Cao Tuấn: Về một người Việt Nam đi tìm các ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung

Diễn Đàn Thế Kỷ

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990). Wikipedia

Người Việt Nam nói ở đây là ông Nguyễn Ngọc Huy, tác giả quyển sách “Các Ẩn Số Chánh Trị Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung” xuất hiện ở Hải Ngoại vào khoảng 1985, 1986 nhưng tác phẩm này không được biết đến nhiều như các tác phẩm “chính thống” khác của tác giả Nguyễn Ngọc Huy. Tuy vậy, theo thiển ý, đó là một tác phẩm đứng đắn, độc đáo, đáng đọc và đáng suy nghĩ. Nếu ông Huy chứng minh nhà văn Kim Dung, người Trung Hoa, có những hậu ý chính trị khi viết các bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng thì có thể chính ông Huy, một nhà chính trị Việt Nam cũng có những thông điệp chính trị riêng khi bỏ thì giờ viết sách về Kim Dung. Nhưng trước hết ông Nguyễn Ngọc Huy là người thế nào?

VĂN LÀ NGƯỜI

Ông Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990) được biết đến đầu tiên là một người làm thơ. Ông làm thơ rất sớm, hầu hết các bài thơ đều được viết vào tuổi sấp sỉ 20. Thơ của ông, với bút hiệu Đằng Phương, nhất quán có một nội dung đặc biệt:

Tôi chẳng phải là một nhà thi sĩ

Lấy văn thơ làm Lẽ Sống trên đời

Đem ngọc châu trau chuốt mãi lên lời

Để trang điểm nàng Ly Tao diễm lệ

Tôi chỉ là một người dân đất Việt

Cảm nỗi buồn của kẻ mất quê hương

Nỗi nhục nhằn nỗi khổ cực đau thương

Của nòi giống kẹt trong cùm lệ thuộc

Tôi đánh bạo lấy vần thơ bỡ ngỡ

Để diễn trình quan niệm đấu tranh chung

Để phô bầy những nguyện ước chờ mong

Những triển vọng về tương lai giống Việt

Tôi mượn thơ để gây lòng phấn khởi

Cho chính mình trong những lúc gian lao

Trong những khi thất bại, những khi nào

Chân yếu đuối muốn rời đường chiến đấu

(Thay Lời Tựa tập thơ HỒN VIỆT xuất bản lần đầu vào năm 1950)

Thơ Đằng Phương nên được xếp vào loại “Anh Hùng Ca” – nói về dân tộc, lịch sử, lòng yêu nước, yêu quê hương, ngợi ca những người tranh đấu vì nước quên thân:

Hỡi những ai kia đã luỵ mình

Đã vì non nước chịu hy sinh

Đã vì chủng tộc khai đường sống:

Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh!

(Nén Hương Lòng)

Diễn tả cảnh hy sinh bi tráng của họ như trường hợp Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết trên đoạn đầu đài:

Sau cái nhìn chào non nước bi ai

Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài

Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng:

Việt Nam Muôn Năm! Một đầu rơi rụng

Việt Nam Muôn Năm! Người kế tiến lên

Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên

Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.

(Ngày tang Yên Báy)

Ý nghĩ của nhà thơ trong sáng, giản dị:

…..

Trên đường lối đấu tranh cho lẽ sống, 

Bóng anh hùng nòi giống nếu không quên

Thì giang sơn vạn cổ vẫn lâu bền

Và Lịch Sử vẫn luôn bừng nhuệ khí

(Anh Hùng Đất Việt)

Nếu bài hát “Tình Ca” của Phạm Duy “tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi!…Mẹ hiền ru những câu xa vời… Ạ ạ  ơi…tiếng ru muôn đời…tiếng nước tôi….Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui…Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!…” đã khiến người Việt Nam suốt mấy thế hệ không nguôi thương nhớ quê hương thì bài thơ “Anh Hùng Vô Danh” của Đằng Phương cũng có ảnh hưởng không kém kể từ thập niên 1950 cho đến ngày nay. Lời tâm can vang vọng rất tự nhiên:

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động

Dưới gót giầy của những kẻ xâm lăng

Đã xông vào khói lửa quyết liều thân

Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc

Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc

Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan, 

Người thất cơ đành thịt nát, xương tan

Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.

Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm

Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa

Họ buông gươm trở lại chốn quê nhà

Để sống lại cuộc đời trong bóng tối

Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi

Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình

Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh

Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch

Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách

Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên

Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên

Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật

Nhưng máu họ đã len vào mạch đất

Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông

Và anh hồn chung với tấm tinh trung

Đã hoà hợp làm linh hồn giống Việt.

Sau tuổi hoa niên ông Nguyễn Ngọc Huy không còn làm thơ nữa hoặc làm rất ít, nhưng cuộc đời còn lại cho đến khi chết ông sống đúng như thơ, từ suy nghĩ đến hành động, luôn hướng về mục đích phụng sự Tổ Quốc.

Có lẽ không cần nhắc quá nhiều đến sự kiện ông Huy là người trí thức đậu cử nhân luật khoa và tiến sĩ chính trị học ở Paris trong trong thời gian sống lưu vong ở Pháp và trở về miền Nam Việt Nam làm giáo sư dạy về Luật Hiến Pháp, Học Thuyết Chính Trị, Bang Giao Quốc Tế tại các trường đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ trong khoảng thời gian 1964-1975. Trong những năm tháng chiến tranh nhiễu nhương ấy, ông Huy nổi tiếng là một nhà giáo dậy giỏi, một lý thuyết gia uyên bác và một lãnh tụ chính trị quốc gia tận tuỵ nhưng cẩn thận, ôn hoà. Trong suốt cuộc đời ông Huy cũng viết nhiều sách báo giá trị bằng cả 4 ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh, Hán

Tuy được xem là một lãnh tụ chính trị quan trọng của người quốc gia Việt Nam nhưng ông Nguyễn Ngọc Huy chưa bao giờ ở vị trí quyền lực để thực thi lý tưởng xây dựng một quốc gia dân chủ pháp trị lương hảo, tạo nội lực đủ sức chống lại chủ nghĩa Cộng Sản độc tài toàn trị.

Lần duy nhất ông đến gần guồng máy quyền lực là khi người đồng chí “như hình với bóng” của ông là ông Nguyễn Văn Bông, giáo sư đại học thạc sĩ công pháp, chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến mà ông làm Tổng Thư Ký, chuẩn bị ra làm Thủ Tướng vào năm 1971 theo lời mời bất đắc dĩ của ông Tổng Thống “quân phiệt” Nguyễn Văn Thiệu.

Tuy nhiên đảng Cộng Sản Việt Nam, trông thấy trước được mối nguy hiểm, đã mau chóng ra lệnh cho đặc công ở Sài Gòn ám sát ông Nguyễn Văn Bông như họ đã từng ám sát những địch thủ tài năng, đức độ và quan trọng khác của người Việt Quốc Gia là các ông Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng, Huỳnh Phú Sổ…trong cuộc phân tranh Quốc-Cộng kéo dài 30 năm (1945-1975).

Người ta có thể không đồng ý về những quan điểm chính trị của ông Nguyễn Ngọc Huy nhưng không ai có thể phủ nhận được trường hợp của ông Huy: “văn tức là người”. Bởi vì không ai có thể giải thích khác hơn được về một người “lúc hết hơi mới biết đến mạng trời và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động” và khi chết chỉ sở hữu vài bộ quần áo cũ và một một ít sách.

Và cũng không có ai có dịp tiếp xúc với ông Huy mà không thấy ông là người chừng mực, tự chủ, quyết tâm. Bình dị trong lời nói nhưng phong phú trong ý tưởng. Không bao giờ làm bộ tịch, không bao giờ “đao to, búa lớn”. Một người “dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch”. Một người “thong dong tựu nghĩa”.

Có nhiều người viết về Kim Dung nhưng viết hẳn một quyển sách công phu về riêng một khía cạnh – “ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung” –  thì ông Huy là người duy nhất.

Một câu hỏi đến tự nhiên: Tại sao một người lỗi lạc lại bận rộn như ông Huy lại “mất công” với với loại truyện giải trí bình dân như thế?

Câu trả lời chỉ tìm thấy sau khi đã đọc xong quyển “Những Ẩn Số Chánh Trị…” dầy 290 trang. Và câu trả lời có thể sẽ là như sau:

Mặc dầu truyện võ hiệp nói chung bị xem là loại văn chương bình dân nhưng riêng với Kim Dung ông Huy nhìn thấy hình ảnh của một đại văn hào có một sở học uyên bác và óc tưởng tượng dồi dào – Những bộ truyện trường thiên của Kim Dung đều có thể so sánh được với các bộ sách bất hủ của dân tộc Trung Hoa đã làm say mê cả người bình dân lẫn người trí thức, người Việt Nam lẫn người Trung Hoa, với những ý nghĩa triết lý hoặc các bài học chính trị, đạo đức tiềm ẩn như Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du Ký… Nếu suy nghĩ khi đọc truyện Kim Đung người ta có thể học được nhiều điều hữu ích.

Ông Huy nghiên cứu, quen thuộc với lịch sử, tư tưởng và  văn hoá Trung Hoa. Luận Án Tiến Sĩ  của ông ở đại học Paris viết bằng tiếng Pháp đã được chính ông dịch sang tiếng Việt có đề tài “Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng Chánh Trị Trung Quốc Cổ Thời” (Le thème de l’élite dans la pensée politique de la Chine antique), 1963. Tác phẩm của Kim Dung, vì thế, đã hấp dẫn ông Huy một cách tự nhiên.

Ngoài sự kính nể của người trí thức đối với người trí thức, nhà tư tưởng đối với nhà tư tưởng,  ông Huy viết về truyện Kim Dung vì ông cùng chia sẻ với nhà văn một số giá trị căn bản chung, vì thấy ở Kim Dung một tâm hồn đồng điệu bất kể khoảng cách về không gian, thời gian hay chủng tộc. (Lẽ dĩ nhiên nói như thế không có nghĩa ông Huy đồng ý hoàn toàn với những điều ông tìm thấy về tư tưởng của Kim Dung).

Tác phẩm của Kim Dung phong phú, đồ sộ và có thể nghiên cứu, nhận định dưới nhiều khía cạnh. Ông Huy chỉ giới hạn, như đã nói, vào một khía cạnh mà ông quan tâm hơn cả đó là “các ẩn số chính trị” trong tác phẩm. Ông đi tìm những ẩn số này bằng khả năng phân tích và tổng hợp của một nhà khoa học chính trị, một người quen viết nghị luận cũng như bằng tâm tư của một chính trị gia Việt Nam đang “trong gian truân cố chuyển lại cơ trời”, luôn luôn suy nghĩ về những vấn đề của đất nước mình.

NHỮNG “BÍ MẬT” CỦA KIM DUNG ĐàĐƯỢC “BẬT MÍ” THẾ NÀO?

Để tránh những hệ luỵ rắc rối không cần thiết các tiểu thuyết gia gần như luôn luôn xác định “tác giả không có ý ám chỉ một nhân vật hay một sự việc có thật nào trong đời sống cho nên mọi trùng hợp nếu có chỉ là ngẫu nhiên”. Kim Dung cũng không đi ra ngoài thông lệ ấy khi tuyên bố “Nội dung tiểu thuyết không tránh khỏi sự biểu lộ tư tưởng của tác giả nhưng không phải tác giả cố ý đem nhân vật, sự tích cùng bối cảnh đến một lãnh vực tư tưởng hay một chính sách (có thật) nào đó…Tiểu thuyết võ hiệp không liên quan gì đến tư tưởng chánh trị, ý thức tôn giáo, khoa học trúng hay trật, đạo đức phải hay trái…”

Lập trường “phi chính trị” nhưng “nói để mà nói” của Kim Dung đã không ngăn cản ông Huy đi tim dụng ý chính trị của tác giả rải rác trong các tác phẩm và ông đã tìm ra, đã nhìn thấy một số dữ kiện có ý nghĩa chính trị. Các dữ kiện này vừa đủ số lượng, vừa ăn khớp vào nhau để có thể đưa ra nhũng thông điệp về lập trường của Kim Dung.

Trong phần “Lời Mở Đầu” của quyển “Các Ẩn Số Chánh Trị…” ông Huy nêu một vài chi tiết quan trọng:

Lúc đảng Cộng Sản Trung Hoa tranh đoạt được quyền lãnh đạo Trung Quốc, Kim Dung vẫn còn ở lại lục địa, sau đó mới dời ra sống ở Hongkong và làm biên tập viên cho hai tờ báo thiên tả là Đại Công Báo và Trường Thành Hoạ Báo cho đến năm 1957. Sự kiện này cộng với các ẩn số chính trị tìm thấy trong một số các bộ truyện của Kim Dung khiến ông Huy suy đoán Kim Dung vốn là người trí thức khuynh Tả, có thiện cảm với các đoàn thể theo Xã Hội Chủ Nghĩa và các quốc gia theo chế độ Cộng Sản và không có thiện cảm với các đoàn thể thuộc phái Hữu và các quốc gia Tây Phương.

Qua thời gian, cái nhìn của Kim Dung dần dần thay đổi khi nhận chân người Cộng Sản áp dụng một chính sách chuyên chế toàn diện, tàn ác và phi nhân nên Kim Dung quay ra kết án họ.

Kim Dung cũng điều chỉnh lại cái nhìn đối với các đoàn thể có lập trường chống chọi nhau, cả Tả lẫn Hữu. Theo Kim Dung, không bên nào hoàn toàn phải, toàn người tốt. Không bên nào hoàn toàn quấy, toàn người xấu. Bên nào cũng có người xấu, người tốt  và thường vừa có phẩn phải vừa có phần quấy. Điểu đáng nói là chuyện mức độ –  tốt nhiều hơn hay xấu nhiều hơn, phải nhiều hơn hay quấy nhiều hơn. Chính, Tà không đơn giản là chuyện Trắng, Đen.

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, từ khi xuất hiện từ đầu thập niên 1960s, trong khi làm mưa làm gió ở Hongkong, Singapore, Nam Việt Nam, các nước Đông Nam Á trong giới Hoa Kiều hải ngoại thì tuyệt đối bị cấm cửa ở Đài Loan và cả Hoa Lục ít nhất trong thời kỳ Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông còn sống.

Cũng cần lưu ý đối chiếu thời kỳ Kim Dung viết truyện Võ Hiệp ở Hong Kong bên cạnh lò lửa “Cách Mạng Văn Hoá” ở Hoa Lục….với bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai phe Cộng Sản và Tư Bản.

Trong phần kết luận của quyển “Các Ẩn Số Chánh Trị…” ông Huy cũng dè dặt nói thêm “không thể loại bỏ giả thuyết là sự trùng hợp giữa các nhân vật và sự kiện trong tác phẩm của Kim Dung với một số nhân vật và sự kiện có thật phát xuất từ nơi tiềm thức của tác giả chứ không phải là một sự cố ý. Nhưng ngay trong trường hợp này, Kim Dung cũng không phải hoàn toàn vô tâm, vì Kim Dung có nhiều ưu tư, nhiều chủ kiến ăn sâu trong tiềm thức thì các tác phẩm viết ra mới biểu lộ các ưu tư và chủ kiến đó cho chúng ta thấy”

Đi vào chi tiết liên hệ đến các ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung ông Huy nhận thấy 2 loại dữ kiện:

– Một số nhân vật đã được dùng để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới hoặc để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.

