Bà Trần Thị Mai, 37 tuổi, được cho biết đã dùng dao mang theo trong túi xách và tự đâm vào ngực mình sau khi đến ĐSQ để làm thủ tục xin cấp giấy thông hành về nước hôm 3/4.
Theo lời thanh tra Mohd Ridzuan Bin Alang của cảnh sát quận Dang Wangi, Kuala Lumpur, hình ảnh từ camera cho thấy sau khi đến đại sứ quán với một người đàn ông được cho là người môi giới, bà Mai đã tỏ ra tức giận với người ở bên trong đại sứ quán và sau đó rút dao tự sát.
“Bởi vì mọi người chạy tán loạn nên tôi chưa thể xác định được bà ấy giận dữ với ai”, thanh tra Ridzuan Alang nói với VOA.
“Bà ấy đến đại sứ quán với người môi giới. Tôi chưa biết người đàn ông này là ai. Hiện tôi đang tìm hiểu xem bà ấy nói gì với người môi giới này trước khi tự sát”.
Cảnh sát Ridzuan Alang cho biết thêm rằng người môi giới hiện đã bỏ trốn và bà Mai có vẻ như đang gặp trục trặc với visa để về nước.
“Bà ấy nổi giận. Bà ấy không về được Việt Nam, tôi nghĩ có thể vì bà ấy gặp trục trặc về visa”.
Ngay sau khi xảy ra vụ việc, Bộ Ngoại giao Việt Nam chiều ngày 3/4 ra thông cáo nói: “Tại nơi làm thủ tục, khi chưa nộp hồ sơ và tiếp xúc với cán bộ lãnh sự, chị Mai có biểu hiện bất bình thường (đập bàn, la hét) và rút dao từ trong túi xách mang theo người và tự gây thương tích. Sự việc diễn ra đột ngột, nhân viên bảo vệ, cán bộ Đại sứ quán và những người có mặt không kịp can thiệp”.
Tại cuộc họp báo diễn ra 2 ngày sau đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết thêm rằng Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao đã có thư chia buồn với gia đình bà Mai và hướng dẫn các thủ tục cần thiết để giải quyết hậu sự.
Malaysia là một trong những điểm đến trong khu vực của nhiều lao động Việt Nam. Rất nhiều người trong số này sang Malaysia theo dạng du lịch, sau đó ở lại để làm việc chui nên thường xuyên phải đối diện với những bất an vì bị cảnh sát truy bắt. Chính vì vậy, khi muốn về nước, họ phải đến Đại sứ quán Việt Nam để làm giấy tờ thông hành.
Một công nhân người nước ngoài làm chui tại một công trường xây dựng ở Kuala Lumpur, Malaysia.
Mặc dù nguyên nhân dẫn đến việc bà Mai tự sát chưa được xác định, nhưng vụ việc đang khiến nhiều người trong cộng đồng Việt Nam bức xúc lên tiếng về những tiêu cực tại các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài.
Nhiều người từng đến làm thủ tục tại đây cho biết họ rất “uất ức” vì những khoản lạm thu phi lý và thái độ tiêu cực của nhân viên Đại sứ quán.
Chị Hương, một người Việt tại Kuala Lumpur, nói với VOA:
“Than thở là đúng rồi. Người Việt Nam mình qua đây rất nhiều. Có cộng đồng Việt Nam ở bên đây là rất mừng. Nhưng ngược lại, [Đại sứ quán] không giúp đỡ gì mà còn cắt cổ, cứa cổ người ta không. Hỏi sao cộng đồng không lên án?”
Một nguồn tin từ Malaysia xác nhận với VOA vào tối 6/4 rằng thi thể của bà Mai đã được đưa về tới Việt Nam sau khi được cộng đồng người Việt quyên góp hỗ trợ các khoản chi phí.
Bà Mai qua đời để lại 3 con nhỏ, trong đó có một bé mới 7 tháng tuổi.
Viet Nam Que Huong Ngao Nghe (Nguyen Duc Quang) BHXNK
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ
Nhạc sĩ : Nguyễn Đức Quang Ban Hợp xướng Ngàn Khơi Video Full HD.
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ Tác Giả: Nguyễn Đức Quang ———————————————————- Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian
Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại Xương da thịt này cha ông ta miệt mài Từng ngày qua Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang Trên bàn chông hát cười đùa vang vang Còn Việt Nam Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng
Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên
* Video Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ Ban Hợp xướng Ngàn Khơi
Một phụ nữ Việt Nam vừa tự sát bằng dao ngay tại Đại sứ quán Việt Nam ở Kuala Lumpur, Malaysia, vào ngày 3/4 sau khi tới đây để làm thủ tục xin cấp giấy thông hành về nước.
Tờ Star dẫn lời đại diện cảnh sát quận Dang Wangi cho biết “Bà ấy đã nổi giận và bắt đầu la mắng nhân viên [Đại sứ quán] trước khi rút dao từ trong túi ra”.
