S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Về Ngoại

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Người ta bảo sông có khúc, người có lúc. Thế mà, khúc đời nào của Việt Kiều Cambodia cũng nhiêu khê. Thời nào của họ cũng là thời mạt vận.

NgyThanh

Thông tín viên Võ Thành Nhân (SBTN) vừa buồn bã loan tin: nhà báo Lê Văn Phúc đã từ trần vào hôm 7 tháng 8 năm 2020, tại Reston – Virginia. Tác phẩm (Tôi Làm Tôi Mất Nước) đầu tay của ông do Văn Hữu xuất bản năm 1985, và Thế Giới Ấn Quán tái bản – lần thứ 5 – vào năm 1989. Với thị trường sách báo hải ngoại thì đây là một hiện tượng hiếm hoi.

Lê Văn Phúc được nhiều người tìm đọc vì không ít độc giả đã cùng chia sẻ với ông cái cái tâm cảm, hay mặc cảm (mất nước) bàng bạc trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản từ nhiều thập niên qua. Gần đây, tác giả Thụy Khuê vừa gửi đến mọi người một cách tư duy khác, mới mẻ và khoáng đạt hơn, qua tập bút ký (Quê Hương Ngày Trở Lại) xuất bản vào tháng 6 năm 2019:

“Khi miền Nam thua trận năm 1975, nhiều người Việt phải bỏ nước ra đi, không ít người kêu than ‘mất nước’. Kêu như thế là chưa hiểu gì về đất nước: đất nước ta là một tập hợp sông núi, con người, văn hoá và lịch sử ngàn năm, nó có cái vinh quang cũng có cái ô nhục, bởi nó là tổ tiên ta, ta phải gánh tất cả, bởi nó đã ở trong ta, trong dòng máu.

Sinh con, ta tưởng nó là của ta, nhưng không, con ta là của nó. Duy chỉ có đứng trên đất nước, chỗ nào, ta cũng cảm thấy đó là của mình, đất nước là cái sở hữu duy nhất mà con người có được. Đi du lịch, biết bao nhiêu cảnh đẹp thế gian bầy ra trước mắt, nhưng cảnh đó không phải của ta, nó là của người Tầu, của người Pháp, của người Nhật… chỉ có nước Việt là của ta, của mình, miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được thua…

Vì thế, nước không bao giờ mất, chỉ thay đổi chế độ. Nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn không phải là chủ đất nước, họ là những người cai trị đất nước trong một thời đại. Nhìn như thế, ta sẽ thấy lòng an nhiên tự tại, một niềm hãnh diện mở ra tới vô cùng, bóp chết những thương đau, thù hận.”

Nỗi lòng “anh nhiên tự tại” của một vị nữ sỹ (e) khó có thể được chia sẻ bởi tất cả mọi người, nhất là những kẻ đang lâm vào bước đường cùng trong kiếp tha hương.  Lịch sử của một triều đại, hay một chế độ, có thể kéo cả hàng thế kỷ mà kiếp người  thì chỉ tính bằng năm. Không ít những mảnh đời tuy rất ngắn ngủi nhưng đã bị bầm dập đến te tua thì quê cha, hay đất tổ, chỉ là một khái niệm rất mơ hồ và vô cùng mù mịt. Xin ghi lại một:

“Năm 1993, Yến chết thảm ở tuổi 21. Đám tang của Yến diễn ra trong một ngày mùa đông buồn thảm. Cái buồn thảm không giống những nỗi buồn tôi từng chứng kiến trong các đám tang khác khi còn ở Việt Nam.

Lần cuối cùng người ta thấy Yến đi với một gã người Campuchia khoảng một tuần trước. Khách đã thỏa thuận và chi tiền trước với chủ chứa để ‘bao’ Yến trong hai ngày. Nhưng ba, rồi bốn ngày vẫn không thấy Yến về.

Linh tính có điều gì chẳng lành xảy ra với cô nên hai người chị kết nghĩa là Hương và Trầm bỏ tiền nhờ người đi tìm. Để có thêm tiền chi trả việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải ‘làm thêm’, tức là tiếp khách nhiều hơn ngày thường.

Người ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã không còn nguyên vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị vứt ở chân núi Mô Păng. Vì chủ chứa – một mụ đàn bà người Việt có nước da bợt như xác chết, không cho làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm phải đi kiếm gỗ, dựng tạm cho cái chòi tại khu đất trống để có chỗ kê quan tài. Đám tang lèo tèo vài ba người hàng xóm thất nghiệp trong đó có tôi, ngồi dự cho đỡ tủi. Yến có thằng con trai lên bốn tuổi, tên là Hên. Thấy mẹ chết, nó gào khóc, tiếng khóc tôi chưa từng nghe thấy bao giờ:

  • Ụ má mày, mày xí gạt Mày hứa đưa tao về quại mà mày hổng đưa. Mày bỏ tao mày đi. Choi me hặn…hặn tau na… cùm ngợp. (Đù má mày…mày đi đâu… đừng chết.) … Dậy đưa tao về quại!” (Phạm Thanh Nghiên. Chuyện Kể Của Chồng) .

Bà Yến từ trần vào năm 1993 khi Hên mới vừa lên 4. Tính đến năm nay thì cậu bé này đã trở thành một thanh niên ở tuổi ba mươi. Tôi băn khoăn tự hỏi: chả hiểu người người đồng hương trẻ tuổi của mình, nếu vẫn còn sống sót, có còn muốn về quê ngoại?  Và “lỡ” muốn thì đường về liệu có còn lối hay không?

Báo Công An Nhân Dân vừa, số ra ngày 31 tháng 7 năm 2020, vừa đăng tải một bản tin (ngắn ngủi) đọc mà muốn nát lòng:

“Lúc 6h30’ cùng ngày, Tổ công tác của Trạm kiểm soát thuộc Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phối hợp với Chi cục Hải Quan Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phát hiện hàng chục đối tượng (gồm người lớn và trẻ em), di chuyển từ phía Campuchia qua tuyến biên giới tỉnh An Giang, trên 8 thuyền máy.

Tổ công tác tiến hành dừng phương tiện, dẫn giải người, phương tiện về Trạm kiểm soát Biên phòng cửa khẩu quốc tế xác minh, điều tra, làm rõ.

Qua lấy lời khai, được biết có 7 hộ gia đình với 41 khẩu (20 người lớn, 21 trẻ em) sống tại tỉnh Siem Reap và tỉnh Pur Sát (Campuchia). Do hoàn cảnh sống khó khăn nên có ý định trốn về Việt Nam sinh sống tại tỉnh Đồng Tháp và Tây Ninh. Tất cả đều không có giấy tờ hợp pháp, không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương đã tiến hành lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xuất, nhập cảnh trái phép bằng hình thức cảnh cáo đối với 14 đối tượng là chủ hộ gia đình, cho làm cam kết không tái phạm.”

Hoá ra đất nước chỉ “miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được thua…”, nếu kẻ tha hương vẫn có một nơi anh lành (nào khác) để tạm cư và có thể về thăm chơi – đôi ngày – bất cứ lúc nào với passport cùng một mớ ngoại tệ bên mình. Chứ với những kẻ lâm vào bước đường cùng (không có một đồng xu dính túi) thì đất nước và quê hương không có chỗ dành cho họ.

Mất nước – rõ ràng – là thực tại phũ phàng đối với nhiều người, chứ chả phải là chuyện nói theo giọng cường điệu hay nói cho vui miệng thôi đâu.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Phan Thắng Toán

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Giới yêu nhạc Việt, có lẽ, đều đã từng nghe bản nhạc “Tình Lỡ” của Thanh Bình (“Thôi rồi còn đâu chi anh ơi/ Có còn lại chăng dư âm thôi/ Trong cơn thương đau men đắng môi…) nhưng e không nhiều người biết đến tác phẩm “Lá Thư Về Làng” do Lúa Mới phát hành hồi 1956:

Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng
Sắt son gửi trong mấy hàng
Thăm bà con dãi dầu năm tháng
Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang
Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng

Thương những già hôm sớm lang thang

Em thơ ơi có còn học hành sớm tối
Áo nâu tươi gái làng còn che môi cười
Và đàn bò còn nghe chim hót lưng đồi
Nhớ nhung rồi, thương quá lắm bé thơ ơi…

Đám “bé thơ” mà Thanh Bình “nhớ nhung” (hồi giữa thế kỷ trước) nay đều đã trở thành những công dân lão hạng, nếu mà sống sót. Còn tác giả thì qua đời từ lâu, sau một thời gian “hôm sớm lang thang” ngay tại Sài Gòn – một thành phố đã mất tên – nơi mà ông đã tìm đến để lánh nạn khi còn là một thanh niên.

