ĐỐT SÁCH – Nguyễn Ngọc Chính

Anh TranTao Hoang

Nguyễn Ngọc Chính

“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.

Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.

Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.

Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.

Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.

***

Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.

Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.

Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.

*

Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.

Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.

Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…

Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm…

Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê…. Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh…

Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh…

Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.

Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:

“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.

Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.

Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.

Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.

Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.

Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:

“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.

Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản…

Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’…”

Trong vụ án được mệnh danh là Những tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).

Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong.

Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.

Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?

Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.

Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).

Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.

Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc…. Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.

Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc… Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.

Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.

Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.

Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.

Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy…). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường…

Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.

Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang…

Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức…”

Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch… Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.

Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam… đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.

Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo… cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.

Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long… Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.

Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài’ văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…

Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…

Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.

Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.

Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.

Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…

Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì chưa”.

Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.

Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.

Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.

Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes, Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…

Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng…

Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.

Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:

Năm nay đào lại nở

Không thấy sách báo xưa

Ngọn lửa nào năm cũ

Lạc về đâu bây giờ?

Việt Minh nay nó không ác lắm?

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Nguyễn Thị Cỏ May

Kỹ sư Trần Bang ra tòa

«Hôm 12/05/23, Ông Trần văn Bang 62 tuổi, kỹ sư, quê quán Hải Dương, vì hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam, bị kết án 8 năm tù giam về tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo điều 117 bộ của luật Hình sự năm 2015. Trước đây một năm, ông đã nhiều lần bị công an hăm dọa, khủng bố, đánh đập mang thương  tích nặng cũng chỉ vì những  hoạt động  xã hội của ông.

Phiên Tòa xử tội hoạt động xã hội của ông được thông  báo là công khai nhưng lại không cho người nhà của ông tham dự. Bà mẹ của ông, 92 tuổi, nhờ 2 cô em của ông xốc nách đưa bà lướt đại vào. Nhờ đó Bà trông thấy được con .

Trước cảnh con trai bị án tù 8 năm, Bà không xúc động . Trái lại, rất bình tỉnh và yên lòng . Không phải vì Bà hiểu ý nghĩa việc làm của con trai và bản án tù của chế độ . Thật vậy, từ hôm anh Bang bị bắt, Bà lo buồn lắm, bà không nói ra thôi, chỉ biết cầu Trời, khấn Phật. Nay thấy con trai còn sống, Bà mừng lắm. Bà bảo, tao cứ nghĩ thằng Bang không còn sống đâu, mà có sống cũng thành tật . Nay nhìn thấy nó vẫn còn sống, còn nguyên vẹn, đi đứng ngay ngắn, tao mừng lắm . Bà chẳng để ý bản án nặng nhẹ ra sao, con bà làm gì bị tù, mà thấy con của mình còn sống là Bà yên tâm .

Rồi Bà kể, cái giống Việt Minh nó ác lắm, vào tay nó không chết thì cũng tàn tật. Ngày hội tề ấy, có ông Lý cựu, mù hai mắt, tai điếc, ông nói to lắm, ông hỏi tối qua Việt Minh về họp bàn cái gì?… Thế thôi mà họ về giết ông ấy. Họ giết để được thành tích, báo cáo lên trên là đã diệt được một tên việt gian, phản động…

Rồi cải cách ruộng đất, nó bắt mấy người giàu có trong làng đem giam cầm, đấu tố… Người bị bắn chết, người còn sống, thì thân tàn ma dại… Nay thằng Bang bị bọn nó bắt, giam cầm hơn một năm mà còn sống nguyên lành. Coi như trước khi chết, mẹ được thấy nó lần cuối là mừng rồi !» (Mạc văn Trang, DCV, 26/05/23 – Lời chị Bích kể) .

Cái hạnh phúc của Bà Cụ 92 tuổi ở Việt nam ngày nay thật đơn giản khi thấy con trai của mình bị Việt  Minh bắt giam cầm cả năm mà nay hãy còn sống, lành lặn, còn tới được trước Tòa lảnh án 8 năm tù ở. Bà hoàn toàn không thắc mắc điều gì khác hơn là tạ ơn Trời Phật .

Và chắc Bà thầm nghĩ con của Bà còn sống phải chăng vì nayViệt Minh nó không còn ác lắm như trước kia? Và vì cái lão Hồ Chí Minh đã chết lâu rồi!

Việt Minh và Hồ Chí Minh

Khi nói Việt Minh và Hồ Chí Minh, có lẽ nên nhắc lại tại sao có « Mặt Trận Việt  Minh » và cái tên « Hồ Chí Minh » đi liền theo từ đó ? Và đừng  quên cái thảm hại của đất nước Việt nam cho tới ngày nay cũng bắt đầu từ đó .

« Ngô Thị Khôn Nghi là ái nữ của nhà yêu nước Ngô Quảng. Ông Ngô Quảng là một hổ tướng của lực lựợng chống Tây do Phan Đình Phùng lãnh đạo . Sau này ông là đồng chí của nhà ái quốc Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du . Bà Ngô Thị Khôn Nghi sau này là đồng chí và là vợ của ông Hồ Học Lãm .

Hồ Học Lãm từng là sinh viên xuất sắc khi học tại trường Chấn Võ ở Nhật Bản. Hồ Học Lãm từng kết bạn với nhà cách mạng Trung Hoa Tưởng Giới Thạch khi cả hai cùng ở bên Nhật. Hồ Học Lãm cũng từng là sinh viên sĩ quan ưu tú ở trường Võ Bị Bảo Định tại Trung Hoa, và sau này từng là sĩ quan cao cấp trong quân đội Trung Hoa của Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch .

Hồ Học Lãm về sau được các đoàn thể tranh đấu Việt Nam bầu lên làm Chủ Nhiệm « Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội ». Khi nắm vai trò lãnh đạo hội này, ông Hồ Học Lãm đổi tên  là « Hồ Chí Minh » .

Khi “Hồ Chí Minh thật” qua đời, thì sau đó, Lý Thuỵ lấy tên “Hồ Chí Minh”, tức tên Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành chôm tên Hồ Chí Minh làm tên của mình .

Vào giữa tháng 9 năm 1945, bà “Hồ Chí Minh thật” (tức bà Ngô thị Khôn Nghi) biết rõ Lý Thuỵ lấy tên chồng mình và còn tự nhận là người sáng lập ra « Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội », Bà quyết vạch mặt Lý Thuỵ, nhưng các tướng Tàu tìm đủ cách ngăn cản bà nói ra sự thật. Chính thời gian đó, ông Lê Khang, tức Lê Ninh, một nhà lãnh đạo VNQDĐ, anh ruột của Lê Hưng, muốn giúp bà, nhưng “tứ bề thọ địch”, nên cuối cùng ông Lê Khang chỉ còn cách gửi gắm bà vào ở nhà một thương gia người Tàu . Sau đó tông tích bà bị lộ, đảng viên cộng sản tên Hoàng Đạo, không phải nhà văn Hoàng Đạo của Tự Lực Văn Đoàn, muốn hại bà, nhưng được tướng Nguyễn Sơn che chở. Cho đến khi tướng Nguyễn Sơn bị cách chức .Và sau đấy, bà “Hồ Chí Minh thật” bị chết thảm bới bọn “Hồ Chí Minh giả” đã cướp đoạt tổ hức có tên «Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội».

Sau khi cướp được tổ chức này, bọn chúng bỏ tên “Hội”, và thay vào đó “Mặt Trận”, trở thành « Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh”, gọi tắt là «Việt Minh (*) » .

Việt Minh có từ đó. (Tài liệu VNQDĐ – Lê Thành Nhân ghi lại qua thư của cố đồng chí Lê Hưng).

Việt Minh, chính cái lão Hồ Chí Minh

Tháng 9/1945, ông Tạ Thu Thâu từ Hà nội trở về, ghé qua Huế để chờ nghe ngóng tình hình để liệu về Nam gấp. Ông vô cùng nôn nóng phải về Nam càng sớm càng tốt vì tình hình Việt Nam rất khẩn trương khi Pháp điều đình để trở lại. Ông chờ có xe lửa đi Nam, ông liền đi. Tới Quảng Ngãi, ông bị Việt Minh nhận ra và bắt đem đi nhốt chờ xét xử.

Nói về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu Thâu, có nhiều nguồn tin, nhưng  có lẽ Ông Đỗ Bá Thế, nhà báo, nhà làm Điện Ảnh ở Sài gòn, trong  truyện Thím Bảy Giỏi (**) đăng hàng  ngày trên nhựt báo Quyết Tiến xuất bản ở Sài gòn trong thập niên 60 của thế kỳ trước là rõ ràng vì ông là người theo sát ông Tạ Thu Thâu cho tới ngày cuối .

Trước khi giết ông Tạ Thu Thâu, Tư Ty, công an Huyện ở Quảng Ngãi, nhưng là người thân tín và làm việc trực tiếp với Trung ương ở Hà nội, nhờ gốc vô lại, cho trinh sát dẫn ông TạThuThâu tới để xét xử. Ông bị trói gô lại.

Ông  mặc chiếc áo cẩm tự phai màu, trở thành vàng  sậm, rách và nhầu nát. Cặp mắt kiếng mất một tròng. Vẻ mệt mỏi hiện rõ chắc vì nhiều đêm không ngủ được, phải thức để trả lời những câu hỏi của công an việt minh.

Tại phiên xử, ông nói rất nhiều để giải thích cho bọn Tư Ty và mọi người cùng nghe.  Ông nhấn mạnh từng lời như muốn nhét vào đầu bọn việt minh u mê Tư Ty đang buộc tội ông  là việt gian, phản quốc.  Ông nói rất nhiều dường như ông muốn nói để bọn Tư Ty ghi lại và báo cáo về Hà nội. Ông dõng dạc bảo Tư Ty hảy rút lại mấy lời trong bản cáo trạng  buộc tội ông là việt gian, phản quốc, phản cách mạng.

Cuối cùng, ông nói « May là Việt nam còn giữ được cái xác của Tạ Thu Thâu » .

Phiên xử tuyên án tử hình nhưng không trinh sát nào dám thi hành. Bọn Tư Ty cuối gục mặt xuống, không tên nào dám hó hé. Dân chúng bị kêu gọi đi dự phiên xét xử, ai cũng môi mím lại, lặng nhìn Tư Ty căm hờn như muốn ăn tươi nuốt sống nó . Tư Ty ngồi yên một chặp. Như có chút gợn lòng nhưng hắn lo sợ dân chúng bất thần phản ứng nên đứng dậy, quắc mắt nhìn mọi người rồi như con thú dữ, rút khẩu 7, 35 bên hông, tiến tới, nhắm ông Thâu nổ hai phát liên tiếp.

Tiếng  súng nổ, ông Thâu ngã khuỵu xuống. Mọi người, và cả bọn trinh sát và cán bộ của Tư Ty rú lên, làm cho hắn tức giận:

-Đồ quân hèn nhát. Không giết nổi một tên Việt gian thì làm sao chống nổi quân thù?

Hiền nói với bà Nghĩa Lợi, chủ nhà ngủ « Tôi uất quá mà khóc chớ không phải hèn nhác mà khóc đâu bà chủ à. Ông  Thâu là thầy dạy tôi học ở trường Huỳnh Khương Ninh. Thầy suốt đời gian khổ tù tội nhưng vẫn quyết một lòng bồi đắp, gây mầm cách mạng chống đế quốc để cho nước Việt nam được Tự do, Độc lập ấm no. Đời Thây chỉ mong có ngày cách mạng thành công. Thấy yêu nước hơn bản thân, và đức độ vô song đến giặc pháp còn không dám coi thường.

Bà Nghĩa Lợi, chủ khách sạn, đột ngột nói:

-Có phải thằng Tư Ty giết ông Thâu đâu? Chính bọn Việt Minh, chính cái lão Hồ Chí Minh đã giết ông Thâu đó (Thím Bảy Giỏi, trg 610 – 620).

Nguyễn thị Cỏ May

——————————–

(*) Xin đừng lầm với «Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội » (gọi tắt là Việt Cách), mà người lãnh đạo là cụ Trương Bội Công và sau này là cụ Nguyễn Hải Thần.

(**) Đỗ Bá Thế, « Thím Bảy Giỏi », Paris, 9/2016 do gia đình xuất bản, số lượng ít, không bán, dành cho Thư viện và bạn bè

LHQ yêu cầu Việt Nam giải trình về cáo buộc đàn áp hai tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên

RFA
2023.06.29

Các đại biểu dự SEAFORB 2019 ở Bangkok, Thái Lan

LHQ yêu cầu Việt Nam giải trình về cáo buộc đàn áp hai tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên

00:00/06:13

Phần âm thanh 

Văn phòng Cao uỷ Nhân quyền Liên Hiệp quốc (LHQ) đã công bố thư chung của bốn Báo cáo viên đặc biệt thuộc cơ chế nhân quyền của Hội đồng Nhân quyền LHQ về cáo buộc lực lượng chức năng Việt Nam đàn áp hai tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên trong năm 2022.