Bà Trần Thị Mai, 37 tuổi, được cho biết đã dùng dao mang theo và tự đâm vào ngực mình. Bà đã được một người Việt có mặt tại hiện trường đưa đến bệnh viện cấp cứu nhưng không qua khỏi.
Chiều 3/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo nói: “Tại nơi làm thủ tục, khi chưa nộp hồ sơ và tiếp xúc với cán bộ lãnh sự, chị Mai có biểu hiện bất bình thường (đập bàn, la hét) và rút dao từ trong túi xách mang theo người và tự gây thương tích. Sự việc diễn ra đột ngột, nhân viên bảo vệ, cán bộ Đại sứ quán và những người có mặt không kịp can thiệp”, theo PLO.
Vụ tự sát xảy ra ngay tại Đại sứ quán đã khiến nhiều người Việt Nam ở nước ngoài PHẪN NỘ. Nhiều ý kiến cho rằng TỆ NẠN LẠM THU VÀ THÁI ĐỘ BÀNG QUANG, VÔ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CÁN BỘ TẠI CÁC ĐẠI SỨ QUÁN VIỆT NAM ĐÃ DẪN ĐẾN NHỮNG UẤT ỨC CỦA NGƯỜI DÂN KHI BUỘC PHẢI ĐẾN LÀM THỦ TỤC.
Xuan Vuong Nghiem, Admin của trang Facebook “Tôi và Sứ quán” chuyên phản ánh những tiêu cực của các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, viết:
“Đây là một minh chứng về việc “con giun xéo mãi cũng oằn”, hãy ĐỪNG KHOANH TAY ĐỨNG NHÌN COI NHƯ KHÔNG PHẢI VIỆC CỦA MÌNH MÀ HÃY SÁT CÁNH BÊN NHAU để đấu tranh dẹp bỏ thói hách dịch, cửa quyền, lạm thu phí lãnh sự một cách tàn nhẫn khi cái giá cao nhất phải trả không còn là tiền bạc nữa mà hôm nay đã là một mạng người”.
Malaysia là một trong những điểm đến trong khu vực của nhiều lao động Việt Nam. Rất nhiều trong số này sang Malaysia theo dạng du lịch, sau đó ở lại để làm việc chui nên thường xuyên phải đối diện với những bất an vì bị cảnh sát truy bắt.
Tháng 7 vừa qua, một đại diện của Đại sứ quán Việt Nam tại Kuala Lumpur xác nhận với báo Tuổi Trẻ về tình trạng cảnh sát Malaysia gia tăng truy quét lao động bất hợp pháp tại đây. Theo lời của cán bộ này, sứ quán Việt Nam không thể kiểm soát được số người Việt làm việc chui tại Malaysia “vì họ đi theo nhiều đường lắm”. Vì cư trú bất hợp pháp nên nhiều lao động Việt Nam khi muốn về nước phải đến Đại sứ quán Việt Nam để làm giấy thông hành.
Nhiều người từng đến làm thủ tục tại đây cho biết họ rất “uất ức” vì những khoản lạm thu phi lý và thái độ tiêu cực của nhân viên Đại sứ quán.
Trong thông cáo chiều 3/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết đã cung cấp trích xuất camera cho cảnh sát Malaysia để phục vụ việc điều tra.
Cơ quan này cũng đề nghị Bộ Công an xác minh thân nhân của bà Mai và hướng dẫn làm thủ tục cần thiết, giải quyết hậu sự.
Tin cho hay bà Trần Thị Mai qua đời ĐỂ LẠI CON NHỎ CHƯA ĐẦY 1 TUỔI.
Tờ Star dẫn lời đại diện cảnh sát quận Dang Wangi cho biết “Bà ấy đã nổi giận và bắt đầu la mắng nhân viên [Đại sứ quán] trước khi rút dao từ trong túi ra”.
Bà Trần Thị Mai, 37 tuổi, được cho biết đã dùng dao mang theo và tự đâm vào ngực mình. Bà đã được một người Việt có mặt tại hiện trường đưa đến bệnh viện cấp cứu nhưng không qua khỏi.
Chiều 3/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo nói: “Tại nơi làm thủ tục, khi chưa nộp hồ sơ và tiếp xúc với cán bộ lãnh sự, chị Mai có biểu hiện bất bình thường (đập bàn, la hét) và rút dao từ trong túi xách mang theo người và tự gây thương tích. Sự việc diễn ra đột ngột, nhân viên bảo vệ, cán bộ Đại sứ quán và những người có mặt không kịp can thiệp”, theo PLO.
Vụ tự sát xảy ra ngay tại Đại sứ quán đã khiến nhiều người Việt Nam ở nước ngoài phẫn nộ. Nhiều ý kiến cho rằng tệ nạn lạm thu và thái độ bàng quang, vô trách nhiệm của các cán bộ tại các đại sứ quán Việt Nam đã dẫn đến những uất ức của người dân khi buộc phải đến làm thủ tục.
