VTV Cần Thơ gỡ tên Petrus Trương Vĩnh Ký theo yêu cầu của ‘dư luận viên’

Ba’o Nguoi-Viet

February 16, 2024

CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Mạng xã hội hôm 16 Tháng Hai dấy lên bàn tán xoay quanh việc đài VTV Cần Thơ, thuộc đài Truyền Hình Việt Nam, đột ngột xóa tên học giả, nhà ngôn ngữ học Petrus Trương Vĩnh Ký khỏi chương trình tạp chí Xuân “Năm Rồng Trên Đất Chín Rồng.”

Theo đó, ở phút 4:28 của phóng sự dài 55 phút, nhà đài đục bỏ hình ảnh và tên tuổi của ông Petrus Ký. Đoạn video clip này trên YouTube VTV Cần Thơ cũng đã bị gỡ bỏ.

Hình ảnh ông Petrus Trương Vĩnh Ký trước và sau trên đài truyền hình VTV Cần Thơ. (Hình: Chụp qua màn hình)

Trong kịch bản ban đầu, tên tuổi ông Petrus Ký được nhắc đến trong số các danh nhân lịch sử tiêu biểu của vùng đất “địa linh nhân kiệt,” cạnh những nhân vật như như Bác Vật Lang, Trần Văn Khê, Nguyễn Đình Chiểu, Lương Định Của, Cao Văn Lầu, Lưu Hữu Phước, Trương Định…

Việc VTV Cần Thơ gỡ clip về ông Petrus Ký diễn ra sau khi đài VTV1 cũng của đài Truyền Hình Việt Nam gỡ clip “Khát Vọng Non Sông” về nhân vật này.

Hành động nêu trên của nhà đài được cho là để đáp ứng yêu cầu của giới “dư luận viên” lâu nay cho rằng ông Petrus Ký “có tội nhiều hơn có công.”

Trong số này, trang Facebook “Tifosi” lên tiếng chỉ trích đài VTV cho rằng việc VTV đặt ông Pétrus Ký cùng với những “anh hùng, nhà cách mạng, nhà tư tưởng và yêu nước lớn của dân tộc” là “một sự xúc phạm to lớn.”

Trang này còn cho rằng VTV đã cố gắng “tẩy trắng” cho ông Pétrus Ký, cũng như mô tả đây là “những âm mưu rõ ràng là có ý đồ, như muốn len lỏi bào chữa cho những con người phản bội lại lợi ích quốc gia, dân tộc.”

Liên quan chủ đề nêu trên, Facebooker Nguyễn Huynhthi Ái đặt câu hỏi trên một diễn đàn: “Vậy công-tội của một nhân vật lịch sử được xét như thế nào? Dưới nhãn quan nào? Phải chăng công-tội cần được xét dưới nhãn quan của chính quyền hiện nay?”

Tại Sài Gòn, tượng Petrus Trương Vĩnh Ký trước đây được đặt ở công viên trước Dinh Độc Lập, sau này gọi là công viên 30 Tháng Tư.

Sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975, bức tượng được đưa về Bảo Tàng Mỹ thuật TP.HCM.

Theo Wikipedia, đối với báo chí viết bằng chữ Quốc Ngữ tại Việt Nam, ông Pétrus Ký được coi là người tiên phong vì đã sáng lập, làm tổng biên tập tờ báo viết chữ quốc ngữ đầu tiên mang tên Gia Định Báo.

Một phim tài liệu về ông Petrus Trương Vĩnh Ký phát trên VTV1 đài Truyền Hình Việt Nam. (Hình: Chụp qua màn hình)

Ở Sài Gòn trước năm 1975 có tới hai con đường mang tên ông Pétrus Ký với hai tên khác nhau. Đường Petrus Ký của đô thành Sài Gòn nay là đường Lê Hồng Phong ở quận 5 và quận 10, còn đường Trương Vĩnh Ký của tỉnh Gia Định cũ nay là đường Nguyễn Văn Bảo ở quận Gò Vấp.

Hiện nay vẫn còn một con đường mang tên ông tại quận Tân Phú, Sài Gòn. Ngoài ra còn có một trường trung học tư thục mang tên ông ở quận 11, Sài Gòn, và một ngôi trường mang tên ông tại huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. (N.H.K) [qd]


 

Ông Trương Tấn Sang nhắc nhớ Đảng Cộng Sản về hiểm họa Trung Cộng chăng?

Báo Lề Phải đăng ở vị trí khiêm tốn cảnh ông Trương Tấn Sang đi viếng các liệt sĩ trong cuộc chiến bảo vệ Hà Giang chống Trung Cộng xâm lăng.

Ông cựu chủ tịch nước từng có câu nói nổi tiếng: “Quân Đội là để bảo vệ Tổ Quốc và cần phải được độc lập”

 

Đây là năm thứ hai, ông Sang đến tưởng niệm cầu siêu cho các chiến sĩ hy sinh ở Vị Xuyên.

 

Cùng đi dự lễ còn có cựu phó thủ tướng thất sủng, Vũ Đức Đam

Từ Hà Nội, giáo sư Nguyễn Đồng Cống, nêu ý kiến với đài VOA rằng sự kiện ngày 17/2/1979 là bài học lịch sử mà các thế hệ người Việt nên ghi nhớ.

“Cuộc chiến năm 1979 ở biên giới rõ ràng là một hành động tráo trở của Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình. Ông Đặng Tiểu Bình ngang nhiên cho rằng phải dạy cho Việt Nam một bài học. Nguyên nhân sâu xa là Trung Quốc đánh để trả thù việc quân Việt Nam đánh Pol Pot ở Campuchia trong lúc Pol Pot được Trung Quốc ủng hộ rất mạnh”.

“Đó là một cuộc chiến tranh mà dân Việt Nam phải ghi nhớ”, vị giáo sư ngành xây dựng, từng nhận danh hiệu “Nhà Giáo Nhân Dân” và đã từ bỏ Đảng, nhấn mạnh.

Bản tuyên bố nhắc lại biến cố này với việc Bắc Kinh “xua 600,000 quân chiến đấu và phục vụ chiến đấu cùng 400 xe tăng xâm lược Việt Nam…”.

Bà Sương Quỳnh ở Đà Lạt, một thành viên của CLB Lê Hiếu Đằng, nêu ý kiến cá nhân của bà với VOA:

“Chúng tôi mong muốn nhà cầm quyền Việt Nam phải công nhận cuộc chiến này, không vì lý do gì, vì lịch sử là lịch sử, để người dân Việt Nam biết về sự thật của cuộc chiến đẫm máu này. Tôi ủng hộ những lời kêu gọi của các trí thức và muốn rằng chính quyền Việt Nam phải lắng nghe những điều đó”.

Các nhóm dân sự và các trí thức này nhận thấy rằng từ trước đến nay nhà nước không tổ chức lễ tưởng niệm 17/2, nhưng họ cùng các nhóm độc lập khác và cộng đồng mạng “lề dân” thường tổ chức thắp hương ở các khu vực khác nhau để ghi nhớ sự kiện này.

Trưa 17-2, nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng phu nhân và đoàn công tác đã đến nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên (Hà Giang) dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ.

 
Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dâng hương tưởng nhớ liệt sĩ tại nghĩa trang Vị Xuyên - Ảnh: VŨ TUẤN

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dâng hương tưởng nhớ liệt sĩ tại nghĩa trang Vị Xuyên – Ảnh: VŨ TUẤN

Cùng tham gia lễ dâng hương có Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, quyền Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang Nguyễn Mạnh Dũng, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang Nguyễn Văn Sơn cùng các lãnh đạo tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang…

Ông Trương Tấn Sang và đoàn đã thỉnh chuông tại đền thờ liệt sĩ, ghi sổ lưu niệm và dâng hoa tưởng nhớ các liệt sĩ tại nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên.

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng đoàn công tác dâng hoa tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ - Ảnh: VŨ TUẤN

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng đoàn công tác dâng hoa tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ – Ảnh: VŨ TUẤN

Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên, nơi an nghỉ của hơn 1.800 liệt sĩ cùng một mộ tập thể các liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc để bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc từ năm 1979 – 1989.

Nghĩa trang được khởi công xây dựng từ năm 1990. Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên mới được nâng cấp, mở rộng quy mô hơn 10ha, trở thành một công trình tưởng niệm mang dáng dấp của một công viên giữa chập chùng núi đá vùng biên giới Hà Giang.

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng đoàn công tác dâng hương tại đền thờ - Ảnh: VŨ TUẤN

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng đoàn công tác dâng hương tại đền thờ – Ảnh: VŨ TUẤN

Trong cuộc chiến đấu này, các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ từng tấc đất, quyết tâm giữ vững từng mỏm đồi, vách đá, điểm cao bằng tinh thần quả cảm “Sống bám đá đánh giặc, chết hóa đá bất tử”.

Riêng tại mặt trận Vị Xuyên, hơn 4.000 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, hơn 9.000 người bị thương và hiện vẫn còn hàng nghìn hài cốt của chiến sĩ nằm rải rác trong khe đá, thung sâu chưa tìm thấy và quy tập được.

Báo Tuổi Trẻ nhấn mạnh, họ không quên cuộc chống xâm lăng: “45 năm đã qua, chiến công và tên tuổi của các anh hùng liệt sĩ đã trở thành bất tử, khắc ghi vào lịch sử dân tộc và mãi mãi được ghi nhớ trong tâm trí mỗi thế hệ người dân Việt Nam.”

Thỉnh chuông tại đền thờ liệt sĩ Vị Xuyên - Ảnh: VŨ TUẤN

Thỉnh chuông tại đền thờ liệt sĩ Vị Xuyên – Ảnh: VŨ TUẤN

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và các đại biểu dâng hoa, dâng hương tưởng nhớ, tri ân công lao các anh hùng liệt sĩ đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc…

Trong chương trình công tác, cùng ngày nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại Đài hương 468 ở xã biên giới Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên; khánh thành, bàn giao điểm trường Bản Hình ở xã Minh Tân, huyện Vị Xuyên; thăm hỏi, tặng quà và mời cơm 220 cựu chiến binh huyện Vị Xuyên.

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dự lễ bàn giao nhà và ...