Bức thư chung đề ngày 28/4/2023 của Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo hay niềm tin, Báo cáo viên Đặc biệt về tình trạng của người bảo vệ nhân quyền, Báo cáo viên về các vấn đề người thiểu số, và Nhóm Công tác về bắt giữ tuỳ tiện được công bố ngày 28/6 sau khi Chính phủ Việt Nam không trả lời trong thời gian 60 ngày.

Thư chung này đề cập đến việc lực lượng an ninh Việt Nam đã dừng xuất cảnh, bắt giữ, thẩm vấn và đánh đập hai thành viên Y Si Eban và Y Khiu Niê của nhóm tôn giáo độc lập Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên khi hai người này trên đường đi dự Hội nghị về Tự do Tôn giáo và Niềm tin Đông Nam Á (SEAFORB) tổ chức ở Bali (Indonesia) vào đầu tháng 11/2022.

Theo đó, ông Y Khiu Niê bị an ninh Sân bay Tân Sơn Nhất từ chối cho xuất cảnh vào ngày 06/11 và trên đường về nhà ở huyện Krong Buk, ông bị an ninh tỉnh Đắk Lắk bắt giữ mà không có lệnh bắt của Viện Kiểm sát. Trong thời gian bị giam giữ trong trụ sở của Công an tỉnh từ chiều cùng ngày đến tối ngày hôm sau, ông bị tra hỏi liên tục trong nhiều giờ mà không có sự hiện diện của luật sư.

Ông bị công an đe doạ bỏ tù, và bắt ký biên bản cam kết không liên lạc với các tổ chức nhân quyền quốc tế và không gửi báo cáo vi phạm nhân quyền cho LHQ và chính phủ các quốc gia phương Tây. Công an còn quay video clip trong đó ông bị buộc nói rằng nhiều tổ chức dân sự chống chính quyền Việt Nam.

Đối với trường hợp ông Y Si Eban, ông bị an ninh Sân bay Tân Sơn Nhất bắt giữ khi đang làm thủ tục xuất cảnh sang Bali cùng ngày 06/11. Ông bị Công an tỉnh Đắk Lắk đưa về giam giữ trong cùng ngày, bị tịch thu mọi giấy tờ, điện thoại và cả tiền mà không có lệnh bắt của Viện Kiểm sát.

Trong thời gian bị giam giữ ở Công an tỉnh Đắk Lắk hai ngày một đêm, ông Y Si Eban bị tra khảo về mục đích tham dự hội nghị. Ông còn bị cáo buộc thực hiện tội chính trị mà công an không giải thích thêm.

Công an nói rằng sẽ không cho ông xuất cảnh, buộc ông không được truyền bá Kinh thánh, và không được tham dự các nghi lễ của hội thánh cũng như liên lạc với các tổ chức xã hội dân sự.

Sau đó, ông bị ép tuyên bố rời Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên, không tham dự các lớp học trực tuyến về xã hội dân sự cũng như liên hệ với các tổ chức nhân quyền quốc tế.

Trong quá trình thẩm vấn, ông bị đánh với nhiều vết thương trên mặt và đầu.

Mục sư Aga, người sáng lập Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên và hiện đang sống lưu vong ở North Carolina (Hoa Kỳ), xác nhận với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 29/6 về việc ông Y Si Eban bị đàn áp. Ông nói:

Rõ ràng là Việt Nam đã vi phạm rất trầm trọng đối với ông Y Si Eban về vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền, đặc biệt khi Việt Nam đã ký kết rất nhiều công ước quốc tế về nhân quyền.

Họ vẫn bất chấp vấn đề đó, vẫn tra tấn vẫn đánh đập và vẫn bắt ép từ bỏ hội thánh, niềm tin tôn giáo của họ mặc dù chúng tôi làm theo đúng luật pháp Việt Nam cũng như luật quốc tế mà chính quyền đã ký kết.

Họ bắt ép chúng tôi phải từ bỏ hội thánh của mình và gia nhập Hội thánh Tin lành Miền Nam Việt Nam, một hội thánh nhà nước quản lý, đó là hội thánh quốc doanh.”

Mục sư Aga cho biết tình hình ở Đắk Lắk và một số tỉnh lân cận rất nóng sau vụ tấn công vào hai trụ sở Uỷ ban nhân dân xã ở huyện Cư Kuin ngày 11/6. Chính quyền địa phương không cho các tín đồ của Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên tụ tập để cầu nguyện, thậm chí họ cũng không được ngồi với nhau để uống nước và nói chuyện.

Dường như chính quyền Việt Nam muốn lợi dụng sự kiện bạo lực đó để triệt phá nhóm tôn giáo do ông sáng lập. Ông nói.

Họ đã thành công xoá sổ đạo Hà Mòn, xoá sổ Hội thánh Tin lành Đega, thì bây giờ lại tiếp tục muốn triệt phá Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên. Chính quyền cộng sản Việt Nam không bao giờ muốn cho người đồng bào bản địa chúng tôi có niềm tin tôn giáo riêng của mình.”

Phóng viên đã gọi điện cho Công an tỉnh Đắk Lắk để hỏi về việc bắt giữ và tra khảo hai ông Y Si Eban và Y Khiu Nie. Người trực máy nói không trả lời qua điện thoại mà yêu cầu phóng viên đến trụ sở của cơ quan này để được cung cấp thông tin.

Trong thư chung, các Báo cáo viên đặc biệt đã bày tỏ sự quan ngại đặc biệt về việc hành xử đối với hai ông Y Si Eban và Y Khiu Nie.

“… Chúng tôi muốn bày tỏ mối quan ngại sâu sắc của chúng tôi về việc bắt giữ tùy tiện, đe dọa, quấy rối, hạn chế đi lại, giám sát và hành vi bạo lực đối với hai ông Y Khiu Niê và Y Sĩ Êban, dường như có liên quan đến việc thực hành ôn hoà các quyền được ghi trong Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và chính trị (ICCPR) mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn vào ngày 24//9/1982, bao gồm quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo (điều 18), tự do biểu đạt (điều 19), quyền bình đẳng trước pháp luật và được bảo vệ bình đẳng (điều 26) và quyền của các thành viên thuộc một nhóm thiểu số tôn giáo được tuyên xưng hoặc thực hành tôn giáo của họ với các thành viên khác trong nhóm của họ (điều 27).”

Các chuyên gia nhân quyền của LHQ cũng nhắc lại rằng Việt Nam bị nêu trong nhiều báo cáo gửi Tổng Thư ký LHQ về hành vi đe dọa và trả đũa đối với việc hợp tác với LHQ trong lĩnh vực nhân quyền, bao gồm cả các báo cáo liên quan đến việc bắt giữ tùy tiện, đe dọa, giám sát và hạn chế đi lại quá mức đối với những người muốn tham gia vào các hoạt động nhân quyền, trong đó có hội nghị thường niên SEAFORB.

Chúng tôi lo ngại rằng những cáo buộc này dường như minh họa cho một mô hình đe dọa và trả thù đang nổi lên đối với những cá nhân hợp tác hoặc tìm cách hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức hoặc cơ chế nhân quyền của LHQ hoặc các đại diện ngoại giao nước ngoài,” thư chung nói.

Các báo cáo viên đề nghị Chính phủ Việt Nam giải thích việc cấm xuất cảnh, bắt giữ và tra khảo đối với hai ông Y Khiu Nie và Y Si Eban cũng như các hành vi tương tự đối với nhiều nhà hoạt động về tự do tôn giáo tham gia SEAFORB trong thời gian 2015-2022 và những người cộng tác với LHQ.

Họ đề nghị Hà Nội có các biện pháp cụ thể để chấm dứt tình trạng đàn áp này và bảo vệ các cộng đồng tôn giáo nhỏ, trong đó có các nhóm Tin lành của người Thượng.

Phóng viên gửi email cho Bộ Ngoại giao Việt Nam để đề nghị bình luận về Thư chung của bốn Báo cáo viên đặc biệt của LHQ, nhưng chưa nhận được phản hồi.

Ninh Thuận: Một người dân bị bắt vì “nói xấu” Đảng Cộng sản VN trên mạng xã hội

RFA

2023.06.28

Ông Lê Thạch Giang làm việc với công an

Công An via PLO

Cơ quan Cảnh sát Điều tra (Công an TP Phan Rang – Tháp Chàm), tỉnh Ninh Thuận hôm 28/6 tống đạt quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam một người dân ở TP Phan Rang với cáo buộc “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Báo Nhà nước dẫn nguồn tin từ Công an TP Phan Rang vào cùng ngày cho biết, người bị bắt là ông Lê Thạch Giang (66 tuổi).

Ông Giang bị công an cáo buộc lập tài khoản trên mạng xã hội có tên “Bọn cường quyền” từ tháng 8/2022 để livestream và đăng cá bài viết có liên quan đến cưỡng chế, thu hồi đất của các cơ quan chức năng.

Ngoài ra, ông Giang còn bị công an cáo buộc kêu gọi người dân xem các trang mạng xấu, độc, chia sẻ những thông tin chưa kiểm chứng, xuyên tạc, nói xấu Đảng.

Chính quyền Việt Nam thường dùng Điều 331 Bộ luật Hình sự để kết tội những người lên tiếng chỉ trích chính quyền ôn hòa. Đây là điều luật đã bị quốc tế chỉ trích là mù mờ và đề nghị Việt Nam xóa bỏ.

Từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã bắt giữ ít nhất 10 người với cáo buộc vi phạm Điều 331, theo số liệu thống kê của Đài Á Châu Tự Do.

Sài Gòn ngập nặng 2 ngày liên tiếp do mưa lớn, cống nghẹt

Sài Gòn ngập nặng 2 ngày liên tiếp do mưa lớn, cống nghẹt

Báo Nguoi-viet

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Sài Gòn hôm 29 Tháng Sáu có ngày thứ hai liên tiếp ngập nặng, nhiều tuyến đường biến thành sông, do “mưa lớn” và cống tắc nghẽn trầm trọng.

Theo ghi nhận của báo VNExpress, nước ngập gần lút bánh xe gắn máy trên các tuyến đường Lê Văn Việt, Đinh Bộ Lĩnh, Hồ Học Lãm…

Ngườ dân trên đường Hồ Ngọc Lãm (quận Bình Tân) dùng 2 máy bơm đê bơm nước từ trong nhà ra ngoài. Ảnh: Văn Điệp

Một căn nhà trên đường Hồ Học Lãm, quận Bình Tân, Sài Gòn, phải dùng hai máy bơm để hút nước ngập từ trong nhà ra ngoài. (Hình: VNExpress)

Mỗi khi có xe hơi chạy qua tạo thành sóng nước, đẩy người đi đường chao đảo trên biển nước. Tài xế nhiều xe hơi bị ngập nước phải thuê xe cẩu để đi sửa chữa.

Trên đoạn đường Ung Văn Khiêm, quận Bình Thạnh, xảy ra kẹt xe nghiêm trọng. Hàng ngàn xe gắn máy, xe hơi phải nhích từng chút một để về nhà.

Cùng thời điểm, báo Dân Trí cho hay cơn mưa như trút nước vào chiều 29 Tháng Sáu khiến nhiều tuyến đường ở quận Gò Vấp ngập sâu. Nhiều người phải đứng chờ hơn một giờ vẫn chưa được về nhà.

Tình cảnh tương tự diễn ra một ngày trước tại Sài Gòn cũng vì “mưa lớn.”

Theo báo Zing, mưa dông lớn trong chiều 28 Tháng Sáu khiến 65 chuyến bay bị ảnh hưởng khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.

Bản tin cho biết thêm, Tháng Sáu và Tháng Bảy hằng năm là thời kỳ phát triển của gió mùa mùa Hè, với sự khơi sâu của áp thấp nóng Ấn Độ-Miến Điện và mở rộng phạm vi hoạt động về phía Đông, chi phối thời tiết trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Theo Trung Tâm Dự Báo Khí Tượng Thủy Văn Quốc Gia, trong hai ngày 29 và 30 Tháng Sáu, tùy khu vực Nam Bộ mà có mưa rào và dông rải rác, mưa vừa, mưa to với lượng mưa 20-40 mm, có nơi trên 60 mm. Thời gian xảy ra mưa dông tập trung vào chiều và tối.

Biển nước trên đường Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, Sài Gòn, hôm 29 Tháng Sáu. (Hình: VNExpress)

Hồi tuần trước, báo VTC News cho hay “siêu dự án” chống ngập do triều cường khu vực Sài Gòn, có mức đầu tư 10,000 tỷ đồng ($424.2 triệu), khởi công từ hồi năm 2016 nhưng đến nay vẫn “chưa thể đưa vào sử dụng.”

