
TT Obama nhận lời mời sang thăm Việt Nam

Tin Việt Nam, Tin Cộng Đồng
Lận đận kiếm cơm lúc tuổi già bóng xế
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2013-07-24
07242013-senio-earn-thei-own-livi.mp3
Cụ Phạm Thị Đờn, 76 tuổi, thôn Quảng Hội, Khánh Hòa dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình dưới biển mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày.Photo Quốc Dũng/goccuocsong.org
Photo Quốc Dũng/goccuocsong.org
Số lượng người già neo đơn ở Việt Nam nhiều hơn các nước trong khu vực, có nhiều lý do và nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó, đáng kể nhất vẫn là những người mẹ có con cái mất trong chiến tranh và do kinh tế khốn đốn, những người con không cưu mang được cha mẹ mình.
Để tồn tại, những người già phải bươn bả kiếm cơm bằng nhiều việc, từ bán vé số đến buôn ve chai, lượm đồng nát và cả ăn xin.
Những người còn sức lao động một chút, đủ để gắng gượng làm thêm thì thường chọn việc phụ giúp, rửa chén bát, lau chùi nhà để kiếm cơm. Cụ bà tên Cửu Ba, người gốc Quảng Ngãi, hiện nay đang làm việc trông coi em bé và dọn rửa chén bát, lau nhà cho một gia đình ở Qui Nhơn, Bình định, than thở với chúng tôi là bà gặp rất nhiều khó khăn để tồn tại, năm nay bà mới 75 tuổi, nghĩa là còn 10 năm nữa bà mới được nhận mỗi tháng 180 ngàn đồng bảo trợ xã hội của nhà nước.
Cụ bà tên Cửu Ba, người gốc Quảng Ngãi, hiện nay đang làm việc trông coi em bé và dọn rửa chén bát, lau nhà cho một gia đình ở QN, Bình định, than thở với chúng tôi là bà gặp rất nhiều khó khăn để tồn tại, năm nay bà mới 75 tuổi
Bà không có con cháu, phải ở đợ trông coi em bé, rửa chén quét nhà và phụ những việc vặt cho chủ. Mọi người trong nhà đối xử với bà rất tốt, mỗi tháng trả cho bà 900 ngàn đồng, mỗi năm may cho bà nhiều áo quần và mỗi chuyến chủ nhà đi đâu về đều mua cho bà lon sữa, hộp bánh. Nói chung là con ruột của bà có tốt thì cũng ngần ấy. Nhưng bà vẫn thấy cô đơn vì con ruột của bà không có, hơn nữa, mọi thứ trong nhà đều hiện đại, đụng thứ gì bà cũng thấy sợ và không biết sử dụng, nhất là cái máy giặt, nhiều lần nó làm bà hoảng hồn, không hiểu chuyện gì, sử dụng nó luôn là việc quá khó cho bà.
Không phải ai cũng may mắn và gặp được chủ nhà tốt để làm việc, để sống qua ngày như bà Cửu Ba, họa hoằng lắm mới có được sự may mắn như thế.
Một cụ già ngồi vỉa hè bán vé số. RFA
Bà Lùng, 70 tuổi, quê ở Tuy Phước, Bình Định, cũng đang ở đợ cho một gia đình nhà giàu có trong thành phố Qui Nhơn. Nhưng bà Lùng không được chủ nhà đối đãi tốt cho mấy, nếu không nói là quá tệ, bà Lùng than thở, vì khác thế hệ, lại không phải là họ hàng ruột thịt gì nên chủ nhà luôn sợ bà ăn cắp và không cho bà ngủ trong nhà, bà chỉ được phép vào nhà làm việc trong lúc có người ở nhà, sau đó bà ra ngủ ngoài một mái lều che tạm gần chỗ chuồng chó.
Với thu nhập mỗi ngày chưa đầy một trăm ngàn đồng, cụ Tứ (90 tuổi) nói rằng cụ là người bán vé số thuộc hàng đắt khách và ăn nên làm ra nhất trong giới bán vé số. Một phần vì cụ chịu đi mời, không ngừng nghỉ, một phần khách hàng thấy cụ tuổi cao sức yếu nên luôn mua ủng hộ
Bà không được trả lương theo tháng, mỗi năm chủ may cho hai bộ áo quần, cho ăn cơm ngày ba bữa và trả cho hai triệu đồng.
Nghiệt nỗi, vì bà Lùng có đông con cái, nhưng đứa nào cũng nghèo và có đứa vào tù ra tội nên chủ nhà cũng ngại vì chuyện bà để con cháu đến thăm hoặc bà giấu đun giấu đút cho con cháu. Bà hiểu điều này và thấy thông cảm cho chủ nhà, thấy thương thân mình, thương phận làm một con người nghèo khổ, không chốn nương thân hơn, bà không thấy buồn cho đời mình nhiều, cũng nhờ vậy mà bà tồn tại qua ngày đoạn tháng một cách dễ dàng, an nhiên.
Bán vé số, buôn ve chai đồng nát
Cụ Tứ, năm nay 90 tuổi, kể với chúng tôi rằng cụ đã lang thang bán vé số từ Sài Gòn ra Nha Trang, Qui Nhơn, Đà Nẵng rồi quay trở lại Qui Nhơn để kiếm sống qua ngày, nhưng sắp tới cụ phải quay trở lại Đà Nẵng vì người con gái của cụ đang bị bệnh tim, phải uống thuốc thường xuyên mỗi ngày và chuyện đi lại, sinh hoạt, ăn ở rất khó khăn, chính vì thế, cụ cần có mặt bên cạnh con gái mình để giúp đỡ. Nói đến đây cụ bật khóc vì thương cảm cho người con gái không có chồng con nhưng lại đeo đẳng bệnh tật, không biết đến khi cụ qua đời, người con gái bệnh tật của mình sẽ dựa vào ai.
Một cụ bà bán vé số. RFA
Với thu nhập mỗi ngày chưa đầy một trăm ngàn đồng, cụ Tứ nói rằng cụ là người bán vé số thuộc hàng đắt khách và ăn nên làm ra nhất trong giới bán vé số. Một phần vì cụ chịu đi mời, không ngừng nghỉ, một phần khách hàng thấy cụ tuổi cao sức yếu nên luôn mua ủng hộ và thỉnh thoảng có tặng thêm cụ vài đồng.
Chính vì thế, sau mười năm bán vé số, cụ dành dụm được hơn ba chỉ vàng phòng khi trái gió trở trời và khi cụ nằm xuống, còn có cái để con gái cụ bán mà mua thuốc uống qua ngày. Người con gái của cụ Tứ cũng đi bán vé số nhưng không thường xuyên và không đi bán cả ngày được như cụ. Cụ Tứ cho biết là đã được nhận tiền trợ cấp xã hội vài năm nay vì cụ trên 85 tuổi, mỗi tháng được 180 ngàn đồng, cũng đủ để trả tiền điện và tiền nước. Vì cụ và người con gái xài tiết kiệm nên mỗi tháng không tới 200 ngàn đồng tiền điện, nước.
Bán lai rai sống qua ngày và nếu được thì kiếm thêm hai chỉ nữa dành cho việc ma chay, tang điếu cho cụ và cụ bà. Nói chuyện đến đây, ánh mắt cụ Vạn (78 tuổi) lóe lên một tia hy vọng, giọng nói cụ hào hứng ra….Cụ Vạn thấy vui, nhưng chúng tôi thấy buồn cho phận làm một người nghèo Việt Nam đến muốn rơi nước mắt
Một cụ ông tên Vạn, 78 tuổi, người Nha Trang, Khánh Hòa, thuê phòng trọ bán vé số ở thành phố Qui Nhơn, Bình Định, nói với chúng tôi rằng bán vé số ở Bình Định không đắt bằng ở Khánh Hòa nhưng cụ chấp nhận mất tiền thuê trọ, ăn nhín uống nhịn để bán ở đây, vì làm như thế sẽ đỡ tội nghiệp cho con cái.
Cụ có năm người con, ba trai, hai gái, họ đã dựng vợ gả chồng xong rồi, nhưng nghiệt nỗi người nào cũng nghèo khổ, tuy họ rất hiếu thảo với cha mẹ, chia phần nhau về giúp đỡ cha mẹ nhưng cụ thấy mình thì còn sức lao động, con cái phải nhịn ăn nhịn mặc gửi về báo hiếu cha mẹ như vậy thì tội nghiệp quá, thôi thì để cụ bà ở nhà cho họ lo lắng, chăm sóc, còn cụ thì tìm cách đi bán vé số nuôi thân. Lúc đầu cụ bán tại Nha Trang, các con của cụ khóc lóc, lạy cụ đừng bán nữa.
Cụ thấy không ổn, trốn ra Bình Định bán vé số, thời gian trôi qua ngót nghét bảy năm ròng, cụ Vạn cũng tiết kiệm được sáu chỉ vàng. Cụ quyết định sẽ bán đến bao giờ kiếm đủ một lượng vàng để cho mỗi đứa hai chỉ, sau đó bán lai rai sống qua ngày và nếu được thì kiếm thêm hai chỉ nữa dành cho việc ma chay, tang điếu cho cụ và cụ bà. Nói chuyện đến đây, ánh mắt cụ Vạn lóe lên một tia hy vọng, giọng nói cụ hào hứng ra.
Âu đó cũng là nỗi hào hứng của một kiếp nghèo sống và lăn lóc mãi trong âm u của thiếu thốn và mặc cảm. Hốt nhiên, lúc về già, lại có một chút để dành cho con cháu làm hồi môn.
Cụ Vạn thấy vui, nhưng chúng tôi thấy buồn cho phận làm một người nghèo Việt Nam đến muốn rơi nước mắt.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Bloggers Việt Nam yêu cầu Nhà nước huỷ bỏ điều luật 258
RFA
2013-07-19
Blogger Phạm Viết Đào, 1 trong 3 blogger bị bắt gần đây nhất
Screen caption from Channel tiengnoidautranh
Mạng lưới blogger Việt Nam ra tuyên bố yêu cầu Nhà nước sửa đổi pháp luật, huỷ bỏ điều 258, Bộ luật Hình sự, như hành động đáp ứng điều kiện ứng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
69 người nêu tên và ký tên trong văn bản viết rằng khi muốn ứng cử vào cơ chế này, Việt Nam phải chứng minh việc thực hiện những điều cam kết của mình về việc duy trì những chuẩn mực cao nhất trong việc xúc tiến và bảo vệ nhân quyền.