FB Lâm Ái cho biết:

“Ở cái tuổi 80, ít ai tin rằng một nghệ sĩ nổi tiếng nhưng không nhà không cửa, lang thang xin ăn ở chợ, bến xe. Các anh công an đưa ông về trại dưỡng lão thì phát hiện ra là nhạc sĩ Thanh Bình và đưa ông về ở với cháu gái (con gái của chị ruột).

Vợ chồng cháu gái làm công nhân, làm thuê đời sống hết sức khó khăn. Đầu năm nay ca sĩ Ánh Tuyết đã tổ chức đêm nhạc cho ông, chị cũng đã làm được 2 sổ tiết kiệm. Nhưng vì ông đột ngột mất, con gái đang đi tù nên không thể rút được tiền làm đám tang.

Ca sĩ Ánh Tuyết lại là người bên ông, lo cho đám tang của ông. Điều đáng buồn, dù ca sĩ Ánh Tuyết có kêu gọi hỗ trợ nhưng dường như số tiền vẫn không đủ để lo cho đám tang, đành xin quan tài lục giác của chùa để an nghỉ.”

Thôi thế cũng xong!

Cuối cùng, Thanh Bình cũng đã có nơi “an nghỉ” – dù hơi cô quạnh! Bạn đồng nghiệp và đồng thời với ông, lắm kẻ – tiếc thay – đã không có được chút may mắn đó:

“Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình… Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù.

Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần… Vào một buổi sáng năm 1995, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân.” (Hoài Nam. “Bẩy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam 1930 – 2000”).

Sao lại đến nông nỗi thế nhỉ? Chả lẽ chỉ vì Trúc Phương “lỡ dại vượt biên”, và vì Thanh Bình “lỡ chân vượt tuyến” nên mới ra cớ sự chăng?

Không hẳn thế đâu!

Có những kẻ luôn sống ở miền Bắc, không hề di cư hay di tản (lần nào cả) nhưng vẫn phải trải qua một kiếp nhân sinh còn bầm dập/te tua và tơi tả hơn thế nữa. Ông tên là Phan Thắng Toán – biệt danh Toán Xồm –  sinh năm 1932, bị bắt giam từ năm 1968 (vì tội “tuyên truyền văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc”) và đã lìa đời từ lâu.

Bi kịch của cuộc đời Phan Thắng Toán có thể hiểu được – phần nào – qua vài câu đối thoại (hơi hài) do nhạc sỹ Tô Hải ghi lại, trong một phiên tòa tại Hà Nội, vào hôm 12/ 01/1971:

Chánh án: Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi truỵ không?

Toán xồm: Dạ! Thưa quý toà, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hoà Dân Chủ Đức thôi ạ!

Chánh án: Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?

Toán Xồm: Dạ! Paloma là của nước bạn Cu Ba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất Bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sỹ biểu diễn ạ!

Chánh án: Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?

Toán Xồm: Dạ! Có ạ!! Đây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cu Ba ạ!

Chánh án: Thế còn Tango bleu chắc anh cũng đổ cho Cu Ba hết hả?

Toán xồm: Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ác-giăng-tin nhưng đã được quốc tế hoá. Vừa giờ Đoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều xử dụng cả ạ!

Chánh án: Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Đừng có ngụy biện!

Toán Xồm: Dạ! Đánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn… chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!

Chánh án: Anh hãy im miệng! Đồ ngoan cố!Và cứ như vậy, suốt phiên tòa Chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Đồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.

Cuối cùng, toà luận án và tuyên án: “Việc làm của bọn này đã gây ảnh hưởng xấu cho phong trào trật tự trị an, phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách lao động sản xuất, chính sách nghĩa vụ quân sự… xâm phạm nghiêm trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều người, và tuyên truyền xuyên tạc lại chế độ xã hội chủ nghĩa trong lúc cả nước đang chiến đấu chống Mỹ xâm lược.”

“Do tính chất nghiêm trọng của vụ án nói trên, toà quyết định xử phạt Phan Thắng Toán 15 năm tù giam và 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Đắc, 12 năm tù giam và 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Lộc 10 năm tù giam và 4 năm bị tước quyền công dân …” (“Phan Thắng Toán và Đồng Bọn Đã Bị Xét Xử” – báo Hà Nội Mới 12/ 01/1971).

Chơi nhạc Tango, Rumba, Cha Cha Cha … thì có gì mà “nghiêm trọng” đến độ phải ngồi tù lâu dữ vậy, hả Trời?

Mãn hạn tù lại bắt đầu một bi kịch khác:

“Nhà tôi có 5 người chen chúc trong cái phòng 09 m2, thêm anh Toán Xồm nữa là sáu. Thế nên anh cũng không thể tá túc mãi ở chỗ tôi. Anh có mỗi bà chị ruột thì đã di cư vào Sài Gòn trước 1954, ở Hà Nội không còn ai thân thích. Anh Toán Xồm cứ lang thang ‘lãng tử’ nay đây mai đó, lúc màn trời khi chiếu đất.

Cho đến ngày 30/04/1994 … sáng đó là kỷ niệm ngày thống nhất đất nước nên công an phường đi dẹp đường. Họ bắt gặp anh Toán Xồm vạ vật và hấp hối trên vỉa hè, liền cho người báo tin. Nhưng anh chẳng còn ai trong giờ phút lâm chung, chỉ có cái vỉa hè … chứng kiến.”  [Kim Dung – Kỳ Duyên. Cung Đàn Số Phận (Hồi Ký Lộc Vàng). Hội Nhà Văn: Hà Nội, 2018].

Qua năm sau (1995) thì Trúc Phương qua đời tại Sài Gòn, cũng không có ai “chứng kiến” ngoài … “đôi dép nhựa dưới chân.” Tuy kẻ Bắc/người Nam nhưng số phận của cả ba ông, tưởng chừng, chả khác gì nhau?

Tưởng vậy thôi, chớ không phải vậy đâu.

Họ khác chớ và khác lắm!

Tuy sinh cùng thời (và cùng nơi) với Phan Thắng Toán nhưng nhờ di cư vào Nam nên Thanh Bình đã có cơ hội viết được nhiều bản nhạc bất hủ, trước khi cuộc cách mạng vô sản biến ông thành một kẻ trắng tay (rồi) một lão … ăn mày! Trúc Phương cũng thế, ông cũng kịp “để lại cho chúng ta một di sản vô giá” (theo nhận định của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam) rồi mới nằm chết cong queo ngoài bến xe đò.

Còn ở giữa lòng Hà Nội (nơi được mệnh danh là “Thủ Đô Của Lương Tâm & Phẩm Giá Con Người”) thì Toán Xồm chả hề có được chút cơ hội hay cơ may nào sất, và dường như ông không có chi để lại cho đời – dù chỉ là một “đôi dép nhựa”!

Quy hoạch kém, Đà Lạt lại ngập nặng sau cơn mưa

Báo Nguoi-viet

June 23, 2023

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Nhiều đoạn đường tại khu trung tâm thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, được ghi nhận ngập khoảng nửa mét trong trận mưa kéo dài chỉ một giờ vào hôm 23 Tháng Sáu.

Theo tường thuật của báo Tuổi Trẻ, những con đường bị ngập nặng, cây cối ngả la liệt là Trần Quốc Toản, Phan Đình Phùng, Mạc Đĩnh Chi…

Nhiều con đường ở khu trung tâm thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, ngập nửa mét sau cơn mưa chiều 23 Tháng Sáu. (Hình: Tuổi Trẻ)

Thậm chí đoạn đường Trần Quốc Toản đi qua Đồi Cù ngập lênh láng. Nước từ sân golf Đồi Cù chảy ra đường đỏ quạch, biến con đường thành một bờ tràn dẫn nước ra hồ Xuân Hương.

Đáng nói, trong số các con đường bị ngập nặng, có một số tuyến được nhà chức trách dùng tiền thuế dân để nâng cấp cống rãnh, tiến hành các biện pháp chống ngập chưa được bao lâu.

Do vậy mà một số người dân thành phố này “tỏ vẻ bất bình, vừa khóc vừa tát nước ra khỏi nhà.”

Bà Nguyễn Thị Mừng, một người dân địa phương, cho hay: “Tình trạng ngập ở đường Phan Đình Phùng chỉ mới xảy ra trong hai năm gần đây. Trước khi sửa đường Phan Đình Phùng, tuyến đường này không bị ngập dù mưa to trong thời gian dài, thậm chí cả ngày.”