–  Một số sự việc đã diễn tả quan điểm của Kim Dung về vấn đề tranh đấu chính trị và một phần trong quan điểm này dựa vào triết lý Đạo Giáo và Phật Giáo.

Ông Huy trình bầy những khám phá của ông một cách thứ tự, lớp lang, dựa trên lý luận với rất nhiều chi tiết khá tỉ mỉ. Sau đây chỉ là một số thí dụ về các ẩn số chính trị – xin nhắc lại chỉ là một số thí dụ tiêu biểu có giá trị thuyết phục cao trong rất nhiều ẩn số mà ông Huy đã tìm thấy – qua các truyện võ hiệp Kim Dung:

  1. Các nhân vật tượng trưng cho một số quốc gia đặc biệt trên thế giới.

Cuộc luận võ trên đỉnh Hoa Sơn được đề cập đến trong các bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp có mục đích xác định vai tuồng bá chủ võ lâm. Cuộc luận võ đầu tiên và quan trọng nhất có 5 nhân vật tham dự. Họ có ngoại hiệu là Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế. Sau cuộc tỷ thí rất gay go, mọi người đều công nhận rằng Trung Thần Thông là người có võ công cao diệu hơn hết và được quyền giữ bộ Cửu Âm Chân Kinh. Những người còn lại thì tài nghệ suýt soát nhau.

Ngoài ra, còn một nhân vật thứ sáu cũng được xem đồng tài nghệ nhưng không tham dự cuộc luận võ này. Đó là bang chủ của Thiết Chưởng Bang tên là Cừu Thiên Nhạn ngoại hiệu là Thuỷ Thượng Phiêu. Cừu Thiên Nhận có người anh song sinh tên là Cừu Thiên Lý, võ công tầm thường, chỉ hay dùng xảo thuật để loè bịp.

Trong một giai đoạn của cuộc luận võ hay luận kiếm Hoa Sơn, năm nhân vật đầu tiên đã tỉ thí với nhau theo lối “ngũ quốc giao binh”, dịch sát nghĩa là “năm nước tranh chiến với nhau” hàm ý Kim Dung muốn dùng các nhân vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia. Vậy thì, nhân vật nào, quốc gia nào đây?

– Nhân vật tượng trưng cho nước Tầu: Trung Thần Thông.

Trung Thần Thông là ngoại hiệu của Vương Trùng Dương. Trung là ở ngay chính giữa. Tự ngàn xưa, người Tầu đã tự hào là họ sống ngay chính giữa địa cầu (!). Họ đã chính thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung Hoa và nước họ là Trung Quốc.

Về mặt tinh thần, người Trung Hoa theo đạo Trung Dung, đạo của người quân tử lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình. Trong mọi việc làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải. Không thái quá, không bất cập. Người cố gắng theo đạo Trung Dung thì sẽ trở thành sáng suốt, hiểu biết và có thể biến cải để ứng phó vượt qua mọi trở lực, nói một cách khác sẽ trở thành Thần Thông.

Phái Đạo Giáo mà Trung Thần Thông đứng đầu là phái Toàn Chân, có nghĩa là sự thật đầy đủ, trọn vẹn. Toàn Chân là môn phái có thật trong lịch sử. Ngoài chủ trương riêng của Đạo Giáo, nó lại còn bao gồm đạo Trung Hiếu của Nho Giáo và các giới luật của Phật Giáo và điều này đã mô tả đúng tính cách tổng hợp của nền văn hoá Trung Hoa cổ truyền.

Tỷ thí tài nghệ để trở thành bá chủ võ lâm, tuy nhiên Trung Thần Thông lại có bản chất ngược lại với tư tưởng bá chủ – lấy được Cửu Âm Chân Kinh nhưng nhất quyết không dùng vì bí kíp võ học tuyệt tác này đòi hỏi phương pháp luyện công quá âm độc, dị thường. Tư cách của Trung Thần Thông, tức Vương Trùng Dương cho thấy cao hơn hẳn Đông Tà, Tây Độc và các nhân vật võ lâm khác, càng chứng tỏ xứng đáng vai trò lãnh đạo, phù hợp với họ Vương, có nghĩa là Vua, người đứng đầu thiên hạ. Đạo lý nhà vua phải theo để cai trị một cách chính đáng, nhân nghĩa gọi là Vương đạo. Chủ trương chính trị Vương đạo là chủ trương chính thức được đề cao trong sử sách Trung Hoa từ ngàn xưa.

Kim Dung là người Trung Hoa nên qua nhân vật Trung Thần Thông Vương Trùng Dương hàm ý nước Trung Hoa có đủ khả năng và tư cách làm số 1 trên thế giới cũng là điều không đáng ngạc nhiên.

– Nhân vật tượng trưng cho nước Nhật: Đông Tà.

Đông Tà là ngoại hiệu của Hoàng Dược Sư. Hoàng là mầu vàng ám chỉ Nhật Bản cũng là dân da vàng.

Nhật Bản nằm về phía đông của Trung Hoa phù hợp với ngoại hiệu Đông Tà của Hoàng Dược Sư. Đông Tà lại mặc áo mầu xanh, theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì mầu xanh thuộc về hành mộc và liên hệ với phương đông, nhấn mạnh thêm nước Nhật ở phía đông.

Căn cứ của Đông Tà là đảo Đào Hoa mà Nhật Bản là đảo quốc và nổi tiếng thế giới là xứ hoa Anh Đào.

Đông Tà có tánh sợ lửa. Điều này ám chỉ các đảo Nhật có nhiều núi lửa và thường bị động đất.

Bà vợ của Đông Tà có tên là Mai Hương. Mà hoa Mai lại được người Trung Hoa xem là quốc hoa. Điều này có thể ám chỉ dân tộc Nhật có liên hệ và chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa.

Thân thế của Đông Tà còn tỏ rõ hơn nữa ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa rất sâu xa đối với nước Nhật – Đông Tà theo học võ với Châu Đồng. Ông này cũng là thầy của Nhạc Phi, một danh tướng anh hùng Trung Hoa. Trước đó Đông Tà là một thư sinh học theo Nho Giáo nên là người văn võ kiêm toàn. Đông Tà thông thạo các thú tiêu khiển của người Trung Hoa là cầm, kỳ, thi, hoạ; nắm vững mọi loại kỹ thuật Trung Hoa như y dược, bói toán, chiêm tinh, tướng số, nông điền thuỷ lợi, binh lược…; biết thưởng thức các món ăn ngon, các thứ trà quý của Trung Hoa…Tuy nhiên, Đông Tà lại thâm hiểu Đạo Giáo và hướng về sự thanh tĩnh vô vi. Đông Tà cũng có một số đức tính tốt là cương trực, nói lời giữ lời theo kiểu “quân tử nhất ngôn”, kính trọng các bậc trung thần, nghĩa sĩ, nhiều khi ra tay giúp người yếu thế, trừng trị bọn tham quan ô lại, bọn trộm cướp hiếp đáp dân lành.

Các dệ tử của Đông Tà đều mang tên Phong như Khúc Linh Phong, Phùng Mặc Phong, Lục Thừa Phong, Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong…Phong nghĩa là gió, giống như chữ Phong trong danh từ nổi tiếng của Nhật là Thần Phong (Kamikaze) nguyên là danh từ dùng để chỉ trận bão lớn năm 1281 đã đánh đắm các chiến thuyền của hạm đội Mông Cổ, cứu nước Nhật khỏi bị Mông Cổ thống trị. Trong thế chiến thứ hai, Thần Phong là tên của đội phi công cảm tử tình nguyện lao phi cơ chứa đầy chất nổ xuống các chiến hạm Mỹ và nổ tung với các chiến hạm này – một cố gắng hi sinh tuyệt vọng nhưng rẩt anh hùng mang đặc tính Nhật Bản.

Đông Tà tuy vậy không được Kim Dung coi là người theo chính đạo mà là một nhân vật nhuốm đầy tà quái hàm ý người Nhật chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, nhưng chỉ theo một phần, rồi tìm cách biến chế và không cư xử đúng theo quan điểm đạo đức của người (quân tử mẫu mực) Trung Hoa.

Đông Tà, tức nước Nhật, trong mắt Kim Dung đã TÀ như thế nào?

Dựa vào Kỳ Môn Bát Trận của Khổng Minh để lập ra Phản Kỳ Môn Bát Trận để bảo vệ đảo Đào Hoa. Cũng dựa vào nguyên tắc sinh khắc, âm dương, ngũ hành, nhị thập bát tú và 64 quẻ kép của Bát Quái. Tuy nhiên trong trận đồ của Đông Tà, vị trí của các quẻ lại ngược lại vị trí các quẻ trong trận đồ Khổng Minh.

Thổi ngọc tiêu kích thích dục tình.

Thiếu tự chế – quá bi thương vì cái chết của vợ, gần như điên cuồng khi tưởng mất con.

Ăn cướp, tống tiền nhà giầu để có phương tiện lập căn cứ địa kiên cố, sang trọng. Dùng thủ đoạn xảo trá để đoạt Cửu Âm Chân Kinh.

Khi tức giận hai đệ tử phản bội đào thoát thì trừng phạt các đệ tử vô tội và hết sức trung thành khác bằng cách cắt đứt gân chân của họ rồi đuổi đi. Đâm mù mắt, chọc thủng tai các đầy tớ, gia nhân, vốn là các thành phần tội phạm, để kiềm chế họ và giữ bí mật về mình.

Sự tàn ác, ích kỷ của Đông Tà ám chỉ nước Nhật sau khi canh tân trở nên cường thịnh thì đi xâm lăng Trung Quốc và các nước khác cốt để làm lợi cho riêng mình, trắng trợn tự xưng là Đế Quốc Nhật Bản, khác với lý tưởng Vương đạo của người Trung Hoa – theo Kim Dung – “trị quốc” để dọn đường cho “bình thiên hạ” tức là tiến tới “thế giới đại đồng”. Biến cố “The rape of Nanking” năm 1937 gây kinh hoàng, chấn động thế giới khi quân Nhật chiếm thủ đô Nam Kinh của Trung Hoa Dân Quốc, đã hãm hiếp và giết hại 300,000 người dân Tầu, thây chất như núi, máu loang đỏ các sông ngòi, là một tội ác khó có thể nào quên.

   – Nhân vật tượng trưng cho các nước Đế Quốc Âu Châu: Tây Độc.

Tây Độc là một nhân vật kinh khủng, có lẽ còn đáng ghét hơn cả Đông Tà, theo sự diễn tả của Kim Dung ám chỉ các nước đế quốc thực dân Âu Châu đã sâu xé, dày xéo, bóc lột Trung Hoa và các dân tộc ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ hàng trăm năm.

Tây Độc là ngoại hiệu của Âu Dương Phong. Âu là Âu Châu. Âu Châu ở phía Tây của Trung Quốc. Người Âu Châu còn gọi là người Tây Dương, hay người Tây Phương. Tây Độc Âu Dương Phong cũng xưng là Bạch Đà Sơn Chủ, tức chúa núi Bạch Đà. Bạch là mầu trắng khiến liên tưởng đến người da trắng, giòng giống… Bạch Quỷ (!).

Trái với nếp sống thanh tĩnh theo Đạo Giáo của Trung Thần Thông Vương Trùng Dương, nếp sống của Tây Độc Âu Dương Phong là sự hưởng thụ vật chất tầm thường, ô trọc. Căn cứ Bạch Đà Sơn chứa đầy gái đẹp, ngọc ngà, châu báu, của ngon vật lạ… vốn là chiến lợi phẩm có từ cướp của, giết người, bắt cóc…do hai chú cháu Âu Dương Phong và Âu Dương Công Tử thực hiện. Mô tả này nhắc thời kỳ các nước Âu Châu ùa nhau đi chiếm thuộc địa, bắt buộc các dân tộc khác làm nô lệ, thực thi chính sách đế quốc bóc lột tàn nhẫn, trở nên giầu có và truỵ lạc

Sự mất trí, điên cuồng lúc về sau của Tây Độc biểu tượng cho sự vong thân của người Tây Phương dẫn đến khủng hoảng xã hội, cách mạng, nội chiến và đánh giết lẫn nhau gây ra đại chiến thế giới 1 và 2.

– Nhân vật tiêu biểu cho Liên Xô:  Bắc Cái.

Bắc Cái là ngoại hiệu của Hồng Thất Công.

Bắc Cái là bang chủ Cái Bang, là chúa ăn mày, tức là trùm vô sản.

Liên Xô ở phía Bắc và Tây của Trung Quốc. Bắc nhiều hơn Tây, vả lại Tây đã dùng cho trường hợp Tây Độc để ám chỉ Âu Châu.

Chữ Hồng, họ của Bắc Cái (Hồng Thất Công) theo Hán Văn là rộng lớn mênh mông nhưng lại đồng âm với chữ Hồng là đỏ, mầu tiêu biểu cho đảng Cộng Sản, tức Cái Bang. Thêm nữa, chữ Hồng gồm 2 phần, bên tả là bộ thuỷ, bên hữu là chữ cộng, y như chữ Cộng trong từ ngữ Cộng Sản.

Kỹ thuật tranh đấu của Bắc Cái là Đả Cẩu Bổng Pháp – dùng gậy để đánh chó của nhà giầu, đánh cả cường hào, ác bá, tham quan ô lại – tiêu biểu cho chủ trương Giai Cấp Đấu Tranh, Hàng Long Thập Bát Chưởng tiêu biểu Biện Chứng Pháp Duy Vật. Kiên Bích Trận của Cái Bang biểu tượng kỹ thuật tổ chức và tranh đấu tập thể của Đảng Cộng Sản Quốc Tế do Liên Xô lãnh đạo.

Cái Bang của Hồng Thất Công có 2 phe ăn mày hiềm khích và chống chọi nhau. Một phe áo lành và sạch nhưng ít người, ám chỉ Cộng Sản Đệ Tứ với thủ lãnh Trotsky. Một phe áo rách và dơ nhưng đông người hơn, ám chỉ Cộng Sản Đệ Tam do Stalin cầm đầu. Bắc Cái Hồng Thất Công có thể vừa tượng trưng cho Liên Xô như là một quốc gia, vừa tượng trưng cho Lenin như là một nhân vật. Chỉ khi Lenin lúc còn sống mới dung hợp được cả phe Stalin và phe Trotsky.

    – Nhân Vật tiêu biểu cho các nước thuộc thế giới đệ tam – tức là các nước đang mở mang như Thái Lan:  Nam Đế.

Nam Đế là ngoại hiệu của Đoàn Chính Minh, vua nước Đại Lý, thuộc sắc dân Thái, sau thoái vị đi tu với pháp danh là Nhất Đăng, Nhất Đăng Đại Sư. Người thế độ cho ông không phải là một cao tăng Trung Hoa mà là một nhà sư Thiên Trúc, tức là Ấn Độ, theo Phật Giáo Tiểu Thừa khác với Phật Giáo Đại Thừa thịnh hành ở Trung Hoa.

Hiện nay có cuộc mâu thuẫn giữa các nước đã phát triển ở phương Bắc và các nước đang mở mang ở phương Nam, được gọi là tranh chấp Bắc Nam. Nam Đế là biểu tượng của thế lực phương Nam.

      – Nhân vật biểu tượng cho Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý: Anh em Cừu Thiên Nhạn và Cừu Thiên Lý.