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm và làm việc tại Hà Giang - Đài  Phát thanh và Truyền hình Hà Giang

Viết trong sổ tưởng niệm tại Nghĩa trang Liệt sĩ Vị Xuyên, Trương Tấn Sang viết: “Ngày 17 tháng 2 năm 2019. Đời đời nhớ ơn các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì đất nước. Đảng, Tổ quốc, Nhân dân đời đời ghi nhớ công lao của các anh hùng, liệt sĩ đã chiến đấu anh dũng, bảo vệ biên cương Tổ quốc trong giai đoạn tháng 2-1979 ở biên giới phía Bắc và kéo dài cả 10 năm ròng rã; đầy hy sinh nhưng cũng đầy khí phách Việt Nam! Kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ các đồng chí!”.

Họ (Các nhà hoạt động dân chủ yêu nước) cũng cho VOA biết rằng việc tưởng niệm này, dù với quy mô rất nhỏ, vẫn thường thì bị chính quyền ngăn cản, cấm đoán.

“Việt Nam là quốc gia láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam cần một môi trường hòa bình, hợp tác bình đẳng, cùng phát triển. Nhưng lịch sử là lịch sử, lịch sử phải được đánh giá đúng và không lãng quên, vì lịch sử tự vệ của Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược là máu xương của toàn dân tộc qua 4.000 năm lịch sử”, bản tuyên bố chung viết.

Các nhóm xã hội dân sự cho rằng biến cố ngày 17/2/1979 và những gây hấn liên tiếp trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam cho đến hôm nay đã cho toàn thể nhân dân Việt nam cũng như toàn nhân loại hiểu một cách chính xác “quyền lợi quốc gia dân tộc của Trung Quốc và của Đảng Cộng sản Trung Quốc là tối thượng, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai, bất cứ lúc nào, khi cần thiết”.

Tuyên bố nhận định rằng các khẩu hiệu “đồng chí”, “cùng hệ tư tưởng”, “cùng chung vận mệnh” chỉ là “xảo trá lừa dối, chẳng có ý nghĩa gì trong quan hệ giữa hai nước”.

Ngày 17/2/1979, Trung Quốc đưa quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam, gồm Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.

Báo chí trong nước đưa tin Bắc Kinh đã “huy động cả hải quân và không quân”, với 60 vạn quân và hàng trăm xe tăng, xe bọc thép và hàng ngàn khẩu pháo mở đầu cuộc tấn công. Ngày 5/3/1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên. Trong cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu chiến tranh, chiến thắng và bắt đầu rút quân.

Các nhóm dân sự và các trí thức này nhận thấy rằng từ trước đến nay nhà nước không tổ chức lễ tưởng niệm 17/2, nhưng họ cùng các nhóm độc lập khác và cộng đồng mạng “lề dân” thường tổ chức thắp hương ở các khu vực khác nhau để ghi nhớ sự kiện này.

Hồi tháng 1/2022, trong một động thái được dư luận chú ý, Thủ tướng Việt Nam, ông Phạm Minh Chính, đến thắp hương tại Khu tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ Pò Hèn, thuộc thành phố Móng Cái, Quảng Ninh, để tưởng niệm các liệt sỹ của đất nước đã ngã xuống trong cuộc chiến này.

Từ trước đến nay chính quyền thường kiểm soát chặt chẽ các hoạt động đông người liên quan đến yếu tố Trung Quốc và ngăn cấm các hoạt động tưởng niệm do các nhóm dân sự tổ chức.

“Tôi thấy ông Thủ tướng có đi thắp hương, nhưng người dân đi tưởng niệm thì bị ngăn cản”, bà Sương Quỳnh bày tỏ.

Trả lời phỏng vấn đài VOV hôm 16/2 về cuộc chiến này, giáo sư Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, nêu nhận định: “Chúng ta nhìn lại sự kiện này, định vị về tính chất của cuộc chiến này không phải là để khắc sâu hận thù mà là để nhắc nhở trong quan hệ hai nước có một vết hằn như vậy, có một cái hố ngăn cách như vậy”.

“Bây giờ chúng ta bước qua cái hố đó bằng cây cầu hữu nghị. Chúng ta luôn luôn nhớ là dưới cầu là có cái hố ấy như một sự nhắc nhở trong tương lai không bao giờ để nó tái diễn”, vẫn lời giáo sư Giang.

 

 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tuổi Rồng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng.

Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”

Hổng dám “cao” đâu! Phạm Viết Đào, Trần Đức Thạch, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Thành đều nhâm thìn hết trơn đó chớ nhưng hậu vận – rõ ràng – lận đận (thấy bà luôn) chớ có “tốt đẹp” hay “hạnh phúc” khỉ mốc gì đâu. Cả bốn ông đều đã (hoặc đang) trong hộp!

FB Lê Văn Sơn cho hay:

“Vào buổi sáng … ngày 23/5/2020, nhà báo tự do Nguyễn Tường Thụy bị nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội đang khám nhà và đọc lệnh bắt giam. Ông Thụy là Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập.

Nhà văn Phạm Chí Thành, có bút danh là Phạm Thành, người gốc Thanh Hóa, sống tại Hà Nội. Thường biết đến như là chủ trang blog Bà Đầm Xòe đã bị cộng sản Hà Nội bắt giam ngày 21/5/2020 với cái gọi là ‘Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’ theo điều 117 BLHS 2015.

Trước đó, vào ngày 23/4/2020, nhà thơ Trần Đức Thạch, người Nghệ An bị bắt với cái gọi là ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ theo điều 109 Bộ luật hình sự.

Có một vài điểm chung của 3 nhà yêu nước, các ông đều sinh năm 1952. Ông Thụy, ông Thạch là cựu chiến binh. Ông Phạm Thành từng giữ chức vụ thư ký tòa soạn của Đài phát thanh Việt Nam.”

Thực ra thì chả riêng gì ông Thụy, với ông Thạch mà cả bốn ông đều đã từng là cựu chiến binh ráo trọi. Sau một cuộc chiến tương tàn, họ mới (chưng hửng) nhận ra rằng chống Mỹ chả cứu được ai mà chỉ để dọn đường cho Tầu xâm lược Việt. Tệ hơn nữa là sau tháng 4 năm 1975 thì cả hai miền – Nam/Bắc – đều bị đặt dưới sự thống trị của một tập đoàn lãnh đạo bất xứng, bất tài, ngu dốt, tham lam, và lệ thuộc ngoại bang.

Bởi thế nên sau khi buông súng thì Phạm Viết Đào, Trần Đức Thạch, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Thành cầm bút. Chính ngòi viết, và những vấn đề thường được xuyên được họ đặt ra (chủ quyền đất nước và vô số những bất cập của chế độ hiện hành) đã khiến cả bốn đều bị bắt giam, chứ chả phải vì tuổi rồng hay tuổi rắn gì đâu.

Mà rồng rắn, nói nào ngay, cũng có này con nọ. Hanh thông hay lận đận còn tùy vào thái độ sống của từng người. Xin đan cử một thí dụ, một con rồng khác (Nguyễn Thế Thảo) để rộng đường dư luận.

Theo Wikipedia: “Ông sinh ngày 21 tháng 3 năm 1952, nguyên quán tại xã Nhân Hòa, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Ông là Kiến trúc sư tốt nghiệp tại Ba Lan, Tiến sĩ Kinh tế và Lý luận Chính trị cao cấp… là một cựu chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IXX và XI, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nhiệm kỳ (2007 – 2015), Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XI và XII, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh… Sau Đại hội XII năm 2016 ông nghỉ hưu.”

Tuy sinh cùng thời và cùng nơi nhưng Phạm Viết Đào, Trần Đức Thạch, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Thành đều đi vào nơi lửa đạn còn Nguyễn Thế Thảo thì đi du học. Thảo có đủ thử bằng cấp, kể cả bằng Tiến Sỹ Lý Luận Chính Trị (và đại biểu quốc hội nhiều khóa) nhưng không bao giờ mở miệng trước mọi vấn đề cấp thiết của đất nước: Bauxit, Vinashin, Formosa, Giàn Khoan …

Lần duy nhất ông đã lên tiếng (vào hôm 13 tháng 7 năm 2012) là để phê phán những cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội, và cáo buộc những người người tham gia khiếu kiện về đất đai là gây phức tạp an ninh – trật tự.” Tuy “kín tiếng” nhưng Nguyễn Thế Thảo lại có nhiều sáng kiến và hành động thì vô cùng quyết liệt.

Ông là tác nhân chính trong vụ đốn hạ 6700 cây xanh (trên 190 tuyến phố ở Hà Nội) và chính là tác giả của những vở kịch “cắt đá” hay “múa đôi” vẫn được trình diễn hằng năm, cho mãi đến hôm nay. Cứ đến ngày 17 tháng 2, khi người dân Hà Nội đến trước tượng đài Lý Thái Tổ để tưởng niệm những chiến sỹ đã hy sinh để bảo vệ biển đảo và biên giới (Việt /Trung) thì thế nào cũng có những màn ca vũ … “tự phát” để giúp vui cho thêm phần … rôm rả!

T.S Nguyễn Xuân Diện có nhận xét rằng Nguyễn Thế Thảo “đã để lại một nhiệm kỳ tồi tệ và không có một di sản gì đáng kể.” Nhà báo Trương Duy Nhất thì có cái nhìn hơi khác. Theo ông dấu ấn đậm nét nhất mà Nguyễn Thế Thảo lưu lại trong lòng người Hà Nội là hình ảnh “một con rắn khổng lồ, án ngữ trên tầng trung tâm của Thủ đô: tuyến đường sắt Cát Linh – Hà Đông.”

Chắc hẳn là ông Nguyễn Thế Thảo không bận tâm chi nhiều về dăm ba điều tiếng eo sèo thượng dẫn. Điểm chính là là ông đã hạ cánh an toàn và sẽ có một cuộc sống phú túc, an nhàn, và dật lạc – thế thôi. Thế mới biết hậu vận của chúng ta không tùy vào tuổi tác mà tùy vào cách ứng xử của từng người. Kẻ đốn cây, người đốn chữ. Kẻ ngồi mát ăn bát vàng và kẻ ngồi tù đếm lịch.