Bản tin cho biết, theo kế hoạch ban đầu, lẽ ra dự án chống ngập phải vận hành trong năm nay nhưng hiện tại, tất cả các hạng mục vẫn đang “án binh bất động.”

Công ty Trungnam Group, chủ đầu tư dự án, cho biết họ đang chờ Ngân Hàng Nhà Nước và ngân hàng BIDV cấp vốn và giải ngân thì dự án “ngay lập tức được tái khởi động, hoàn thành đúng tiến độ.” (N.H.K)

Một ông ở Lâm Đồng nghi treo cổ 3 con rồi tự sát

Báo Nguoi-viet

June 28, 2023

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Đi làm về nhà ở xã N’Thol Hạ, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, bà Cil Ju Ka Tuyên hốt hoảng khi thấy chồng cùng ba con nhỏ chết trong tư thế treo cổ.

Báo Thanh Niên dẫn tin từ ông Nông Văn Hợi, chủ tịch xã N’Thol Hạ, huyện Đức Trọng, cho biết sự việc xảy ra vào khoảng 3 giờ chiều 27 Tháng Sáu. Những người chết gồm ông Lương Đức Chiến, 33 tuổi; cháu Cil Ju Ha M., 8 tuổi; Lương Đức T., 4 tuổi; và Lương Đức Th., 6 tuổi, trong đó cháu Cil Ju Ha M. là con riêng của bà Cil Ju Ka Tuyên với chồng trước.

Lối vào nhà bà Ka Tuyên ở xã N’Thol Hạ, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, nơi xảy ra sự việc. (Hình: N.X/VietNamNet)

“Vụ việc quá thương tâm và đau lòng xảy ra lúc trời đang mưa to. Khi chúng tôi đến hiện trường, người nhà đã đưa bốn nạn nhân xuống đất,” ông Hợi cho biết thêm.

Kể với báo Thanh Niên, chị Cil Ju Ka Th., người nhà bà Ka Tuyên, cho biết bà Ka Tuyên có ba đứa con với chồng trước gồm một gái và hai trai. Sau khi chồng trước bị tai nạn giao thông qua đời, bà Ka Tuyên lấy ông Chiến và sinh được hai đứa con trai là cháu Th. và cháu T.

Nhà bà Ka Tuyên ngay sát nhà cha mẹ đẻ, do được họ cho đất, hỗ trợ xây nhà. Bà Tuyên hằng ngày đi làm thuê cho họ hàng, bà con trong xã, còn ông Chiến làm thợ xây.

Sự việc xảy ra khi bà Ka Tuyên đang đi làm, còn bé gái và bé trai, con riêng của bà Ka Tuyên, đang đi chăn bò.

Chiều 27 Tháng Sáu, khi bé gái đi chăn bò về phát hiện sự việc nên báo cho mẹ biết.

Chị Th. cho biết thêm: “Gia đình hết sức bất ngờ khi nghe tin anh Chiến và ba cháu nhỏ tử vong. Thực sự gia đình không biết lý do gì dẫn đến vụ việc đau lòng như vậy. Cách đây khoảng ba ngày, hai vợ chồng anh Chiến và chị Ka Tuyên có chuyện xích mích nhưng đã giảng hòa rồi.”

Nói với báo Công An TP.HCM, bà Ka Tuyên cho biết cách đây ít ngày, hai vợ chồng có tranh luận về chuyện con cái. Ngoài ra, vợ chồng bà còn nợ khoảng vài chục triệu đồng của người quen khi xây nhà nhưng không bị áp lực, vì người này đã nói khi nào có thì trả nợ cũng được.

Chuyện tưởng như chẳng có gì và sáng 27 Tháng Sáu, bà Ka Tuyên đi làm bình thường, còn ông Chiến nói với vợ sẽ đi làm sau. Tuy nhiên, không ngờ lại xảy ra sự việc đau lòng trên.

Đám tang các nạn nhân. (Hình: Lâm Viên/Thanh Niên)

Đến trưa 28 Tháng Sáu, việc giảo nghiệm tử thi, khám nghiệm hiện trường của các cơ quan hữu trách kết thúc.

Hiện Công An Tỉnh Lâm Đồng đang điều tra nguyên nhân. Bước đầu nhận định ông Chiến sát hại ba con rồi tự tử. (Tr.N)

Ba con dê bị mất từ một nền giáo dục trộm cắp

Báo Tiếng Dân

Blog RFA

VietTuSaiGon

28-6-2023

Những năm sinh viên, tôi và bạn bè gốc quê của mình đi làm thuê, thường thì đi theo nhóm, một nhóm chừng năm đứa, rủ nhau đi làm, có nhóm đi dạy thêm, có nhóm đi làm bồi bàn, có nhóm đi làm thêm những việc có tính chất “thợ đụng”, ai kêu gì làm nấy.

Nhóm tôi ngoài việc đi dạy thêm còn đi làm bồi bàn trong những ngày cuối tuần mới đủ tiền thuê trọ, tiền ăn. Thời gian đi làm thêm cũng là khi tôi nhận ra sự khủng khiếp của thế hệ tôi từ nền giáo dục, một sự khủng khiếp tôi còn mơ hồ khi ở giảng đường và nó hiển hiện rất rõ khi đi làm. Càng về sau, tôi càng thấy rằng với nền giáo dục này, sẽ cho ra những con người trộm cắp toàn diện, ai may mắn lắm mới thoát được nó nhờ vào giáo dục gia đình.

Tôi còn nhớ như in, hình ảnh một thằng bạn chuyên ăn cắp vặt trong lúc bưng thức ăn, khi bưng dĩa chả chiên hoặc món ăn gì đó có thể bốc được, ngang qua đoạn không có ai quan sát, hắn lén bốc một cục bỏ vào mồm, sau đó, miệng thì nhai nhanh, tay thì sửa cho dĩa thức ăn tròn, đều trở lại, hắn làm trong tích tắc.

Nhưng, chuyện ăn cắp thức ăn vì quá đói, dần thành thói quen vẫn chưa có gì đáng kể. Trong một lần nói chuyện với nhau, sau khi nghe một tay giám đốc ngân hàng trò chuyện trên bàn rượu, rằng ông ta tuyển nhân viên toàn nữ, phải đẹp mới tuyển, khi phỏng vấn để nhận người, ông ta chỉ hỏi đúng một câu “em uống được mấy chai?”, nếu trả lời không biết uống và không biết hát karaoke thì ông sẽ không nhận.

Những đứa sinh viên giàu mộng mơ như tụi tôi sẽ rất sốc khi nghe chuyện, nhưng có vài đứa không những không sốc mà lại nhìn thấy cơ hội của mình. Tôi nhớ một đứa bạn đố tôi “giả sử sếp của mi hỏi năm cộng năm bằng mười một đúng hay sai, mi trả lời sao?”. Tôi nói: “Theo toán học thì rõ ràng sai!”. Nó bảo “Mi ngu quá, như vậy là mất việc đó con, mi phải nói lại là nếu sếp nói đúng, thì đó là đúng”. Mấy đứa còn lại vỗ tay khen thằng đó khôn, thông minh. Riêng tôi lúc ấy chỉ thấy ớn lạnh và chán nản, bởi mọi thứ tôi chưa bao giờ hình dung nó tệ mạt như vậy.

Nhưng rồi, khi đi làm việc, tiếp xúc với đủ hạng người, tôi lại thấy thằng kia khôn và đúng, chí ít là nó khôn với tình thế xã hội nó sống và nó đúng cho tương lai của nó, còn mình thì quá ngu, mình luôn tâm đắc với quan niệm “ghét thì nói ghét, thương thì nói thương, đúng sai rõ ràng” nên mình đụng đâu cũng thấy khó, đụng đâu cũng thấy thất bại, đụng đâu cũng gặp toàn oan khiên gai độc. Như vậy là tôi sai sao? Như vậy thì xã hội này trở thành cái nồi lẩu lộn xộn, chẳng còn đúng sai, chẳng còn công lý hay thiên lương sao?

Tôi nghĩ không đến nỗi như vậy, chí ít, vẫn còn rất nhiều người từng thụ đắc một nền giáo dục tốt, và cả những người tuy sống trong lòng chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng bản thân họ được thụ đắc nền giáo dục gia đình chỉn chu, họ may mắn học được những làn gió tư tưởng cởi mở, họ biết tự trọng và tin vào sự chân thành, sự thật… Họ vẫn tồn tại đâu đó, không phải ít trong xã hội này. Nhưng tiếng nói của họ trở nên nhỏ nhoi hoặc họ không buồn nói ra tiếng lòng của mình, bởi giữa cái xã hội hổ lốn, họ biết có nói ra cũng bằng thừa, bởi đó là sự hỏng hóc từ kiến trúc thượng tầng, sự hỏng hóc từ nền giáo dục, thì họ nói ra để mà làm gì?!

Một nền giáo dục mà ngay từ nhỏ, cả nhà trường và học sinh đều phải gồng lưng để vừa chạy đua vừa nuốt những chương trình vô bổ, những giáo án , giáo trình vừa xa rời thực tế vừa vặn vẹo dối trá, một mặt ca ngợi chiến công hiển hách cũng như sự lãnh đạo thiên tài của đảng cầm quyền, mặt khác chì chiết, bêu riếu với giọng điệu đầy thù hận đối với bên thua cuộc. Với một nền giáo dục mà khởi sự là một thái độ phi khoa học, phi nhân đạo như vậy, tâm hồn của học trò không thể khai mở một cách bình thường, nếu không muốn nói là tổn thương, méo mó và dị dạng.

Một nền giáo dục mà ở đó, cuộc chạy đua về thành tích gần như bất tận, chạ mẹ phải vã mồ hôi để chạy đua với thành tích của con, còn con thì lao đầu như thiêu thân vào việc học, từ học chính khóa đến học thêm, học kèm và các loại phấn đấu, nỗ lực để có giấy khen, có khen thưởng từ thành tích học tập cũng như thành tích sinh hoạt đội, đoàn, thành tích noi gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Tất cả những thứ vớ vẩn ấy chi phối toàn bộ thời gian và khiến cho bất kì gia đình cha mẹ học sinh nào đều phải xoắn chân, vắt chân mà chạy theo. Nếu chạy theo bằng đường chính không kịp thì chạy theo bằng đường băng. Tức cố gắng cho con học thêm, học kèm, học bồi dưỡng… mà con vẫn chưa đạt được thành tích mong muốn thì mua thành tích. Thời đại thành tích là sản phẩm đặc trưng của nhà trường nên với sản phẩm, người ta mua được nó bằng mọi giá, nếu mua bằng nhiều tiền không được thì mua bằng thật nhiều tiền.

Ngay cả những tấm bằng đại học, cao học của các quan chức lãnh đạo, những thứ mà phải trầy vi tróc vảy mài đũng quần suốt mười hai năm học để thì vào đại học, thì đậu đại học rồi lại mài đũng quần suốt gần năm năm dài để lại thức khuya dậy sớm mà luyện, ôn, thi mới có nó… nhưng người ta có thể dễ dàng nhấc một cuộc điện thoại, chuyển một dãy số trong tài khoản hoặc giả chuyển một cái phong bì thì có tất tần tật, hàng thật, từ chữ ký Hiệu trưởng cho đến con dấu đỏ, có hết. Trong một bầu khí quyển giáo dục mang tính chợ búa và mua bán như vậy, thì lòng thật thà có còn không?

Một khi lòng thật thà không còn, giá thành hàng hóa ngày càng đắt đỏ, người không mua nổi sẽ nghĩ đến chuyện ăn cắp. Bởi bản thân những người làm giáo dục cũng đang ăn cắp, từ ăn cắp lương tâm đến ăn cắp danh dự, ăn cắp sản phẩm giáo dục, ăn cắp thành tích, ăn cắp tài sản quốc gia… thì câu chuyện ăn cắp đâu chỉ dừng ở những người làm công tác giáo dục. Sự ăn cắp nhanh chóng chuyển sang những đứa học trò, những đứa có khả năng học và tiếp thu rất nhanh so với người lớn, chúng có thể phát huy, người lớn biết ăn cắp một thì chúng biết ăn cắp mười.

Chúng không những ăn cắp cây viết của bạn bè, ăn cắp cuốn tập, ăn cắp trái bắp, trái dưa mà chúng sẽ nuôi mộng ăn cắp rừng, ăn cắp biển, ăn cắp khoáng sản, ăn cắp luôn cả thành tựu, thánh tích của người khác, thậm chí ăn cắp cả ý nghĩ của người khác nếu có thể. Bởi ăn cắp đã trở thành sinh quyển của chúng, luật chơi của xã hội và là đường hướng đi đến tương lai.