Được mời nhưng không tham dự cuộc Hoa Sơn Luận Võ, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang Cừu Thiên Nhạn được xem là có tài nghệ ngang với Võ Lâm Ngũ Bá. Cừu Thiên Lý là anh song sinh của Cừu Thiên Nhạn, trông rất giống, có tánh mưu mẹo, gạt gẫm nhưng tài nghệ kém người em rất xa hàm ý Phát Xít Ý của Mussolini ra đời trước, hay khoa trương,  nhưng không có thực lực như Đức Quốc Xã của Hitler.

Theo sự mô tả của Kim Dung, Thiết Chưởng Bang (Bang hội Bàn Tay Sắt) lúc đầu là hội của những người yêu nước chống sự xâm lấn của nước ngoài, về sau lầm lạc đi vào con đường cướp bóc, hung bạo, xem mạng người như cỏ rác phù hợp với lịch sử chung của 2 chế độ độc tài hữu phái Quốc Xã và Phát Xít.

Ngoại hiệu Thuỷ Thượng Phiêu phản ảnh công phu độc đáo đi trên mặt nước của Cừu Thiên Nhạn ám chỉ chủ nghĩa siêu nhân và siêu tộc của Đức Quốc Xã.

Tín hiệu bàn tay sắt của bang chủ Cừu Thiên Nhạn là gợi ý đến từ bội tinh Thập Tự Sắt, huy chương quân công cao quý nhất của dân tộc Đức cũng như huy hiệu chữ Vạn thời Hitler.

    – Nhân Vật biểu hiệu cho nước Mỹ: Dương Qua.

Dương Qua nhận Tây Độc làm nghĩa phụ và được truyền dậy những công phu siêu đẳng hàm ý nước Mỹ có gốc gác Âu Châu, văn hoá Mỹ cùng tính chất văn hoá Âu Châu, gọi chung là Tây Phương. Dương Qua còn được gọi là Tây Cuồng.

Dương Qua chính là Thần Điêu Đại Hiệp mà chim điêu (eagle) là biểu hiệu của nước Mỹ. Quốc huy của nước Mỹ có hình chim điêu.

Trong lần Hoa Sơn Luận Võ cuối cùng, trong số 5 cao thủ có mặt thì Dương Qua là người trẻ nhất được xem như kế vị Tây Độc nhưng không ác hại như nghĩa phụ, lại học thêm được tinh hoa võ thuật của các cao thủ khác, cũng như tự sáng chế nên có bản lãnh cao hơn mọi người. Điều này phù hợp với sự kiện nước Mỹ là quốc gia Tây Phương, trẻ trung, cường thịnh vượt hẳn các nước đế quốc Âu Châu già nua, tàn tạ như đế quốc Bồ Đào Nha, đế quốc Tây Ban Nha, đế quốc Anh, đế quốc Pháp, đế quốc Hoà Lan, đế quốc Bỉ… để trở nên đệ nhất siêu cường.

  1. Các nhân vật được dùng để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa cận đại.

Trước hết là trường hợp các lãnh tụ Trung Cộng.

Trong thời kỳ sáng tác ba bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp, Kim Dung còn thiên tả nhưng đến khi viết hai bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung đã nhận chân được sự thật về Cộng Sản Quốc Tế nói chung và Cộng Sản Trung Hoa nói riêng.

Trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ đề tài chính là cuộc tranh chấp đẫm máu giữa Triêu Dương Thần Giáo và các phe gọi chung là bạch đạo. Ông Huy đã tìm thấy nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng Triêu Dương Thần Giáo trong Tiếu Ngạo Giang Hồ được dùng để ám chỉ đảng Cộng Sản Trung Hoa và hai vị giáo chủ Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại biểu tượng hai nhà lãnh đạo quan trọng của Trung Cộng là Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ. Ông Huy lý luận như sau:

Triêu Dương là buổi sớm mai lúc mặt trời ở phía Đông mà bản quốc thiều của Trung Cộng là bản Đông Phương Hồng.

Khẩu hiệu chính của Trung Cộng trong thời kỳ chiến tranh lạnh là “gió đông thắng gió tây” cho nên Giáo chủ Triêu Dương Thần Giáo có tên là Đông Phương Bất Bại là hiện thân của Lưu Thiếu Kỳ, người làm chủ tịch nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) trong 9 năm và nắm thực quyền một thời gian dài trước khi bị lật đổ, bị tra tấn và bị giết.

Giáo chủ Nhậm Ngã Hành biểu tượng cho Mao Trạch Đông, Chủ Tịch đảng Cộng Sản Trung Hoa. Việc Đông Phương Bất Bại bí mật giam Nhậm Ngã Hành trong lòng đất dưới đáy Tây Hồ ở Hàng Châu ám chỉ thời kỳ Lưu Thiếu Kỳ liên kết với Đặng Tiểu Bình tập trung quyền lực Đảng trong tay, dồn Mao Trạch Đông vào thế “ngồi chơi xơi nước”, “hữu danh vô thực” sau thất bại “bước tiến nhẩy vọt” khiến Mao uất hận dùng “đại cách mạng văn hoá” long trời lở đất để quật ngược lại. Cuộc xung đột giữa Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại cũng kỳ bí và ghê gớm như cuộc xung đột giữa Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ.

Thần Long Giáo trong Lộc Đỉnh Ký cũng được dùng để ám chỉ đảng Cộng Sản Tầu. Giáo Chủ Hồng An Thông là hình ảnh xấu xí của Mao Trạch Đông, bà vợ ác nghiệt nhưng trẻ đẹp Tô Thuyên tức Hồng Phu Nhân biểu hiệu cho Giang Thanh, bọn Ngũ Long Thiếu Niên tượng trưng cho Vệ Binh Đỏ. Những cảnh tượng xấu xa, tàn bạo, tệ hại liên quan đến Thần Long Giáo mà Kim Dung mô tả rất gần với thực trạng chính trị Hoa Lục thời Đại Cách Mạng Văn Hoá.

Kế tiếp là trường hợp của các chính khách quốc gia Trung Hoa trong mắt Kim Dung theo như sự suy đoán của ông Huy.

Cũng trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nếu Triêu Dương Thần Giáo (bị gọi là Ma Giáo) tượng trưng cho phe Cộng Sản thì phái Bạch Đạo tương trưng cho phe Quốc Gia. Phe Bạch Đạo chính thức theo lập trường bảo vệ đạo lý và tình trạng đương hữu nhưng trong thực tế phân hoá trầm trọng. Có những người đàng hoàng, tử tế nhưng không thiếu kẻ gian ác. Nhân vật tiêu biểu cho loại người sau là Nhạc Bất Quần, chưởng môn của phái Hoa Sơn, sau lên làm “minh chủ” của 5 phái “hợp nhất” gọi là Ngũ Nhạc kiếm Phái gồm Hoa Sơn, Hành Sơn, Tung Sơn, Thái Sơn và Hằng Sơn.

Nhân vật Nhạc Bất Quần được Kim Dung dùng để ám chỉ Tưởng Giới Thạch, sau khi “quốc phụ” sáng lập là Tôn Dật Tiên chết, thì trở thành lãnh tụ số 1 của Trung Hoa Dân Quốc và Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

Kim Dung dùng lối chơi chữ ở đây. Không để ý thì không thấy. Nhạc, theo chữ Hán, là hòn núi lớn gồm chữ “khâu” là gò và “sơn” là núi. Cả 3 chữ “nhạc”, “khâu” và “sơn” đều chỉ những khối lớn do đá cấu tạo nên. Mà đá tức là “thạch” – Tưởng Giới Thạch!

Dưới ngòi bút có phần cố ý …“bôi bác” của Kim Dung, Nhạc Bất Quần có bề ngoài khả kính của một lãnh tụ võ lâm mang ngoại hiệu Quân Tử Kiếm nhưng thực chất là Nguỵ Quân Tử hay Quân Tử giả hiệu.

Tưởng Giới Thạch còn có tên là Tưởng Trung Chánh hàm ý thành tín ngay thẳng, không những chính thức theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên – Dân Tộc độc lập, Dân Quyền tự do, Dân Sinh hạnh phúc – mà còn luôn luôn đề cao Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ nhưng, theo Kim Dung, thật sự là người theo chủ nghĩa quyền uy, một nhà độc tài hữu phái đứng đầu một chính quyền ung thối vì tham nhũng.

Giống như Nhạc Bất Quần lớn tiếng tố cáo, miệt thị Ma Giáo, Tưởng Giới Thạch kết án Cộng Sản tà nguỵ, bất nhân nhưng bên trong Tưởng hành động còn tà nguỵ, bất nhân hơn hay cũng chẳng kém. (Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung còn nghiêng về Nhậm Ngã Hành tức Mao Trạch Đông, hàm ý Mao vẫn đỡ tệ hại hơn Tưởng. Chi trong Lộc Đỉnh Ký, qua nhân vật Giáo chủ Hồng An Thông Kim Dung mới xem Mao, Tưởng đều đáng ghét như nhau).

THÔNG ĐIỆP CHÍNH TRỊ CỦA KIM DUNG.

Trở lại những ẩn số chính trị mà ông Huy tìm thấy, những ẩn số quan trọng nhất có lẽ là những thông điệp mà Kim Dung đã kín đáo gửi đến cho đồng bào Trung Hoa của ông. Những thông điệp này cũng có thể trở thành những điều đáng suy ngẫm cho những người hoạt động chính trị hay tranh đấu chính trị nói chung ở bất cứ nước nào – Trung Hoa, Việt Nam, Miến Điện, Mỹ, Nhật, Âu, Phi….Chẳng hạn như:

  1. Chính nghĩa dựa trên đạo lý thường chỉ là nhận thức chủ quan, dễ dàng đưa đến sự thiên vị. Đoàn thể nào cũng xem đạo lý của mình là đúng, là chính còn đạo lý của đoàn thể khác là sai, là tà. Đấy là chưa kể “nói một đằng, làm một nẻo”.
  2. Trong mọi đoàn thể đều có người tốt, người xấu chứ không phải người của chính phái nhất định là tốt, người của tà phái nhất định là xấu. Ma Giáo có thể có người tử tế như Hướng Vấn Thiên, Khúc Dương Trưởng Lão, danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang có thể có đệ tử đồi bại như Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư. Hệ quả này là người ta phải có tinh thần cởi mở và khoan dung đối với nhau. Nên cởi mở và khoan dung như Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ.
  3.  Mô tả quá trình các nhân vật đạt đến vị trí tối cao như lãnh tụ, như minh chủ nguyên tắc của Đạo Đức Kinh được thực thi là “tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi” (biết đủ thì không bị nhục, biết dừng lại đúng lúc thì không bị nguy) và nguyên tắc “bất tranh” (không tranh dành cho bằng được). Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần tàn phế, tử vong, thân bại danh liệt vì quá tham lam, ham hố. Mưu thâm thì hoạ cũng thâm !
  4. Trong đoạn cuối của Tiếu Ngạo Giang Hồ, giáo chủ Triêu Dương Thần Giáo ngỏ lời gả con gái là Nhậm Doanh Doanh cho Lệnh Hồ Xung và mời Lệnh Hồ Xung làm Phó Giáo Chủ. Mặc dù yêu Nhậm Doanh Doanh tha thiết, Lệnh Hồ Xung khước từ và bỏ đi. Điều này có nghĩa:  Riêng tại các nước có sự phân tranh Quốc-Cộng như trường hợp Trung Hoa (cũng như Cao Ly, Cuba, Việt Nam) sẽ không có, không thể có, hoà giải, hoà hợp dân tộc thực sự nếu các đảng Cộng Sản đang nắm quyền lực tiếp tục chủ trương độc tài, độc đảng, độc tôn phi lý. Các đảng Cộng Sản này phải đi bước trước là thực hiện sự cải cách thực sự.

***

Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cho đến tận ngày nay có đến hằng trăm triệu độc giả ở Trung Hoa, Đài Loan, Đông Nam Á, Bắc Mỹ, Âu Châu …say mê nghiền ngẫm truyện Võ Hiệp Kim Dung, có hàng trăm tác giả viết sách, báo bình luận về tư tưởng, cuộc đời của Kim Dung, thậm chí xuất hiện cả trường phái “Kim Học”.

Tuy nhiên, không thấy ai nghiêm túc đặt vấn đề “đi tìm các ẩn số chánh trị” trong các tác phẩm của Kim Dung. Hoặc giả có đặt vấn đề thì chỉ “giải quyết” bằng cách đưa ra các khái niệm mơ hồ về chuyện Tả, Hữu, Quốc, Cộng… chứ  không có ai tìm ra được các những “bí mật” ẩn tàng một cách rõ ràng, mạch lạc và có hệ thống như ông Nguyễn Ngọc Huy.

Kim Dung đã “qua mặt” được tất cả mọi người nhưng không “qua mặt” được một người – một người Việt Nam!

Phải chăng “dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”?

Cao Tuấn

Cựu học sinh gốc Việt nay trở lại trường làm hiệu trưởng

Báo Nguoi-viet

August 30, 2023

PORTLAND, Oregon (NV) – Trường trung học đệ nhất cấp ở phía Đông Nam Portland vừa chào đón một hiệu trưởng mới cho niên học 2023-24, nhưng chẳng phải là gương mặt xa lạ.

Đối với hiệu trưởng Thái Nguyễn của Kellogg Middle School, đây là dịp trở về mái trường xưa nơi anh đã theo học bao nhiêu năm về trước.

Tân hiệu trưởng Thái Nguyễn của Kellogg Middle School, Portland, Oregon (Hình: Portland Public Schools)

Nhân ngày tựu trường, đài Fox 12 theo chân hiệu trưởng Thái Nguyễn làm phóng sự và phát hình hôm Thứ Tư, 30 Tháng Tám. Vị lãnh đạo nhà trường chỉ cho phóng viên đài Fox xem một trang trong cuốn niên giám cũ có đăng hình chân dung anh năm nào còn mài đũng quần ở ngôi trường này.

Tân hiệu trưởng Thái Nguyễn đích thân đứng ra chào đón học sinh vào niên học mới, cùng đi với các em dọc theo những dãy hành lang quen thuộc ngày trước.

Anh Thái Nguyễn nói luôn luôn ao ước trở về Portland và đây là một cơ hội tuyệt vời. Anh dự định sẽ đón học sinh vào mỗi đầu ngày để làm quen với các em.

Thái Nguyễn tốt nghiệp cử nhân từ đại học University of Portland và cao học giáo dục từ Arizona State University. Anh từng đi dạy học và giữ các chức vụ quản lý học đường trong 13 năm. Trước khi về lại Portland, anh là hiệu trưởng trường Machan School ở Phoenix, tiểu bang Arizona.

Trong tâm thư gửi học sinh trước ngày tựu trường, hiệu trưởng Thái Nguyễn viết: “Tôi tin rằng mỗi em đều có thể trở nên xuất sắc và rằng sự hợp tác giữa gia đình và học đường gầy dựng lòng tự tin nơi các học sinh để dùng năng lực định hình tương lai chính các em và tương lai cộng đồng chúng ta.”

Kellogg Middle School là trường công lập có 682 học sinh từ lớp 6 đến lớp 8, trong đó 27% đang học Anh văn như sinh ngữ thứ hai. Thành phần học sinh có 41% da trắng, 5.8% da đen, 30.2% gốc Châu Mỹ Latin, 11% Á Châu, 1.6% từ các hải đảo Thái Bình Dương, dưới 1% thổ dân Mỹ, và 9.3% chủng tộc khác, theo dữ liệu của OregonLive năm 2022.

