Bác sĩ gốc Việt lừng danh thế giới, ngỏ lời tạ ơn một trường nhỏ từng có lòng tốt đối với người tị nạn

 

Bác sĩ Phạm Sĩ hiện làm việc tại Mayo Clinic ở Minnesota. (Lebanon Valley College News)LEBANON – Ông Phạm Sĩ từng học để trở thành bác sĩ ở Sài Gòn, thì ước mơ bỗng bị tan vỡ bởi cuộc chiến. Câu chuyện lưu lạc của ông đến nước Mỹ đã được nhật báo Lebanon Daily News tường thuật vào đầu tháng Năm, với nội dung như sau.Ông thoát khỏi Việt Nam vào ngày 30 tháng Tư, 1975, ngày Sài Gòn và cả miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản. Ông có mặt trên một chiếc thuyền, bị tách rời khỏi đất nước, bỏ lại những người thân trong gia đình, và chỉ có bộ quần áo trên người.

Bốn mươi năm sau đó, Phạm Sĩ là một bác sĩ giải phẫu tim mạch tài ba hiếm hoi của thế giới, và là nhà nghiên cứu y khoa từng viết hơn 170 bài nghiên cứu và tham gia ca mổ ghép tim và gan cho cựu Thống Đốc Bob Casey của tiểu bang Pennsylvania.

Nhưng theo ông Phạm Sĩ nói, câu chuyện tay trắng làm nên sự nghiệp của ông chỉ có thể xảy ra là nhờ lòng nhân đạo của thị xã Annville và trường đại học nhỏ bé chuyên về khoa học và nghệ thuật tại thung lũng Lebanon này, được tỏ bày dành cho những người tị nạn chiến tranh cách đây hơn bốn thập niên.
Ông Phạm Sĩ kể rằng ông đã lớn lên cảm thấy bất lực trong một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh. Ông ước ao có thể chữa lành những vết thương mà bạn bè ông phải chịu đựng do bom đạn gây ra. Vì vậy ông vào Sài Gòn để học ngành bác sĩ.

Nhưng đến năm 1975, cuộc chiến diễn biến tệ hơn cho phía Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi, quân cộng sản Bắc Việt nhanh chóng xâm nhập và cưỡng chiếm miền Nam. Cha mẹ ông hồi đó sống ở miền Trung, và họ bị kẹt trong sự kiểm soát cộng sản khi cuộc xâm lăng tiến đến gần Sài Gòn.

Ông Phạm Sĩ nói, “Tôi biết chế độ cộng sản là gì và tôi biết dân chủ là gì, vì vậy tôi đã lựa chọn rời khỏi đất nước để rồi thành người tị nạn.”


Bác sĩ giải phẫu tim mạch Phạm Sĩ đang nhận giải thưởng Distinguished Alumnus (Cựu Sinh Viên Xuất Sắc) của trường Lebanon Valley College vào ngày 27 tháng Tư, 2018. (Hình cung cấp cho báo Lebanon Daily News)

Những người tị nạn được đưa tới đảo Guam, nơi họ ở lại cho tới tháng Sáu 1975, khi họ được phép đến trại Fort Indiantown Gap, nơi chứa 15,000 người tị nạn.

Ông nói, “Hồi đó tôi không có gì cả. Tôi chỉ có một bộ quần áo trên người.”
Những người tị nạn không được phép rời khỏi trại Gap, cho đến khi họ có được một người Mỹ bảo trợ, và những người độc thân như ông Sĩ đều nằm cuối danh sách mà sự ưu tiên là dành cho những gia đình. Tuy vậy, đến tháng Tám năm ấy, trường Lebanon Valley College (LVC) tạo một cơ hội cho 12 học sinh tị nạn được ghi danh và có được nơi ăn chốn ở, thông qua sự kết hợp giữa chương trình học bổng Pell Grants, chương trình vừa học vừa làm, một học bổng và một khoản tiền vay nhỏ. Thậm chí trường đại học này còn cung cấp các lớp học tiếng Anh bổ túc cho các sinh viên.

Giáo Sư Hóa Học Danh Dự Owen Moe, thời đó là một giáo sư nghiên cứu tại LVC, đã không lập tức để ý tới Phạm Sĩ. Cho đến khi họ bắt đầu cùng nhau làm việc trên các dự án, ông mới xác định ông Sĩ thuộc hạng sinh viên có thể vươn lên tới hàng đầu trong chức nghiệp.

Ông Moe nói, “Anh ấy có sự quyết tâm, và phải đối phó trước nhiều trở ngại. Anh đã tìm cách vượt qua mọi trở ngại đó.”


Bác sĩ Phạm Sĩ được ngồi cạnh vị Giáo Sư ân nhân Owen Moe (bên trái) và Viện Trưởng Lewis Thanye của trường Lebanon Valley College trong đêm trao giải thưởng 27 tháng Tư, 2018 tại trường này. (Hình cung cấp cho báo Lebanon Daily News)

Ông Phạm Sĩ nói rằng thầy Moe là một người dìu dắt tuyệt vời và là một niềm khích lệ lớn cho ông. Lúc đó ông rất biết ơn vì có cơ hội hoàn tất việc học tại một trường đại học Mỹ, với các giáo sư trực tiếp giảng dạy. Nhưng ít nhất mỗi tuần một lần, ông vẫn thức dậy và nghĩ rằng mình vẫn còn ở Việt Nam. Nơi đó cha mẹ ông đang sống dưới ách cai trị của cộng sản, và không biết ông còn sống hay đã chết.
Phạm Sĩ nói, “Chiến tranh làm cho người ta mau trưởng thành hơn. Đó là một vấn đề sống còn – bạn phải lớn lên, chiến đấu và tìm cách sống sót.”

Ông tốt nghiệp từ trường Lebanon Valley College, sau đó từ trường y khoa, và nhanh chóng vươn lên vượt qua hàng ngũ nghề nghiệp, trở thành trưởng khoa cấy ghép tim, phổi và tim nhân tạo, tại trường y khoa thuộc đại học University of Miami, ngoài những công việc khác. Ông đã công bố hơn 170 bài báo khoa học, giúp thành lập những phương pháp để ngăn chặn sự việc cơ thể tìm cách loại bỏ những bộ phận cấy ghép tim và phổi, và giúp một giải pháp được tiến xa hơn trong việc một phương thay thế phẫu thuật tim hở, theo thông tin do trường LVC cung cấp.

Vào năm 1993, ông là thành viên của một nhóm thực hiện ca cấy ghép gan và tim lần thứ bảy trên thế giới, mà bệnh nhân là cựu thống đốc Robert Casey của Pennsylvania.

Hiện nay ông đang làm việc cho Mayo Clinic tại Minnesota.
Tuy nhiên, những thành tựu mà ông Phạm Sĩ hãnh diện nhất sẽ không xuất hiện trong các cuốn sách lịch sử: đó là cung cấp các ca mổ cần thiết cho di dân, cho những người nghèo cư ngụ trong thành phố, và những người không có khả năng trả tiền giải phẫu.

Chính ở đó, ông Phạm Sĩ cảm thấy như thể đã hoàn thành sứ mạng ban đầu của ông: là sửa chữa những cơ thể bị phá hỏng, giống như những cơ thể mà cuộc chiến Việt Nam đã tìm cách hủy hoại. Ông cũng có cơ hội để chăm sóc các cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam. Trong số đo có một đại tá về hưu, người đã giúp lập một trại tị nạn nơi mà ông Phạm Sĩ từng ở.

Vì ông đam mê giúp đỡ người bệnh, một trong những thách thức chuyên nghiệp lớn nhất của ông là đối phó với thất bại sau một ca mổ có mức rủi ro cao.

Ông nói, “Bạn phải nói chuyện với các người thân trong gia đình, bạn biết đấy, nói cho người thân biết rằng bệnh nhân không thể qua khỏi. Thật khó, rất khó. Bạn phải học cách đối phó với chuyện đó và rồi tiếp tục đi tới. Nếu không, chuyện đó có thể trở nên khó khăn về mặt tâm lý.”

Mấy năm sau khi đến Mỹ, ông Sĩ mới có thể gửi thư cho cha mẹ thông qua một người bạn sống ở Canada. Bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được nối lại vào cuối thập niên 1980, và trong thập niên 1990, ông đưa cha mẹ sang Mỹ để sống với ông trong một thời gian.

Đến lượt ông dẫn con cái về Việt Nam và tới các quốc gia nghèo kém khác, để các con ông có thể hiểu được sự may mắn mà chúng có được ở đất nước Hoa Kỳ này.

Ông đã nhận được giải thưởng cựu sinh viên xuất sắc của LVC, tại một buổi lễ ngày 27 tháng Tư, và ông rất vui khi lãnh thưởng. Thực vậy, ông ghi nhận công lao của cả trường LVC lẫn cộng đồng Annville đã đón tiếp những người tị nạn trắng tay như ông.

Ông nói, “Dân chúng Mỹ rất rộng lượng, giúp đỡ rất nhiều.”
Vị bác sĩ này hy vọng mọi thành công của ông sẽ khích lệ những di dân khác, để họ không bị nản lòng khi theo đuổi ước mơ của họ.
Ông nói, “Mọi sự sẽ tốt đẹp hơn. Thời gian sẽ chữa lành nhiều vết thương.”

Phép lạ nhiệm màu: Sống lại sau khi cha mẹ ký giấy hiến tặng nội tạng

Phép lạ nhiệm màu: Sống lại sau khi cha mẹ ký giấy hiến tặng nội tạng

Em Trenton McKinley sống lại sau khi cha mẹ ký giấy hiến nội tạng. (Hình: ABC 7)

MOBILE, Alabama (NV) – Cha mẹ của một thiếu niên bị thương tích trầm trọng đã ký giấy hiến nội tạng của con họ, khi thấy không còn hy vọng gì, nhưng con trai của họ đột nhiên sống lại.