Và hậu vận đất nước cũng tùy thuộc không ít nhiều vào hậu vận của con dân. Xứ sở càng nhiều những con rồng vinh thân phì gia nhờ cõng rắn thì tương lai đất nước càng khốn nạn.


 

Chủ tịch xã ở Lâm Đồng treo cổ chết vào Mùng Năm Tết

February 14, 2024

Ba’o Nguoi-Viet

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Nhà chức trách xác nhận ông Lê Viết Thống, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã Lộc Nga, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, treo cổ chết ngay tại cơ quan vào hôm 14 Tháng Hai, tức Mùng Năm Tết Giáp Thìn 2024.

Theo báo Thanh Niên, vụ việc được một số công chức phát giác khi họ đến cơ quan trực Tết.

Sự việc xảy ra ngay tại trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Xã Lộc Nga, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. (Hình: Thanh Niên)

Bản tin cũng dẫn lời một cán bộ xã Lộc Nga rằng những ngày gần đây, ông Thống “không có biểu hiện gì bất thường.”

Công An Tỉnh Lâm Đồng được ghi nhận xuất hiện tại hiện trường và tiến hành giảo nghiệm tử thi để điều tra nguyên nhân vụ treo cổ.

Trước vụ này, cứ vài ba tháng, các báo ở Việt Nam lại tường thuật một vụ giới chức nhà nước treo cổ chết ngay tại cơ quan nhưng không công bố nguyên nhân cụ thể là do vấn đề cá nhân hay có sai phạm trong công tác.

Trong một vụ xảy ra gần đây, theo báo Lao Động hồi trung tuần Tháng Mười Hai năm ngoái, ông LVĐ, 40 tuổi, phó trưởng Phòng Nội Chính, Văn Phòng Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Cà Mau, treo cổ chết ngay tại tầng bốn của cơ quan này.

Bản tin dẫn lời người nhà của ông Đ. cho biết, trước khi sự việc xảy ra, ông này “có biểu hiện thường xuyên mất ngủ” nhưng không rõ liệu ông có bị trầm cảm hay không.

Người nhà đã tìm kiếm ông LVĐ từ ngày hôm trước cho đến khi được cơ quan gọi thông báo tin buồn.

Trước đó, trong một vụ tự sát cũng xảy ra ở tỉnh Cà Mau, vào ngày 11 Tháng Mười Hai cùng năm, thi thể ông TTH, 46 tuổi, giám đốc Trung Tâm Đăng Kiểm Tàu Cá Tỉnh Cà Mau, được phát giác trong phòng làm việc. Theo hồ sơ của công an địa phương, trên thi thể ông H. có tổng cộng 13 vết thương ở vùng bụng và ngực.

Một lá thư tuyệt mệnh được cho là do ông H. để lại có nội dung xin lỗi mọi người và vợ con.

Cũng theo báo Lao Động, ông H. căn dặn trong thư rằng gia đình không yêu cầu giảo nghiệm tử thi và đem thi thể đi thiêu, sau đó lấy tro cốt gửi vào chùa.

Đến nay, công luận không thấy các báo ở Việt Nam cập nhật kết quả điều tra của công an sau vụ tự sát của hai giới chức nêu trên. (N.H.K)


 

Kể chuyện đêm giao thừa: Nỗi buồn của ông Nguyễn Xuân Phúc

Chính trị gia trong thể chế cộng sản là vậy, cho dù đương chức hoặc “về vườn đuổi gà”, vẫn ăn không ngon, ngủ chẳng yên, lo sợ đủ điều.

Báo Tiếng Dân

Mai Hoa Kiếm

9-2-2024

Từng ngồi ghế thủ tướng, chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng An ninh, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, Nguyễn Xuân Phúc được xem là người ở trên tận cùng của đỉnh cao quyền lực. Tuy nhiên, song hành với ông ngoài tiền bạc, vật chất, niềm vui, hạnh phúc… nguyên thủ quốc gia quyền lực ngút trời như ông cũng không tránh khỏi cay đắng, tủi nhục, khi rời chính trường và ông đã phải ôm những nỗi buồn nuốt không trôi theo suốt cuộc đời mình.

Nỗi buồn thứ nhất

Vào những ngày giáp tết năm ngoái, ngày 17-1-2023, tức 26 tháng Chạp năm Nhâm Dần, Hội nghị Trung ương bất thường đã tước bỏ mọi chức vụ trong đảng đối với Nguyễn Xuân Phúc. Một ngày sau, quốc hội “đảng cử dân bầu” tiếp tục làm cú bất thường, bắt ông trả hết “áo mão cân đai” chủ tịch nước, để về làm thứ dân.

Đây là nỗi nhục có lẽ sẽ bám theo ông suốt cả cuộc đời, khi các “đồng chí” của ông chọn thời điểm để truất phế ông, loại bỏ ông đúng vào dịp Tết Nguyên đán, dịp mà người ta chỉ mang đến những điều tốt đẹp, may mắn cho nhau!

Những kẻ hàng ngày tay bắt mặt mừng, ôm hôn thắm tình đồng chí… nay đã quay lưng, tráo trở nhanh quá. Những kẻ cùng “nền tảng tư tưởng” với ông đã lần lượt bắt giam những người thân, ruột thịt trong gia đình ông: Trần Văn Tân, Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Nguyễn Bạch Thuỳ Linh… Thậm chí chúng còn đe doạ bắt cả vợ con ông, để buộc ông phải viết đơn xin thôi chức, về vườn.

Có lẽ ông Phúc sẽ không bao giờ quên mùa Xuân chạm ngõ năm ngoái. Chỉ còn vài ngày nữa là tới lần thứ hai ông gởi lời chúc Tết đến cả nước, bỗng dưng “tổng đà chủ” Nguyễn Phú Trọng nhảy vào, giành mất cái quyền của nguyên thủ quốc gia, lên sóng truyền hình đêm giao thừa của ông.

Là “nhân sự đặc biệt” khoá 13, Nguyễn Xuân Phúc ngồi ghế chủ tịch nước chỉ hơn 21 tháng (5-4-2021 đến 18-1-2023), là điều hiếm có trong chế độ cộng sản!

Vợ chồng ông Nguyễn Xuân Phúc tại nhà riêng. Nguồn: Mai Hoa Kiếm/ dành riêng cho Tiếng Dân

Nỗi buồn thứ hai

Ở trong Bộ Chính trị liên tiếp ba nhiệm kỳ, Nguyễn Xuân Phúc không đủ thủ đoạn, mưu lược, lẫn tài ứng biến để cài cắm người của ông vào hàng ngũ lãnh đạo cấp cao. Vì thế, trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, không hề có “đệ tử” của ông Phúc. Cho nên, khi ông bị bao vây, bị phê bình chỉ trích, bị tấn công tới tấp nhằm tước bỏ quyền bính, thì không có ai đứng ra bảo vệ ông.

Trước và sau thời điểm ông Phúc bị đồng đảng đưa ra “làm thịt”, đám đàn em của ông cũng bị các “đồng chí” đem ra làm bia để nhả đạn:

Nguyễn Văn Hùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ Ban Kiểm tra Trung ương, bị dồn ép đến nhảy lầu siêu thoát hôm 21-11-2022, ở tuổi 59.

– Trần Văn Minh, Phó Chánh Thanh tra Chính phủ, bị bức tử, treo cổ tại nhà riêng vào ngày 4-3-2023, ở tuổi 56.

– Phan Việt Cường, bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam, đã phải rời bỏ nhiệm sở, xin nghỉ việc, về hưu non, khi còn hai năm nữa mới hết nhiệm kỳ. Cùng lúc, tập thể Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các Phó bí thư, các Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ, lãnh đạo UBND tỉnh, giám đốc các sở ban ngành Quảng Nam đều bị dính kỷ luật. Kẻ bị khai trừ, người bị cách chức, cảnh cáo… không kể hết.

Trần Đức Quận, bí thư Tỉnh uỷ và Trần Văn Hiệp, chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, hai “đệ tử ruột” và là đồng hương Quảng Nam – Đà Nẵng của ông Phúc cũng bị giăng bẫy, bị mời ra Hà Nội “họp đột xuất” rồi bắt giam luôn mà không cần báo cho hệ thống chính trị tỉnh Lâm Đồng biết tin.

– Nguyễn Công Khế, người bạn thâm tình với Nguyễn Xuân Phúc đã bị tống giam hơn ba tuần trước. Khế chơi với ông Phúc từ những năm đầu của thập niên 1980, khi ông Phúc chỉ là chuyên viên Văn phòng UBND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Một sự trùng hợp lạ lùng là vụ án mà Khế bị dính, lại có bút phê của ông Phúc, khi ông làm bộ trưởng.

Nỗi buồn thứ ba

Cha ông Phúc là cụ Nguyễn Văn Hiền, sinh năm 1917, hiện sống tại Đà Nẵng. Cụ Hiền theo Việt Minh, sau tập kết ra Bắc, huy hiệu 75 năm tuổi đảng. Mẹ ông Phúc là bà Nguyễn Thị Đằng (1922-1966), là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Cả mẹ và chị gái ông đều là liệt sĩ. Ông Phúc còn có anh ruột Nguyễn Quốc Dũng, là Anh hùng Lực lượng Vũ trang.

Vợ ông Phúc là bà Trần Thị Nguyệt Thu, sinh năm 1962. Bà Thu là con gái của ông Trần Văn Dõng (1931-1968) và bà Võ Thị Cương, sinh năm 1934. Bà Cương theo du kích quân từ năm 18 tuổi. Sau này bà Cương mở hiệu may Kim Cương tại Cầu Vồng, đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), Đà Nẵng. Vì làm giao liên và tiếp tế cho Việt Cộng, nên bà bị bắt giam, giai đoạn 1969-1971. Ông Dõng tập kết ra Bắc, sau quay lại chiến trường Quảng Nam và bị phục kích, hy sinh năm 1968, để lại cho bà Cương năm người con.

Kể dông dài như vậy để thấy ông Nguyễn Xuân Phúc có lý lịch “đỏ rực” như thế nào. Với truyền thống gia đình, bề dày công tác, bản lĩnh chính trị như vậy, nhưng ông vẫn bị đánh văng khỏi “tứ trụ” khi đang ở trên đỉnh cao quyền lực, chưa kể các “đồng đảng” của ông lựa đúng thời điểm giáp Tết để truất phế ông, thử hỏi có nỗi buồn nào lớn hơn?