Vụ mưa ngập ở Đà Lạt khiến người ta nhớ lại lần ngập lụt tương tự diễn ra vào đầu Tháng Chín năm ngoái.

Thời điểm đó, các khu dân cư, nhà vườn nằm dọc suối Phan Đình Phùng, suối Cam Ly bỗng nhiên trở thành sông, khiến nhiều đồ đạc, vườn rau bị thiệt hại nặng nề.

Sau đó, không có bất kỳ giới chức nào của Ủy Ban Nhân Dân Đà Lạt đứng ra nhận trách nhiệm về tình trạng quy hoạch kém và nạn phá rừng khiến thành phố cao nguyên bây giờ cứ mưa to chỉ một giờ là ngập nặng.

Nhà chức trách dọn dẹp cây đổ trên nhiều con đường sau cơn mưa. (Hình: Lâm Đồng)

Theo giới quan sát, dường như giới lãnh đạo ở Đà Lạt cũng như tỉnh Lâm Đồng không quan tâm nhiều đến các vấn đề dân sinh mà chỉ lo “làm ăn,” kiếm chác nhờ chiếc ghế béo bở.

Theo tờ Thanh Niên hồi Tháng Mười Một năm ngoái, cùng lúc cả hai ông Trần Duy Hùng, bí thư Thành Ủy Đà Lạt, và Nguyễn Văn Triệu, bí thư Thành Ủy Bảo Lộc, đều làm đơn “xin nghỉ hưu trước tuổi.”

Trước đó, hai ông Hùng, Triệu đều bị khiển trách, nhưng sai phạm của họ chỉ được ghi lấp liếm trên mặt báo là “thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm quy định của đảng, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương, nhất là vai trò người đứng đầu đảng bộ, gây dư luận xấu, bất bình trong xã hội, làm ảnh hưởng uy tín cá nhân, tập thể…” (N.H.K)

Đảng & Dân– Tưởng Năng Tiến

Đảng & Dân

Thỉnh thoảng, báo chí quốc doanh vẫn có mấy mẩu tin ngăn ngắn về Lễ Trao Huy Hiệu Tuổi Đảng cho đồng chí này hay đồng chí nọ. Ngoài Việt Nam, dường như, không đâu có cái thứ “lễ lạt” nhạt nhẽo và chán phèo như thế cả. Xứ sở này, không chừng, cũng dám là nơi duy nhất mà danh tính của một cá nhân luôn kèm theo tuổi … đảng:

  • Nguyễn Thị Bình 75
  • Lê Khả Phiêu 73
  • Lê Đình Kình 58 …

Trong một chế độ đảng trị thì thâm niên tuổi đảng quả là một thành tích đáng kể nhưng đó không phải là một thứ “kim bài miễn tử” (hay miễn tù hoặc miễn bị sách nhiễu/bạo hành) nếu đảng viên đi … trật đường rầy!

RFA cho biết: “Cho đến khi bị Cảnh sát cơ động Hà Nội bắn chết vào ngày 9-1-2020, thủ lĩnh tinh thần của người dân Đồng Tâm, cụ Lê Đình Kình vẫn còn là một đảng viên đảng Cộng sản có hơn 55 năm tuổi đảng.”

Cách đó chưa lâu, vào hôm 15 tháng 4 năm 2017, ông Lê Đình Kình (LĐK) cũng đã bị “hành hung” đến trọng thương và phải nằm nhà thương gần đến chục ngày.

Ủa! Chớ ổng đã phạm phải lỗi lầm gì mà Đảng xuống tay (và nặng tay) dữ vậy cà?

Chuyện cũng hơi dài dòng nhưng không có chi là khó hiểu. Tuy là một đảng viên lão thành nhưng LĐK không “nhất trí” với đường lối và chủ trương (“Đất đai tuy thuộc sở hữu toàn dân nhưng do Nhà nước quản lý) của Đảng. Đã thế, sau khi bị hành hung đến độ phải nhập viện vì cái quan niệm (“trật lất”) của mình, ông vẫn thản nhiên tuyên bố: “Các anh có đưa máy chém chém ngay đầu tôi đi chăng nữa, thì tôi vẫn giữ quan điểm đây là đất nông nghiệp của xã Đồng Tâm.”

Nói năng linh tinh như thế, dưới chế độ hiện hành, là một cách vời họa vào thân. Họa vốn “vô đơn chí” nên chả phải tìm kiếm đâu xa mà ngay chính người dân địa phương đã vô tình đón (và đưa) ông LĐK vào … cửa tử.

Báo Tuổi Trẻ đi tin: “Sau 10 ngày điều trị tại Bệnh viện Việt Đức do bị gãy xương đùi, chiều 2-5, cụ Lê Đình Kình đã được đưa về với gia đình tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội… rất đông người dân Đồng Tâm đã xếp hàng dài từ ngoài đường làng đến trước cổng nhà cụ Lê Đình Kình để chào đón cụ Kình trở về.”

Nếu đám đông đừng “mừng đến rơi nước mắt” khi LĐK được xuất viện, và đừng tôn vinh nhân vật này là “thủ lãnh tinh thần” thì chưa chắc lão nông phu chân chất của xã Đồng Tâm đã bị thảm sát, và thảm họa cũng đã không xẩy ra cho cả gia tộc của ông.

Tại Việt Nam, “các đồng chí ở trên” không chỉ toàn quyền trong chuyện lãnh đạo mà họ còn độc quyền làm lãnh tụ nữa cơ. Với chủ trương toàn trị, họ không thể dung thứ cho bất cứ một loại “thủ lãnh tinh thần” nào sất. Cỡ chủ tịch xã nghỉ hưu mà được đám đông dân chúng công kênh, hoan hô (vì thái độ bất tuân) thì buộc phải bị loại thôi. Ông bị sát hại bằng súng tại nhà vào hôm 9 tháng 1 năm 2020.

Cái chết của ông khiến cho không ít kẻ bàng hoàng, và lắm người đã rơi nước mắt. Nhà thơ Bùi Chí Vinh cảm thán:

Tru di ta viết một bài hành

Chuyện xưa giờ tái hiện sử xanh

Đồng Tâm có cụ Kình giữ đất

Chẳng ai ngờ bụng rạch, thây phanh

Hai con án chết đầy oan khốc

Một cháu chung thân xử rành rành …

Vụ bà Lê Thị Dung, một đảng viên khác (Bí Thư Chi Bộ Trung Tâm Giáo Dục Huyện Hưng Nguyên) thì hơi khác. Báo Tuổi Trẻ, đọc được hôm 13 tháng 6 năm 2023, cho hay:

Sau hai ngày xét xử, chiều 13-6 hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh Nghệ An đã tuyên phạt bị cáo Lê Thị Dung mức án 15 tháng tù về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ…   

HĐXX nhận định tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Dung mức án 5 năm tù là quá nghiêm khắc, do số tiền bị cáo hưởng lợi (gần 45 triệu đồng) là không lớn, nhân thân bị cáo tốt, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Việc cấp sơ thẩm chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo Dung là áp dụng thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.

HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Dung 15 tháng tù, tính từ ngày bị bắt giam 28-3-2022 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ. Như vậy, cuối tháng 6-2023, bà Dung sẽ chấp hành xong án phạt. Trước đó, trong phiên tòa sơ thẩm, cô Lê Thị Dung bị tuyên mức án 5 năm tù.”

Tuy HĐXX đã “rút kinh nghiệm” và cũng hết sức quan tâm đến “các tình tiết giảm nhẹ” nhưng bản án 15 tháng tù – xem chừng – vẫn cứ khiến cho lòng người sôi sục:

  • Ngô Trường An : “Không được! Tòa phải tuyên vô tội thả ngay cô Dung tại tòa, xin lỗi và bồi thường.”
  • Nguyễn Vũ Bình: “Đây là một trường hợp vô cùng thú vị để nghiên cứu về một hệ thống khuyết tật bao gồm những con người khuyết tật hãm hại một người trung thực, thẳng thắn và không có bất kỳ một tỳ vết gì.”
  • Đoàn Bảo Châu : “Tôi tin rằng phiên toà phúc thẩm vừa diễn ra là một phiên toà RÁCH NÁT. Muốn xoa xuýt dư luận, hạ nhiệt bức xúc nhưng không đủ dũng cảm và phục thiện để tuyên bố vô tội.”
  • Thái Hạo: Tôi tin, không một người có lương tri nào có thể kìm được nước mắt vì sự phẫn nộ, đau xót, bất lực của mình khi nghe những gì cả một bộ máy đã làm với một người vô tội.
  • Chu Vĩnh Hải: Cô giáo Lê Thị Dung ở Nghệ An vô tội! Công lý là công minh chứ không phải để ban phát!
  • Vũ Tuân: “Từ 60 tháng tù giảm xuống 15 tháng. Công Lý là tên hề nổi tiếng.”
  • Trần Thị Thảo: “Mặc dù giảm xuống còn 15 tháng nhưng vẫn thấy rừng rú thế nào ấy.”
  • Nguyễn Thông: “Vụ xử sơ thẩm và phúc thẩm đối với cô Dung chả khác gì trò đùa, với đủ trò mưu mẹo dấm dúi và trắng trợn. Pháp luật trong tay kẻ tiểu nhân cai trị chỉ là trò đùa dai của vở diễn hài nhân danh công lý.”
  • Nguyễn Khanh: “Chán nhỉ!”