Họ kêu gọi chính phủ Việt Nam xem xét lại điều 258, Bộ luật hình sự 1999, để bãi bỏ hay sửa đổi điều luật ấy, hầu chứng minh việc thực hiện cam kết như trên; các thành viên Đại hội Đồng LHQ cũng được yêu cầu thúc đẩy Việt Nam thi hành việc ấy trong thời gian Việt Nam vận động tranh cử vào HĐNQ/LHQ.
Việt Nam đã sử dụng điều luật 258 để bắt giam 5 blogger hoạt động cho nhân quyền và dân chủ trong tháng 5 và tháng 6 năm nay.
Mạng lưới blogger Việt Nam coi đó là hành động vi phạm bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền, điểu khoản về quyền tự do tư tưởng, tự do thu nhận, quảng bá tin tức và truyền đạt ý kiến.
69 bloggers Việt Nam nhân danh những người vận động cho quyền tự do tư tưởng và biểu đạt ở Việt Nam, kêu gọi sự xem xét lại và huỷ bỏ điểu 258, đồng thời coi việc ứng cử vào HĐNQ như cơ sở để thảo luận với tính xây dựng về nhân quyền tại Việt Nam.
Văn bản cũng nêu tên 17 tổ chức quốc tế nhận bản tuyên bố này của Mạng lưới blogger Việt Nam
Việt Nam trước ngã ba đường
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang
19.07.2013
Chuyến đi thăm Hoa Kỳ sắp tới của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang, được loan báo vội vã, đã khiến truyền thông quốc tế chú ý tới hướng đi tương lai cũng như chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Tin của Vietnamnet hôm nay xác nhận ông Trương Tấn Sang đi thăm Hoa Kỳ từ ngày 24 tới ngày 26 tháng 7 thể theo lời mời của Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama. Mục đích của chuyến đi là để thảo luận về hướng đi tương lai của các quan hệ song phương.
Vietnamnet trích lời người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị hôm qua nói rằng chuyến đi Mỹ khẳng định “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, tích cực hội nhập quốc tế” của Việt Nam.
Trong khi đó, trên trang mạng của Đại học Yale, YaleGlobal, một nhà cựu ngoại giao Mỹ và giờ là một nhà báo, tải lên một bài viết với hàng tít “Vietnam Between Rock and a Hard Place”, nói lên vị thế rất tế nhị của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Tác giả David Brown nêu nghi vấn: “Liệu có phải nỗi thất vọng với Trung Quốc là nguyên do khiến Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vội vã lên đường sang Washington?”
Ông David Brown là một nhà ngoại giao đã phục vụ tại Việt Nam trong nhiều năm. Ông nhận định rằng các chuyến đi thăm của các nguyên thủ quốc gia thông thường cần nhiều tháng để chuẩn bị, nhưng chuyến đi của Chủ tịch nước Việt Nam lần này được loan báo vội vã, và sau một cuộc tiếp xúc với lãnh đạo Trung Quốc “rõ rệt đã gây sốc” cho giới lãnh đạo tại Hà nội.
Bài báo đặt câu hỏi phải chăng ông Trương Tấn Sang và giới lãnh đạo hàng đầu khác của Việt Nam đã quyết định “trả cái giá mà Hoa Kỳ đã đòi để thiết lập quan hệ chiến lược?”
Trong một cuộc điều trần trước một tiểu ban quốc hội Hoa Kỳ hồi đầu tháng 6, các giới chức Bộ Ngoại giao Mỹ nói việc siết chặt các quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là việc bán vũ khí cho Việt Nam, sẽ được hoãn cho tới khi nào có những “cải thiện lâu dài, có thể chứng minh được trong tình hình nhân quyền tại Việt Nam.”
Tác giả nhận định rằng làm như thế, các giới chức chính phủ Mỹ đã công khai ghi lại những vấn đề họ đã đặt ra trong các cuộc tiếp xúc riêng tư, không ồn ào, với các giới chức Việt Nam trong vài năm qua.
Thông điệp đưa ra trong cuộc điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ dường như không được Hà nội lắng nghe. Theo hãng tin AP, nội trong năm nay, 43 nhân vật bất đồng chính kiến đã bị bắt giữ, gấp đôi số người bị bắt giữ trong năm 2012.
Ngoài ra, còn có chứng cớ cho thấy cánh an ninh mạng của cảnh sát Việt Nam đã tung ra công nghệ theo dõi mạng FinFisher, để cài đặt phần mềm theo dõi hoạt động của dân mạng khi họ truy cập các trang blog của các nhân vật bất đồng.
Hà nội vẫn tỏ thái độ bực dọc trước lời kêu gọi của Hoa Kỳ, hối thúc Việt Nam cải thiện nhân quyền. Tác giả cho rằng một số thành phần trong Đảng Cộng Sản Việt Nam đã cản trở việc nới rộng các quyền dân chủ vì lo sợ mục tiêu tối hậu của Hoa Kỳ là lật đổ chế độ đương quyền.
Chiến dịch đàn áp và bắt bớ giới blogger, không ngừng gia tăng trong thời gian qua, theo ông Brown, dường như biểu hiện xu hướng ngả về Trung Quốc, trong khi giới bất đồng trong mấy năm gần đây ngày càng lớn tiếng đả kích điều mà họ cho là sự thất bại của nhà cầm quyền tại Hà nội trong việc bảo vệ các lợi ích của quốc gia trước thái độ gây hấn của Bắc Kinh trong cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Nhà cựu ngoại giao Mỹ nói rằng mặc dù các lực lượng không quân và hải quân của Việt Nam không phải là không đáng kể, nhưng còn lâu mới có thể được coi là đối thủ của các lực lượng hải, không quân Trung Quốc. Do đó, thay vì tăng nguy cơ xảy ra xung đột trong cuộc tranh giành lãnh thổ lãnh hải với Trung Quốc, nhà cầm quyền tại Hà nội đã tìm cách kiềm hãm thái độ khiêu khích của Trung Quốc bằng cách dựa vào các đối tác khu vực trong khối ASEAN, và thiết lập “các quan hệ chiến lược” với Hoa Kỳ và các cường quốc ngoài khu vực khác.
Tác giả nhận định kết quả của các nỗ lực ngoại giao đó của Việt Nam cho tới nay, tương đối khiêm nhường. 10 nước hội viên ASEAN vẫn chưa thành lập được một mặt trận thống nhất để đương đầu với những đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Trước tình hình đó, Washington và đa số các nước ASEAN khác tuyên bố “không ngả về phe nào”, và tìm cách lảng tránh, không trực tiếp thách thức tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong các vùng biển giữa Hong Kong tới Singapore.
Trước tình hình ngày càng cấp bách, một số nhân vật ngoài Đảng và một phe phái đáng kể trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã hối thúc Hà nội hãy thiết lập quan hệ kinh tế và quân sự –trên thực tế- với Hoa Kỳ.
Mặc dù nhiều giới chức cao cấp trong Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tỏ thái độ hoài nghi trước “những động cơ ”của Washington, nhưng trong 4 năm trở lại đây, các cuộc tham khảo giữa Hà nội với các lực lượng quân sự Mỹ đã gia tăng một cách có thể nói là ngoạn mục. Chẳng hạn, hồi tháng 6, các giới chức quân sự cấp cao Việt Nam đã đi tham quan các căn cứ quân sự Mỹ.
Ông David Brown nhận định rằng sau chuyến đi thăm Trung Quốc, ông Trương Tấn Sang đã không mang về thành quả nào, ngoại trừ lời hứa Trung Quốc sẽ đề ra những bước hành động “hiệu quả và triệt để để giải quyết sự bất quân bình trong cán cân thương mại song phương” tới 16 tỉ đôla, nghiêng về hướng có lợi cho Trung Quốc.
Tác giả gợi ý rằng quyết định của Bộ Chính Trị, gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sang Hoa Kỳ là dấu hiệu cho thấy lãnh đạo Việt Nam đã bị chấn động vì những gì Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói với ông Trương Tấn Sang trong vòng riêng tư, và đó là lý do đã khiến Hà nội tỏ ra sẵn sàng hơn trong cố gắng xích lại gần Hoa Kỳ, với mục đích “thiết lập các quan hệ quốc phòng mật thiết hơn với Washington”.
Tuy nhiên tác giả cảnh báo rằng Tổng Thống Obama sẽ không hài lòng với những cử chỉ thiện chí có tính cách hời hợt, như hoãn lại vụ án xét xử một nhân vật bất đồng nổi tiếng, luật sư Lê Quốc Quân, vì như chính phủ Mỹ đã thừa nhận trước diễn đàn quốc hội hồi tháng trước, “nhân dân Hoa Kỳ sẽ không ủng hộ việc nâng cấp các quan hệ song phương với Việt Nam, trừ phi có những tiến bộ có thể chứng minh được trong lĩnh vực nhân quyền.”
Nguồn: Yale Global, Vietnamnet, Asia Sentinel, Time
Mạng lưới blogger Việt Nam yêu cầu Nhà nước sửa luật để gia nhập Hội đồng Nhân quyền LHQ
Các blogger Tạ Phong Tần – Nguyễn Văn Hải – Phan Thanh Hải
@danlambao
Hôm qua, 18/07/2013 đã xuất hiện « Tuyên bố của mạng lưới blogger Việt Nam » nhằm kêu gọi Nhà nước Việt Nam “phải sửa đổi pháp luật để chứng minh cam kết tranh cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc”. Một trong những yêu cầu chủ yếu của các blogger là chính quyền cần hủy bỏ điều 258 của bộ Luật Hình sự. Đây là điều luật thường được dùng để buộc tội và bắt bớ những người khác chính kiến.