Nỗi buồn thứ tư

Vợ ông, bà Trần Thị Nguyệt Thu có một chị gái tên là Trần Thị Nguyệt Phương, sinh năm 1960. Bà Nguyệt Phương là giáo viên đã nghỉ hưu, có chồng là doanh nhân thành đạt ở Đà Nẵng.

Trong đại dịch Covid 19, vợ chồng bà Nguyệt Phương cũng đã đóng góp nhiều tỷ đồng cho địa phương chống dịch. Mẹ của hai bà Nguyệt Phương và Nguyệt Thu, cụ Võ Thị Cương cũng ủng hộ “quỹ vacine chống dịch” 100 triệu đồng.

Vợ chồng bà Trần Thị Nguyệt Phương, em vợ và em cột chèo của ông Phúc. Nguồn: Tác giả gửi riêng cho Tiếng Dân

Bà Võ Thị Cương, mẹ vợ ông Nguyễn Xuân Phúc và số tiền ủng hộ quỹ vaccine 100 triệu đồng, cùng thư cảm ơn của MTTQ gửi gia đình bà. Nguồn: Ảnh độc quyền của Tiếng Dân

Đại án Việt Á liên quan test kit nổ ra. Cơ quan điều tra không dám công khai 80% cổ phần đáng ngờ trong công ty Việt Á, khiến dư luận xã hội có nhiều suy đoán. Cổ phần Việt Á là của sân sau quan chức, hay của các đồng chí “nước lạ”?

Chỉ biết rằng, sự lập lờ của đảng khi bắn thông tin ra ngoài, khiến bàn dân thiên hạ cứ đồn thổi, thêu dệt, gán ghép bà Trần Thị Nguyệt Thu là “trùm cuối”. Thực tế, thông tin này không đúng, nhưng ông Phúc không thể giải bày, bởi ông vừa lên tiếng phân bua “Gia đình tôi, vợ, các con tôi không tư lợi, tham nhũng, liên quan đến Việt Á, chưa bao giờ gặp giám đốc Việt Á… ” thì ông đã bị Tuyên giáo cho báo chí… bịt miệng! Điều này khiến ông ôm nỗi buồn vô tận.

Nỗi buồn thứ… n

Sẽ không kể hết được những nỗi buồn của Nguyễn Xuân Phúc, một người Quảng Nam, có mặt trong Bộ Chính trị ba khóa 11, 12 và 13 (Riêng người Quảng Nam có mặt liên tục trong Bộ Chính trị 6 khoá, từ khoá 8 đến khoá 13). Khi ông Phúc rời chính trường, đại diện Quảng Nam sẽ chấm dứt hiện diện trong Bộ Chính trị nhiều khoá tiếp theo, vì không có bất kỳ gương mặt nào nổi trội.

Trong một diễn biến khác, dàn cán bộ, đàn em của ông Phúc bị đánh te tua ngay trên đất Quảng Nam. Quảng Nam hết nhân sự, đồ đệ của Nguyễn Bá Thanh là Lương Nguyễn Minh Triết, sinh năm 1976, là ủy viên dự khuyết Trung ương khoá 13 đã … “buồn ngủ gặp chiếu manh”. Mới đây, Triết được Trung ương bổ nhiệm làm bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam, thay cho Phan Việt Cường, một đàn em của ông Phúc vừa bị mất chức.

Nguyễn Xuân Hiếu là quý tử của Nguyễn Xuân Phúc. Từ khi Hiếu ở Mỹ quay về Việt Nam, Hiếu vẫn loay hoay công tác Đoàn, chưa biết tương lai sẽ về đâu. Chức vụ “loằng ngoằng” của Hiếu hiện nay là Ủy viên Ban chấp hành, Phó Trưởng ban Đoàn kết tập hợp Thanh niên Trung ương Đoàn, Ủy viên Thường trực Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội LHTN Việt Nam.

Ảnh: Quý tử Nguyễn Xuân Hiếu. Nguồn: Mai Hoa Kiếm/ Tiếng Dân

Chính trị gia trong thể chế cộng sản là vậy, cho dù đương chức hoặc “về vườn đuổi gà”, vẫn ăn không ngon, ngủ chẳng yên, lo sợ đủ điều.

Quan địa phương thì sợ bị khởi tố, phải “nôn” ra cho quan trên, cống nộp lại tài sản cướp được bao nhiêu năm cho đồng đảng. Quan triều đình thì sợ bị “đánh bã”, chết bất đắc kỳ tử, sợ bị biến thành “củi” ném vào lò. Cán bộ cấp cao thì sợ các cuộc thanh trừng, giết người diệt khẩu.

Đáng sợ hơn, là bị đầu độc phóng xạ, để rồi dở sống, dở chết, người không ra người, ngợm không ra ngợm. Ông Phúc con giữ được mạng khi về với vợ con, kể ra cũng còn may hơn Trần Đại Quang, Nguyễn Bá Thanh…


 

Triều cường ngày Tết ‘nhấn chìm’ nhiều nhà dân, đường sá ở miền Tây

Ba’o Nguoi-Viet

February 13, 2024

TIỀN GIANG, Việt Nam (NV) – Sáng Mùng Bốn Tết Giáp Thìn, nhiều tuyến đường, con hẻm ở miền Tây bị ngập sâu do triều cường dâng cao, nước bẩn tràn vào nhiều nhà dân gây đảo lộn cuộc sống.

Theo ghi nhận của báo Tuổi Trẻ, từ chiều tối 13 Tháng Hai, triều cường (một trong bốn chu kỳ của thủy triều, bao gồm ngập triều [nước lớn], triều cường, triều rút [nước ròng] và triều thấp) tiếp tục dâng cao làm nhiều tuyến đường ở thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, đặc biệt là khu vực bùng binh Trung Lương, bị ngập nặng.

Nhà dân ở khu vực chợ Cầu Cống, phường 10, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, bị nước ngập do triều cường. (Hình: Hoài Thương/Tuổi Trẻ)

Cụ thể, khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, khu vực chợ Cầu Cống thuộc phường 10, thành phố Mỹ Tho, tiếp tục bị ngập nặng, nhiều đoạn ngập cả bánh xe, khiến việc đi lại của người dân rất vất vả.

Đặc biệt, một số nhà của người dân ở khu phố 3, phường 10, thành phố Mỹ Tho, bị ngập nặng, nước dâng cao hơn nửa mét, buộc người dân phải kê đồ đạc lên cao tránh bị ướt, cuộc sống sinh hoạt thường ngày bị đảo lộn.

Nói về nguyên nhân gây ngập nặng, công ty Khai Thác Công Trình Thủy Lợi Tiền Giang cho biết do sông Tiền bị nước mặn xâm nhập ở mức báo động 3 vào sâu trong địa phận thành phố Mỹ Tho, nên phải đóng cống Bảo Định để ngăn mặn “khẩn cấp,” khiến nước tràn vào nội ô thành phố.

“Cống đóng gây ngập làm ảnh hưởng đến giao thông và nhà dân là điều bất khả kháng,” đại diện công ty phân bua.

Tương tự, tại thành phố Cần Thơ, cùng ngày do mực nước ở các sông, hồ, kênh rạch dâng cao đã làm nhiều con hẻm, đường phố thuộc quận Ninh Kiều, bị ngập nặng.

Tại các hẻm thuộc đường Đề Thám, Lý Tự Trọng, Mậu Thân, hồ Bún Xáng, đường Huỳnh Cương (hồ Xáng Thổi), Cách Mạng Tháng Tám… nước tràn vô nhà cửa, quán xá…làm ảnh hưởng sinh hoạt và buôn bán của người dân.

Trước đó, hôm Mùng Ba Tết Giáp Thìn, triều cường cũng đã gây ngập các tuyến hẻm, đường phố ở quận Ninh Kiều.

Khu vực đường Huỳnh Cương (hồ Xáng Thổi) và đường Nguyễn Thần Hiến, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, bị ngập nước. (Hình: Thái Lũy/Tuổi Trẻ)

Nhiều người dân cho hay, việc triều cường gây ngập đường phố vào dịp Tết ở Cần Thơ rất ít khi xảy ra, việc này chỉ mới bắt đầu từ Tết năm ngoái và năm nay.

Theo Trung Tâm Dự Báo Khí Tượng Thủy Văn Cần Thơ, nước ngập một số tuyến đường nội ô thành phố mấy ngày qua là do con nước triều cường đầu Tháng Giêng Âm Lịch, mực nước dưới báo động 3 và có thể còn tiếp diễn trong vài ngày tới. Sau đó nước suy yếu dần và hết hẳn. (Tr.N)


 

THỬ TÌM HIỂU VÀI NÉT VỀ “BÀN THỜ ÔNG THIÊN” QUA VÀI TRANG SÁCH CŨ

Góc nhìn An-Nam

(Tác giả: Hai Trầu).

Nhắc tới miền quê thuộc miền Tây Nam nước Việt, không ai là không biết tục thờ cùng “Bàn Thờ Ông Thiên” nơi trước sân ở mỗi nhà; nhưng danh từ “Bàn Thờ Ông Thiên “ có từ khi nào thì khó mà xác định một cách chắc chắn.

Lần dở lại các trang sách cũ, như quyển “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” của Huình-Tịnh Của (1) không có danh từ này. Rồi đến các tự điển như “Hán Việt Từ Nguyên” hoặc “Tầm Nguyên Từ Điển” của Bửu Kế (2) cũng không thấy nhắc đến danh từ này. Lần mò tìm trong “Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển” của Trịnh Vân Thanh (3) cũng không có vết tích gì về “Bàn Thờ Ông Thiên”. Ngay như quyển “Việt Nam Tân Tự Điển” của Thanh Nghị, do nhà xuất bản Thời Thế (Sài Gòn), 1951, cũng không có ghi lại danh từ này dù việc thiết lập “Bàn Thờ Ông Thiên” đã có từ rất lâu trước đó.