Xuan Vuong Nghiem, Admin của trang Facebook “Tôi và Sứ quán” chuyên phản ánh những tiêu cực của các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, viết:
“Đây là một minh chứng về việc “con giun xéo mãi cũng oằn”, hãy đừng khoanh tay đứng nhìn coi như không phải việc của mình mà hãy sát cánh bên nhau để đấu tranh dẹp bỏ thói hách dịch, cửa quyền, lạm thu phí lãnh sự một cách tàn nhẫn khi cái giá cao nhất phải trả không còn là tiền bạc nữa mà hôm nay đã là một mạng người”.
Malaysia là một trong những điểm đến trong khu vực của nhiều lao động Việt Nam. Rất nhiều trong số này sang Malaysia theo dạng du lịch, sau đó ở lại để làm việc chui nên thường xuyên phải đối diện với những bất an vì bị cảnh sát truy bắt.
Tháng 7 vừa qua, một đại diện của Đại sứ quán Việt Nam tại Kuala Lumpur xác nhận với báo Tuổi Trẻ về tình trạng cảnh sát Malaysia gia tăng truy quét lao động bất hợp pháp tại đây. Theo lời của cán bộ này, sứ quán Việt Nam không thể kiểm soát được số người Việt làm việc chui tại Malaysia “vì họ đi theo nhiều đường lắm”.
Vì cư trú bất hợp pháp nên nhiều lao động Việt Nam khi muốn về nước phải đến Đại sứ quán Việt Nam để làm giấy thông hành.
Nhiều người từng đến làm thủ tục tại đây cho biết họ rất “uất ức” vì những khoản lạm thu phi lý và thái độ tiêu cực của nhân viên Đại sứ quán.
Trong thông cáo chiều 3/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết đã cung cấp trích xuất camera cho cảnh sát Malaysia để phục vụ việc điều tra.
Cơ quan này cũng đề nghị Bộ Công an xác minh thân nhân của bà Mai và hướng dẫn làm thủ tục cần thiết, giải quyết hậu sự.
Tin cho hay bà Trần Thị Mai qua đời để lại con nhỏ chưa đầy 1 tuổi.
San Jose – Vào lúc 2 giờ 30 chiều ngày 25/3/2018 vừa qua, nhằm ngày Chúa Nhật Lễ Lá, cựu ĐT và nguyên TT Trần Thiện Khiêm đã được LM Justin Giuse Lê Trung Tướng, cha chính xứ giáo xứ St. Elizabeth, Milpitas, đồng thời là cha Quản hạt, Giáo hạt San Jose, miền Bắc tiểu bang California Hoa Kỳ Rửa tội theo nghi lễ Công Giáo Rôma.
Ông sinh năm 1922, như vậy ở tuổi 96, ông đã chính thức xin gia nhập đạo Công Giáo và lấy tên thánh là Phaolô.
Bí tích Rửa tội đã được cử hành tại phòng khách của một dưỡng đường tại thành phố San Jose, miền Bắc California Hoa Kỳ, nơi ông đang nằm điều dưỡng do bị gẫy xương chân. Ông đã được rước Mình và Máu Thánh Chúa
Theo tin được biết việc xin gia nhập đạo Công Giáo do chính ông quyết định sau khi đã tự nghiên cứu và tìm hiểu từ lâu. Theo lời ông kể, trước đây ông theo Đạo Ông Bà; nhưng gia đình họ hàng của ông đã có rất nhiều người theo đạo Công Giáo, đã có những người làm Linh Mục, Ma Sơ. Và đặc biệt, cũng theo ông, Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng Viện và là vị Phó Tổng Thống sau cùng là người anh bà con của ông.
Nhà nghiên cứu Peter Zinoman phát biểu về sách Bên Thắng Cuộc ở hội thảo vừa qua tại Mỹ
Một trong những thiếu sót lớn trong lĩnh vực Việt Nam Học của khoảng một thế hệ qua là không có một ghi chép đầy đủ hoặc thực sự uy tín về hiện tượng lịch sử Đổi Mới (Renovation trong tiếng Anh).
Dù đây là định hướng chính sách tháo khoán nhờ đảng-nhà nước khởi xướng ở Đại hội Đảng 6 hay tinh thần cải tổ chung trong cả nước cuối thập niên 1980, thì Đổi mới rõ ràng lực đẩy quan trọng trong đời sống trí thức, văn hóa, chính trị, kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, các học giả nước ngoài quan tâm chủ đề này có xu hướng chỉ tập trung hạn hẹp vào một số góc cạnh Đổi Mới mà lại không xem xét toàn bộ hiện tượng.
