Thánh Valentine

Thánh Valentine

    (c. 269)

14 Tháng Hai

 

Thanh Valentine

Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ. Vì không chịu từ bỏ đức tin, ngài được tử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài tử đạo.

Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị tử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị bắt, và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét xử. Sau khi dụ dỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra lệnh cho lính dùng gậy đánh đập ngài, sau đó đưa đi chém đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.

Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần dâm dục là Februata Juno.

Các tu sĩ thời ấy muốn dẹp bỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị chém đầu. Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, “mọi chim đực đi tìm chim mái.” Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư từ trao cho nhau là một phần của việc cử hành ngày Valentine.

  Trích từ NguoiTinHuu.com

Tết của nguời già ở Mỹ

Tết của nguời già ở Mỹ

Theo một thống kê của Cơ quan an sinh xã hội bang California, Mỹ, trong tổng số 400 nghìn người Việt hiện đang sinh sống ở miền Nam California, có khoảng 15 nghìn người trên 65 tuổi. 1/3 ở chung với con cháu. Số còn lại, ở trong các viện dưỡng lão (nursing home).

Vẫn theo thống kê này, những người Việt già trên đất Mỹ rất sợ bị đưa vào nursing home!

  1. Xế chiều 29 tháng Chạp, tôi lái xe đến Viện Dưỡng lão thành phố Westminster, Orange County. Đây là cơ sở được xem như khá nhất trong số những viện dưỡng lão tại miền Nam Cali. Vì là ngày giáp tết nên quang cảnh khá lặng lẽ. Ở các lối đi trong khu vực dành cho người Việt, trên những băng ghế đặt rải rác dưới những tàn cây, không có cụ nào tản bộ hay ngồi nghỉ chân, trò chuyện. Bãi đậu xe cũng chỉ thấy lác đác vài chiếc của nhân viên trực. Nhìn qua khu dành cho người Mỹ, người Hàn Quốc và khu dành cho người Mexico thì  đông người hơn. Có lẽ họ không biết hôm nay là giao thừa của người Việt.

Vào trong, tất cả đều vắng vẻ. Một lát, tôi mới thấy một y tá đẩy chiếc xe lăn, trên đó là một cụ ngoẹo đầu, mắt nhắm nghiền, rớt dãi chảy dài xuống khóe miệng. Trước cửa phòng số 6, một bà ngồi im lìm trên chiếc ghế nhựa, nét mặt thẫn thờ. Tôi hỏi: “Bà có con cháu vào thăm chưa?”. Nhìn tôi một lát, bà lắc đầu kèm theo tiếng thở dài mệt mỏi.

Tên bà là Trần Thị Nghị, 74 tuổi. Bà sang đây theo diện bảo lãnh của đứa con trai. Bà kể: “Hồi đầu, mọi sự tốt đẹp lắm. Nhưng được vài năm, con dâu tôi nói tôi ở dơ vì lúc đứa cháu nội bị sổ mũi, tôi lấy tay bóp mũi, vắt nước mũi cho nó. Bực mình quá, tôi nói hồi nhỏ tao cũng hay vắt nước mũi cho chồng mày vậy, mà có sao đâu! Thế là nó cấm tôi không được đụng đến con nó nữa. 3 tháng sau, chồng nó nghe lời nó, đưa tôi vào đây”.

Ở một phòng khác, cụ ông Nguyễn Văn Đức, 71 tuổi, nằm co quắp trên giường. Hỏi ra mới biết cụ bị bệnh suyễn. Đưa tay chỉ một hộp bánh, 2 hộp mứt, 2 hộp kẹo nằm chỏng chơ trên bàn, cụ phều phào: “Cái này con tôi cho, cái kia là của hội thiện nguyện, còn hộp đó là quà tặng của nhà chùa”.

Theo tập quán người Việt, một gia đình mà 2, 3 thế hệ gồm ông bà, cha mẹ, con cháu cùng ở chung với nhau thì được xem như gia đình hạnh phúc, ăn ở có đức, có hiếu. Nhưng người Mỹ nói riêng và người phương Tây nói chung, với bản tính thực tế thì họ lại không nghĩ vậy bởi lẽ ngay từ khi còn trẻ, họ đã được học tính tự lập – và điều này đã tác động rất lớn đến thế hệ người Việt thứ 2, thứ 3 – là những người sang Mỹ từ khi còn bé, hoặc sinh ra trên đất Mỹ. Họ hầu như ít nói tiếng Việt mà chỉ dùng tiếng Mỹ – ngay cả khi về nhà.

Phần lớn họ chịu ảnh hưởng nặng của lối sống Mỹ: 18 tuổi là ra ở riêng, cha mẹ già thì đưa vào viện dưỡng lão. Sự thành công về mặt học vấn, tài chính đã khiến họ chẳng còn quan tâm nhiều đến quá khứ của cha ông. Nếu như ở Việt Nam, con cái thường ngồi im nghe cha mẹ giáo huấn – dù ngồi một cách miễn cưỡng – thì ở Mỹ, phần lớn người Việt thế hệ thứ 2, thứ 3 lại chọn cách bỏ đi ra ngoài, không cần quan tâm đến những gì cha mẹ mình đang nói, dẫn đến xung đột… Sự xung đột lắm khi chỉ bắt nguồn từ một nguyên nhân nhỏ nhoi nhưng không được giải quyết thấu đáo, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng.

Bà Lý Thị Vân, 69 tuổi, nằm tại phòng số 3, nói: “Có những điều ở Việt Nam coi là bình thường thì qua đây lại trở thành bất bình thường. Trong một bữa ăn chẳng hạn, lúc tôi dùng cái muỗng của tôi để múc canh trong tô canh thì thằng con rể tôi trợn mắt nhìn tôi rồi từ đó đến cuối bữa, nó không đụng vào tô canh đó nữa!”.

Vì vậy, với những người Việt cao tuổi ở miền Nam Cali, ba chữ “viện dưỡng lão” từ lâu đã là cơn ác mộng. Nó đánh thốc vào tim tạo thành những cơn kinh hãi, đến độ đã có một cụ quỳ sụp xuống ngay trước cổng vào viện dưỡng lão, chắp tay vái con ruột mình: “Ba lạy con, con cho ba về nhà, ba trải ghế bố nằm trong gara cũng được chứ con đừng bắt ba vô đây”. Ông Trần Ngọc Lâm chẳng hạn, khi tôi hỏi vợ con ông ra sao, có thường xuyên vào thăm ông không thì ông bực bội: “Làm ơn đừng nhắc đến vợ, đến con tôi nữa. Vợ, con mà để tôi sống như thế này à?”.

Ông Lê Cẩm, ở phòng số 9 trong viện dưỡng lão, kể: “Năm tui 68 tuổi, đi đứng bắt đầu yếu, mắt mờ, tay run, con trai tui nói mai đưa ba vô nursing home. Tưởng nó giỡn chơi, ai dè sáng hôm sau nó đưa tui vô thiệt. Tui hỏi nó sao con nỡ lòng nào mà làm vậy. Nó nói tỉnh bơ: Già rồi thì vô viện dưỡng lão chứ làm vậy là làm sao!”. Hỏi ông có biết mai là tết âm lịch cổ truyền không? Ông nói biết vì ba bữa trước, con ông vô thăm, có đem cho mấy hộp mứt. Trên gò má nhăn nheo của ông bỗng lăn dài những giọt nước mắt: “Tết nhất là ngày sum họp gia đình. Vậy mà…”.

  1. Công bằng mà nói, sự sợ hãi viện dưỡng lão của các cụ cao niên người Việt – ngoài việc bị tách ra khỏi môi trường gia đình quen thuộc – mà hầu hết các cụ đều nghĩ rằng mình bị bỏ rơi, bị con cháu hắt hủi, thì còn một nguyên nhân nữa. Đó là khi tuổi tác đã  cao, sức khỏe các cụ cũng sẽ xuống và bệnh tật ắt phải tới. Chuyện không thể tự chăm sóc cho mình là lẽ đương nhiên khi bệnh trạng các cụ tới thời kỳ nghiêm trọng, và cách giải quyết duy nhất là đưa các cụ vào viện dưỡng lão.

Anh Kevin Nguyen, có người mẹ 72 tuổi, hiện đã ở viện dưỡng lão, nói: “Tôi và vợ tôi đều phải đi làm, hai đứa con đi học nên không lấy đâu ra thời giờ chăm sóc mẹ tôi.  Còn nếu mướn y tá hay điều dưỡng đến nhà ăn ở, nấu nướng và chăm sóc mẹ tôi thì tôi không đủ tiền”.