Trong một xã hội đầy rẫy kẻ cắp, từ nhà trường đã nuôi ý chí ăn cắp, khi đi làm việc, nếu là thầy thuốc, chúng sẽ ăn cắp từng viên thuốc, từng chút dụng cụ, vật tư y tế, nếu làm nhà giáo, chúng sẽ ăn cắp thời gian của học trò bằng cách ém nhẹm, kéo dài bài vở để dạy thêm, dạy kèm, thậm chí toa rập để chạy đua thành tích, đó là chưa nói đến việc ăn cắp giờ giấc để hẹn hò, ngoại tình khi đã có gia đình, nếu làm quan, làm cán bộ thì chúng sẽ ăn cắp tài sản quốc gia, ăn cắp tài nguyên đất nước… Có cả một ngàn lẻ một đường để chúng ăn cắp.

Và hệ lụy của việc ăn cắp đồng loạt này là các quan chức giàu nứt đố đổ vách, công chức giàu sụ, viên chức giàu kếch xù và tất cả đều lấy của ăn cắp để nuôi tham vọng. Tài nguyên quốc gia ngày càng cạn kiệt, kể cả tài nguyên con người. Tài sản quốc dân bị bòn rút đến tận cùng, xã hội trở nên rối ren và đầy rẫy trộm cắp.

***

Chuyện ba công an viên vừa bị bắt ở Hà Nội do bắn trộm dê của dân, làm dấy động dư luận hai ngày nay, thiết nghĩ đó chỉ là chuyện hổ ngươi và đen đủi trong thói quen trộm cắp của công an mà thôi. Bởi công an cũng từng là học sinh xã hội chủ nghĩa, công an cũng là công chức nhà nước, công an cũng là công dân xã hội chủ nghĩa, cũng đều chung một nền giáo dục và thiên hướng chính trị cũng như khuynh hướng tính cách.

Ảnh: Ba cán bộ Công an Thị trấn Đại Nghĩa, huyện Mỹ Đức, Hà Nội bắn trộm dê của dân. Nguồn: Báo Tuổi Trẻ

Thử hỏi: Nếu tất cả cán bộ Việt Nam sống một cách lương thiện, không có thói quen trộm cắp, thì tiền lương của họ có đủ để xa hoa, sa đọa như đang thấy? Và giả sử họ giỏi kinh doanh, thì với những đồng tiền chảy mồ hôi, sôi nước mắt do kinh doanh mà có được, những đồng tiền sạch, họ có dám vứt qua cửa sổ sau một đêm ăn chơi?

Chỉ có tiền ăn cắp, chỉ có thứ tiền có được bởi “một đêm ăn trộm bằng ba năm làm” mới giúp cho cán bộ, công chức, viên chức sẵn sàng vứt nó qua cửa sổ, ăn chơi sa đọa, bất chấp như vậy mà thôi!

Đừng ngạc nhiên khi nghe tin công an hay cán bộ ăn cắp, bởi hằng ngày, họ vẫn công khai ăn chặn, ăn trấn lột bằng hình thức “giữ trật tự an toàn giao thông” với áo vàng, trang phục ngành và lực lượng hỗ trợ, họ vẫn nói năng với dân giống như quân cướp, hỗn hào, vô lễ, mất dạy… Họ có tất! Hằng ngày, họ vẫn ăn cắp, buôn lậu, buôn hàng quốc cấm qua cửa khẩu một cách ngang nhiên, thậm chí rạch vali của hành khách mà lấy trộm đồ đó thôi, họ là những người ưu tú của chế độ đấy!

Đừng ngạc nhiên khi cán bộ ăn cắp, bởi lúc này, việc thụt két nhà nước đã khó hơn rồi, nên chuyện họ sổng ra ngoài, ăn cắp một thứ gì đó của dân mà bị bắt, là do họ xui rủi. Còn ngay từ nền giáo dục, ngay từ tấm bé, họ đã sống trong bầu khí quyển trộm cắp, bởi vậy: đừng ngạc nhiên!


 

Đoạn trường “Hát Ô”- Phạm Hồng Ân

Đoạn trường “Hát Ô”

Hồ sơ tỵ nạn người Việt thuộc chế độ VNCH trên bàn làm việc của nhân viên Sở di trú Hoa Kỳ tại Sài Gòn, thập niên 1990 (ảnh: Peter Charlesworth/LightRocket via Getty Images)

Sau sáu năm tù phờ phạc ở trại Xuyên Mộc, tôi thất thểu trở về làm phó thường dân nơi một xã hẻo lánh vùng Bến Tre – chỗ chôn nhau cắt rốn của mụ vợ thân yêu. Nói phó thường dân cho oai, chứ thật sự chỉ là thằng tù giam lỏng, đi đâu cũng có kẻ rình người rập bất kể ngày hay đêm.

Mỗi tuần, theo chỉ thị, tôi còn phải cuốc bộ gần năm cây số đường vườn để tới công an xã, khệ nệ trình cuốn sổ tay dày cộm có ghi rõ từng chi tiết sinh hoạt hàng giờ, để báo cáo với tên công an trưởng (dường như chưa một lần cắp sách tới trường).

Ở ấp, tôi vâng lệnh chi bộ ấp như vâng lệnh ông vua, lao động xã hội chủ nghĩa mút mùa, vì sợ phải trở lại trại tù nhai tới nhai lui nắm mì lát chua như bã rượu. Làm nhiều ăn ít, riết rồi tôi co lại như một con tép riu, lom khom như tên tiều phu già nua trước tuổi. Vì vậy, khi có chương trình Hát Ô (Humanitarian Operation – HO) ban ra, tôi vội vã lên tỉnh, hồi hộp dò la ở những nơi chốn có bạn tù. Hồi hộp, dò la là điều tất nhiên ở một xã hội theo chế độ cộng sản. Họ thường nói một đàng, nhưng làm một nẻo.

Họ bảo các thành phần chế độ cũ trình diện “học tập cải tạo” một tháng, thì sau khi “gom bi”, các thành phần đó ở tù mút chỉ cà tha. Họ bảo lao động là vinh quang, xây dựng xã hội ấm no – thì sau một thời gian cuốc đất trồng khoai, nhân dân chỉ còn trơ lại cái quần tà lỏn. Khi HO một chuẩn bị lên đường, chúng tôi mới tin đây là một chính sách đúng đắn, do áp lực từ Mỹ.

Lúc đó, Sở Công an tỉnh Bến Tre, ngày nào như ngày nấy, đầy nhóc những người chế độ cũ chen chân nhau để mua hồ sơ xuất cảnh. Hồ sơ xuất cảnh được các tay công an “kinh doanh” một cách tận tình. Giá của một bộ hồ sơ quá đắt, so với túi tiền còm cõi của một tên tù lưu đày vừa mãn hạn. Vậy mà, chúng tôi cố chạy chọt khắp nơi, vay mượn đầu này đầu kia để mong sao sớm thoát khỏi cái chế độ “thầy chạy” này.

Điền đơn, viết hồ sơ… đó là nghề của tôi, dễ ợt như ăn cơm bữa. Nhưng chứng thực hồ sơ mới là chuyện khó. Khó đến nỗi tôi luôn nhớ suốt đời, như vết thương để lại trên thịt da một vết sẹo hằn sâu. Hồ sơ được luân chuyển đến tay các “đại ca” từ: Ấp, đến huyện, rồi qua tỉnh, về thành phố, ngược xuôi ra Bắc…, lao đao trôi nổi, lận đận trăm chiều. Hồ sơ đi tới đâu, tôi phải thiết tha khẩn cầu, ỉ ôi năn nỉ. Nhưng rốt cuộc rồi cũng chẳng qua “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”.

Tôi muốn bắt đầu câu chuyện từ ấp – Ấp Phú Ninh, nơi tôi dung thân sau những năm tháng mãn tù. Sau 1975, ấp này có nhiều tay cách mạng ba mươi ra nắm chính quyền. Cách mạng ba mươi là thành phần làm ăn sinh sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng sau ba mươi Tháng Tư, lúc cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, thành phần này bỗng trở cờ, ra thờ ma, làm việc cho cộng sản. Trưởng ấp Phú Ninh thuộc thành phần này. Lúc trước, hắn chỉ là một cậu học sinh tầm thường, nương cậy vào nhà chùa để trốn quân dịch. Sau này, vì bọn Việt Cộng quá dốt nát, một chữ lận lưng cũng không có, nên mới đề cử tên này ra đảm nhận chức ấp trưởng.

Vừa thấy tôi cầm xấp hồ sơ lấp ló trước cửa, hắn thao thao lên lớp ngay.

-Giờ này mà anh chưa chịu từ bỏ, dứt khoát với tư tưởng cũ. Anh vẫn tin vào bọn đế quốc Mỹ. Tôi cho anh biết, anh qua bên đó chỉ làm cu-li cho bọn chúng mà thôi. Sức mấy mà cái lon sĩ quan của anh được chúng phục hồi?

Tôi nhẹ nhàng giúi vào tay hắn cây thuốc ba số 5 mà tôi phải vác mía mướn đến “bá thở” mới mua được.

-Luyến tiếc gì nữa ba cái lon lá cà chớn ngày trước làm chi anh. Tôi muốn qua Mỹ vì tương lai thằng con. Qua bển, học hành thành tài, nó trở về phục vụ cho đất nước. Quê hương mình, làm sao bỏ được anh?

Hắn lấy tay xoa xoa hộp thuốc, đổi giọng, cười khì khì:

-Anh nói nghe chí lí, tôi phục đó nha! Thôi, đưa hồ sơ tôi chứng cho. Nhưng nhớ, trước khi lên máy bay, cho anh em chúng tôi một chầu rượu nhe!

-Chuyện nhỏ. Anh giúp tôi, làm sao quên ơn anh được?

Cái cửa đầu tiên trót lọt, tôi vừa mừng thầm, vừa chưởi thề nho nhỏ. Ngày mai, đem hồ sơ lên huyện, tôi phải đạp xe gần 20 cây số tiểu lộ. Nói tiểu lộ để phân biệt với các con lộ có đá, tráng nhựa. Nó chỉ là một con đường đất gập ghềnh.

Trời nắng, gặp chiếc Honda nào rồ máy chạy ngang, tôi đành tấp vào lề, hít đống bụi bặm đang bay loạn xà ngầu trước mặt. Còn trời mưa, xe đạp không còn cõng mình, mà mình phải cõng xe đạp, lò dò từng bước trên con đường sình lầy trơn trợt như thoa mỡ bò. Nhưng dù gian nan cách mấy, sáng sớm, tôi phải quyết định đi. Người ta nói, nếu cái cột đèn biết đi, nó cũng bỏ nước ra đi trong thời gian này kia mà! Tôi sắm sẵn một sợi dây lòng thòng, phòng hờ trời mưa, tôi sẽ quàng xe đạp lên vai, an toàn trở về.

Sài Gòn, 1983 (ảnh: Alex Bowie/Getty Images)

Huyện Châu Thành nằm trên con lộ độc đạo, dẫn vô thị xã Bến Tre. Huyện đang xây dựng dở dang. Gạch đá ngổn ngang. Công trình dường như qui mô, lớn rộng. Bên cạnh đó, một dãy nhà dân lụp xụp nghèo nàn, tương phản nhau một cách kỳ cục. Căn nhà lá khang trang dựng lên, kế bên công trình, tạm thời làm ban trị sự của huyện. Tôi chuẩn bị sẵn thuốc lá, gói ghém cẩn thận để khi cần, lót tay một cách nhẹ nhàng.

Nhưng tôi vỡ mộng, người tiếp tôi hôm đó là một thiếu nữ tuổi độ tròn trăng. Cô bé có vóc dáng của cô học trò thùy mị. Vóc dáng này, hình ảnh này, trong quá khứ, đối với tôi – rất dễ thuyết phục. Nhưng, tôi lại vỡ mộng thêm lần nữa, khi nghe giọng nói sành đời của cô cứng rắn thốt lên:

-Ông về đi. Cứ để hồ sơ ở đây. Tháng sau tới… sẽ biết tin.

Tôi luống cuống, mân mê hộp thuốc lá cứu tinh, giờ đây đã trở thành vô dụng.

-Xin cô vui lòng chứng sớm dùm. Tháng sau… lâu quá!

Cô bé bỏ viết xuống, nhìn tôi đăm đăm, dường như có hận thù với tôi từ kiếp nào. Xong, cô lạnh lùng nói:

-Lâu hả? Nhiều người còn lâu hơn ông kìa. Có khi họ phải đợi một năm, hai năm… vẫn chưa xong đó!