Tôi thì trộm nghĩ khác (“khó nhỉ!”) nhưng chỉ dám nghĩ thầm thế thôi vì sợ gạch đá tứ phương. Nói gần nói xa, chả qua nói thực thì được vậy cũng “tử tế” lắm rồi. “Pháp luật đang trong tay những kẻ tiểu nhân” mà từ sơ thẩm đến chung thẩm bản án đã giảm được tới ba phần tư rồi, chớ đâu phải ít.

Dù cũng chả hả hê chi về phiên toà thượng dẫn nhưng đi tính lại tôi bỗng bật tiếng cười (vui) khi nhớ đến đôi lời đàm tiếu, nghe được ngay sau khi Việt Nam vừa được vào W.T.O:

  • Blogger Ôsin: “Thật nực cười khi, chỉ khi chịu sức ép của ‘các nước tư bản’, ‘đảng của giai cấp công nhân’ mới (có thể) thừa nhận các quyền căn bản của công nhân.”
  • Blogger Nguyễn Vạn Phú: “Điều mỉa mai là Việt Nam phải trông chờ vào một hiệp định ký với các nước tư bản để các nước tư bản này gây sức ép buộc Việt Nam phải bảo vệ công nhân của mình, không để giới chủ bóc lột quá đáng!”

Còn điều “nực cười” và “mỉa mai” trong vụ án vừa qua là nếu không có sức ép của đồng bào thì các đồng chí ở Nghệ An đã “xử đẹp” bà Bí Thư Chi Bộ (Trung Tâm Giáo Dục Huyện Hưng Nguyên) rồi. Tuy không đến nỗi bị phanh thây, xẻ ngực và lãnh án chu di tam tộc như trường hợp của ông Lê Đình Kình nhưng bà Lê Thị Dung cũng rũ tù – dù vô tội.

Tình đồng chí của đảng CSVN, rõ ràng, không chỉ đáng kinh mà còn đáng tởm nữa. Từ trung ương đến địa phương chúng đều bất nhân, bất nghĩa, bất tín như thế cả. Sự tàn ác của Đảng, xem ra, chả từ bất cứ ai – kể cả cái đám đảng viên lau nhau của nó.

Đôi khi, tôi băn khoăn tự hỏi: Sao hà khắc, bạo ngược (và trơ tráo) đến vậy mà cái Đảng ôn dịch CS vẫn tiếp tục cầm quyền ở Việt Nam gần cả thế kỷ qua? Chả lẽ vì dân tộc này đã quá quen với bạo ngược và hà khắc của chế độ hiện hành nên không còn mấy ai quan tâm gì đến công bằng, công đạo, công lý tâm, và công tâm nữa?

TNT

– Tưởng Năng Tiến

Khúc cây của một ông tìm được dưới ruộng bị tỉnh Kon Tum chiếm đoạt

Báo Nguoi-viet

June 22, 2023

KON TUM, Việt Nam (NV)  Sau hơn một năm được ông Lê Quang Nam, ở thị trấn Sa Thầy, huyện Sa Thầy, tìm thấy dưới lòng đất, khúc cây “nổi tiếng bậc nhất của tỉnh Kon Tum” đã bị giới hữu trách tỉnh này xác lập “sở hữu toàn dân,” tức của nhà nước.

Theo báo Người Lao Động, hôm 22 Tháng Sáu, ông Nguyễn Ngọc Sâm, phó chủ tịch tỉnh Kon Tum, đã ký quyết định “xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản vùi lấp được tìm thấy.”

Số gỗ bị Công An Huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, tạm giữ hơn một năm qua. (Hình: Trần Hướng/Tuổi Trẻ)

Theo đó, “căn cứ các quy định của pháp luật,” Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Kon Tum “xác lập sở hữu toàn dân đối với bốn tấm gỗ tổng cộng hơn 4.2 khối và sáu tấm bìa đã mục nát” được ông Nam, 44 tuổi, ở thị trấn Sa Thầy, xẻ ra từ một khúc cây đào lên từ dưới ruộng.

“Ủy Ban Nhân Dân huyện Sa Thầy phải chỉ đạo Phòng Tài Chính-Kế Hoạch phối hợp với Công An Huyện Sa Thầy và các đơn vị có liên quan thực hiện bảo quản tài sản trong thời gian chờ cấp có thẩm quyền quyết định phê duyệt phương án xử lý tài sản theo quy định,” nội dung quyết định nêu.

Theo báo Pháp Luật TP.HCM, trước đó hôm 23 Tháng Ba, 2022, trong lúc được thuê làm đất ruộng cho ông A Khái ở xã Sa Sơn, cùng huyện, ông Nam phát hiện một khúc cây dài khoảng 12 mét, đường kính khoảng 0.7 mét và đã bị vỡ nát phần gốc bị vùi lấp dưới lòng đất. Ông Khái thỏa thuận để ông Nam lấy khúc cây này thay cho tiền công san lấp.

Cuối Tháng Ba, ông Nam đến Ủy Ban Nhân Dân xã Sa Sơn, huyện Sa Thầy, trình báo sự việc và xin phép được đào khúc cây trên để về làm đồ gia dụng.

Ủy ban xã đã tổ chức đến hiện trường xác minh. Qua đó, giới chức xã này đã lập biên bản xác định nơi phát giác khúc cây trên “không phải đất rừng” và cây gỗ này “không xác định được thời gian, khối lượng cũng như nguồn gốc.”

Trong biên bản ghi rõ, ông Nam sau khi đào lên hoàn thành thì báo về xã để cử lực lượng hữu trách xuống kiểm tra cụ thể, phúc trình cấp có thẩm quyền giải quyết theo quy định.

Được sự cho phép của xã, ông Nam huy động nhiều phương tiện, nhân công để đào khúc cây mang về với chi phí khoảng 90 triệu đồng ($3,879).

Đến hôm 8 Tháng Tư, 2022, sau khi đào xong, ông Nam có báo cho ủy ban xã Sa Sơn. Đến ngày 20 Tháng Năm, 2022, không thấy cơ quan hữu trách đến, nghĩ rằng khúc cây không có giá trị nên ông Nam cho vận chuyển về xưởng đồ gỗ, nội thất Đoàn Đức Đạt để xẻ gỗ gia công làm đồ gia dụng.

Ông Lê Quang Nam và lệnh xử phạt vi phạm hành chính. (Hình: Pháp Luật TP.HCM)

Thế nhưng sau đó, Công An huyện Sa Thầy bất ngờ ập tới lập biên bản, tạm giữ, với lý do số gỗ trên “có hồ sơ, nguồn gốc lâm sản không đầy đủ, chưa rõ ràng.” Số gỗ đã cưa xẻ liền được đưa về trụ sở Công An Huyện Sa Thầy, đồng thời cán bộ công an ra quyết định “tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính…” và xử phạt hành chính 4 triệu đồng ($170) với cáo buộc “chiếm giữ tài sản của người khác.”

Nói với báo Thanh Niên, ông Nam kêu oan cho rằng mình đã bỏ rất nhiều công sức, chi phí để đào khúc gỗ. Nếu số gỗ trên bị tịch thu, xử phạt thì ông chịu thiệt hại rất lớn. Thế nhưng công an nói “không oan” vì ông “cố chiếm đoạt số gỗ đã phát hiện mà không đợi xử lý.” (Tr.N)


 

Hơn 30 năm nhìn lại, nhân dân và đất nước Việt Nam vẫn là nạn nhân của “giải pháp tạm bợ” của đảng CSVN

Báo Tiếng Dân

Trương Nhân Tuấn

23-6-2023

“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là giải pháp tạm bợ đưa ra để cứu đảng trong nhứt thời, trong hoàn cảnh thế giới XHCN sụp đổ. Bởi vì “kinh tế thị trường” thì không ai có thể “định hướng” được hết cả.

