SAO ĐÀNH?!

Ngo Du Trung added 16 new photos.

SAO ĐÀNH?!

Mẹ nó! Nhiều lúc cũng chán không muốn nhắc, muốn chửi VC, VN gì nữa. Chán quá! Những lời dối trá ngang ngược, mất dạy, ngu ngốc của bọn cầm quyền từ lớn cho tới nhỏ, như: “cầu sập một nửa, nửa còn lại vẫn còn xài tốt”,”khoai tây nhập cảng của Tầu có nhiễm độc nhưng ăn không sao”,”hai chục năm nữa, VN sẽ là một trong hai chục nền kinh tế lớn nhất thế giới”, “tiêm chủng ngừa vài trăm em bé, có vài em bé chết là bình thường, là vẫn ở trong giới hạn cho phép” v.v. và v.v…. mà người ta vẫn im nghe. Có vẻ như mọi người bằng lòng với “hạnh phúc” của họ.

Nhưng cứ lâu lâu lại gặp những tấm hình như thế này trên mạng. Tuy biết mình lên tiếng lẻ loi cũng chưa chắc thay đổi được gì, nhưng ngậm miệng sao đànsao danh 5SAO DANH 6h?!

SAO DANH 7SAO DANH 8SAO DANH 9SAO DANH 10SAO DANH 11SAO DANH 12

SAO DANH 1SAO DANH 2SAO DANH 3DAO DANH 4

Tâm Thư Sinh Viên Nhật Gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam

Tâm Thư Sinh Viên Nhật Gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam

SONY DSC

Tulip Châu Sa

Tâm Thư Sinh Viên Nhật Gởi Thế Hệ Trẻ Việt Nam

Một bạn trẻ người Nhật từng du học ở Việt Nam vừa có bài viết gửi giới trẻ Việt Nam khiến dư luận xôn xao.

“Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan”

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”. Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề,vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “cómột nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của,lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn.Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở cácnhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phảiviệc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mung, lọc lừa.

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy,chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm! Thật vậy sao?”

Nguồn Đất Việt:

*******************************

Hôm nay có bài Hồi-Âm nầy khá hay của người trẻ đang sống và lớn lên ở VN mời quí vị đọc để thấy…đắng cay thế nào ?

Lá thư quá hay !!

Bạn thân mến,
Lâu lắm rồi giới trẻ chúng tôi mới nhận được một bài viết nói lên sự thật ở đất nước tôi, dù sự thật ấy làm chúng tôi hết sức đau buồn.
Xin cám ơn bạn. Ở đất nước tôi có câu“sự thật mất lòng” nhưng cũng có câu “thương cho roi cho vọt”,“thuốc đắng đả tật”.
Bức thư của bạn đã làm thức dậy trong tôi niềm tự ái dân tộc lâu nay được ru ngủ bởi những bài học giáo điều từ nhà trường như “Chúng ta tự hào là một nước nhỏ đã đánh thắng hai cường quốc Pháp và Mỹ”.

Bạn đã nói đúng: “Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt, khó lắm. Thật vậy sao?”
Bạn biết đặt câu hỏi như thế là bạn đã có câu trả lời rồi. Những gì tôi viết sau đây chỉ là những lời tâm tìnhcủa một người trẻ thiếu niềm tin, với một người bạn đến từ một đất nước vững tin vào dân tộc mình, vào chính bản thân mình.
Bạn nói đúng. So với nước Nhật, nước Việt chúng tôi đẹp lắm. Đối với tôi không có tấm bản đồ của nước nào đẹp như tấm bản đồ của nước tôi. Tấm bản đồ ấy thon thả đánh một đường cong tuyệt đẹp bên bờ Thái Bình Dương ấm áp. Trên đất nước tôi không thiếu một thứ gì cho sự trù phú của một dân tộc . Nhưng chúng tôi thiếu một thứ.
Đó là Tự Do, Dân Chủ.
Lịch sử của chúng tôi là lịch sử của một dân tộc buồn.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.Người đã từng nhận được đĩa vàng tại đất nước Nhật của các bạn năm 1970 (bán được trên 2 triệu bản) với bài hát “Ngủ Đi Con” đã từng khóc cho đất nước mình như sau:
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi Năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong “hai mươi Năm nội chiến từng ngày” ông sống tại miền nam Việt Nam nên nỗi đau của ông còn nh hơn nỗi đau của người miền Bắc chúng tôi. Ông còn có hạnh phúc được tự do sáng táctự do gào khóc cho một đất nước bị chiến tranh xâu xé, được “đi trên đồi hoang hát trên những xác người” được mô tả người mẹ điên vì đứa con “chết hai lần thịt xương nát tan”.
Nếu ông sống ở miền Bắc ông đã bị cấm sáng tác những bài hát như thế hoặc nếu âm thầm sáng tác ông sẽ viết như sau:
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Bảy mươi năm Cộng Sản đọa đày
Gia tài của mẹ, để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt Buồn”
Bị đô hộ bởi một nước Tàu tự coi mình là bá chủ ở phương Bắc, bị một trăm năm Pháp thuộc . Một ít thời gian không bị ngoại bang đô hộ chúng tôi không có minh quân như Minh Trị Thiên Hoàng ở nước bạn. Huống gì thay vào đó chúng tôi bị cái xui là một trong những nước hiếm họi bị thống trị bởi một chế độ bị coi là quái vật của thế kỷ.
Tại sao người Việt tham vặt.???
Vì họ đã từng đói kinh khủng. Trong cuộc chiến tranh gọi là chống Mỹ chống Pháp người dân miền Bắc chúng tôi đã đói đến độ mất cả tình người.Vì một ký đường, một cái lốp xe đạp, vài lạng thịt người ta tố cáo nhau, chơi xấu nhau dù trước đó họ là người trí thức.
Cho nên ăn cắp là chuyện bình thường.
Tôi cũng xin nhắc cho bạn , năm 1945 hàng triệu người Việt miền Bắc đã chết đói vì một lý do có liên quan đến người Nhật các bạn đấy. Xin bạn tìm hiểu phần này trong lịch sử quân Phiệt Nhật ở Việt Nam.
Tất nhiên người Việt vẫn nhớ câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” nhưng “thượng bất chính, hạ tắc loạn”.
Khi chấm dứt chiến tranh. Người Việt biết họ phải tự cứu đói mình chứ không ai khác. Kẻ có quyền hành tranh dành nhau rừng vàng biển bạc, kẻ nghèo xúm lại hôi của những xe chở hàng bị lật nhào.
Thật là nhục nhã,thật là đau lòng.
Bạn bảo rằng ở nước bạn người dân giữ gìn vệ sinh công cộng rất tốt. Còn ở ViệtNam cái gì dơ bẩn đem đổ ra đường.
Đúng vậy. Nhưng Tự Do , Dân Chủ đã ăn vào máu của các bạn để các bạn ý thức rõ đây là đất nước của mình.
Còn chúng tôi?Chúng tôi chưa thấy nước Việt thực sự là của mình.!
Ngày trước Nước Việt là của Vua , Có khi nước Việt thuộc Tàu, rồi nước Việt thuộc Pháp,rồi nước Việt là của Đảng Cộng Sản.
Rung của cha ông để li đã từng trở thành của hợp tác xã,rồi ruộng là của nhà nước chỉ cho dân mượn trong một thời gian nhất định. Đất là của nhà nước nếu bị quy hoạch người dân phải lìa bỏ ngôi nhà bao năm yêu dấu của mình để ra đi.
Cái gì không phải là của mình thì người dân không cảm thấy cần phải gìn giử.
Nhưng sự mất mát đau lòng nhất trên đất nước chúng tôi là mất văn hóa và không còn nhuệ khí.
Biết làm sao được khi chúng tôi được dạy để trở thành công cụ chứ khôngđược dạy để làm người.
Tiếc thay bản chất thông minh còn sót lại đã cho chúng tôi nhận ra chúng tôi đang bị dối gạt. Nhất là trong những giờ học về lịchsử, văn chương.
Lớp trẻ chúng tôi đã mất niềm tin và tìm vui trong những trò rẻ tiền trên TV trên đường phố.
Nhớ năm nào nước của bạn cất công đem hoa anh đào qua Hà Nội cho người Hà Nội chúng tôi thưởng ngoạn. Và thanh niên Hà Nội đã nhào vô chụp giựt , bẻ nát cả hoa lẫn cành , chà đạp lên chính một nơi gọi là “ngàn năm Thăng Long văn hiến”.
Nhục thật bạn ạ. Nhưng lớp trẻ chúng tôi hầu như đang lạc lối, thiếu ngườidẫn đường thật sự chân thành thương yêu chúng tôi, thương yêu đất nước ngàn năm tang thương , đau khổ.
Thật buồn khi hàng ngày đọc trên báo bạn thấy giới trẻ nước tôi hầu như chỉ biết chạy theo một tương lai hạnh phúc dựa trên sắc đẹp và hàng hiệu. Họ không biết rằng nước Hàn có những hot girls, hot boys mà họ say mê còn là một quốc gia cực kỳ kỷ luật trong học hành, lao động.
Bạn nói đúng. Ngay cả bố mẹ chúng tôi thay vì nói với chúng tôi “con hãy chọn nghề nào làm cuộc sống con hạnh phúc nhất” thì họ chỉ muốn chúng tôi làm những công việc, ngồi vào những cái ghế có thể thu lợi tối đa dù là bất chính.
Chính cha mẹ đã chi tiền để con mình được làm tiếp viên hàng không, nhân viên hải quan, công an giao thông… với hy vọng tiền thu được dù bất minh sẽ nhiều hơn bội phần.
Một số người trẻ đã quên rằng bên cạnh các ca sĩ cặp với đại gia có nhà trăm tỉ, đi xe mười tỉ còn có bà mẹ cột hai con cùng nhảy sông tự tử vì nghèo đói. Mới đây mẹ 44 tuổi và con 24 tuổi cùng nhảy cầu tự tử vì không có tiền đóng viện phí cho con. Và ngày càng có nhiều bà mẹ tự sát vì cùng quẩn sau khi đất nước thái bình gần 40 năm.
Bạn ơi.Một ngày nào chúng tôi thực sự có tự do, dân chủ chúng ta sẽ sòng phẳng nói chuyện cùng nhau. Còn bây giờ thì:
“trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Dù sao cũng biết ơn bạn đã dám nói ra những sự thật dù có mất lòng.
Và chính bạn đã giúp tôi mạnh dạn nói ra những sự thật mà lâu nay tôi không biết tỏ cùng ai !!!