Tôi thất vọng, nhưng ráng cố gắng trì hoãn, xuống nước:

-Cô làm ơn giúp dùm. Nhà tôi ở xa, đi lên đi xuống rất khó khăn. Cô bé bực dọc, hầm hầm đẩy hồ sơ tôi sang một bên:

-Khó khăn quá thì ông cầm hồ sơ về đi. Tôi không có thì giờ.

Tôi tiu nghỉu trở về. Nằm chờ tháng sau, khăn gói lên huyện thêm lần nữa. Lần này, tôi chuẩn bị một phong thư tiền, cẩn thận gói ghém kín đáo. Người ra tiếp tôi, hôm nay, cũng vẫn cô bé tròn trăng, vóc dáng quê mùa. Chưa kịp chào hỏi, cô bé đã gầm gầm:

-Hồ sơ ông chưa xong. Chủ tịch huyện bận công tác. Tháng sau tới gặp.

Tôi chán nản, định xổ một tràng cho bớt tức tối. Nhưng tôi kịp nén lại, nở nụ cười duyên gượng gạo với cô bé.

-Tôi có chút quà tặng cô. Xin cô vui lòng nhận và giúp dùm.

Phong thư đặt nhẹ nhàng lên bàn, và nhẹ nhàng hơn nữa là ngăn tủ được kéo ra cho phong thư rớt xuống một cách êm đềm. Hành động này rất nhanh nhẹn và điêu luyện, chứng tỏ người nhận rất quen thuộc với trường hợp này.

-Được rồi. Ông ngồi chờ chút. Tôi lên gặp phó chủ tịch, xem hồ sơ của ông đã ký xong chưa?

Tôi đặt đít xuống ghế, nhấp nha nhấp nhổm gần cả tiếng đồng hồ, mới thấy cô bé yểu điệu bước ra.

-Ông hên lắm! Hồ sơ đã ký rồi. Lên tỉnh ngày hôm nay đi. Nộp luôn cho xong.

Thế là hồ sơ xuất cảnh của tôi được lên tỉnh. Và không biết nó chu du nơi nào mà cả một năm sau… vẫn bặt vô âm tín. Buồn tình, tôi đi tìm các bạn tù hỏi ý kiến. Thì ra các HO phải lên Sài Gòn mướn dịch vụ xuất cảnh, cũng do công an Việt Cộng quản lý và kinh doanh. Tôi chạy ngược chạy xuôi vay mượn thêm hai chỉ vàng, vội vã lên Sài Gòn tìm kiếm dịch vụ.

Dịch vụ nằm trong một ngôi nhà to lớn, thênh thang những hàng ghế lớn nhỏ dành cho khách ngồi đợi. Tôi chen vào đám đông, định tiến tới phía trước tìm người hỏi thăm, thì có một bàn tay nắm vai tôi kéo ngược lại. Tôi ngó xuống bàn tay. Cánh tay liễu yếu đào tơ của một cô gái có chút nhan sắc.

-Anh ra ngoài này, em có chuyện muốn nói với anh.

-Chuyện gì? Tôi phải vào lo dịch vụ. Còn về Bến Tre nữa, kẻo trễ xe.

Cô gái nũng nịu:

-Ít phút thôi! Làm ơn giúp em!

Tôi ra ngoài với cô gái. Ánh nắng ban trưa nhấp nha làm đôi má cô gái hồng lên, một cách gợi cảm.

-Em muốn ghép hồ sơ với anh. Qua Mỹ, chúng mình sẽ thanh toán sòng phẳng. Tôi ngắm cô gái từ đầu đến chân, rồi cuối cùng chối từ, nhưng trong lòng thật tình rất tiếc.

-Xin lỗi, tôi còn vợ con. Vô phương giúp cô được.

Nhờ hai chỉ vàng, hồ sơ xuất cảnh của tôi được hoàn tất một cách nhanh chóng. Gia đình tôi thuộc HO 20 và khoảng tháng sau sẽ có “Hộ Chiếu”.

Tôi trở về căn chòi xiêu vẹo, nằm mơ tưởng đến tương lai diệu vợi. Rồi đây vợ tôi sẽ không còn cảnh lội ruộng, móc mương. Con tôi sẽ ung dung cắp sách đến trường, miệt mài cho đến khi thành đạt. Tôi sẽ an hưởng thanh nhàn, bù lại những năm tháng tuổi trẻ bất hạnh trong chiến tranh và lao tù. Nhưng khi cầm sổ “hộ chiếu” trên tay, tôi lại phải đối đầu với những gian nan gai góc khác.

Muốn định cư ở Mỹ, gia đình HO phải trải qua hai giai đoạn: Sơ vấn và phỏng vấn. Giai đoạn sơ vấn là giai đoạn gặp công an Việt Cộng để khai báo quá khứ và thiết lập hồ sơ, xong rồi, đưa qua phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Khi gặp phái đoàn Mỹ, số phận HO mới được định đoạt.

Ngày sơ vấn, tôi đeo xe đò lên Sài Gòn trước một ngày, để hôm sau đi thẳng đến chỗ xuất cảnh sớm nhất. Như lần trước, tôi chuẩn bị một số phong thư. Thằng em út của tôi nhìn thấy, liền kề tai nói nho nhỏ:

-Tụi công an ăn hối lộ nhiều quá, tai tiếng tùm lum. Nên lúc này, cấp trên tụi nó ra lệnh thi hành chính sách trong-sạch-hóa. Anh coi chừng việc đi Mỹ của anh có thể bị trở ngại, vì tụi nó đang thi hành chính sách này một cách nghiêm chỉnh.

Quả đúng như lời thằng em nói, chỗ xuất cảnh thênh thang, bốn bức tường chung quanh đều treo đỏ các khẩu hiệu bề thế, đại loại như: Chống hối lộ, trong sạch hàng ngũ, đạo đức cách mạng, noi gương bác Hồ…

Tôi xé vội các phong thư, rồi xếp hàng nghiêm chỉnh, đàng hoàng như các khẩu hiệu treo trên tường. Ngồi chờ từ sáng sớm đến gần xế chiều, tên tôi vẫn chưa nghe gọi lên. Ồ! Thật lạ quá! Tôi là người ghi danh đầu tiên kia mà. Sáng tờ mờ, tôi đã đến đây trước, lúc cánh cổng chỗ xuất cảnh chưa mở kia mà.

Nóng lòng, tôi đi tới đi lui, đi xuôi đi ngược. Cuối cùng, tôi chạy vội đến tên công an ngồi ghi danh trước cổng:

-Anh ơi! Tôi là người đến đây đầu tiên, sao mãi tới bây giờ vẫn chưa được gọi tên?

Tên công an cộc lốc:

-Cứ ngồi chờ đi.

Có một người bạn tù thấy vậy, khều tôi ra ngoài hành lang:

-Anh “lót tay” cho tụi nó chưa?

-Hả? Anh không thấy những khẩu hiệu to bề bề trên tường sao?

Người bạn tù lắc đầu:

-Anh ngây thơ quá! Nó nói vậy mà không phải vậy. Anh phải hiểu ngược lại chứ!

Tôi chạy vội vào nhà vệ sinh, sau khi xin người bạn tù tốt bụng vài mảnh phong bì. Rồi, tôi lại chạy vội về phía tên công an gác cổng. Vài phút sau, tên tôi được gọi lên ngay. Cuộc sơ vấn cũng vậy, y chang như những lần gặp gỡ trước. Cũng phong bì đặt nhẹ nhàng trên bàn. Cũng ngăn tủ được kéo ra, phong bì thong dong rớt xuống.

Cuộc phỏng vấn của phái đoàn Mỹ thì khỏi cần lo, vì gia đình tôi có đủ giấy tờ chứng minh một cách hợp lệ. Được phái đoàn Mỹ chấp thuận, gia đình tôi rất mừng, mừng đến rưng rưng nước mắt. Nhưng công an Việt Cộng vẫn chưa chịu tha, họ bắt chúng tôi xác nhận một số giấy tờ, và lại tiếp tục đi lòng vòng để xin chữ ký từng người.

Sài Gòn, thập niên 1980 (ảnh: Christopher Pillitz/Getty Images)

Trước khi rời Việt Nam, gia đình tôi phải hoàn tất cấp tốc các đơn từ khôi hài như sau:

Đơn xin xác nhận không thiếu nợ của nhân dân ở địa phương; chứng chỉ hợp lệ tình trạng thuế vụ; chứng nhận về nhà ở của người đi “nước ngoài”; giấy xác nhận không thiếu nợ ngân hàng thuộc chế độ cũ trong phạm vi tỉnh Bến Tre; giấy xác nhận đã trả thuế đất và thuế nhà năm 1973…

Năm 1982, khi thả ra từ trại tù Xuyên Mộc, tôi về quê vợ đốn cây sua đũa làm cột kèo, chẻ tre và cau làm nẹp, dựng tạm một căn chòi cho gia đình tôi dung thân. Buồn cười thay, lúc được phái đoàn Mỹ chấp thuận, căn chòi này đã xiêu vẹo mục nát, sắp sửa đổ lăn ra. Tôi có làm đơn xin dỡ chòi, nhưng chính quyền địa phương không cho phép, họ bảo phải định giá căn chòi để đóng thuế nhà. Và muốn hợp pháp, tôi phải làm đơn xin tặng căn chòi mục nát cho ông anh vợ, trước khi ra đi.

10 năm ở quê vợ, tôi đã miệt mài biến những mảnh đất hoang vu đầy lùm bụi thành những miếng vườn phì nhiêu, cây trái xum xuê. Cảm tạ công lao đó, ông anh vợ đã đền bồi cho gia đình tôi ba cây vàng làm vốn về xứ người. Ngày ra đi, tôi trích 5 chỉ để trả tiền dịch vụ sắp xếp chuyến bay, và sắm một số hành lý cho vợ và con. Còn lại, tôi gói ghém tất cả cho vào túi xách tay, mang theo bên người.

Từ Phú Ninh (quê vợ), gia đình tôi phải đi nhiều chặng đường mới lên tới Sài Gòn. Bôn ba qua vài ải, từ tàu đò, đến xe đò, rồi xe lam… Khi đặt chân tới Tân Định, mới hay túi xách tay bị kẻ gian rọc rách, và cuỗm mất toàn bộ tài sản của tôi! Đau quá, tôi định đi báo công an, nhưng nghĩ lại, sáng mai lên máy bay rồi. Đành nuốt lệ, tự an ủi: Của mất thay người vậy.

Vào đến phi trường, ngồi ngay cổng để chờ giờ lên máy bay, gia đình tôi cũng vẫn chưa yên ổn. Tên công an lảng vảng phía sau, theo tôi bén gót. Hắn ngoắc tôi ra ngoài hành lang, lạnh lùng nói:

-Này, còn bao nhiêu tiền móc hết ra đi. Qua Mỹ rồi, tiền Việt Nam chỉ có nước vứt đi.

Tôi gom mớ tiền tống khứ cho hắn, như tống khứ tất cả vận xui ra khỏi cuộc đời mình.

Cám ơn Thượng Đế. Cám ơn cuộc đời. Cám ơn tấm lòng nhân hậu của các vị hảo tâm. 17 năm qua, nơi xứ người, từ bàn tay trắng lao lung, gia đình tôi đã có nghề nghiệp vững chắc. Những đứa cháu nội xinh đẹp, khôn ngoan lần lượt ra đời. Những niềm vui tràn trề xuất hiện xua tan đi những nỗi đau thống thiết của quá khứ bất hạnh.

HO chỉ là danh sách, chỉ là ngôn từ được đặt ra để nói đến diện tù nhân chính trị. Nhưng HO là nhân chứng, một biến động lịch sử to lớn xảy ra năm 1975. Có HO, dùng danh từ HO, người ta mới phân biệt được tù nhân chính trị thuộc giai đoạn nào trong lịch sử. Từ đó, về sau, khi lật lại từng trang sử Việt, thế giới và hậu duệ chúng ta mới xác nhận được ngày 30 Tháng Tư 1975 chính là ngày quốc hận của Việt Nam Cộng Hòa.

CÁI LẠNH CHẾT NGƯỜI!-CHUYỂN TRẠI-LM Nguyễn Hữu Lễ

LM Nguyễn Hữu Lễ

Các bạn thân mến,

Nước New Zealand ( Tân Tây Lan) nơi tôi đang sống là một quốc gia hải đảo ở vùng Nam Bán Cầu, rất gần với Nam Cực. Mùa Đông ở đây bắt đầu từ tháng 6 cho tới tháng 10. Vì ở gần Nam Cực nên mùa đông xứ này rất lạnh. Đặc biệt năm nay thời tiết bất thường, mới vào mùa đông mà đã có những ngày rất lạnh như hôm nay.