Bản tin của đài truyền hình KABC 7 cho hay các bác sĩ nói rằng em Trenton McKinley, 13 tuổi, coi như đã chết trong khoảng 15 phút.

Em Trenton cám ơn Thượng Đế về sự sống sót của mình, nói rằng không còn có giải thích nào khác.

Sau khi bé trai 13 tuổi này bị thương tích trầm trọng, cha mẹ em phải có quyết định khó khăn là hiến tặng nội tạng tiếp theo sau nhiều ngày coi như não đã chết.

Bà mẹ em, bà Jennifer Reindl cho đài truyền hình Fox 10 hay rằng, con bà coi như đã chết được 15 phút khi bà đến bệnh viện USA Medical Center ở thành phố Mobile. Các bác sĩ nơi đây cho hay nếu con bà sống lại cũng sẽ trong tình trạng thực vật vì não bị mất dưỡng khí trong thời gian dài.

Em McKinley nay đang dần phục hồi sau ba cuộc giải phẫu não, tập đi, và cũng biết nói giỡn với bà mẹ rằng nay bà không thể nào bắt em rửa chén nữa.

McKinley nói với đài Fox 10 rằng em cảm thấy như ở thiên đàng khi đang mê man bất tỉnh.

“Tôi ở cánh đồng trống với con đường đi thẳng tắp,” em nói  “Không có giải thích nào khác hơn là đây là nhờ Thượng Đế. Ngay cả các bác sĩ cũng phải công nhận như vậy.” (V.Giang)

‘Làng’ Thủ Thiêm giữa lòng Hà Nội – VnExpress

Long Dinh DucFollow

VU HAI TRAN.

30 người dân oan dự án Thủ Thiêm và Trường Thịnh (quận 2 TPHCM) sống và “chiến đấu” giữa lòng Hà Nội để đấu tranh cho quyền lợi của họ trong mấy năm qua. Cám ơn báo VNE đã miêu tả chân thật cuộc sống của họ ở Hà nội, nhưng vẫn chưa hết vể những mảnh đời bi thảm của họ, trong đó có bà Lê Thị The. Mong báo chí tìm hiểu về trường hợp tiêu biểu của bà The, hơn 70 tuổi (chính xác là 75 tuổi), cựu cán bộ binh vận, gia đình đã ở quận 2 từ 1975, nhưng dự án đó đã làm tan tác họ, chồng bà uất ức mà chết, con bà tự tử sau một vụ chống lại một nhóm “thi công” ngay sát đất của gia đình họ. Số ĐT của bà The:01208660818. Hy vọng sẽ có những nhà hảo tâm giúp họ trang trải chi phí thuê trọ, đi lại..khi họ “quyết chiến” ở Thủ Đô.

VNEXPRESS.NET
 

‘Làng’ Thủ Thiêm giữa lòng Hà Nội – VnExpress

12 lần ra Hà Nội, đoàn người ở TP HCM tá túc trong những phòng trọ chật hẹp, hàng ngày đến nhà lãnh đạo, cơ quan chính quyền khiếu kiện.

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Sĩ quan tình báo Vũ Quang Dũng, cánh tay phải của Trung tướng Đường Minh Hưng |

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Sĩ quan tình báo Vũ Quang Dũng, cánh tay phải của Trung tướng Đường Minh Hưng cùng một số thành viên chính phủ cũ của Slovakia có mối liên hệ với mafia
—-
Link vượt tường: Bấm http://bit.ly/2rlhYld > Bấm Go

Sức khỏe tâm lý gia đình – điều phụ huynh Việt cần quan tâm

Sức khỏe tâm lý gia đình – điều phụ huynh Việt cần quan tâm

Nhiều phụ huynh và thanh thiếu niên đến dự hội thảo an toàn gia đình người Việt. (Hình: Thiện Lê/Người Việt

Thiện Lê/Người Việt

HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Nhiều phụ huynh và một số thanh thiếu niên đã đến phòng sinh hoạt sinh viên của đại học cộng đồng Golden West College để tham dự hội thảo an toàn gia đình người Việt vào hôm Thứ Bảy, 28 Tháng Tư.

Diễn giả chính của hội thảo là ông Paul Hoàng, một bác sĩ tâm lý ở Westminster, đã mặc bộ trang phục người “homeless” với mục đích thông điệp của ông sẽ được truyền đạt mạnh mẽ hơn. Ông cho biết trẻ em gốc Việt sinh ra và lớn lên ở Mỹ thường hay bị lẫn lộn văn hóa, rồi nhiều khi còn bị đè nén dẫn đến nhiều bệnh tâm lý.

Ông Paul Hoàng trong trang phục người “homeless”, diễn giả chính của hội thảo an toàn gia đình người Việt. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Ông Paul chia sẻ câu chuyện về cuộc đời mình. Ông cho biết từ lúc ông học lớp 6 cho đến hết trung học, ông từng bị trầm cảm nặng và đã ba lần định tự tử nhưng không thành.

Theo lời ông kể, lần đầu định tự tử, ông biết người chú làm bảo vệ có khẩu súng. Ông lấy súng nhét vào miệng. Nhưng lúc định bóp cò, thì ông nghe có một tiếng kêu ông “dừng lại” khiến ông không dám bóp cò.

Lần thứ hai ông định tự tử nhưng cũng không dám làm, nên ông quyết định mình sẽ không ra tay mà sẽ nhờ người khác giết mình.

Ở lần định tự tử thứ ba, ông kể: “Tôi chạy ra một con đường đông xe vào ban đêm, mặc đồ đen để người ta không thấy rồi nằm ra đường cho xe cán nhưng đợi mãi ba tiếng đồng hồ, không có một chiếc xe nào chạy qua. Đây là một con đường thường có xe chạy nhiều mà không hiểu tại sao không có xe vào đêm đó. Đợi mãi mà tự sát không thành, nên tôi quyết định về nhà ngủ.”

Theo ông, tự sát là một cách chạy trốn, để thoát khỏi những sự khó khăn của cuộc đời. Những người tự sát muốn trách người khác vì sự điên cuồng và “độc hại” của thế giới nên mới tìm cách “giải thoát”. Còn có những người bị bắt nạt, rồi trong lòng mang thù hận, đi giết người khác để trả thù. Giết người để chấm dứt những mối đau thương trong đời.

Câu chuyện của ông Hoàng là mục đích của buổi hội thảo, để cho các gia đình người Việt thấy sự quan trọng của sức khỏe tâm lý. Ông cho rằng mọi người đừng nên gọi các bệnh liên quan đến tâm lý là bệnh tâm thần vì những người bị bệnh này còn được gọi là những người điên. Theo ông, nên gọi bệnh liên quan đến tâm lý của các em là “tâm bệnh” thôi vì đó chỉ là những rối loạn trong tâm lý chứ không phải là bị điên.

Ông khuyên các phụ huynh nên tạo ra một không gian và điều kiện để con cái chia sẻ và trò chuyện với cha mẹ để tránh cảnh các em bị đè nén rồi dẫn đến trầm cảm và nhiều chuyện nguy hiểm hơn.

Bà Suzie Xuyến Đông-Matsuda, một trong những diễn giả của hội thảo. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Ngoài ông Hoàng ra, cũng có một bác sĩ tâm lý khác phát biểu là bà Suzie Xuyến Đông-Matsuda. Bà cũng cho rằng sức khỏe tâm lý rất quan trọng và 95% những trường hợp các thanh thiếu niên bị “tâm bệnh” hoàn toàn có thể đề phòng và ngăn chặn được. Bà khuyên mọi người nên áp dụng kiến thức nghe được hôm nay vì kiến thức mà không dùng thì không được gì hết. Sau bà Suzie là một số phụ huynh và thanh thiếu niên chia sẻ kinh nghiệm của bản thân. Câu chuyện của ai cũng có mục đích cho biết nếu cha mẹ kỳ vọng và bắt ép con cái quá nhiều thì sẽ rất nguy hiểm vì dẫn đến trầm cảm và nhiều “tâm bệnh” khác.

Theo lời của các diễn giả, phụ huynh và các thanh thiếu niên có mặt tại hội thảo, sức khỏe tâm lý trong gia đình là một vấn đề là mà nhiều người Việt ở Hoa Kỳ cần phải biết và cảnh giác các dấu hiệu “tâm bệnh” của con cái trong gia đình. (Thiện Lê)

Thi thể người chết “Made in USA” bị bán đi toàn cầu

 Trịnh Thanh Thủy

Thi thể người chết “Made in USA” bị bán đi toàn cầu

Trịnh Thanh Thủy

Chưa bao giờ nhu cầu cung cấp thi thể người chết cho y học của thế giới lại lên cao như bây giờ. Các công ty và dịch vụ kinh doanh Hoa Kỳ xuất cảng bộ phận cơ thể người chết cho các đại học hay những cơ quan nghiên cứu đã giàu sụ một cách hợp pháp nhờ hệ thống luật pháp lỏng lẻo của Hoa Kỳ. Hàng năm có hàng ngàn bộ phận của người chết hiến tặng ở Mỹ được cưa, xẻ phân phối đi khắp nơi, ít nhất là 45 quốc gia. Đầu, mình và tứ chi con người được bán, cho thuê, hoặc sang nhượng, mặc dù người thân của những người chết đã ký giấy tặng dữ và không bằng lòng việc thi thể người thân họ bị mang đi khắp nơi với mục đích thương mại. Con buôn đã lợi dụng những khe hở luật pháp của Mỹ, đã kiếm lời trên lòng tốt những người có lòng hiến tặng cơ thể mình cho công cuộc học hỏi và nghiên cứu y học của con người.