Vì muốn tìm hiểu việc thờ cúng “Bàn Thờ Ông Thiên” rất phổ thông này nơi các làng quê, chúng tôi tìm đọc qua các sách vở có liên quan đến đất Nam Kỳ như “Một Tháng Ở Nam Kỳ” trong quyển Hành Trình Nhật Ký của Phạm Quỳnh (4), “Tìm Hiểu Đất Hậu Giang & Lịch Sử Đất An Giang” cũng như “Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam” của Sơn Nam (5) đều không thấy nhắc đến việc thờ Trời này.

Rồi chúng tôi dò tìm lại “Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính, “Làng Xóm Việt Nam” của Toan Ánh (6) đều không thấy vết tích gì về “Bàn Thờ Ông Thiên”.

Đến như cuốn “Thần, Người Và Đất Việt” (bản mới) của Tạ Chí Đại Trường (7) tác giả có khảo sát rất chi ly về các tín ngưỡng trong việc thờ phượng tế tự cùng các tôn giáo vùng đất Nam Kỳ, nhưng cũng không thấy nhắc đến việc cúng kiến nơi “Bàn Thờ Ông Thiên”.

Thành ra, càng tìm kiếm sách vở nhắc đến “Bàn Thờ Ông Thiên”, dù chưa gặp, nhưng tôi vẫn không nản lòng vì qua việc tìm kiếm này, tôi có dịp đọc lại nhiều sách cũ mà lúc bình thường tôi chưa đọc kỹ.

Thế rồi, qua cuốn du ký và biên khảo“Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười” của Nguyễn Hiến Lê, tác giả kể:

“Ngoài Bắc làng nào cũng có chùa, và phụ nữ thường đi lễ Phật đấy, song ít nhà có bàn thờ Phật và số người ăn chay không đáng kể.

Anh Bình mỉm cười:

-Anh quên rằng dân quê Bắc-Việt suốt năm ăn chay sao ? “Tứ thời rau muống, tứ thời tương.”

-Ngay những nhà giàu ở thành-thị cũng ít ăn chay, ít lắm, mà có ăn chay thì chỉ ăn tại chùa, trong những dịp có hội hè, tế lễ thôi. Trong này mười gia đình thì tám chin gia đình có bàn thờ Phật hoặc bàn thờ ông Thiên và nhà nào cũng có người ăn chay.

Đi ghe trong các kinh, rạch, vào lúc sẩm tối, ta thường thấy hai bên bờ, cứ vài chục thước lại hiện lên những đốm đỏ, nhỏ như đom-đóm; đó là hương thắp trước mỗi nhà. Có xóm vang lên tiếng tụng kinh gõ mõ. Có miền tới ngày rằm, mùng một, không sao kiếm được ở chợ các món thịt, cá. Nhà nào cũng ăn chay và có nhiều người ăn chay trường. Cảnh ấy, ở Bắc-Việt tuyệt-nhiên không thấy.”(

Ở cuối trang tác giả chú thích về “Bàn thờ ông Thiên”: “Một bàn thờ nhỏ đặt trên một cái trụ ở giữa trời tại giữa sân, trước nhà, để thờ Trời Phật” (9).

Có được những bút lục vừa kể chúng tôi mừng lắm, ít ra có một bậc tiền bối ghi lại việc thờ phượng Trời Phật này bằng giấy trắng mực đen thay vì mình chỉ biết qua truyền miệng với nhau. Thế nhưng, vì muốn tìm học hỏi thêm, nên chúng tôi tìm đọc lại “Văn Minh Miệt Vườn” của Sơn Nam, và bắt gặp nhà văn ghi lại đôi nét về khung cảnh nhà cửa miệt vườn như dưới đây:

“Chúng tôi thử phác họa một ngôi nhà ở Miệt Vườn, chủ nhân là dân điền chủ bậc trung. Nhiều ngôi nhà cất sau này dựng hàng rào sắt, có xây hồ nước lộ thiên, có lầu. Theo ý chúng tôi thì những ngôi nhà tân thời ấy, không tiêu biểu cho lắm, tốt hơn là nên chọn lựa một kiểu nhà hơi xưa, cất vào khoảng năm 1905-1910, lần hồi gia chủ mua sắm thêm bàn ghế bên trong, tu bổ lại.

Địa điểm chọn lựa là vùng Cái Bè, ở bờ sông Tiền, nơi nổi tiếng nhờ vườn cam và cũng là vùng đất xưa. Hy vọng rằng kiểu nhà sau đây- nhà của điền chủ- nói lên được phần nào cách ăn ở của người Miệt Vườn hồi đầu thế kỷ, với nhiều tiểu dị nhưng cũng có nhiều nét đại đồng. Những người phú nông, trung nông cất nhà theo quan niệm ăn ở và thẩm mỹ ấy, nhiều chi tiết được thay đổi tùy theo túi tiền của gia chủ.

Mỗi nhà là một cung điện bình dân, với nhà thủy tọa, với sân rộng, hòn non bộ, cây kiểng. Sau nhà là vườn tược, trước sân và bên hông thì trồng cây để lấy bóng mát. Nhà không quá kín đối với người ngoài.

Nhà mát cất ở mé sông, kiểu nhà thúy tọa, có “băn” bằng cây đóng chung quanh. Đây là nơi lý tưởng để ngắm cảnh khi trăng lên, khi nước lớn. Bên cầu mát là trại lá nhỏ để ghe xuồng đậu, từ chiếc ghe hầu, mui ghe chạm trổ phết vàng sơn son, đến chiếc ghe lườn, xuồng be, xuồng vỏ gòn.

Rời nhà mát, gặp con đường cái, chạy dài theo mé rạch. Qua lộ, đến cổng vào nhà. Cổng ít khi đóng lại, nhiều khi không có cửa. Cổng bằng cây, bằng gạch. Nếu túng thiếu hoặc yêu mến thiên nhiên, cứ trồng cây, uốn cho nhánh giao lại theo hình vòng nguyệt, hai bên là hàng rào bằng cây khô hoặc cây tươi như dâm bụt, cây trà kiểng, cây kim quit.

Từ cổng vào nhà là con đường lót gạch tàu, bên đường viền cỏ dền tây, bông nở ngày, bông vạn thọ hoặc cây đinh lăng.

Bàn thờ ông Thiên dựng giữa sân, gần đường cái. Nhiều khi gia chủ bố trí thêm một cây trụ, trên chót là cái lồng cửa kiếng, ban đêm thấp ngọn đèn dầu lửa cho vui. “(10)

Qua đoạn trích vừa kể bàn về ngôi nhà hồi đời xưa, tức là vào những năm 1905-1910 nơi miệt vườn đã có “Bàn Thờ Ông Thiên” tươm tất rồi với ngôi nhà tiêu biểu vừa kể . Điều đó cho thấy, sự thờ Trời Phật qua Bàn Thờ Ông Thiên có lẽ nó đã có khá lâu trước đó.

Trở lại nhận xét của Nguyễn Hiến Lê về tín ngưởng của dân Nam-Việt trong cuốn “Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười”, tác giả viết:

“Ở chùa bước ra, tôi nói với anh Bình:

-Theo Chu Duy-Chi, tác giả cuốn :”Trung-Quốc Văn-Nghệ Tư-Trào Sử-Lược”, thì miền nam Trung-Hoa khí hậu mát-mẻ, đất cát phì nhiêu, việc mưu-sinh nhẹ-nhàng, nên dân-gian thường được nhàn-hạ, có thì giờ không-tưởng, suy-nghĩ về lẽ huyền bí của Vũ-trụ, tìm cách thoát tục tu tiên. Óc tưởng-tượng của họ phong phú mà óc thực tế thì kém, văn-chương lãng-mạn phát-đạt hơn văn-chương tả thực. Trang-Tử và Khuất-Nguyên đều là người phương Nam, còn Khổng-Tử là người phương Bắc.

-Thuyết ấy áp dụng vào nước ta cũng có chỗ đúng. Như ở Nam-Việt này, đạo Khổng không phát triển bằng các tôn-giáo Lão, Phật.”(11)

Chính vì ảnh hưởng bởi Lão Giáo và Phật Giáo hơn các tông giáo khác cho nên việc thờ Trời Phật qua Bàn Thờ Ông Thiên của dân Nam-Việt là một lẽ hết sức tự nhiên. Thêm vào đó, theo Nguyễn Văn Huyên, trong Văn Minh Việt Nam, bàn về đạo Lão, tác giả viết :

“Vị thần tối cao của những người theo đạo Lão, điều khiển tất cả các thần khác, là Ngọc Hoàng. Ông ở trung tâm của Trời…” và “Ngọc Hoàng thường được gọi là ông Trời hay Trời. Trong ý thức dân gian, Trời là căn nguyên của các hiện tượng khí quyển và sự che chở cho người trần. Trời là nguyên nhân nội tại của tất cả; Trời chủ trì cái sống, cái chết, hạnh phúc, sự giàu nghèo, v.v… Trời chẳng phải là sức mạnh mù quáng; Trời xem xét, suy nghĩ, phán xét. Về mặt vật chất thì Trời được tiêu biểu bằng vòm trời tạo thành một nửa thế gian, nửa kia là Đất. Toàn thể vũ trụ được gọi là Trời Đất”.(12).