“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là giải pháp tạm bợ, là phương tiện để Việt Nam hội nhập cộng đồng quốc tế. Tạm chấp nhận “Nhà nước pháp quyền” mang nội hàm của “Etat de Droit”, thì “Etat de Droit” chỉ có thể xây dựng trên một xã hội dân sự, dân chủ tự do (chớ không thể xây dựng trên nền tảng XHCN).

Phỏng vấn Dân Oan LÊ THỊ KIM-THU – VẤN NẠN DÂN OAN – Đài Phát Thanh Đáp ...

Vấn đề là đảng CSVN đã lấy cái tạm bợ để làm cái vĩnh cửu.

“Chính sách ngoại giao cây tre” hay “quốc phòng bốn không” của Việt Nam thể hiện cụ thể cho chính sách (ngoại giao và quốc phòng) tạm bợ đó.

“Đưa người cửa trước rước người cửa sau”. Đây không phải là cái cách hành xử của một quốc gia có uy tín trên quốc tế. Nếu Việt Nam là quốc gia độc lập có chủ quyền thì việc tiếp đón hàng không mẫu hạm Mỹ ở Đà nẵng là chuyện của Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng thời gian (tàu Mỹ cặp bến Việt Nam) lại công du qua Trung Quốc.

Không hề có loại ngoại giao “quan hệ trên nhiều chân kiềng”! Khi nói “chân kiềng” là người ta nghĩ đến những gì chắc chắn, vĩnh cửu. Có gì vĩnh cửu khi lợi ích của các quốc gia luôn biến hóa?

Cá chết, ngư dân ít ra khơi, tàu Trung Quốc xâm phạm lãnh hải

Tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam với sự trợ lực của Hải Cảnh TQ

Về nội trị, giải pháp tạm bợ đã trở thành “chủ nghĩa tạm bợ”. Cán bộ lãnh đạo vì vậy không có trách nhiệm về bất cứ cái gì. Ba mươi năm qua, tài sản của quốc dân, thể hiện qua các xí nghiệp nhà nước (xí nghiệp quốc doanh), do hệ quả của “chủ nghĩa tạm bợ” lần hồi trở thành tài sản của tài phiệt đỏ, hoặc phục vụ cho lợi ích của tài phiệt đỏ.

Nếu có “tầm nhìn” thì đã không để xảy ra hiện tượng thiếu năng lượng (khiến các xí nghiệp nước ngoài bỏ Việt Nam qua các nước khác).

Nếu có tầm nhìn, làm cái gì cũng lâu dài, thì làm gì có vụ thanh niên, sinh viên Việt Nam bỏ học đi làm nhân công nước ngoài?

xuat-khau-lao-dong-nhat-ban-kho-sang-de-ve - Luật Minh Bạch

Vốn quí của quốc gia là “con người” chớ không phải là mỏ dầu, mỏ titan nọ kia.

Đi hết, người tài giỏi bỏ nước ra sống nước ngoài hết, thì lấy ai xây dựng đất nước?

Hệ quả của “giải pháp tạm bợ” thiệt là kinh khủng. Vấn đề là giải pháp này có lợi cho giai cấp cầm quyền. Kẻ có quyền thì có tiền.

Không biết tài sản quốc gia nay còn lại cái gì?

Họa sĩ biếm triển lãm tranh biếm họa về phòng, chống tham nhũng


 

4 dầm cầu cao tốc Bắc-Nam qua tỉnh Nghệ An đang xây bị đổ sập

Báo Nguoi-viet

June 21, 2023

NGHỆ AN, Việt Nam (NV) – Bốn dầm cầu của dự án cao tốc Bắc-Nam đoạn qua tỉnh Nghệ An đang thi công đã bất ngờ đổ sập, báo trong nước loan tin.

Hôm 20 Tháng Sáu, trên mạng xã hội chia sẻ hình ảnh các dầm cầu thuộc “Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020,” đoạn Diễn Châu-Bãi Vọt, tỉnh Nghệ An, đang bắc lên thì có tới hai dầm đổ sập, gãy làm đôi.

Các dầm cầu bị sập tại dự án đoạn Diễn Châu-Bãi Vọt, tỉnh Nghệ An, lan truyền trên mạng những ngày qua. (Hình: HT/VietNamNet)

Theo báo VOV, hình ảnh toàn bộ 4/7 phiến dầm trên nhịp từ trụ T3-T4 nghiêng gãy đổ làm đôi, nhanh chóng thu hút sự quan tâm của công luận, phần lớn mọi người đều tỏ ra thắc mắc trước phẩm chất thi công của công trình trọng điểm này.

Liên quan đến sự việc, hôm 21 Tháng Sáu, đại diện doanh nghiệp thi công dự án là công ty Cổ Phần Đầu Tư Phúc Thành Hưng cho biết nguyên nhân là do lỗi kỹ thuật trong lúc thi công cẩu, lắp dầm Super T tại cầu Nghi Mỹ, từ sơ suất của công nhân vận hành cần cẩu “thao tác không nhịp nhàng dẫn tới va chạm giữa các phiến dầm đang gác cuối cùng của nhịp T3-T4 với các phiến dầm đã gác.”

Theo đó, khoảng 1 giờ 30 phút hôm 19 Tháng Sáu, trong lúc đang cẩu lắp phiến dầm nối tiếp thì xảy ra va chạm giữa phiến dầm đang cẩu lắp với phiến dầm đã lắp, ở cùng trong nhịp số 4. Từ đó, dẫn đến hiện tượng một số phiến dầm bị nghiêng theo hướng về bên phải của cầu theo hướng tuyến.

Sau khi xảy ra sự việc, các bên đã đánh giá thiệt hại “do sơ suất trong thao tác kỹ thuật của thợ lái máy cẩu, làm hư hại bốn phiến dầm, không có thiệt hại về người và nhà thầu cam kết sẽ chịu mọi chi phí phát sinh.”

“Tại thời điểm xảy ra sự việc, do thời tiết khu vực tỉnh Nghệ An nắng nóng kéo dài với nền nhiệt cao khoảng 40 độ C, công nhân lái máy cẩu và người lao động làm việc ngoài trời với thời gian tương đối dài dẫn đến thiếu tập trung, gây sơ suất trong lúc thao tác cẩu lắp phiến dầm,” đại diện công ty Phúc Thành Hưng giãi bày.

Những dầm cầu cao tốc Bắc-Nam bị gãy đổ. (Hình: HT/VietNamNet)

“Việc xảy ra là sơ suất nằm ngoài mong muốn của nhà thầu. Nhà thầu cam kết tự bỏ kinh phí để khắc phục, đúc lại các phiến dầm đã hỏng (mỗi phiến dầm trị giá khoảng 300 triệu đồng ($12,760),” đại diện Phúc Thành Hưng cho biết thêm.

Đoạn Diễn Châu-Bãi Vọt là một trong ba dự án thuộc dự án xây dựng cao tốc tuyến Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, có tổng chiều dài khoảng 49 km, đi qua hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, với tổng vốn đầu tư khoảng 11,157 tỷ đồng ($474.5), trong đó có ngân sách nhà nước hơn 6,067 tỷ đồng ($258 triệu), được đầu tư theo phương thức BOT (đối tác công-tư), có thời gian bảo hành trong suốt thời gian thi công và khai thác vận hành là 21 năm. (Tr.N) 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Báo chí cách mạng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

 

Bác sỹ Tom Dooley qua đời năm 1961. Mãi đến vài chục năm sau, tôi mới biết đến tác phẩm đầu tay của ông (Deliver Us from Evil) do Farrar, Straus & Cudahy xuất bản từ 1956. Đây là một tập bút ký, có hình ảnh minh hoạ đính kèm, về cuộc di cư ồ ạt (vào giữa thế kỷ trước) của hằng triệu người dân Việt. Họ ra đi chỉ với hành trang duy nhất là niềm tin vào tình người, và không khí tự do, ở bên kia vỹ tuyến.

Rồi họ đã được tiếp đón, hoà nhập và sinh sống ra sao nơi miền đất mới? Câu trả lời có thể tìm được – phần nào – qua một tác phẩm khác (Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố) của Phạm Công Luận, do Hội Nhà Văn xuất bản năm 2013. Xin trích dẫn đôi ba đoạn ngắn:

“Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ miền Bắc chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê hương mới. Tuy nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao khó khăn để hòa nhập vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới năm 1954 đã làm một chuỗi phóng sự hồi mới vào của các văn nghệ sĩ, có nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm về những gì họ đã gặp.