Khám xét nhà quàn và cơ quan hiến tặng cơ thể Sunset Mesa Funeral Directors.(Photo: Screenshot)

Một trong những doanh nghiệp lớn nhất chuyên môn lo việc này là công ty MedCure có văn phòng chính ở Portland, Oregon. Vào ngày 20 tháng 7, 2017, một chiếc tàu chở hàng gắn cờ Hồng Kông rời Charleston, Nam Carolina, chở hàng ngàn thùng chứa hàng mà trong đó toàn là các bộ phận cơ thể của hàng chục người Mỹ đã chết. Theo bản kê khai, chuyến hàng này được chở đến châu Âu bao gồm khoảng 6 ngàn pound thịt người trị giá 67 ngàn 204 USD. Để giữ hàng hóa không bị hư hỏng, nhiệt độ của thùng chứa được đặt ở mức 5 độ F. Cơ quan môi giới được gọi là MedCure Inc này kiếm lời bằng cách cắt các cơ quan của người hiến tặng để gởi đi cho các trung tâm đào tạo và nghiên cứu y khoa.

MedCure  đã bán hoặc cho thuê khoảng 10 ngàn bộ phận cơ thể và vận chuyển khoảng 20% trong số đó ra ít nhất là  22 quốc gia khác bằng máy bay hoặc xe tải, theo hồ sơ kê khai cho thấy. Trong đó có cả xương chậu, chân và bàn chân cho Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ, Slovenia và các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Ở các quốc gia có luật pháp hay truyền thống tôn giáo nghiên cấm việc xẻ thịt hoặc đụng vào thi thể người chết, họ rất cần các bộ phận của đầu mình và tứ chi cho việc nghiên cứu.  Không một quốc gia nào khác có một ngành công nghiệp có thể cung cấp các bộ phận cơ thể thuận tiện và đáng tin cậy như Hoa Kỳ. Luật pháp Hoa Kỳ bấy lâu không để ý và điều chỉnh việc buôn bán các thi thể hiến tặng, khiến các doanh nhân như MedCure đã phát triển nhanh chóng và mở rộng việc xuất khẩu trong 10 năm qua.

Các chuyến hàng của MedCure hiện đang là mục tiêu của cuộc điều tra Liên Bang. Tháng 11, 2017 Cục Điều Tra Liên Bang đã xông vào trụ sở của Portland để lục soát. MedCure bắt đầu vận chuyển xác người và bộ phận cơ thể ra nước ngoài theo đơn hàng cá nhân, từng cái một và phần lớn là bằng máy bay. Các cựu nhân viên cho biết công ty sau đó đã tính toán rằng nó có thể tăng lợi nhuận bằng cách vận chuyển số lượng lớn các bộ phận cơ thể đến châu Âu và phân phối chúng từ đó. Luật sư Jeffrey Edelson của MedCure đang hợp tác với cuộc điều tra. Ông từ chối bình luận về vụ tấn công của FBI, nhưng ông nói: “MedCure cam kết đáp ứng và vượt qua các tiêu chuẩn cao nhất trong ngành.”

Khi hiến tặng thân thể cho các cuộc ngiên cứu khoa học, người thân hay chính người tặng thường ký giấy thoả thuận việc thân thể bị mổ, xẻ và các bộ phận có thể được đưa ra khỏi nước. Ngoài những người tình nguyện hiến tặng vì mục đích có lợi cho khoa học, sự hiến tặng còn vì lý do thân nhân người chết nghèo không đủ tiền lo tang ma hay có các xác chết vô thừa nhận. Tuy nhiên có những người thân của người hiến tặng rất sững sờ khi biết thân thể của người thân lại bị chia năm xẻ bảy, bán đi khắp nơi đến tận cùng trái đất như vậy.

Marie Gallegos, là trường hợp điển hình. Bà đã ký giấy hiến tặng thi thể chồng bà sau khi ông chết. Sau đó bà nhận được tro của ông từ nơi bà hiến tặng United Tissue Network(UTN) rồi đưa đi chôn ở khu mộ cựu chiến binh. Bà không hề biết tro đó chỉ là một phần trong thi thể chồng bà. Đầu của ông đã được đưa đi Tel Aviv Dental School ở Israel. Bà nói nếu bà biết cái đầu còn ở bên Israel bà đã đợi mà không cử hành lễ an táng. Bà trách họ đã không nói và thông báo cho bà biết về việc họ sẽ làm gì đối với thi thể của ông.

UTN từ chối trả lời về trường hợp của bà Gallegos và khẳng định rằng “Chúng tôi đã cắt nghĩa rất rõ ràng về sự việc trước khi khách hàng ký giấy tặng hiến”.

Sự việc đã không bị phát hiện nếu không xảy ra vụ nhầm lẫn trong việc dán nhãn cái đầu của chồng bà Gallegos khi nó bị trả lại nguyên quán sau khi thuê mướn. Vào ngày 1 tháng 11,2017, đầu chồng bà cùng 6 cái khác được Israel trả về cho UTN ở Arizona để hoả táng. Tất cả được bỏ trong một cái gói với kích cỡ một cái quan tài bên ngoài dán nhãn “Electronic” tức “Đồ điện tử” với trị giá ghi là $10.00. Cái gói đã bị chọc thủng trước khi đến Mỹ và rất nặng mùi nên không thoát khỏi con mắt sắc sảo của một nhân viên hải quan của phi trường.

Khi mọi việc vỡ lở, Hải Quan Mỹ đòi UTN phải cung cấp giấy chứng tử của các cái đầu để xác nhận rằng các bộ phận cho thuê không có bệnh tật và nhiễm trùng. Theo báo cáo của hãng thông tấn Reuters đưa ra một trong các bộ phận cho thuê bị nhiễm trùng staphylococcus aureus, mà Trung Tâm Kiểm Soát Và Phòng Ngừa Bệnh Tật CDC nói là có nguy cơ gây nguy hiểm trầm trọng tới sức khỏe của các nhân viên y tế. Cái gói thi thể bị giữ lại ở phi trường và tranh cãi nổ ra giữa UTN và Hải Quan. Phải mất 3 tuần, cái gói mới được giao cho UTN đem đi hỏa thiêu.

Nói về việc các phần cơ thể bị nhiễm trùng, chính phủ Liên Bang không có luật lệ rõ ràng nào cho việc này. Tuy nhiên, theo các quy định rất dễ dàng thì bất cứ ai cũng có thể mua, bán hay thuê các bộ phận cơ thể một cách hợp pháp. Khi các bộ phận được đưa ra khỏi nước, các nhân viên ở biên giới có thẩm quyền giám sát và phải bảo đảm rằng chúng không bị nhiễm bệnh truyền nhiễm và được vận chuyển đúng cách như Reuters tiết lộ.

Trong một bản báo cáo của Reuters về những hồ sơ của chính phủ cho thấy các cơ quan biên giới đã chặn các bộ phận cơ thể bị nghi ngờ nhiễm bệnh ít nhất 75 lần trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2017. Các nhân viên kiểm tra ở biên giới chú ý nhiều hơn đến hàng hoá nhập cảnh vào nước Mỹ hơn là các chuyến hàng xuất cảnh và hầu như tất cả các lô hàng có bộ phận cơ thể được trả về Mỹ bị chặn lại. Thông thường, các bộ phận cơ thể được đưa trở lại Mỹ vì ba lý do: không giải quyết được việc tiêu hủy vì không hợp với luật lệ của quốc gia họ, xứ họ không có dịch vụ hoả táng, và công ty môi giới có dự định tái sử dụng các bộ phận.

Do những báo cáo và tố cáo, Rathburn, một nhà môi giới buôn bán cơ thể đã bị cơ quan FBI theo dõi và bắt được ông ta lừa gạt khách hàng bằng cách cung cấp các phần cơ thể bị nhiễm HIV và viêm gan. Ngoài ra ông ta còn lưu giữ các bộ phận này trong một tình trạng rất tệ hại và kém vệ sinh. Những điều này có thể gây nguy hiểm tới sức khoẻ của cộng đồng.

Hiện nay chính phủ Hoa Kỳ đang theo dõi và điều tra các cơ sở kinh doanh và môi giới các bộ phận cơ thể con người được hiến tặng

Trịnh Thanh Thủy

Tài liệu tham khảo

Cashing on in the donated dead “The body trade”

https://www.reuters.com/invest igates/special-r eport/usa-bodi es-export/    

From: Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang

Ngày về

Ngày về

Năm 1981, khi tôi còn bị giam trong trại cải tạo Z30C Hàm Tân, Thuận- Hải, cứ vào buổi chiều, tôi cùng vài anh bạn tù lại ngồi quây quần bên nhau trên sạp xi măng, nhâm nhi từng ngụm cà phê chế bằng cơm cháy, ôn lại chuyện đời cho nhau nghe.

Hầu như bữa nào cũng vậy, dù trời tạnh ráo hay mưa bão dầm dề, thế nào chúng tôi cũng được nghe tiếng guitar thánh thót của một nhạc sĩ tay ngang Cựu Thiếu Tá Hồ Văn Hùng, gốc Cảnh-Sát Quốc-Gia và tiếng ca trầm buồn ảo não của chàng ca sĩ ngang xương Cựu Thiếu Úy Nguyễn Văn Vinh gốc Biệt Cách Nhảy Dù.

Chúng tôi mất nước đã gần chục năm, xa nhà cũng đã gần chục năm, nên những lời buồn thảm, bi ai: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua…”- “Những ngày xưa thân ái, xin trả lại cho ai…” vừa cất lên, thì người đàn, người hát, người nghe cùng chạnh lòng, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ vợ, nhớ con, nhớ bạn bè, nhớ xóm giềng, và nhớ quê hương.