Tự nhiên tôi hồi tưởng lại “CÁI LẠNH CHẾT NGƯỜI” ở trại Cổng Trời năm xưa và ghi ra đây để chia sẻ với các bạn. ( Phần này tôi có viết trong Chương 9 : “Trại Cổng Trời”của Bút ký TÔI PHẢI SỐNG)

Thân ái

Lm NHL

***

CHUYỂN TRẠI

Chiều tối ngày 24 tháng 12 năm 1977, nhóm 20 người tù chúng tôi từ trại Nam Hà bị còng tay từng đôi một và tống lên chiếc xe khách tồi tàn cũ kỹ. Trên xe có một cán bộ cấp thiếu uý và 4 cán bộ mang súng dài theo áp tải. Chúng tôi qua cầu Long Biên ở Hà Nội lúc nữa đêm Lễ Chúa Giáng Sinh 1977.

Sau khi băng rừng leo núi suốt một ngày một đêm, cuối cùng chiếc xe dừng lại trong sân một trại tù xa lạ. Lúc ấy có lẽ đã qua nửa đêm, hoặc đã 1, 2 giờ sáng ngày 27 tháng 12 năm 1977. Trời lạnh như cắt da cắt thịt. Ngồi trong xe nhìn ra màn đêm bên ngoài bị sương mù phủ mờ những cảnh tượng chung quanh làm tôi chẳng thấy được gì nhiều.

Lúc nãy, khi xe chạy qua khu nhà cán bộ và dừng lại một chập, sau đó chạy vào qua cổng trại thì tôi biết đã tới nơi. Bên ngoài, tôi thấy có quãng 5, 6 cán bộ đứng gần bên xe. Họ mặc áo bông, đầu đội mũ có che tai và cột lại dưới cằm giống như lính Liên Xô, họ mang bao tay và cầm đèn bấm, có người cầm quyển sổ. Một lúc sau nhóm tù chúng tôi được lệnh xuống xe, tay vẫn còn bị cùm dính nhau từng đôi một.

Vừa bước ra khỏi xe, tôi chạm ngay với cái lạnh khủng khiếp! Lúc còn trên xe nhìn ra thấy cách ăn mặc của các cán bộ và nhất là khi thấy hơi khói ở miệng thoát ra ngùn ngụt mỗi khi họ nói, tôi biết là bên ngoài trời rất lạnh nên đã cẩn thận cài khuy áo, quấn thêm lên cổ chiếc khăn lông, nhưng đầu và chân vẫn để trần vì lúc đó tôi không có mũ và giày, chỉ mang đôi dép râu do trại Nam Hà phát.

Cái lạnh làm tôi nghe choáng váng và có cảm tưởng như bị một cú đấm thẳng vào mặt làm tôi bật ngược về phía sau.Tôi chưa kịp hoàn hồn để nhận biết hết tính cách kinh khủng của cái lạnh, bỗng chốc tôi cảm thấy mình như đang trần truồng! Ô, kìa! Sao lạ kỳ thế này? Tôi nhớ là mình có mặc áo quần cẩn thận, có mặc thêm cái áo vệ sinh bên ngoài bộ đồ xanh của trại phát, có khăn lông quấn cổ nữa, nhưng tự nhiên các thứ vải vóc trên thân thể tôi biến đi đâu hết để tôi đứng trần truồng giữa cái lạnh khủng khiếp này? Nhìn lại, tôi vẫn thấy còn quần áo dính trên người, nhưng lạ một điều là trong khoảnh khắc toàn thân tôi trở nên tê dại, không còn cảm giác nữa. Áo quần còn trên cơ thể, nhưng dường như không còn, chỉ nhìn thấy nó còn đó.

Trong lúc đó tôi cố mở miệng ra định nói vài câu với người bạn đang bị còng chung, nhưng hàm tôi cứng lại như bị khóa! Hai đầu gối tôi tự nhiên biến đi đâu để đôi chân tôi cứng lại như hai khúc gỗ thẳng tắp. Thì ra cái lạnh không được đề phòng trước đã đánh tôi ngã gục, đã làm tê dại hết các tế bào xúc giác và làm hệ thần kinh tôi hoạt động bấn loạn. Ngày xưa khi đọc sách báo, tôi có thấy nói đến “cái lạnh chết người”, nhưng lúc đó tôi không hiểu, chỉ nghĩ đó là cách nói trong văn chương chữ nghĩa. Nhưng chỉ trong mấy phút vừa qua, tôi đã hiểu và có lẽ tôi còn hiểu rõ ràng hơn tác giả đã viết lên câu “cái lạnh chết người”!

Lúc rời trại Nam Hà ra đi thời tiết ở đó cũng đã khá lạnh nên tôi lấy cái áo vệ sinh do trại phát mặc thêm bên ngoài bộ đồ xanh của trại. Mặc như thế cũng đủ với cái lạnh vào quãng 8 độ C của mùa đông dất Bắc ở vùng núi đá vôi Nam Hà.

Trong suốt 24 giờ qua, chúng tôi vật vã lăn lộn trên chiếc xe già nua bò lết leo lên những dốc núi cao. Có lúc xe chạy giữa vách đá cheo leo, một bên là núi, bên kia là thung lũng sâu, nhìn xuống phát chóng mặt. Trên đường đi, vì bị dằn vật nhiều quá nên tôi cảm thấy nóng và có lần đã phải cởi áo vệ sinh ra cho dễ chịu, nhưng khi xe lên tới độ cao và nhất là càng về chiều càng lạnh, nên tôi mặc áo ngoài cẩn thận.

Lúc trời về khuya, cơn lạnh dữ dội ập đến, tôi chỉ còn biết co ro ngồi dựa vào những gì có thể, để tìm chút hơi ấm. Dĩ nhiên lúc đó tất cả cửa gió trên xe đều đóng lại. Hơn nữa, nhờ có đông người, 20 người tù và 5 cán bộ áp tải, nên hơi người cũng làm tôi cảm thấy ấm hơn đôi chút. Lúc ở trên xe, ai có muốn mặc thêm quần áo cũng không có, vì đi đường mỗi người chỉ có một túi xách nhỏ, còn tất cả “nội vụ” đều cho vào bao bị chất đống trong xe, khi tới nơi mới lấy ra được.

Thì ra cái lạnh của trại Nam Hà không thấm vào đâu so với cái lạnh khủng khiếp nơi tôi vừa đặt chân tới, mà tôi đoán là dưới 0 độ khá xa. Lúc đó tôi chẳng biết mình đang ở đâu và trại mà chúng tôi vừa tới tên là gì.

ÐÊM GIÁ BĂNG

Lúc này trời đã quá muộn về sáng, vả lại thời tiết lạnh khủng khiếp nên vừa xuống xe là chúng tôi được tháo còng ngay và nhận lại “nội vụ”, sau đó được đưa vào một buồng kế bên nghỉ qua đêm. Mặc dù mới đứng trong sân chừng 15 phút nhưng mặt tôi cứng như tảng nước đá, đầu nhức như muốn vỡ đôi ra, hai tai đang dính vào đầu cứng như hai miếng bánh đa mỏng giòn, tôi nghĩ nếu dùng tay búng mạnh sẽ bị vỡ tan và rơi xuống đất. Ðôi chân cứng đờ và thẳng tắp không còn bước đi được nên một anh bạn trẻ phải giúp dìu tôi vào buồng.

Ðó là một buồng giam nhỏ và rất tồi tàn, có lối đi ở giữa và hai bên có sàn ván để nằm, có tầng bên trên. Vào buồng xong việc đầu tiên là chúng tôi xổ hết bao bị ra tìm thứ gì có thể mặc được thì mặc và quấn hết vào người. Ðêm đó tôi không tài nào ngủ được vì quá lạnh, mặc dù sau một ngày đường lăn lộn mệt nhọc. Tôi cố thu người lại càng nhỏ càng tốt, nhưng nằm co thế nào đi nữa vẫn thấy da thịt mình còn quá nhiều chỗ phải đụng chạm với khí lạnh bên ngoài. Lúc nằm yên tôi hình dung ra “con rét” là một loài côn trùng bé tí ti nhưng có răng thật sắc, đang bò trong cơ thể tôi, chui vào các lỗ chân lông, đi vào hơi thở, chui vào các mạch máu và đang gặm nhắm từng tế bào bên trong cơ thể tê dại của tôi đang cuộn tròn như con sâu.

Lúc đó tôi mới nhớ lại là các cán bộ ở đây ai cũng mặc áo bông dày cộm, đầu đội mũ có rèm che tai gần kín mặt, tay mang găng len hoặc da. Với cái lạnh khủng khiếp này, các loại quần áo bằng vải hoặc bằng len, cho dù có mặc bao nhiêu lớp trên người cũng không hề thấm vào đâu. Phải mặc đồ bông mới chống lạnh được. Nằm một chập, không ai chịu thấu cái lạnh bất ngờ này, nên cả đám chúng tôi tự động ôm nhau, người này rúc đầu vào người kia như lứa chó con con nằm trong ổ. Nếu biết trước, ít ra chúng tôi cũng đã chuẩn bị thứ gì đó để chống lạnh trong hoàn cảnh có thể chuẩn bị được.

Sáng hôm sau, cả đám chúng tôi trỗi dậy trong trạng thái mệt nhọc rã rời. Một phần vì bao nhiêu nhiệt lượng trong người đã được đưa ra để chống lại cái lạnh khủng khiếp bên ngoài, phần nữa lại vừa mất ngủ sau một ngày bị dằn xốc suốt 24 tiếng đồng hồ trên xe. Lúc này, bên ngoài sương mù đã phủ dày đặc, nên chúng tôi không nhìn thấy gì, chỉ loáng thoáng thấy có bức tường bao bọc trước sân, có cánh cổng mở vào sân và một nóc nhà lợp lá thật bệ rạc nằm phía sau. Sáng ngày tôi cảm thấy bớt lạnh, có lẽ nhờ số chăn màn và hơi ấm thân thể của 20 con người trong phòng đóng kín đêm qua. Mãi một lúc rất lâu mới nghe có tiếng động bên ngoài làm chúng tôi giật mình nhìn ra, nhưng chưa thấy ai.

Thình lình trong màn sương hiện ra một người bước rất nhanh vào sân. Người mới xuất hiện này vóc dáng to cao, mặc áo bông che kín cả cổ, đội mũ có vải che tai như kiểu của quân đội Liên Xô, mang găng tay và cầm một chùm chìa khóa khá to có đến mấy chục chiếc. Người này tới bên cửa sổ nhìn vào, hai tay đang xoa vào nhau làm chùm chìa khóa kêu rổn rảng. Người lạ mặt này có thân hình đã to, lại mặc áo quần dày cộm trên người, càng làm cho con người ấy to như một anh khổng lồ.

TRẠI QUYẾT TIẾN “CỔNG TRỜI’!”

Khi người đó đứng bên ngoài nhìn vào, chúng tôi bên trong cửa sổ lên tiếng:

-Chào cán bộ.

Người bên ngoài lên tiếng đáp lại:

-Tôi không phải là cán bộ, tôi là “Trật Tự”!

Khi nói, miệng anh nhả khói um tùm như người đang hút thuốc lá. Ðó là lần đầu tiên tôi nghe hai tiếng “Trật Tự”, vì ở trại Nam Hà không có anh tù làm ‘trật tự’ như ở đây. Khi biết anh cũng là tù, chúng tôi dạn dĩ hơn nên bắt đầu tìm hiểu những điều chúng tôi thắc mắc suốt đêm qua. Chúng tôi thay nhau hỏi, nhưng câu hỏi đầu tiên mà hình như ai cũng nói ra cùng lúc là:

-Trại này là trại gì, ở tỉnh nào?.

Anh tù Trật Tự này mặc dù không phải là con người vui vẻ, nhưng tỏ ra là một người dễ chịu, anh đáp nhanh:

– Các anh đang ở trại “Quyết Tiến Cổng Trời” trong tỉnh Hà Tuyên.

Vì chúng tôi là người miền Nam chưa biết vị trí các tỉnh miền Bắc nên có anh hỏi:

– Vậy tỉnh Hà Tuyên nằm ở đâu hả anh?

– Nằm giáp ranh Trung Quốc và trại này cách biên giới Trung Quốc 10 cây số!

Lúc đó 20 người chúng tôi bu quanh cửa sổ và thi nhau đặt câu hỏi hỏi làm anh Trật Tự bên ngoài không biết trả lời ai. Tôi hỏi to:

– Thế trại này có tù chính trị miền Nam không anh?

Anh chưa kịp trả lời thì có một số cán bộ bước vào sân và anh ta làm thinh. Tôi nhận ra trong số cán bộ vừa bước vào có Thiếu úy Lạc ở trại Nam Hà, người có mặt trên xe áp tải chúng tôi. Sau khi đứng ngoài sân nói gì với nhau một lúc, anh Trật Tự tới mở cửa buồng, một cán bộ cấp thiếu úy, người khá nhỏ bước vào buồng ra lệnh cho chúng tôi mang hết “nội vụ” ra sân để khám xét. Việc kiểm tra này là thủ tục thông thường khi tù nhân chuyển tới một trại mới.

Chúng tôi khệ nệ tay xách nách mang tất cả những gì mình có và theo một hành lang hẹp dẫn ra sân trại trong làn sương mù dày đặc. Thời tiết bên ngoài lạnh hơn tôi tưởng. Tôi bước đi vừa rét vừa run, mặc dù tôi đã mặc vào người thêm mấy lớp quần áo, nhưng với cái lạnh ở đây, quần áo vải chẳng thấm vào đâu. Ra tới nơi mới thấy bày sẵn một bàn nhỏ và một số khá đông cán bộ đang chờ sẵn. Tất cả đều mặc áo bông và đội mũ “Liên Xô”. Cuộc khám xét bắt đầu.

Theo quy luật trại, tiền bạc và các đồ quý giá đều phải gửi lưu ký. Riêng áo quần có thể gửi lưu ký hoặc giữ lại dùng trong trại tùy ý, nhưng nếu giữ lại đưa vào trại phải bị đóng dấu “CẢI TẠO” bằng hắc ín thật to sau lưng áo và trên ống quần. Ðóng dấu như vậy coi như bộ đồ ấy đã bỏ đi, nên nhiều người tiếc rẻ và muốn gửi lưu ký để khi ra về có đồ mới mà mặc.

ÐỘNG LÒNG TRẮC ẨN

Trong lúc đang kiểm tra và có mấy anh định gửi lưu ký quần áo, Cán bộ Lạc bước tới gần nói nhỏ, giọng khá xúc động: “Ở đây rét lắm, các anh giữ lại quần áo mà dùng, đừng gửi lưu ký làm gì!” Một lúc sau, khi đã khám xét và bàn giao xong, anh ta tiến lại nhóm chúng tôi nói nhỏ, không để cho cán bộ trại Quyết Tiến nghe thấy: “Ở trại Nam Hà sướng như thế mà các anh không chịu, bây giờ phải lên đây, tôi chẳng biết nói sao!? Thôi các anh ở lại, cố gắng cải tạo và nhớ giữ gìn sức khỏe”. Nói xong anh quay đi thật nhanh.

Tôi rất cảm động khi nghe Cán bộ Lạc nói những lời đó. Sau 2 năm ở tù, đó là lần đầu tiên tôi nhận thấy được lòng nhân nơi một người cán bộ. Anh cảm thấy ái ngại cho số phận chúng tôi, những con người mà anh biết là đang đi vào cõi chết. Qua câu nói bảo đừng gửi lưu ký áo quần, người cán bộ có ý nhắn là không bao giờ có dịp nhận lại nữa, và câu nói sau cùng trước lúc chia tay đã cho chúng tôi biết phần nào về số phận của mình. Sau khi khám xét xong, nhóm 20 người chúng tôi được chia ra làm hai, 14 người nhập vào đội lao động và 6 người bị lên khu kiên giam, trong đó có tôi.

KHU KIÊN GIAM TRẠI CỔNG TRỜI

Khu kiên giam là một nhà dài bằng đá tối om, có hành lang nhỏ ở giữa, chia ra mỗi bên 5 buồng hẹp, mỗi buồng khoảng 3 thước bề ngang và có sạp nằm bằng ván hai bên cho 2 người. Trong góc phòng có cầu tiêu và phía ngoài có cửa sổ nhỏ trông ra đường. Hằng ngày có anh tù đến gánh phân nơi hầm nhà cầu thông ra phía ngoài. Lúc tôi tới đó đã có sẵn mấy người trong khu kiên giam.

Mấy ngày sau nhờ liên lạc hỏi thăm anh em các buồng bên cạnh và hỏi chuyện anh tù gánh phân, chúng tôi được biết thêm về trại này.Trại Quyết Tiến nằm sát ngay biên giới Trung Quốc, thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Tuyên, tức là hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang gọi nhập lại. Trại này có biệt danh là trại “Cổng Trời” vì 2 lý do. Thứ nhất theo nghĩa đen, đây là trại tù nằm ở cao độ 2,500 thước trên mặt biển, (cao gần đụng trời!) Lý do thứ hai, vì đây là trại trừng giới dành cho các tù chính trị thuộc diện bất trị, lên đây một thời gian rồi sẽ về… trời! Do đó, trại này được coi như một phòng chờ đợi trước khi bước qua bên kia thế giới.

Trong trại cũng có một số tù hình sự có án nặng như tử hình giảm xuống chung thân, hoặc nhẹ hơn thì 20 năm, 18 năm, 15 năm v.v… Những người bị kêu án dưới 10 năm không phải lên đây. Số tù hình sự còn có hy vọng được tha sau khi mãn án, nhưng không mấy người sống sót vì sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự ác độc của con người trong trại trừng giới này. Cuối cùng rồi phần đông họ cũng đã bỏ xác ở đây trước khi mãn án.

Khi chúng tôi tới, trong trại đang có khoảng 350 tù hình sự với một số tù Biệt Kích và 5 người tù miền Nam từ các trại khác mới đưa lên, đó là các anh Ðặng Văn Tiếp, một cựu Dân biểu từ trại Hà Tây đưa lên trước chúng tôi 1 tháng cùng với các anh Nguyễn Thái Quân và Hoàng Trọng Hanh. Hai anh Nguyễn Văn Phước và Nguyễn Văn Trình là sĩ quan cấp Tá từ đảo Guam trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín, về tới Việt Nam tất cả bị đưa thẳng vô

tù.

Anh tù làm Trật Tự mà chúng tôi gặp trong ngày đầu tên là Tuấn, nguyên là bộ đội. Anh là một người hiền từ, ít nói. Sau khi nhóm Nam Hà chúng tôi lên một thời gian, có một số tù chính trị từ các trại khác lần lượt tới đây, trong đó có 7 linh mục, nâng tổng số lên 48 người, mà về sau này chúng tôi gọi là “Nhóm 48 Quyết Tiến”. Theo cách hiểu lúc bấy giờ, đây là những người bị liệt vào đội trừng giới và bị kết án tử hình, được lựa ra từ nhiều trại khác nhau ở miền Bắc. Trong thực tế số người này có xứng đáng chịu số phận đó hay không, và sự lựa chọn có đúng “tiêu chuẩn” hoặc chính xác tới mức nào còn là vấn đề khác.

CƠN ĐÓI TRONG CẢNH RÉT

Lúc ở kiên giam, chúng tôi bị nhốt rong buồng cả ngày lẫn đêm nhưng không bị cùm như ở khu kỷ luật. Hai thứ ĐÓI và RÉT là hai tên hung thần hành hạ chúng tôi nặng nhất. Nhà kiên giam xây bằng đá, về đêm hơi lạnh của đá tỏa ra biến buồng giam thành một tủ lạnh và tù nhân phải nằm co ro trong cái “tủ lạnh” đó cả ngày lẫn đêm.

Tệ hại hơn nữa, cái lạnh hành hạ chưa đủ, lại còn thêm cái đói. Ở đây không có gì để ăn cho tạm gọi là no. Ðói và Rét như cặp bài trùng của bộ máy tiêu diệt con người. Khi hai yếu tố Ðói và Rét gặp nhau và hỗ trợ cho nhau thì sức tàn phá được nhân lên gấp bội. Thân thể con người càng đói thì càng rét; và hễ càng rét lại càng đói. Trong khu nhà kiên giam của trại “Cổng Trời” này, hai tên hung thần Đói và Rét đó cứ mải mê tranh tài “ai thắng ai” ngay trên da thịt xanh xao như tàu lá chuối và trong dạ dày xẹp lép của đám tù khốn khổ chúng tôi!

Mỗi ngày, tù ở khu kiên giam được cho ăn 2 lần, trưa và chiều, mỗi lần một chiếc bánh mì nướng to bằng cổ tay và dài chừng một gang. Trong khi các đội bên ngoài có thêm bữa ăn sáng vì phải đi lao động. Với hai chiếc bánh mì nướng khiêm tốn đó mà tôi nghiệm được câu nói trong tù: “Không ăn thì đói; ăn vào đói hơn!” Mà thật đúng như vậy, sau khi “nuốt” cái bánh mì từ 5 giờ chiều hôm trước, tôi nằm đắp chăn chịu trận cái rét dưới độ âm và chờ tới 17 tiếng đồng hồ nữa mới có cái gì cho vào dạ dày. Suốt thời gian dài đằng đẵng đó, tôi thường lịm đi hoặc nằm yên bất động như con sóc trong mùa đông.

Cữ ăn 10 giờ sáng hôm sau quấy động dạ dày thức giấc. Nó cồn cào và đòi hỏi thức ăn một cách dữ dội! Nó đòi ăn thêm để khỏa lấp chỗ trống còn rộng thênh thang của dạ dầy, nhưng nào có được! Sau khi ăn xong, tôi chỉ còn biết nằm im lìm chờ đợi, lắng tai nghe và mong tiếng động then gài cổng bên ngoài báo hiệu lúc anh Trật Tự lên cho ăn chiều.

Auckland. New Zealand

Ngày 27 tháng 6 năm 2023

Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ

CÁI GÌ RỒI CŨNG QUEN ĐI!-LM Nguyễn Hữu Lễ

LM Nguyễn Hữu Lễ

Các bạn thân mến,

Tôi xin chia sẻ với các bạn một kinh nghiệm “không đẹp cho lắm!” trong một giai đoạn cuộc đời tôi. Dù vậy, khả năng thích ứng của con người rất lạ lùng. Câu chuyện “CÁI GÌ RỒI CŨNG QUEN ĐI!”dưới đây chứng minh cho khả năng thích nghi đó của con người.

Mời các bạn dành ra vài phút theo dõi nhé.

Thân ái

Lm NHL

***

CHUYỂN TRẠI

Ngày 19 tháng 2 năm 1977, từ trại Phan Đăng Lưu ở Gia Định, tôi bị đưa lên trại Gia Ray trong tỉnh Long Khánh, còn gọi là trại Z 30D, nhìn ra núi Chứa Chan cao to sừng sững, cách ngã ba Ông Đồn không xa. Trại tù nằm trên một đồi cao, có cái tên khá thơ mộng là “Đồi Phượng Vĩ”. Thời chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trại này là hậu cứ của Trung đoàn 54.

Vì là một trại lính và nay biến thành nhà tù, nên nó không có một thứ gì cả, ngoài mấy dãy nhà tôn vách ván, cất trên nền đất đỏ đầy bụi bặm và hang chuột dọc ngang. Khi chúng tôi chuyển tới đây thì trong trại đã có sẵn khoảng một ngàn người. Chừng vài tuần lễ sau, có một số tù quân đội từ trại Cà Tum, Tỉnh Tây Ninh chuyển về nữa, nâng tổng số tù lên 1.200 người.

Trại không có nước máy, cũng không có giếng hoặc suối để lấy nước. Hàng ngày xe bồn chở nước tới cung cấp cho cơ quan, cho nhà bếp và hơn một ngàn tù nhân. Vì lượng nước cung cấp rất hạn chế nên nước trở thành hiếm và dĩ nhiên cái gì hiếm thì quý. Các tù nhân chỉ được chia tiêu chuẩn nước uống mỗi ngày hai lon Guigoz trong hai bữa ăn trưa và chiều. Lon Guigoz là lon nhôm của hãng sửa bột Hoà Lan Guigoz có sức chứa 750 ml nước.

Vì phần nước quá ít so với nhu cầu nên hầu như không có ngày nào là không có cãi nhau về “việc nước”. Có nhiều trận đánh nhau bưu đầu sứt trán “vì nước”. Có mấy lần, hàng trăm tù nhân hè nhau tấn công nhà bếp để… “cướp nước”! Những lúc đó thôi thì gậy gộc, gạch đá, có khi cả dao mác đều được dùng để ẩu đả nhau“vì nước!”

Khi vừa tới, chúng tôi được phân tán vào các đội và ở các buồng khác nhau, mỗi buồng chứa khảng 60 người. Hai ngày đầu bị nhốt cả ngày lẫn đêm. Buồng giam trống trơn từ đầu tới cuối, ở giữa là lối đi, hai bên có hai dãy sàn nằm bằng gỗ. Trong buồng không có cầu tiêu, nhưng thay vào đó là 3 cái ống vỏ đạn pháo binh 155 ly, được dựng trong phòng nhỏ ở góc phía trong cùng. Tất cả mọi nhu cầu vệ sinh của chừng ấy con người trong buồng được giải quyết gọn trong ba cái vỏ đạn đó, sáng ngày mới được mang đi đổ ở hố cầu tiêu công cộng.

Tuy tôi chỉ ở trại này thời gian ngắn, nhưng có mấy việc gây ấn tượng mạnh làm tôi không sao quên được. Trước hết là chuyện về cái hố cầu tiêu công cộng, cũng được coi là “vương quốc” của ruồi xanh.

VƯƠNG QUỐC “RUỒI XANH”

Qua ngày thứ ba chúng tôi được mở cửa ra ngoài. Tôi còn nhớ mãi buổi sáng đầu tiên được ra ngoài, tôi có nhu cầu ra cầu tiêu công cộng. Muốn tới đó phải đi qua vài ba dãy nhà, kể cả khu vực nhà bếp, rồi từ đó theo con đường nhỏ đi giữa hai hàng rào kẽm gai dọc theo đường cống lộ thiên rộng chừng 1 thước, dẫn ra hàng rào kẽm gai bao bọc. Khu vực cầu tiêu công cộng nằm kế bên nhà bếp và sát bờ rào trại.

Khi vừa tới gần nhà bếp, tôi đã “đánh mùi” được cái nơi tôi cần tới, đồng thời cũng nghe âm thanh ồn ào của bầy ruồi xanh đang bận rộn với hàng đống cải muối dưa được trải phơi trên mái tôn của nhà bếp.

Trời ơi, ruồi xanh ở đâu ra mà lắm thế! Thì ra mùi dưa cải muối chua, mùi thức ăn của nhà bếp, mùi thối của đường cống lộ thiên, cộng với mùi xú uế từ cầu tiêu công cộng cách đó không xa đã lôi cuốn không biết cơ man nào là ruồi xanh. Chúng bay thành từng đàn, từng mảng trên nền trời đông như giải trấu. Một số đông đang giành ăn cấu xé nhau trên đám cải chua trên nóc nhà bếp. Số khác bay lượn vo ve trên miệng đường cống, đậu vào những nơi nào có thể đậu được trong khu nhà bếp và tạo nên một cảnh tượng ồn ào náo nhiệt khác thường.

Ðây là lần đầu tiên trong đời tôi được thấy ruồi xanh nhiều như thế. Con nào con nấy to bằng đầu đủa. Nhìn cảnh đó tôi thầm nghĩ, có lẽ toàn thể ruồi xanh trên thế giới hôm nay tập trung về Tỉnh Xuân Lộc này để họp bạn; hoặc có một “Đại Hội Ruồi Xanh Thế Giới” được tổ chức ngay trong trại tù Gia Ray!

Khi tới nhà bếp tôi phải dừng lại, ráp vào hàng, vì đã có chừng vài ba chục người đang đứng xếp hàng trên lối đi, trên tay mỗi người cầm một tờ giấy. Phía sau có độ mươi anh tù khác cũng đang lục đục kéo ra và hàng người càng lúc càng dài hơn. Những người tù bất đắc dĩ phải đứng xếp hàng đó, đa số còn xa lạ nên tôi cũng chẳng nói chuyện với ai. Có người mặt nhăn mày nhó trông rất khổ sở, mà tôi đoán là họ đang bị “đuổi” rất gấp, như thế còn tâm trí đâu để mà chuyện với trò?

Nhìn về phía xa trước mặt, tôi thấy cái hố hình chữ nhật chiều dài phải có tới 15 thước, chiều ngang khoảng chừng 10 thước. Trên mặt hố được dựng tạm bợ một dãy cầu tiêu chừng 15 hay 20 cái dính liền nhau, cái nọ cách cái kia bằng một tấm phên nứa cao chừng 40 cm. Trong mỗi cái ô nho nhỏ đó có một con người đang ngồi giống như một hàng nhộng nằm trong tổ ong ló đầu ra ngoài. Dãy cầu tiêu nằm cách bờ đất chừng 2 thước và trước mỗi ô có một miếng ván bìa bắt từ mép bờ đi ra.

Trên nóc cầu tiêu có tấm cót che mưa che nắng một cách sơ sài. Phía trước có tấm chắn bằng nứa, cao chừng một gang tay. Tấm chắn này chỉ che được những nơi “cần che” của con người đang ngồi chồm hổm phía sau, đối diện với một người đang đứng dàn hàng ngang trên bờ. Những người đứng hàng ngang này thuộc diện ưu tiên, trong khi những người ra muộn như tôi, phải đứng thành hàng dọc trên lối đi.

ÐỢI CHỜ TRONG ĐAU KHỔ!

Một lúc sau tôi mới chợt để ý là hầu hết những người đang xếp hàng đều cởi trần chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi. Ðiều này làm tôi ngạc nhiên vì lúc đó là tiết xuân, sáng sớm trời khá lạnh, tại sao họ lại cởi trần, mặc quần đùi, trong khi tôi lại ‘diện’ khá chỉnh tề. Lúc đó tôi nghĩ bụng: “Mấy tướng này đã ở đây lâu nên quen chịu rét, còn mình làm gì dám cởi trần buổi sáng sớm lạnh cóng thế này!” Tôi quay lại phía sau, thấy có vài anh cũng ăn mặc chững chạc như tôi, coi lại toàn là đám lính mới trong nhóm mới nhập trại 2 ngày qua.

Hàng người nhích bước tới rất chậm, chẳng khác gì cảnh kẹt xe trên đường Hai Bà Trưng vào giờ tan sở. Có mấy tay đứng cạnh tôi, chắc là trong tình trạng rất “khẩn trương”, đang đứng khoanh tay, mặt mày nhăn nhó, bứt rứt trông rất thảm hại. Cặp mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn cái hàng “nhộng” đang ngồi yên bất động, giương mắt lờ đờ nhìn ra, trong trạng thái “đê mê” nhẹ nhàng thoải mái.

Có một anh chàng đứng sau lưng tôi có vẻ đang bị “Tào Tháo” đuổi gấp, nhưng lại gặp đèn đỏ phía trước nên tức khí quát to: “ Ðụ Mẹ! Ỉa cái đéo gì mà lâu thế mấy cha nội? Bộ muốn ngủ trong đó à? Mau ra cho bà con nhờ với chớ!” Cả đám cười ồ sau câu nói của anh chàng lỗ mãng vui tính này. Vài người phụ họa pha trò thêm vài câu gì đó để quên cảnh khổ lúc bấy giờ đang hành hạ từng người. Chẳng ai buồn trả lời, nhưng một lúc sau có tiếng nói của một trong những “con nhộng” đùa trả lại. Nghe cách nói, tôi biết là chỗ bạn bè thân thiết: “Cái thằng ăn nói vô duyên, chuyện gì chớ chuyện này thì nhanh cái chó gì được? Ngồi đây thối bỏ mẹ, có sướng ích gì đâu mà mầy ở đó la với hét?” Cả bọn chúng tôi lại được một trận cười cho quên cảnh “sầu trong bụng” được giây lát.

Có mấy anh xong việc, kéo quần đứng lên, bước vội ra như bị ma đuổi. Mỗi lần như vậy chúng tôi nhích thêm được vài bước. Chợt có một anh bạn đi ngược chiều, khi ngang qua chỗ tôi, dừng lại nói: “Cậu Bảy, cởi đồ dài ra, mặc quần cụt thôi!” Tôi ngạc niên hỏi: “Sao vậy?” Anh ta trả lời: “ Trời ơi! Vô đó nó thối không thể chịu nổi. Cậu mặc quần áo dài, mùi thối ám vô mấy ngày còn chưa hết mùi. Ở đây làm gì có nước mà giặt. Cậu cởi quần áo dài ra đi, con mang về buồng cho!”

Thì ra tôi mới hiểu tại sao gần như tất cả đều cởi trần mặc quần đùi, chỉ có bọn lính mới chúng tôi là ngây thơ trong việc này. Sau khi cởi trần tôi bắt đầu rét run, nhưng dù sao tôi cũng phải bám trụ ở đây, không thể nào rời bỏ vị trí được.

Kẻ ra người vào, rốt cùng tôi cũng trở thành dạng ưu tiên, đứng đối diện với một người xa lạ đang ngồi chồm hổm bên trong “tổ ong”. Hai người chúng tôi, một đứng một ngồi, cách nhau chừng hai thước, nhưng hai người tránh ánh mắt của nhau, vì đây là một cuộc “hội kiến” hoàn toàn bất đắc dĩ.

Lúc đứng chờ, tôi nhìn xuống hố phân và cảnh tượng ở đây thật là kinh khủng! Cái hố sâu chừng quá đầu người. Bên dưới mỗi ô nhà cầu có một thùng chứa phân bằng sắt, trước kia là thùng phuy 200 lít chứa dầu xăng, được cắt đôi ra làm thùng chứa phân, có 2 quai bằng dây sắt. Nhưng vì thùng thì nhỏ mà người dùng thì quá đông, nên phân tràn be bét ra ngoài, lấp đầy gần một phần ba cái hố. Các thùng chứa phân này là “tài sản” của đội rau xanh, mỗi ngày có mấy anh tù vào khiêng ra, bón cho vườn rau cải của trại. Vườn rau cải này là nguồn cung cấp thức ăn chính cho hơn ngàn tù nhân trong trại.

Lúc đó, mùi hôi thối xông lên làm tôi gần ngạt thở. Ðám ruồi nhặng ở đây còn nhiều gấp mấy lần hơn nhóm ở nhà bếp. Chúng đông như trấu và đang quần thảo, cào cấu, nhào lộn, đẩy con này, hất con kia, đạp con nọ, bay lên, đáp xuống, ẩu đả nhau giành ăn trên mặt hố. Tiếng bay của chúng tạo thành âm thanh “ù… ù…” như tiếng máy bay trực thăng đến từ xa! Trên lớp mặt nhầy nhụa, từng mảng dòi bọ lúc nhúc đang lăn lộn, uốn éo, bò lết, trườn đạp lên nhau không khoan nhượng!

Tôi không dám nhìn cảnh này lâu và ngước nhìn lên cái chòi gác khá cao nằm ở một góc cách đó không xa. Có một anh công an ngồi gác trên chòi, anh ta đang yên lặng nhìn chòng chọc xuống đám tù nhân đang nối đuôi nhau làm cái công việc thuộc bản năng. Tự nhiên tôi đâm ra thương hại cho anh ta và nghĩ thầm:“Mình mới đứng ở đây một chốc đã muốn điên người, còn anh ta ngồi đó hàng giờ làm sao chịu cho thấu!” Nhưng tôi lại nghĩ, cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.

Một lúc sau, tới lượt tôi bước vào cái “tổ ong” để làm “con nhộng” và một người bạn tù khác đứng đối diện chờ tôi. Chúng tôi cách nhau chừng 2 thước, ngồi bên trong liếc nhìn ra tôi thấy cặp mắt anh ta lúc nào cũng hướng về phương trời xa xăm!

CÁI GÌ RỒI CŨNG QUEN ĐI

Về sau này mỗi buổi sáng tôi lại phải đến đây, dĩ nhiên là cởi trần mặc quần đùi, lại đứng xếp hàng dọc, lúc sau lại dàn hàng ngang đối diện với hai người bạn tù nào đó, một người tôi đứng chờ, và sau đó một người khác đứng chờ tôi! Một anh công an vẫn ngồi trên chòi gác, mắt vẫn đăm đăm nhìn xuống đám tù xếp hàng đi là công việc thuộc bản năng. Cái hố vẫn là cái hố cũ, vẫn là “vương quốc” ồn ào của ruồi xanh với tất cả sự nhơ nhớp và thối tha kinh khủng của nó, nhưng tôi không cảm thấy kinh tởm gớm ghê như lần đầu tôi phải tới đây. Lúc đó tôi tự nhũ: “Cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.”

Có những ngày mưa gió tơi bời làm cho việc giải quyết nhu cầu tự nhiên của cơ thể trở nên khổ nhọc hơn. Đám tù nhân phải xếp hàng dưới cơn mưa và cái hố kia ngập nước trở nên lõng bõng nhầy nhụa. Ðám giòi bọ bị ngập lụt, trôi lều bều. Chúng giãy giụa như hành khách bị chìm tàu đang vẫy vùng quơ quào kêu cứu! Nhưng trời mưa lại giúp bầu khí đỡ hôi thối và đàn ruồi xanh cũng hoạt động bớt hăng say, có lẽ chúng sợ bị ướt cánh.

Những ngày tháng về sau, tôi vẫn phải tới nơi này và tự nói với mình: “Đây là một phần trong giai đoạn mới của cuộc đời tôi!”

Auckland. New Zealand

Ngày 24 tháng 6 năm 2023

Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