Khi các sinh viên hỏi tôi tư liệu về Đổi Mới, tôi thường giới thiệu tác phẩm của Adam Fforde về kinh tế, Carlyle Thayer chính trị, Tường Vũ ý thức hệ, Ben Kerkvliet nông nghiệp, Hy Văn Lương văn hóa làng xã, Pam McElwee chính trị môi trường, Nguyễn Võ Thu Hương quan hệ giới, John Schafer văn học…
Nhưng thật khó tìm ra một bài báo, sách, hay một học giả nào cung cấp tổng quan về Đổi Mới – bao gồm lịch sử về nguồn gốc của nó, diễn trình thay đổi theo thời gian, và ảnh hưởng khác nhau lên các lĩnh vực đời sống người Việt.
Cái nhìn toàn cảnh
Một trong những thành tựu của sách Bên Thắng Cuộc (tác giả Huy Đức) là đem lại ghi chép tốt nhất, ở bất kỳ ngôn ngữ nào, về lịch sử và tầm quan trọng của Đổi Mới. Cuốn sách xem xét kỹ lưỡng cuộc khủng hoảng trong nước đã thúc đẩy đòi hỏi xã hội muốn có những cải tổ sâu rộng trong thập niên sau kết thúc Chiến tranh Đông dương lần hai.
Sách kể lại quá trình tiến hành cải tổ theo kiểu “tiến một bước, lùi hai bước”. Sách cũng mô tả các lý do cắt bỏ đột ngột nghị trình cải cách, đặc biệt về văn hóa và chính trị.
Tóm lại, Bên Thắng Cuộc cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh về Đổi mới – giúp khám phá và giải thích những thành công và thất bại của nó.
Bên Thắng Cuộc xác định nguồn gốc Đổi mới là trong khủng hoảng tự tạo ra khiến Việt Nam khó khăn trong giai đoạn hậu chiến 1975-1986. Khủng hoảng này gồm bảy thành tố chủ chốt, được Huy Đức viết trong bảy chương:
Giam cầm không qua xử án hàng trăm ngàn người miền Nam trong các trại cải tạo khắc nghiệt sau chiến tranh
Đảng-Nhà nước đàn áp thành phần tư sản miền Nam, đóng cửa, hoặc quốc hữu hóa doanh nghiệp của họ, tịch thu của cải
Trừng phạt dân số gốc Hoa. Ban đầu chính sách này chỉ là một phần của cuộc tấn công tư sản miền Nam, nhưng sau nó phát động lên thành một phần chiến dịch riêng loại bỏ “gián điệp” ở Việt Nam trong cuộc chiến biên giới chống Trung Quốc
Quân đội Việt Nam tiến vào và chiếm đóng Campuchia từ 1978
Hàng trăm ngàn người chạy trốn qua đường biển, trên bộ vào cuối 1970, đầu 1980, hy vọng thoát khỏi sự cai trị của người cộng sản và định cư ở nước ngoài
Nỗ lực chính thức của chính phủ nhằm chuyển hóa miền Nam thông qua xóa bỏ văn hóa “suy đồi”. Các biện pháp gồm đốt sách, cấm “tác giả phản động”, kiểm soát việc mặc gì, thời trang, kiểu tóc, kiểm duyệt khắt khe về nghệ thuật, ưu tiên cho con em người lao động và cách mạng, phân biệt các gia đình từng làm cho chính thể cũ
Miền Bắc chiến thắng áp đặt hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa kém cỏi lên miền Nam bị đánh bại
Tác giả Huy Đức phát biểu tại buổi thảo luận về sách của ông hôm 24/3
Thẳng thắn
Một trong những điều phi thường về Bên Thắng Cuộc là sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên trong các phần này của sách, nhất là khi ta biết sách là của một nhà báo sống trong nước. Huy Đức mô tả các viên chức cộng sản nói dối thản nhiên và liên tục về thời hạn cải tạo. Ông mô tả các thành viên gia đình được khuyến khích khai báo về người thân. Ông liệt kê điều kiện khổ sở trong các trại, và sự đối xử tệ bạc với gia đình người bị giữ. Ông mô tả làn sóng chống tư sản, chống người Hoa là chiến dịch tham lam của ăn cướp, bóp nặn, cưỡng ép ra đi.
Phần viết về cuộc xâm phạm Campuchia nhấn mạnh sự trớ trêu trong quan hệ lịch sử gần gũi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Pol Pot. Mô tả về làn sóng ra đi sau 1975 bộc lộ vai trò của giới an ninh địa phương thoái hóa khi họ tạo điều kiện và kiếm lời từ đợt chạy trốn. Ông cũng không ngần ngại mô tả việc “Bắc hóa” tai hại trong kinh tế miền Nam, là một chiến dịch xuất phát từ kiêu ngạo, ngu dốt và bám vào ý thức hệ.
Huy Đức trách Lê Duẩn về việc “Bắc hóa” nhưng ông cũng ngụ ý về vai trò Hồ Chí Minh khi đặt cạnh nhau phần nói về chính sách (chương 8) với đoạn về “Con đường của Bác”.