Mỗi ngày có 20 cựu chiến binh Mỹ tự tử chết

Mỗi ngày có 20 cựu chiến binh Mỹ tự tử chết

Nguoi-viet.com  

(Hình minh họa: Mladen Antonov/AFP/Getty Images)

(Hình minh họa: Mladen Antonov/AFP/Getty Images)

WASHINGTON, DC (NV) – Có ít nhất 7,043 cựu chiến binh Mỹ tự tử chết trong năm 2014, nghĩa là trung bình có 20 vụ trên cả nước mỗi ngày, theo các dữ kiện do Bộ Cựu Chiến Minh Mỹ thu thập.

Bản tin của hãng thông tấn UPI cho hay dù rằng thành phần cựu chiến binh chỉ chiếm chưa tới 9% dân số Mỹ, số vụ cựu chiến binh tự tử chiếm tới 18% tổng số vụ tự tử trên cả nước.

Khoảng 70% các cựu chiến binh tự tử không thường xuyên sử dụng các dịch vụ y tế cung cấp cho họ.

Các dữ kiện của năm 2014, được công bố hôm Thứ Năm, là lần đầu tiên Bộ Cựu Chiến Binh có tổng kết chi tiết về các vụ cựu chiến binh tự tử, thay vì ước tính như trước đây.

Thành phần 50 tuổi trở lên chiếm khoảng 65% số cựu chiến binh tự tử trong năm 2014.

Giới tự tử nhiều nhất là các nam cựu chiến binh tự tử tuổi từ 18 tới 29, ở mức 86 cho mỗi 100,000 người – cao gần bốn lần hơn con số tự tử của các quân nhân Mỹ tại ngũ năm 2015.

Mức độ tự tử của nữ cựu chiến binh Mỹ tuổi từ 18 tới 29 là 33 cho mỗi 100,000 người, cao gấp đôi so với mức độ tự tử của nữ giới trên cả nước Mỹ

Ông David Shulki, thứ trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, nói rằng tuy các dữ kiện mới nhất cho thấy có sự giảm sút so với mức trung bình của năm 2010 là 22 vụ một ngày, các con số này “vẫn là quá cao.” (V.Giang)

Việt Nam phạt hai người đẹp đi thi hoa hậu ở Mỹ

Việt Nam phạt hai người đẹp đi thi hoa hậu ở Mỹ

Nguoi-viet.com

Cô Thái Nhã Vân đoạt Á hậu 2 tại cuộc thi. (Hình: báo Tiền Phong)

Cô Thái Nhã Vân đoạt Á hậu 2 tại cuộc thi. (Hình: báo Tiền Phong)

HÀ NỘI (NV) – Hoa hậu và Á hậu tại hai cuộc thi sắc đẹp tổ chức ở California, Hoa Kỳ là bà Vũ Thúy Nga và cô Thái Nhã Vân bị các giới chức Việt Nam xử phạt và không công nhận danh hiệu vì thi hoa hậu “chui” mà không xin phép.

Ngày 7 tháng 7, truyền thông Việt Nam loan tin, ông Nguyễn Ðăng Chương, cục trưởng Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn, Bộ Văn Hóa và Thể Thao đã gửi công văn yêu cầu Sở Văn Hóa và Thể Thao Sài Gòn xử phạt người đẹp Thái Nhã Vân vì đã tự ý tham dự cuộc thi sắc đẹp “Hoa Hậu Việt Nam Toàn Cầu,” lần thứ 8, giành ngôi Á hậu được tổ chức tại California, ngày 3 tháng 7, nhân dịp Quốc Khánh Hoa Kỳ, mà “không xin phép cơ quan quản lý.”

Theo quy định của Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn, Thái Nhã Vân sẽ đối mặt với án phạt từ 15 đến 30 triệu đồng. Bên cạnh đó, không được phép sử dụng danh hiệu đạt được trong cuộc thi nhan sắc ở Mỹ trên các phương tiện truyền thông cũng như các hoạt động biểu diễn tại Việt Nam.

Ngoài Thái Nhã Vân, “cơ quan quản lý” cũng yêu cầu xử phạt bà Vũ Thúy Nga, người cũng vừa đoạt danh hiệu Hoa Hậu trong một cuộc thi “Hoa Hậu Doanh Nhân Thành Ðạt Thế Giới Người Việt 2016,” dành cho giới doanh nhân tại Mỹ, tổ chức tại California, Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 5.

Các hình phạt dành cho bà Thúy Nga tương tự như Thái Nhã Vân.

Báo Tiền Phong dẫn lời đại diện của Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn cho rằng, gần đây một số người “mượn danh nghĩa đại diện Việt Nam để tham gia các cuộc thi sắc đẹp do cộng đồng người Việt tại hải ngoại tổ chức không đúng quy định pháp luật, nhằm sử dụng danh hiệu có được để phục vụ mục đích cá nhân. Việc vi phạm này tạo phản ứng gay gắt trong dư luận và tạo nên tình trạng loạn danh hiệu từng xảy ra trước đây. Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn sẽ lên phương án chấn chỉnh lại vấn đề này,” người đại diện của cục này nói. (Tr.N)

Người Lớn Tuổi Có Nên Về Nước (VN) Sống ?

Người Lớn Tuổi Có Nên Về Nước (VN) Sống ?

Thanh Thuong Hoang
Có nhiều độc giả ở vào lứa tuổi trên dưới 70 gửi thư cho tôi hỏi là có nên về Việt Nam sống nốt những ngày còn lại trên cõi thế này không? Vì dù sao quê hương vẫn là nơi ta sinh ra tại đó. Biết bao kỷ niệm thân thương, yêu dấu dù đi khắp bốn phương trời hằng mấy chục năm vẫn không thể nào quên. Nhất là khi tuổi đời chân đã vấp hoàng hôn, thân thể hao mòn không còn đủ “nội lực” để đi tiếp, để thực hiện những giấc mộng vàng nơi xứ người. Xét về mặt tình cảm của con người thì quả đúng như vậy.

Tôi còn nhớ một bài trong sách giáo khoa học lúc còn nhỏ: không có nơi đâu đẹp bằng quê hương ta. Hơn nữa có một điều mà những người lớn tuổi sống lâu năm trên đất Mỹ (và cả các nước Anh, Pháp, Úc, Canada vv…) đều phải nhìn nhận là chúng ta đã và đang sống những ngày tháng buồn bã cô đơn. Chúng ta không biết làm gì để “tiêu” hết thì giờ của một ngày, trong khi đó thời gian lại qua mau, quá mau. Có người lấy sách báo, phim bộ làm thú tiêu sầu giết thì giờ. Có người vui chơi với con cháu sau giờ chúng đi học về – dù giờ giấc ngắn ngủi – vì chúng còn phải lo bài vở. Có người đi các sòng bạc để “đốt” vài khoản “tiền lẻ”.
Có người ra chỗ công cộng quây lại với nhau chơi cờ tướng hoặc bàn bạc chuyện chính trị chính em, nhận xét phê phán thế sự thăng trầm, rồi kiếm vài tờ báo bỏ túi để tối về nhà “nghiền”. Nói chung mọi người vẫn không tránh khỏi cái cảnh ngày tháng buồn tênh đang vây bủa quanh đời sống của mình. Và nhiều cuộc tranh luận (trong gia đình, chỗ bạn bè và cả nơi công cộng) đã diễn ra quanh đề tài: người lớn tuổi có nên về nước (VN) sống không? Theo tôi, người lớn tuổi không nên về nước (VN) sống bởi những lý do sau đây.

Thứ nhất:
Có lẽ đây là nỗi buồn nhất (và cũng là sự khó chịu nhất?) của người “xin nhận lại nơi này làm quê hương” về cuối đời: mọi sinh hoạt từ suy nghĩ tới hành động, dù lớn hay nhỏ, đều có sự khác biệt như không có cùng một nền văn hóa, một nền giáo dục giữa người trong và ngoài nước! Người trở về có cảm tưởng mình là người khách lạ trên quê hương mình. Mọi người xung quanh, ngay cả bà con thân thuộc, đều nhìn mình như một con người khác: một Việt kiều chứ không phải một người Việt Nam cùng máu đỏ da vàng, tiên tổ. Y hệt như cái thủa 30 tháng Tư năm nào với tấn trò kỳ thị: “Bắc kỳ mới, Bắc kỳ cũ”, “phe ta phe nó”… Ngay cả ngôn từ thường dùng hàng ngày cũng vậy. Cùng câu cùng chữ đó mà “hai bên” đều hiểu nghĩa khác hẳn. Ngoài ra còn có quá nhiều chữ mới được “sáng tạo” mà người ở xa về không tài nào hiểu nổi, nghe nói mà cứ ngẩn tò te. Riêng về phương diện nói tục chửi thề thì phải nhìn nhận là đồng bào ta tiến bộ vượt bực!

Thứ hai:
Vấn đề ô nhiễm môi sinh. Có thể nói ở các thành phố lớn như Hà Nội, Saigon người và xe cộ lúc nào cũng kẹt cứng mặt đường. Tiếng động cơ của đủ loại xe lớn nhỏ suốt ngày đêm ồn ào gầm rú đinh tai nhức óc. Các chất khói từ động cơ nhả ra mù mịt cả đường phố cộng với bụi bặm làm cho không khí vốn không tốt càng thêm vẩn đục ô nhiễm. Những bệnh về đường hô hấp phát sinh từ đây. Đó là chưa kể đường xá vô cùng tệ hại vừa sửa xong đã hư. (Vì không mau chóng hư để có cớ sửa lại thì làm sao có thể chấm mút kiếm chác!). Ổ gà, sống trâu đầy rẫy mặt đường tạo ra biết bao tai nạn thảm khốc. Theo thống kê của nhà nước mỗi năm tai nạn giao thông giết chết cả ngàn người! Bạn đã sống ở Mỹ quen với môi trường vệ sinh sạch sẽ, không khí trong lành, đường xá thênh thang phẳng lỳ, không một chút bụi bay, không một cộng rác dưới bánh xe lăn thì làm sao bạn có thể “hội nhập”với cảnh cũ người xưa?

Thứ ba:

Có lẽ do nước đổi chủ nên khí hậu cũng đổi theo chăng? So với mấy chục năm trước thì khí hậu Việt Nam (nhất là ở miền Nam) hiện nay thay đổi rất nhiều. Theo những người về thăm quê cũ cho biết khí hậu rất khắc nghiệt: nóng nực và ẩm ướt như chưa từng có, khiến con người cứ rã rời, bứt rứt, nhức nhối. Còn ở miền Bắc thì cái lạnh và buốt giá mỗi năm một tăng dữ dội, đến nỗi mạnh như trâu bò cũng phải lăn đùng ra chết. “Bên này” cái lạnh cũng chẳng thua kém gì “bên đó” nhưng chúng ta có thừa áo ấm chăn dầy và nhất là nhà nào cũng có máy “hít”. Còn bên đó điện còn chưa có đủ để thắp sáng trong nhà lấy đâu ra để chạy máy “hít”! Cái sự nóng lạnh bất thường và quá độ này dễ đưa những người lớn tuổi (kém sức chịu đựng) mau về bên kia thế giới lắm.

Thứ tư:

Thức ăn đồ uống phải nói là rất kém vệ sinh nếu không muốn nói là mất vệ sinh và độc hại. Chúng ta từng nhiều lần thấy báo chí trong nước loan tin (chứ không phải báo chí ngoài này bịa đặt) về thức ăn nấu nướng không hợp vệ sinh, dùng cả rau củ thịt cá hư thối. Lấy một vài điển hình. Bánh phở, món ăn thường xuyên hàng ngày của mọi người, thì cho chất “phoọc môn” dùng ướp xác người vào để bánh được dai và lâu hư. Còn rượu đế – thứ rượu người Việt Nam quen dùng từ bao đời nay – pha thuốc giết rầy vào để cho rượu trong và tăng độ nồng! Về nước uống và nước nấu ăn thì dầy đặc vi khuẩn độc hại và đục ngầu chứa đầy chất han rỉ của ống dẫn nước đã quá cũ kỹ. Rau quả thì chứa toàn độc chất. Đa số Việt kiều về nước chơi mắc chứng đau bụng tiêu chẩy vì ăn uống những thứ mất vệ sinh và độc hại này! Lại thêm những nạn “dịch” thường xuyên xẩy ra. Nào dịch gà vịt, nào dịch heo tai xanh, nào dịch thổ tả, kiết lỵ…toàn thứ giết người không gươm!

Thứ năm:
Bước ra khỏi nhà là thấy thần chết bay lởn vởn trên đầu. Đường xá đã nhỏ hẹp hư hỏng tồi tệ, lại thêm xe cộ lớn nhỏ dầy đặc chạy phóng ẩu tả bạt mạng mất trật tự nên thường xuyên gây ra tai nạn chết người bỏ chạy. Đó là chưa kể tới những cuộc đua xe (của các con ông cháu cha) nổi hứng bất thần, lần nào cũng làm cho dăm bẩy mạng người đi đường
chết oan. Ngoài ra với những người đi xe hơi thuộc loại đắt tiền cũng luôn là nạn nhân ngoài đường phố. Có một bọn bất lương chuyên giở trò rạch mặt ăn vạ như kiểu anh chàng Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Họ tìm cách lao xe (xe đạp hay gắn máy) của mình và cả người nữa vào đầu hoặc hông xe hơi rồi nằm lăn ra đường la lối kêu gào hoặc vờ vịt bất tỉnh nhân sự. Thế là muốn cho êm chuyện, chủ xe phải dúi vào tay “nạn nhân” một khoản tiền. Rồi còn cái “quốc nạn công an đường phố”, bất cứ thuộc thành phần giai cấp nào (trừ dân cuốc bộ trên lề đường và các quan to) mọi người đều phải nộp tiền mãi lộ, khi tiếng còi của “anh đồng chí công an” ré lên, bất cần phải trái. Không dúi tiền là xe và người được “cầm chân” tại chỗ vài giờ rồi sau đó chuyển về “bót” giam giữ chơi ít ngày cho tới khi đóng đủ tiền nộp phạt!

Thứ sáu:
Dù trải qua mấy chục năm rồi mà cái cảm giác bất an sợ sệt vẫn cứ ám ảnh tâm trí người Việt về nước thăm bà con. Bất cứ lúc nào công an cũng có thể tóm cổ mình vào nhà tù vu cho đủ thứ tội. Như mới đây một Việt kiều về nước ăn tết bị công an phi cảng Saigon “phát giác” có vũ khí dấu trong va ly quần áo. Không biết cơ quan an ninh phi trường của Mỹ qua mấy cổng kiểm tra gắt gao với những máy móc tối tân, có thể coi như nhất thế giới, lại không phát giác được, phải đợi tới công an cộng sản? Hay “bọn đế quốc Mỹ” đồng lõa âm mưu tạo loạn? Hay loại vũ khí này thuộc loại biết tàng hình? Rồi còn cái nạn các đồng chí thuộc đủ loại cơ quan đoàn thể tới nhà vòi vĩnh tiền bạc với cớ ủng hộ, gây quỹ vv… Như vậy dù muốn dù không chúng ta luôn luôn bị đe dọa và quấy rầy. An ninh không bảo đảm chút nào. Còn tự do thì tất nhiên vắng bóng, từ năm 1975 tới giờ vẫn không thay đổi, nói gì tới cởi mở tiến bộ như bọn “ăn cơm tự do tuyên truyền cho cộng sản” thường vẫn la lối! Cứ thử đụng vào một sợi lông chân của đảng thôi là biết tay nhau liền! Chỉ có ăn chơi trụy lạc là tự do thả dàn, chẳng những nhà nước không cấm đoán mà còn chiêu dụ thanh niên nam nữ đi vào con đường này!

Thứ bẩy:

Những người lớn tuổi thường mắc nhiều chứng bệnh. Nào cao máu, cao mỡ, đau tim, đau dạ dầy, đau nhức gân cốt… Ở Mỹ đa số đều được hưởng chế độ khám chữa bệnh thuốc men miễn phí. Nay về nước sống thì lấy đâu ra tiền chi phí chữa trị những bệnh này? Đó là chưa kể tới nền y tế của Mỹ “hiện đại” gấp nhiều lần nền y tế Việt Nam và nhất là các thầy thuốc Mỹ có lương tâm nghề nhiệp hơn thầy thuốc ở Việt Nam. Không có cái trò không tiền miễn chữa bệnh!

Thứ tám:

Những người thuộc lớp tuổi trên dưới 70, đa số là dân HO, hầu như tất cả đều hưởng tiền trợ cấp của chính phủ Mỹ. Nay về Việt Nam chỉ quá một tháng thôi là bị cúp trợ cấp liền. Vậy lấy đâu ra tiền sinh sống để an hưởng tuổi già nơi quê hương? Trông cậy vào con cháu ư? Nếu có con cháu giầu có thì chúng cũng chỉ chi cho một thời gian mà thôi.(Tục ngữ ta có câu: cha mẹ nuôi con như trời như biển, con nuôi cha mẹ con tính từng ngày). Có một sự thật đau lòng phải kể ra đây là lớp người mới thuộc những thế hệ sau trong nước, phất lên bạc muôn tiền tỷ nhờ mánh mung phe phẩy, tuy giầu tiền nhưng lại rất nghèo tình nghĩa! (Xã hội đã “hun đúc” họ trở thành như vậy). Sau một thời gian đầu có vẻ vui vẻ, họ sẽ coi chúng ta như những của nợ báo đời! Còn những người chẳng may có con cháu nghèo khó xin miễn bàn. Chúng chẳng nuôi nổi chúng và vợ con chúng thì còn lo được cho ai! Việt kiều mà không tiền bạc lại sống bám vào kẻ khác sẽ trở thành phó thường dân ngay lập tức và sẽ vĩnh viễn “bái bai” trò nay đón mai đưa như trước đây khi trong túi còn sột soạt rủng rỉnh đồng đô la xanh thắm!

Viết tới đây tôi nghĩ cũng đã tàm tạm đủ, chứ kể ra hết những điều tai nghe mắt thấy thì có lẽ phải viết hàng trăm trang giấy. Vậy thì để kết luận, theo tôi, nếu chúng ta nhớ quê hương đất nước, họ hàng thân thuộc bạn bè quý mến thì chỉ nên về thăm một thời gian mà thôi, không nên ở lại lâu dài. Chẳng những không được gì mà còn mất tất cả từ tình cảm tới vật chất và có thể còn… chết sớm nữa! Quê hương, nơi chôn nhau cắt rún, đã là người ai chẳng yêu thương nhung nhớ! Nếu quê hương là chùm nho ngọt, là cỏ cây hoa lá mượt mà xanh tươi thơm ngát, là bầu trời tự do lồng lộng gió mát trăng trong và ánh dương rực rỡ thì chúng ta nên về sống để làm tươi thắm thêm những ngày tháng còn lại trên cõi đời này. Nhưng quê hương bây giờ chỉ là chùm khế chua và chát thì tội gì chúng ta dấn thân vào cho tủi, cho khổ, cho đau, cho nhục cái tấm thân già gần đất xa trời!

Thanh Thuong Hoang

Bắc Kinh đang lún dần

Bắc Kinh đang lún dần

Các nhà khoa học mới đây đã đưa ra cảnh báo rằng thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc đang chìm dần.

Quận Chaoyang tại Bắc Kinh được cho là điểm yếu nhất trước mối đe dọa từ sụt lún do khai thác nước ngầm. Ảnh: EPA

Việc khai thác bừa bãi nguồn nước ngầm đã khiến địa chất của thành phố thủ đô Trung Quốc bị tổn thương nghiêm trọng.

Qua các hình ảnh vệ tinh, giới khoa học đưa ra kết luận rằng hàng năm Bắc Kinh (đặc biệt là những quận trung tâm) đã lún sâu thêm 11 cm.

Điều này dẫn đến mối đe dọa tiềm tàng với hệ thống đường sá, gây nguy hiểm cho 20 triệu người dân Bắc Kinh.

Bắc Kinh và vùng lân cận có hàng chục nghìn giếng nước đang bị tận dụng cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp 

Kết quả của công trình nghiên cứu do các chuyên gia Trung Quốc và nước ngoài thực hiện đã được đăng trên tạp chí Remote Sensing.

Chính quyền Bắc Kinh đang đầu tư 66 tỉ USD để mở hệ thống kênh đào nhằm đưa 44,8 tỉ mét khối nước đến thủ đô.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng còn khá sớm để khẳng định rằng kênh đào đắt đỏ này có thể hãm phanh được tình trạng lún sâu của Bắc Kinh hay không.

Nhiều thành phố trên thế giới cũng đang phải đối mặt với tình trạng tương tự như Bắc Kinh.

Thủ đô Mexico City đang lún 28 cm/năm. Jakarta cũng đang lún với tốc độ tương tự. Bangkok lún sâu 12 cm mỗi năm.

Hà Linh (Theo Guardia)

Tranh cãi gia đình, bà mẹ Mỹ bắn chết hai con gái

Tranh cãi gia đình, bà mẹ Mỹ bắn chết hai con gái

Tin Tức TTX 26/06/2016

Một bi kịch liên quan tới súng mới đây lại gây rúng động tại Mỹ khi một bà mẹ ra tay nổ súng bắn chết hai con gái sau tranh cãi trong nội bộ gia đình.

GIA DINH 1

 

 

 

 

 

 

 

Lực lượng chức năng tại hiện trường vụ thảm sát.

Vụ việc xảy ra vào 5 giờ tối ngày 24/6 (giờ địa phương) tại một ngôi nhà ở ven khu ngoại ô Fulshear, thành phố Katy, bang Texas.

Cảnh sát trưởng Hạt Fort Bend cho biết lực lượng chức năng đang điều tra về động cơ đằng sau vụ thảm sát gia đình trên tuy nhiên dường như thảm họa ập đến khi tranh cãi giữa các thành viên đã đi đến đỉnh điểm.

Truyền thông địa phương đưa tin các nạn nhân được xác định là Taylor Sheats (22 tuổi) và Madison Sheats (17 tuổi) trong khi hung thủ là người mẹ Christy Sheats (42 tuổi).

Madison đã tử vong ngay tại hiện trường còn Taylor được đưa đến bệnh viện trong tình trạng nguy kịch nhưng sau đó cũng không qua khỏi.

Các điều tra viên cho biết người chồng Jason Sheats cũng ở nhà vào thời điểm xảy ra vụ việc và đã chạy đến hàng xóm đề cầu xin sự giúp đỡ. Hiện ông Jason không bị thương nhưng đang gặp phải chấn động tâm lý.

HAI NAN NHAN

 

 

 

 

 

 

Hai nạn nhân Taylor Sheats (phải) và Madison Sheats.

BA ME V A CON

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bà mẹ Christy Sheats (phải) và con gái Madison Sheats.

Các nhân chứng cho biết họ đã thấy Jason, Taylor và Madison cùng chạy ra khỏi nhà. Hai cô con gái đều đã bị thương, Taylor gục ngay trên đường trong khi Christy tay vẫn lăm lăm cầm súng. Viên cảnh sát đến hiện trường vụ việc sớm nhất đã yêu cầu Christy hạ vũ khí tuy nhiên bà này đã phản kháng khiến cảnh sát buộc phải nổ súng. Christy sau đó đã tử vong.

Katy là thành phố với 14.000 cư dân, cách Houston 48 km về phía Tây. Hàng xóm của gia đình Sheats đã vô cùng hốt hoảng về vụ việc. Một người hàng xóm cho biết bà mẹ Christy là người phụ nữ tốt.

Trong khi đó, Austin Enke, cậu bé hàng xóm từng là bạn học của một trong hai cô con gái kể lại rằng chưa bao giờ thấy gia đình này có điều bất thường.

Theo tài khoản Facebook cá nhân, Christy là người được sở hữu súng và bà ủng hộ tu chính án thứ hai bảo vệ quyền mang vũ khí của người dân và lực lượng an ninh Mỹ.

Hà Linh

(Theo DM, ABC News, NBC News)

Buổi điểm danh cuối cùng

Buổi điểm danh cuối cùng
Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương

Ngày mới bước chân đến Mỹ, với tuổi mới trên 50, lo chuyện dựng vợ gả chồng cho con cái, tham gia niềm vui của con cháu mình và con cháu bạn bè, tháng nào chúng tôi cũng phải tham dự một hai tiệc cưới. Bây giờ suýt soát tuổi 80, sắp lên chức “cố,” cả năm không còn khăn áo chỉnh tề, lên xe “phó hội” ký tên vào sổ vàng, tươi cười đóng hụi chết, mà áo trắng, cà vạt đen, mặt mày buồn thảm đi viếng tang cũng khá nhiều.

(Hình minh họa: David McNew/Getty Images)

Bạn bè, đơn vị cũ, một thời chinh chiến hay là long nhong thời thơ ấu, ông thì nằm trong nhà hưu dưỡng đã hơn năm, ông thì đi gậy chống, walker hay ngồi xe lăn, ông thì đã thành tro bụi chứa trong cái hũ có khắc tên để trên chùa, hay ra nằm ngoài nghĩa địa với bia mộ đề tên!

Bây giờ không còn vào nhà hộ sinh để thăm cháu ra đời, hay chúc mừng hôn lễ của ai nữa, mà toàn đi nhà dưỡng lão, bệnh viện hay tang nghi quán!

Có người bạn mới gặp ở quán cà phê, tươi vui, yêu đời, vài hôm sau vừa nghe tin đột quỵ. Sau một vài tuần ở bệnh viện và trung tâm phục hồi trở về, bây giờ không còn nói được, tay chân lẩy bẩy, gặp nhau, ứa nước mắt, mà không khóc, sợ bạn buồn nản chí.

Trong nhà hưu dưỡng, đi thăm một người bạn khác, gặp một người bạn biến chứng tiểu đường, mắt đã mù, nằm ở đây đã bốn năm, còn nhớ tiếng nói của bạn mà mừng, nhưng không còn trông thấy nhau nữa. Rồi có người mang ống dẫn tiểu, có người mang tã, có người sống nhờ thức ăn chuyền thẳng vào bao tử, mà phải sống không chối từ, không thể dễ dàng chọn cái chết dù muốn chết.

Tôi cũng biết có trường hợp, anh nằm đây đã trên 10 năm, sau lần “tai biến.” Anh mở lớn đôi mắt nhìn tôi, anh nhớ tôi hay không, tôi không rõ, đôi mắt đờ đẫn, mệt mỏi, đầy những chịu đựng. Lần nào vào thăm anh, tôi cũng thấy chị ngồi đó, theo anh suốt một cuộc hành trình dài lâu, mà vẫn như đi một mình. Nhan sắc chị đã tàn phai, thân gầy như xác ve, sức tàn, lực kiệt. Chỉ sợ một ngày nào đó, chị ra đi, bỏ anh lại cho ai? Rồi một ngày, nghe tin anh mất, buồn, nhưng mừng cho chị, từ nay được giải thoát.

Nhưng chỉ ít lâu sau thôi, nghe tin chị cũng theo anh. Chút dầu còn lại trong cây đèn nhỏ đã cạn!

Tuần rồi vào bệnh viện thăm một thằng bạn thời niên thiếu, cái thuở bạn bè mùa Hè nào cũng rong chơi, tinh nghịch mà vô tư, có đêm ngủ lại nhà nhau, mà bây giờ nó nằm đó, hôn mê. Cũng một thời hạnh phúc, cũng một thời đau khổ, cũng vật vã trong chiến tranh, cũng tủi nhục trong tù đày, giờ này đâu còn gì vui buồn mang theo nữa. Thôi ra đi bình yên!

Những người lính cũ dự định tổ chức họp khóa, thời còn sung mãn, một năm một lần, bây giờ ba năm chưa muốn gọi nhau. Ngày trước tập họp vài ba trăm có dư, nay là vài ba chục cũng khó kiếm. Trong điện thoại, ở xa, có bạn nói thều thào không ra hơi, có anh điếc ù phải đeo máy, có người kêu than đau chân đi không nổi, thì làm sao mà họp khóa, điểm danh với anh em được. Ở gần thì đau mắt, không lái xe được, cũng có nhớ bạn thương bè, nhưng sức đã tàn, lực đã kiệt, cũng chẳng còn vui thú gì những lúc gặp gỡ anh em. Thôi đành một tiếng “xin lỗi” là xong!

Trước đó, thăm một anh bạn cùng khóa nhà binh, tuy già yếu, đau ốm trên giường bệnh, nhưng thấy còn lạc quan vui tươi: “Thế nào tháng sau, họp khóa, tôi cũng đến! Lâu quá không gặp anh em!” Lời hứa vui vẻ ấy không ngờ không bao giờ thực hiện được. Chúng tôi “họp khóa” năm ba thằng với anh tại nhà quàn trong ngày tiễn đưa. Rõ ràng là anh có hẹn với chúng tôi là anh sẽ đến, nhưng ở một nơi khác.

Hôm nay họp khóa, chị đã trở thành bà quả phụ, nhận bó hoa từ anh em, nhắc lại như một lời chia buồn. Lần “điểm danh” này, vắng mặt quá nhiều anh em, trong đó có anh. Vắng mặt có lý do – Miễn tố!

Quân số hôm nay đã hao hụt nhiều, phần lớn bất khiển dụng, hoặc được xếp loại 2, nhưng không bao giờ được bổ sung!

Chắc các bạn còn nhớ giờ điểm danh cuối cùng, hay là buổi chào cờ cuối cùng trong đơn vị vào cái Tháng Tư nghiệt ngã của đất nước, rồi anh em, mỗi người một nơi. Có anh em may mắn trôi giạt, sống sót đến xứ người, có người thất thân lâm cảnh tù đày. Đã có bao người chết trong trại tù hung hãn, bao nhiêu người chìm sâu xuống đáy biển oan khiên.

Bây giờ quê người lận đận, mà vẫn có đồng đội, rỗi công đi tìm người thất tán, tái cấu trúc, hay tái bố trí, gọi là đồng môn cùng quân trường, là khóa học, là binh chủng, là đơn vị! Họ gặp nhau, già yếu hơn xưa, tóc đã bạc phơ, câu chuyện ngày cũ, nhớ nhớ, quên quên. Họ gặp nhau mà nước mắt lưng tròng. Nhưng những lần tập họp thưa thớt dần, xa dần, mệt mỏi dần trong ngày tháng phai tàn.

Không phải là một lời nói bi quan, đây có thể là lần điểm danh cuối cùng. Ở tuổi ngoài bảy mươi, cuộc đời còn lại chỉ có thể tính bằng giờ. Nhiều đồng đội đã bỏ anh em đi xa, nhiều người đã không đến. Con số người mất cũng lớn bằng người còn. Răng, tóc, trí nhớ cùng với bạn bè đã bỏ chúng ta ra đi biền biệt.

Tướng MacArthur đã để lại một câu nói để đời: “Old soldiers never die; they just fade away” (Người lính già không chết; họ chỉ phai nhạt dần đi).

Tôi thích và yêu kính những người lính chết trận. Tôi không thích những người lính sống cũng như chết, sống như cái bóng ma. Phải có sự khác biệt của một người lính hy sinh trên chiến địa ngày xưa và một người lính cũ chết trong nhà dưỡng lão. Không thể coi họ như nhau.

Sống mà phai nhạt dần, cho đến một ngày nào đó, không ai còn nhớ đến mình nữa, thì cuộc đời này buồn biết mấy!

Mà thôi, chuyện gì rồi cũng qua, cái gì rồi cũng đến!

Người lính VNCH Nguyễn Văn Răng

 Người lính VNCH Nguyễn Văn Răng

Huỳnh Anh Tú (Danlambao) – Trong một chiều mưa tầm tã chú Răng ghé thăm tôi. Hai chú cháu ngồi tâm sự bên tách cà phê đắng. Chú đã ôn lại quá khứ bi hùng trong đời lính và nhắc lại những kỷ niệm vui buồn trong chốn lao tù cũng như bao nỗi gian truân khốn khó sau thời gian chú vượt ngục.

Chú Nguyễn Văn Răng sinh năm 1952 là một cựu tù nhân chính trị vừa mãn án ngày 18/9/2015.

Một người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), dù trong mọi hoàn cảnh vẫn nêu cao tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Một tù nhân chính trị, dù trong mọi tình huống vẫn giữ được ý chí kiên cường và tinh thần bất khuất, luôn trung thành với lý tưởng của mình đã chọn – chống chế độ độc tài toàn trị.

Chú Răng xuất thân từ gia đình nông dân thật thà chất phác sinh sống tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đôi bàn tay của chú chai sạn, thô kệch với những vết sẹo đã vẽ lên một quãng đời gian nan nguy khó, trải qua bao thống khổ cùng cực và đau buồn. Đặt tách cà phê lên bàn, đôi mắt chú nhìn xa xăm, hồi tưởng lại…

Ký ức thời lính

“Vào một buổi trưa, trên chiếc xuồng chở đầy ắp mía mới thu hoạch, chú hớn hở chèo về. Khi vừa tới nhà thì có một người quen chạy đến báo tin: “Chị Chiến của mầy và chồng của chỉ bị Việt Cộng giết rồi. Sau đó Chú hốt hoảng chạy theo người báo tin để xác nhận thông tin này thực hư ra sao.”

Đầu Xuân năm 1968, Nguyễn Thị Chiến chị ruột của chú Răng đến thăm chồng tại đồn Cồng Cộc, xã Phú Quới, huyện Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Bất ngờ Việt Cộng ồ ạt tấn công vào đồn. Lúc bấy giờ chị Chiến đang có mặt cùng chồng dưới hầm truyền tin. Chị đã kịp thời chạy thoát ra ngoài. Vì không thấy chồng mình đâu nên chị vội trở xuống hầm và thấy chồng và một số chiến hữu đã chết. Chồng chị là Âm Thoại Viên và bản thân chị cũng học được từ chồng một số thao tác sử dụng máy để truyền tin. Không thể chậm trễ thêm nữa, chị bắt máy lên kêu gọi “hủy diệt” đồn Cồng Cộc. Liền sau đó, phía sau chị một người lính Việt Cộng từ ngoài xông vào, liên tục đâm “ba nhát” lưỡi lê vào lưng chị – Số phận của người lính “không số quân” Nguyễn Thị Chiến đã cùng chồng ra đi vĩnh viễn.

“Biết được sự thật này chú đau khổ lắm” Chú Răng xót xa giọng nói trở nên trầm buồn hơn, “Chú uất ức không nói nên lời, lặng lẽ nhận xác hai người về nhà để mai táng và chôn cất”.

Cái chết của người chị và anh rể quá thê thảm. Chú Răng đã quyết định đăng lính. Vì thời gian đó chú mới 17 tuổi nên không đủ tuổi để nhập ngũ. Tuy nhiên không vì thế mà chú từ bỏ quyết tâm của mình. Chú đã tìm người để giúp làm “khai sinh giả” cho mình. Cuối cùng anh Nguyễn văn Răng sinh năm 1951 chính thức được vinh dự đứng vào trong hàng ngũ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1968.

Đơn vị đầu tiên của chú Răng là đơn vị Biệt Kích 8, tỉnh Vĩnh Long. Sau đó chú qua tiểu đoàn 3, trung đoàn 16, sư đoàn 9 đóng tại huyện Châu Thành, Vĩnh Long. Thời gian này, một lần nữa chú Răng đã tự tay mình đem xác của người anh rể khác là lính thuộc Địa Phương Quân tử trận tại Ba Kè – Vĩnh Long, về quê nhà mai táng và chôn cất.

Năm 1972 chú vào đơn vị Địa Phương quân tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long.

“Đơn vị của chú liên tục “đụng độ” nhiều trận chiến ác liệt, đã khiến cho Việt Cộng phải khiếp sợ”, chú tự hào kể thêm, “Vào đêm 30/4/1975, tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long, chú đã cùng tỉnh trưởng tỉnh Vĩnh Long, đại tá Lê Chí Thành quyết tử thủ đến giờ phút cuối cùng. Nếu ai đã từng ở đơn vị Địa Phương quân tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long cũng đều biết đến những chiến công oanh liệt tại đây”.

Năm tháng tù đày

Sau 1975 chú Răng đã lẻn vào kho vũ khí tại xã Phú Quới, huyện Châu Thành – Vĩnh Long và lấy một số súng M16 và M79.

Sau đó chú đã liên kết một số anh em “ít ỏi” gồm Trần Hữu Phước, Trần văn Lợt, Nguyễn Văn Tư, Hoàng (đã quên họ) cùng một số người khác, thành lập tổ chức chống lại chế độ Cộng sản.

Ngày 23/6/1976 nhận thấy sự việc đã bại lộ, chú Răng cùng các anh em giải tán đến nơi khác. Trên đường di chuyển, người bạn tên Hoàng xin phép anh em ghé nhà bà ngoại mình để từ giã. Vì quá thương cháu và không hiểu hết tầm nghiêm trọng của vấn đề nên bà ngoại Hoàng đã báo lại công an địa phương. Cuối cùng chú Răng và tất cả anh em bị bắt ngay trong ngày hôm đó.

Những ngày đầu tiên tạm giam tại nhà khám lớn Vĩnh Long, họ nhốt chú cùng phòng với linh mục Nguyễn Ngọc Đạt và cùm hai giò của chú cùng ‘sâu cùm’ với linh mục Đạt.

“Tuy họ không đánh đập gì nhiều, nhưng dùng hình thức tra tấn nhục hình khác còn “quá cha” hơn, đó là suốt một tuần lễ họ hoàn toàn không cho chú ngủ. Sau tuần lễ đó, liên tục nhiều tháng họ thay phiên nhau kêu chú làm việc không kể ngày hay đêm. Họ muốn khủng bố tra tấn tinh thần của chú, có lần chú đã ngất xỉu vì kiệt sức”.

Phiên tòa sơ thẩm tại tòa án nhân dân tỉnh Cửu Long đã kết án chú Nguyễn Văn Răng mức tử hình với tội danh “âm mưu nhằm lật đổ chính quyền”. Chú không đồng ý với mức án đó vì có một số tình tiết áp đặt không đúng với bản chất sự việc, do đó chú đã kháng án, nhưng cuối cùng tòa án tối cao vẫn giữ mức y án ban đầu.

Sau hơn 6 tháng bị giam cùm trong ngục tối, chú đã nhận được quyết định của chủ tịch nước giảm án từ tử hình xuống chung thân.

Sau khi nhận mức án chung thân họ giải chú tới trại tù Bến Giá tỉnh Trà Vinh. Nơi đây chú Răng đã một lần cướp súng “cán bộ” để vượt ngục nhưng không thành. Họ lại giam cùm chú lần nữa nữa.

Năm 1989, Chú Răng bị giải về trại A20, Xuân Phước. Tại đây chú đã làm quen và kết thân cùng nhiều anh em tù nhân chính trị và tôn giáo như thầy Thích Thiện Minh, Phan Văn Bàng và một số tu sĩ Dòng Đồng Công. Chú Răng cho biết:

“Trại tù Xuân Phước là trại tử thần. Các cai ngục xem tù nhân như là rơm rác, hầu hết bọn họ đều không có nhân tính.

Tất cả các tù nhân dù già hay trẻ đều bị bắt lao động khổ sai. Chú bị phân công vào đội 1 đào ao cá, mỗi người phải đào “hoàn thành” 2m3/ngày. Mặt bằng ở đây đều là đất đá các tù nhân phải vất vả dùng xà beng để phá lớp đất đá trên mặt là đã mất cả buổi trời, rồi mới xuống được lớp đất mềm phía dưới.

Còn chế độ sinh hoạt của tù nhân bị chèn ép thật tàn nhẫn, mỗi buổi ăn chỉ là một chén và canh thường là “rau muống già luôn cả rễ” thêm chút muối. Chăn mềm không đủ ấm, và áo không đủ măc… Chú chứng kiến rất nhiều anh em khi ra hiện trường lao động chưa làm gì thì đã ngất xỉu vì đói rét.”

Vào năm 1990, một số tù nhân chính trị và tôn giáo bị giải về trại tù Z30A Xuân Lộc.

Vượt ngục và duyên tình

Ngày 10/7/ 1991 chú Răng đã vượt ngục thành công. Chú nói: “Sau khi vượt khỏi ngục chú đi đến các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang… vào tận các phum sóc của người Campuchia để mà làm ăn. Sau đó chú lần đến Bệ Ba Dong, Vườn Cả Hơn mong gặp các chiến hữu xưa. Vì nơi đây là một trong những mật khu của lính VNCH sau 1975”.

Trong suốt ba năm làm ăn và chờ đợi. Tình cờ chú làm quen được với cô Nguyễn Thị Kim Khoa, một thôn nữ ở tỉnh Đồng Tháp hiền lành cũng làm mướn trên đây. Ông trời đã xót thương một con người bất hạnh và tác hợp cho cô chú được bên nhau. Chú Răng vui vẻ nói tiếp:

“Thật tội nghiệp cho cô Khoa lắm, con gái lấy chồng mà không được rước dâu. Lễ cưới được tổ chức tại nhà mẹ của cô Khoa, ấp Bình An xã bình Thành huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp. Chú nhờ người giúp lén lút đến gia đình chú để mời cha mẹ anh em đến đây dự”.

Họ đã sống hạnh phúc bên nhau được hơn 10 năm và có được hai mặt con. Cuối cùng giờ “định mệnh” đã đến. Chú xót xa kể lại:

“Vào ngày 4/1/2012 là ngày giỗ của ba chú. Vì chú không thể đưa vợ con về nhà ba mẹ tại xã Phú Quới, huyện Châu Thành – Vĩnh long, để thắp cho ông 1 nén nhang được. Mà bé Nguyễn Thị Hoàng Nhi con chú nó nhớ bà nội, nên xin phép chú được cùng mẹ về nội dự đám đồng thời được thăm bà. Về đây thì công an xã địa phương đã bắt hết cả ba mẹ con. Lần theo giấy tờ của cô Khoa công an biết được nơi ở của chú, rồi ngay đêm khuya hôm đó công an đến bố ráp bắt chú”.

1 giờ đêm ngày 5/1/2012, Chú Răng đã bị bắt trở lại và bị giải về ngay trại tù Z30A- Xuân Lộc, và đến 5/3/2014 hay tin cô Nguyễn Thị Kim Khoa đã vĩnh viễn ra đi trong cơn đột qụy.

Dường như chú quá đau lòng khi kể tới đây nên chú chỉ biết nhìn trời, nhìn vào những hạt mưa cuối cùng đang rơi xuống… Tôi cảm thông được nỗi lòng của chú lúc bấy giờ nên không hỏi gì thêm.

Viết những dòng chữ này, tôi không chỉ muốn những người Việt Nam yêu tự do biết về người tù Nguyễn Văn Răng, mà còn biết về những người đã hy sinh và chịu tù đầy trong thầm lặng như thế nào.

Còn và còn nhiều lắm những người sẵn sàng chết cho đất mẹ, cho tự do và những điều tốt đẹp. Để thấy rằng mỗi chúng ta không thể nằm ngoài trách nhiệm với tổ quốc thân yêu này.

Chú Nguyễn Văn Răng cùng con gái Nguyễn Thị Hoàng Nhi

28/10/2015

Huỳnh Anh Tú

danlambaovn.blogspot.com