Ngoài ra, bàn thêm về Ngọc Hoàng, tức Ông Trời, tác giả Nguyễn Văn Huyên ghi tiếp:

“Người Việt nói rằng: “Ngọc Hoàng lúc khai thiên lập địa là một con chim màu đỏ. Lúc trời đất chưa ra khỏi sự hỗn mang, và bóng tối còn bao trùm vạn vật, Ngọc Hoàng đã cai trị vật chất bất động và lộn xộn. Sau này, khi Trời được giải thoát, đứng trên cao, và Đất được giải tỏa, nằm dưới thấp, thì Ngọc Hoàng ngự trị 36 cung điện của các thần trên Trời và 72 thần của các tầng của Đất. Ông là chúa tể của Mặt Trời, Mặt Trăng, các vì Sao, Gió, Mây, Sét và Mưa. Các thần và ma của núi, sông, rừng, cánh đồng, biển, cũng như các sinh vật đủ loại người, chim trên không, cá dưới biển đều trở thành thần dân của Ngọc Hoàng. Ở thời Bàn Cổ xa xưa, khi con người còn hoang dã ăn thịt sống và uống máu tươi súc vật, thì Ngọc Hoàng cử Phục Hy xuống truyền cho họ những yếu tố của văn minh, cử Thần Nông dạy họ làm ruộng, và Hiên Viên dạy họ dệt vải lanh và dệt lụa. Chính Ngọc Hoàng đã tạo nên các nền trật tự thái bình vinh quang của Nghiêu và Thuấn, và sai Vũ Vương đắp đê ngăn nước trong trận lụt tràn khắp thế gian. Ngọc Hoàng còn phái xuống trần Cao Đào để thiết lập công lý giữa mọi người, Tiết để định ra năm mối quan hệ xã hội lớn, Khổng Tử để viết Ngũ Kinh, và tất cả các bậc hiền giả đã làm rạng rỡ loài người”.(13)

Do vậy, vốn là xứ nông nghiệp, nên khi khấn vái, người ta cầu khấn Ngọc Hoàng, tức Ông Trời, cùng các vị thần linh đệ tử của Ngài trong tất cả các sự kiên liên qua tới cuộc sống như sinh đẻ, bệnh tật, dịch bệnh, hạn hán, lụt lội, mưa nắng, mùa màng v.v… như qua các thực tế trong việc van vái nơi “Bàn Thờ Ông Thiên” mỗi ngày hoặc qua văn chương truyền khẩu còn lưu lại mãi mãi:

“Lạy Trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống,

Lấy ruộng tôi cày,

Lấy đầy bát cơm,

Lấy rơm đun bếp…”

Về hình thể Bàn Thờ Ông Thiên”, thì ai ai có qua vùng đất Nam Việt cũng đã thấy và đã biết hình dáng loại bàn thờ này, giống như nhị vị tiền bối Nguyễn Hiến Lê và Sơn Nam lược kể. Thuở còn nghèo, mới khai hoang lập ấp, người ta chặt cây tràm, hoặc đốn gốc tre gai dài chừng từ 1 thước 60 đến hai thước làm trụ dựng làm bàn thờ ông Thiên. Trên đầu trụ đóng cây thành hình chữ thập nhằm mục đích giữ cho miếng ván dùng làm bệ thờ không bị lật rớt. Sau đó lựa miếng ván vuông vức khoảng chừng bốn tấc đặt lên chữ thập này. Và vậy là có bàn thờ ông Thiên với cái lon thiếc làm chỗ cấm nhang, chai nước mưa, ba cái ly nhỏ để cúng nước và một chai nhỏ dùng làm bình bông cúng Trời Phật. Bông thường thường là bông trang, bông huệ, bông điệp, bông mồng gà trồng ngay nơi bàn ông Thiên mà mỗi nhà nào cũng có trồng khi bắt đầu dựng trụ thiết lập chỗ thờ cúng này.

Dùng cây tràm, dùng gốc tre lâu ngày trụ bàn thờ ông Thiên bị mưa nắng làm mục, người ta mới nghĩ đến việc dùng cây vông nem hoặc cây gòn làm trụ vì các loại cây này khi cắm xuống đất chúng sẽ đăm rễ ra nhánh nên trụ sẽ sống lưu niên từ năm này qua năm khác không sợ mục; chỉ có điều lâu lâu nên để ý mé bớt các các nhánh vông, nhánh gòn cho gọn để bàn thờ được tươm tất và đẹp mắt.

Dần dần về sau vào những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 miệt chợ Thủ thuộc Chợ Mới (An Giang) và nhiều nơi khác thuộc Long Xuyên như Cần Sây, Rạch Gòi Lớn, hoặc các vùng thuộc Châu Đốc, Cần Thơ, Sa Đéc, nói chung các vùng thuộc Tiền Giang và Hậu Giang người ta nghĩ ra cách đúc Bàn Thờ Ông Thiên bằng xi măng cốt sắt và để bán tại chỗ hoặc có ghe chở bán khắp các làng quê trong vùng. Do vậy sau này, ít thấy bàn thờ ông Thiên làm bằng cây vông, cây gòn, gốc tre hay các loại cây gỗ khác và chỉ còn vài nhà vì quá nghèo không mua nổi bàn ông Thiên đúc xi măng thì mới còn dùng các loại cây cối có sẵn trong vườn làm trụ bàn ông Thiên.

Về tên gọi “Bàn Thờ Ông Thiên”, qua sách vở như vừa ghi bên trên, thoạt kỳ thủy ai ai cũng gọi “Bàn Thờ Ông Thiên” nhưng rồi dần dần vì tính giản dị của cư dân nơi vùng sông nước Cửu Long này nên nguyên chữ “Bàn Thờ Ông Thiên” được lược ngắn bớt chữ “thờ” thành ra “Bàn Ông Thiên . Chẳng hạn vùng An Phú, nhà văn Khiêm Cung Dương Văn Chung cho biết dân nơi ấy gọi “Bàn Ông Thiên”. Ở vùng Châu Phong, theo chị Lộc Tưởng, người chủ trương trang nhà Thất Sơn Châu Đốc cũng cho biết ở đây người ta cũng gọi “Bàn Ông Thiên”.

Nhắc đến vùng Châu Phong của chị Lộc Tưởng, chúng tôi nhớ lại trong sách “Bangsa Champa, Tìm Về Một Cội nguồn Cách Xa”, của tác giả Đỗ Hải Minh, biên khảo về đời sống đồng bào Chăm vùng cù lao Châu Phong có nhận xét về sự khác biệt giữa nhà cửa cư dân Việt và cư dân Chăm trong vùng, với tục thờ cúng “Bàn Ông Thiên” như sau:

“Từ bên này bờ sông nhìn sang bên kia, không xa lắm, chỉ vào khoảng 50 thước là cùng, tiếng trẻ em vui đùa vẫn vọng mồn một sang bên này bờ, nhưng thực tế là hai thế giới khác biệt. Thật vậy, nhà cửa bên kia sông, thường đắp nền cao rồi dựng cột và vách lên, bên trong nhà có bàn thờ tổ tiên,bày biện bàn ghế, giường ngủ có chân cao. Hầu như trước nhà nào cũng có một bàn thờ nhỏ gọn gọi là “Bàn ông Thiên” buổi chiều khói hương nghi ngút. Bên này sông, trái lại, nhà nhà đều có sàn; cột thường bằng cây nguyên bào nhẵn, cao khỏi đầu người, mặt tiền nhà nào cũng có một cái thang rắn chắc bằng gỗ, và bên trong nhà hầu như không có bàn ghế, nên khi khách đến nhà thì chủ nhà thường trải chiếc chiếu hoặc tấm thảm, để chủ khách cùng ngồi xếp bằng trên sàn gỗ. Nhà cửa phần lớn sát vào nhau, cả làng hầu như không có nhà nào trồng rau quả, vườn tược, nhứt là vườn trầu xanh tươi như bên kia bờ.”(14)

Qua nhận xét vừa trích về “Bàn Ông Thiên”, cho thấy học giả Đỗ Hải Minh dù là người Chăm nhưng ông rất am tường việc tín ngưỡng của cư dân Việt quanh vùng Châu Phong.

Từ “Bàn Thờ Ông Thiên”, rút gọn còn “Bàn Ông Thiên”, nhưng danh từ này còn lược gọn thêm một lần nữa khi nhiều vùng bỏ bớt chữ “Ông” và thành “Bàn Thiên” và vẫn ngầm hiểu danh từ này dùng để gọi “Bàn Thờ Ông Thiên”, hoặc “Bàn Ông Thiên”.

Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ giải nghĩa : “Bàn Thiên (danh từ): Còn gọi là Bàn Trời, tấm ván vuông có chân cao lối 1 m 60 trồng trước sân ngay cửa để thờ Trời hoặc kiến trúc giống cái nhà nhỏ vuông-vức lối 50cm mỗi cạnh”(15)

Ngoài ra, theo Từ Điển Từ Ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín, cắt nghĩa “Bàn Ông Thiên” là bàn thờ trước sân nhà để đặt nhang, đồ cúng, làm bằng một tấm vuông nhỏ được đặt trên một trụ cao ngang tầm với người lớn; “Bàn Thiên”: Bàn thờ Trời, Phật ở trước sân nhà ở nông thôn.” Trong phần cắt nghĩa hai danh từ “Bàn Ông Thiên” và “Bàn Thiên”, tác giả có ghi thêm hai thí dụ dẫn chứng:

“Tôi thấy ông chủ nhà vào trong thắp một nắm nhang, cháy đỏ, đem ra trước sân thắp lên bàn Ông Thiên rồi qùi xuống khấn vái, khá to tiếng.”(Sơn Nam) và “Ông Hương Ba đứng trước bàn Thiên vái ba vái, rồi lẩm bẩm điều gì tôi cũng không nghe rõ.” (Phi Vân)(16)

Điều đáng lưu ý là hai bộ từ điển vừa kể của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ cũng như của Huỳnh Công Tín đều không có chữ “Bàn Thông Thiên” như nhiều người nói dân quê miền Tây còn gọi danh từ này để chỉ “Bàn Thờ Ông Thiên”. Và đây cũng là một điều làm tôi cố ý tìm tòi xem xưa nay có ai gọi “Bàn Thờ Ông Thiên” là “Bàn Thông Thiên” không?

Lần mò tìm đọc lại các sách mà tôi hiện có, may sao chỉ có tác giả Nguyễn Văn Kiềm & Huỳnh Minh trong quyển “Tân Châu Xưa” khi lược kể về cách thờ phượng của ông đạo Tưởng ở Tân Châu, các tác giả viết:

“Vào lối năm 1928, một cái am tạm làm bằng tre lá được dựng lên tại phần đất ông Nguyễn Chánh Sắt, tọa lạc giữa Long Đức Tự và ấp chiến lược Long An “A” hiện giờ, mà tục thường gọi con đường này là “Đường Chùa”, thuộc xã Long Phú, cách quận lỵ Tân Châu độ một cây số ngàn. Ấylà cái am của Ba Quốc cất để tu tâm dưỡng tánh(…)

Khách tò mò đến am nhận thấy chốn tôn nghiêm của ông sắp đặt thật có ngăn nắp: từ cột cái trở vô, ông lên cái gác thờ “Quan Đế Thánh Quân” tức “Quan Vân Trường” hiển thánh đời Tam Quốc, “Thục, Ngô, Ngụy” bên Tàu, gọi “Bàn Tổ” hay “Bàn Thầy”. Bên tả thờ Thần, bên hữu thờ Thánh. Đối diện bàn thờ Quan Công là cái khánh thờ “Chư Vị Năm Ông”.