Trường Kellogg tọa lạc trên đường SE 69th Avenue, gần khu vực quy tụ đông người Việt Nam sinh sống, làm ăn tại Portland. (TTHN)

Robotaxi được chính thức lưu hành ở San Francisco

Tài xế taxi mai mốt cũng thất nghiệp luôn.

Posted by GLN

SAN FRANCISCO, California (NV) – Sau một thời gian hoạt động thử nghiệm, cuối cùng thì những chiếc taxi không người lái, hay “robotaxi”, cũng đã chính thức được hoạt động ở San Francisco.

Trang mạng tin tức bbc.com cùng nhiều hãng tin lớn đồng loạt đưa tin, vào ngày Thứ Năm 10 Tháng Tám, hai hãng robotaxi là Cruise và Waymo đã được chuẩn thuận để chính thức hoạt động 24/7; và bắt đầu thu phí phục vụ hành khách trên khắp San Francisco.

Trang mạng tin tức bbc.com cùng nhiều hãng tin lớn đồng loạt đưa tin, vào ngày Thứ Năm 10 Tháng Tám, hai hãng robotaxi là Cruise và Waymo đã được chuẩn thuận để chính thức hoạt động 24/7; và bắt đầu thu phí phục vụ hành khách trên khắp San Francisco.

Robotaxi được chính thức lưu hành ở San Francisco. (Hình minh họa: Justin Sullivan/Getty Images)

Ủy Ban Tiện Ích Công Cộng California, cơ quan quản lý xe hơi tự lái trong tiểu bang, đã bỏ phiếu 3/1 để chấp nhận cho Waymo và Cruise mở rộng hoạt động từ thử nghiệm sang chính thức có thu phí. Cuộc bỏ phiếu thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của công luận, đã diễn ra sau khoảng sáu giờ tranh luận công khai của hai phía ủng hộ và phản đối robotaxi.

Không phải ai ở San Francisco cũng ủng hộ robotaxi. Những đơn vị phản đối mạnh mẽ nhất chính là cảnh sát và cơ quan cứu hỏa thành phố, bởi vì họ cho rằng robotaxi hoạt động vẫn chưa an toàn. Một số các nhà hoạt động và cư dân cũng tham gia phản đối.

Nhưng đối với các nhà sản xuất xe robotaxi, quyết định này có thể mở ra một kỷ nguyên mới cho dịch vụ xe không người lái.

Waymo là công ty có chung công ty mẹ với Google. Công ty này đã thực hiện thử nghiệm dịch vụ robotaxi miễn phí ở San Francisco kể từ năm ngoái. Waymo gọi quyết định này là bước khởi đầu tuyệt vời cho các hoạt động thương mại thực sự của mình ở San Francisco.

Waymo hiện đang thực hiện hơn 10,000 chuyến robotaxi mỗi tuần ở San Francisco và Phoenix, Arizona.

Cruise là một công ty con của hãng xe hơi khổng lồ General Motors (GM). Đại diện của Cruise dự đoán dịch vụ robotaxi có thể tạo ra doanh thu hàng năm 1 tỷ đô la vào năm 2025. Cruise xem quyết định của giới hữu trách San Francisco là một cột mốc lịch sử của ngành.

Đội xe robotaxi của Cruise hiện đang hoạt động ở Austin, Phoenix cũng như San Francisco, trung bình thực hiện khoảng 1,000 chuyến đi có hành khách vào mỗi đêm. Cruise cho biết đang có kế hoạch bắt đầu cung cấp dịch vụ tại các thành phố Houston và Dallas của Texas.

Dịch vụ xe hơi không người lái đã bắt đầu từ hơn một thập kỷ trước. Nhưng việc đưa vào hoạt động chính thức trên đường phố Hoa Kỳ vẫn tiến triển chậm. Các công ty phát triển xe tự lái bị sa lầy bởi những trục trặc công nghệ, những lo ngại về an toàn, và những vụ tai nạn liên quan đến xe tự lái.

Những người không ủng hộ robotaxi ở San Francisco cũng nêu lên những mối lo ngại về an toàn. Họ cho rằng những chiếc robotaxi thường gây ra trở ngại giao thông do tắt máy đột ngột, cũng như không nhường đường cho xe cảnh sát, cứu hỏa.

Một số nhà hoạt động còn lo ngại rằng việc mở rộng dịch vụ robotaxi sang các thành phố lớn khác có thể dẫn đến việc mất số lượng việc làm đáng kể cho người dân.

From:TRUONG LE

Toa rập lừa đảo chính phủ Mỹ, bị can gốc Việt lãnh án tù 41 tháng, bồi thường trên $3.7 triệu

Báo: nguoi-viet

August 21, 2023

SANTA ANA, California (NV) – Sáng Thứ Hai, 21 Tháng Tám, chủ nhân một cơ sở chuyên khai thuế ở Westminster vừa bị tuyên án tù gần ba năm rưỡi vì dự phần vào một đường dây gian lận tiền bạc cùng một nhân viên Sở Xã Hội, thông cáo từ Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ cho biết.

Anton Nguyễn, 54 tuổi, ở Fountain Valley, ngoài án tù 41 tháng, còn phải bồi thường trên $3.7 triệu, sau khi nhận tội toa rập để lừa đảo chính phủ Hoa Kỳ hôm 10 Tháng Tư, cáo trạng cho hay.

Các bị can mạo nhận danh tánh, khai lấy tiền bồi hoàn thuế và các phúc lợi. (Hình minh họa: Kevin Dietsch/Getty Images)

Anton Nguyễn là chủ nhân của công ty Century Travel & Tax, tọa lạc trên đường Bolsa Ave, thành phố Westminster.

Bị can Anton Nguyễn bị buộc tội hợp tác với John Trần, cũng ở Fountain Valley, từng là nhân viên Sở Xã Hội Quận Cam từ năm 1994 đến 2018. John Trần bị tố cáo đã lấy cắp số an sinh xã hội và các chi tiết cá nhân của những người thọ hưởng phúc lợi xã hội, phần đông là di dân mới đến Hoa Kỳ.

Cáo trạng cho biết, từ Tháng Tám, 2010 đến Tháng Sáu, 2019, John Trần cùng đồng phạm dùng những chi tiết cá nhân đó để mạo nhận danh tánh, khai lấy tiền bồi hoàn thuế và các phúc lợi khác từ chính phủ liên bang, tiểu bang, và quận hạt cùng những nơi khác.

Anton Nguyễn bắt đầu cộng tác với đường dây gian lận này năm 2012 và dùng những chi tiết cá nhân đánh cắp do John Trần cung cấp để tạo ra những mẫu đơn kế toán 1099-MISC giả mạo từ những công ty do John Trần và đồng bọn nắm quyền kiểm soát. Anton Nguyễn cũng tiếp tay lập những công ty như thế để giúp thực hiện mưu đồ.

Sau đó, Anton Nguyễn lập hồ sơ khai thuế liên bang với những chi tiết cá nhân đánh cắp, dùng các mẫu 1099-MISC giả với những con số tự tạo vừa đủ để lấy về tiền thuế, bao gồm tiền cho người có lợi tức thấp EITC và tiền phụ giúp cho người có con nhỏ CTC.

Ngoài ra, tiền lương theo hợp đồng khai trên mẫu đơn 1099-MISC của những người không hề biết danh tánh của họ bị mạo nhận, được dùng để khấu trừ thuế cho những công ty cứ như họ đã làm việc cho những nơi này. Anton Nguyễn nhận tiền từ các công ty đó để giúp khai các mẫu đơn 1099-MISC.

Tổng cộng, John Trần và đồng bọn lập 433 hồ sơ thuế mạo danh những cá nhân bị đánh cắp chi tiết, kiếm được ít nhất $973,153 tiền bồi hoàn thuế từ chính phủ liên bang Hoa Kỳ.

John Trần nhận tội hồi cuối năm 2019 và sẽ bị tuyên án vào ngày 19 Tháng Chín tới đây.

Anton Nguyễn, với sự hợp tác của đồng bọn, lừa đảo chính phủ Mỹ ít nhất $3,773,282 tiền thuế, theo cáo trạng.

Ngoài ra, đường dây gian lận này còn có: Rosemary Phạm, 65 tuổi, ở Midway City, chủ nhân của Victory Tax Service ở Westminster, đã nhận tội và sẽ bị tuyên án ngày 30 Tháng Mười; Kevin Lê, 57 tuổi, ở Anaheim Hills, bị sáu tháng tù, phạt $15,000, và phải bồi thường $2,936,088; Thomas Nguyễn, 62 tuổi, ở Santa Ana, bị phạt $30,000 và phải bồi thường $133,796; Vân Quách, 43 tuổi, ở Monterey Park, chịu án hai năm quản thúc, phạt $5,500, và bồi thường $231,340; Peter Đức Nguyễn, 63 tuổi, ở Garden Grove, cũng bị hai năm quản thúc và phải bồi thường $187,295.

Hai bị can còn lại là Châu Nguyễn, 69 tuổi, ở Garden Grove, và Sophie Thuy Nguyễn, 48 tuổi, ở Westminster, đã nhận tội trốn thuế và sẽ bị tuyên án trong năm nay. (TTHN) 

Một tấm gương phi thường của người lính VNCH – CỰU ĐẠI ÚY THƯƠNG BINH QUÁCH VĨNH TRƯỜNG

Phạm Tín An Ninh

Video- Quách Vĩnh Trường Oral History – (do Viet Diaspora Stories thực hiện):

YouTube player

(Tác giả Hạ Lan Anh và Ông Quách Vĩnh Trường)

Bài viết của Hạ Lan Anh

“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
  Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
  Đã hẳn rằng ai nhục, ai vinh
  Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ”
 (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ)

Cách đây khoảng 8 năm, tình cờ tôi đã có dịp theo chị tôi đến thăm nhà một người anh đã từng làm việc với chị tại Đài Phát Thanh Quân Đội trước 1975. Căn nhà nhỏ, đơn sơ xanh mát với những chậu lan và những bụi hồng đang nở hoa thật xinh xắn.

Bước vào trong nhà, tôi nhìn thấy hai tấm Huân Chương với hàng chữ “Tổ Quốc Tri Ân” có dấu ấn của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa được đóng khung trang trọng giữa phòng khách, và những bức tranh sơn dầu thật đẹp treo trên tường của hoạ sĩ chủ nhà, cựu đại úy Quách Vĩnh Trường, người thương phế binh đã mất đi :

– cánh tay trái
– chân trái
– ngón tay cái của bàn tay mặt
– bể xương gò má
– và bị thủng cả hai màng nhĩ.

NGƯỢC DÒNG THỜI GIAN trở về quá khứ những ngày trên quê hương Việt Nam.

Năm 1965 Cựu Đại úy Quách Vĩnh Trường tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khóa 20.

Năm 1966, trong lúc đang phân công tác tại bộ chi huy ở Gò Công thì bị Việt Cộng quăng lựu đạn vào căn cứ. Khi thấy quả lựu đạn, ông đã hét lớn kêu mọi người nằm xuống rồi CHẠY ĐẾN ĐÁ cho quả lựu đạn văng ra ngoài.

Không ngờ lựu đạn nổ tung, làm cho ông bị thương tật rất nặng NHƯNG ĐÃ CỨU SỐNG được gần 30 đồng đội hiện diện nơi đó. Ông đã phải nằm bịnh viện hơn một năm và không ai tin ông có thể sống sót. Năm ấy ông vừa tròn 26 tuổi !

Ngưỡng mộ chàng thanh niên anh hùng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân đến Tổng Y Viện Cộng Hòa gắn Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu để tưởng thưởng sự hy sinh cao cả của ông.

Khi xuất viện, ông được cho giải ngũ với mức độ tàn phế 170% nhưng ông đã tìm mọi cách để XIN TIẾP TỤC Ở LẠI PHỤC VỤ trong quân đội.

Vì là người đầu tiên xin ở lại sau khi được giải ngũ, ông đã gặp nhiều khó khăn nhưng ông vẫn kiên trì cho đến khi được Thủ Tướng Trần Văn Hương ký giấy chấp thuận.

Ông về làm việc tại đài Phát Thanh Quân Đội với chức vụ Truởng ban nghiên cứu từ năm 1968 đến 1975.

Vừa làm việc vừa ghi danh học tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, ông đã tốt nghiệp THỦ KHOA Luật ngành tư pháp năm 1974.

Trong những năm ở trường Luật, ông quen biết cô Nguyễn thị Bích Kiều, một sinh viên xinh đẹp xuất thân từ một gia đình giàu có tiếng tại Long An. Một lần trong lúc đi xe bus đến trường ông đã bị té, bị thương và cô Bích Kiều TÌNH NGUYỆN giúp đỡ đưa đón ông bằng xe nhà trong suốt năm học cuối của trường luật.

Sau biến cố 30 tháng 4, 1975 ông bị chính quyền Cộng Sản ghép vào tội làm gián điệp và quản chế rất gắt gao. Ông mưu sinh bằng cách lấy bánh mì tại lò rồi đi bán cho cư dân vùng lân cận. Cô Bích Kiều VẪN LUÔN ở bên cạnh giúp đỡ ông.

Năm 1977, bất chấp sự chống đối của gia đình, cô Bích Kiều cương quyết thành hôn với ông và ông bà đã sống hạnh phúc đến ngày hôm nay.

Năm 1982 ông bà hạ sinh một người con trai đặt tên là Quách Vĩnh Tiến.

Năm 1986 gia đình ông bà định cư tại Hoa Kỳ dưới dạng tị nạn chính trị.

Khi đến Mỹ ông ghi danh vào đại học ngành hội họa, học cách phục hồi hình ảnh hư cũ và học Graphic design. Với kiến thức về Photoshop, ông đã đóng góp rất nhiều trong việc phục hồi những bức hình hư hại vì thời gian cho cuốn “Lược Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà” dầy 900 trang của cựu Đại tá Trần Ngọc Thống, cựu Thiếu tá Hồ Đắc Huân và cựu Trung uý Lê Đình Thụy đồng soạn và xuất bản năm 2012. Ông cũng giúp phục hồi hình ảnh, giấy tờ, tài liệu, giúp nhiều cựu quân nhân VNCH hoàn tất hồ sơ HO.

Noi gương cha, sau khi tốt nghiệp cao học ngành Tâm lý học, Quách Vĩnh Tiến con trai đã gia nhập Quân Đội Hoa Kỳ.

Năm 2010 Quách Vĩnh Tiến được bầu chọn là chiến sĩ xuất sắc nhất Tiểu bang California.

Năm 2018 Quách Vĩnh Tiến được báo Quân Đội Hoa Kỳ vinh danh là người phục vụ cho cựu chiến binh Hoa Kỳ xuất sắc nhất.

Quách Vĩnh Tiến lập gia đình với một nữ quân nhân Hoa Kỳ thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến và có một cháu gái.

Năm 2003 bác sĩ cho biết ông Quách Vĩnh Trường bị ung thư ruột.

Năm 2016 bác sĩ lại cho biết ông bị ung thư nhiếp hộ tuyến.

Với ý chí can trường “không đầu hàng nghịch cảnh”, ông đã vượt qua tất cả và ngày nay bác sĩ cho biết ông KHÔNG CÒN dấu hiệu ung thư.