Anh nhạc sĩ Hồ Văn Hùng, xưa kia là Cảnh- Sát tỉnh Hậu-Nghĩa; nay bị giam cùng buồng, cùng đội lao động với tôi. Anh thuộc nhiều bài hát lắm. Tôi xin anh chép lại cho tôi trọn bộ lời Pháp của bài “Chanson d’Orphée”

Anh ta chỉ cần dạo nhạc cho tôi đôi lần, là tôi đã thuộc nhập tâm bài hát này ngay. Trong bài ca ấy, tôi thích nhất câu “Le ciel a choisi mon pays. Pour faire un nouveau paradis” (Thượng Ðế đã chọn quê hương tôi để dựng lên một Tân Thiên Ðường)

Ngày xưa Thượng Ðế đã ban cho tôi một Thiên Ðường, mà tôi lại vô tình không nhận ra, đó là đất nước Việt-Nam Cộng-Hòa. Năm 1975 Thiên Ðường của tôi đã không còn nữa.

Một năm sau ngày được thả, đầu Thu 1989 tôi gặp lại Hồ Văn Hùng trước một sạp báo cạnh nhà thương Sùng Chính, Chợ- Lớn. Khu này quy tụ khá nhiều dân gốc “Ngụy”: Một sạp báo do anh cựu nhân viên Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo làm chủ, một thợ hớt tóc là cựu Hải quân Thiếu úy, kế đó là một ông già mài dao, mài kéo, xưa kia làm tới Phó Quận xuất thân từ trường Quốc-Gia Hành-Chánh.

Anh chủ sạp báo là bạn tù tôi quen trong thời gian bị giam giữ ở Z 30 D. Vì làm bạn với anh chủ sạp báo, nên dần dà tôi quen “lây” sang hai ông “Ngụy” kế bên. Lâu lâu tôi ghé chơi, thấy tóc tôi dài, ông Hải quân lại đè đầu tôi xuống hớt tóc giùm, không lấy đồng bạc nào.

Thấy yên sau xe đạp của Hùng chất đầy sách vở, tôi hỏi anh làm nghề quái quỷ gì mà nhiều sách thế thì anh vênh mặt lên,

– Tớ đi dạy.

– Dạy nhạc hả?

– Nhạc gì?

– Thì nhạc Việt, tân nhạc… hồi còn trong trại tù cậu và thằng Vinh Biệt Cách hay hát cho tớ nghe…

Hùng xua tay, lắc đầu quầy quậy,

– Tớ có biết nhạc với nhiếc con mẹ gì đâu? Guitar tớ học lóm, chẳng có thầy bà nào dạy cả! Nhạc lý, nhạc Pháp cũng làng nhàng. Hiện giờ tớ đi dạy Anh Văn!

Tôi nghi ngờ vặn lại,

– Anh Văn của cậu cỡ nào mà dám đi dạy?

Hùng cười hì hì,

– Ối trời ơi! Sao cậu ngây thơ thế? Bộ suốt đời lính không lúc nào cậu bị ở vào cái thế lang bang, không chức vụ hả? Cứ lang bang không chức vụ là được gởi đi học. Tớ biết khối thằng có đầy bằng cấp chuyên môn chỉ vì lý do không có chức vụ trong đơn vị nên cứ có lớp là bị tống đi học. Hồi xưa, lúc còn lang bang không chức vụ, tớ có dịp được đề cử theo học một khóa Anh Văn, rồi lại bị đưa đi học tu nghiệp ở Mã-Lai. Năm ngoái ra khỏi tù cải tạo, tớ kiếm hoài không ra việc, tưởng là phải chết đói. Ai ngờ gặp đúng lúc đổi đời, nhà nhà học Anh Văn, người người học Anh Văn. Tớ vội ôn lại văn phạm vài ngày là đi dạy kiếm cơm được rồi. Cả khu phố của tớ đều mù, tớ là thằng chột. Xứ mù, thằng chột làm vua! Tớ đếch cần làm vua, chỉ cần gạo thôi…

Tôi không phục cái ngai vàng trên nước mù và chột của người bạn thời đi tù cải tạo này, nhưng tôi thích tiếng đàn guitar của anh, thích giọng ca của Nguyễn Văn Vinh mà tôi đã được nghe trong những chiều buồn nơi lán trại của Z 30 C, Hàm-Tân năm nào.

Tôi kéo Hùng ngồi xuống bên bàn cờ tướng của ông thợ hớt tóc. Tôi giới thiệu Hùng với hai ông bạn “Ngụy” của tôi. Ông Hải quân mời Hùng uống trà; ông Ðốc Sự cũng xúm vào góp chuyện. Hùng là người Huế, ông Ðốc Sự cũng là dân Huế; chỉ vài phút sau hai ông đã ra chiều tương đắc.

Thấy trên tường có treo cây guitar của ông thợ hớt tóc, bên cạnh là cây đờn cò của ông mài dao kéo, giáo sư Hùng gật gù,

– Các cha ở đây có cả Tân, Cổ giao duyên vui quá há?

Nghe Hùng nói, tôi chợt nhớ chuyện xưa, nên cầm tay Hùng tôi khẩn khoản yêu cầu anh hát lại khúc “Những ngày thơ mộng” của Hoàng Thi Thơ cho tôi nghe.

Chiều ý tôi, ông giáo sư Anh Văn bỏ nón xuống bàn cờ tướng, ông uống cạn ly trà móc câu, ôm cây guitar kê lên đùi, so dây, lấy giọng, rồi bắt đầu: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua? Tìm đâu những ngày xanh như mộng?…

Khi Hùng vừa xuống giọng câu chót: “Tìm đâu? Biết tìm đâu? đâu giờ…” thì anh bắt ngay qua “Matin, fait lever le soleil…” (Buổi sáng, mặt trời lên…) của bài hát tiếng Tây “Chanson d’Orphée”

Hứng chí, ông thợ mài dao ôm cây đờn cò “í!a! í!a!…” phụ họa, còn ông thợ hớt tóc thì hai tay thủ hai cái giũa sắt múa “cạch! cạch! cành! cành!…” trên thành cái chậu nhôm chứa nước như một tay trống điêu luyện, lành nghề.

Người qua đường dừng lại mua báo, khách của bác thợ mài dao, khách của bác thợ hớt tóc đứng ngây nghe các bạn tôi đàn hát. Tiếng hát não nuột, tiếng guitar réo rắt, tiếng trống sắt rộn ràng, và tiếng đờn cò nức nở làm cho lá vàng rơi tới tấp trên đường Trần Hưng Ðạo một chiều Thu năm 1989. Mấy bé con tan trường từ một lớp tiểu học gần đó xì xào với nhau: “Nhạc vàng, nhạc ngoại, hay quá trời, lại nghe coi tụi bây ơi!”

Sau khi chấm dứt câu cuối, “Chante chante mon coeur. La chanson du matin. Dans la joie de la vie qui revient…”

(Hát lên, hát lên trái tim tôi. Bài hát của buổi mai. Trong niềm vui vừa trở lại…) thì Hùng chợt hốt hoảng la toáng lên,

– Ủa chi rứa? Bà con làm chi rứa?

Thì ra… bà con qua đường tưởng bốn thằng tôi là gánh hát dạo, họ bỏ tiền vào cái nón của giáo sư Hùng, cái nón nằm ngửa trên bàn!… cái nón đầy tiền loại 20 đồng màu tim tím…

Bốn anh cựu quân, cán, chính, Việt-Nam Cộng-Hòa nhìn nhau, miệng mếu xệch.

Mười bốn năm sau khi Miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn cựu tù cải tạo đã lẫn vào và như đã biến mất trong cái xã hội hỗn mang, hạ cám thượng vàng. Họ chìm vào giòng đời dưới những bộ mã khác nhau: Ông Thiếu Úy Hải quân thành ông thợ hớt tóc; ông Thiếu Tá Cảnh Sát thành ông thầy dạy Anh Văn lưu động; ông Phó Quận Hành Chánh thành ông mài dao kéo; nhưng cái giá trị nhân bản tiềm ẩn trong con người họ vẫn còn đó. Trái tim họ vẫn không ngủ quên.

Cũng như trăm ngàn đồng ngũ Việt-Nam Cộng-Hòa khác, ngày về của tôi cũng là ngày đầu một cuộc sống mới, đầy ngỡ ngàng. Sau đó, tôi cũng từ từ lẫn vào, và biến mất trong dòng chảy của một xã hội hạ cám, thượng vàng. Tôi bắt đầu xây lại cuộc đời với một chiếc xe đạp thồ.

Cái xe đạp thồ của tôi quả là một con ngựa đa năng, đa dụng. Nó chẳng đòi ăn, đòi uống, nghỉ ngơi, giải trí, chuyện trò gì. Tôi chất bất cứ vật gì lên lưng nó, nó cũng im re, không than van nặng nhọc nửa lời. Nó giúp tôi buổi sớm tinh mơ chuyển hàng cho thân chủ từ Chợ-Lớn về Chợ Bến-Thành. Buổi tối, chở hàng từ Cầu Chữ Y sang đổ nơi bến xe Miền Ðông. Trời nắng chang chang, nó chở tôi và một giỏ cá khô từ Sài-Gòn lên Thủ-Ðức, len lỏi trong những con hẻm ngoằn ngoèo, để tôi rao bán lẻ từng ký cá khô, tôm khô.