Trên gác có xây cái liêu kín để ông tịnh và có đưa ra cái thiên thai để tiếp nhận những người đạo hạnh tập tuyệt thực. Phía trong có dành căn phòng thờ “Sơn thần” để chữa bịnh. tại giữa sân lại dựng lên “Bàn Thông Thiên” theo cổ tục nước ta. Chung quanh chỗ thờ Trời có trồng bông mồng gà và bông vạn thọ, nên lộ lên một phong cảnh thật trang nghiêm.”(17).

Về cách cúng lạy “Bàn Thông Thiên” của ông đaọ Tưởng, tác giả ghi tiếp:

“Mỗi ngày hành lễ ba thời: khuya, ngọ, chiều. Mỗi khi hành lễ cũng có chuông mõ như các nhà chùa. Đây là cách ông lạy: trước hết ông lễ bàn Thầy, bàn Thánh, bàn Thần, bàn Chư Vị Năm Ông, mỗi bàn 12 lạy gồm 48 lạy. Khi xong, ông ra lễ bàn Thông Thiêng bằng lối lạy đủ bốn hướng: “Đông, Tây, Nam, Bắc” cũng 48 lạy phân ra mỗi hướng 12 lạy y như Bàn Thầy.” (18)

Qua ghi nhận này, chúng tôi thấy việc cúng lạy nơi Bàn Thờ Ông Thiên tùy mỗi nơi, mỗi nhà, mỗi người, lấy cái tâm thành kính tưởng Trời Phật làm trọng, không nhất thiết ai ai cũng theo cách lạy 48 lạy như ông Đạo Tưởng. Cúng lạy mỗi ngày ba thời, mỗi thời lạy 48 lạy mà rồi qua sách Tân Châu Xưa với “Pha bạo loạn tế cờ” nghe qua mà ớn thần hồn.

Tóm lại, qua vài trang sách cũ nhìn lại việc gọi tên một cổ tục trong việc thờ Trời Phật nơi “Bàn Thờ Ông Thiên” của cư dân vùng châu thổ Cửu Long cho thấy dân cư các vùng sông nước Nam Việt này rất tin TRỜI PHẬT và không ai bảo ai nhưng mỗi nhà, mỗi người đều thành tâm thờ kính và cầu khấn TRỜI PHẬT tạo thành một nét tín ngưỡng rất đơn giản mà thiêng liêng, rất gần gũi mà cao siêu vòi vọi. Dù với bất cứ danh gọi nào, dù “Bàn Thờ Ông Thiên”, “Bàn Ông Thiên”, “Bàn Thiên” hay “Bàn Thông Thiên” thì mục đích và ý tưởng của cư dân vùng đất Nam Việt này đã tạo cho mình một đời sống tâm linh rất phong phú, thanh cao, an lạc vậy !

Kinh xáng Bốn Tổng ngày 16-03- 2012

Phụ chú:

1/ “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” của Huình Tịnh Của, Sài Gòn, Imprimerie REY, CURIOL&Cie, 1895.

2/ “Từ Điển Hán Việt Từ Nguyên” của Bửu Kế, nhà xuất bản Thuận Hóa, năm 1999. ‘Tầm Nguyên Từ Điển” của Bửu Kế, nhà xuất bản Thanh Niên, 2005

3/ “Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển” của Trịnh Vân Thanh, bản in 1966.

4/ “Hành Trình Nhật Ký” vớ “Một Tháng Ở Nam Kỳ” của Phạm Quỳnh , đăng trong tạp chí Nam Phong , xuất bản năm 1917 tại Hà Nội; Xuất bản thành sách tại Paris năm 1997. In lần thứ hai tại San Jose, An Tiêm xuất bản, 2002

5/ “Tìm Hiểu Đất Hậu Giang & Lịch Sử Đất An Giang” của Sơn Nam, nhà xuất bản Trẻ, Việt Nam, năm 2003.

“Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam” của Sơn Nam do Xuân Thu (Hoa Kỳ) tái bản, không ghi năm.

6/ “Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính, nhà xuất bản Miền Nam, không ghi năm.

“Làng Xóm Việt Nam” của Toan Ánh, do Đại Nam (Hoa Kỳ) tái bản, không ghi năm.

7/ “ Thần, Người và Đất Việt” (Bản Mới) do nhà xuất bản Văn Học, California, Hoa Kỳ, năm 2000.

8/“Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười”, Du Ký và Biên Khảo, của Nguyễn Hiến Lê, loại sách “Học Làm Người”, Sài Gòn, 1954, trang 114.

9/ “Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười”, sđd, trang 114.

10/ “Văn Minh Miệt Vườn” của Sơn Nam, nhà xuất bản Hồng Lĩnh, 1992, trang 111.

11/ “ Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười”, sđd, trang 113.

12/ “Văn Minh Việt Nam” của Nguyễn Văn Huyên, nguyên văn tiếng Pháp, bản tiếng Việt do nhà xuất bản Hội Nhà Văn & Công ty Văn Hóa Phương Nam ấn hành, năm 2005, trang 336.

13/ “Văn Minh Việt Nam” của Nguyễn Văn Huyên, sđd, trang 347.

14/ “Bangsa Champa, Tìm Về Với Một Cội Nguồn Cách Xa” của Đỗ Hải Minh & Dorohiêm, Seacaef&Viet Foundation xuất bản, California (Hoa Kỳ, năm 2004, trang 26.

15/ “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ, nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, năm 1970, Quyển Thượng, trang 59.

16/ “Từ Điển Từ Ngữ Nam Bộ” của Huỳnh Công Tín, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Việt Nam, năm 2007, trang 116.

17/ “Tân Châu Xưa” của Nguyễn Văn Kiềm & Huỳnh Minh, nhà xuất bản Thanh Niên, Việt Nam, 2003, trang 165.

18/ “ Tân Châu Xưa”, sđd, trang 166.

http://thatsonchaudoc.com/…/TimHieuVaiNetVeBanThoOngThi…

=========

Vietnam 1962-67. Anton Cistaro Collection. VAS078799.

Tết đâu đó ở Đồng bằng Sông Cửu Long 1967. Photo by Bobbey Nelson.

Tên đúng là bàn Thông Thiên, nhưng thường được gọi tắc là bàn Thiên. THIÊN chứ không phải là THIÊNG.

Bàn thờ ông Thiên (ông Trời) thường thấy ở Gia Định hoặc ngoại ô Saigon, nơi có đất trống để thờ với trái cây ngũ quả. Mấy đứa nhỏ nghịch phá thường lấy cắp đĩa trái cây này.

Đây là cửa Lá Sách, rất chắc chắn, thông gió, phong thủy, ở bên trong nhìn thấy được bên ngoài, mà bên ngoài không biết. Gợi nhớ kỷ niệm, quê nhà năm xưa, cây đèn dầu, bình bông Thọ (Vạn thọ), bàn Thiên. Thật bình yên, ấm áp !

@người theo dõi


 

 Gần 4.000 trường hợp cấp cứu do tai nạn giao thông trong hai ngày Tế

 RFA

2024.02.11

Đường phố Hà Nội hôm 5/2/2024, dịp cận Tết Nguyên đán (minh hoạ)

 AFP

Các bệnh viện ở Việt Nam tiếp nhận 3.782 trường hợp tai nạn giao thông trong hai ngày 30 và mùng 1 Tết vừa qua, 1.500 người phải nhập viện điều trị.

Báo Nhà nước dẫn thông tin từ Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế, cho biết số người nhập viện do tai nạn giao thông dịp Tết năm nay cao hơn so với con số 3.318 ca trong năm ngoái.

Theo số liệu từ Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, trong hai ngày mùng 1 và mùng 2 Tết, số tai nạn giao thông trên cả nước là 161 vụ khiến 49 người chết và 196 người bị thương.

Dịp Tết cũng là dịp cảnh sát giao thông gia tăng tuần tra phát hiện người có nồng độ cồn trong hơi thở nhưng vẫn điều khiển phương tiện giao thông. Theo thống kê được truyền thông Nhà nước đăng tải, trong ngày mùng 2 Tết (tức 11/2), cảnh sát giao thông trên cả nước đã phát hiện, xử lý hơn 7.800 trường hợp vi phạm trật tự, an toàn giao thông, trong đó có gần 4.000 tài xế vi phạm nồng độ cồn.

Luật của Việt Nam quy định, người lái xe có nồng độ cồn trong hơi thở vượt 0 sẽ bị phạt và đây là điều gây nhiều tranh cãi và phản đối vì có người cho rằng nhiều khi trong đồ ăn cũng có một chút cồn nhưng không đủ để gây say rượu.

Cũng trong ngày 30 và mùng 1 Tết, các bệnh viện Việt Nam đã phải tiếp nhận 280 trường hợp khám, cấp cứu do pháo nổ, chất nổ, trong đó có 163 trường hợp phải nhập viện điều trị, không có trường hợp tử vong.

Từ năm 1994, Chính phủ Việt Nam đã cấm việc sản xuất, vận chuyển, mua bán và đốt pháo trong dịp Tết vì những lo ngại về an toàn tính mạng. Tuy nhiên, đây là tập tục lâu đời của người dân nên vẫn xảy ra tình trạng người dân đốt pháo và vẫn có trường hợp mua bán và vận chuyển pháo lậu.


 

Vì sao Phan Châu Trinh chưa thành công?- Nguyễn Quang A

Ba’o Tieng Dan

Luật Khoa

Nguyễn Quang A

8-2-2024

  1. Tư tưởng Phan Châu Trinh

Phong trào phát triển đất nước (và dân chủ hóa) do Phan Châu Trinh khởi xướng đầu thế kỷ XX (1905-1907) ở Việt Nam là hết sức toàn diện và đúng đắn. Không những thế, thật đáng ngạc nhiên rằng các tư tưởng chính của ông được thuyết hiện đại hóa mới do Christian Welzel (2013) đúc kết xác nhận về mặt lý thuyết và thực tiễn trên quy mô toàn cầu. Thuyết hiện đại hóa mới được xem như một trong những lý thuyết toàn diện nhất về dân chủ hóa cho đến nay.