Năm nay ông 83 tuổi. Thuợng đế đã bắt ông sống với một thân thể không lành lặn nhưng ĐÃ BAN cho ông vị thiên thần khả ái Nguyễn thị Bích Kiều, một người bạn học, bạn đời, KHÔNG MÀNG LỢI DANH luôn đi bên cạnh yêu thương và ủng hộ ông.

Năm ngoái khi chúng tôi có dịp ghé thăm ông bà, vẫn với gương mặt hiền lành và giọng nói từ tốn, ông cho chúng tôi xem hình ông chụp cháu nội và nói :

– “ Bé Sydney Vĩnh Quách năm nay mới 4 tuổi nhưng đã nói khi lớn cháu muốn gia nhập Quân Đội như ông nội và bố mẹ”.

Cô bé thường ôm hôn lên cánh tay cụt của ông và nói :

– “Ông ơi, con rất yêu ông, con muốn giống ông, ông là một anh hùng”

Xin gởi đến anh hùng Quách Vĩnh Trường và tất cả các cựu quân nhân của Quân Lực VNCH lời tri ân sâu sắc nhất nhân dịp kỷ niệm ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà 19 tháng 6.

(Chân dung bà Bích Kiều do ông Quách Vĩnh Trường vẽ chỉ với 4 ngón tay của mình. Đây là bức tranh sơn dầu treo trên phòng khách nhà ông !)

Hạ Lan Anh

19-6-2023

Bài trên báo Người Viêt :

Cha và con cựu Đại Úy Quách Vĩnh Trường ‘còn sống là còn phục vụ’

 HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Có những người lính coi trọng bổn phận, trách nhiệm đến độ hy sinh thân thể mình để bảo vệ quê hương vẫn chưa đủ. Cựu Đại Úy Quách Vĩnh Trường là một trong số đó. Ông là người được Hội Đồng Y Khoa Quân Đội VNCH kết luận tàn phế 170% năm 1966, nhưng đến giờ phút này, ông vẫn không ngừng phục vụ non sông.

Tinh thần phục vụ cao độ của ông đã ảnh hưởng đến vợ con ông.

“Chỉ bị cụt một tay hay một chân là bị thương tật 100% rồi,” ông giải thích. Nhưng riêng ông thì “Tôi mất tay trái, chân trái, bị hư phần xương mặt bên phải và hư hai màng nhĩ.”

Lần ấy, vào năm 1966, trong lúc đang phân công tác tại một bộ chỉ huy ở Gò Công, bất thình lình, Việt Cộng nằm vùng quăng lựu đạn vào. Không đắn đo, Trung Úy Trường chạy đến dùng chân trái đá quả lựu đạn ra ngoài. Chẳng may, chân vừa chạm, quả lựu đạn nổ tung, giết chết người y tá đại đội đứng gần đó, đồng thời cướp đi tay trái và chân trái của viên sĩ quan 26 tuổi này.

“Tôi bị hất tung lên rồi ngất đi. Nhưng may mắn, tôi cứu sống được trên dưới 30 anh em binh sĩ hôm ấy,” ông hồi tưởng.

Trước Tết Mậu Thân 1968, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gắn Ðệ Ngũ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương có kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, nhằm tưởng thưởng và cám ơn ông đã hết lòng phục vụ tổ quốc.

Thế nhưng, mất mát tưởng như quá to tát ấy không thể khuất phục được người chiến sĩ QLVNCH.

Ông xin được tiếp tục phục vụ quân đội. Là người đầu tiên xin ở lại quân đội sau khi được xếp vào tình trạng giải ngũ, ông gặp rất nhiều khó khăn. Ban đầu, không ai cứu xét cho ông cả.

Dần dà, ý chí kiên trì và nghị lực siêu phàm của ông đã làm cấp trên phải quan tâm.

Ông kể: “Trước tôi, chưa hề có trường hợp này bao giờ. Tôi phải chật vật lắm mới xin được Thủ Tướng Trần Văn Hương ký quyết định cho tôi được tiếp tục ở lại phục vụ quân đội.”

Cuối năm 1968, nhờ quyết định đặc biệt này, ông được Trung Tướng Trần Văn Trung nhận về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị và được Thiếu Tá Phạm Hậu đón nhận về phục vụ cho Ðài Tiếng Nói Quân Ðội.

Mất nước, cũng như bao nhiêu cựu chiến binh, gia đình ông lâm vào cảnh cùng kiệt.

Được chính phủ Mỹ bảo lãnh với tư cách tị nạn chính trị năm 1986, trước khi có chính sách H.O., ông cùng vợ và con trai Quách Vĩnh Tiến lên đường làm lại cuộc đời.

Anh Quách Vĩnh Tiến (trái) và Thiếu Tướng Lê Minh Đảo

Vĩnh Tiến, đứa con trai sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu lòng yêu nước, dĩ nhiên, đã tiếp bước chân cha, chọn binh nghiệp làm lẽ sống.

Sau khi tốt nghiệp cao học ngành tâm lý học, anh thực hiện ước muốn từ khi còn nhỏ: Vào quân đội như cha.

Năm 2009, anh là người gốc Việt duy nhất được Bộ Binh Hoa Kỳ phong tặng danh hiệu “Người Lính Xuất Sắc Nhất California,” một danh hiệu đòi hỏi phải vượt qua một cuộc thi đầy khó khăn, phải có kiến thức trong nhiều lãnh vực khác nhau, như thể thao, lịch sử quân đội, sơ cấp cứu, bản đồ địa lý, quy tắc, quân phong, quân kỷ…

Hiện anh đang làm việc tại bệnh viện V.A. Hospital, Long Beach.

Anh Tiến nói: “Tôi muốn sống và phục vụ mọi người để được xứng đáng là con trai của cha tôi.”

“Ngay từ nhỏ, tôi đã được thấm nhuần ý chí cống hiến đời mình cho cộng đồng của ông,” anh nói một cách nhỏ nhẹ. “Tôi ngưỡng mộ tinh thần chiến sĩ QLVNCH của cha tôi.”

Nhìn cha với ánh mắt kính phục, anh nói: “Tôi vô cùng hãnh diện được làm con ông, và tôi muốn cha mẹ tôi hãnh diện vì mình.”

Sau khi có bằng cao học ngành tâm lý, anh đã giúp biết bao người có được cuộc sống ấm no.

Một thí dụ đơn cử là anh giúp một cựu quân nhân từng tham chiến tại Việt Nam. Tinh thần không ổn định vì cuộc chiến, người lính này không nhớ được đơn vị cũ của mình cũng như những thông tin cụ thể để được hưởng trợ cấp của chính phủ.

“Tôi phải mày mò trong những hình ảnh ông còn giữ để truy lục tất cả những gì chính phủ cần để hoàn tất hồ sơ cho ông,” anh Tiến kể. “Nếu gặp người khác thì ông sẽ chỉ là một người vô gia cư thôi.”

Nhờ sự giúp đỡ của anh, đến nay, vị cựu chiến binh ở tuổi gần 80 này đang nhận $3,000 hằng tháng và đang làm chủ một căn nhà.

Ngoài ra, anh luôn chọn những công việc trực tiếp giúp người.

“Hồi 2017, đang có bão Harvey, chúng tôi đến Houston, Texas. Rồi đến bão Irma, chúng tôi đến Florida Keys, Florida. Chỗ nào có thiên tai, hỏa hoạn là chúng tôi đến ngay. Miền Bắc California hay có cháy rừng lớn nên chúng tôi thường có mặt ở đó,” anh Tiến cho thí dụ.

Vẫn nể trọng tinh thần bất khuất của cựu chiến binh QLVNCH, anh Tiến thường tham gia sinh hoạt cộng đồng. Đã có lần anh tham gia diễn hành Tết trong cương vị một quân nhân.

Ngoài ra, anh cũng tham gia những sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng người Việt. Anh từng đóng vai “Sơn” trong vở kịch “Mong Chờ” của ban kịch Quang Minh-Hồng Đào trong DVD Asia 64 “Thế Giới Mùa Lễ Hội.”

Để có những đóng góp đa dạng như vậy, anh Tiến cho rằng tất cả là nhờ cha mẹ mình. Cha anh cho anh tinh thần phục vụ không mệt mỏi. “Mẹ tôi thì không bao giờ ngăn cản ý muốn của tôi dù trong tâm, bà không hề thích tôi đi lính,” anh Tiến nói. “Nhờ đó, tôi mới có thể an tâm mà phục vụ xã hội.”

Mẹ anh, bà Nguyễn Thị Bích Kiều, người nữ luật sư không ngại biết bao gian khổ bên người chồng tật nguyền để cùng nhau sống trọn kiếp người, đã cho anh thêm nghị lực để quên mình.

Mẹ anh, người đồng ý thành vợ ông Trường sau khi ông chỉ còn một tay, một chân, điếc tai, lại đang sống cơ cực dưới ách Cộng Sản đã cho anh niềm tin vào lý tưởng phục vụ.

Bà Kiều nở một nụ cười nhân ái rồi nói: “Còn sống đến hôm nay, gia đình chúng tôi nhờ vào nhau.”

Bà giải thích: “Tôi giúp anh có niềm vui để sống còn, nhưng anh cho tôi tinh thần bất khuất trước mọi nghịch cảnh. Anh thường nói, ‘Còn sống là còn phục vụ.’ Tinh thần phục vụ nhân quần, cháu Tiến học từ ba nó.”

Riêng phần cựu Đại Úy Trường, ông vẫn không quên nhiệm vụ của một chiến sĩ QLVNCH. Ông dùng kỹ năng photoshop để giúp thực hiện những bộ sách như “Lược Sử Quân Lực VNCH” của ông Hồ Ðắc Huân (đồng tác giả) qua những công trình sưu tập và phục hồi những bức hình bị hư nát vì thời gian.

Cựu SVSQ Quách Vĩnh Trường và gia đình gồm vợ, con trai, con dâu,
cùng cháu nội trong ngày hội ngộ Khóa 20 Võ Bị Đà Lạt.
Phía sau là Thiếu Tá Hồ Đắc Huân. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Ngoài ra, ông còn đóng góp tiền bạc và dùng sự quen biết để kêu gọi quyên góp cho các thương phế binh còn sót lại ở Việt Nam. Ông vẫn chưa cho là đủ, ông tâm sự: “Hối tiếc duy nhất của tôi là nguyện vọng đóng góp cho Việt Nam vẫn còn dang dở.”

Không rõ quan niệm về sự đóng góp của anh như thế nào, nhưng từ đời cha đến đời con, gia đình họ Quách đã không ngừng phục vụ xã hội.

Năm 2003, bác sĩ cho biết ông bị ung thư ruột. Năm 2016, bác sĩ lại cho biết ông bị ung thư nhiếp hộ tuyến.

Nhưng với bản tính “phải sống để phục vụ” cố hữu của mình, ông vượt qua tất cả và ngày nay, bác sĩ cho biết ông hoàn toàn không bị ung thư gì nữa.

Có con gái đầu lòng mới tròn ba tháng tuổi, anh Tiến cười vang khi hỏi con anh, sau này có đi lính không. “Tôi không biết cháu sẽ quyết định ra sao về chuyện này, nhưng tôi dám chắc rằng con tôi sẽ là một công dân hữu ích cho xã hội, cho quê hương.”

Gia đình ông Trường hiện sống tại Huntington Beach, California, và rất vui vì thành viên mới nhất, bé Sidney Vĩnh Quách.

Cả gia đình cùng chọn con đường phục vụ xã hội.

Đằng-Giao/Người Việt

April 27, 2018

“Thủ phạm” vụ sát hại thiếu tá Nguyễn Văn Sinh nhận tội

Báo Tiếng Dân

Thành phố Vien, Cộng Hòa Áo

Ngày 12-8-2023

Tự nhận tội

Kính gửi các ông:

– Võ Văn Thưởng, Chủ tịch Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam

– Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc Hội Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam

– Nguyễn Hòa Bình, Chánh án Tòa Án Nhân dân Tối cao Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam

– Lê Minh Trí,Viện trưởng Viện Kiêm sát Nhân dân Tối Cao Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam

– Nguyễn Văn Tùng, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hải phòng.

– Phạm Đức Tuyên, Chánh án Tòa án Nhân dân Thành phố Hải phòng

Tôi là Trần Ngọc Thành, là Công dân Nước Cộng hòa Ba Lan. Hiện nay định cư tại thành phố Viên, Cộng Hòa Áo.

Tôi tự nhận là người đã giết Thiếu tá công an Nguyễn Văn Sinh đêm 14 tháng 7 năm 2007 tại Hải Phòng, do mâu thuẫn cùng nhóm xã hội đen Thành phố trong một thời gian dài không giải quyết được.

Cháu Nguyễn Văn Chưởng hoàn toàn không liên quan đến vụ án, cháu Nguyễn văn Chưởng hoàn toàn vô tội.

Đề nghị quý ông trả tự do ngay cho cháu Nguyễn Văn Chưởng.

Tôi chấp nhận mọi bản án của Nước Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Mọi người đều thừa nhận: Hầu hết các bản án được tuyên tại Việt Nam đều là kết quả của việc tra tấn, bức cung, buộc nghi can phải nhận tội. Rất nhiều người lương thiện tại Việt Nam bị tử hình, bị tù nhiều năm vì hệ thống pháp luật “Trọng cung hơn trọng chứng”. Mọi nhân chứng và vật chứng liên quan đến vụ án có thể bị vất bỏ hoặc ngụy tạo. Lời nhận tội của nghi can là cơ sở để kết tội.

Đã có nhiều người được giải oan, được trả tự do sau nhiều năm khốn khổ trong tù khi thủ phạm tự ra đầu thú. Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn, Hàn Đức Long là những tiền lệ để quý ông trả tự do cho cháu Nguyễn Văn Chưởng.

Tôi không bị quý ông hành hạ, bức cung. Tôi tự nhận tội. Tôi biết hệ thống pháp luật Việt nam xét xử không cần chứng cứ.

Quý ông có thể đề nghị cảnh sát Cộng Hòa Áo bắt tôi và dẫn độ về Việt Nam sau khi cháu Nguyễn Văn Chưởng được trả tự do hoặc ít nhất là ngừng thi hành án và điều tra lại từ đầu.

Những người có liên quan đến vụ án như Thiếu tướng công an Đỗ Hữu Ca và Thướng tá công an Dương Tự Trọng đều đang ở Hải Phòng. Tôi biết rõ họ là ai.

Nếu còn có lương tâm và nhân cách, mong quý ông chấp nhận đề nghị của tôi.

Trân trọng,

Trần Ngọc Thành

(Vì không trực tiếp liên hệ được quý ông có trọng trách, kính nhờ quý anh chị qua mạng xã hội gửi đề nghị của tôi tới quý ông có tên trong thư này. Xin cám ơn).

Khánh kiệt vì những ‘người tình online’

Anh:  chán vì dịch bệnh, bà Elwell Rachel hào hứng tham gia các ứng dụng hẹn hò online, cho đến khi bị “người tình” chưa từng gặp mặt cuỗm gọn 157.000 USD.

“Bức ảnh của anh ấy thật dễ thương. Anh ấy có nhiều sở thích giống tôi và có vẻ là người cởi mở và chân thành”. Rachel, người phụ nữ 50 tuổi đến từ Brownhills, West Midlands, nhớ lại người đàn ông quen qua mạng từ hồi tháng 1.