Nhà văn Thượng Sỹ, một nhà văn nổi danh từ thời tiền chiến mà trong cuốn Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia đình ông vào Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và chị giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, tên tuổi từng nổi tiếng là nhà phê bình văn chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu…

 Một bữa, ra chợ mua đồ, bà vợ ông gặp một chị không quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay: ‘Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu’. Cả nhà lại đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò Vấp. Ông bà chủ nhà đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống cống xi măng.

Ông bà nói ngay với khách lạ :‘Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!’ Bà chủ còn nói là bà không lấy một xu nhỏ.

Gia đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt của ông bà chủ nhà nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ nhà nói lên điều xuất phát từ đáy lòng : ‘Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”

Sau này, nhà văn Thượng Sỹ nói với tác giả bài tường thuật thượng dẫn : ‘Tôi cứ tưởng sảy nhà ra thất nghiệp… nào ngờ tôi lại hai lần ‘sa’ vào hai cảnh gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt…”

“Các anh” trong câu văn thượng dẫn – tất nhiên – là những nhà báo miền Nam, những người mà độc giả dù có phải “nhịn ăn mà giúp” vẫn cảm thấy “vui lòng” vì họ luôn đứng về phía những người cô thế. Miền Bắc cũng không thiếu những người cầm bút với quan niệm tương tự:

Tam Lang viết Tôi Kéo Xe năm 1932, Ngô Tất Tố sáng tác Tắt Đèn năm 1937, Nguyên Hồng xuất bản Bỉ Vỏ năm1938. Tác phẩm Con Trâu của Trần Tiêu đăng từng kỳ trên báo “Ngày Nay” từ số 140 (ra ngày 10/12/1938) trước khi được in thành sách, vào năm 1940.

“Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ‘Sắc lệnh về chế độ báo chí’, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013). Bắt đầu từ đây thì sách báo hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, và những người cầm bút buộc phải đứng cùng phe với những kẻ cầm quyền.

Ngày 21 tháng 1 năm 1960, hai công dân Việt Nam (Nguyễn Hữu Đang và Thụy An) bị kết án 15 năm tù vì tội “phá hoại chính trị” và “làm gián điệp” bởi Toà Án Nhân Dân Hà Nội. Vì đây là một phiên “toà kín” nên không ai biết hai nhân vật này đã “phá hoại chính trị” ra sao, và đã “làm gián điệp” cho “thế lực thù địch” nào – ngoài những người làm báo:

  • Báo Thời Mới(21/01/1960): Năm tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội …Nguyễn Hữu Đang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân 5 năm sau khi hết hạn giam”.
  • Báo Nhân dân (21/01/1960): Trước tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi của chúng.
  • Báo Thủ đô Hà Nội ( 21/01/1960): Tên Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Báo Nhân văn có tính chất chính trị ngay từ số 1. Mục đích của tờ báo là khích động quần chúng cùng với chúng tôi chống lại lãnh đạo”.
  • Báo Văn học (05/02/1960): Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Tư tưởng của chúng tôi là phản động nên chúng tôi ra tờ báo Nhân văn để chống đối lãnh đạo, kích động quần chúng làm áp lực đấu tranh”. Ngoài báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang còn dùng nhà xuất bản Minh Đức làm một công cụ để chống cách mạng. Y cung khai:“Tôi đã biến nhà xuất bản Minh Đức thành một công cụ chống lãnh đạo.”

 

Không phải là vô cớ mà nhà văn Võ Thị Hảo kết luận : “Cấm báo chí tư nhân là tội ác.” Sự “ác độc” này được duy trì và nuôi dưỡng xuyên suốt gần hai phần ba thế kỷ qua :

  • Ngày 29/11/2006, T.T. Nguyễn Tấn Dũng ban hành chỉ thị 37/2006 kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức.
  • Ngày 3/4/2019, T.T. Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 362/QĐ quy định báo chí là phương tiện thông tin, quan trọng đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Cái cách mà Đảng và Nhà Nước xử dụng “công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng” từ hơn nửa thế kỷ qua, xem ra, đã trở thành thảm họa :

  • S. Tuấn Khanh: “Cũng cần có lúc, các nhà nghiên cứu về lịch sử nên đặt lại câu hỏi, vì sao ngày 21-6 hàng năm, được gọi là ngày Báo chí Việt Nam, chứ không phải gọi đúng tên là ngày báo chí của đảng Cộng sản Việt Nam?
  • FB Huynh Ngoc Chenh: “Người cộng sản rất tự hào mình là cộng sản tại sao nền báo chí của đảng không mang đúng tên lại phải lấp liếm qua thành báo chí cách mạng?”
  • Nhà báo Phan Anh: “Báo chí nước ta nó đã băng hoại tới mức độ không thể cứu vãn nổi, và nhiều kẻ điều hành nó cũng như những kẻ tham gia đóng góp cho nó đa phần là một lũ vừa ngu dốt vừa vô liêm sỉ đến cùng cực…”

Ông có nói quá chăng?

Câu trả ‘lời’ có thể tìm được qua tiêu đề của dăm/bẩy bản tin, xuất hiện trên “làng báo  cách mạng” vào những ngày tháng gần đây :

Tuổi Trẻ & Thanh Niên sa đọa tới cỡ đó lận sao? Cái được mệnh danh là những “nhà báo cách mạng”, hiện nay, chả lẽ chỉ rặt là một phường vô lại?



 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chim hót ngoài lồng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Trong ký ức thơ ấu của tôi, Đà Lạt không phải là nơi có nhiều chim chóc. Ngoài những bầy sẻ ríu rít đón chào nắng sớm trên mái ngói, và những đàn én bay lượn khắp nơi vào lúc hoàng hôn – thỉnh thoảng – tôi mới nhìn thấy vài chú sáo lò cò giữa sân trường vắng, hay một con chàng làng lẻ loi (và trầm ngâm) trên cọc hàng rào.

Chào mào tuy hơi nhiều nhưng chỉ ồn ào tụ họp, giữa những cành lá rậm ri, khi đã vào hè và trái mai (anh đào) cũng đà chín mọng. Họa hoằn mới thấy được thấy đôi ba con chim lạ, đỏ/vàng rực rỡ (chả biết tên chi) xa tít trên những cành cây cao ngất, giữa đồi thông vi vút.

Ở California thì chim chóc nhiều hơn, và cũng dạn dĩ hơn. Tiếc vì vốn liếng tiếng Anh giới hạn (và cơ hội tiếp xúc với thiên nhiên cũng thế) nên tôi chỉ gọi tên được dăm ba loại chim thôi: robin, blue bird, hummingbird, mockingbirdhouse sparrow – sẻ nhà. Nơi đâu có người là có chim se sẻ, tiếng kêu gần gũi thân quen của chúng vào lúc chiều tàn – ở bất cứ phương nao – cũng đều khiến cho tôi cảm thấy được an ủi (phần nào) trong suốt những tháng ngày lưu lạc.

Mãi cho đến những năm gần đây (khi không còn phải bận bịu với chuyện áo cơm) tôi mới có dịp tìm biết thêm ít/nhiều về thế giới của loài chim, qua những tập phim tài liệu, và qua ống kính của giới birder (hay con gọi là birdwathcher) chuyên nghiệp tự quê nhà.

Hôm đầu năm nay, người ngắm chim Huynh Ngoc Chenh mới trình làng một chú Sơn Ca (trông) rất bảnh.

Bên dưới bức ảnh là lời bình của FB Nghiem Vietanh:

“Sơn ca có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ theo địa phương, như chiền chiện; Huế gọi là Cà lơi; Quảng Nam, Quảng Ngãi gọi là Chà chiện, ở bãi sông Hồng còn một loại nữa cũng giống sơn ca nhưng nhỏ hơn và không biết hót, à con sẻ mía. Con của ông Chênh, bắc cờ kêu chiền chiện, con này cũng hót nhưng chỉ hót khi chúng bay trên không trung, nuôi trong lồng chúng không hót …”

Tôi nghe tên Sơn Ca từ khi còn thơ ấu nhưng mãi đến nay mới được thấy hình, và được biết thêm đôi điều lạ lẫm: “Bắc cờ kêu chiền chiện, con này cũng hót nhưng chỉ hót khi chúng bay trên không trung, nuôi trong lồng chúng không hót …”

Hay nhỉ?