Trong “Con đường của Bác”, Huy Đức mô tả Hồ Chí Minh ủng hộ tập thể hóa kinh tế miền Bắc giai đoạn 1950 – trong đó có cuộc Cải cách Ruộng đất 1953-56 tai tiếng, tấn công tư sản miền Bắc là tiền đề cho tấn công tư sản miền Nam sau 1975.
Ở đây, Huy Đức vượt khỏi cách giải thích ngày càng phổ biến về chính trị cộng sản Việt Nam giai đoạn 1950, 60 xem Lê Duẩn quá khích khác Hồ Chí Minh trung dung (một cách nghĩ được phim tài liệu mới đây của Ken Burns áp dụng).
Huy Đức không phải là cây bút đầu tiên trong nước nhắc đến những phần tiêu cực này trong lịch sử hậu chiến Việt Nam. Nhưng đáng kinh ngạc là cách ông từ bỏ bút pháp quen thuộc của giới cầm bút trong nước (dùng uyển ngữ, nói tránh nói giảm).
Điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ghi chép của Huy Đức về khủng hoảng hậu chiến thật quan trọng không chỉ vì sự bộc trực, không úp mở mà còn vì cách nó giúp giải thích sự xuất hiện của chính sách Đổi mới giữa thập niên 1980.
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGESBên Thắng Cuộc cung cấp chi tiết tiểu sử các lãnh đạo Việt Nam
Giống như phần mô tả về khủng hoảng dẫn tới Đổi mới, phần viết về quá trình cải cách của Huy Đức cũng bao gồm nhiều yếu tố phức tạp.
Tường thuật các thử nghiệm về làm ăn tư nhân không được trên cho phép – thường gọi là phá rào – ở nhiều địa phương cuối 1970, tạo ra tăng trưởng và năng động trái ngược với trì trệ và thiếu hiệu quả của kinh tế xã hội chủ nghĩa
Mô tả các lãnh đạo đảng bắt đầu ủng hộ các thử nghiệm tại Đại hội Đảng lần 6
Tường thuật Việt Nam rút quân khỏi Campuchia nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn giúp Việt Nam mở rộng và củng cố cải tổ kinh tế
Mô tả nỗ lực thành công phần nào trong cuối thập niên 1980 mở rộng tinh thần cải cách kinh tế sang lĩnh vực trí thức và văn hóa, thông qua giải phóng cho truyền thông và giảm kiểm duyệt nghệ thuật
Mô tả thất bại của cố gắng mở rộng tinh thần cải tổ sang chính trị thông qua cổ vũ các hình thức đa nguyên và dân chủ đa đảng
Khủng hoảng 1975-1986 cung cấp bối cảnh rộng lớn cho Đổi mới được mô tả trong sách, ngoài ra, Huy Đức cũng chỉ rõ những yếu tố khác tác động việc áp dụng nghị trình cải cách. Một trong đó là môi trường toàn cầu mới có lợi bất ngờ cho cải cách ở Việt Nam. Môi trường này bao gồm giới lãnh đạo đổi mới ở Trung Quốc và Liên Xô, Bức tường Berlin sụp đổ, các đồng minh xã hội chủ nghĩa ngừng viện trợ, các tổ chức đa phương và phi chính phủ sẵn sàng giúp đỡ, và môi trường ngoại giao thay đổi trong Asean, EU và Mỹ.
Truyền thống đổi mới
Một yếu tố nữa là lịch sử lâu dài từ trước của cải cách kinh tế, hoạt động kinh doanh trong dân, đã đem lại truyền thống để từ đó Đổi mới phát triển.
Huy Đức mô tả các thử nghiệm quan trọng của Kim Ngọc với chủ trương “khoán hộ” ở Vĩnh Phú thập niên 1960, việc phá rào ở Long An của Bùi Văn Giao, Bí thư Tỉnh ủy Long An Nguyễn Văn Chính những năm 1970. Ở chương 16, ông kể thêm về sự nghiệp các doanh nhân thành đạt như Bạch Thái Bưởi giai đoạn thực dân, sự bền gan của thương nhân tơ lụa Trịnh Văn Bô trong Chiến tranh Đông dương lần một và những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Những ví dụ này báo trước sự lớn dậy tự phát của doanh nghiệp nhỏ thành công ở miền Nam trước thời Đổi mới, như vá ép áo mưa rách, bơm mực ruột bút bi, tái chế dép nhựa cũ, nấu xà bông. Số liệu ở đây cân đối thú vị với phần về bối cảnh toàn cầu để chứng tỏ năng lượng đổi mới cũng được dựng xây từ nền tảng trong nước trước đó. Nó cũng gợi ý rằng phát triển kinh tế thị trường giai đoạn 1980 có cả việc học lại tư duy đã lãng quên chứ không phải là phát triển những thói quen này từ điểm số không.
Theo Huy Đức, một yếu tố nữa định hình và khuyến khích cải tổ là việc giới trí thức Việt Nam tiếp xúc với các phiên bản quá khích của xã hội cộng sản châu Á từ giữa tới cuối 1970.