Covid-19 làm tê liệt nhiều hoạt động thường ngày của người châu Âu, trong đó có cả phụ nữ độc thân như Rachel, một quản lý văn phòng xuất khẩu. Tìm đến mục hẹn hò trên Facebook, ban đầu để “giết thời gian”, Rachel dần bị cuốn sâu.

Gã đàn ông 50 tuổi đẹp mã hằng ngày gửi cho bà nhiều tin nhắn ngọt ngào và hứa hẹn về tương lai. Tất cả những gì Rachel biết được về người này, là sống ở Cannock thị trấn gần đó, cùng con gái và bà quản gia. Nhưng trước lời đề nghị hẹn gặp, hắn nói đầy tiếc nuối: “Anh đang ở nước ngoài, thực hiện dự án kỹ thuật ở Ukraine”.

Sau thời gian ngắt quãng, gã liên lạc với cho bà, nói rằng luật pháp ở vùng đất mới đã thay đổi do đại dịch và giờ phải trả một khoản thuế lớn, trước khi có thể bắt đầu dự án.

“Công việc của anh sẽ dừng lại cho đến khi anh trả đủ”, người đàn ông kể lể với Rachel, không quên thêm thắt rằng đã sử dụng quỹ hưu trí của mình, bán xe hơi và cầm cố các tài sản với các dịch vụ vay lãi nặng. Ông ta thậm chí còn gửi cho bà một bản sao từ kho bạc Ukraine, yêu cầu phải trả thuế 160.000 USD để được tiếp tục làm dự án trong dịch Covid 19 ở đất nước này.

“Tất cả trông rất hợp pháp”, Rachel nghĩ, và đồng ý gửi cho hắn ta 45.000 bảng (khoảng 62.000 USD).

Nhưng mọi việc trở nên căng thẳng. “Người tình” tiếp tục liên lạc với bà nói rằng hai tên “côn đồ” từ công ty cho vay tiền đã đến nhà đòi tiền. Rachel liên tiếp nhận được những bức ảnh, trong đó, hắn bị trói chân tay, nhốt dưới tầng hầm. “Chúng sẽ không thả anh ra nếu anh không trả tiền. Chúng ta không thể gặp nhau nữa rồi”, gã khóc lóc van vỉ qua tin nhắn.

Lần thứ hai, Rachel quyết định gửi tiền để cứu người tình quen qua mạng. “Khi anh ấy nói với tôi rằng cuộc sống của anh ấy đang gặp nguy hiểm và tôi không nghe tin từ anh ấy, tôi nghĩ anh ấy đã bị sát hại. Bạn có thể tưởng tượng cảm giác có trách nhiệm với một người sống hay chết không?”. Nữ nạn nhân nhẹ dạ giải thích khi được hỏi tại sao lại gửi nhiều tiền như vậy cho một người mà bà không biết.

Song vụ lừa đảo không kết thúc ở đó, người đàn ông nói với bà rằng sau khi nhận được tiền họ đã thả anh ta ra, nhưng sẽ không trả lại hộ chiếu cho đến khi nhận tiền lãi. Và đó là lần thứ ba, bà “sa lưới”.

Cuối tháng 3, người đàn ông báo tin sẽ bay trở lại London. Rachel đến sân bay Heathrow để gặp, nhưng chỉ nhận được email từ các quan chức sân bay nói rằng ông ta đã bị bắt.

“Toàn bộ là một trò lừa đảo”, nhân viên hải quan trả lời bà. Bà không tin, cho đến khi bà tìm đến địa chỉ ngôi nhà hắn nói là của mình, để gặp bà quản gia và cô con gái vẫn nghe kể. Nhưng không có người nào như vậy.

“Chính tại thời điểm đó, tôi biết tất cả chỉ là dối trá”, Rachel khóc nghẹn, nhận ra một thực tế tàn khốc. Hơn 157.000 USD, toàn bộ số tiền tiết kiệm cả cuộc đời, đã bị “người tình online” cuỗm sạch. Tài khoản Facebook của người đàn ông, hiện không còn tồn tại.

Tuyệt vọng vì bị lừa tiền, lừa tình, Rachel quyết định công khai “bài học” của mình trên trang cá nhân Facebook. “Hồ sơ hẹn hò trên Facebook dưới đây, tên Stephen Bario Hugo, sinh ngày 18/2/1966, là giả mạo. Tôi đang chia sẻ nó với tất cả các bạn, để bạn có thể chia sẻ nó, như một lời cảnh báo cho những người khác”, Rachel viết, kèm bức ảnh gã người tình. Song chính người đàn ông trong ảnh rất có thể đã bị kẻ lừa đảo ăn cắp danh tính. Không ai biết chính xác hắn là ai.

Bà cũng tìm đến các công ty truyền thông địa phương để kể lại. Ngay khi thông tin được công khai, nhiều người đã chia sẻ những câu chuyện giống hệt Rachel. Họ đều là nạn nhân của bẫy hẹn hò online.

Phát ngôn viên của cảnh sát West Midlands nhận định: “Trường hợp của Rachel là một ví dụ xuất sắc về hành vi lừa đảo lãng mạn và cho thấy những kẻ lừa đảo này ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân nhiều như thế nào”. Vụ án chứa đựng tất cả đặc điểm điển hình của một trò gian lận ái tình. Những trò lừa bịp này chủ yếu xảy ra trên ứng dụng hẹn hò hoặc phương tiện truyền thông xã hội, nơi kẻ lừa đảo sử dụng danh tính giả.

Theo Action Fraud, Trung tâm báo cáo gian lận quốc gia của Vương quốc Anh, loại lừa đảo này thường bắt đầu bằng thủ đoạn tạo tài khoản hoặc hồ sơ giả, trên mạng xã hội hoặc trang web hẹn hò, với mục đích lừa đảo hoặc lạm dụng ai đó. Bọn lừa đảo thường làm mọi cách để thuyết phục nạn nhân rằng giữa họ đang có mối quan hệ thực sự gắn bó, sau đó dụ mọi người gửi tiền cho chúng.

Cơ quan này cũng chỉ ra, tình trạng phong toả, hạn chế hoạt động do Covid- 19 đóng vai trò thúc đẩy những trò lừa bịp này gia tăng. “Khi người ta không tìm được niềm vui đời thực, xã hội ảo là nơi duy nhất có thể bấu víu, tìm sự an ủi. Những kẻ lừa đảo lợi dụng rất tốt yếu tố này”, chuyên gia của Action Fraud phân tích.

Nạn nhân,do đó thường là những phụ nữ có tài sản, hoặc trung tuổi, độc thân, Rachel là một điển hình. Song không loại trừ nam giới. Tháng 2/2020, cảnh sát nước này cũng ghi nhận nạn nhân là của Thomas, người đàn ông 34 tuổi đến từ miền Tây nước Anh.

“Tonia và tôi có nhiều điểm chung đến mức chúng tôi nói chuyện hàng ngày trong suốt 7 tháng. Cô ấy xinh xắn, dễ mến và tốt bụng”, nạn nhân nói về người “bạn gái” quen qua ứng dụng hẹn hò. Họ gắn kết với nhau bởi niềm đam mê du lịch và thú cưng.

Tonia nói với anh rằng cha mẹ cô đã qua đời và cô sống với bà ngoại bị ung thư đang sống ở Mỹ. Cô ta nói phải trả tiền ăn uống và tiền thuốc men đắt tiền nên đã xin tiền Thomas. Đổi lại, cô cho Thomas xem bằng chứng rằng cô sẽ nhận được khoản thừa kế lớn. Nhưng tất cả chỉ là trò giả dối.

“Bây giờ tôi nhìn lại và tôi không thể tin được rằng cô ta có thể lợi dụng tôi dễ dàng như thế nào”. “Tôi đã đóng tài khoản trên mạng xã hội vì không muốn vướng vào một mối quan hệ khác như vậy. Tôi sẽ mất nhiều thời gian để hồi phục và tin tưởng một ai đó trở lại”, Thomas nói, từ chối tiết lộ số tiền đã gửi cho người bạn gái chưa từng gặp mặt.

Katy Worobec, Giám đốc điều hành tội phạm kinh tế tại UK Finance, cho biết: “Những cuộc tình gian lận có thể gây tổn hại về mặt tình cảm và tài chính cho những người mắc phải nó. Sự phổ biến của các ứng dụng hẹn hò đã khiến bọn tội phạm trở thành con mồi của nạn nhân dễ dàng hơn”.

Tại Anh, một cuộc khảo sát cho thấy 27% những người được phỏng vấn sử dụng các trang web hẹn hò từng là mục tiêu của một âm mưu lừa đảo. Số tiền mỗi người bị mất trung bình hơn 400 USD.

Riêng ở Mỹ, năm 2020, Ủy ban Thương mại nước này cũng báo cáo, thiệt hại được thống kê từ loại hình lừa đảo tình ái đạt mức kỷ lục, hơn 304 triệu USD song con số thực tế có thể lớn hơn.

Văn phòng Tình báo Gian lận Quốc gia của Vương quốc Anh cảnh báo, những kẻ lừa đảo phân tích hồ sơ mục tiêu của chúng để thu thập thông tin về lối sống và tình hình tài chính của họ. Cơ quan này cũng khuyên người dùng mạng xã hội và các ứng dụng hẹn hò online, không bao giờ gửi tiền cho người lạ và suy nghĩ nhiều hơn một lần khi công bố thông tin cá nhân. Điều này có thể bị lợi dụng để thao túng người dùng.

Hải Thư (Theo BBC, Dailymail, Birminghammail)

From: Tu-Phung


Theo dating news 

10 dấu hiệu cho biết có thể bạn bị bạn tình lừa đảo qua cuộc hẹn hò trực tuyến

Theo nguyên tắc chung là Bạn càng biết nhiều về người kia thì bạn càng được an toàn hơn trong khi hẹn hò trực tuyến.

1. Hồ sơ của họ trần trụi không cho biết tin tức cá nhân

Một hồ sơ thực tế trống là một báo động  đỏ trong  hẹn hò trực tuyến người đó, hình như không quan tâm đến việc tìm kiếm đối tác  hoặc chỉ là một kẻ lừa đảo.

2. Họ chỉ đăng một vài bức ảnh (Hoặc không đăng gì cả)

Điều này đi đôi với việc không điền vào hồ sơ. Cẩn thận nếu người đó chỉ có một hoặc hai bức ảnh của họ.

3. Họ mắc nhiều lỗi ngữ pháp và chính tả

Không phải tất cả chúng ta đều là những nhà báo được đào tạo và những sai lầm chắc chắn sẽ xảy ra. Nhưng quá nhiều lỗi sơ đẳng có thể cho biết người kia  là một kẻ lạ và có thể không có nền giáo dục căn bản.

4. Họ hỏi rất nhiều câu hỏi cá nhân nhưng tránh câu hỏi của bạn

Phần đầu tiên của hẹn hò trực tuyến là tìm hiểu về những người phù hợp với bạn, vì vậy bạn sẽ trả lời rất nhiều câu hỏi từ họ. Bạn cũng sẽ tự đặt ra nhiều câu hỏi.

5. Ngay lập tức họ muốn rời khỏi trang web và chuyển sang email

Mọi trang web và ứng dụng hẹn hò đều có hệ thống nhắn tin cho phép các thành viên giao tiếp riêng tư. Khi người mới muốn rời khỏi trang web sau một tin nhắn và thay vào đó yêu cầu gửi email hoặc nhắn tin, điều đó hơi kỳ lạ. Có thể họ muốn tránh bị báo cáo các hành vi mờ ám cho nhà quản lý mạng chăng?

6. Cuộc sống của họ dường như quá tốt để trở thành sự thật

Có thể nào người kia có tất cả mọi thứ dễ dàng hay chỉ là một kẻ đang gài bẫy?

7. Họ nói với bạn rằng họ yêu bạn từ rất sớm

Điều này thường không xảy ra một cách tự nhiên trong thực tế,  do đó bạn cần tìm hiểu người kia thêm nếu thực sự tình cảm của chàng\nàng ta không cần thời gian và không gian mà nẩy nở được sao?

8. Họ không Skype hay gặp mặt trực tiếp

9. Họ gặp trường hợp khẩn cấp và cần tiền

10. Họ nổi điên khi bạn nghi ngờ động cơ của họ


 

Lời cảm ơn của mẹ tử tù Nguyễn Văn Chưởng

Báo Tiếng Dân

Nguyễn Đức

13-8-2023

Bố mẹ tử tù Nguyễn Văn Chưởng. Ảnh: FB tác giả

Tôi là mẹ tử tù Nguyễn Văn Chưởng, tôi xin chào cộng đồng mạng và bà con cả nước.

Trong mấy ngày qua, mọi người đã giúp đỡ tôi rất nhiều, tôi cảm ơn tất cả bà con cả nước đã yêu thương và tin tưởng con tôi bị oan, con tôi bị cho là giết người trong một vụ án mà Công An Hải Phòng đã chụp lên đầu, con tôi Nguyễn Văn Chưởng không giết người bị xử oan mà không một cơ quan pháp luật nào điều tra để giải oan cho con tôi.

Tôi thấy mọi sự cứ nhắm vào Chưởng, không biết có một thế lực nào to lớn ghê gớm đang lộng hành làm mất lòng tin vào pháp luật của nhân dân.

Tôi đi kêu oan cho con trai Nguyễn Văn Chưởng đã gần 17 năm nay, chỉ mong các ông/bà và cơ quan pháp luật điều tra lại và trả tự do cho Nguyễn Văn Chưởng con tôi. Con tôi bị oan thấu trời như vậy, gia đình tôi đã bỏ thời gian – công sức – tiền của đi kêu oan cho Nguyễn Văn Chưởng. Gia đình tôi không sung sướng gì khi mưa gió, rét mướt, nóng gắt phải ngồi ôm biển kêu oan cho con như vậy.

Tôi làm những điều này chỉ mong các lãnh đạo cấp cao xem xét và điều tra lại vụ án mà con tôi không hề biết, đồng thời cũng để bà con cả nước thấu hiểu và biết đến vụ án từ trên trời này, để chia sẻ cứu giúp một tử tù mang trên người án oan khiên.

Tâm tư của tôi chỉ đơn giản đi kêu oan cho con Nguyễn Văn Chưởng, thế mà một thế lực nào đó đã âm mưu chia rẽ tình cảm của tôi với đất nước với bà con và nói tôi là chống phá nhà nước, phản động chính phủ, bán đứng tổ quốc. Vậy tôi hỏi chính phủ và bà con cả nước tôi chỉ là người dân đen không quyền thế, tiền bạc, tôi lấy gì để chống phá, phản động, bán đứng tổ quốc của tôi, tôi yêu đất nước tổ quốc tôi như yêu chính bản thân mình, như yêu con mắt mình vậy.

Vậy cớ gì cứ phải dồn tôi và con tôi Nguyễn Văn Chưởng phải chịu tiếng oan, án oan như vậy. Tôi mong mọi người nhìn thấu bằng trái tim, nhìn bằng hai mắt, nghe bằng hai tai, chỉ có một cái miệng đừng gây mâu thuẫn, chia rẽ tôi với các ông/bà cơ quan chính phủ và đồng bào cả nước.

Trong mấy ngày qua mà đã không ít các vị lãnh đạo Đảng và Nhà Nước, các đại biểu, các nhà báo, tiến sĩ luật sư và gia đình bà con cả nước đã bỏ thời gian công của giúp tôi và con tôi Nguyễn Văn Chưởng nói lên tiếng nói và nỗi oan này. Vậy tôi xin chân thành cảm ơn tất cả thành ý tốt đẹp của quý vị!