Một trong những nguyên nhân nữa dẫn đến việc các cụ buộc phải vào viện dưỡng lão. Đó là về già, các cụ thường bị lẫn, mất trí nhớ, thậm chí không nhận ra vợ (hoặc chồng) hay con cái, không cho họ tới gần. Anh Kevin Nguyen, nói tiếp: “Mẹ tôi đổi tính, trở nên khó chịu. Cụ luôn gắt gỏng, nghi ngờ tất cả mọi người”.

Chị Lam Hương, có mẹ cũng ở viện dưỡng lão tâm sự: “Cụ nhà tôi lúc nào cũng nghi ngờ có người ăn cắp tiền của cụ mặc dù tiền đó là của con, cháu cho. Ngày nào cũng vậy, cụ lôi túi tiền ra đếm vài chục lần rồi cũng không dưới chục lần, cụ chửi um lên, bỏ ăn, thậm chí cuốn quần cuốn áo đòi ra khỏi nhà vì “nhà này toàn quân ăn cắp”. Riết rồi không ai chịu nổi nữa, chúng tôi đành đưa cụ vào viện”.

Nỗi sợ phải vào viện dưỡng lão còn có một lý do khác: Đó là nhân viên của nhiều viện dưỡng lão thiếu khả năng chuyên môn, thiếu sự nhiệt tâm và không được huấn luyện kỹ lưỡng, cộng với sự cắt giảm tài trợ của chính quyền do thiếu hụt ngân quỹ dẫn đến số người bị ngược đãi, bị bỏ mặc trên cả hai phương diện sinh lý lẫn tâm lý càng ngày càng tăng, chưa kể có cụ còn bị bắt phải nín lặng, không được phép than phiền, kêu cứu khi lên cơn đau dạ dày hay đau khớp.

Cụ ông Trần Văn Sinh, trước khi sang Mỹ là y tá ở Bệnh viện Bình Dân, TP HCM, nói: “Một thời gian dài, tôi bị trầm cảm vì tuyệt vọng, và tôi được cho uống thuốc an thần một cách rất thản nhiên. Khi tôi báo cáo việc này với ban quản trị, thì con tôi lúc vào thăm đã bị ngăn chặn với lý do là làm trở ngại việc điều hành”.

Theo tìm hiểu của tôi, Viện Dưỡng lão thành phố Westminster có khoảng 90% là người già trên 65 tuổi. Số còn lại là từ 80 tuổi trở lên. Cũng xin nói thêm là ở Orange County, các viện dưỡng lão đều do người Mỹ làm chủ và điều hành. Nó thường được chia làm hai khu chính là nội trú và bán trú cùng nhiều khu phụ. Khu nội trú dành cho các cụ ở thường trực. Khu bán trú dành cho những bệnh nhân sau khi điều trị ở bệnh viện nhưng không đủ tiền để nằm lại vì viện  phí rất cao, nên phải chuyển vào viện dưỡng lão để nằm chờ, lúc bình phục họ sẽ về nhà.

Thường thì nhân viên quản lý sắp xếp các khu theo sắc tộc, như khu dành cho người da trắng, khu cho người Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan v.v… Nếu thiếu phòng, các cụ phải nằm bất cứ khu nào còn trống. Chả thế mà cụ bà Lê Thị Lài, 67 tuổi, sau hơn 2 tháng ở chung với khu người Mỹ da đen rồi lúc được chuyển sang khu người Việt, cụ ngơ ngác như người tâm thần, hỏi gì cũng ú ớ. Nếu người Việt vào đông, các cụ được nhà bếp nấu riêng món ăn Việt nhưng chỉ vào buổi trưa và buổi tối, còn bữa sáng vẫn phải ăn món ăn Mỹ. Hầu hết những trường hợp được đưa vào đây là do bệnh lý, đòi hỏi phải có sự trợ giúp thường trực của nhân viên y tế cùng các thiết bị mà chỉ các viện dưỡng lão mới có khả năng cung cấp. Những người này thường mắc phải những bệnh gây mất năng lực về thể chất lẫn tinh thần,  hoặc họ yếu đến nỗi không thể di chuyển, tự tắm rửa hay tự ăn uống được.

Trao đổi với tôi, phóng viên Vince Gonzales thuộc Đài CBS, người đã làm những phóng sự về vấn đề ngược đãi người già ở các viện dưỡng lão cho biết: “Nhiều người trong số họ cần có sự chăm sóc suốt đời vì họ không bao giờ có thể hồi phục để có thể tự chăm sóc cho mình, chứ đừng nói là cho về nhà. Tương lai của họ một là sẽ chết trong viện dưỡng lão, hai là chuyển vào bệnh viện nếu bệnh nặng rồi chết ở đó và ba là bệnh viện trả về để chờ chết…”.

  1. Đã đến bữa cơm chiều. Những cụ còn khỏe thì chậm chạp lê bước, hoặc tự mình lăn xe xuống nhà ăn. Yếu quá thì nằm trong phòng, chờ điều dưỡng mang thức ăn đến. Cô Jenny Pham, một điều dưỡng người Việt ở đây, cho biết: “Viện có rất ít điều dưỡng Việt Nam nên tụi em thường bị điều đi phục vụ toàn khu, chứ không cứ gì khu người Việt”. Theo luật riêng của tiểu bang California, mỗi viện dưỡng lão phải có đủ nhân viên săn sóc cho bệnh nhân, nhất là các dịch vụ khẩn cấp, mỗi bệnh nhân phải được y tá săn sóc ít nhất 3 hoặc 2 tiếng mỗi ngày.

Jenny Pham nói tiếp: “Khi có đoàn kiểm tra, viện dưỡng lão thuê mướn thêm điều dưỡng cho đông đủ, đồng thời sắp xếp cứ 1 điều dưỡng chăm sóc cho 10 người theo luật định để che mắt. Khi đoàn kiểm tra đi, mỗi đứa tụi em lại phải chăm sóc cho 19, 20 người…”. Tôi hỏi: “Mấy hôm nay, gia đình các cụ vào thăm có nhiều không?”. Jenny Pham đáp: “Cũng ít thôi, chủ yếu là các hội đoàn thiện nguyện, các tổ chức tôn giáo. Em biết có 26 cụ từ ngày vào đây, có cụ ở đã 5 năm nhưng chưa thấy ai đến thăm lần nào”.

Tôi hỏi: “Đêm giao thừa có tổ chức gì không?”. Jenny Pham lắc đầu: “Dạ không, mấy cụ còn khỏe, còn minh mẫn thì tụ họp nhau lại uống trà, nói chuyện hồi xưa. Còn hầu hết đều nằm trên giường. Nhiều cụ khi em hỏi ngày mai là mùng 1 tết rồi, biết không? Có cụ nhe răng cười, chẳng biết gì hết”.

Tôi ra về và lúc bước ngang phòng số 7, một đôi vợ chồng trẻ cùng hai đứa con đang đứng cạnh một cụ già ngồi trên xe lăn. Người phụ nữ nói: “Chào ông nội đi rồi về con”. Ông cụ miệng méo xệch: “Bay cho nó ở chơi thêm chút nữa, vừa mới vô mà”. Anh con trai đỡ lời: “Con đưa các cháu vào chúc tết ba, bây giờ dẫn  tụi nó đi coi xiếc cá heo. Vé mua rồi, sắp tới giờ diễn rồi…”.

Dẫu biết ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, sống đâu theo đó, nhưng sao tôi vẫn thấy nao lòng vì ở quê nhà giờ này, gia đình nào chắc cũng đang quây quần, sum họp…

Sưu tầm

Hàng trăm thanh niên đánh nhau tại hội Phết Hiền Quan

Hàng trăm thanh niên lao vào để cướp phết với suy nghĩ chỉ cần chạm tay vào quả phết thì cả năm sẽ gặp nhiều may mắn. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

PHÚ THỌ (NV) – Chiều 9 Tháng Hai (13 Tháng Giêng Âm Lịch), lễ hội Phết Hiền Quan (huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ) diễn ra. Tuy nhiên, quả phết chưa được tung ra, nhưng hàng trăm thanh niên đã phá rào, nháo nhào lao vào tranh cướp phết cầu may.

Hội Phết Hiền Quan là lễ hội dân gian được tổ chức ngày 12 đến 13 Tháng Giêng Âm Lịch tại xã Hiền Quan, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ và tôn vinh công lao của nữ tướng Thiều Hoa Công Chúa-Ðức Thánh Mẫu Ðại Vương, người giúp hai Bà Trưng đánh giặc Hán cứu nước.

 Hội Phết tái hiện lại hình ảnh Thiều Hoa Công Chúa luyện quân đánh giặc. Lễ hội Phết Hiền Quan gồm bốn phần: rước kiệu, tế lễ, kéo quân, đánh phết. Lễ rước kiệu được tiến hành từ chiều ngày 12 Tháng Giêng. Trên kiệu là các sắc phong, bài vị.