Ví dụ, ông cho rằng sau khi Nguyên Ngọc quan sát Campuchia thời hậu Khmer Đỏ bị tàn phá, ông đã đặt câu hỏi căn bản về tính chất của các hệ thống cộng sản: “Tại sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hóa và những cánh đồng chết?”
Hay cái nhìn tiêu cực về chủ nghĩa cộng sản của nhà báo đổi mới Kim Hạnh là do sau khi dự “Liên hoan Thanh niên, Sinh viên” tại Bình Nhưỡng trở về năm 1989, bà thấy Bắc Hàn “như một thứ trại tập trung có quy mô toàn quốc”.
Huy Đức cũng viết những người miền Bắc chứng kiến sự phồn thịnh vật chất của các đô thị miền Nam sau 1975 đã đặt câu hỏi về tuyên truyền nhà nước xoay quanh đời sống miền Nam. Sự say mê của người Bắc về tủ lạnh, xe máy khiến họ quan tâm đến cách làm của kinh tế tư bản miền Nam. Sự tiếp xúc với miền Nam đã “đánh thức nhu cầu văn hóa của người dân miền Bắc”.
Khán giả đặt câu hỏi về cuốn sách Bên Thắng Cuộc
Mới lạ
Với tôi, một phần bất ngờ khi đọc Huy Đức kể về sự trổi dậy của cải cách là vai trò của sinh viên đại học. Trong chương về Đa nguyên, ông kể lại lịch sử hoạt động sinh viên mà ít người biết trong thập niên 1980, khá giống với phong trào sinh viên chống độc đoán lúc đó ở Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Cuối cùng, cách Huy Đức giải thích về sự xuất hiện của Đổi mới tỏ ra chú ý khác lạ về các vai trò phức tạp của nhóm chóp bu trong Đảng. Điều này trái ngược với hầu hết ghi chép về Đổi mới ở phương Tây. Do thiếu dữ liệu về nguồn gốc gia đình, lịch sử nghề nghiệp, tính cách, xu hướng chính trị, triết lý, kết nối xã hội của các thành viên Bộ chính trị, các nghiên cứu cũ thường đặt các lãnh đạo cộng sản vào các nhóm thô sơ mang tính chất cố định, nhị nguyên.
Họ mô tả quan hệ chính trị ở Việt Nam cộng sản là cuộc đấu tranh nhị nguyên giữa các đại biểu của phe “bắc và nam”, “quốc gia, quốc tế”, “thân Trung, thân Liên Xô”, “ủng hộ cải cách, chống cải cách”. Sự trái ngược của Bên Thắng Cuộc thật kinh ngạc.
Cuốn sách mô tả thật chi tiết về tính cách, tiểu sử nhiều lãnh đạo cộng sản như Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng, Phan Văn Khải, Nguyễn Phú Trọng.
Một chương 15 hấp dẫn chỉ nói về các cuộc đấu tranh liên quan đời tư, sự nghiệp và chính trị của Võ Nguyên Giáp.
Chương 14 thì so sánh hệ thống về sự nghiệp, gia đình, phong thái của Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Chương 18 lại tìm hiểu quan hệ và cạnh tranh giữa Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Dữ liệu tiểu sử tập thể này cung cấp một phần quan trọng giúp ta hiểu về tiến trình cải tổ vì tính cách và quan hệ đóng vai trò lớn trong hệ thống chính trị khép kín.
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGESTổng thống Mỹ Bill Clinton bắt tay Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu khi thăm Việt Nam năm 2000
Anh hùng rõ rệt trong Bên Thắng Cuộc là nhà cải cách Võ Văn Kiệt, nhưng người ủng hộ bất ngờ Đổi mới lại là Trường Chinh. Ông thay đổi suy nghĩ từ một nhà bảo thủ Marxist-Leninist thành người ủng hộ đổi mới vững chắc là chủ đề chương 10.
Dù đã 80, nhân vật linh động này thành thật nghiên cứu các vấn đề miền Nam và rồi ủng hộ, đề xuất giải pháp đổi mới. Nghiên cứu trước đây xem cải tổ bắt đầu khi Trường Chinh qua đời và Nguyễn Văn Linh lên làm lãnh đạo đảng năm 1986, nhưng Huy Đức ghi nhận đóng góp quyết định của Trường Chinh cho cải tổ.
Mặt khác, một số học giả phương Tây từng xem Nguyễn Văn Linh là thủ lĩnh đổi mới, nhưng ông này, trong sách Huy Đức, là nhân vật dao động và rốt cuộc thành người bảo thủ, đã bỏ lỡ cơ hội thúc đổi mới tiến lên sau tiến bộ ban đầu. Xu hướng hiện nay của Việt Nam – kinh tế thị trường gắn với hệ thống độc đảng không nhân nhượng, lạc hậu – đã củng cố từ thời Nguyễn Văn Linh.