Mẹ tử tù Nguyễn Văn Chưởng

Nguyễn Thị Bích

 

Phim ‘Ba! Con Không Muốn Làm Người Cộng Sản’ và sách ‘Ngày Tháng Buồn Hiu’ gây nhiều xúc động

Báo Nguoi-viet

August 6, 2023

Văn Lan/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV)  Chiều Thứ Bảy, 5 Tháng Tám, Viện Việt Học và Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt đồng tổ chức công chiếu phim tài liệu “Ba! Con Không Muốn Làm Người Cộng Sản,” đồng thời ra mắt sách “Ngày Tháng Buồn Hiu,” tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt, với đông người tham dự.

Giây phút xúc động trong ngày ra mắt sách “Ngày Tháng Buồn Hiu” của Trần Ngọc Ánh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Cuốn phim nói về cuộc đời của bà Trần Ngọc Ánh, người trải qua 11 năm trong ngục tù Cộng Sản sau 1975 vì tội “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” và quyển sách “Ngày Tháng Buồn Hiu,” cũng của tác giả Trần Ngọc Ánh. Cả hai đều kể lại câu chuyện thật đời mình, khi bà Ánh có cha và chị đi theo Cộng Sản. Sau 1975, cha của bà khi đó là một cán bộ, đã ép bà đi theo con đường Cộng Sản mà thời đó mọi người đều lầm lẫn.

Sau những lần xung đột gia đình, bà dứt khoát bỏ nhà và thoát ly để theo chồng, ông Trần Thắng Tài, một quân nhân VNCH, và đã dứt khoát bồng con nhỏ mới 1tuổi theo chồng vào tù.

Bà Trần Ngọc Ánh kể về chuyện những ngày tháng trong tù. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Lần đầu tiên, trong bộ phim, người xem được nghe và thấy những chuyện do chính bà Trần Ngọc Ánh kể lại, oái ăm thay bà lại chính là con gái của một gia đình cán bộ, cha mẹ và các em đều theo Cộng Sản.

Người tham dự cũng được xem triển lãm, từ những hiện vật của ông Trần Thắng Tài, chồng bà Ánh, cùng những trang nhật ký của bà, cùng với hình ảnh của đứa con trai Trần Thắng Vy Dân với căn bệnh đã tàn phá cuộc đời của em từ khi theo mẹ vào tù lúc 1 tuổi!

Từ trái, cô Từ Ái, giáo viên tiểu học De Mille; bà Trần Ngọc Ánh và ông Châu Thụy, giám đốc Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Cuốn phim dài khoảng gần hai giờ đồng hồ, do chính người nữ tù kể lại đời mình, từ một cô gái ngây thơ, cựu học sinh Hoàng Diệu, Sóc Trăng, sống và hít thở không khí miền Nam tự do thanh bình, đến sau ngày 30 Tháng Tư 1975 đầy nghiệt ngã, cả nước chìm đắm trong những đói khổ, bệnh tật, kinh tế bi thảm, đã khiến hàng triệu người Việt phải liều chết tìm đường vượt biển, nhưng bà cùng chồng chọn con đường ở lại chiến đấu cho tự do. Khi chồng bị bắt, bà thà bồng con thơ vào tù, chia sẻ những lao khổ tù đày cùng chồng cho đến khi ông bị tử hình, còn hơn là bị áp đặt một lý tưởng để sống an nhàn trong sự bảo bọc của cha và chị mình.

Cuốn phim này nằm trong dự án lịch sử qua chuyện kể của Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt, ghi lại những câu chuyện sống sót của những nhân chứng, kể lại biết bao nhiêu gian khổ trong lao tù Cộng Sản và trên bước đường đi tìm tự do, để làm chứng tích lịch sử cho hiện tại và mai sau.

Ông Trần Chí Hồng Tiên, đại diện Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt và bà Trần Ngọc Ánh nhận bằng tưởng lục từ TNS Janet Nguyễn, do ông David Nguyễn trao tặng. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Sau buổi chiếu phim, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Người Việt có triển lãm những hiện vật của ông Trần Thắng Tài, cựu quân nhân VNCH, đã dấn thân vào con đường đấu tranh cho tự do dân chủ của tổ quốc Việt Nam cho đến ngày ông hy sinh dưới làn đạn của Cộng Sản, lúc 38 tuổi đời, ngày 14 Tháng Sáu năm 1982 tại Phan Thiết.

Cô Kim Ngân, giám đốc Viện Việt Học, chia sẻ: “Cô Trần Ngọc Ánh là người đơn giản, tính chất rất bình dị, ẩn chứa một ý chí và sự phấn đấu phi thường, tiêu biểu tinh thần của người phụ nữ Việt Nam. Lớn lên dưới chế độ Cộng Sản sau 1975, với những chuyện xảy ra trong gia đình cô cho chính cô và người chồng. Cô đã ở tù Cộng Sản và viết văn, quyển nhật ký của cô đã đi theo con đường của các trại tị nạn, theo các thuyền nhân ra tới hải ngoại, và có những người khi đọc lại tác phẩm ấy đã tìm lại được cô. Và cô tiếp tục viết câu chuyện đã xảy ra, đây là một sự hy sinh rất lớn, khi cô đã can đảm kể lại cho các thế hệ sau được nghe, và rút tỉa kinh nghiệm qua bài học của cô.”

Một số hiện vật dưới đáy mộ ông Trần Thắng Tài, kế bên là cột xử bắn, và ngôi mộ của ông tại Phan Thiết. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Ông Sơn Rotha, hội trưởng Hội Ái Hữu Tương Tế Sóc Trăng tại Hoa Kỳ, cho hay ông rất hãnh diện vì là đồng hương Sóc Trăng và cũng là đồng môn cựu học sinh Hoàng Diệu, Sóc Trăng.

“Tôi đã được đọc cuốn sách này, với nhiều cảm xúc khi một phụ nữ vì lý tưởng tự do dám hy sinh tất cả. Nếu chị chịu nghe theo lời khuyên của cha mình, có thể giờ này chị đã có một chức lớn rồi. Nhưng chị đã từ bỏ hết tất cả để đi theo công cuộc chiến đấu chống lại Cộng Sản. Đây là vị anh thư nước Việt thời hiện đại, tôi rất tự hào.”

Nhóm hiện vật của bà Trần Ngọc Ánh, gồm những tập nhật ký trong tù, để sau này hình thành quyển “Ngày Tháng Buồn Hiu,” trong buổi ra mắt. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

“Những câu chuyện như thế này phải cần thiết lưu truyền bằng mọi phương tiện truyền thông, nếu có thêm bản dịch tiếng Anh càng tốt. Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt đã thực hiện chương trình này thật quý, để cho mọi người hiểu rõ được bản chất của người Cộng Sản Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ sau này hiểu thêm một góc nhìn khác của thời VNCH.”

Không khí như chùng xuống khi cuộn phim vừa khép lại, chấm dứt trong sự thổn thức nghẹn ngào của người xem.

Giấy ra trại của bà Trần Ngọc Ánh, với tội danh “Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Tiếp đến, quyển hồi ký “Ngày Tháng Buồn Hiu” tác giả Trần Ngọc Ánh, được giới thiệu, với bút pháp rất đơn giản nhẹ nhàng nhưng đầy sức mạnh, biểu cảm của một phụ nữ với sức sống mãnh liệt, đứng lên tiếp nối cuộc chiến đấu của người chồng trên đường tìm tự do. Và tất cả tiền bán sách được tặng hết cho Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt, để làm công việc duy trì và bảo tồn những di tích của người Việt tị nạn sau 1975.

Bà Phương Lê, cựu nữ sinh Gia Long, chia sẻ: “Khi nghe cô Ngọc Ánh kể lại cuộc đời, đó là một chứng nhân của lịch sử, rất quan trọng khi đất nước đã đổi chủ sau năm 1975. Cô Ngọc Ánh là người chứng kiến cuộc sống của người Việt ở hai bên giới tuyến của hai miền Nam và Bắc. Cô nói thật chính xác khi miền Bắc xâm lược tấn công vô Nam, cướp lấy vùng đất trù phú giàu có và yên bình, trong khi miền Nam chỉ chiến đấu để bảo vệ quê hương, chứ không bao giờ tấn công ra miền Bắc.”

Tác phẩm “Ngày Tháng Buồn Hiu” sau bao năm trăn trở, nay được đến tay bạn đọc. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

“Tôi khâm phục cô là người dũng cảm khi trả lời trước phiên tòa rằng: Tôi yêu nước, yêu đồng bào tôi, đó không phải là tội!’ Câu trả lời đanh thép trước tòa án rất ít người dám nói và kết quả là án tử của chồng, và con trai phải chịu sống kiếp người không bình thường khi ở tù cùng mẹ. Tôi đã xem phim này hai lần, và đã không kìm được nỗi xúc động vô bờ với cô, người chiến sĩ can trường. Chỉ vì tham vọng của miền Bắc khiến xảy ra chiến tranh, thế rồi phe thắng cuộc với những chính sách trả thù tàn bạo khiến bao gia đình VNCH phải tan cửa nát nhà, tù đày giết chóc, mà trường hợp cô Ngọc Ánh là một điển hình. Những câu chuyện như thế này rất cần lưu truyền cho hậu thế, nhất là giới trẻ để hiểu biết người Cộng Sản là thế nào.”

Toàn thể nhân viên Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt, cùng Viện Việt Học, trong ngày chiếu phim, ra mắt sách “Ngày Tháng Buồn Hiu”. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Trong nhạc phẩm “Sầu Lẽ Bóng,” nhạc sĩ Anh Bằng nói lên tâm trạng của một cô gái đau khổ khi bước vào đường tình yêu, chỉ khác trong trường hợp này, người con gái Trần Ngọc Ánh đã chịu nhiều đau khổ khi bước vào tình yêu đất nước, yêu đồng bào, yêu dân tộc bị mất tự do! Và bà đã nói: “Nếu còn kiếp sau, tôi vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến khi Việt Nam không còn Cộng Sản!” [kn]

PHAN KHÔI-SAO LẠI “TÂM HỒN VONG BẢN”!?- Minh Diện

Nguyễn Hoành

Phan Khôi là một nhân cách lớn, xuất thân từ Nho học rồi bước sang Tây học với nhiều tâm huyết cho nước nhà. Thời xa xưa thơ thì phải đúng vần, đúng luật, phải nói đến tình yêu quê hương, đất nước v.v. Thế nhưng Phan Khôi đã bắn phát súng đầu tiên cho phong trào thơ mới bằng bài “Tình già” trong đó gieo chữ không đúng vần, nói về tình yêu đôi lứa mà là tình vỡ. Trong chương trình văn học phổ thông ở Miền Nam trước đây mở đầu phần Tân văn là bài Tình già, nó đã đi vào văn học sử. Cuộc đời ông bị lên bờ xuống ruộng cũng vì tấm lòng yêu nước nhưng bất hạnh hơn ông có một người con gái xổ toẹt bao nhiêu công sức vì dân vì nước của ông.

Tôi xin trích đăng bài viết của Mình Diện, trích từ Phạm Đức Bảo

Nguyễn Hoành

———————//

SAO LẠI “TÂM HỒN VONG BẢN”!?

Quan tài cha tôi đặt trên chiếc xe song mã màu đen. Đó là loại quan tài xấu nhất được mua phân phối giá hai đồng bảy hào năm xu. Sáu mảnh gỗ tạp, bào qua loa, vênh vẹo đóng đinh qua loa, không sơn phết, tấm thiên, tấm địa và bốn góc đều hở.

Trên nóc quan tài chỉ có ba nén nhang cắm vào quả trứng luộc để trong chén cơm. Không nến, không hoa. Không có một vòng hoa, một bông hoa nào trong đám tang cha tôi. Ngoài con ngựa già kéo xe, chỉ có 10 người đưa đám, kể cả hai nhân viên dịch vụ mai táng và người đánh xe ngựa. Người bạn, người đồng nghiệp duy nhất của cha tôi là nhà thơ Yến Lan, còn lại là người trong gia đình.

Chúng tôi bấu víu vào nhau, đẩy chiếc xe ngựa lăn bánh chậm chạp ra khỏi con hẻm, đi về hướng cửa Đông.

Người hàng phố đứng nhìn đám tang vội vã quay đi. Không ai dám tới dự và đưa cha tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng. Họ đều sợ liên lụy. Lúc cha tôi còn sống họ sợ đã đành, giờ cha tôi đã chết mà họ vẫn sợ.

Chiều mùa Đông gió mưa hun hút, lạnh tê tái.

Chiếc xe ngựa mầu đen và một dúm người mầu đen vón vào nhau líu ríu ra hướng cửa Đông.

Mẹ tôi bảo dừng lại một phút cho cha tôi chào Hà Nội một lần cuối.

Mẹ tôi và chúng tôi thay mặt cha tôi quỳ xuống lạy ba lạy.

Tôi nhớ những ngày mới về tiếp quản Thủ Đô, cha tôi thường dẫn chúng tôi đi thăm năm cửa ô và ba sáu phố phường Hà Nội, kể cho chúng tôi nghe về cụ ngoại tôi, Tổng đốc Hoàng Diệu.

Ông Phan An vừa lom khom chậm rãi bước đi trong con hẻm phố Thuốc Bắc (Hà Nội) vừa kể về đám tang của cha mình, nhà báo, nhà văn Phan Khôi.

Ông cứ nhắc đi nhắc lại, giọng nói như nấc lên:

– Không có đám tang nào ảm đạm như đám tang cha tôi! Không có đám tang nào buồn thảm, thê lương như đám tang cha tôi!

Một lần nữa Phan An lại từ Đà Nẵng ra Hà Nội, tìm về căn nhà số 73 hẻm phố này, nơi cha ông đã sống những ngày cuối cùng.

Ông tìm về quá khứ, tìm về nỗi đau xót mà gần hết cuộc đời vẫn chưa thể nguôi ngoai được.

Cụ Phan Khôi sinh ngày 6/10/1887 tức 20/8 năm Đinh Hợi, ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn, Quảng Nam.

Ông nội cụ là Phan Nhu, thân phụ là Phan Trần đều là bậc trí thức nổi tiếng. Mẹ cụ là Hoàng Thị Lê – con gái của Tổng đốc Hà Nội, Hoàng Diệu, người đã chỉ huy quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Khi Hà Thành thất thủ, ông tự vẫn ở Võ Miếu ngày 25/4/1882, quyết không để rơi vào tay giặc.

Chú ruột Phan Khôi là Phan Dinh – cha của nhà cách mạng Phan Thanh và Phan Bôi, tức Huỳnh Hữu Nam – nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Phan Khôi có người em gái là mẹ vợ cùa nhà văn Vũ Ngọc Phan và tướng Nguyễn Sơn.

Với một gia thế như vậy nên Phan Khôi được học hành tử tế, và với bản chất thông minh nên cụ là một người đa tài, và với tài năng vượt trội, cụ là một người mạnh mẽ, bộc trực không chịu cúi luồn.

Người thầy đầu tiên của Phan Khôi là Trần Quý Cáp. Chính con người thông minh lỗi lạc, ý chí kiên cường nhất huyện Điện Bàn này đã truyền cho Phan Khôi tri thức và lòng yêu nước nồng nàn.