Trong bản tuyên bố của các blogger có đoạn : « Là một ứng cử viên vào Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Việt Nam phải chứng minh các cam kết của mình nhằm hợp tác với HĐNQ và duy trì “những chuẩn mực cao nhất trong việc xúc tiến và bảo vệ nhân quyền”.
Những nghĩa vụ và trách nhiệm này không chỉ được áp dụng trên bình diện quốc tế, mà còn trong nội bộ Việt Nam. Chính quyền Việt Nam cũng cần xem xét lại tình trạng vi phạm nhân quyền trên đất nước họ và nhân dân Việt Nam cũng phải có quyền tự do tư tưởng và biểu đạt, kể cả các vấn đề nhân quyền. »
Trong vài năm trở lại đây, hàng chục blogger Việt Nam đã bị kết án tù, vì phổ biến trên mạng các bài viết thể hiện quan điểm một cách ôn hòa. Ngày 10/07, Tổ chức Phóng viên Không biên giới công bố một thỉnh nguyện thư, kêu gọi lấy chữ ký, để yêu cầu chính phủ Việt Nam trả tự do cho 35 blogger đang bị giam giữ.
Một trong những yêu cầu chủ yếu của các blogger là chính quyền cần xem xét lại điều 258, bộ Luật Hình sự, để bắt giữ tùy tiện những người bất đồng chính kiến, cũng như các điều luật liên quan. Bản Tuyên bố cũng khẳng định các blogger sẽ tiếp tục phổ biến các thông tin về nhân quyền và giám sát việc tôn trọng nhân quyền. tại Việt Nam.
Sau đây mời quý vị nghe tiếng nói của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, một trong 65 blogger đã ký tên vào bản tuyên bố trên.
|
Kỳ vọng gì vào chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch VN?
Chân Như, phóng viên RFA
RFA
2013-07-18
Chủ tịch VN Trương Tấn Sang gặp gỡ TT Hoa Kỳ Barack Obama tại Hội nghị cấp cao APEC 19 tháng 11/2011
AFP photo
Vào ngày 25 tháng 7 tới đây, chủ tịch nước Việt Nam ông Trương Tấn Sang sẽ có chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ. Thông cáo của Nhà trắng cho biết cuộc gặp này là cơ hội để hai bên thảo luận nhằm thắt chặt hơn nữa quan hệ đối tác liên quan đến các vần đề chiến lược trong khu vực và cải thiện hợp tác giữa Mỹ và khối Asean. Cũng như vấn đề về nhân quyền, thay đổi khí hậu và thảo thuận đối tác xuyên Thái Bình Dương cũng sẽ được thảo luận.
Giới blogger và các nhà dân chủ trong nước đánh giá sao về chuyến đi này của chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang? Chia sẻ với chúng tôi, blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, từ Hà nội cho rằng ông không đặt nhiều kỳ vọng lớn lắm cho cuộc gặp này vì khó lòng để có được 1 sự thay đổi sau chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang:
Theo cách nghĩ của tôi , việc ông Trương Tấn Sang đi thăm Mỹ thì chúng tôi là những người trong nước và chúng tôi cũng biết được việc viếng thăm của các ông ấy nhưng chúng tôi cũng không đặt một kỳ vọng nào lớn lắm về những chuyến viếng thăm như vậy.
Tôi còn nhớ năm 2007, ông Nguyễn Minh Triết sang Mỹ, thậm chí người ta còn đề cập đến những phiên tòa như phiên tòa xử “bịt mồm linh mục Thadeus Nguyễn Văn Lý”. Và ông ta khẳng định những phiên tòa mà bịt mồm như thế là không thể chấp nhận được. Thế rồi trở lại Việt Nam thì có những phiên tòa không chỉ bịt mồm mà có bịt tất cả các lối vào các phiên tòa ấy. Cho nên những vấn đề ấy vẫn như thế đối với những bloggers, những người phát biểu những chính kiến không vừa lòng nhà nước vẫn bị bắt bớ và bắt bớ hàng loạt.
“Chúng tôi là những người trong nước và chúng tôi cũng biết được việc viếng thăm của các ông ấy nhưng chúng tôi cũng không đặt một kỳ vọng nào lớn lắm về những chuyến viếng thăm như vậy.
– JB Nguyễn Hữu Vinh”
Đây là một quá trình dài chứ không phải là một cá nhân hay một nhân vật hay một chuyến đi thăm của một ông Chủ tịch nước, một ông Tổng bí thư hoặc ông nọ, ông kia mà nó có thể tạo ra một sự thay đổi để mà hy vọng. Chúng tôi không có hy vọng như vậy bởi vì đây là sản phẩm của một chế độ, một thể chế, một chính sách của một đảng lãnh đạo chứ không phải một cá nhân nào làm nên điều đó.
Do vậy việc ông Trương Tấn Sang sang Mỹ hay như vừa rồi ông sang Trung Quốc, tôi cảm thấy càng ngày càng thấy nản hơn vì chính sách đối ngoại như thế nên tôi không quan tâm để mà hy vọng có một cái gì đó cho vấn đề nhân quyền hay những vấn đề khác.
Bà Bùi Thị Minh Hằng, một tiếng nói đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam cũng đồng quan điểm như blogger JB Ngyễn Hữu Vinh, bà cho rằng với chuyến thăm Hoa Kỳ lần này, người dân trong nước cũng không có một động thái gì để tin tưởng rằng sẽ có mục tiêu tốt đẹp, bà cho biết:
Liên tiếp trong những ngày vừa qua thì những nhà lãnh đạo của Việt Nam thi nhau đi công du các nước. Trước chuyến đi Mỹ của chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì ông ta đã qua thăm Trung Quốc trước.
Rõ ràng người dân Việt Nam thấy rất thất vọng bởi vì ngay sau chuyến viếng thăm Trung Quốc thì đã có câu trả lời cho nhân dân Việt Nam : đấy là những cuộc tấn công của những tàu Trung Quốc vào ngư dân Việt Nam. Điều đó cho ta thấy là nhà cầm quyền Việt Nam đã bị lún quá sâu vào sự quị lụy đối với nhà cầm quyền Trung Quốc.
“Theo đánh giá của tôi thì chuyến đi của ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam và cân bằng quan hệ với Trung Quốc.
– LS Nguyễn Văn Đài “
Trong chuyến đi Mỹ tới đây, nhân dân Việt Nam ở trong nước có lẽ sẽ không có một động thái gì để mà tin tưởng là sẽ có một mục tiêu tốt đẹp; sẽ không có một sự thay đổi nào đối với xã hội Việt Nam trong tình cảnh hiện nay. Những động thái cho thấy là họ hoàn toàn không muốn thay đổi theo cái hướng dân chủ và tốt đẹp đối với người dân. Do vậy trước chuyến đi của chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì người dân đều có những dư luận phán đoán nó sẽ là những cuộc mặc cả về dân chủ thì đúng hơn là sự cải thiện về dân chủ.
Đối với những người hoạt động nhân quyền như LS Nguyễn Văn Đài thì ông mong rằng chuyến đi này của ông Trương Tấn Sang sẽ giúp cải thiện nhân quyền cho Việt Nam, ông chia sẻ:
Theo đánh giá của tôi thì chuyến đi của ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam và cân bằng quan hệ với Trung Quốc. Như chúng ta đã biết, một trong những trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt nam và Hoa Kỳ là vấn đề nhân quyền. Trong suốt từ năm 2007 đến nay thì mỗi một năm trôi qua, Việt Nam lại gia tăng đàn áp nhân quyền đối với người dân rất là cao.
Đặc biệt trong những tháng đầu năm nay thì đã có đến khoảng 40 người bị xét xử và cầm tù, có ngưới với mức án cao nhất là chung thân và tổng cộng lên đến hàng trăm năm tù. Đối với những người hoạt động nhân quyền và thúc đẩy tiến trình dân chủ ở Việt Nam như chúng tôi thì chúng tôi cũng mong rằng việc ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm mang lại sự cải thiện tình trạng nhân quyền ở Việt Nam, nhằm giúp cho tất mọi người dân Việt Nam có được bầu không khí chính trị cởi mở hơn và từ đó sẽ là bước đệm để mở ra một kỷ nguyên mới cho Việt Nam trong việc hội nhập quốc tế cũng như là cải cách dân chủ.
Được biết nhân chuyến thăm Hoa Kỳ lần này, đã có ít nhất 2 thỉnh nguyện thư đã được phát động trên mạng, nhằm thu hút chữ ký của hàng ngàn người cả trong lẫn ngoài nước, để kêu gọi TT Hoa Kỳ đặt nhân quyền Việt Nam là ưu tiên trên các vấn đề về mậu dịch với Việt Nam. Ngoài các thỉnh nguyện thư trên mạng, còn có chiến dịch kêu gọi mọi người viết thư tay gửi thẳng đến các lãnh đạo Hoa Kỳ, đề nghị nêu vấn đề nhân quyền trong cuộc gặp cấp cao Việt-Mỹ tại Tòa Bạch Ốc vào tuần tới.Đây là lần đầu tiên ông Trương Tấn Sang thăm Mỹ trong cương vị Chủ tịch nước, và cũng là lần thứ hai một Chủ tịch Việt Nam tới Washington.
Hà Nội chống lại tiến trình phong chân phước cho Hồng y Nguyễn Văn Thuận: Nhân chứng bị ngăn chận tại sân bay
Lan Chi
7/14/2013
|
||
Ông Nguyễn Hoàng Đức, nhà phê bình văn học, trước đây từng là công an, đã bị chặn khi ông đang lên máy bay. Ông là người được dự kiến sẽ đến Rome theo lời mời chính thức (của toà thánh) để có mặt trong lễ bế mạc của cuộc điều tra (phong chân phước) cấp giáo phận. Cuộc gặp gỡ của ông với vị Hồng Y đã bắt đầu hành trình biến đổi nơi ông, dẫn đến việc ông đã lãnh nhận phép rửa tội. Chính quyền Cộng sản muốn cản trở tiến trình này.