Cướp phết là điểm chính của hội Phết Hiền Quan. Có sáu quả phết và ba quả chúi để những người tham gia lễ hội cùng giành lấy.

Quả phết và quả chúi thường được làm từ gốc tre già hoặc gỗ. Quả chúi nhỏ hơn, đường kính từ 4-5 cm, quả phết đường kính từ 6-7 cm. Người dân quan niệm rằng nếu ai giành được quả phết và chúi hay chỉ chạm được tay vào là cả năm sẽ rất may mắn.

Hàng trăm thanh niên đánh nhau tại hội Phết Hiền Quan
Hàng trăm thanh niên lao vào để cướp phết với suy nghĩ chỉ cần chạm tay vào quả phết thì cả năm sẽ gặp nhiều may mắn. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Theo ghi nhận của phóng viên báo Tuổi Trẻ, tình trạng bạo lực, ẩu đả tại hội Phết Hiền Quan năm 2017 vẫn xảy ra, dù ông chủ tế cầm quả phết từ đền ra bãi phết có sự hộ tống của cảnh sát cơ động và người dân địa phương.

Và dù ban tổ chức hội Phết chỉ chọn 100 người chia làm hai đội thi đấu với nhau, mỗi đội sẽ được phân biệt bằng đai xanh đai đỏ. Tuy nhiên ý tưởng này đã trở thành “bất khả thi” khi hàng trăm người lao xuống bãi phết để cướp phết cầu may.

Tin cho biết, phạm vi của bãi phết năm nay có đường kính khoảng 1,500 mét vuông, được đóng cọc và quây dây bốn góc, xung quanh có lực lượng an ninh túc trực và sẵn sàng can thiệp khi có dấu hiệu ẩu đả.

Tuy nhiên do máu ăn thua nên nhiều nhiều đội chơi mặc dù đã đưa quả phết về đích nhưng vẫn bị đội đối phương giành giật dẫn đến ẩu đả. Nhiều người đã phải nhảy xuống ao để trốn khỏi sự truy đuổi gắt gao của đối phương.

Hàng trăm thanh niên đánh nhau tại hội Phết Hiền Quan
Hàng trăm cảnh sát cơ động tham gia bảo vệ lễ hội nhưng không ăn thua. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Nói với phóng viên báo Tuổi Trẻ, ông Bùi Văn Thanh, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã Hiền Quan, trưởng ban tổ chức lễ hội Phết Hiền Quan năm 2017, cho biết: “Trước khi lễ hội Phết được diễn ra, chúng tôi đã đến các khu dân cư để thông báo với người dân về thể lệ mới và đề nghị mọi người tham gia lễ hội với tinh thần lịch sự có văn hóa và tránh ẩu đả, lợi dụng hội Phết để trả thù cá nhân. Tuy nhiên do lực lượng an ninh quá mỏng và số lượng người đến cướp phết quá lớn nên mong muốn ban đầu của ban tổ chức đã không thể trở thành hiện thực.”

Hàng trăm thanh niên đánh nhau tại hội Phết Hiền Quan
Một thanh niên nằm sõng soài sau khi thoát ra khỏi đám đông. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Ông Thanh cũng cho biết lực lượng an ninh tham gia bảo vệ hội Phết năm nay khoảng 100 người, bao gồm công an tỉnh Phú Thọ, công an huyện Tam Nông và công an xã Hiền Quan.(Tr.N)

Thích Chân Quang thầy chùa hay kẻ ăn lương Trung cộng ???

Ffom facebook:  Inna Lyna and 2 others shared Trương Quang Thi‘s post.
Image may contain: 9 people, text and outdoor

Thích Chân Quang thầy chùa hay kẻ ăn lương Trung cộng ???

Lần đầu tiên tui biết đến tay thầy chùa này là khi một bạn gửi cho cái Clip của hắn nói về chuyện Lý Thường Kiệt đã hỗn khi đánh giặc Tàu, Sau đó tui lại được xem một Clip khác hắn huyên thuyên về kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội.

Xem xong tui tự hỏi người này là sư hay là một tên gián điệp được Trung Nam Hải cấy vào để tuyên truyền?

Và bây giờ lại nghe hắn phóng sanh bằng 10 tấn cá, trong đó có cả cá chim trắng là loài cá ăn tạp bật nhất đã được khuyến cáo chỉ nên nuôi trong ao hồ có kiểm soát để tránh tình trạng mất cân bằng sinh thái.

Khoan nói đến tác hại khi loài cá này phát triển mạnh ngoài tự nhiên có thể gây ra hệ luỵ về sau. Ở đây ta tạm bàn về ý nghĩa của việc phóng sanh vào một số ngày lễ của phật giáo.

Phật giáo nói việc phóng sanh có thể giải trừ được kiếp nạn mà đại diện là câu chuyện về chú Sa Di.

Theo thầy học đạo, một hôm thầy nhập định và biết được số dương của chú còn có bảy ngày, xuất định thầy bảo chú về thăm gia đình là ý thầy muốn chú được chết tại nhà sau khi đã gặp gia đình trước lúc hết số.

Trên đường về nhà, chú tình cờ gặp đàn kiến đang bị lũ cuốn trôi, vì tâm thiện nên chú ra tay cứu đàn kiến nhỏ. Sau đó khi quay lại núi thầy chú ngạc nhiên bởi tại sao chú cãi được mệnh trời, qua tâm sự thầy mới biết chính hành động cứu đàn kiến của chú Sa Di đã khiến chú lập nên công đức lớn và nhờ đó mà chú đã vượt qua kiếp nạn.

Ý nghĩa của việc phóng sanh chính là giải thoát cho những sinh linh đang gặp nguy hiểm đến tính mạng. Mọi sinh vật trên thế gian mạng sống đều trân quý, khi ta cứu được một sinh mạng của một sinh linh bất kỳ chính là ta đã gieo được công đức mà nhờ đó ta có thể thoát được kiếp nạn do số trời của bản thân mình.

Như thế ta có thể hiểu rằng phóng sanh không đợi giờ, không có ngày, không số lượng, không chỉ định loài. Phóng sanh là cứu, giải thoát cho bất kỳ sinh vật nào khi ta gặp, nhận thấy sinh vật ấy tính mạng đang bị đe doạ.
Phóng sanh sẽ không còn ý nghĩa khi bắt chim trời rồi thả lên trời, phóng sanh sẽ phản tác dụng khi bắt cá sông rồi đem thả xuống sông, và trên tất cả phóng sanh là hành vi nhân bản phải xuất phát từ thiện tâm của mỗi con người, phóng sanh không phải lễ, càng không nên khoa trương hình thức.

Là thầy chùa, ông Thích Chân Quang không thể không hiểu được cái đạo lý đơn giản này của phật giáo trừ phi hắn ta là kẻ đang tuyên truyền mê tín nhằm ngu dân, làm mụ mị đầu óc của chúng sanh và huỷ hoại đất nước, huỷ hoại môi trường.

Hành vi thả cá chim trắng ra sông không khác mấy so với việc mua móng trâu bò, thả ốc bưu vàng, hay gần đây là người Trung Quốc thuê đất nuôi tôm mười càng ở miền Tây.

Những việc làm đó đã và sẽ gây ra nhiều hệ luỵ mang tính huỷ hoại môi sinh, thiết nghĩ nhà chức trách cần vào cuộc điều tra làm rõ động cơ của kẻ này nhằm tránh nuôi ông tay áo.

http://plo.vn/…/phong-sinh-10-tan-ca-chim-trang-hau-qua-kho…

Hai tù nhân lương tâm sắp mãn án

Hai tù nhân lương tâm sắp mãn án

Bà Bùi Thị Minh Hằng trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội hôm 24/7/2011.

Bà Bùi Thị Minh Hằng trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội hôm 24/7/2011.

AFP photo
Hai tù nhân lương tâm Bùi thị Minh Hằng và Đoàn Huy Chương sẽ mãn án tù trong vòng 7 ngày tới.

Cụ thể bà Bùi thị Minh Hằng người hiện thụ án tại trại giam Gia Trung, tỉnh Gia Lai hết hạn 3 năm tù vào ngày thứ bảy 11 tháng 2; và anh Đoàn Huy Chương kết thúc 7 năm tù vào ngày thứ hai 13 tháng 2 tới đây.

Bà Bùi thị Minh Hằng, một người từng tham gia nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc gây hấn với Việt Nam và là một nhà hoạt động vì quyền con người, bị bắt ngày 11 tháng 2 năm 2014 tại khu vực huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp khi bà cùng một số thân hữu và tín đồ Phật giáo Hòa Hảo không theo phái Nhà nước, trên đường đến thăm một cựu tù nhân lương tâm khác là ông Nguyễn Bắc Truyển.