Nó chở vợ chồng tôi từ Sài-Gòn đi Thủ -Ðức tới nhà anh bạn Ngô Văn Niếu của tôi để họp mặt anh em cùng khóa 20 Võ-Bị chào mừng mười cựu sĩ quan khóa 20 Võ-Bị mới được tha, trong đó có tôi. Dịp này nơi bãi cỏ đậu xe trước sân nhà anh Niếu, nó được đứng xếp hàng chung với những chiếc xe Dream, Honda, Vespa của các bạn tôi. Tôi thấy chiếc xe đạp thồ của mình có vẻ “oai phong” không kém gì chúng bạn, vì so chiều ngang, chiều dài, nó đâu có kém ai? Nhìn kỹ, tôi thấy nó còn có vẻ “phong trần bạt mạng” hơn mấy chiếc xe máy bóng loáng, kiêu sa, yểu điệu, của các ông bạn tôi nữa đó!

Tôi có anh bạn làm Trung Tá Cảnh Sát. Anh ấy và tôi được thả ra khỏi trại cải tạo cùng giờ, cùng ngày. Nhà anh bạn tôi ở gần Thảo Cầm Viên Sài-Gòn.

Mỗi lần tôi ghé thăm nhà anh, vừa thấy mặt tôi, bà mẹ anh đã đon đả gọi con,

– Bảo ơi! Có “Anh Long Xe Thồ” tới thăm con kia kìa!

Trung Tá Cảnh Sát Phan Trần Bảo, Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh Phan-Thiết là bạn tôi; mấy chục năm sau anh ấy còn nhớ cái tên “Anh Long Xe Thồ” mà mẹ anh ta đã đặt cho tôi.

Trước ngày lên đường đi Mỹ định cư, nếu tôi ra khỏi nhà thì thế nào con ngựa thồ của tôi cũng đi theo. Chỉ khi nào tôi lên rừng tìm vàng, đào thiếc, tôi mới chịu để nó ở nhà.

“Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe!” vợ tôi thường an ủi tôi như thế, mỗi khi thấy tôi có vẻ áy náy mời nàng dời gót ngọc lên yên sau con ngựa thồ để tôi chở đi đây, đi đó. Nàng lúc nào cũng giản dị bình thường. Có tôi bên cạnh, vợ tôi hết lo âu, nhìn đời lúc nào cũng đẹp. Sau những chuyến đi dài ngày đào thiếc, tìm vàng trên Cao-Nguyên, tôi trở về Sài-Gòn; vợ chồng tôi lại chở nhau trên lưng con ngựa thồ, lang thang rong chơi quanh phố. Ðường phố Sài-Gòn thời 1988-1990 thênh thang. Khu Nguyễn Cảnh Chân có nhiều giáo sư của Trường Trung Học Hưng Ðạo, nơi đứa con gái thứ nhì của tôi đang theo học. Qua những buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo hướng dẫn lớp con tôi đã quen mặt vợ tôi. Bà cũng biết rõ tôi là sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đi tù cải tạo.

Chắc chắn hình ảnh chiếc xe đạp thồ của tôi bay lượn trong khu Cao Thắng, Nguyễn Cảnh Chân đã lọt vào những đôi mắt tò mò. Một hôm, con tôi về nhà sau buổi học, nó cười: “Sáng nay cô giáo hướng dẫn lớp con vừa hỏi con rằng ba của em đã về chưa? Con nói bố em mới về. Lúc đó cô giáo con mới nói cô có thấy một người đàn ông lạ chở má bằng xe đạp đi qua nhà cô.”

Ðời sống riêng tư của những bà vợ trẻ của sĩ quan chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu theo dõi dòm ngó của xóm giềng. Những câu hỏi dò la, tọc mạch, chận đầu, bắt nọn như thế không thiếu trong xã hội này. Tôi chạnh nghĩ, qua mười mấy năm dài, xã hội đảo điên dưới chế độ mới, giá trị của nếp xưa Khổng Mạnh cũng còn là chút gì đáng giá cho người ta lưu tâm. Rồi tôi thấy thương vợ vô cùng. Chuyện xe đạp nổ lốp giữa phố đối với cặp uyên ương này là thường xuyên. Lốp xe nổ, thì vợ chồng nắm tay nhau, dắt xe đi bộ, về nhà, vá lốp xe! Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe. Ngày xưa mình đi xe Jeep, ngày nay mình đạp xe thồ; ngựa xe nào cũng dùng làm phương tiện di chuyển có gì mà phải kén chọn, quan tâm? Ðiều quan yếu là: Ngày xưa mình có nhau, ngày nay mình vẫn còn có nhau. Mười ba năm, vật đổi, sao dời, mình còn nguyên vẹn như thế này là quý lắm rồi!

Một hôm có người mang đến cho cặp vỏ xe mới, mừng ơi là mừng! Anh bạn quý của tôi lúc này đang làm “gác-dan” cổng sau khách sạn Continental. Hắn chắt bóp mãi mới được món tiền mua tặng tôi cặp lốp mới. Hắn tên là Lê Văn Chánh, người Huế. Chánh vốn là một cựu sinh viên Dược Khoa Sài Gòn thời 1960s. Hắn có máu đàn ca và đã có lúc viết nhạc bán cho một nhạc sĩ đã thành danh để có tiền đi phòng trà Anh Vũ mỗi buổi tối. Học hành chật vật mãi vẫn chưa thành Dược Sĩ, hắn bị gọi nhập ngũ khóa 15 Sĩ Quan Trừ- Bị Thủ- Ðức để cứu nước. Rồi hắn trở thành sĩ quan An- Ninh Quân- Ðội.

Tôi và Chánh gặp nhau và thân nhau ở Trại Nam-Hà A. Chúng tôi ăn chung mâm, ngủ cùng sạp một thời gian rồi cùng được thả ra cùng một ngày, sau mười ba năm bị giam giữ, tù đày.

Thời mới đi tù cải tạo về, tôi gặp hắn dễ lắm. Cứ đi ngang qua đường Lê Thánh Tôn, tới cổng sau Khách Sạn Continental là thấy chàng ta ngồi nơi góc.

Những lần về phố, tôi đều ghé thăm Chánh. Gặp nhau, bù khú một lúc, hai đứa lại rủ nhau ra tán dóc với anh thợ vá lốp, sửa xe bên đường Hai Bà Trưng. Anh vá lốp xe máy, sửa xe đạp này thời xưa làm Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trung -Tâm Huấn- Luyện Chi- Lăng của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Anh ta tên là Hoàng Trai xuất thân khóa 19 Võ-Bị. Ba chàng ngồi bên nhau, chuyện nổ như pháo. Hai bạn tôi chỉ quanh quẩn ở Sài-Gòn, nên thích nghe tôi kể chuyện đường rừng, mạo hiểm, như chuyện đào vàng, đào thiếc, chuyện bẫy khỉ, giữ lô, chuyện khai thác gỗ quý, săn ngải, tìm trầm…

Chánh kể cho tôi nghe rằng, nó có đứa con gái lớn tên là Lê Lâm Quỳnh Như. Cháu Quỳnh Như lớn hơn đứa con gái đầu của tôi một tuổi. Một ngày từ rừng trở về thành phố, tôi nghe bạn Chánh khoe, con gái anh vừa đứng đầu cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần thưởng mà con anh nhận được là cái dây chuyền 7 chỉ. Chánh nhìn tôi, cười, miệng xuýt xoa: “Thế là có tiền lo thủ tục hồ sơ đi H.O”

Sau đó khá lâu, gia đình Lê Văn Chánh đi Mỹ theo danh sách H.O 16. Qua tới Mỹ thì ca sĩ Quỳnh Như đổi tên là Như Quỳnh, danh tiếng nổi như cồn.

Thời gian đầu, khi Chánh còn cư ngụ ở Philadelphia thì tôi và Chánh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại thăm nhau. Bây giờ thì tình hình đã đổi thay nhiều. Chỉ có tôi và anh Trai là gặp nhau thường, vì hai đứa tôi cùng là cư dân Tiểu Bang Washington. Chúng tôi rất khó tiếp xúc với anh bạn cựu tù Lê Văn Chánh ngày xưa. Nghe đâu, cách đây vài năm, Như Quỳnh mua cho bố Chánh một căn nhà ở Cali, khu cư xá giống như một Fortress City, có rào cản, có cameras, hệ thống alarms cao cấp, security tuyệt hảo, phone của Chánh lại chuyển số luôn luôn, nên tôi và anh vá lốp xe đạp không chuyện trò với anh được. Lâu ngày không nói chuyện với nhau, chắc anh Chánh quên tôi rồi?

Riêng tôi, không bao giờ tôi quên “Chánh Phăng Si Ða”, anh bạn tù sốt rét kinh niên cùng buồng 16 ở trại Nam-Hà A Phủ- Lý của tôi. Sở dĩ Chánh có biệt hiệu “Chánh Phăng Si Ða” chỉ vì lúc nào trong túi anh cũng dự trữ sẵn một vỉ thuốc sốt rét cực mạnh mang nhãn hiệu Fansidar. Không rõ bạn tôi có hiểu rằng, trong mấy năm nay, anh chàng đào vàng trên rừng Nắp Bắc Ðà-Lạt và anh chàng sửa xe đạp trên đường Hai Bà Trưng Sài- Gòn nhớ nhung anh gác-dan Khách Sạn Continental không nguôi?

Những sự mất mát nhẹ nhàng như thế, những hình bóng mờ dần vì vô tình hay cố ý như thế, làm cho tôi thấy thương, thấy quý những giây phút bạn bè khăng khít bên nhau. Bây giờ, những sợi tơ thân thiết cột buộc chúng ta cứ mỏng dần, mỏng dần theo thời gian.

Ôi! Biết tìm đâu? Những ngày xưa thân ái! Biết tìm đâu xứ sở mà Thượng Ðế đã chọn làm một Thiên Ðường? Biết tìm đâu Việt-Nam Cộng-Hòa của tôi?

Vương Mộng Long – K20 
Seattle tháng Tư năm 2018

TIN MỚI THẬT BUỒN TỪ PHILIPPINES!

 
 
Maria Nguyen shared a post.
 
Image may contain: 1 person, flower
Image may contain: one or more people
Image may contain: one or more people and outdoor
LE AN NT

TIN MỚI THẬT BUỒN TỪ PHILIPPINES!

Cha Mark Ventura, 37 tuổi, Chánh xứ thánh Isidoro, thuộc Tổng giáo phận Tuguegarao, Philippines, vừa bị bắn chết lúc 8 giờ sáng ngày hôm qua, 29/4/2018, ngay sau khi dâng lễ Chúa Nhật V Mùa Phục Sinh.

Cha chết trong tư thế thật đẹp dưới chân Bàn thánh: Thân thể nằm nghiêng trên nền đất, tay vắt qua đầu bị bắn vỡ nát trên một vũng máu lớn. Máu đỏ thấm đẫm phần trên áo lễ Cha chưa kịp cởi ra, chỉ có dây stole vừa được gấp dở dang trên bàn thờ.

Cha lãnh chức linh mục chỉ mới 7 năm, nổi tiếng là người đầy nam tính, luôn bênh vực quyền lợi của người thiểu số nghèo và thường lên tiếng chống lại việc khai thác thiên nhiên bừa bãi. (Theo Missionary Albert)

VẪN CÓ MỘT ANH HÙNG TỬ ĐẠO ĐÔNG NAM Á,  NGAY TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA!    

Hạnh phúc là chia sẻ phúc lành bằng cả tấc lòng trong sáng (*).

 
 
Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and Đào Nguyên.

Tác giả: GS Phan văn Tường.

…Năm 1963, 17 tuổi, tôi bị cướp sạch tài sản trong đêm đầu tiên du học Pháp…

Năm ấy là năm 1963, tôi 17 tuổi.

Thật tôi sẽ nhớ mãi cái năm Mão ấy, tôi vừa bước chân tới nước Pháp để du học, thì tôi đã bị một người đồng hương tước mất gần hết tài sản ngay đêm đầu tiên.

Nếu vào thời điểm ngày hôm nay thì thực tình mà nói số tiền tôi mất hồi đó cũng không quá to, 3 ngàn đô-la. Nhưng đó là tất cả số tiền tôi đem đi để làm vốn cho ít nhất hai năm học, đối với một sinh viên không có nhà cửa gia đình anh em bên cạnh thì nó to lắm. Mà nó cũng rất to đối với cha mẹ tôi, vì đó cũng là tất cả số tiền cha mẹ tôi dành dụm để chuẩn bị cho con đi học ở nước ngoài. Với đồng lương công chức của cha tôi thì đó là công dành dụm từ nhiều năm về trước.

Thế nhưng ngay hôm đầu tiên tôi tới Pháp, mắt nhắm mắt mở, chân ướt chân ráo, giờ giấc ngược xuôi, thì tôi đã bị tước mất số tiền đó do một băng đảng du đãng ăn chơi, họ chuyên môn đón đầu những sinh viên còn ngây thơ vừa bước sang nước xa lạ. Tôi đã bị dọa bởi vũ khí, và tôi đã để tuột tất cả những gì có trong tay, cả số tiền khổng lồ được dành dụm bằng tình yêu của cha, được gói ghém từ bàn tay của mẹ. Và từ một thanh niên mới ra đời với nhiều ưu đãi, tôi đã biến trong khoảnh khắc thành một thằng bé vô gia cư, chưa có nghề nghiệp và nhất là không còn gì trong tay để phấn đấu, cũng như không có chỗ vịn thực sự, trên một đất nước mà mình chưa nói sõi tiếng người, chưa hiểu thực văn hóa, chưa có bạn, chưa có cả một tấm mền để trải nằm ban đêm.

Ngày đó đâu có như bây giờ, không có điện thoại di động, chỉ có telegram để báo tin khi cần, nhưng linh tính đã khuyên tôi không thông báo cho gia đình ở nước nhà. Vì chuyện đã rồi, việc báo tin chỉ làm cho cha mẹ lo thêm.

Thế là tôi một mình ôm bí mật rằng tôi đã trắng tay.

Vài chục năm sau, khi nghĩ lại sự cố đã xảy ra cho mình, thì tôi mới ngỡ ra là chính cái sự cố vô cùng bi đát ấy đã giúp cho tôi, một thằng bé 17 tuổi, sớm thành người.

Trùng lúc ở bên Pháp tôi bị trắng tay hết tiền, thì cha tôi lại bị sự cố tại nước nhà.

Một người bạn của cha đi công cán sang Pháp mới cho tôi thông tin không mấy vui về cha. Mẹ tôi có gửi ông bạn đó một lá thư trong đó mẹ dặn đi dặn lại là con cố cầm cự với số tiền mang theo càng lâu càng tốt, rồi đến khi gia đình ổn định trở lại thì mẹ sẽ gửi tiếp. Nào mẹ có biết sự thật phũ phàng phía bên này… Và tôi cũng viết vội vài hàng gửi mẹ qua tay của ông bạn rằng “mẹ đừng lo, số tiền cha mẹ cho con còn nguyên và nhờ đó con sẽ sống được thoải mái nhiều năm sắp tới”. Đó là lần đầu tiên tôi đã nói dối mẹ.

Vào những năm 60, xã hội Pháp không như ngày nay, đó là một xã hội tuy không kỳ thị nhưng vẫn khép kín. Người Pháp thì đã đành, nhưng ngay cả người Việt sống bên Pháp cũng không cởi mở như ngày nay. Ngày đó, chưa có các tiệm fastfood hay hamburger như McDonald’s hay Kingburger, nơi mà một người trẻ như tôi có thể kiếm việc dễ dàng để tự nuôi sống.

Thế nhưng, cũng vì tôi sang Pháp trễ so với niên học, nên tôi chỉ được đăng ký vào nội trú một trường ở ngoại ô xa, trường Francisque Sarcey ở Dourdan, cách Paris hơn 50 km. Cũng may cho tôi là tôi không được nhận vào các trường tại Paris, vì có lẽ tôi sẽ phải bỏ dở việc học do đời sống Paris quá đắt đỏ. Ngày ấy tại Dourdan, cái gì cũng rẻ, thêm vào đó, đây là một thị trấn rất nhỏ, gần như một cái làng lớn. Chính vì Dourdan nhỏ bé mà tôi đã tìm ra nơi nương tựa.

Trước hết tôi phải kể tới Cha Paul. Cha là cố đạo của nhà thờ Dourdan. Không có Cha có lẽ tôi đã không có ngày hôm nay.

Lần đầu tôi gặp Cha, là chính tôi đã mạnh dạn đến gõ cửa nhà thờ. Tối hôm đó, bụng đói, tôi đã mạo muội tìm đến nơi Thánh. Tôi vào nhà thờ, lòng bất an. Nhưng cánh cửa bên trong nhà thờ bất thình lình mở và Cha xuất hiện. Cha hiểu ngay tôi đang có vấn đề. Cha mời tôi vào nơi Cha tiếp khách. Cha không hỏi han gì mà lại chia ngay với tôi một khúc bánh mì. Cha nói: “Em vào đây chia sẻ bữa cơm của tôi.”

Thị trấn Dourdan – Nay trở thành một địa điểm du lịch tại Pháp.

Từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự có một người bạn đầu tiên trên đất Pháp, đó chính là Cha Paul. Cứ đến chủ nhật là tôi đến giúp việc trong nhà thờ Dourdan và được Cha cho một bữa cơm ấm áp. Lần đầu ra đời gặp “nhân loại” tôi đã có ngay được cảm nhận là nhân loại không phải là một ý niệm gì trừu tượng, mà là những gương mặt cụ thể và tích cực. Gương mặt đầu tiên của nhân loại đối với tôi là Cha Paul.

Cha đã có những nghĩa cử đơn giản nhưng chứa chan tình người. Cha Paul đã là người đầu tiên làm cho tôi thấu hiểu được rằng hạnh phúc là một thứ gì rất chân thật, trong sáng, ấm áp. Và chỉ cần mỗi tuần một buổi sáng chủ nhật giúp việc trong lễ nhà thờ cũng đủ cho tôi cảm nhận phẳng phất được niềm hạnh phúc đó suốt tuần.

Và cũng không có gì sung sướng hơn là biết rằng Chúa ở trên cao đã đoái nhìn xuống ban cho tôi phúc lành, mà vẫn biết rằng phúc lành chỉ là một mẩu bánh mì mộc mạc.

Trong đời sống nhà trường, tôi được nội trú, tôi còn nhận được sự yêu thương của vợ chồng gác dan. Nhìn từ ngoài, ông bà Jean trông rất dữ dằn. Có lẽ nghề gác cửa, cấm kẻ lạ xâm nhập vào khu vực nhà trường, cấm học sinh thoát ra ngoài đi bụi đời đã vẽ lên nét mặt của cặp vợ chồng tất cả cái nghiêm nghị của thế gian. Tuy nhiên, trái tim của họ bằng vàng. Ông bà Jean đã thấu hiểu cảnh ngộ của tôi ngay từ lúc tôi nhập học ngày đầu.

Bà ấy thường hay rày tôi, nhưng lúc nào bà cũng quan tâm. Một hôm bà bảo tôi: “Mày giặt giũ làm sao? Trông mày dơ bẩn thế kia, mày cởi hết quần áo ra đưa tao giặt”. Thế là tôi được bà giặt quần áo miễn phí, bà còn ngụy biện rằng đằng nào ông bà cũng có máy giặt, nhiều ít gì cũng thế. Tuy nhiên, bà còn ủi thẳng thắn cho từng chiếc sơ mi, chiếc quần. Đến khi tôi chụp ảnh gửi về cho mẹ thì mẹ tôi rất ngạc nhiên hồi âm ngay hỏi rằng ai giặt và trông nom cho tôi mà áo quần ngay ngắn thế. Sau này khi mẹ tôi sang Pháp, mẹ đã tỏ ý muốn đến cám ơn tận nơi ông bà Jean.

Tôi thì cứ bị bà Jean mắng hoài hoài, nhưng tôi hiểu đó là lời mắng của sự quan tâm, lời mắng để cải thiện một thanh niên không được sống bên gia đình của mình. Những lời mắng này thật mát mẻ trong lòng tôi.

Ông Jean thì lại thương tôi một cách cụ thể hơn. Cứ đến hai ngày cuối tuần, ông rủ tôi đi làm thêm. Ông chuyên sửa điện nước, đổ rác, sơn nhà, đổ nền, nạo ống khói… Thế là ông và tôi chia nhau việc. Ông nhận việc chuyên môn, còn tôi thì việc chân tay. Có lần, tôi nạo xong ống khói mặt mũi đen đủi quần áo lọ lem làm mọi người cười. Tôi cũng cười, cái cười của một đứa thanh niên thật hãnh diện vừa nhận được chút tiền để tự nuôi thân. Ông bà Jean dần dần coi tôi như một đứa cháu trong nhà. Tôi cảm nhận được hạnh phúc sâu đậm đó, rằng tôi đã được người bản xứ nhận lãnh. Chỉ được nhìn nhận như vậy thôi cũng đủ để làm cho tôi cảm thấy mình thật quá may mắn.

Ở trong trường tôi còn được một người khác giúp đỡ tôi rất nhiều. Đó là bà Monique, bà là y tá săn sóc sức khỏe của học sinh nội trú. Gọi là bà, nhưng bà chưa có chồng tuy đã quá trạc 50. Người ác miệng nói là bà không có nhan sắc nghiêng thành do đó mới khó lấy chồng. Nhưng đối với tôi, thì bà là một con người nhân hậu mà tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi gặp bà lần đầu lúc tôi bị bệnh. Mùa đông năm 1963 kỷ lục lạnh, nhiệt độ xuống hơn 15 độ âm. Tôi thiếu quần áo ấm và sau một lớp thể dục ngoài trời tôi bị lạnh phổi và được đưa vào nằm phòng bệnh hai tuần.

Bà Monique mới hỏi tôi gia đình ở đâu, vì trên nguyên tắc, học sinh nhuốm bệnh phải được trả về gia đình, chứ giường bệnh nội trú chỉ là tạm thời, quá lắm là 2, 3 ngày. Sau khi tôi khai hết cảnh ngộ thì không những bà cho phép tôi ở lại mà bà còn chăm lo cho tôi thật tận tụy. Sau này, tôi thường hay lên thăm bà trong giờ chơi, tôi hay tặng bà một miếng bánh sô cô la hoặc là một bó hoa tôi hái trong rừng. Bà cũng thường viết thư trấn an mẹ tôi. Đây không phải là trách nhiệm của bà, tôi cảm nhận đó là lòng thương. Từ lúc đó, tôi mới lại hiểu cụ thể hơn thế nào là hạnh phúc. Hạnh phúc rút cục là sự cảm nhận tình thương mà mọi người dành cho mình. Nhưng trên hạnh phúc đó, còn có cái duyên mà Đấng trên cao đã sắp sẵn cho mình. Tại sao mình lại được hưởng đặc ân đó thì mình thực sự không biết.

Trường học của tôi có một tục lệ là cứ mỗi 15 ngày thì nhà trường tổng vệ sinh nên yêu cầu tất cả học sinh nội trú ra ngoài trong hai ngày cuối tuần. Tất cả học sinh đều đợi dịp đó để về với gia đình nên họ vui tíu tít. Ngược lại đối với tôi thì dịp đó lại gây cho tôi nhiều khó khăn vì tôi không có gia đình, không có nơi để về… Vào hai ngày cuối tuần đó người ta dọn giường của sinh viên nội trú, mở toang cửa số, khóa máy sưởi, rải thuốc Javel, phun vòi nước sát trùng để tổng tẩy uế.

Bà Monique là người đầu tiên cứu tôi, bà đề nghị tôi ở lại trong trường, nhưng ở tạm trong căn phòng dành cho người bệnh. Bà coi đó là một trường hợp bất khả kháng, do đó tôi không thể coi đó là giải pháp thường trực.

Tôi cũng có mấy người bạn Việt Nam ở trong nhà Lào Việt tại Cư Xá quốc tế cho phép tôi trải nệm ngủ lậu qua đêm. Ở đây ông gác dan biết chuyện nhưng ông ấy cũng tốt nên ông không cằn nhằn.

Nhưng riêng tôi lại còn có thêm một phương án khác. Một hôm, tôi gặp lại một bạn xưa tên là Lân, Lân mới rủ tôi tới nhà chị Trà. Chị Trà là một phụ nữ đã đứng tuổi có chân tu.
Nhà của chị Trà là một căn hộ nhỏ bé, vỏn vẹn có một phòng, ở ngoại ô Levallois. Tuy căn nhỏ bé nhưng lúc nào cũng đông sinh viên tới xin ngủ qua đêm. Chị bảo nhà của chị là nhà của Chúa, các em cứ tới trú.

Thế là đêm nào cũng có đứa trải nệm nằm la liệt dưới đất, có hôm năm đứa chúng tôi phải nằm sít gần nhau vì căn phòng nhỏ quá. Nhưng chúng tôi rất vui, vì không những được qua đêm miễn phí nhưng còn có sẵn một bếp nhỏ để nấu xào. Đông như thế làm cho chúng tôi như có gia đình bên cạnh. Hơn thế nữa, chính vì gặp gỡ nhau tại nhà chị Trà mà chúng tôi truyền cho nhau công việc làm để kiếm tiền thêm. Lân thì rủ tôi cùng đi hầu bàn, Hà thì chỉ cho những chỗ để mua trái cây rẻ, những hoa trái già héo sắp thối nhưng vẫn còn ăn được. Huy thì lại chỉ cho tôi một chỗ làm đêm được trả rất hậu hĩnh. Đó là những dịch vụ tại bệnh viện ít ai muốn làm và có chút rủi ro nếu không cẩn thận.

Từ lúc thường gặp những người bạn mới này, tôi không thiếu việc. Hễ mình chấp nhận viêc khó hoặc nặng nhọc thì kế sinh nhai đơn thuần không phải là một vấn đề. Nhận định này cho tôi có được tự tin. Tự tin rằng mình sẽ chẳng bao giờ sợ đói, chỉ một ý tưởng đó thôi đã làm cho tôi thấy cuộc đời đượm tươi màu hồng. Thật vui, thật hạnh phúc. Duy một cái là trong lớp học tôi không được xuất sắc cho lắm.

Trường Francisque Sarcey ngày nay

Cuối niên học 63-64, cuối cùng tôi cũng thi đậu. Điểm suýt soát, nhưng vừa vặn để lên Đại Học. Vừa đúng lúc đó thì cha tôi cũng hồi sức. Bao nhiêu mây đen phủ trên bầu trời của tôi như dần dần tản bay.

Phải mấy chục năm sau, tôi mới dám hồi tưởng lại cái thời kỳ kinh khủng đó. Vì khách quan mà nói, nó kinh khủng quá. Nhưng tại sao tôi không giữ lại một chút đắng cay là một điều tôi khó lý giải. Mẹ tôi, khi gặp lại tôi vài năm sau đó mới rõ sự thật, bà cứ khóc mãi, bà tự trách sao trót để đứa con yêu lâm vào cảnh ngộ quái dị như vậy. Nhưng trong lúc mẹ khóc thì tôi lại vui cười sung sướng ôm mẹ. Tôi còn nói với mẹ: “Mẹ ạ, suốt năm học ấy con không khổ chút nào mà rất sung sướng mẹ ạ, mẹ đừng khóc nữa vì chẳng có gì để khóc.”

Một hôm, vào năm 1994, tôi được cô thư ký đưa lên một đơn xin việc, lúc đó tôi đang làm phó Tổng giám đốc một tập đoàn đa quốc gia. Hồ sơ xin việc có cả hình của người nộp đơn. Tôi nhận ra ngay, đúng hắn, không thể sai, người đã cướp hết tài sản của tôi vào lúc tôi đang tập tễnh ra đời. Cô thư ký nể tôi, cứ mỗi khi có người Việt xin việc thì cô hay báo cáo trực tiếp cho tôi.

Tôi đã hít một hơi thở thật mạnh. Và chỉ trong một chớp mắt, tôi đã chỉ đạo “để cho Ban nhân sự xử lý bình thường đơn xin việc”, tôi không để lộ cho ai chuyện riêng của tôi. Có lẽ hắn cũng đã quên tôi và cả sự việc rồi, hơn 30 năm đã qua. Trong lòng tôi không có chút hận thù mà ngược lại tôi lại có cảm giác nhẹ nhõm hơn, cứ như đã trút được cái gì còn vướng mắc.

Nghĩ lại chuyện của tôi, tôi không khỏi bàng hoàng và cùng một lúc tôi có cảm giác hạnh phúc. Bàng hoàng vì có lẽ tôi sẽ không bao giờ sẵn sàng sống lại một thời kỳ như thế.

Nhưng tại sao tôi lại có cảm giác hạnh phúc từ sự trải nghiệm đó thì thực tình tôi không rõ.

Phải chăng tôi đã được hưởng trọn niềm hạnh phúc của một con người tự tạo nên. Từ bàn tay trắng tôi đã thành con người tôi ngày nay. Tôi đã lông bông nhưng chưa bao giờ bụi đời. Tôi mới khám phá ra rằng tôi đã được hưởng một cái ADN cứng cỏi, lấy tính hiền từ làm cách hành xử. Lấy nụ cười can trường để làm khiên bảo vệ. Những thứ đó như có sẵn trong cơ thể. Rõ ràng tôi chỉ biết mỉm cười mà không biết khóc.
Phải chăng đó là do tính lạc quan. Tôi chưa bao giờ nhìn nỗi khó trước mặt như là một cực hình mà ngược lại tôi đã chỉ trông thấy những cơ hội được mở ra, thậm chí những thách thức rất đáng sống.

Phải chăng là tôi đã hiểu rất sớm rằng hạnh phúc bắt nguồn từ tình yêu thương. Tôi đã được nhà trường Dourdan yêu thương, Cha Paul yêu thương, ông bà gác dan yêu thương, bà y tá Monique yêu thương, chị Trà thánh thượng yêu thương. Thế giới của tôi vào lúc đó chỉ có thế nhưng đó là thế giới của những người tình nghĩa. Tình nghĩa và đoàn kết, biết cảm nhận, biết xót xa, biết chia sẻ. Chia sẻ hột cơm, chia sẻ mồ hôi, chia sẻ ngọt bùi.

Phải chăng là tôi luôn luôn có trong người tế bào hy vọng. Tương lai sẽ luôn luôn sáng nếu còn hy vọng. Thực ra, chính khi mình nằm tận đáy thì mình mới bám vào hy vọng để trông chờ. Từ đáy thì mình chỉ có thể vươn lên, tương lai chỉ có thể sáng hơn.

Phải chăng là tôi có một niềm tin mãnh liệt nơi Đấng trên cao. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng, trong lời cầu nguyện tôi luôn luôn chỉ xin có thêm sức mạnh và sự soi sáng của Thượng đế chứ tôi chưa bao giờ xin những thứ khác. Và tôi ngạc nhiên tôi chưa bao giờ bị Đấng trên cao bỏ rơi.

“Hạnh phúc là cái gì con cảm nhận được khi con đã chia sẻ thật nhiệt tình, với tất cả lòng trong sáng từ bi”.

Có lần tôi hỏi cha tôi: “Bố ạ, thế nào là thành công? Thế nào là một cuộc đời sung mãn và hạnh phúc ?”

Ông nhìn đứa con và chậm rãi trả lời: “Người thành công là người muốn khẩn khoản chia lại những gì phúc lành đã ban cho mình. Chia lại tài sản, chia lại kiến thức, chia lại kinh nghiệm sống”.

Tôi lại hỏi cha: “Còn thế nào là hạnh phúc?” thì cha mới mỉm cười và ôn tồn chia sẻ với tôi: “Con ạ, hạnh phúc là cái gì con cảm nhận được khi con đã chia sẻ thật nhiệt tình, với tất cả lòng trong sáng từ bi.”

Và cha còn nói thêm: “Con hãy đem cả thân thế của con để xây dựng tình người, con hãy dùng tài sản riêng tư như là những viên gạch để kết nối và đoàn kết người với người. Con đừng bao giờ nhìn lên hay nhìn xuống mà coi mỗi người như là một người bạn đồng hành, đón nhận họ với những cá tính của họ, con hãy quý trọng ý kiến của mỗi người, vì chỉ có sự đa dạng mới làm nên một xã hội hùng mạnh, một đất nước trù phú.”

Những lời của cha còn văng vẳng bên tai. Nghĩ lại tôi vẫn choáng váng, và tôi chỉ mong suốt cuộc đời xứng đáng với ước niệm của cha.

Phan Văn Trường

Ảnh: Gs. Phan Văn Trường ký tặng sách.

***
(*): Tiêu đề do người đăng tự đặt.
Hạnh phúc là chia sẻ phúc lành bằng cả tấc lòng trong sáng.

Về tác giả:

Giáo sư Phan Văn Trường là chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực đàm phán quốc tế, và là cố vấn của chính phủ Pháp về thương mại quốc tế. Ông được Tổng thống Pháp đã trao tặng Huy chương Hiệp sĩ Bắc Đẩu Bội Tinh (Chevalier de la Légion d’Honneur) năm 2007 nhờ công lao đóng góp vào việc phát triển nước Pháp.

Ông từng tham gia vị trí quản lý cấp cao của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới, tham gia đàm phán các dự án lớn tại hàng chục quốc gia với tổng giá trị các hợp đồng hơn 60 tỷ USD. Ông là tác giả cuốn sách “Một đời thương thuyết”, gồm rất nhiều câu chuyện, kinh nghiệm hàng chục năm đàm phán ở hàng chục quốc gia.

*
Hạnh phúc bắt nguồn từ tình yêu thương.
Nhiệt thành giúp đỡ người không may và vị tha là niềm hạnh phúc vô biên.
Giàu có không nên là tiêu chuẩn đánh giá sự thành công.
Được cống hiến, được sống với đam mê, được nhìn nhận nhân phẩm… là đã hạnh phúc tuyệt vời.
Phan Thị Hồng

Image may contain: 3 people, people sitting
 

 

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Bộ trưởng Công an Tô Lâm đã đích thân bay sang Slovakia để dàn xếp đưa Trịnh Xuân Thanh về nước?

 Thanh Hieu Bui shared a link.
THOIBAO.DE
 
3 ngày sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc Bộ trưởng Công an Tô Lâm và Trung tướng Đường Minh Hưng có mặt tại Bratislava thủ đô Slovakia để gặp mặt nói chuyện với ông Robert Kalinak, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Slovakia. Các nhà điều tra Đức cho rằng có khả năng là trong thời điểm đó Trịnh Xuân Thanh vẫn còn ở châu Âu. Vì vậy, tại sao có cuộc họp, mà cùng lúc nhiều nghi phạm chính đến tham dự? Việt Nam và Slovakia có thảo luận cách đưa ông Trịnh ra khỏi châu Âu không? Trong tình huống như thế thì Slovakia có thể giúp đỡ không?

CHUYỆN TRÚ MƯA

 
Image may contain: 3 people, people smiling

Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

 

Hôm vừa rồi, đang đi dạo phố thì gặp trận mưa to, phải chạy vào trú dưới hiên một căn nhà. Cùng đứng trú mưa có vài người khác nữa, trong đó có một cô bé mặt quen quen. Suy nghĩ mãi hắn mới nhớ ra cô bé chính là một trong những nhân vật được chụp hình đăng báo, và tấm hình này không hiểu sao đã được lưu giữ cùng với một tỷ tấm hình linh tinh khác trong phôn tay của hắn.

Thế là hắn chìa cái phôn ra và gợi chuyện làm quen :
– Có phải cháu đây không?
Cô bé không giấu được vẻ ngạc nhiên, thích thú:
– Vâng cháu và các bạn cháu đấy. Úi giời ơi, thích nhỉ?
– Nhưng chuyện gì mà các cháu khóc kinh thế? Bộ ba hay má cháu chết hả?
– Không. Ba má cháu có già phải đi theo trời theo phật cũng là chuyện nhỏ, việc gì phải khóc?
– Hay là các cháu đang đi đám ma của bạn bè thân quen ?
– Không. Đi đám ma thì phải vui chứ lị. Có mấy người pê-đê múa lửa với nhảy thoát y, thích lắm chú ạ.
– Hay là các cháu đang tỏ lòng tiếc thương cho chiến sĩ và đồng bào ta bị giết hại dã man bởi bọn Trung Quốc xâm lược ?
– Ơ, chú nói hay nhỉ ? Mấy chuyện linh tinh này can dự gì tới bọn cháu. Ai chết kệ người ta đi. Cháu thấy chú coi bộ hơi rảnh.
– Thì chú đang rảnh đây, đứng trú mưa chứ có làm gì đâu. Vậy nói chú nghe tại sao trong hình này các cháu khóc ghê thế ?
Cô bé vui vẻ hẳn lên:
– A, cái hôm ấy bọn cháu ra phi trường tiển đưa ca sĩ ….lên đường trình diễn ở nước ngoài. Đông lắm, ai cũng khóc, có đứa còn tính đập đầu xuống đất tự tử, phải hai chú bảo vệ mới giữ được nó đấy. Còn cháu khóc sưng mắt phải nghỉ học hết ba ngày.
– Nó ca sĩ ra nước ngoài hát, nó lãnh khẩm tiền, mắc chi các cháu phải khóc tập thể vậy ?
– Vậy là chú Hai Lúa rồi. Chú không biết bây giờ văn minh là phải bắt chước dân Âu Mỹ, phải khóc tối đa và sẳn sàng ngất xỉu vì thần tượng ca sĩ của mình. Nhờ vậy cháu mới được chụp hình lên báo đó. Còn chú, có ai chụp hình chú không ?

Hắn cứng họng. Không phải vì đuối lý, mà vì hắn ghê sợ cho sự xuống cấp trầm trọng của cái xã hội trăm năm trồng người hiện nay. Cứ thế này thì còn gì là thế hệ tương lai, còn gì là đất nước.

Hắn bước ra khỏi mái hiên dù trời vẫn còn đang mưa. Hắn không muốn đứng đó thêm chút nào nữa. Hắn cần sự khuây khỏa. Đi dưới mưa cũng là một cách để khuây khỏa, nhất là khi trong óc của hắn lại hiện lên mấy câu thơ của cô giáo Trần Thị Lam:

Đất nước này rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu……/.

Lộc Dương.