Hà Nội ( Thông Tấn Xã AsiaNews ) – Nhà cầm quyền Việt Nam đã ngăn chặn nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức, một nhân chứng sống trong tiến trình phong chân phước cho Đức HY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, khi đang lên máy bay đi Roma. Là một cựu viên chức của Văn phòng Ban Tôn giáo và An ninh của ngành Công an, lẽ ra vào ngày 05 tháng bảy ông dự kiến sẽ có mặt tại Vatican cho lễ bế mạc của cuộc điều tra cấp giáo phận để bày tỏ nhận định của mình trong tiến trình phong chân phước cho vị Hồng Y người Viêt. Tuy nhiên, bất kể đã có lời mời chính thức, ông đã bị nhân viên an ninh ngăn chặn. Một trong những lý do được đưa ra là do Hà Nội muốn chống lại tiến trình phong chân phước. Theo câu chuyện ông này kể lại trong bản tin tiếng Việt của Đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA), vào tối ngày 02 tháng 7 Nguyễn Hoàng Đức đến sân bay Nội Bài, Hà Nội, trình vé máy bay của mình tại quay vé của một hãng Thái Lan, là hãng hàng không ông dự định sẽ sử dung trong chuyến đi du lịch tới Ý. Tuy nhiên, ông đã được mời đến trình diện tại trụ sở công an của sân bay. Một quan chức nói với nhà phê bình, trí thức người Việt này rằng ông “không được phép” rời đất nước, nhưng lại không nêu rõ lý do vì sao ông bị từ chối. Các nhân viên (an ninh) chỉ đơn thuần nói thêm rằng họ đang “thi hành lệnh cấp trên”. Sau nhiều cuộc đàm phán và thảo luận, ông đã gắng thiết lập một thủ tục bằng lời nói, để việc từ chối cho ông xuất ngoại do nhà chức trách áp đặt phải được “trình bày rõ ràng”. Trong số những lý do cho sự can thiệp của công an cửa khẩu, là việc “không đồng ý” của chính quyền Cộng sản với tiến trình phong thánh cho Đức Hồng Y, người đã sống 13 năm đằng đẵng đầy khốn khó trong nhà tù của chế độ (cs). Điều này nêu bật lên bằng việc “hạn tù bị gia tăng” của một vị giáo sĩ cao cấp trong nhà tù của chính quyền. Sau đó là các lý do khác mà phần lớn liên quan đến “tư cách cá nhân” của nhà phê bình văn học, trước đây là một quan chức nhà nước, bây giờ là một nhà văn tự do và thường xuyên chỉ trích chính quyền. Ông Nguyễn Hoàng Đức ngày nay được biết đến và đánh giá cao về các tác phẩm văn học của mình, nhưng cuộc sống của ông lại có những liên kết chặt chẽ với Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, vì nhờ gặp gỡ vị Hồng Y này mà ước muốn được cải đạo đã được khơi dậy nơi ông Đức. Theo lời cựu quan chức này, ông đã “say mê” tư cách cá nhân của Đức Hồng Y. Đã có ba “phép lạ”, ông nói đã lãnh nhận từ cuộc gặp gỡ với Đức Hồng Y: chuyển đổi sang đức tin Kitô giáo, được chữa lành bệnh tật và được báo trước về một sự kiện trong tương lai. Cuộc hành trình chuyển đổi sang đạo Công Giáo và lễ rửa tội của ông sau này được kể lại trong một đoạn văn mang tên “Con đường của đức tin, qua sự trung gian của Đức Phan Xi cô-Xavie Nguyễn Văn Thuận”. Câu chuyện này đã góp phần vào việc phong chân phước cho Đức Hồng Y Việt Nam mà nhà cầm quyền Hà Nội muốn ngăn cản. (Source: http://www.asianews.it/news-en/Hanoi-against-the-beatification-of-Cardinal-Van-Thuân.-Canonisation-process-witness-stopped-at-airport-28451.html) |
Kêu gọi trả tự do cho tù nhân thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu!
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2013-07-16
07162013-urgen-cal-obsc-priso-ng-h-cau.mp3
Cháu Yến Nhi
Files photos
Tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu người bị giam tù tổng cộng cho đến lúc này là 37 năm hiện sức khỏe rất yếu kém trong trại giam. Gia đình và một số tổ chức quốc tế lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do ngay cho ông nếu không sẽ chết trong tù.
Cháu kêu oan cho ông
Cô bé Trần Phan Yến Nhi, năm nay 14 tuổi, và mới hồi đầu tháng sáu vừa qua trong chuyến cùng gia đình đi thăm ông Nguyễn Hữu Cầu tại trại giam Z30 A Xuân Lộc, Đồng Nai mới biết mặt người sinh ra cha của cháu.
Đến ngày 7 tháng 7 vừa qua, trên mạng Internet xuất hiện Thư kêu oan cho ông nội của cháu Trần Phan Yến Nhi. Trong thư cháu nhắc đến 30 phút thăm gặp mà người ông cho biết tình hình sức khỏe hiện rất yếu do những bệnh tật mù mắt trái, mắt phải chỉ còn thấy mờ mờ, suy tim nặng, máu không lên não được, hay bị xỉu, răng rụng hết chỉ còn một chiếc, đau dạ dày kinh niên và tóc bị nấm.
“Cô bé Trần Phan Yến Nhi cho biết gia đình từ thời cụ cố cho đến nay đã có hơn 500 lá đơn kêu oan mà không có kết quả gì. Nay cháu gửi đơn đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới”
Chính ông Nguyễn Hữu Cầu trước khi chia tay những đứa cháu đã nói hãy về kêu oan cho ông nội. Cô bé Trần Phan Yến Nhi cho biết gia đình từ thời cụ cố cho đến nay đã có hơn 500 lá đơn kêu oan mà không có kết quả gì. Nay cháu gửi đơn đến Tổ chức Nhân quyền Thế giới và mong những người lớn giúp chuyển đơn đến tận tay cho những người tại tổ chức đó với hy vọng giúp được cho người ông phải chịu tù qua hai thế kỷ.
Anh Trần Ngọc Bích, người con của ông Nguyễn Hữu Cầu sinh năm 1973 chỉ hai năm trước khi ông này bị đi học tập vào năm 1975 và không được mang họ cha, cho biết:
Ông Nguyễn Hữu Cầu, ảnh do cháu Yến Nhi chụp lén khi đi thăm ông nội lần đầu. Photo by Yen Nhi
Cảm nhận của con em khi đi thăm ông nội về thấy rất tội, cháu khóc hoài. Cháu có viết thư kêu oan, một bức gửi đến ông chủ tịch nước, một bức gửi bộ trưởng công an; nhưng cả hai bức đều chưa thấy trả lời. Và bức thư gửi tổ chức nhân quyền thế giới. Tôi cũng gửi thư đến các cô chú, ông bà lên tiếng cho ba tôi được ra ngoài; chứ nếu ở trong thì tôi nghĩ không bao lâu nữa ba tôi sẽ mất.
Khi đi thăm, mấy chú mấy bác có nói không được chụp hình vì nếu chụp hình lần sau họ sẽ không cho thăm. Thế nhưng đứa con của tôi lén dùng điện thoại của tôi và chụp được hai tấm hình của ông nội. Tôi nhắc cháu lời của các chú, các bác là không được chụp hình, cháu nói nếu không chụp lỡ khi ông nội bị chết trong trại lấy gì mà thờ; và cháu nói nếu không cho thăm sẽ viết đơn thưa nữa.
“Cảm nhận của con em khi đi thăm ông nội về thấy rất tội, cháu khóc hoài. Cháu có viết thư kêu oan, một bức gửi đến ông chủ tịch nước, một bức gửi bộ trưởng công an; nhưng cả hai bức đều chưa thấy trả lời
Anh Trần Ngọc Bích”
Một tù nhân lương tâm từng bị giam chung với ông Nguyễn Hữu Cầu tại trại Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai, ông Trương Minh Đức cho biết một số thông tin mà ông này có được về tù nhân xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu:
Trước đây tôi ở chung với ông Nguyễn Hữu Cầu tại K2 Xuân Lộc, từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 3 năm 2010. Sau đó tôi bị chuyển sang trại khác; ông Cầu vài tháng sau cũng bị chuyển sang K3. Ông Cầu chịu án quá lâu, nhiều chứng bệnh răng rụng hết ăn uống khó khăn, mắt một bên bị mù, một bên chỉ thấy mờ mờ… Sau khi chuyển sang K3 cũng có thông tin về ông Cầu: những anh em xây dựng đi lưu động xây dựng các công trình, một anh cho biết ông Cầu cũng bị giữ cô lập không thể liên lạc gì. Sau này có nghe ông bị bệnh nặng nên phải chuyển về lại K2. Ở đó ông cũng bị cô lập không được sinh hoạt với tù chính trị để những người này có thể chăm sóc cho ông. Ông luôn bị cô lập và sức khỏe nay rất kiệt.
Văn bút quốc tế lên tiếng
Hồi cuối tháng ba vừa qua, Ủy ban Văn bút Quốc tế Bênh vực Nhà văn Bị đàn áp và Cầm tù ra Thông cáo/ Kháng nghị thư bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình trạng của tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu trong trại giam Z30A Xuân Lộc, Đồng Nai.
Văn bút Quốc tế cho rằng việc giam giữ và đối xử với ông Nguyễn Hữu Cầu như thế là vi phạm Điều 19, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết. Văn bút Quốc tế kêu gọi phải trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho ông Nguyễn Hữu Cầu. Theo tổ chức này thì nếu ông Cầu không được khẩn cấp trị bệnh và tự do tiếp nhận sự chăm sóc y tế cần thiết sẽ có nguy cơ chết trong tù.
“Văn bút Quốc tế cho rằng việc giam giữ và đối xử với ông Nguyễn Hữu Cầu như thế là vi phạm Điều 19, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết. Văn bút Quốc tế kêu gọi phải trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho ông Nguyễn Hữu Cầu”
Sang đầu tháng 7, tổ chức Văn Bút Anh cũng lên tiếng kêu gọi cần có hành động khẩn cấp cho nhà văn Nguyễn Hữu Cầu. Lý do cũng như Văn bút quốc tế nêu lên là vì quan ngại ông này sẽ chết ngay trong tù.
Văn bút Anh kêu gọi gửi thỉnh nguyện thư đến cho ông Vũ Quang Minh, đại sứ Việt Nam tại Anh Quốc. Song song đó là gửi thông điệp ủng hộ đến ông Nguyễn Hữu Cầu và gia đình của ông.
Sự trả thù?
Cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Đức cho biết ngay tại trại Z30 A Xuân Lộc, Đồng Nai đã có một số trường hợp phải chết rũ tù mà ông có thể nhớ được:
Trường hợp chết trong tù của anh em tù nhân lương tâm, tù chính trị có ông Nguyễn Văn Trại hồi năm 2011; trước đó có linh mục Nguyễn Văn Vàng. Ông này bị bỏ đói và bị cùm; khi ông chết đang bị cùm…Tôi vào ông Cầu kể lại nhiều chuyện rất độc ác trong trại này.
Xin phép được nhắc lại, ông Nguyễn Hữu Cầu sinh năm 1945, quê quán Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Ông từng là một nhà thơ, soạn giả bài hát và là một cựu sĩ quan quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước đây. Ông bị bắt làm tù binh hồi năm 1975 cho đến năm 1980. Năm 1981, ông viết đơn tố cáo và làm thơ lên án Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân và phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang về những hành vi tội ác như hối lộ, hiếp dâm… Ông bị bắt hồi tháng 10 năm 1982. Đến tháng 5 năm 1983, ông bị tòa sơ thẩm kết án tội phá hoại với mức tử hình. Mẹ ông kháng án, tại phiên xử phúc thẩm 2 năm sau đó án giảm xuống còn chung thân.
Như trình bày của cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Đức, khi vào tù ông Nguyễn Hữu Cầu thường bị biệt giam và đối xử hết sức khắc nghiệt. Thế nhưng ông vẫn cho rằng bản thân không hề có tội gì.
Dân biểu Châu Âu lên tiếng về nhân quyền Việt Nam
Đại diện Cấp cao phụ trách chính sách ngoại giao và an ninh của Liên hiệp Châu Âu, bà Catherine Ashton.
15.07.2013
Hàng chục dân biểu quốc hội Châu Âu yêu cầu Đại diện cao cấp phụ trách an ninh-đối ngoại kiêm Phó Chủ tịch Ủy hội EU lưu ý những vi phạm trầm trọng về quyền con người tại Việt Nam và thúc đẩy Hà Nội cải thiện nhân quyền.
Thư đề ngày 11/7 của 34 dân biểu Châu Âu gửi bà Catherine Ashton nêu lên những quan ngại về thực trạng nhân quyền ngày càng tồi tệ của Việt Nam với khoảng 50 nhà đấu tranh dân chủ và bảo vệ nhân quyền đã bị kết án hoặc giam cầm trong năm nay.
Thư tố cáo các nhà hoạt động này bị bắt tùy tiện, bị đe dọa, thẩm vấn, và bị tước đoạt các quyền pháp lý giữa lúc chính phủ Việt Nam tiếp tục sách nhiễu các quyền tự do tôn giáo cũng như tăng cường trấn áp giới blogger.
Các dân biểu EU đồng ký tên trong thư chỉ ra rằng các tổ chức tôn giáo độc lập tại Việt Nam vẫn bị đàn áp, bị đập phá cơ sở thờ tự, bị tịch thu tài sản, và bị tù tội.
Thư nêu rõ bất chấp nhiều lời kêu gọi của cộng đồng quốc tế, Việt Nam vẫn giới hạn quyền tự do ngôn luận và kiểm duyệt internet gắt gao, nhắm mục tiêu các hoạt động trên mạng như theo dõi người dùng net, khóa chặn và đánh phá các trang web độc lập.
Các nhà lập pháp Châu Âu cho rằng tại Việt Nam đang diễn ra “một sự sụp đổ về pháp trị” với việc sử dụng các cáo buộc mơ hồ về tội “lật đổ chính quyền” và “tuyên truyền chống nhà nước” để bắt bớ những nhà cổ xúy nhân quyền, giam người không cần xét xử, và dùng các tội danh như “trốn thuế” để bỏ tù các nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng.
Theo dẫn chứng của các dân biểu EU, nhiều trường hợp giam cầm các nhà hoạt động chính trị tại Việt Nam đã được Nhóm Hành động của Liên hiệp quốc Chống Giam giữ Tùy tiện xác định là vi phạm luật quốc tế.
34 dân biểu Châu Âu ký tên trong thư yêu cầu Đại diện cấp cao của Liên hiệp EU kêu gọi Hà Nội phóng thích các tù nhân chính trị như blogger Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Paulus Lê Sơn, tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, luật sư Lê Quốc Quân, nhạc sĩ Việt Khang, mục sư Nguyễn Công Chính, hòa thượng Thích Quảng Độ, nhà hoạt động đất đai Trần Thị Thúy, sinh viên Nguyễn Phương Uyên hay Đinh Nguyên Kha.
Thư cũng đề nghị bà Catherine Ashton phát huy vai trò của Liên hiệp Châu Âu tích cực hơn trong việc hỗ trợ xã hội dân sự tại Việt Nam, thúc đẩy Hà Nội thực hiện cải cách pháp lý, dỡ bỏ các điều luật tiếp tay cho việc bắt giữ tùy tiện các nhà cổ xúy nhân quyền, cũng như thúc giục Việt Nam thông qua luật bảo vệ quyền phản kháng ôn hòa, quyền tụ tập, thực thi tự do ngôn luận, và thành lập các tổ chức chính trị xã hội.
Mặt khác, các dân biểu này cũng đòi hỏi EU phải tăng cường đưa vấn đề nhân quyền vào các cuộc đối thoại với Việt Nam, buộc Hà Nội phải chứng tỏ tiến bộ nhân quyền trước khi có bất kỳ phái đoàn cấp cao nào đến thăm Việt Nam. Họ đồng thời cũng yêu cầu Liên hiệp Châu Âu phải tái khẳng định điều kiện nhân quyền trong các mối quan hệ ngoại giao, kể cả các mối quan hệ thương mại, của EU với các nước thứ ba bao gồm Việt Nam.
Trước lá thư của 34 dân biểu Châu Âu, trên chục tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế hồi đầu tháng này cũng đã gửi thư cho Đại diện cấp cao phụ trách an ninh-đối ngoại của EU, Catherine Ashton, lưu ý bà về vụ án của luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân, người sắp bị đưa ra xét xử về tội danh “trốn thuế”.
Áp lực quốc tế về thành tích nhân quyền của Việt Nam đang gia tăng giữa chiến dịch leo thang đàn áp của Hà Nội đối với những người chỉ trích nhà nước.
Chính phủ Hà Nội nhất mực khẳng định tại Việt Nam không có tù nhân chính trị hay tù nhân lương tâm, mà chỉ có những người phạm pháp bị xử lý theo pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, Hà Nội thừa nhận còn nhiều khác biệt quan điểm giữa Việt Nam với quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền.
Vấn đề nhân quyền theo dự kiến sẽ được nêu lên trong cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ với Chủ tịch nước Việt Nam khi ông Trương Tấn Sang công du Hoa Kỳ vào ngày 25/7 tới đây.
Nguyễn Hiến Lê: kẻ sĩ thời đại!
Nguyễn Hiến Lê, một tác giả của hơn một trăm cuốn sách, một nhà biên khảo có nhiều công trình to lớn, một dịch giả chuyển ngữ được những tinh túy văn chương ra Việt ngữ, một học giả được nhiều nể trọng của văn giới, và cũng là một người đã trung thực khi viết hồi ký. Đọc những tác phẩm về văn học, về triết học, về xã hội học, về sử học, về ngôn ngữ học, hay các sách học làm người, chúng ta mới thấy được sự sâu sắc phong phú nhưng lại được diễn tả bằng một văn phong rõ ràng chính xác nhưng đơn giản nên nhiều vấn đề khúc mắc phức tạp trở thành dễ hiểu.
Thế mà, ông lại khiêm tốn nói rằng ông cầm bút viết để tự học hỏi. Không biết có phải đó là một điển hình kẻ sĩ để mấy vị hay cao ngạo khoe khoang phải suy nghĩ?
Đọc hồi ký “Đời Viết Văn của Tôi”, chúng ta thấy được gì? Có phải qua những tác phẩm, ông muốn bày tỏ tấm lòng của mình với văn chương chữ nghĩa. Nhìn và quan sát người khác dễ hơn là quan sát nhận định về chính mình. Ông cũng hiểu rất rõ điều ấy và trong phần mở đầu cuốn hồi ký ông đã rất khiêm nhượng :
“… Chép hồi ký về đời mình, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu lên những cái hay của mình mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu của mình ra thì nếu không phải do lòng tự cao cũng là để tự biện hộ. Dù là tập Confessions của JJ Rousseau hay tập Autobiography của Bertrand Russel thì cũng chỉ đáng tin một phần nào mà thôi.
Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết những điều tôi đã chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép lại từ 1974, đầu năm 1975, thì nội dung tất khác bây giờ nhiều, nếu trái lại tôi được sống đến năm 1985-1990 và lúc đó mới chép thì nội dung cũng lại khác, có thể khác xa nữa.
Tôi đã ghi tình cảm suy tư của tôi lúc này về một số ciệc đã xảy ra trong đời tôi mà tôi đã được nghe và thấy. Có nhiều chỗ tôi đã vô tình chép sai sự thực, hoặc bỏ sót, điều đó không sao tránh được. Lỗi ở lý tính con người, nó bị tình cảm sai khiến, lại thêm ở tuổi bảy mươi như tôi, nó suy giảm nhiều rồi..”
Ở trong nước vừa in Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê, gồm bốn cuốn bìa cứng toàn bộ gần bốn ngàn trang với Tập 1 : Triết học, Tập 2 : Sử học, Tập 3 : Ngữ học và Tập 4 : Văn học. Thật ra, như vậy vẫn chưa đầy đủ lắm với văn nghiệp của ông. Vẫn còn nhiều thiếu sót, dù bộ sách đã có bề dầy. Những công trình của ông, là những tài liệu khả tín cho những người lớp sau để có thể phác họa ra được một thực tế văn học của một thời đại nhiều đặc biệt.
Nguyễn Hiến Lê sinh năm 1912 và trong suốt cuộc đời đã trải qua rất nhiều biến cố của đất nước và dân tộc Việt Nam. Ông lớn lên khi lối học cổ điển “chi hồ dã dã“ bị suy vi và trường học đã dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông cũng có một thời học chữ Nho và sau đó vào trường học. Người cha mất sớm nên trong gia đình mẹ góa con côi có lúc ông đã lêu lổng trốn học nhưng sau đó lại tu tỉnh và học hành tiến bộ hơn. Có lẽ, ông chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục và đó cũng là một điểm đặc biệt của ông.
Nguyễn Ngu Ý trong ‘Sống và Viết“ đã có nhận định về Nguyễn Hiến Lê:
“Trong làng văn nước nhà, có lẽ không ai dự bị vào nghề lâu như anh : trên mười năm trời và thời hậu chiến chưa có tác giả nào viết, dịch đều và có sách xuất bản nhiều như anh; bốn mươi bốn quyển đã in và có độ một chục cuốn đang in hoặc sẽ in. Anh cũng lại là nhà văn mà nhiều người thắc mắc. Đã có hơn một người hỏi tôi :
– Anh Lê thuộc về lớp cổ hay lớp mới?
Quen anh trên mười năm mà tôi chưa từng tự hỏi như vậy bao giờ và tôi đã lúng túng không trả lời được.
Cứ xét lối làm việc thì anh là người mới : có tổ chức, có phương pháp như một nhà khoa học; nhưng xét lối sống, lối cư xử thì lại như một người cổ : thanh bạch, giản dị, chỉ ưa sách và hoa, ghét sự ồn ào, nhất là sự ồn ào của danh vọng ; tính tình có vẻ như hơi nghiêm ; đối với bạn bè thì chân thành nhưng cũng có cái vẻ đạm bạc của nhà Nho. Sách anh viết và dịch thì có những cuốn về tân kiến thức như thuật về Tổ Chức, về Tân Giáo Dục, về ngữ pháp, về kinh tế (học thuyết Fourastié); về Chính Trị (cuốn Xung Đột trong Đời Sống Quốc Tế) ; mà lại có những cuốn về cổ học như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc hay Đại Cương Triết Học Trung Quốc. Anh rất trọng cái thực học mà có lúc đề cao đạo học; trọng lối tổ chức làm việc của Âu-Mỹ mà lại ghét lối sống Âu-Mỹ thích cái tinh thần tri túc, thanh đạm của phương Đông. Trong cuốn Một Niềm Tin anh khuyên thanh niên phải xằn tay áo và thắt bụng lại, sản xuất gấp đôi mà tiêu pha bớt đi để nước nhà mới có cơ thịnh vượng được ; nhưng riêng anh có nhiều cơ hội làm giàu một cách lương thiện thì anh lại gạt đi. Anh viết cuốn ”Tổ Chức Công Việc theo Khoa Học” rồi lại dịch cuốn “The Importance of Living” (Một quan niệm sống đep) của Lâm Ngữ Đường. Anh rất thích ít bài cổ văn Trung Quốc như A phòng Cung phú, Đằng Vương Các Tự, Bắc Sơn Di Văn mà lại cũng rất thích các tác giả mới như Marcel Proust. Anh theo dõi những trào lưu tư tưởng mới cuả thế giới mà cũng vẫn đọc những tác phẩm của cổ nhân, đọc cả sách về Đông Y, về Tử Vi, Tử Bình, bói Dã Hạc, về Địa lý (môn phong thủy hồi xưa, mà đọc trong bản chữ Hán, đọc để biết. Văn anh viết có bài nửa biền nửa tản như bài Hương Sắc Trong Vườn Văn, có đoạn lại làm gợi nhớ tới lối hành văn của Michel Butor như đoạn cuối bài Đuổi Bắt Ảo Ảnh, nhưng xét chung thì anh rất ưa sự bình dị.
Cho nên bảo anh là cổ thì không đúng, mà bảo anh là mới thì anh cũng không mới hẳn. Anh có mâu thuẫn với anh chăng? Trong con người anh có hai phần chăng? Một phần chịu ảnh hưởng của gia đình, một phần chịu ảnh hưởng của học đường chăng? Nhưng bảo là mâu thuẫn thì có đúng không? Thế nào là mâu thuẫn? Thế nào là dung hòa? Tôi không biết được mà có lần đem ra hỏi lại anh, thì anh cũng không trả lời được, cho rằng đó là tùy theo nhận xét của mỗi người.,,”
Với tôi, tôi ngưỡng phục tác phẩm của ông. Với cách trình bày trong sáng, đơn giản nhưng không qua loa, người đọc dễ lãnh hội được những điều mà tác gỉa gửi gấm trong chữ viết. Và bàng bạc, trong chữ nghĩa, trong ý tưởng là cái tâm thẳng thắn và ý hướng giúp những người muốn học hỏi có dịp để đạt cho bằng được những kiến thức cần thiết cho đời sống.
Nhưng, tôi không thích ông ở ý hướng chính trị. Sống ở miền Nam nhưng lòng ông lại hướng về miền Bắc. Trong hồi ký ông viết :
“Cho tới năm 1974 tôi đã được biết ba xã hội : xã hội nông nghiệp của ông cha chúng ta, xã hội tư bản của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp và vài nét xã hội tiêu thụ (societé de consommation) ở htời hậu kỹ nghệ (post-industriel) của Mỹ; ba xã hội đó tôi đã phác qua trong các phần trên. Từ năm 1975 tôi lại được biết thêm một xã hội nữa mà người ta gọi là xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với Cộng Sản, ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ 1965 khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hy sinh có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có htể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp..”
Ông Nguyễn Hiến Lê đã viết thẳng thắn ra như vậy. Ông vẫn còn bị chiêu bài kháng chiến chống thực dân lôi cuốn mà không nhìn ra cái nguyên do của cuộc chiến ủy nhiệm của các thế lực cường quốc trên thế giới gây ra cuộc nội chiến tương tàn nối da xáo thịt. Cái tâm lý ấy khá thông thường với người miền Nam chưa bị nếm mùi cải cách ruộng đất, chưa bị đảng trị một cách lộ liễu như ở miền Bắc.
Một hành động chống đối bất hợp tác với chính quyền VNCH là ông đã từ chối Giải Tuyên Dương Sự Nghiệp Văn học Nghệ Thuật năm1973 của Phủ QuốcVụ Khanh Văn Hóa. Cũng như trước đó ông đã từ chối Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1967 khi ông được giải cùng với ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn. Ông từ chối với lý do là dùng hiện kim ấy để giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc và bản thân ông không tham dự giải…
Nhưng, sau khi đã sống với chế độ Cộng sản từ sau năm 1975. Ông nhận ra được sự thực và trong cuốn hồi ký đã giành ra một phần khá quan trọng nhận xét về thực trạng xã hội Việt Nam. Phần viết trong hồi ký ấy chỉ có bản in ở hải ngoại do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Từ Mẫn Võ Thắng Tiết là có, còn bản in ở trong nước của nhà xuất bản Hội Nhà Văn thì bị cắt xén và “biên tập” tơi bời…
Trong Tự Điển Văn học (bộ mơi) xuất bnả ở Sai Gòn năm 1992, Nguyễn Q. Thắng đã tóm gọn sự nghiệp văn học của ông Nguyễn Hiến Lê như sau :
“Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về cácd đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật.
Tác phẩm của ông bao gồm nhiều chủ đề như :
1- Văn học : Gồm một số tác phẩm đặc sắc và công phu như Hương Sắc Trong Vườn Văn ( 2 cuốn, 1962) Luyện Văn (3 cuốn, 1953), Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1954-1966), Tô Đông Pha (1970).. giới thiệu được những tinh hoa của văn học Trung Quốc cũng như nghệ thuật văn chương Việt Nam.
2- Ngôn ngữ học : Để Hiểu Văn Phạm (1952), Khảo Luận về ngữ pháp Việt Nam (1963) Chúng Tôi Tập Viết Tiếng Việt.. có nhiều phát kiến mới về ngôn ngữ học Việt Nam đồng thời vận dụng được những tiến bộ mới nhất của ngữ học hiện đại vào ngữ pháp tiếng việt.
3- Triết Học : Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (2 cuốin 1966) Nho Giáo Một Triết Lý Chính Trị (1958), Liệt Tử và Dương Tử (1972) một Lương Tâm Nổi Loạn (1970), Bertrand Russel (1971).. trình bày được một hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa cũng như những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Tây Phương hiện đại.
4- Sử Học : Gồm một số tác phẩm về lịch sử và văn minh sử thế giới như : Lịch Sử Thế Giới (4 cuốn, 1955), Bài Học Isarael (1968), Bán Đảo Ả Rập (1969), Bí Mật Dầu Lửa (1969) Bài Học Của Lịch Sử (19720, Nguồn Gốc Văn Minh(1974), Văn Minh Ả Rập (1969) Sử ký Tư Mã Thiên (1970), Chiến Quốc Sách (1968), Đông Kinh Nghĩa Thục (1954), Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1982).. là những cái nhìn xuyên suốt về lịch sử văn minh sử thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam.
5- Gương Danh nhân : gồm có một số tác phẩm viết về Gương hy Sinh (1962), Gương Kiên Nhẫn (1964) Gương Chiến Đấu (1966) Ý Chí Sắt Đá (1971), Những Cuộc Đời Ngoại Hạng (1970), Einstein (1971).. là những bài học thiết thực cho nhiều lớp người nhất là thành phần thanh thiếu niên đang ở ngưỡng cửa của cuộc đời.
6- Giáo Dục : trình bày những quan điểm về giáo dục về các lớp tuổi trong đời sống gia đình Việt Nam. Loại này gồm : Thế Hệ Ngày Mai (1953), Tìm Hiểu Con Chúng Ta (1966) Tự Học Để Thành Công (1954) Tự Học Một Nhu Cầu Của Thời Đại (1964), Làm Con Nên Nhớ (1968), Sống 24 Giờ (1956)
7- Tự luyện đức trí : Tác giả vừa dịch vừa nghiên cứu về các chuyên đề giáo dục có tính cách xã hội như Tương lai Trong Tay Ta (1962), Luyện Lý Trí (1965), Rèn Nghị Lực (1956), Ý Cao Tình Đẹp (1967) Loại này có trên hơn 20 cuốn có giá trị. Trước năm 1975 số ấn bản lên đến hàng vạn cuốn. Hiện nay các nhà xuất bản trong toàn quốc đang tiếp tục tái bản.
8- Cảo luận : là một số chuyên đề về văn chương, văn hóa, văn nghệ như Nghề Viết Văn (1956), Vấn Đề Xây Dựng Văn Hóa (1967), Mười Câu Chuyện Văn Chương (1975), Con Đường Hòa Bình (1971) là những đóng góp sáng giá của ông vào văn chương đạo đức và cảm thụ học thuật cho độc giả yêu mến văn nghệ.
9- Dịch thuật : Nguyễn hiến Lê có một khả năng dịch thuật rất sung mãn. Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến khi cuối đời ông có hằng chục công trình dịch thuật sáng giá nhất là các bộ tiểu thuyết lớn phương Tây như Chiến Tranh và Hòa Bình (4 cuốn, 1968), cầu trên Sông Drina (1972),Câu Chuyện Thương Tâm (1956) Kiếp Người (1962), Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim (1990), Cổ Văn Trung Quốc.. và một số lượng tác phẩm biên khảo viết bằng chữ Pháp, chữ Hán cổ cận thế giới.
10- Du Ký : gồm một số quyển ghi chép lại các lần đi thực địa ở các địa phương. Loại này không phải là những tác phẩm thuần túy văn chương mà là những đóng góp thiết thực cho khoa học tự nhiên, xã hội, văn học nữa như Bảy Ngày trong Đồng Tháp Mười (1954), Đế Thiên Đế Thích.. cùng một số sách về Quản Trị công nghiệp, kinh tế, gióa khoa toán, Bên cạnh ông còn viết hơn 300 chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành (trong các tạp chí ở Sài Gòn trước 1975)..”
Thật là một công trình văn học nghệ thuật đồ sộ. Ông là một học giả có nhiều uy tín trong giới trí thức và sau năm 1975, chế độ Cộng sản cũng có nhiều cư xử đặc biệt với ông. Những người như ông, như Bình Nguyên Lộc được níu kéo để tham gia vào sinh hoạt văn học nhưng đều bị cự tuyệt một cách khéo léo.
Năm 1981, ông Nguyễn Hiến Lê viết xong bộ hồi ký. Ở trong nước, nhà xuất bản Văn học in năm 1993. Ở hải ngoại, nhà xuất bản Văn nghệ của ông từ mẫn Võ Thắng Tiết in ra làm ba tập. Tập 1 xuất bản năm 1990, tập 2 xuất bản năm 1990, và tập 3 xuất bản năm 1988. So sánh hai bản in ở trong nước và ở hải ngoại, thấy sự khác biệt rất lớn. Bản in ở hải ngoại thì tôn trọng bản thảo không sửa chữ nào quan trọng trong khi bản in ở trong nước thì bị cắt xén và “biên tập “ tơi bời, nhất là những nhận định trung thực của tác giả Nguyễn Hiến Lê về tình trạng văn hóa, xã hôi, chính trị, kinh tế ở trong nước. Ông phê phán chính xác, nói có sách mách có chứng và bằng chứng là chính thực tế của cuộc sống. Do đó, bản ở trong nước không có những phần ấy là một điều cố nhiên của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Trước 1975, ông đã đọc những bài tố Cộng cũng như đã nghe những người từ Bắc di cư vào Nam kể lại thời cải cách ruộng đất. Hay đã đọc những cuốn sách viết về đời sống ở Nga, với sự kềm kẹp của mật vụ và những vụ khủng bố trắng thời Stalin. Hoặc biến cố tết Mậu Thân năm 1968 với vụ thảm sát ở Huế. Cũng như ông đã đọc những lời chỉ trích chế độ Cộng sản của nhà văn Soljenitsyne và nhà bác học Sakharov cha đẻ ra bom nguyên tử của nga. Rồi những André Gide, Bertrand Russel, mới đầu thiên Cộng nhưng sau lại chỉ trích nặng nề, hay những Koestler, Georghiu, Djilas,.. mới đầu là đảng viên trung kiên nhưng sau phản tỉnh chống đối gay gắt.
Dù vậy nhưng Nguyễn Hiến Lê vẫn thiên về miền Bắc và hy vọng rằng sau hiệp ước Paris sẽ có hòa bình và sẽ có chính phủ ba thành phần.
Nhưng, khi đã sống với Cộng sản, ông đã nhìn ra tất cả những khuyết điểm của một chế độ vô sản chuyên chính. Ông có những nhận xét rất xác thực, về đời sống người dân trong thời kỳ đó. Ông phân tích rõ ràng từ hệ thống hành chánh phường khóm, từ tinh thần làm việc bê trễ đến hệ thống giấy tờ phiền nhiễu phức tạp, cũng như nạn nhũng lạm, ức hiếp dân chúng. Ông kể chuyện những ngày đổi tiền, biết bao nhiêu người trở thành tay trắng vì thủ đoạn ăn cướp tài sản người dân một cách công khai. Rồi ông nhận xét về kinh tế, về công nghiệp, nông nghiệp, … mặt nào cũng đều thất bại thê thảm. Những công ty quốc doanh không tạo được sản phẩm, lại lối quản trị, làm việc lề mề, nên trở thành gánh nặng cho quốc gia. Những nông trường khai hoang, hoặc vùng kinh tế mới, làm theo chỉ thị và lấy có nên không có kết quả, và có thể là nơi lưu đày của những người sống ở thành phố. Về phân phối hàng hóa, thì ngăn sông chắn chợ, gây phiền hà cho dân. Rồi chiến dịch đánh tư sản, kiểm kê tài sản, những cuộc vơ vét, tịch thu của cải. Tóm lại, là cả một xã hội xuống cấp trầm trọng, tự do hạn chế, dân chúng nghèo khổ,..
Đọc Hồi ký Tập 3 của Nguyễn Hiến Lê, tôi có cảm giác như đang đọc một bản cáo trạng buộc tội chế độ Cộng sản một cách rất nặng nề. Trong hơn 200 trang giấy, ông viết thật chân thành, nêu lên những sự thực và gửi theo những nỗi niềm đau lòng của một người đã thức tỉnh dù hơi muộn màng. Dù được kể vào hàng nhà văn tiến bộ, và được chế độ mới dành cho nhiều ưu đãi cũng như mời mọc để tham dự các buổi lễ cũng như các sinh hoạt văn hóa nhưng ông tránh né và luôn luôn làm người đứng ngoài.
Đọc những đoạn văn, viết thẳng thắn, không sợ sệt, không né tránh sự thực, tôi mới thấy cái tư cách kẻ sĩ vòi vọi của ông. Có những người, hồi trước thiên Cộng, nay muốn thay đổi suy tư mà vẫn chưa dám mạnh dạn, vẫn còn nói quanh nói co, không dám chấp nhận cái sai sót của mình. Còn với ông Nguyễn Hiến Lê, nghĩ gì viết nấy, không có áp lực nào làm ông thay đổi được thái độ.
Hãy đọc đoạn ông viết về phong trào vượt biên :
“Từ năm 1977, người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói ”Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi” Dù phải gian lao khổ cực tới mức nào hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ở lại trong nước mà chết lần chết mòn, người ta nghĩ vậy..” (trang 109)
Hay : ”Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam.Trước ngày 30 – 4 -1975, miền Nam rất chia rẽ, nhiều giáo phái đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc.., cả về đạo đức nữa, vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham ( tôi nói số đông) ít chịu làm cái công việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói tới người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau : cùng là ngụy với nhau mà!..” (trang 115)
Hoặc : ” làm cho người dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm, bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền. Lệnh trung ương ban hành, địa phương không theo, làm ngược hẳn lại, lương hưu trí không phát, tiền tiết kiệm gửi ngân hàng không cho rút ra mà không thẳng thắn cho họ biết lý do, cứ làm thinh để dân chờ hết ngày này qua năm khác, chờ chán thì tuyệt vọng thôi không đòi hỏi nữa; cho người ta vượt biên bán chính thức, thu của mỗi người bao nhiêu lượng vàng rồi bỗng nhiên ngưng lại hết mà không trả đủ vàng lại cho người ta; thâu thuế của người ta và cho phép bán ở chợ trời rồi đột nhiên bao vây cả một khu, tịch thu hết hàng hóa; khi chưa nắm chính quyền thì hứa sẽ bỏ hết các thuế chợ, chia đất cho dân cày,, nắm chính quyền được ít lâu thì thuế chợ còn nặng hơn trước, mới chia đất cho dân thì đã bắt đầu vào hợp tác xã nông nghiệp, bỏ quyền làm chủ miếng đất của họ mà làm chủ tập thể ; tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng miền Nam theo chế độ dân chủ, trung lập, rồi một năm sau đã thống nhất quốc gia, hủy bỏ chế độ đó, bắt miền Nam theo chế độ xã hội chủ nghĩa như miền Bắc; báo chí, các đài phát thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính các cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy làm sao dân tin chính quyền được..” (trang 119-120)
Và rất nhiều những đoạn tương tự như thế trong tập hồi ký. Viết hồi ký có phải là ghi lại trung thực những sự kiện. Tôi nghĩ như thế. Và xa xôi hơn, trong hoàn cảnh lúc đó, trong sự theo dõi nghặt nghèo như vậy, ông Nguyễn Hiến Lê đã viết được những trang sách để đời. Những người lớp sau, đọc những trang sách ấy, không còn bị che dấu bởi những lối viết mập mờ của những người viết không dám nói lên sự thực. Ngay như một người đi theo Cộng sản đến cuối đời như Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí mà còn nói : “Thời trước mình viết, ngụy nó bỏ tù mình cũng không sao, bây giờ mà viết để cho cách mạng bắt giam mình thì kỳ quá mà lại kẹt cho họ nữa”
Tôi là một người đọc rất nhiều sách của tác gỉa Nguyễn Hiến Lê, hầu như trên lãnh vực nào tôi cũng học hỏi được rất nhiều. Với tôi, ông là một ông thầy lớn, một học giả uyên bác, một người khảo cứu sâu sắc và cẩn trọng. Nhưng, còn một điều quan trọng hơn nữa là tôi kính phục cái tư cách kẻ sĩ của ông. Qua bộ hồi ký, ông tỏ lộ được cá tính của mình, của một người trí thức không bẻ cong sự thực. Và, ông đã can đảm nói lên cái nhầm lẫn của mình khi chưa sống với Cộng Sản. Ông là một trí thức đúng nghĩa trí thức …
Tu Cam Tran
Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản
Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-07-14
Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ.
AFP
Tầng lớp nông dân Việt Nam hiện đang bị mất đất, bị bóc lột trong chính một chế độ mệnh danh là đấu tranh cho giai cấp công nông. Một giai cấp mới đã được hình thành sau khi cuộc cách mạng cộng sản thành công.
Cờ đỏ búa và liềm
Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ, một biểu tượng cho liên minh công nhân và nông dân, xưa cũ gần 100 năm. Biểu tượng này được cho là có một hiệu quả vô song trong việc thu hút tầng lớp dân cày trong những năm đầu tiên của cuộc cách mạng Nga năm 1917. Những người dân cày vốn ít học, không thể hiểu những triết lý phức tạp về kinh tế chính trị của các ông Karl Marx, Engel,…khi thấy cái liềm gặt thiết thân của cuộc đời họ, bèn đứng lên đi theo đảng Bolsevik lúc ấy ở Nga, và những đảng cộng sản sau này trên khắp thế giới.
Về nguyên tắc, các đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, nếu không xuất thân từ hai giai cấp công nhân và nông dân, thì cũng là đại diện cho họ, đấu tranh cho quyền lợi của họ. Đặc biệt trong tình hình cụ thể của xã hội Việt Nam, với đại đa số dân chúng là nông dân thì hình ảnh cái liềm trên lá cờ đảng càng có giá trị lớn lao, ngay từ khi đảng cộng sản Đông Dương mới thành lập hồi năm 1930 cho đến nay.
“Biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền vẫn là lá cờ búa và liềm màu vàng trên nền đỏ, một biểu tượng cho liên minh công nhân và nông dân…Biểu tượng này được cho là có một hiệu quả vô song trong việc thu hút tầng lớp dân cày”
Bên cạnh biểu tượng lưỡi liềm, các đảng cộng sản cũng đề ra các khẩu hiệu dễ hiểu rất dân túy để cổ vũ tầng lớp nông dân. Năm 1930 được biết đến cuộc nổi dậy của nông dân tại Nghệ Tĩnh với khẩu hiệu nổi tiếng, Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ, tức là tiêu diệt hết những giai cấp khác ngòai nông dân; hay sau đó là Ruộng đất cho dân cày. Người nông dân khắp nơi đã kéo nhau theo đảng cộng sản tiến hành cuộc chiến tranh giai cấp cho Đảng, với hy vọng có được ruộng đất để mà sử dụng cái liềm vàng đẹp đẽ trên lá cờ đỏ màu máu cách mạng.
Ruộng đất cho dân cày. Người nông dân khắp nơi đã kéo nhau theo đảng cộng sản với hy vọng có được ruộng đất
Với một đảng chính trị có tổ chức chặt chẽ, cùng với sự hậu thuẫn của hàng triệu nông dân, những người cộng sản đã nắm chính quyền, nắm một cách độc tôn. Và ở Việt Nam, họ đã thực hiện lời hứa với những người dân cày bằng cuộc cải cách ruộng đất diễn ra sau năm 1954. Trong trận chiến giai cấp này, các khái niệm trừu tượng của kinh tế chính trị Marxism đã biến thành các con số phần trăm trong dân chúng là địa chủ ở mỗi làng để cách mạng tiêu diệt. Nhiều người đã chết dù không có một tấc đất nào trong tay. Người địa chủ nổi tiếng ở miền Bắc là bà Nguyễn Thị Năm, người ủng hộ tiền tài nhân lực cho đảng của ông Hồ Chí Minh, nằm trong những người bị xử bắn đầu tiên.
Những người chết rồi cũng bị quên đi trước những khó khăn vất vả của đời thường, của hợp tác xã nông nghiệp, và của các tập đòan sản xuất tại miền Nam sau ngày đất nước được thống nhất. Tất cả mọi người dường như đã trở thành chung một giai cấp công nông, dường như cuộc đấu tranh giai cấp đã thành tựu.
Giai cấp cộng sản và những đặc quyền
Nhưng giai cấp đã không mất đi. Milovan Djilas, nhân vật số hai của đảng cộng sản Nam Tư, đã viết vào năm 1957 rằng: Một giai cấp mới đã hình thành, và cả hệ thống cộng sản được xây dựng để bảo đảm cho quyền làm chủ và bóc lột của giai cấp mới này. Đó chính là giai cấp cộng sản cầm quyền.
“Một giai cấp mới đã hình thành, và cả hệ thống cộng sản được xây dựng để bảo đảm cho quyền làm chủ và bóc lột của giai cấp mới này. Đó chính là giai cấp cộng sản cầm quyền”
Nếu đặc quyền của giai cấp mới vào những năm chiến tranh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa chỉ là vài cân thịt ngon ở cửa hàng Tôn Đản, hay vài thước vải đẹp cung cấp theo tiêu chuẩn, thì từ năm 1986 trở đi, năm mà đảng cộng sản quyết định kết hôn ý thức hệ công nông của mình với kinh tế thị trường tự do, nó đã trở nên trù phú hơn. Bây giờ là nhà xưởng sản xuất công nghiệp để thu lợi trên sự bóc lột giá trị thặng dư của người công nhân theo lý thuết của Karl Marx, và đất đai.
Milovan Djilas viết tiếp, Dù về mặt pháp lý tài sản là của xã hội, của quốc gia, nhưng trên thực tế chỉ có một nhóm nhỏ kiểm sóat và thu lợi từ đấy.
Khi người cộng sản lấy lại đất từ người nông dân…Files photos
Tài sản quan trọng nhất đối với đại đa số dân chúng Việt Nam chính là đất đai, và nay nó thuộc sỡ hữu tòan dân, tức là do cái nhóm nhỏ cộng sản cầm quyền kiểm sóat.
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng không được hô hào nữa. Hàng đòan nông dân mất đất đi khiếu nại, thưa kiện từ Nam ra Bắc, vì đất đai của họ bị tịch thu, dưới danh nghĩa dùng cho các dự án phát triển kinh tế xã hội của những công ty, mà trên thực tế nhiều đảng viên cộng sản, hoặc những người có quan hệ chặt chẽ với bộ máy quyền lực của đảng, nắm giữ. Các cuộc biểu tình này thường xuyên bị chính quyền cộng sản của giai cấp công nông Việt Nam dẹp đi. Chưa có thống kê nào về số lượng các cuộc biểu tình đòi đất hàng năm, nhưng chỉ trong vài năm gần đây, có thể nêu nhiều vụ xảy ra liên tiếp, vụ nông dân lõa thể giữ đất ở Cần Thơ, vụ Văn Giang, vụ Dương Nội, rồi đỉnh cao là vụ Đòan Văn Vươn ở Hải Phòng nơi mà súng đã nổ thay cho luật pháp. Và trong khi những dòng chữ này đến với quý độc giả thì hàng trăm nông dân làng Trịnh Nguyễn, Từ Sơn Bắc Ninh đang dầm mưa giải nắng giữ đất.
Luật gia Lê Hiếu Đằng, người từng trải qua kinh nghiệm với đảng cộng sản suốt mấy mươi năm đã phát biểu,
“Chưa có cuộc cách mạng nào hứa hẹn nhiều và thực hiện ít như cuộc cách mạng cộng sản
Milovan Djilas”
“Trước kia nông dân nghe theo Đảng để mong có ruộng đất. Cái chuyện nông dân ly tán, khổ đâu vì mất đất là do đâu? Là do cái quy định đất đai là sở hữu tòan dân!”
Lời phát biểu của ông Lê Hiếu Đằng như một bức tranh tổng kết những gì những người cộng sản đã hứa hẹn khi họ còn hàn vi ngày xưa đến khi họ trở thành giai cấp mới ngày nay.
Còn những người nông dân đã tự nguyện đứng dưới lá cờ của giai cấp công nông thì nghĩa gì?
Bà Ngô Thị Đức, một nông dân ở làng Trịnh Nguyễn, có 47 tuổi đảng và bị đảng của bà khai trừ vì bà đấu tranh cho quyền lợi của những người nông dân, nói với chúng tôi,
“Tôi nhiều năm phấn đấu để vào đảng, nay họ làm sai, tôi thấy cũng chả cần. Sợ mất dân hơn là mất Đảng. Phần mình mình phải lo, ai mà lo tới mình thì mình đã toi rồi.”
Có phần chắc là bà Ngô Thị Đức và những người nông dân làng Trịnh Nguyễn không biết Milovan Djilas là ai, chỉ biết rằng… “họ” tức những người cộng sản cầm quyền đã làm sai. Họ đã trở thành một giai cấp mới, cũng bóc lột như trong những cuốn sách lý thuyết cộng sản mà đảng cộng sản phát cho các đảng viên của mình.
Điều khá mỉa mai, là khi những người nông dân Trịnh Nguyễn giữ đất chống giai cấp mới, họ vẫn trương cờ đỏ búa liềm, và khi Đòan Văn Vươn nghe lời tuyên án vẫn nói lời cảm ơn đảng cộng sản, đảng của một giai cấp mới.
Có lẽ để kết thúc, chúng tôi mượn lời cựu phó chủ tịch đảng cộng sản Nam Tư, Milovan Djilas, “Chưa có cuộc cách mạng nào hứa hẹn nhiều và thực hiện ít như cuộc cách mạng cộng sản.”