Hoá ra có những con chim không hót trong lồng! Chi tiết thú vị này khiến tôi nhớ đến những dòng chữ của Huy Đức trong Bên Thắng Cuộc:

Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký “Sắc lệnh về chế độ báo chí”, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp… Ngày 5-6-1958, dưới sự chủ trì của Tố Hữu, “800 văn nghệ sỹ” đã ký vào một nghị quyết “hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày 7-7-1958 Ban Chấp hành Hội Nhà văn ra thông báo “kỷ luật nhóm Nhân Văn” ….

Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những ngày “khôn ngoan không dám làm người”. Phần lớn các nạn nhân, vốn là những văn nhân tài hoa, đều phải cúi đầu, tự mình viết bài xỉ vả mình. Họ được ở lại Hà Nội và sau một thời gian lao động phần lớn được trở lại hành nghề. Cũng có những nhà văn, nhà thơ bỏ về rừng như Hữu Loan, Nguyên Hồng. Nhưng, cái giá mà họ và gia đình họ phải trả là vô cùng đau đớn.

Tôi có đọc “Lời Tự Thuật Của Hữu Loan” nên cũng biết qua về “cái giá” mà nhà thơ và cả gia đình phải trả cho quyết định “về rừng” của ông. Kể thì “đau đớn” và khốn nạn thật nhưng vẫn chưa đến nỗi nào, nếu so với tình cảnh của nhiều người cầm cầm bút độc lập hiện nay. Xin ghi lại đôi ba trường hợp.

Trương Duy Nhất sinh năm 1964, bắt đầu viết báo từ năm1987. Đến năm 2011, ông đột nhiên tuyên bố “nghỉ báo viết blog để viết theo lẽ phải!” Nói cách khác, và nói theo cách riêng của TDN, là ông ngang nhiên ra khỏi cái “Hợp Tác Xã Tư Tưởng” của Đảng và Nhà Nước VN.

Tôi không hiểu –  vào thế kỷ trước, ở miền Bắc – khi một nông dân bỏ Hợp Tác Xã Nông Nghiệp thì sẽ bị trừng phạt ra sao nhưng thấy cái giá mà TDN phải trả hiện nay thì cay nghiệt quá, “một đòn thù chính trị đê hèn”: hai cái án tù, tổng cộng là 12 năm chẵn. Cả hai vụ án này – chắc chắn – đã không xẩy ra, nếu bạn Nhất vẫn chịu hót… trong lồng!

Trường hợp chia tay với làng báo quốc doanh của Đoan Trang thì hơi khác, nhẹ nhàng và kín đáo hơn. Nhân vật này lặng lẽ rời bỏ cái Hợp Tác Xã Tư Tưởng VN không một lời tuyên bố hay tuyên ngôn gì ráo. Tuy thế, cái giá mà ĐT phải trả – xem ra – cũng không rẻ lắm. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho RFA, vào hôm 5 tháng 3 năm 2020, cô cho biết:

“Từ khi tôi trở về nước vào năm 2015, về được 3 tháng thì tôi bị công an tấn công trong một cuộc tuần hành cây xanh, chấn thương 2 chân. Sau liveshow ca sĩ Nguyễn Tín năm 2018 thì tôi bị chấn thương ở tay. Sức khỏe của tôi gần như xuống dốc không phanh nên tôi không biết còn chịu được bao lâu.”

Nói tóm lại và nói cho chính xác là ĐT chỉ bị truy sát và truy lùng thôi chứ chưa mất mạng và (cuối cùng) thì chỉ bị tù thôi .

Phạm Chí Dũng, Chủ Tịch Hội Nhà Báo Độc Lập, cũng thế!

Năm 2012 ông bị bắt khẩn cấp vì bị tình nghi biên soạn tài liệu “nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.” Qua năm 2019, ông lại bị khởi tố và bắt giam lần nữa với cáo buộc là đã “đăng 63 bài báo xuyên tạc sự thật, kích động các cá nhân trỗi dậy và lật đổ chính quyền nhân dân, kích động hận thù và cực đoan, đánh lừa mọi người về tình hình kinh tế xã hội nhằm mục đích gây lo lắng công cộng và bất ổn xã hội.”

Tuy không rành rẽ về bói toán hay lý số, tôi vẫn có thể đoán (chắc) được rằng lòng bàn tay của ông Chủ Tịch Hội Nhà Báo Độc Lập có đường tù ngục vì đường này cũng có thể thấy ngay được qua cái chức vụ của ông. Cái gì chứ Độc Lập với Tự Do là “hai món” mà đám cầm quyền ở VN hiện nay tối kỵ (họ nuốt không trôi) nên PCD vướng vòng lao lý là chuyện tất nhiên.

Sau P.C.D đến lượt Phạm Thành, nguyên Phó Trưởng Phòng Đài Phát Thanh Tiếng Nói Việt Nam, vừa bị “tó” tại nhà, với cáo buộc là đã vi phạm Điều 117 Bộ Luật Hình Sự. Điều này có khoản ghi rõ như sau:

“Người phạm tội có hành vi làm ra, tạo ra, xác lập thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân … tạo ra hình ảnh méo mó, phản cảm, sai lệch về việc làm, hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị…”

BBC, nghe được vào hôm 22 tháng 5 năm 2020 ái ngại loan tin:

Blogger ‘Bà Đầm Xòe’, cây bút chỉ trích TBT Nguyễn Phú Trọng bị bắt Cuốn sách “Nguyễn Phú Trọng: Thế thiên hành đạo hay Đại nghịch bất đạo” do ông tự xuất bản năm 2019 đã gây xôn xao dư luận. Nội dung chính cuốn sách “ngoài luồng” này tập trung vào thái độ và hành động của ông Nguyễn Phú Trọng trước Trung Quốc… Trước đó, ông từng tự xuất bản một số cuốn sách khác như “Hậu Chí Phèo”, “Nền Kinh tế Thị trường Định hướng XHCN Xuống hố cả lũ.”

Phen này Phạm Thành chắc chết, chết chắc, với Đảng và Nhà Nước ta chứ chả phải bỡn đâu!

Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những ngày “khôn ngoan không dám làm người.” Xét ra thì thời kỳ “hậu đổi mới” còn ti tiện và tàn tệ hơn nhiều. Dân Việt, tuy thế, vẫn chưa bao giờ thiếu vắng những nhân vật cầm bút vẫn nhất định làm người. Xin chân thành cảm ơn qúi vị.

NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC:-“Giá chúng ta giữ Tây Nguyên như một Bhutan”

Đức Tâm (TBKTSG Online)

Sáng ngày 17-9, nhà văn Nguyên Ngọc có buổi nói chuyện cùng các bạn trẻ TPHCM về Tây Nguyên, mảnh đất mà ông đã gắn bó hơn nửa cuộc đời. Câu chuyện nói về Tây Nguyên nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội đáng quan tâm trong bối cảnh hôm nay. TBKTSG Online lược ghi.

Tôi lên Tây Nguyên lần đầu năm 1950 và đến nay đã trải qua 66 năm gắn bó với mảnh đất này. Nơi đây không chỉ cứu sống và nuôi dưỡng tôi qua hai cuộc kháng chiến mà còn dạy tôi nhiều điều về minh triết trong cuộc sống.

Tây Nguyên rất đặc biệt, nhưng cũng rất đáng lo. Tôi mong mọi người hãy nghĩ, hãy đến Tây Nguyên và làm gì đó để cứu mảnh đất này.

Nói đến Tây Nguyên là nói đến rừng và làng. UNESCO đã rất tinh tế nhận ra khi công nhận di sản văn hóa thế giới của Tây Nguyên, không phải là cồng chiêng, cũng không phải là âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hóa cồng chiêng, tức không gian làng, với rừng của làng. Rừng và làng chính là không gian văn hóa của Tây Nguyên. Không còn hai yêu tố này, sẽ không còn văn hóa Tây Nguyên, hoặc nếu có, cũng không còn là văn hóa thật.

Tây Nguyên - YouTube

Thế nhưng vấn đề quan trọng nhất hiện nay ở Tây Nguyên là sự đổ vỡ của các làng và rừng thì bị tàn phá.

Rừng tự nhiên đến nay đã không còn nữa. Một số bị thay thế bởi cây công nghiệp như cà phê, cao su. Người ta gọi những mảnh đất rộng trồng cao su là rừng cao su. Nhưng nói đến rừng là nói đến tính đa tầng, độ che phủ; là nói đến yếu tố giữ nước. Cao su, rễ cọc, không giữ nước được nên hiểu theo nghĩa tự nhiên, cao su không được gọi là rừng. Rừng tạp mất đi, độ che phủ không còn và rồi Tây Nguyên sẽ mọc lên những rừng gai thấp lúp xúp. Chúng ta sẽ để lại cho con cháu những rừng gai lúp xúp? Chúng ta có muốn như vậy không?