Hạn chế của Đổi Mới
Hạn chế của đổi mới được xem xét trong các chương 12, 13 đánh giá số phận phức tạp của cải cách về tự do trí thức và thúc đẩy dân chủ. Sau khi mô tả sự cởi trói báo chí ngắn ngủi của Nguyễn Văn Linh cuối 1980, chương 12 kể nhiều về sự đàn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm thập niên 1950.
Sự bịt miệng phong trào này dường như tương tự câu chuyện Huy Đức kể về việc Nguyên Ngọc mất chức lãnh đạo tạp chí Văn Nghệ cuối thập niên 1980.
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGESBức tường Berlin sụp đổ ngày 9/11/1989 làm Việt Nam bị sốc
Chương 13 bắt đầu với câu chuyện tích cực về giới thiệu bầu cử dân chủ trong trường đại học, nhưng giọng văn tối dần khi Đảng đối diện sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, và sau đó là sự biến mất đột ngột của chính thể cộng sản Đông Âu. Sau khi ghi lại phản ứng lúng túng, lạc lõng của ban lãnh đạo trước tiến trình dân chủ hóa ở Đông Âu, chương này mô tả thăng trầm của những người cổ vũ dân chủ như chính khách Trần Xuân Bách, nhà báo Bùi Tín, và tướng quân đội Trần Độ.
Trong các chương sau đó, những người cải cách rơi vào thế thủ, dính vào bê bối, mâu thuẫn nội bộ, không thể thúc đẩy nghị trình bên ngoài kinh tế. Đánh giá thấp của Huy Đức dành cho những lãnh đạo sau này như Lê Khả Phiêu và Nguyễn Tấn Dũng mang lại không khí bi quan trong các chương cuối. Sau hứa hẹn của cuối thập niên 1980, cải cách tại Việt Nam đã kẹt trong sa lầy của chính trị độc đoán trong nhà nước độc đảng.
Kiến thức từ bên trong ít người sánh bằng của Huy Đức về chính trị cấp cao cho phép ông mô tả các cuộc phiêu lưu cải tổ thời hậu chiến. Cuốn sách nổi trội nhờ chi tiết và sự sâu sắc hơn mọi ghi chép đã có.
Thật đáng tiếc các nhà xuất bản ngoại quốc lại thấy sách quá dài, quá chi tiết nên không muốn cho dịch. Nhưng tôi tin rằng một khi được ra mắt bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, Bên Thắng Cuộc sẽ thay đổi căn bản cách những nhà quan sát Việt Nam ở Tây phương suy nghĩ về giai đoạn quan trọng này trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.
Đây là bài phát biểu trong buổi thảo luận về sách Bên Thắng Cuộc hôm 24/3, tại Hội thảo hàng năm của Hội nghiên cứu châu Á (Association for Asian Studies) ở Washington DC, Mỹ. Đây là hội thảo học thuật lớn nhất về châu Á ở Bắc Mỹ, với hơn 400 nhóm thảo luận các chủ đề, hơn 3.000 người dự.
OMAHA, Neb. — Thành phố Omaha của tiểu bang Nebraska sẽ phải trả $232,000 cho những người chủ của một căn nhà bị phá huỷ gần đường 142nd và Blondo Street.
Hội Đồng Thành Phố Omaha đã bỏ phiếu 4 thuận trên 3 chống để giải quyết cho xong vụ này vào trưa xế Thứ Ba, ngày 20 tháng 3 năm 2018.
Căn nhà ở địa chỉ 2522 N. 142nd St., tại khu dân cư Autumn Heights, bị phá huỷ vào tháng 6 năm 2017. Các nhà điều tra lập biên bản thịt thối, rữa, máu và giồi trong nhà đậu xe sau khi các viên chức Địa Hạt Điện Lực Công Cộng tại Omaha cúp điện.
Các chủ nhà là William Nguyen và người chị Loan Nguyen đã kiện thành phố.
Theo hồ sơ kiện, William Nguyen là một nhân viên điều tra thịt đã giữ một số sản phẩm của ông trong các tủ lạnh lớn. Anh chị em nói rằng họ không thực sự sống tại căn nhà này và rằng họ không biết bị mất điện.
Những chủ nhà nói rằng họ đạt được thỏa thuận với nhà điều tra thành phố, rồi dọn ẹp sạch nhà cửa, nhưng thành phố cũng đã phá huỷ căn nhà của họ.
Trong thư gửi cho Hội Đồng Thành Phố, Phụ Tá Biện Lý Thành Phố William Acosta-Trejo giải thích lý do việc dàn xếp. Ông ấy viết rằng trong khi thành phố và tất cả nhân viên bác bỏ các vụ kiện cáo, thì thành phố nên trả nhiêu tiền hơn để chấm dứt kiện cáo.
Nhân viên cơ quan an toàn giao thông xem xét chiếc xe tự hành của Uber trong vụ tai nạn chết người. (Hình: NTSP)
TEMPE, Arizona (NV) – Cảnh sát nói băng video trên chiếc xe tự hành của Uber đụng chết một phụ nữ tối Chủ Nhật vừa qua cho thấy, nạn nhân bất thình lình bước tới đầu xe, một yếu tố mà các nhà điều tra nhiều phần sẽ tập trung vào, khi họ đánh giá sự vận hành của loại xe này đối với tai nạn chết người.
Đây là tai nạn chết người đầu tiên đối với xe tự hành đang được thử nghiệm tại nhiều thành phố ở Mỹ.
Theo bản tin của Bloomberg, chiếc xe của hãng Uber có video thu hình quay về phía trước, cho thấy nạn nhân đang đi bộ với chiếc xe đạp vào khoảng 10 giờ tối và từ con lươn giữa đường, trong bóng tối, bất ngờ bước vào luồng xe đang chạy.
“Rõ ràng là rất khó để tránh tai nạn này, trong bất cứ trường hợp nào,” bà Sylvia Moir, cảnh sát trưởng thành phố Tempe, Arizona, nơi tai nạn xảy ra, nói với nhật báo The San Francisco Chronicle.
“Tài xế chiếc xe nói rằng nó giống như một ánh chớp, nạn nhân bước ngay trước mặt xe,” bà Moir nói, đề cập đến tài xế ngồi sau tay lái nhưng không điều khiển chiếc xe. “Tài xế chỉ biết tai nạn xảy ra khi nghe âm thanh của sự va chạm.”
Đánh giá của bà cảnh sát trưởng nêu ra một số câu hỏi mới trong cuộc điều tra, có tầm quan trọng đối với tương lai của kỹ nghệ xe tự động đang ngày càng phát triển mạnh.
Công ty Uber Technologies Inc. tạm ngưng tất cả thử nghiệm xe tự hành sau tai nạn này, và các giới chức ở Boston cũng yêu cầu các cuộc thử nghiệm này ở thành phố tạm ngưng.
Hiện còn quá sớm để kết luận dựa theo thông tin có được, ông Brian Walker Smith, một giáo sư luật tại trường đại học University of South Carolina, người đang nghiên cứu sự an toàn của xe tự hành, nói.
“Có thể là hệ thống tự động của Uber không nhận ra người đi bộ, không xác định được đó là một người đi bộ, hoặc không dự đoán được nạn nhân xuất phát từ con lươn giữa đường,” ông Smith nói qua một email. “Tôi không biết những chuyện này xảy ra có quá trễ để mà tránh được không, hoặc làm giảm sự va chạm, hoặc nó có bao giờ xảy ra không, nhưng không thắng kịp hoặc bẻ tay lái qua một bên, rõ ràng là đáng báo động, và cho thấy hệ thống tự động này không bao giờ dự đoán sự va chạm này xảy ra.”
Sau đó cảnh sát nói qua một tuyên bố là họ sẽ để cho biện lý quận hạt quyết định có truy tố tài xế hay không, nhưng không bác bỏ bất cứ thông tin nào do Cảnh Sát Trưởng Moir đưa ra. (Đ.D.)
Ở Mỹ là thiên đường của lớp trẻ, chúng nó được đưa đón như thế này cho hết lớp 12. Sáng rước tận nơi chiều đưa tận chỗ. Lúc tôi còn ở ngoài khu nhà kia chúng nó cũng được đưa đón như thế này. Và trong thời gian học tập thì miễn phí hoàn toàn, chỉ riêng số gia đình có thu nhập trên quy định là phải đóng tiền ăn sáng và trưa cho con em. Nhưng tiền ăn rất là rẻ không đáng là bao hết, kiểu như vừa bán vừa cho ấy mà.
Sống trong một chế độ rất ưu đãi cho con em như thế này thì hỏi cha/mẹ nào mà không muốn? Hoặc hỏi người dân nào mà không muốn sống trong một chế độ có miễn phí hoàn toàn khi họ về già, hoặc lỡ khi họ nghèo khó hoặc khi họ còn là trẻ thơ? Đóng thuế thì đất nước nào cũng có, nhưng được bao nhiêu nước người dân được ưu đãi mọi mặt?
Sống trong một chế độ có đa đảng là điểm lợi cho toàn dân. Sở dĩ những nước có ưu đãi cho dân là nhờ dân lèo lái chính phủ, họ bỏ công sức ra họ đấu tranh hằng ngày mỗi khi mà họ bị mất quyền lợi, để có được những ưu đãi đó bằng cách là phải biểu tình chống đối những gì mà sẽ mang thiệt hại đến cho họ, và họ siêng năng đi bỏ phiếu bầu cho những người lãnh đạo mà họ đặt tin tưởng sẽ mang điểm lợi về cho họ.
Tui thấy có nhiều bài báo bịa chuyện con em ở Mỹ ngủ ngoài đường, thân hình mặc áo quần rách, chân không có giày hoặc dép là chuyện xí xàm. Bịa chuyện để đánh lừa những ai mà có ý định đến Mỹ hoặc mơ được đến Mỹ.