Bà cùng cô Nguyễn Thúy Quỳnh và ông Trần Văn Minh bị giam giữ và sau đó truy tố với cáo buộc ‘gây rối làm mất trật tự công cộng’ theo điều 245 Bộ Luật hình sự Việt Nam.

Phiên sơ thẩm xử ba người diễn ra ngày 26 tháng 8 năm 2014 tuyên án bà Bùi thị Minh Hằng 3 năm tù giam, ông Nguyễn Văn Minh  hai năm sáu tháng tù giam và cô Nguyễn Thúy Quỳnh 2 năm tù giam.

Các mức án được giữ nguyên tại phiên phúc thẩm ngày 2 tháng 12 năm 2014.

Anh Đoàn Huy Chương là người tham gia hoạt động đòi hỏi quyền lợi cho công nhân.

Anh bị bắt cùng cô Đỗ thị Minh Hạnh và anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng vào ngày 13 tháng 2 năm 2010 tại tỉnh Trà Vinh. Khi đó cả ba cùng tham gia cuộc đình công kéo dài nhiều ngày của công nhân nhà máy giày da Mỹ Phong tại Trà Vinh. Đợt đình công phản đối cách hành xử xúc phạm của chủ quản Trung Quốc đối với công nhân cũng như mức lương thấp.

Cáo buộc mà cơ quan chức năng đưa ra với nhóm ba người là ‘phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân’ theo điều 89 Bộ Luật Hình sự Việt Nam.

Tòa sơ thẩm diễn ra hôm 26 tháng 10 năm 2010 tuyên án anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù, Đoàn Huy Chương và Đỗ thị Minh Hạnh mỗi người 7 năm tù giam.

Cô Đỗ thị Minh Hạnh được ra tù sớm vào ngày 26 tháng 6 năm 2014.

Thỉnh nguyện thư gửi Giáo Hoàng về cựu TGM Ngô Quang Kiệt

Thỉnh nguyện thư gửi Giáo Hoàng về cựu TGM Ngô Quang Kiệt

ngô quang kiệtBản quyền hình ảnhHOIDONGXITOTHANHGIA
Đức cha Ngô Quang Kiệt trong lễ mừng kỷ niệm 25 năm hồng ân thiên chức linh mục tại Đan Viện Châu Sơn, Nho Quan, Ninh Bình

1.500 người vừa ký thỉnh nguyện thư gửi Giáo hoàng Francis xin minh xét cho cựu Tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt, người mà họ cho là đã “bị oan khiên”.

Đức Joseph Ngô Quang Kiệt, sinh năm 1952, đảm nhận chức vụ Tổng giáo phận Hà Nội từ năm 2005 – 2010.

Trong thời gian đó, ông đã gặp nhiều khó khăn với chính quyền, nhất là quanh vụ Tòa Khâm sứ ở phố Nhà Chung.

Tòa Tổng giám mục Hà Nội, đứng đầu là Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt, trong một thời gian dài đã yêu cầu xin lại tòa nhà từng được dùng làm văn phòng của đại diện tòa thánh Vatican.

Giáo dân cũng tổ chức nhiều cuộc cầu nguyện đông người bên ngoài để “đòi khu đất tòa Khâm sứ cũ”.

Các nỗ lực đó đã thất bại khi cuối cùng vào năm 2008, chính quyền Hà Nội thu hồi, ‘quy hoạch dự án xây dựng công viên cây xanh’ tại đây.

Tháng 5/2010, theo Đài Vatican, Giáo Hoàng Benedict XVI nhận đơn từ chức của Tổng Giám Mục Hà Nội Joseph Ngô Quang Kiệt vì lý do sức khỏe, chiếu theo khoản số 401 triệt 2 của Bộ Giáo Luật.

Sau đó, ông chuyển tới Đan viện Châu Sơn, Ninh Bình

Oan khiên

Thỉnh nguyện thư ký tên một số cá nhân ở Mỹ, Canada, Bỉ, Pháp… nêu: “Cựu Tổng Giám mục Joseph Ngô Quang Kiệt luôn đứng trước đàn chiên, tuyên bố sẵn sàng chết hay bị tù vì đoàn chiên. Ngài không bỏ chiên, nhưng Ngài bị chính Bề trên, quyền lực Giáo hội tại Vatican chấp nhận yêu sách của sói, buộc Ngài phải rời khỏi đoàn chiên”.

“Xin Chúa phù hộ để Đức Thánh Cha [Giáo hoàng] nghĩ đến một kẻ chăn chiên biết bảo vệ đàn chiên và vâng lời Bề trên hiện đang phải ẩn mình trong trong một tu viện, như một người bị lôi ra khỏi hệ thống chăn chiên chỉ vì Vatican và các anh em Ngài đã bức bách Ngài rời bỏ đoàn chiên do áp lực của đàn sói”.

Hôm 8/2, trả lời BBC từ TP Hồ Chí Minh, Linh mục Anton Lê Ngọc Thanh, phòng Công lý Hòa bình, Dòng Chúa Cứu thế Sài Gòn, nói: “Thỉnh nguyện thư cho thấy tiếng nói của giáo dân có thể khiến Vatican nhìn lại vấn đề liên quan đến Đức cha Kiệt một cách toàn diện hơn.”

“Giáo dân không đòi hỏi Vatican phải quyết định theo ý của họ mà mong nhận được những chỉ dẫn mang tính ơn Chúa chứ không phải dàn xếp chính trị.”

“Lần này, nếu thỉnh nguyện thư đến được tay Giáo hoàng Francis, tôi tin là Ngài sẽ xem xét nghiêm túc, vì Ngài đang trong tiến trình cải tổ Roma và có những vấn đề mà Ngài quan tâm đến Việt Nam nhưng chỉ nhận được thông tin qua lăng kính ngoại giao hơn là từ giáo dân.”

 

“Hiện Đức cha Kiệt tuy không có chức danh chính thức nhưng có đóng góp cho giáo dân, giáo sĩ trong và ngoài nước.”

“Nếu ở vị trí chính thức, Ngài sẽ gánh vác trách nhiệm trọn vẹn hơn.”

“Tôi không đặt vấn đề Đức cha Kiệt có được quay về Giáo phận Hà Nội sau thỉnh nguyện thư này hay không.”

“Vấn đề lớn hơn là đã đến lúc Hà Nội trả lại tự do thật sự cho cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng, chứ không phải sự kềm kẹp và nhả ra từ từ.”

“Còn chuyện Đức cha Kiệt có trở lại Hà Nội hay không thì có khi chính quyền muốn mà chưa chắc Vatican muốn, vì ngài có thể được đặt vào một vị trí phù hợp hơn với ơn Chúa,” linh mục Thanh nói với BBC.

Hôm 8/2, BBC liên hệ với Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn, Nho Quan, Ninh Bình, nơi Cựu Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt sống từ bảy năm qua, để hỏi suy nghĩ của ông về thỉnh nguyện thư nêu trên.

Tuy vậy, ông nhắn lại qua một người khác rằng “đang muốn nghỉ ngơi”.

Giáo Sư Nghiêm Thẩm Bị VC Sát Hại Như Thế Nào?

Giáo Sư Nghiêm Thẩm Bị VC Sát Hại Như Thế Nào?

Bạch Diện Thư Sinh

NghiemTham

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gs Nghiêm Thẩm

  1. Nghiêm Thẩm: Vị giáo sư anh hùng – Nhà khoa học chân chính

Sau ngày 30-4-1975, nhiều giáo sư các Đại học miền Nam bị loại ra khỏi Đại học. Một số giáo sư tìm cách vượt biên, một số bất hợp tác thẳng thừng, một số chấp nhận hợp tác, hợp tác miễn cưỡng hay hợp tác tự nguyện. Có một sự thật phũ phàng là, hợp tác tự nguyện hay hợp tác miễn cưỡng, các vị giáo sư ấy đều bị kì thị và không được tin dùng. Thêm một sự thật khác nữa, đó là các vị ấy thường xuyên nhận được lệnh phải viết lách hoặc thực hiện những công trình “khoa học” nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Trong cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức vừa mới được phổ biến, có đoạn trích lời phát biểu của Huỳnh Kim Báu, Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận sự thật ấy: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”. (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc. Cuốn I, Phần I: Miền Nam, Chương VI: Vượt Biên. Bodoilambao.wordpress. com).

Trong số những giáo sư Đại học ở lại và hợp tác miễn cưỡng, đã nổi bật lên một vị giáo sư anh hùng, dám đem mạng sống của mình để bảo vệ danh dự của một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính. Vị giáo sư đó chính là Giáo sư Nghiêm Thẩm, Giám đốc Viện Bảo tàng Sài Gòn, giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn và cũng là giáo sư của hầu hết các Đại học công tư ở miền Nam hồi đó.