Để khôi phục rừng Tây Nguyên, chúng ta phải trồng lại rừng, tạo rừng đa tạp. Có người hỏi tôi mất bao lâu? Tôi cho rằng chúng ta phải thực hiện trong 100 năm. Gì mà nhiều vậy? Thử nghĩ xem, 41 năm qua, mình đã khai thác rừng cạn kiệt mà. Giờ phải kiên trì trồng lại, cắn răng mà làm và 100 năm là không nhiều. Nếu không có rừng thì không còn Tây Nguyên đâu.

Chúng ta cần phải cứu Tây Nguyên. Đây là một tấm gương về nông nghiệp sinh thái, phụng dưỡng đất đai. Tôi bảo người Tây Nguyên là những nông dân Mansanobu Fukuoka. Họ làm nông nghiệp giống hệt như người cha đẻ của “Cuộc cách mạng một cọng rơm”, không hóa chất, không thuốc trừ sâu với phương pháp chọc tỉa. Người chồng đi trước, dùng cây gậy chọc xuống đất, người vợ theo sau, tỉa hạt rồi dùng chân lấp đất lại. Họ rất tin đất đủ sức mạnh nuôi cây trồng. Họ không làm lười đất bằng phân bón.

Trước đây, dân số Tây Nguyên không nhiều. Với đất nước, họ là dân tộc thiểu số nhưng trên mảnh đất Tây Nguyên, họ chính là đa số tuyệt đối. Mỗi gia đình có 10-20 rẫy. Mỗi rẫy họ trồng 3-4 năm, đất bạc màu thì chuyển qua rẫy khác. Lúc đầu chúng tôi gọi là luân canh, nhưng luân canh dễ gây hiểu nhầm rằng trồng cây này rồi chuyển sang cây khác. Do vậy, sau, chúng tôi gọi là luân khoảnh. Lưu ý, họ luân khoảnh chứ không du canh du cư như ta từng nghĩ.

Trong tư duy người Tây Nguyên, đất chính là rừng và rừng chính là đất. Đất rẫy là khoảnh đất mà con người ở đây mượn của rừng, làm rẫy, rồi trả lại cho rừng. Rừng mạnh lắm, sẽ lấn lại ngay. Người Kinh thấy rừng là gỗ, còn người dân tộc thấy rừng là Mẹ, là cội nguồn sự sống, là tôn trọng, là phụng dưỡng. Đây cũng chính là bài học tôn trọng tự nhiên và sống khiêm nhường giữa trời đất.

Sau năm 1975, chúng ta thực hiện một cuộc đại di dân và dân số Tây Nguyên tăng gấp 5,5 lần, đến nay người Kinh chiếm 80% dân số tại đây và người dân tộc, từ tuyệt đại đa số, trở thành thiểu số trên chính mảnh đất xưa nay họ sinh sống. Đi kèm với di dân là chính sách quốc hữu hóa đất đai. Người dân tộc mất đất, trước họ có 10-20 rẫy, nay còn một, làm một thời gian, bạc màu, đâu còn đất để luân khoảnh, họ bán rẻ lại cho người Kinh, thậm chí cho không qua một cuộc rượu. Người dân tộc mất đất, bị đẩy sâu vào rừng, rồi sinh ra phá rừng và bắt đầu du canh du cư. Cấu trúc làng xã bị phá vỡ. Rừng bị tàn phá.

Các tộc người Tây Nguyên cũng rất văn minh. Với họ, loạn luân được xem là tội nặng nhất vì làm ô uế tinh thần của làng. Họ đặt tinh thần cao hơn vật chất trong đời sống của họ. Như vậy không văn minh sao?

Họ có một nền văn minh rất đặc biệt mà người Kinh nên tôn trọng, học tập. Ngay từ năm 1937, hai anh em Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi, qua tác phẩm Mọi Kontum đã viết, “Người Bahnar có những điều tốt hơn hơn chúng ta rất nhiều”.

Xin nói qua từ mọi. Lâu nay chúng ta hiểu sai từ mọi và càng sai khi dùng từ mọi rợ theo nghĩa khinh miệt để chỉ các tộc người Tây Nguyên.

Thật ra, từ mọi vốn ban đầu không hề có ý nghĩa xấu. Nó bắt nguồn từ từ tơmoi trong tiếng Bahnar, có nghĩa là khách đến thăm nhà mình; hoặc khách mời từ một làng khác đến; hoặc kẻ thù hoặc người ngoại quốc theo từ điển Bahnar – Pháp của Guilleminet. Những người phương Tây đầu tiên lên Tây Nguyên là các linh mục Thiên chúa giáo. Họ đến được vùng người Bahnar ở Kon Tum, lập xứ đạo Kon Tum, là xứ đạo Thiên chúa giáo đầu tiên tại đây, đến nay vẫn là xứ đạo Thiên chúa lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên. Bấy giờ những người Bahanr Kon Tum đến gặp các nhà truyền giáo thường xưng là tơmoi, là khách. Các nhà truyền giáo lại hiểu rằng đấy là họ tự giới thiệu tên tộc người của họ. Về sau dần dần tiền tố tơ bị rớt đi, còn lại moi, moi nghiễm nhiên trở thành tên gọi người bản địa. Người Pháp gọi là moi, người Việt gọi là mọi, hoàn toàn là một danh xưng.

Nói tiếp chuyện văn minh. Tôi lấy ví dụ về nghệ thuật. Trong nghệ thuật Tây Nguyên, tượng nhà mồ Tây Nguyên là những tác phẩm đẹp tuyệt vời. Họ làm rồi bỏ hoang và để mưa gió tàn phá.

Tôi từng thấy một bức tượng gỗ tuyệt đẹp. Hỏi dò thì biết một thanh niên kia làm. Trong chờ bữa rượu, tôi hỏi chàng thanh niên đó xem ở nhà còn bức tượng tương tự nào không. Đột nhiên anh ta nổi giận: “Nói tầm bậy”. Và những thanh niên trong xung quanh cũng bày tỏ thái độ như vậy.

Sau, tôi được anh Núp, một người bạn của tôi ở Tây Nguyên giải thích rằng với họ, làm nghệ thuật không phải để ngắm hay để bán mà làm vì có cái gì đó thôi thúc trong lòng, cần làm để bày tỏ lòng ngưỡng mộ với thần linh. Họ thăng hoa trong quá trình làm ra tác phẩm chứ không phải lúc tác phẩm hoàn thành.

Tôi chia sẻ điều này với một người bạn học nghệ thuật ở Frankfurt – Đức và cô rất ngạc nhiên bởi nó giống như quan điểm của nghệ thuật đương đại, tức nghệ thuật là con đường chứ không phải đích đến. Cô bạn lên Tây Nguyên khám phá rồi mời vị giáo sư của mình bên Đức sang. Vị giáo sư sang xong rồi lại dẫn cả lớp của ông ấy sang.

Sau năm 1975, giá như chúng ta dũng cảm giữ Tây Nguyên như một Bhutan thì thật tốt. Chúng ta sẽ có một tấm gương để học cách sống sao cho có hạnh phúc, sống thế nào để khiêm nhường với trời đất.

Emerging Ethnobiologists: Forest of Bhutan I. The biodiversity of the ...

Ngày xưa người nông dân không dám làm điều ác, họ sợ thất đức. Ngày ngay, xã hội không còn khái niệm về thất đức nữa. Người nông dân, những người bình thường nhất, đã không còn sợ cái ác, không còn sợ làm điều ác. Và đây là điều đáng sợ nhất. Con người, ở giữa đất trời, sống vô thần và không biết đến trời đất thì nguy hiểm quá.

Nay tôi đã 84 tuổi, tính tuổi ta thì 85. Những năm cuối đời, tôi sẽ viết để kể với mọi người về một nền văn minh ở Tây Nguyên, rằng chúng ta có một nền văn minh như thế. Tôi sẵn lòng đi chia sẻ để nói tất cả mọi điều về Tây Nguyên. Tôi  mong khơi gợi trong các bạn lòng ham muốn hiểu về Tây Nguyên và tìm được người kế tục để sau cùng có thể cùng chung sức cứu được Tây Nguyên.

Ảnh: NV Nguyên Ngọc và Anh hùng Núp.

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen