chú cùng phòng với linh mục Nguyễn Ngọc Đạt và cùm hai giò của chú cùng ‘sâu cùm’ với linh mục Đạt.

“Tuy họ không đánh đập gì nhiều, nhưng dùng hình thức tra tấn nhục hình khác còn “quá cha” hơn, đó là suốt một tuần lễ họ hoàn toàn không cho chú ngủ. Sau tuần lễ đó, liên tục nhiều tháng họ thay phiên nhau kêu chú làm việc không kể ngày hay đêm. Họ muốn khủng bố tra tấn tinh thần của chú, có lần chú đã ngất xỉu vì kiệt sức”.

Phiên tòa sơ thẩm tại tòa án nhân dân tỉnh Cửu Long đã kết án chú Nguyễn Văn Răng mức tử hình với tội danh “âm mưu nhằm lật đổ chính quyền”. Chú không đồng ý với mức án đó vì có một số tình tiết áp đặt không đúng với bản chất sự việc, do đó chú đã kháng án, nhưng cuối cùng tòa án tối cao vẫn giữ mức y án ban đầu.

Sau hơn 6 tháng bị giam cùm trong ngục tối, chú đã nhận được quyết định của chủ tịch nước giảm án từ tử hình xuống chung thân.

Sau khi nhận mức án chung thân họ giải chú tới trại tù Bến Giá tỉnh Trà Vinh. Nơi đây chú Răng đã một lần cướp súng “cán bộ” để vượt ngục nhưng không thành. Họ lại giam cùm chú lần nữa nữa.

Năm 1989, Chú Răng bị giải về trại A20, Xuân Phước. Tại đây chú đã làm quen và kết thân cùng nhiều anh em tù nhân chính trị và tôn giáo như thầy Thích Thiện Minh, Phan Văn Bàng và một số tu sĩ Dòng Đồng Công. Chú Răng cho biết:

“Trại tù Xuân Phước là trại tử thần. Các cai ngục xem tù nhân như là rơm rác, hầu hết bọn họ đều không có nhân tính.

Tất cả các tù nhân dù già hay trẻ đều bị bắt lao động khổ sai. Chú bị phân công vào đội 1 đào ao cá, mỗi người phải đào “hoàn thành” 2m3/ngày. Mặt bằng ở đây đều là đất đá các tù nhân phải vất vả dùng xà beng để phá lớp đất đá trên mặt là đã mất cả buổi trời, rồi mới xuống được lớp đất mềm phía dưới.

Còn chế độ sinh hoạt của tù nhân bị chèn ép thật tàn nhẫn, mỗi buổi ăn chỉ là một chén và canh thường là “rau muống già luôn cả rễ” thêm chút muối. Chăn mềm không đủ ấm, và áo không đủ măc… Chú chứng kiến rất nhiều anh em khi ra hiện trường lao động chưa làm gì thì đã ngất xỉu vì đói rét.”

Vào năm 1990, một số tù nhân chính trị và tôn giáo bị giải về trại tù Z30A Xuân Lộc.

Vượt ngục và duyên tình

Ngày 10/7/ 1991 chú Răng đã vượt ngục thành công. Chú nói: “Sau khi vượt khỏi ngục chú đi đến các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang… vào tận các phum sóc của người Campuchia để mà làm ăn. Sau đó chú lần đến Bệ Ba Dong, Vườn Cả Hơn mong gặp các chiến hữu xưa. Vì nơi đây là một trong những mật khu của lính VNCH sau 1975”.

Trong suốt ba năm làm ăn và chờ đợi. Tình cờ chú làm quen được với cô Nguyễn Thị Kim Khoa, một thôn nữ ở tỉnh Đồng Tháp hiền lành cũng làm mướn trên đây. Ông trời đã xót thương một con người bất hạnh và tác hợp cho cô chú được bên nhau. Chú Răng vui vẻ nói tiếp:

“Thật tội nghiệp cho cô Khoa lắm, con gái lấy chồng mà không được rước dâu. Lễ cưới được tổ chức tại nhà mẹ của cô Khoa, ấp Bình An xã bình Thành huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp. Chú nhờ người giúp lén lút đến gia đình chú để mời cha mẹ anh em đến đây dự”.

Họ đã sống hạnh phúc bên nhau được hơn 10 năm và có được hai mặt con. Cuối cùng giờ “định mệnh” đã đến. Chú xót xa kể lại:

“Vào ngày 4/1/2012 là ngày giỗ của ba chú. Vì chú không thể đưa vợ con về nhà ba mẹ tại xã Phú Quới, huyện Châu Thành – Vĩnh long, để thắp cho ông 1 nén nhang được. Mà bé Nguyễn Thị Hoàng Nhi con chú nó nhớ bà nội, nên xin phép chú được cùng mẹ về nội dự đám đồng thời được thăm bà. Về đây thì công an xã địa phương đã bắt hết cả ba mẹ con. Lần theo giấy tờ của cô Khoa công an biết được nơi ở của chú, rồi ngay đêm khuya hôm đó công an đến bố ráp bắt chú”.

1 giờ đêm ngày 5/1/2012, Chú Răng đã bị bắt trở lại và bị giải về ngay trại tù Z30A- Xuân Lộc, và đến 5/3/2014 hay tin cô Nguyễn Thị Kim Khoa đã vĩnh viễn ra đi trong cơn đột qụy.

Dường như chú quá đau lòng khi kể tới đây nên chú chỉ biết nhìn trời, nhìn vào những hạt mưa cuối cùng đang rơi xuống… Tôi cảm thông được nỗi lòng của chú lúc bấy giờ nên không hỏi gì thêm.

Viết những dòng chữ này, tôi không chỉ muốn những người Việt Nam yêu tự do biết về người tù Nguyễn Văn Răng, mà còn biết về những người đã hy sinh và chịu tù đầy trong thầm lặng như thế nào.

Còn và còn nhiều lắm những người sẵn sàng chết cho đất mẹ, cho tự do và những điều tốt đẹp. Để thấy rằng mỗi chúng ta không thể nằm ngoài trách nhiệm với tổ quốc thân yêu này.

Chú Nguyễn Văn Răng cùng con gái Nguyễn Thị Hoàng Nhi

28/10/2015

Huỳnh Anh Tú

danlambaovn.blogspot.com

Phạm Ðoan Trang – Cái sự hèn của Làng báo Việt Nam

Phạm Ðoan Trang – Cái sự hèn của Làng báo Việt Nam

“Trời Làm Cơn Mưa Bão, Tình Người Như Tơ Liễu…”

Dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng Cộng sản, đạo đức của con người Việt Nam đã suy thoái về căn bản, nhưng trong đó nổi bật nhất là suy thoái về cái dũng, cái nhân. Chỉ còn lại một chữ HÈN.

Về điểm này, ông Hà Sĩ Phu đã từng viết trong tiểu luận nổi tiếng Chia tay ý thức hệ (1995): “Nền đạo đức vô sản thâu nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo, từ trung, hiếu, đức, tài , lễ, nghĩa, đến cần kiệm liêm chính… đến kế hoạch trăm năm trồng người, đến điều lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ, đến dân là gốc, coi cán bộ là nô bộc của dân… Duy có chữ QUÂN TỬ là cái tử tế nhất của Nho giáo thì ta tránh hẳn”, “Người cộng sản thích chơi trò đạo đức nhưng không dám chơi trò quân tử”.

Than ôi, tâm tính của người Việt Nam dưới chế độ cộng sản đúng là như thế. Quân tử tuyệt chủng như khủng long rồi!

https://www.danluan.org/files/timgs/mpl.jpg

Cựu nhà báo Mai Phan Lợi

Làng báo Việt Nam vừa cho chúng ta một ví dụ rõ ràng về cái sự hèn. Một đồng nghiệp bị “trên” đánh, ào ào hàng chục, hàng trăm kền kền lao vào xâu xé. Từ dạy khôn đến mắng chửi tàn tệ trên facebook; từ viết bài lên án trên báo đến chỉ điểm, xúi bẩy, kích động quân đội, công an vào cuộc; từ vu khống, bôi nhọ trên mạng xã hội đến phỏng vấn “luật sư”, gợi ý phương án ghép tội cho đồng nghiệp. Tòa soạn hối hả kỷ luật, cách chức, đuổi việc v.v. Những người có vẻ hiểu chuyện nhất thì hoặc im lặng, hoặc can đảm lắm thì lên facebook khóc mếu chia tay.

Rất nhiều trong số những người ấy, cách đây mới vài tháng, thậm chí vài tuần, vẫn còn ăn nhậu vui vẻ, hội thảo tưng bừng, du lịch tung tăng, phối hợp sâu sắc cùng với nhà báo tội nghiệp vừa ngã ngựa kia trong các chuyến công cán, trong các dự án truyền thông, nghiên cứu này nọ. Nhiều người khác là những đồng nghiệp của nhà báo đó trong bao nhiêu năm, không ít lần đã từng được nhà báo ấy bảo vệ khỏi những tai nạn nghề nghiệp vốn xảy ra như cơm bữa trong cái nghề nguy hiểm này.

Nay, họ đâu cả rồi?

Nhẹ nhất là họ im lặng. Nặng nhất là họ lao vào đạp túi bụi kẻ vừa ngã ngựa, cho nó chết hẳn. Hăng hái nhất là các nhà báo-đảng viên đang muốn chứng tỏ lòng trung với chế độ.

Nhà báo Trần Ngọc Kha đã cay đắng viết: “Ngày tôi nhầm lẫn người được phỏng vấn trong một bài viết… cái gọi là “đồng nghiệp” của tôi cũng thế, vội vàng làm mọi cách để đẩy tôi ra đường như đẩy một con chó”.

Và cả tôi cũng thế. Cách đây 7 năm, tôi bị bắt ngày hôm trước, ngày hôm sau tòa soạn ra văn bản đuổi việc. Tôi ra khỏi trại, có những đồng nghiệp đi trên vỉa hè, nhìn thấy tôi đi ngược lại, là vội tìm cách… sang đường ngay hoặc vồn vã sà vào một sạp báo, một quán cóc nào đó để tránh phải chạm mặt kẻ vừa bị bắt vì tội “phản động”.

Thời nay còn thế, thời Nhân văn Giai phẩm, Xét lại… không hình dung nổi cái sự hèn hạ còn kinh tởm đến mức nào.

Tôi không muốn trách ai cả. Tôi hiểu lắm chứ. Sức chịu đựng của mỗi người trước sự đàn áp, khủng bố của bạo quyền là có hạn. Lòng can đảm không phải là thứ bẩm sinh được phân phát đều cho mỗi người. Nhưng than ôi, dù chỉ một chút dũng cảm đủ để bạn hiểu rằng “thấy cái sai thì phải lên tiếng, thấy người bị hại thì phải bảo vệ”, và nhất là đừng hùa theo cái xấu, chỉ một chút dũng cảm để giữ đạo lý thôi, cũng khó đến thế sao?

Phạm Ðoan Trang

(Blog Đoan Trang)

Năm em gốc Việt trong 8 thủ khoa trung học Học Khu Garden Grove

Năm em gốc Việt trong 8 thủ khoa trung học Học Khu Garden Grove
Nguoi-viet.com
GARDEN GROVE, California (NV) – Học Khu Garden Grove vừa làm lễ tốt nghiệp cho học sinh tám trường trung học, với tám học sinh thủ khoa được đọc bài diễn văn ra trường trước bạn học, trong những ngày qua.

Nhân dịp này, nhật báo Người Việt xin giới thiệu chân dung tám thủ khoa này, trong đó có năm học sinh gốc Việt.


Tám thủ khoa các trường trung học trong Học Khu Garden Grove, từ trái, Lisa Bang, Kelly Trần, Amber Yardley, James Thiệu, Cindy Bích Châu Trần, Jo Ann Cho, Cindy Ngô, và Zaira Bernal. (Hình: Học Khu Garden Grove cung cấp)

Lisa Bang, Bolsa Grande High School

Sẽ theo học đại học UCLA và muốn theo đuổi một sự nghiệp có tác động tích cực đối với xã hội. Trong khi cô chưa quyết định một con đường sự nghiệp nào, cô thích y khoa, sư phạm, và ngành kỹ sư. Lisa là chủ tịch National Honor Society, phó chủ tịch California Scholarship Federation, và chủ bút cho cuốn kỷ yếu. Cô nhận được các giải thưởng như Principal Honor Roll; bằng tốt nghiệp trường Việt ngữ; AP Scholar; và nhiều giải thưởng khác. Lisa Bang hiện là cư dân Garden Grove.

Kelly Trần, Garden Grove High School

Từng đảm nhiệm một số vị trí lãnh đạo trong trường, bao gồm chủ tịch National Honor Society, Junior Classical League, và câu lạc bộ môi trường; thư ký Ambassador Club; thành viên California Scholarship Foundation và đội bơi lội trung học Garden Grove. Thành tích của cô rất nhiều, trong đó có Principal’s Honor Roll; Summa Cum Laude cho các kỳ thi tiếng Latin toàn quốc; đạt điểm tối đa kỳ thi tiếng Latin toàn quốc; giải thưởng National Honor Society Service Award và Outstanding Acchievement Award; cùng nhiều giải thưởng khác. Trong khi cô định chọn theo khoa kinh doanh kinh tế, mục tiêu của cô là theo đuổi niềm đam mê để thành công và báo hiếu cho cha mẹ. Cô hiện là cư dân Garden Grove.

Amber Yardley, Hare Continuation High School

Amber từng có tên trên bảng danh dự của hiệu trưởng trong bốn tam cá nguyệt, là sinh viên xuất sắc Tháng Mười, được chứng chỉ khen thưởng đặc biệt của Quốc Hội Mỹ, và học bổng Muzet H. Hall Foster Youth – Holy Helping Hands. Khi học trung học, cô là thủ quỹ năm đầu và phục vụ như là một nhân viên nhân viên nhà bếp.

James Thiệu, La Quinta High School

Ðược học bổng toàn phần tại đại học Stanford University và chọn ngành kỹ sư điện, James rất quan tâm trong việc giúp đỡ để thúc đẩy xã hội hướng tới một tương lai bền vững hơn bằng cách mạng cơ sở giao thông hạ tầng, đặt nền móng cho sự đổi mới kinh tế. Những thành tựu của James bao gồm: AP Scholar hạng danh dự; giải chung kết National Merit; 21 huy chương Decathlon; Lóp 10 và 11 Vocal Ensemble; giải thưởng khoa toán cao cấp. James đội trưởng của Academic Decathlon và Debate Club, cũng như thủ quỹ cho Vocal Ensemble, và là thành viên của National Honor Society, California Scholarship Federation, và đội bơi lội. James Thiệu là cư dân Westminster.

Cindy Bích Châu Trần, Los Amigos High School

Cindy được nhận vào đại học Georgetown University, Washington, DC, và sẽ học ngành khoa học chính trị. Mục đích cuối cùng của cô là tạo ra các thay đổi tích cực cho thế giới. Tại trường Los Amigos, cô là thủ quân đội bóng chuyền, chủ tịch hội National Honor Society, và là thư ký Girls’ League. Cô từng được vinh danh là Lực Sĩ Xuất Sắc Nhất Trong Tháng và đoạt danh hiệu Francisco Ayala Scholar, được học bổng GGEA, và mở một cuộc vận động trên mạng xã hội để đánh động mọi người chú ý đến cuộc khủng hoảng liên quan đến người tị nạn Syria. Cô Cindy hiện là cư dân Santa Ana.

Jo Ann Cho, Pacifica High School

Ðược nhận vào đại học UC Berkeley và sẽ học ngành khoa học dinh dưỡng, sinh lý học, và sinh vật học. Tại trường Pacifica, Jo Ann Cho là thành viên hội National Honor Society, phó chủ tịch California Scholarship Federation, và thư ký kiêm thủ quỹ của UNICEF. Cô từng được các giải thưởng AP Scholar with Distinction; A.C.E. Award về khoa học xã hội và ngôn ngữ; cùng nhiều giải thưởng khác. Mục tiêu của cô là luôn sống tích cực và đầy yêu thương. Cô hiện đang sống tại Garden Grove.

Cindy Ngô, Rancho Alamitos High School

Cô Cindy Ngô sẽ học ngành tâm sinh lý học tại đại học UCLA, và sau đó dự định vào trường y khoa, để trở thành một bác sĩ về tâm thần, chuyên trị các trường hợp tâm thần rối loạn. Tại trường Rancho Alamitos, cô tham gia nhiều hoạt động qua các vai trò thủ quỹ và chủ tịch California Scholarship Federation, thủ quỹ Student League, thành viên National Honor Society, và nhiều tổ chức khác. Cô cũng nhận được nhiều giải thưởng của các khoa toán, Anh Văn, trong trường, và từng là Cầu Thủ Quần Vợt Xuất Sắc Nhất của trường. Cô Cindy Ngô là cư dân Garden Grove.

Zaira Bernal, Santiago High School

Zaira dự trù học khoa học chính trị tại đại học UCLA, rồi vào trường luật, và muốn trở thành một luật sư về dân quyền. Cô là học sinh trong nhóm Honor Roll, Scholar of the Quarter, AP Scholar with Distinction, Frederick Douglass, và từng được các giải thưởng Susan B. Anthony Award, Laura Schwalm Scholarship, và Outstanding Senior in Choir. Tại trường Santiago, Zaira là chủ tịch Academic Decathlon, và là thành viên của nhiều tổ chức khác. Cô cũng tham gia dàn đồng ca của trường, và hiện sống tại Santa Ana. (L.N., Ð.D.)

 

Vị bác sĩ Nhật bỏ việc lương cao, đi khắp Việt Nam chữa mắt miễn phí cho người nghèo

Vị bác sĩ Nhật bỏ việc lương cao, đi khắp Việt Nam chữa mắt miễn phí cho người nghèo

“Chính bố tôi đã truyền cảm hứng để tôi sống nhiều hơn cho các mục đích thiện nguyện. Trước khi ông chết, ông bảo tôi hãy luôn sống vì mọi người…”

BAC SI CHUA BINH NGUOI NGHEO

Năm nay đã 52 tuổi, nhưng bác sỹ Hattori vẫn miệt mài cho những mục đích thiện nguyện của mình tại Việt Nam.

8h sáng một buổi sáng mùa hè nắng gắt tháng 6 tại Hà Nội, một chuyến xe hàng nhét chật những thuốc men và thiết bị y tế đậu lại trước văn phòng của một tổ chức thiện nguyện ở Hà Nội. Rồi từ đây, các thiết bị y tế và thuốc men sẽ đi cùng bác sỹ Tadashi Hattori đến nhiều miền quê rất nghèo của Việt Nam.

Hôm nay đoàn đi đến huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, một vùng quê nghèo nơi phần lớn người dân sống bằng nghề nông. Thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 500 USD/người/năm, chỉ bằng 1/4 so với thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam. Tại đây, có rất nhiều người dân không có điều kiện chữa mắt và phải chấp nhận bị mù lòa.

Bệnh viện Đa khoa Đông Triều hiện nay chỉ có 5 bác sỹ nhãn khoa và trang thiết bị y tế còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, vậy cũng đã là tốt hơn rất nhiều so với các vùng nông thôn khác chẳng có bác sỹ hay phòng khám nào.

Hơn 10 năm qua, bác sỹ người Nhật Tadashi Hattori đã trở thành một cái tên rất quen thuộc với bệnh nhân nơi đây bởi ông đã về khu vực này phẫu thuật mắt miễn phí nhiều lần. Chỉ riêng từ đầu năm đến nay, bác sỹ đã phẫu thuật cho 123 người trong huyện.

Nắng nóng hay thời tiết giá lạnh, bất kỳ biến động thiên nhiên bất thường nào cũng không thể ngăn được nỗ lực của bác sỹ Tadashi Hattori người Nhật trong việc đi lại và phẫu thuật cho các bệnh nhân có vấn đề về mắt tại Việt Nam.

BS TADASHI HATTORI

 

 

 

 

 

 

 

 

Bác sĩ Tadashi Hattori khám chỉ định trước khi phẫu thuật. (Ảnh: Internet)

Suốt mười mấy năm qua, tổng số bệnh nhân nghèo Việt Nam được ông phẫu thuật miễn phí đã lên hơn 15 nghìn. Giá trị các thiết bị y tế dùng cho phẫu thuật rất cao. Giá trị của thủy tinh thể và các vật tư trị liệu đi kèm của mỗi lần chữa bệnh cũng lên đến cả trăm triệu đồng, tất cả đều có được nhờ nguồn đóng góp thiện nguyện của người Nhật dưới sự kêu gọi của bác sỹ Tadashi Hattori và những người bạn của ông.

12 năm trước đây, bác sỹ nhãn khoa Tadashi Hattori đã từ bỏ công việc có mức lương đáng mơ ước tại Nhật để sang Việt Nam giúp đỡ cho bệnh nhân nghèo.

Khi được hỏi tại sao ông lại làm như vậy, ông trả lời: “Chính bố tôi đã truyền cảm hứng để tôi sống nhiều hơn cho các mục đích thiện nguyện. Trước khi ông chết, ông bảo tôi hãy luôn sống vì mọi người.

Sau này, một người thầy đã dậy tôi rằng: “Hãy luôn đối xử với bệnh nhân như cha mẹ của mình”.”

Chính bố của bác sỹ Hattori đã chết vì sự tắc trách của bác sỹ điều trị bệnh, vì vậy ông đã quyết định học ngành y để cứu người.

Từ năm 2002, bác sỹ Hattori đã phẫu thuật miễn phí cho hàng nghìn bệnh nhân, đồng thời ông cũng đào tạo tay nghề cho nhiều bác sỹ khác. Bác sỹ Hattori tốt nghiệp ngành Y khoa tại đại học Kyoto, một trong 8 trường đại học uy tín nhất tại Nhật. Sau đó ông làm việc tại nhiều bệnh viện ở Nhật. Gần nhất ông công tác tại viện Hamamatsu, tỉnh Shizuoka.

Cuộc đời ông bắt đầu thay đổi khi trong một buổi hội thảo khoa học vào năm 2001, ông gặp một bác sỹ người Việt Nam. Người này đã hối thúc ông sang thăm Việt Nam. Ông kể lại: “Người bác sỹ ấy nói với tôi rằng ở Việt Nam có rất nhiều người quá nghèo nên không có tiền chữa bệnh, chính vì vậy họ phải chịu cảnh mù lòa, có khi mới chỉ ở độ tuổi trung niên.”

Sau khi nghe câu chuyện đó, ông đã về nhà suy nghĩ đến nửa năm, cuối cùng ông quyết định sang Việt Nam đi mổ mắt miễn phí. Khi trình bày ý định này với giám đốc bệnh viện, ông bị yêu cầu phải xin nghỉ việc nếu muốn sang Việt Nam dài hạn. Bác sỹ Hattori đã chấp nhận nghỉ việc để sang Việt Nam để đi theo tiếng gọi của lương tâm, đạo đức.

Chuyến thăm đầu tiên đến Việt Nam của ông kéo dài 1 tháng, ông ghi chép lại tất cả những gì liên quan đến thực trạng bệnh nhân mắt có hoàn cảnh quá nghèo không có tiền chữa trị tại nhiều tỉnh thành của Việt Nam. Sau đó, ông quay lại Nhật và kêu gọi các công ty y tế tài trợ, nhưng khi mà ông không làm tại một bệnh viện nào nữa, chẳng ai tài trợ cho ông xu nào. Ông nộp đơn xin hỗ trợ lên chính phủ Nhật nhưng cũng bị từ chối, đại diện của văn phòng chính phủ cho biết họ chỉ giúp đỡ các tổ chức NGO.

Cuối cùng, ông quyết định dùng tiền tiết kiệm của hai vợ chồng để mua thiết bị mang sang Việt Nam mổ miễn phí. Ở Nhật, nghề bác sỹ là nghề hái ra tiền, chỉ cần chăm chỉ làm ăn dù không quá danh tiếng cũng đã đủ có cuộc sống sung túc giàu có. Tuy nhiên, vợ ông lại không có cái “may mắn” đó vì những mục tiêu thiện nguyện của chồng.

Khi ông hỏi về việc muốn dùng tiền tiết kiệm dưỡng già của hai vợ chồng để mua thiết bị phẫu thuật cho người nghèo Việt Nam, vợ ông đã tức giận đến nỗi không nói nên lời. Hai vợ chồng ông không nói chuyện với nhau 3 ngày. Cuối cùng, bà ấy đã đồng ý. Bà thậm chí còn ủng hộ ông trong những chương trình thiện nguyện ở Việt Nam sau này.

Nguồn cafebiz

Sáu người Việt ăn trộm dưa ở Nhật bị bắt

Sáu người Việt ăn trộm dưa ở Nhật bị bắt

Nguoi-viet.com

 

HÀ NỘI (NV) – Cảnh sát Nhật Bản đã bắt giữ 6 người Việt Nam sau khi nhóm này bị phát hiện ăn trộm 112 quả dưa lưới chưa chín trong một trang trại ở tỉnh Chiba.

Tang vật 112 quả dưa lưới Takami trong vụ trộm. (Hình: Tuổi Trẻ)

Truyền thông Việt Nam ngày 22 tháng 6 dẫn tin từ nhật báo Asashi Shimbun cho biết, ngày 19 tháng 6 cảnh sát quận Asashi, tỉnh Chiba, Nhật Bản đã bắt được 6 ông Việt Nam khi nhóm người này đang chuyển 112 trái dưa lưới, đặc sản chỉ có ở thành phố Asashi vừa trộm được để mang đi tiêu thụ.

Theo tin báo Tuổi Trẻ, khoảng 2 giờ 30 sáng (giờ Nhật Bản) cùng ngày, nhóm 6 người trên đã đột nhập vào một trang trại chuyên trồng dưa lưới thương hiệu Takami trên bán đảo Boso, tỉnh Chiba lấy đi 112 trái dưa lưới mà không biết rằng nó vẫn chưa chín.

Năm người đã thừa nhận tội trộm cắp nhưng đưa ra lý do “chỉ vì muốn ăn thử cho biết.” Người còn lại, được cho là sống tại Yotsukaido, tỉnh Chiba phủ nhận có liên quan tới vụ trộm. Tổng giá trị số dưa bị trộm là 67,000 yen (khoảng gần $700).

Đại diện Hợp Tác Xã Nông Nghiệp Nhật Bản cho biết, mùa thu hoạch dưa lưới Takami thường rơi vào cuối tháng 6, đầu tháng 7. Tuy nhiên, những trái dưa trong vụ trộm vừa rồi còn quá xanh để có thể ăn như lời những người này nói.

Những câu chuyện về người Việt Nam ăn cắp ở Nhật Bản có xu hướng gia tăng. Theo báo điện tử VietNamNet, cơ quan cảnh sát Nhật Bản hồi tháng 5 năm 2015 đã công bố, tình hình bắt giữ tội phạm nước ngoài trong năm 2014, trong đó liên quan đến người Việt Nam là 2,488 vụ, tăng 61.6% so với năm 2013. Tính ra, trung bình mỗi ngày xảy ra 8 vụ ăn trộm dính đến người Việt Nam. (Tr.N)