  • Thân thế

Gs. Nghiêm Thẩm sinh năm 1920, tại huyện Đông Anh, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Hà Nội); là con thứ 5 của cụ Nghiêm Hoàn Luyến, người làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa, Hà Nội.

Dòng tộc Gs. Nghiêm Thẩm, lớp trước, có nhiều người xuất thân khoa bảng, quan lại. Thế hệ sau, ở miền Bắc, có người là thứ trưởng, đại sứ, doanh gia; ở miền Nam, người anh thứ ba của Gs. Nghiêm Thẩm là Gs. Nghiêm Đằng, nguyên Phó Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh và anh thứ 4 là Nghiêm Mỹ, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Malaysia, Jordan và New Zealand. (Xin xem Bài Phát Biểu của Ông Nghiêm Kiến Nam trong buổi lễ kỉ niệm ngày húy 90 năm của Cụ Bảng Mai Lâm Nghiêm Châu Tuệ tổ chức ngày 18.9.2011. Nghiemchungtam. wordpress.com)
Sau khi tốt nghiệp Trung học ở Hà Nội, ông được gửi sang Pháp, học trường École du Louvre, Paris, ngành bảo tàng (de Muséologie).

Năm 1956, ông về nước. Từ đó, ông lần lượt đảm trách nhiều công tác văn hóa giáo dục:
– Phục vụ tại Viện Khảo cổ Sài Gòn, đặc trách khai quật di tích lịch sử Óc Eo (Ba Thê, An Giang); hướng dẫn các đoàn đi nhiều nơi ở miền Nam để khai quật những di chỉ khảo cổ.
– 1961, được bầu làm thành viên Hội đồng điều hành khóa 10 Hội Tiền sử Viễn Đông (Far Eastern Prehistory Association – FEPA). Cũng trong năm này, ông được mời làm giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.
– Năm 1964, ông được mời làm Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn và giáo sư tại Đại học Vạn Hạnh vừa mới thành lập; đồng thời, được mời làm cố vấn xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm.
– Năm 1966, được mời giảng dậy tại trường Đại học Chiến Tranh Chánh Trị Đà lạt.
– Năm 1968, Quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Sài Gòn.
– Năm 1969, Ủy viên Ủy ban Khoa học Nhân văn của Hội đồng Quốc gia Khảo cứu khoa học Việt Nam Cộng hòa.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Gs. Nghiêm Thẩm ở lại và tiếp tục được coi là nhân viên giảng huấn như trước. (Chúng tôi chưa biết Gs. Nghiêm Thẩm “được phép” dậy môn gì).
Cuối tháng 11 năm 1979, Gs. Nghiêm Thẩm bị giết chết một cách tàn ác tại nhà riêng số 29/27 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (tên cũ: đường Công Lý), phường 8, quận 3,Tp. HCM.

  • Những công trình khảo cứu

Gs. Nghiêm Thẩm để lại nhiều công trình nghiên cứu nhân chủng và khảo cổ quý báu cho đời sau (theo Wikipedia).

1. “Tôn giáo của người Chăm ở Việt Nam”, Quê-hương bộ 2 tập I, tháng 4/1962, tr. 108-123. (tài liệu tham-khảo đã được Pierre Bernard Lafont nhắc lại trong “Contributions à l’ètude des structures sociales des Chams du Viêt-nam”, Bulletins de l’Ecole francaise d’Extreme-Orient, No 1/volume 52,p157 – p171, 1964).
2. “Sơ lược về các kho tàng chứa bảo vật của các vua Chăm”, “Việt-nam khảo-cổ tập san’, số 1, 1960, Saigon Tham khảo bổ-túc cùng tác-giả Văn-hóa Nguyệt-san, số 56, trang 1359-1366, 1960 và Văn-hóa Nguyệt -san, số 57, trang 1567-1575, 1960 “Đi thăm kho tàng các vua Chăm”.
3. “Esquisse d’une étude sur les interdits chez les Vietnamiens” (tiếng Pháp), Ministère de la culture et de l’éducation la République du Vietnam, 1965, 240 trang. Tủ sách Viện Khảo Cổ ( trích đoạn: “le nom d’une personne fait partie integrante de son individu. On doit ménager ces noms individuels comme si l’on a affaire avec la substance precieuse et sacrée qu’est l’âme.(tr.74)” [tham khảo bổ túc “Interdits concernant les noms imperiaux sous le règne des Nguyễn” Tạ quang Phát, tập san khảo cổ 4, Saigon, 1966, pp 52–84].
4. “Tương quan giữa Sử địa và Nhân chủng học”, Tập san Sử địa cuốn 1, th.1,2,3, 1966.
5. “Công trình sư Trần Văn Học”, Tạp chí Văn hóa, số 61, 1962.
6. “Tìm hiểu đồng bào Thượng” Tạp chí Quê-hương, số 31, giêng/1962, tr 130-150 Bản dịch tiếng Anh của Voth Donald E. “Seeking to understand the highlanders: the two tribal kingdoms of the vietnamese Court in the past, king of Fire (Po Tau Pui) and King of Water(Po Tau Ea)”. South-East Asia. An international quarterly, vol 1, pp335–363, 1971.Tham-khảo bổ-túc tư-liệu của ông Adhemar Leclere “Compte-rendus des seances de l’Academie des Inscriptions et Belles Lettres 3903, vol 47, issue 4, pp 369-378. Bị vong lục của Công-sứ Pháp tại Cao-miên, Adhemar Leclere, phúc-trình Hiến-chương về việc sáng-lập một Đại thọ lâm Phật giáo “veah” (Vihara), ở Sâmbok (tỉnh Kratie), mà quốc vương Cao-miên Sauriyopor, gọi là “ngọ môn”(threa nokor) trong đó có nhắc đến các “Vua Lửa” (Hỏa xá) & “Vua nước” (Thủy xá) mà hai vương quốc Cao-miên và Ai-lao phải triều cống cứ ba năm một lần (kèm theo danh sách dài các loại cống-vật), ngoài ra cón cam kết sẽ bảo-lãnh chu toàn việc hậu sự cho các tiểu vương Hỏa xá và Thủy xá nếu một trong hai vị này băng hà. Vihara (đại tòng lảm) Sâmbok, khoảng 10 kms bắc Kratíe (Kracheh), hay, Wat Phnom Sâmbok, dựa theo hiến chương này được sáng lập vào năm 1601. Bản phúc-trình của Công sứ Leclere được in bởi nhà Alphonse Picard & fils, libraires des archives nationales et de la Sociéte de l’École des Chartes, 82 rue Bonaparte, Paris 6.
7. “Kĩ thuật Bảo tàng học và giáo dục căn-bản”, 96 trang, UNESCO, Saigon, 1959 (dịch).
8. “Persistence culturelle du substrat indonesien chez les Vietnamiens” (Sự tồn tại của bản chất Indonesien trong nền văn hóa Việt Nam) ngày 11 tháng 9 năm 1961.
9. Tờ trình về việc đi xem công tác xây cất hai ngôi đền tại Kalong và tại Sopmadronhay, để chứa bảo vật của các vua Chăm, và ghé thăm các Tháp Po Dam, tháp Phố Hài (Pajai), còn gọi Tháp Po Sah Inư trên Đồi Bà Nài và đền thờ vua Po Nrop (đồng tác giả với Lưu Quý Tân).
10. Phúc trình việc đi tiếp nhận những tảng đá chạm tại trường tiểu học Tam Hiệp, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.(chú giải: v/v những tảng đá chạm, yêu cầu bạn đọc nên tham khảo bổ túc ở Louis Malleret, “II. Pierres gravées et Cachets de divers pays du Sud-Est de l’Asie, trường Viễn Đông Bác Cổ, B.E.F.E.O, vol 51, issue 51-1, pp 99–116, 1963).
11. R.Y. Lefebvre D’Argencé, Les céramiques à base chocolatée au musée Lous Finot de l’Ecole francaise d’Extrême-Orient à Hanoi.

  • Đời tư

Có 3 vị phụ nữ đã chính thức đi qua cuộc đời Gs. Nghiêm Thẩm: Hồi còn học bên Pháp, ông sống chung với bà Gerda Meta Nielsen, một nghệ sĩ phong cầm người Đan Mạch. Ông bà có với nhau 1 con gái tên là Đan Tuyết Thẩm Nghiêm, sanh năm 1956, tên đầy đủ là Ester Bondo Đan Tuyết Thẩm Nghiêm.

Đi du học về, ông thành hôn với Bà Ds. Đỗ Thị Thuần Bích. Bà là giáo sư dậy tại trường đại học Dược khoa Sài Gòn. Gs.Thuần Bích sinh 2 con trai, Nghiêm Thẩm Đan Nghị và Nghiêm Thẩm Đan Đại. Năm 1977, Bà Thuần Bích đưa 2 con đi vượt biên và định cư tại Hoa Kì. Bà đã qua đời tại Sacramento, CA., vào năm 2010.

Sau khi Bà Ds. Thuần Bích đi vượt biên được một thời gian, Gs. Nghiêm Thẩm sống chung với Bà Ngô Thị Dung. Bà Ngô Thị Dung giảng dậy tiếng Nhật tại Đại học Tổng hợp Thành phố HCM (Đh. Văn khoa cũ) sau ngày 30.4.1975.

  • Phong cách

Gs. Nghiêm Thẩm là một trí thức thứ thiệt, có cuộc sống giản dị, thanh bạch. Phong thái ông an nhiên, tự tại; nét mặt thường tươi vui, hiền lành. Ông cười bằng miệng và cả bằng mắt. Chiếc tẩu hút thuốc “pipe” coi như là vật tùy thân của ông. Gs. Đỗ Khánh Hoan, Trưởng Ban Anh văn Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 30.4.1975, đồng nghiệp lâu năm của Gs. Nghiêm Thẩm, nhận xét về Gs. Nghiêm thẩm như sau: “Theo chỗ tôi biết Gs. Thẩm hiền lành, không gây thù chuốc oán với ai, không ganh đua kèn cựa với ai, coi mọi thứ như ‘nơ pa.’” (Email của Gs. Đỗ Khánh Hoan ngày 02.02.2013).
Mức lương một giáo sư Đại học ở miền Nam thời ấy đâu đến nỗi nào, song suốt bao năm, ông rong ruổi khắp mọi con đường Sài Gòn chỉ với một cái xe đạp, đàng sau ràng chiếc cặp samsonite đựng tài liệu giảng dậy. Bọn đạo chích đã từng chiếu cố chiếc samsonnite này của ông nhiều lần! Những thứ đó làm nên dáng dấp và phong cách độc đáo rất dễ mến của Gs. Nghiêm Thẩm.

Có lẽ của cải vật chất qúy giá nhất của ông là căn nhà do chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cấp cho. Gia đình ông đã sống tại đây trên 20 năm và cũng chính tại nơi đây, ông đã bị thảm sát.
Cuộc sống Gs. Nghiêm Thẩm tuy thanh bạch về của cải vật chất, song trong căn nhà ông, chất chứa cả một kho tàng văn hóa vô giá. Thật vậy, chỉ cần phát mại một pho tượng đồng đen hay một chiếc búa khảo cổ không thôi, ông đã có thể kiếm được một món tiền khá lớn, đấy là chưa kể đến tủ sách hiếm qúy của ông. Còn nhớ, khi được Gs. Nghiêm Thẩm nhận đỡ đầu tiểu luận, ông đã đưa tôi lên lầu thăm kệ sách của ông kê chung quanh phòng ngủ. Ông hãnh diện bảo tủ sách của ông có những cuốn hiện ở cả miền Nam không đâu có. Liên tục trong nhiều năm, giáo sư đã chi tiêu một khoản tiền khá lớn để thuê người đóng bìa cứng cho những cuốn sách hiếm qúy mà ông sưu tầm được. Đương nhiên những cuốn sách này là vô giá trong thị trường văn hóa, chữ nghĩa.

  • Cái chết anh hùng của một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính

Gs. Đỗ Khánh Hoan cho biết: Gs Nghiêm Thẩm chỉ miệt mài nghiên cứu và giảng dậy, không bao giờ dính dáng chuyện chính trị (qua cuộc tiếp xúc điện thoại với Gs. Đỗ Khánh Hoan ngày 08 và 09, 01. 2013)
Ai cũng nghĩ, sau 30.4.1975, một người luôn luôn xa tránh chính trị như Gs. Nghiêm Thẩm, sẽ được sống an thân dưới chế độ mới. Đáng tiếc, điều đó đã sai. Bởi vì, dưới chế độ Cộng Sản, tất cả đều phải phục vụ chính trị, đều phải phục vụ tuyên truyền. Chống chế độ, đương nhiên sẽ bị chế độ bóp nát. Không chống chế độ, nhưng không chịu làm tay sai cho chế độ, cũng bị chế độ nghiền nát.

Đó là trường hợp Gs. Nghiêm Thẩm.

Hồi tưởng, khoảng gần cuối tháng 4 năm 1975, vì có việc phải vào gặp Ông Chấn tại Văn phòng Đại học Văn khoa Sài Gòn; khi đi ra ngang cửa Câu lạc bộ Văn khoa, tôi gặp Gs. Nghiêm Thẩm. Ông vẫn xách chiếc samsonite như mọi khi, nhưng khuôn mặt ra chiều rất đăm chiêu. Tôi chào ông và hỏi ông tình hình rồi sẽ ra sao. Giáo sư bảo: “Hết rồi. Sài Gòn sẽ như Nam Vang” (Nam Vang thất thủ ngày 17. 4. 1975). Ông còn nói như tiên tri: “Đại sứ Mĩ Martin (Graham Martin) sẽ cuốn cờ, leo lên máy bay trực thăng mà đào thoát y như Đại sứ Mĩ Dean (John Gunther Dean) ở Nam Vang”. Tôi hỏi tiếp: “Thầy có đi không”. Ông buồn buồn bảo: “Tôi không đi. Tôi già rồi, đi làm gì”. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Gs. Nghiêm Thẩm.

Năm 1988, đi tù cải tạo về, nghe tin Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại, tôi rủ anh Nguyễn Văn V. tới thăm Gs. Toan Ánh và cũng để hỏi về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm. (Anh NVV. là giáo sư Trung học, cũng đi tù cải tạo về vì tội chống đối nhà trường XHCN).

Theo lời Gs. Toan Ánh kể cho hai chúng tôi thì Gs. Nghiêm Thẩm vẫn thường hay lên nhà ông chơi. Rồi, một sáng, Gs. Nghiêm Thẩm từ nhà Gs. Toan Ánh đạp xe về nhà, khi bước lên lưng chừng cầu thang, Gs. Nghiêm Thẩm đã bị một tên hung thủ dùng cái búa khảo cổ của ông đập vào đầu ông tới chết. Một điều đáng ngạc nhiên là, không biết căn cứ vào đâu, Gs. Toan Ánh nghi ngờ nguyên do vụ án mạng là vì tình.

Khi sang tới Hoa Kì, tình cờ tôi được đọc cuốn “Rồng Xanh Ngục Đỏ” (Hội Hữu xuất bản tại Hoa Kì năm 1986) của Lm. Vũ Đình Trác, trong đó có nói về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm.

Lm. Vũ Đình Trác và Gs. Nghiêm Thẩm quen nhau và trở thành đôi bạn thân từ năm 1978 khi hai vị, như hầu hết các giáo sư Đại học còn ở lại, đã gia nhập vào các nhóm nghiên cứu văn hóa thành lập sau 30.4.1975. Vì say mê khảo cổ, cho nên khi nghe Lm. Vũ Đình Trác nói ông có Cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí, trích ra từ Đại Bộ Dã Sử Trung Hoa Lĩnh Nam Di Thư, ngay lập tức, Gs. Nghiêm Thẩm tìm tới làm quen với Lm. Vũ Đình Trác. Rồi từ chỗ trao đổi sách cổ và tài liệu cổ, hai vị trở thành đôi bạn tri kỉ, tâm giao.

Lần đầu tới thăm Gs. Nghiêm Thẩm, Lm. Vũ Đình Trác ngạc nhiên được biết thêm Gs. Nghiêm Thẩm đang sống chung với bà Ngô Thị Dung. Sau 30.4.1975, bà Ngô Thị Dung dậy Nhật ngữ tại Đại học (Văn khoa cũ) Lm. Vũ Đình Trác quen biết Bà Ngô Thị Dung hồi cả hai còn học bên Nhật. Gs Nghiêm Thẩm nói ông và bà Ngô Thị Dung đã làm hôn thú để làm đơn xin đi đoàn tụ với ba má bà đang sống ở Canada.

Trong thời đại “đồ đểu cáng” sau 30.4.1975, dưới những con mắt tham lam và tàn ác của những ông kẹ văn hóa, việc sở hữu những đồ cổ và sách cổ qúy giá cũng trở thành một mối lo hại thân cho các khổ chủ

Cho nên Gs. Nghiêm Thẩm phải dặn dò Lm. Vũ Đình Trác: “Linh mục phải giữ bí mật những tài liệu cổ này, kẻo tụi nó đánh hơi được thì phiền to; chiếc búa khảo cổ của tôi, tụi nó cũng đã biết rồi, mà cứ nay đứa này, mai đứa khác đến hỏi thăm và đòi xem” (Sđd. Trang 253).

Còn Bà Ngô Thị Dung thì thổ lộ: “Anh Thẩm là một nhà khoa học thuần túy, nên anh thiếu sự đưa đẩy uyển chuyển, khi giao tiếp với công an cán bộ”. Bà cũng nói thật “ Anh Thẩm qúy cha lắm, mới tiết lộ những bí mật của anh như thế” (Sđd. Trang 253).
Thêm vào đó, sau khi chiếm trọn miền Nam, với khí thế thắng lợi ngút trời, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bộc lộ tham vọng muốn làm bá chủ toàn vùng Đông Nam Á. Trên thực tế, vào thời điểm đó, CSVN đã chiếm đóng Lào, rồi Kampuchea, và đang chuẩn bị “giải phóng” Thái Lan. Để thực hiện âm mưu, họ tích cực chuẩn bị mọi mặt. Trong kế hoạch chuẩn bị, họ toan tính lợi dụng chất xám của trí thức để đánh mặt trận tâm lí, khơi dậy ý chí quật cường và lòng kiêu hãnh dân tộc. Đây là điểm khởi đầu cho tai họa sắp đổ ập xuống cuộc đời của một trí thức thứ thiệt như Gs. Nghiêm Thẩm.

Đúng như vậy. Gs. Nghiêm Thẩm đã tâm sự với Lm. Vũ Đình Trác chuyện Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn, với sự tháp tùng của Nguyễn Tuân, đã vào Nam và cho mời Gs. Nghiêm Thẩm tới khách sạn Majestic mà đãi đằng, khen ngợi, rồi “đưa đơn đặt hàng” cho ông.

Cuối bữa tiệc thịnh soạn, Lê Duẩn nói với Gs. Nghiêm Thẩm:

“Anh Nghiêm Thẩm, chắc anh biết: cả thế giới đang coi Việt Nam mình như “đỉnh cao trí tuệ loài người” mà anh cũng được vinh dự ấy. Việt Nam chúng ta phải làm chủ miền Đông-Nam-Á này. Mọi yếu tố làm chủ hầu như đã đầy đủ, chỉ còn thiếu một điều…
Từ trước tới nay, mấy thằng chép sử “nhãi ranh’ vẫn cho rằng: nguồn gốc các sắc tộc miền Đông-Nam Á-Châu này là Mã Lai hay Indonesien. Đại Nga-xô mới tìm được ít dấu vết chứng tỏ rằng Việt Nam chúng mình mới là thủy tổ. Chúng ta đang làm lại lịch sử Đông-Nam Á-Châu. Khoa nhân chủng học và khảo cổ của ta lúc này đang phát đạt vô biên, nên anh phải nắm lấy cơ hội này, với uy tín sẵn có của anh, anh phải viết một bài lớn, thẩm định lại: Dân Việt Nam là thủy tổ các dân tộc Đông-Nam Á-Châu. Như thế mới đúng ý nghĩa của “Đỉnh cao trí tuệ loài người” và mới xứng đáng tài năng hiếm có của anh”.

Tôi im lặng một phút…trả lời hắn:

Uy tín của tôi lúc này là nói đúng và nói thật. Theo các tài liệu khoa học hiển nhiên, nhất là khoa khảo cổ học và nhân chủng học quá rõ ràng, tôi không thể viết thế khác được. Viết như đồng chí nói là phản khoa học”.
Hắn mỉm cười, bảo tôi:

“Anh nói thế tức là còn đang ở trong vòng gò bó của sách vở, của óc đế quốc, của hủ lậu, chứ không theo sử quan một tí nào cả”.

Tôi cảm thấy tức đầy ruột…nên tôi hơi bạo lời:

“Nếu tôi viết như thế, thì các nhà khảo cổ và nhân chủng học trên thế giới sẽ cho tôi và cả chế độ tôi phục vụ là con chó chết. Tôi không bao giờ làm chuyện sa đọa ấy”.
Lê Duẩn vẫn không lộ vẻ tức giận. Hắn hỏi tôi vắn tắt: “Anh nhất định không làm chuyện đó?”.
Tôi bỗng tìm được một danh từ xưng hô, trả lời hắn: “Tôi không thể đáp ứng yêu cầu của đàn anh trong việc này”.
Lê Duẩn ném cho tôi một cái nhìn có vẻ dữ tợn với câu nói cộc lốc: “Anh nhất định thế…Mong anh đổi ý”.
Tôi cũng nhìn thẳng vào mặt hắn, trả lời cương quyết: “Tôi không bao giờ đổi ý”.

Hắn đi ra, không nói thêm nửa lời.

Tôi coi đó như một biến cố đổ vỡ trong đời tôi, dưới chế độ khốn nạn này. Nhưng tôi thà tan vỡ cả tấm thân với cả chế độ này, còn hơn đổ vỡ cho đất nước tôi, cho chí hướng và danh dự học thức của tôi” (Sđd. Trang 254, 255,256).

Sau lần gặp Lê Duẩn, Gs. Nghỉêm Thẩm sống thấp thỏm, lo âu, chờ đợi một điều gì đó không hay xẩy ra cho ông. Nhưng rất bất ngờ, giáo sư lại được mời đi họp một lần nữa. Người mời lần này là Bộ trưởng Thông tin Văn hóa CSVN Nguyễn Văn Hiếu. Tháp tùng Bộ trưởng Thông tin Văn hóa còn có Gs. Phạm Huy Thông, Viện trưởng Viện Khảo cổ Hà Nội và mấy viên bộ trưởng khác. Nơi hội họp là khách sạn Hữu Nghị. Thời gian họp kéo dài ba bốn ngày. Đưa rước bằng xe Mercedes. Ăn uống sang trọng. Mục đích được cho biết là chuẩn bị tham dự Đại hội khảo cổ sắp diễn ra ở Moscow. Họ yêu cầu Gs. Nghiêm Thẩm đóng góp tài liệu và kiến thức; họ nói úp mở có thể sẽ mời giáo sư tham gia phái đoàn.

Đáp lại, Gs. Nghiêm Thẩm dứt khoát không chấp nhận đưa ra quan điểm nào khác, ngoài sự tôn trọng tính khách quan của những tài liệu khảo cổ và giáo sư cũng ngỏ ý xin được miễn tháp tùng phái đoàn đi Moscow, viện cớ “tôi có nhiều ý kiến đối nghịch, sẽ bất lợi cho Đại hội” (Sđd. Trang 256).

Trước thái độ cương quyết của Gs. Nghiêm Thẩm, viên bộ trưởng nói: “Cái đó tùy anh” và “Anh chưa đủ thành thực”.
Gs. Nghiêm Thẩm nói với Lm. Vũ Đình Trác: “Tôi nghe câu đó như một bản án kết tội; từ đó, tôi bắt đầu chán sống. Bà NTD (Ngô Thị Dung) bảo tôi: thái độ như vậy không hay. Coi chừng tụi nó cho mình là phản chế độ, là bất hợp tác. Anh nên mềm dẻo với tụi nó thì hơn” (Sđd. Trang 257).

Chuyện Gs. Nghiêm Thẩm bị bọn Cộng sản làm phiền cũng được Gs. Đỗ Khánh Hoan xác nhận qua email ông gửi cho tôi ngày 02.02.2013 như sau: “…Nhiều lần gặp nhau anh (tức Gs. Nghiêm Thẩm) chỉ nói: Bọn nó muốn ‘toucher’ moa nhưng moa không thích, dính vào tụi nó bẩn người và khó chịu lắm. Họa chứ không phải phúc đâu, Hoan! Moa chỉ mong nó bảo nhau đến nhận chìa khóa cơ sở là moa bai bai!”.

Vào thời điểm đầu Tháng 11.1979, Gs Nghiêm Thẩm rất bi quan, chán nản; thậm chí có lần ông còn thổ lộ với Lm. Vũ Đình Trác là ông muốn vào đạo Chúa, mong nấp bóng từ bi của Ngài và được Ngài an ủi, phù trì.

Nỗi chết chóc càng ngày càng ám ảnh tâm trạng Gs. Nghiêm Thẩm.
Tuy rất thông cảm tâm trạng u uẩn của bạn, nhưng Lm. Vũ Đình Trác không biết làm gì để giúp bạn. Rồi vì phải đi Cần Thơ giảng dậy lớp Đông y, linh mục buồn bã chia tay Gs. Nghiêm Thẩm, ông nói với giáo sư: “Số phận chúng mình dưới chế độ Cộng sản chỉ có thế”.

Sau mấy tuần đi dậy ở miền Tây, Lm. Vũ Đình Trác trở lại Sài Gòn và tới thăm Gs. Lê Tôn Nghiêm (cựu linh mục, giáo sư Triết học). Gs. Lê Tôn Nghiêm cho linh mục biết Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại cách đó 2 tuần, tức là vào cuối Tháng 11.1979.

Theo sự tường thuật của Lm. Vũ Đình Trác thì vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm xẩy ra vào lúc 11 sáng. Thủ phạm là 2 tên lạ mặt. Chúng tông cửa vào nhà và móc súng ra, uy hiếp Gs. Nghiêm Thẩm phải giao ra chiếc búa khảo cổ của ông. Khi lấy được chiếc búa khảo cổ, một tên dùng chính chiếc búa khảo cổ đập 3 búa lên đầu giáo sư, rồi chúng tẩu thoát cùng với chiếc búa cướp được. Gs. Nghiêm Thẩm nằm chết trên vũng máu. Lúc xẩy ra án mạng, bà Ngô Thị Dung không có ở nhà chỉ có cô cháu lén nhìn trộm thấy mọi diễn biến.

Cô cháu vội đi tìm bà Ngô Thị Dung. Công an tới lập biên bản và niêm phong tủ sách của giáo sư.

Bà Ngô Thị Dung lo việc mai táng cho Gs. Nghiêm Thẩm. Có một ít đồng nghiệp tiễn đưa giáo sư ra nghĩa trang.

Sau lễ an táng, một số giáo sư thân hữu đã ngồi lại với nhau để hồi tưởng về Gs. Nghiêm Thẩm. Qua trao đổi tâm tình, các vị biết được Gs. Nghiêm Thẩm đã thổ lộ tâm sự bi quan, yếm thế với 6 thân hữu khoảng 10 ngày trước khi ông bị thảm sát.
Gs. Lê Tôn Nghiêm và Gs. NTN (chưa đoán ra là vị nào) mời thân hữu nâng li, đang khi đó Gs. TNT ngâm lên bài thơ chiêu hồn thống thiết:

Nghiêm Thẩm! Nghiêm Thẩm!
Anh là đỉnh cao của hoa gấm Giang sơn,
Anh ra đi mang nặng những oán hờn.
Có khôn thiêng, xin hãy về chứng giám
Vạn lòng thành, vạn niềm tin tưởng niệm
Của anh em trí thức dưới trời Nam.
Nguyện làm gió quét sạch lũ sài lang,
Nguyện làm mưa cho quê hương mát mẻ,
Nguyện làm nắng cho rực màu đất mẹ,
Nguyện làm trăng gieo rắc ánh thanh bình.

(Bạch Diện Thư Sinh)

Sài Gòn: Nghèo khổ tuyệt vọng, hai anh em tự thiêu

 Sài Gòn: Nghèo khổ tuyệt vọng, hai anh em tự thiêu

Nguoi-viet.com

Hiện trường vụ tự thiêu tại cầu Ông Hoá, khu Thảo Điền, quận 2. (Hình: báo Người Lao Động)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Người dân phát hiện hai người đàn ông tưới xăng tự thiêu trên cầu Ông Hóa liền dập lửa, đưa đi cấp cứu nhưng một người chết sau đó.

Ngày 5 Tháng Hai, công an quận 2 vẫn đang điều tra sự việc.

Báo Người Lao Động dẫn tin công an quận 2 cho biết, khoảng 9 giờ sáng cùng ngày, người dân phát hiện hai người đàn ông đi bộ lên cầu Ông Hoá, phường Thảo Điền, quận 2, rồi tưới xăng lên người và châm lửa tự thiêu.

Theo mô tả của các nhân chứng, lửa cao như ngọn đuốc. Một số người dùng bình chữa cháy mini đến dập lửa và đưa hai ông này đến bệnh viện cấp cứu trong tình trạng phỏng nặng. Do bị phỏng quá nặng nên người nhỏ tuổi hơn (khoảng 70 tuổi) chết tại chỗ. Còn người lớn hơn (80 tuổi) đang được điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy trong tình trạng nguy kịch.

Tin từ công an quận 2 cho biết, hai người là anh em ruột thuê nhà trọ và có cuộc sống khó khăn, người anh phải phụ nuôi em trai bị bệnh bại liệt thời gian qua. Do bi quan về cuộc sống, bệnh tật nên hai anh em đã tẩm xăng tự thiêu. (Tr.N)

Một phụ nữ đang ngủ thoát nạn vì iphone 6 Plus bốc cháy

Một phụ nữ đang ngủ thoát nạn vì iphone 6 Plus bốc cháy

Nguoi-viet.com

Cái điện thoại iPHONE 6 Plus của bà Amanda Bentz sau khi bốc cháy bên đầu giường. (Hình: Twitter/Kyle Bentz)

PALM HARBOR, Florida (NV) – Cũng như hằng triệu người sử dụng smartphone khác, bà Amanda Bentz sạc chiếc điện thoại iPhone 6 Plus nơi chiếc bàn đầu giường trong khi ngủ, một thói quen mà bà tin là hoàn toàn vô hại.

Theo CBS News, người phụ nữ ở Palm Harbor, Florida, tuần vừa qua học được bài học nhớ đời khi cái điện thoại di động của bà bỗng bốc cháy, chỉ cách bà có mấy gang tay.

Bà Bentz kể: “Nó làm tôi sực tỉnh. Lửa tự nhiên phựt lên mà không có dấu hiệu báo trước nào. Không xẹt lửa, không bốc khói, không gì cả. Tự nhiên mà lửa phừng lên thôi.”

Bây giờ thì bà Bentz và ông Kyle, chồng bà, khuyên mọi người nên coi chừng sự hiểm nguy khi sạt điện thoại qua đêm.

Qua một bài viết ngắn đăng trên Facebook, kèm với vài hình ảnh, ông Kyle tâm sự: “Những ai sạc điện thoại ban đêm nơi bàn đầu giường, ngay trên đầu nằm, hay bên phòng khác, hoặc khi quí vị đi vắng nhà. Thật kinh khủng khi quí vị sực tỉnh và trông thấy chiếc iPhone 6 Plus của vợ quí vị bỗng bốc cháy gần bên đầu bà ấy.”

May thay ông Kyle kịp thời giập tắt được ngọn lửa, mà nạn nhân của vụ hỏa hoạn nhỏ này là chiếc iPhone, gối, chăn, tấm trải giường và chiếc bông tai của bà Bentz.

Thoạt đầu hai vợ chồng nghĩ thủ phạm là bộ phận sạc, nhưng không phải, cả đồ sạc lẫn dây sạc không hề bị nóng.

Ông Bentz sau đó thông báo với công ty Apple và nơi này cho biết họ sẽ điều tra.

Hồi Tháng Mười 2016, anh Darin Hlvaty, một sinh viên trường Rowan College ở Burlington County, tiểu bang New Jersey, cho biết cái iPhone 6 Plus của anh bỗng phựt cháy khi đang ngồi trong lớp, khiến tất cả sinh viên đều phải chạy ra ngoài.

Anh Hlvaty kể: “Tôi nhảy tưng lên vì thấy phỏng cả chân, rồi tôi nhìn thấy khói tỏa ra.”

Apple cũng nói họ sẽ điều tra.

Đối thủ chính của Apple là Samsung gần đây cũng phải đối diện vấn đề điện thoại bị cháy tương tự nhưng ở qui mô lớn hơn nhiều.

Samsung phải thu hồi tất cả Galaxy Note 7 hồi mùa Thu năm ngoái sau khi có nhiều báo cáo về sự kiện giống nhau đó.

Công ty Nam Hàn về sau qui lỗi cho sự thiết kế và chế tạo của pin lithium-ion dùng với điện thoại. (TP)

Tai nạn giao thông và đánh nhau tăng trong dịp Tết

RFA
2017-02-02
Giao thông tại Hà Nội chụp hôm 23/9/2015.

Giao thông tại Hà Nội chụp hôm 23/9/2015.

AFP photo
Tai nạn giao thông trong dịp Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017 tăng cả về số vụ, số người chết và số người bị thương. Đó là công bố do Cục Cảnh sát Giao thông thuộc Bộ Công an đưa ra hôm nay.

Thống kê trong 7 ngày nghỉ lễ tết, từ 26 tháng Giêng đến ngày 1 tháng 2, cho thấy có tổng cộng gần 370 vụ tai nạn giao thông trên toàn quốc, làm chết 203 người, bị thương 417 người.

Theo Cục cảnh sát giao thông, so với cùng kỳ của Tết Bính Thân 2016, tai nạn giao thông tăng 29,5% , số người chết tăng 11,5% và số người bị thương tăng 48%.

Cục Cảnh sát Giao thông, Bộ công an nhận định nguyên nhân gây tai nạn giao thông chủ yếu do người điểu khiển phương tiện lưu thông sử dụng bia rượu cao, chạy quá tốc độ, không đội mũ bảo hiểm.