Năm 1906, mười chín tuổi, Phan Khôi tốt nghiệp tú tài, và hai năm sau, 1908 ông phải chứng kiến cái chết chém ngang lưng của thầy mình.

“Lòng căm thù như ngọn lửa đốt cháy trái tim” Phan Khôi quyết nối bước thầy, tham gia phong trào Duy Tân, theo các cụ Phan Chu Chinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng chống thực dân Pháp.

Ông bị bắt giam gần một năm rồi được tha. Ông quyết định dùng ngòi bút và nghề báo để chiến đấu.

Phan Khôi kiến thức uyên bác, hiểu biết vô cùng phong phú, tầm hoạt động rộng lớn, đa phương trong sự biến thiên của lịch sử.

Chưa ai có thể tổng kết được thân thế sự nghiệp Phan Khôi, nhưng theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân:

“Phan Khôi hiện diện trước xã hội, trước cuộc đời này chỉ với tư cách nhà báo; người ta biết ông chủ yếu qua những gì ông viết ra đăng lên báo chí nhưng qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn.

Phan Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề: phê phán Khổng giáo, tiếp nhận tư tưởng Âu Tây, nữ quyền.

Ông cũng là một nhà Hán học và Trung Quốc học am hiểu những vấn để của xã hội Trung Quốc đương thời, ông là một dịch giả, đã dịch Kinh Thánh của đạo Thiên chúa ra tiếng Việt, một nhà Việt ngữ học cả ở phần lý thuyết lẫn thực hành; một nhà văn xuôi với thể hài đàm và một nhà phê bình văn học.

Có thể nói Phan Khôi là người thể hiện rõ nhất và thành công nhất chủ trương duy tân kiểu Phan Chu Trinh vào đời sống, nhưng khác với người tiền bối ấy, Phan Khôi hoàn toàn không thể hiện mình như một chí sĩ, ông sống như một người thường trong đời thường, chỉ hoạt động chuyên nghiệp như một nhà ngôn luận, chỉ tác động đến xã hội bằng ngôn luận.

Phan Khôi thuộc trong số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng trí thức và văn hóa cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng đặt bên cạnh những gương mặt sáng láng như Nguyễn Văn Vĩnh, Pham Quỳnh, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng…

Phan Khôi thường tự thể hiện như kẻ phản biện, và sự phản biện của ông thường đem lại chiều sâu mới cho trí thức!”

Phan Khôi là một trong những nạn nhân của “Cuộc đấu tranh chống Nhân Văn – Giai Phẩm” bắt đầu từ năm 1957. Tuy ông không phải đi tù như Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, nhưng ông đày đọa khổ sở còn hơn tù.

Ngày 16/1/1959, ông đã ra đi vĩnh viễn thoát khỏi sự đọa đày đó.

Năm 2004, trên các báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Tiền Phong, Người Hà Nội, lần lượt đăng bài phỏng vấn nhà thơ Tố Hữu của Nhật Hoa Khanh.

Theo những bài báo đó, năm 1997, tại 76 Phan Đình Phùng, một trong những biệt thự đẹp nhất Hà Nội, của Pháp để lại, trị giá 7 triệu đô la nhà nước cấp cho Tố Hữu, ông ta đã ca ngợi hết lời nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm, trong đó có Phan Khôi.

Tố Hữu nói: “Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Phan Khôi, Trần Dần, Lê Đạt là những trí thức lớn, những cây bút hạng nặng trong đội ngũ trí thức cách mạng!”

Không biết Tố Hữu có nói như vậy thật không?!

Nghe nói khi đã rời quyền lực, Tố Hữu đã sám hối, nhưng bà Vũ Thị Thanh – nguyên Phó Ban Tuyên huấn Trung ương – phu nhân nhà thơ Tố Hữu thì phủ nhận chuyện đó.

Nếu đúng, nó hoàn toàn mâu thuẫn với bốn mươi năm trước, kể từ 1977, khi Tố Hữu còn trẻ, nắm trọng trách công tác tư tưởng, văn hóa, văn nghệ của đảng.

Ngày ấy, Tố Hữu đã “làm bao nhiêu số phận, bao nhiêu cuộc đời bị rạn vỡ, bị lưu đày” (Phùng Cung).

Lời Tố Hữu kết tội Trần Đức Thảo, Phan Khôi và nhóm “Nhân văn-Giai phẩm” sau đây là sự thực, dẫu ma quỷ cũng không thể chối.

Tố Hữu đã viết: “Lật bộ áo “Nhân Văn – Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, Trotkit, địa chủ, tư sản… quần tụ trong những tổ quỷ với gái điếm, bàn đèn, sách báo phản động, đồi trụy và phim ảnh khiêu dâm…” (Qua cuộc đấu tranh chống nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm”, tác giả Tố Hữu, Nhà xuất bản Văn Hóa, 1958, trang 9)

Ngoài ra, Tố Hữu còn viết: “Trong cái công ty phản động “Nhân Văn – Giai Phẩm” ấy, thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”, từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An; từ bọn Trotkit Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt.

Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ, tư sản phản động cố giữ lập trường của giai cấp mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ!” (Trang 17sđd)

Theo chỉ đạo của “Anh Lành” bọn cơ hội nhào vào đánh hội đồng nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm” nói chung, Phan Khôi nói riêng.

Phê phán tác phẩm văn học, báo chí chán quay suy diễn, bịa đặt ra đủ thứ chuyện, chà đạp lên cả hương hồn cha mẹ, tổ tiên người ta.

Có những việc đổi trắng, thay đen, khi sự thật lịch sử vẫn còn đang sờ sờ trước mắt.

Phan Khôi với truyền thống yêu nước của gia đình, đã tham gia phong trào chống Pháp từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, từng bị bắt đi tù mà bảo ông làm mật thám cho Pháp thì trời đất nào chứng?

Phan Khôi viết hàng ngàn bài báo phê phán chế độ cũ, cổ vũ sự cách tân, bao nhiêu ruộng vườn quê nhà ông hiến hết cho cách mạng, mà bảo ông cố giữ lập trường giai cấp địa chủ, tư sản?

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Hồ Chủ tịch trọng tài đức của Phan Khôi, trực tiếp viết thư mời ông ra Hà Nội góp sức xây dựng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ.

Phan Khôi đã mang cả gia đình theo cụ Hồ lên chiến khu Việt Bắc, nằm gai nếm mật tham gia kháng chiến suốt mười năm trời. Thế mà khi ông tham gia phong trào “Nhân văn – Giai phẩm”, bị Tố Hữu quy là mật thám thì nhà văn Nguyễn Công Hoan hùa theo, xuyên tạc rằng Phan Khôi cầm đầu tổ chức Việt Nam quốc dân đảng chống phá cách mạng ở Quảng Nam.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan “đáng kính” viết: “Hắn phụ trách chi bộ Việt Nam quốc dân đảng Quảng Nam chống phá cách mạng điên cuồng. Sau đó hắn bèn ra Hà Nội họp với Trung ương đảng bộ Việt Nam quốc dân đảng của hắn, để đề nghị một chương trình chống Chính phủ!”

Nguyễn Công Hoan luôn dùng từ “hắn” để phỉ báng, mạt sát Phan Khôi: “Hắn xin vào yết kiến cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc đó là Bộ trưởng Nội vụ nhưng cụ không tiếp!”.

Năm 1957, Phan Khôi thọ 70 tuổi, Nguyễn Công Hoan làm bài thơ “mừng” (!) người bạn văn chương như sau:

Nhà báo Phan Khôi khốn kiếp ơi!

Thọ mi mi chúc chớ hòng ai,

Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc!

Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài!

Lô-gich trước cam làm kiếp chó,

Nhân văn nay lại hít gì voi!

Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục!

Thêm nhục cơm trời chẳng biết gai!

Có thể nào ngờ đó là thơ của tác giả “Bước đường cùng” và “Kép Tư Bền”?

Quả thật công tác tư tưởng của ông Trường Chinh và công tác tuyên huấn của ôngTố Hữu quá tài tình! Họ đã biến nhà nho Nguyễn Công Hoan thành một kẻ bỗ bã đểu cáng đáng khinh bỉ.

Mà đâu chỉ một mình Nguyễn Công Hoan, cả Đào Vũ, Tế Hanh, Chế Lan Viên đều như vậy.

Phan Khôi hai đời vợ, bà trước tám người con, bỏ mất một, còn 7, bà sau được 3, tổng cộng 10 người con.

Ông có bài thơ tức cảnh gia đình mình như sau:

Hai nhà cộng lại có mười con

Năm gái năm trai nhắm cũng tròn

Gả, cưới tạm yên nguyền một nửa

Sữa răng riêng mũi máu ba hòn

Tự trào thôi hẳn còn chia rẽ

Nhân cách vẫn mong được vẹn tròn

Bé nhất Lang Sa mới ba tuổi

Tên này ghi cái nhục sông non

Năm 1956 sang Trung Quốc dự kỷ niệm 100 năm Lỗ Tấn cùng với Tế Hanh. Phan Khôi đọc cho Tế Hanh nghe, và nói:

“Tôi đặt tên thằng này là Lang Sa, để nhớ cái hận thực dân Pháp!”. Mà ngay trong bài thơ tác giả đã nói rõ ý đó rồi còn gì.

Vậy mà hai năm sau, khi Phan Khôi bị đánh thì Tế Hanh bịa ra chuyện thế này:

“Trong chuyến đi Trung Quốc, Phan Khôi nói với tôi, thằng này sinh ngày 9/3/1945, ngày Nhật đảo chính Pháp, tôi đặt tên nó để cho những người nào vui mừng việc Nhật lật đổ Pháp biết tay. Pháp sẽ trở lại cho coi”.

Và Tế Hanh kết tội Phan Khôi: “Phan Khôi đã đáp lại lòng thù ghét của nhân dân ta đối với thực dân Pháp như thế. Chỉ có một ‘‘tâm hồn vong bản’’ loại Phan Khôi mới mong Pháp quay trở lại!”.

Chế Lan Viên thì có lần chỉ thẳng tay vào mặt Phan Khôi quát: “Đừng cậy già mà láo!”. Còn Đoàn Giỏi thì vu cho Phan Khôi nói xấu đảng, Bác Hồ vì gọi cây cứt lợn là cây “cộng sản”!

Sự xuyên tạc, vu khống, nhục mạ được cất lên từ miệng những người được coi là hiền lành tử tế như thế mới kinh khủng làm sao!

Ông Phan Lang Sa tâm sự: “Khổ tâm nhất là anh Phan Thao. Anh ấy trong Ban biên tập báo Nhân Dân mà ngày nào cũng phải nghe, phải đọc những lời nhục mạ vu khống cha mình!” Không chịu nổi, Phan Thao phải xin từ nhiệm và Phan Lang Sa phải đổi tên thành Phan An. “Xin cầu lấy sự bình an!”

Cụ Phan Khôi bị đuổi khỏi ngôi nhà 51 Trần Hưng Đạo nơi cụ ở từ năm 1955. Đuổi – tôi dùng đúng nghĩa đen.

Trần Duy kể: Một hôm tôi đến 51 Trần Hưng Đạo thì gặp một quan chức có quyền lực chỉ vào Phan Khôi quát:

– Tống cổ thằng già này ra khỏi đây!

Phan Khôi lảo đảo bước ra cổng. Vợ ông, bà Huệ ôm chăn mền, sách vở. Gặp tôi ông Phan Khôi bảo:

– Thôi, anh về đi. Buồn không cần thiết!”

Gia đình Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, phải dọn về số 10 Nguyễn Thượng Hiền. Rồi lại bị đuổi, phải dọn tới 73 phố Thuốc Bắc.

Bà Bích Thủy – con gái nhà thơ Yến Lan – tả chỗ ở mới của gia đình cụ Phan Khôi như sau:

“Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 5 gia đình khác, kế vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng.

Căn dành cho gia đình cụ là một cái buồng 9 m2, bằng 3/4 căn nhà tôi, có thể đấy là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một hẻm nhỏ, to bằng cái bàn cờ tướng. Tôi thường ngồi cạnh cửa sổ nhà cụ giặt giũ”.

Căn nhà cụ Phan Khôi vắng lặng, xét nét, xa lạ không ai lui tới vì cụ bị coi là cầm đầu nhóm Nhân văn – Giai phẩm.

Cụ vốn gầy yếu, bị hành hạ sức khỏe càng suy sụp. Nhiều lần cụ xin đi khám bệnh nhưng không ai ký giấy cho đi khám đành phải chịu.

Cụ thường ôm ngực ho từng cơn, và chống gậy ra giếng nước công cộng rửa chân lúc xế chiều.

Rồi cái buổi chiều mùa đông rét mướt ngày 16 tháng 1 năm 1959 đó, người chung nhà không nhìn thấy cụ Phan Khôi. Đó là lúc cụ nằm úp mặt vào tường, ho cơn ho cuối cùng, thổ những giọt máu tươi ra quyển sách đang đọc dở trên tay.

Chiếc xe ngựa – chở chiếc quan tài phủ bạt lăn bánh nghiêng ngả ra nghĩa địa Hợp Thiện phía Đông Hà Nội – đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng, chỉ có vợ con cụ và nhà thơ Yến Lan tác giả “Bến Mi Lăng”.

Bà Bích Thủy, con gái nhà thơ Yến Lan kể lại:

“Sáng hôm sau nghe người ta nói, có thằng cha nhà thơ nào đó dám cả gan đưa đám Phan Khôi. Ba tôi bảo đó là đạo lý của người Việt, nghĩa tử là nghĩa tận!”.

Một nấm mồ nông vùi người con Quảng Nam nơi đất Bắc, trên đơn sơ một mảnh ván viết hai chữ Chương Dân.

Năm tháng qua đi nấm mộ ấy chìm trong cỏ dại và xương cốt cụ Phan Khôi phiêu bạt nơi nào không biết nữa.

Vừa qua con cháu cụ đành gói một nắm đất về đặt trong lòng ngôi “mộ gió” ở quê nhà.

Hơn nửa thế kỷ qua, bây giờ người ta đã nhìn nhận, đánh giá một cách công bằng, trả lại danh dự cho những trí thức, nhà văn, nhà thơ trong phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Hầu hết những nhà văn, nhà thơ, và trí thức trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm đã được nhận giải thưởng, nói như nhà thơ Trần Mạnh Hảo, là để tạ lỗi. Nhưng cụ Phan Khôi vẫn bị lãng quên.

Tôi không hiểu đằng sau đó có những lý do gì, mà đồng hương xứ Quảng (ông Tế Hanh ở Quảng Ngãi), cùng tập kết ra Bắc, nhưng “Nhớ con sông quê hương” đến mức nào, nhớ kiểu gì, mà lại cố tình nói điêu, ”nâng quan điểm”, ám hại ông Phan Khôi (Quảng Nam) ”báo cáo cấp trên” quy chụp, bịa chuyện: “Chỉ có một ‘‘tâm hồn vong bản’’ loại Phan Khôi…”.

Nay, người ta thương tiếc, cảm phục Phan Khôi, ít ai nhắc tới Tế Hanh!

Với thân thế và sự nghiệp của cụ, với những tác phẩm báo chí và văn học đã tái xuất bản trong những năm gần đấy, cụ xứng đáng nhận giải thưởng hơn rất nhiều người mà xã hội minh bạch đã ghi nhận.

Minh Diện