Vậy vì sao phong trào của cụ Phan chưa thành công và công cuộc dân chủ hóa ở Việt Nam sau đó một trăm năm vẫn chưa có kết quả?

Bài này thử tìm hiểu một số nguyên nhân của sự chưa thành công đó dựa vào khung khổ của chính thuyết hiện đại hóa mới.

Tôi từng có hai tiểu luận, “Phan Châu Trinh và thuyết hiện đại hóa mới” (2017) và “Tiananmen Protests and Lessons for Democratization in Vietnam” (2019), tóm tắt tư tưởng chính của Phan Châu Trinh về sự phát triển đất nước và dân chủ hóa Việt Nam. Các điểm chính của tư tưởng Phan Châu Trinh có thể được tóm tắt như sau.

  1. Phát triển kinh tế

Phan Châu Trinh, với khẩu hiệu “hậu dân sinh” (mà chúng tôi ở Diễn đàn Xã hội Dân sự cập nhật thành “cải thiện dân sinh”) đã luôn luôn chú tâm để nhân dân Việt Nam phát triển kinh tế; tạo dựng doanh nghiệp; cổ vũ thương mại, du lịch và buôn bán ở trong nước và với nước ngoài. Không chỉ nêu tư tưởng, cụ Phan cũng tích cực vận động mọi người khởi nghiệp (mà điển hình là công ty Liên Thành 1906 tại Phan Thiết).

  1. Nâng cao dân trí

Phát triển giáo dục là một phần cốt lõi của chủ trương nâng cao dân trí (“Khai dân trí”) của cụ. Không chỉ khởi xướng chủ trương, cụ Phan còn tích cực vận động lập trường (Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907 tại Hà Nội và đã giảng dạy ở đó; trường Dục Thanh Học Hiệu năm 1907 ở Phan Thiết). Tuy vậy, nâng cao dân trí không chỉ qua giáo dục chính thức mà còn được thực hiện qua thực hành (và chủ trương thực học của cụ là hết sức quan trọng), qua đọc sách, đọc báo, viết sách, viết báo, việc lập ra các hội đoàn, doanh nghiệp, phát triển kinh tế (như nêu ở điểm 1 ở trên).

  1. Chấn hưng dân khí

“Chấn dân khí,” nuôi dưỡng, khơi dậy tinh thần giải phóng, tinh thần tự do của nhân dân là một chủ trương rất quan trọng của cụ Phan (mà Liên Thành Thư Xã được thành lập năm 1905 tại Phan Thiết để truyền bá sách báo có nội dung yêu nước là một ví dụ).

  1. Vận động

Tổ chức các phong trào xã hội để buộc nhà cầm quyền (Pháp) cải cách.

  1. Chủ trương bất bạo động

Tuyệt đối bất bạo động, chỉ dùng phương pháp ôn hòa để thúc đẩy tất cả các việc trên để đưa nước ta vào nền văn minh mới, đủ sức đương đầu với kẻ thù (cũng bằng phương pháp bất bạo động) để giành độc lập chính trị.

  1. Chủ trương tự chủ

Không bài ngoại, không ỷ ngoại mà phải tự chủ.

Có thể thấy các chủ trương, tư tưởng của Phan Châu Trinh đã hình thành một cách hoàn chỉnh trong khoảng năm 1905-1907, và đã được bản thân cụ triển khai trên thực tế và cổ vũ, vận động nhân dân làm theo. Đây là cách tiếp cận hiện đại đối với ngay cả các học giả nghiên cứu về dân chủ hóa nếu xét theo các lý thuyết và thực tiễn dân chủ hóa hiện nay. Cũng hết sức đáng lưu ý rằng cụ Phan đã muốn nhân dân Việt Nam (hay số rất đông trong số họ) thực hiện các chủ trương trên chứ không chỉ một số ít người trở nên giàu có, hiểu biết rộng và có chí khí lớn.

  1. Thuyết hiện đại hoá mới

Lý thuyết hiện đại hóa, do Seymour Martin Lipset (1959) đưa ra, cho rằng “dân chủ là kết quả trực tiếp của sự tăng trưởng kinh tế”, và rằng “một quốc gia càng giàu, thì cơ hội càng lớn là nó sẽ giữ vững nền dân chủ”. Thuyết hiện đại hóa đã có ảnh hưởng lớn đến dân chủ hóa trên thế giới (và vẫn được một số chính trị gia đi theo), tuy sau đó bị nhiều người chỉ trích và sửa đổi, bổ sung.

Tóm lại, hiện đại hóa, theo lý thuyết của Lipset, không dẫn đến dân chủ, nó tạo ra một số điều kiện cần nhưng không đủ cho dân chủ hóa (chẳng hạn các nước rất giàu ở Vùng Vịnh hay Trung Quốc minh chứng rằng sự phát triển kinh tế, sự phát triển khoa học công nghệ, hiện đại hóa không trực tiếp dẫn đến dân chủ). Dù sao đi nữa, lý thuyết hiện đại hóa của Lipset là một đóng góp lớn.

Christian Welzel (2013) tổng kết những nghiên cứu của bản thân ông và nghiên cứu của ông với Ronald Inglehart để phát triển lý thuyết hiện đại hóa mới, mà nội dung chính có thể được tóm tắt như dưới đây.

  1. Các nguồn lực hành động

Theo Welzel, có ba nguồn lực hành động quan trọng nhất là: nguồn lực vật chấtnguồn lực trí tuệ, và nguồn lực kết nối.

Nguồn lực vật chất là các thiết bị, công cụ, tiền bạc… cần cho hành động.

Nguồn lực trí tuệ là sự hiểu biết, kiến thức, thông tin, kỹ năng… cần cho hành động.

Nguồn lực kết nối là các hoạt động, cơ chế tạo ra khả năng liên kết, tiếp xúc, hợp tác, tổ chức để hoạt động. Ví dụ: đô thị hóa, làm việc trong các nhà máy công sở giúp những người lao động liên kết với nhau, phối hợp với nhau, tổ chức lại để hành động; mạng lưới giao thông tốt tạo thuận tiện cho sự đi lại, tập hợp, cũng làm tăng nguồn lực kết nối; sự phát triển của các mạng truyền thông cũng thế. Nguồn lực kết nối có cả khía cạnh thể chế của nó, chẳng hạn, quyền tự do lập hội tăng cường nguồn lực kết nối, ngược lại sự cấm đoán làm giảm các nguồn lực kết nối.

Hiện đại hóa, sự phát triển của công nghệ tạo ra các nguồn lực hành động cho các chủ tư bản, cũng có thể (nhưng không nhất thiết) tạo ra các nguồn lực đó cho quảng đại nhân dân. Nó chỉ tạo ra các nguồn lực hành động cho quảng đại quần chúng khi hiện đại hóa và sự phát triển công nghệ nhắm tới phục vụ con người, bổ sung cho các năng lực con người, hơn là tự động hóa  chỉ nhằm để thay thế lao động con người và giám sát con người (xem Daron Acemoglu and Simon Johnson [2023]).

Cần lưu ý rằng các nguồn lực hành động của nhân dân (số đông người) cũng là kết quả của những cuộc đấu tranh chứ không phải do hiện đại hóa tự động mang lại. Đấy là một sự khác biệt quan trọng của thuyết hiện đại hóa mới so với thuyết hiện đại hóa ban đầu. Cả ba nguồn lực hành động đều quan trọng nhưng các nguồn lực trí tuệ và kết nối quan trọng hơn nguồn lực vật chất.

Chính trên nền của các nguồn lực hành động này của số đông người dân, công cuộc chấn dân khí mới có thể thành công. Đó là nơi các giá trị giải phóng bước vào và đóng vai trò lớn trên tầng văn hóa, và đây là điểm khác biệt thứ hai.

  1. Các giá trị giải phóng

Các giá trị giải phóng là các giá trị thúc đẩy các quyền tự do của con người.

Các giá trị giải phóng nhấn mạnh bốn khía cạnh về sự tự trị cá nhân, lựa chọn, bình đẳng, và sự lên tiếng, và có thể đo được bằng các cuộc khảo sát.

World Values Surveys đã đo các giá trị này trong khoảng 100 nước chiếm hơn 90% dân số thế giới. Từ năm 1981 đến nay (2024), họ đã khảo sát bảy đợt. Trên cơ sở đó, Welzel đã phát triển Chỉ số các Giá trị Giải phóng (EVI-Emancipative Values Index). Việt Nam đã tham gia vào ba trong bảy đợt khảo sát này trong các năm 2001 (đợt 4), 2006 (đợt 5) và 2020 (đợt 7). Nguyễn Quang A (2017) đã chỉ ra rằng EVI có thể được dùng như một chỉ số về dân khí. Nói cách khác, dân khí có thể đo được cho tất cả các nước trên thế giới và tạo cơ sở để tiến hành những nghiên cứu so sánh.

  1. Các phong trào xã hội

Trên bình diện tâm lý, các giá trị giải phóng trao quyền cho con người. Chúng thúc đẩy người dân thực hiện các quyền tự do phổ quát, tham gia tích cực vào các hoạt động phong trào xã hội, đòi nhà nước phải đáp ứng các quyền và lợi ích chính đáng của họ bằng cách bảo đảm về mặt pháp lý để người dân thực hiện các quyền tự do.

  1. Dân chủ hóa

Không có các phong trào xã hội sẽ không có dân chủ hóa. Chính các phong trào xã hội truyền đạt khát vọng của người dân (các giá trị giải phóng của họ), nhưng bản thân các giá trị giải phóng là động cơ thúc đẩy mạnh nhất trong những động cơ thúc đẩy nhân dân tham gia vào các phong trào xã hội, đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ. Chính áp lực mạnh của nhân dân buộc các nhà chức trách phải ban hành luật pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện các quyền của mình.

Khi các quyền dân sự và chính trị được pháp luật bảo đảm, được thực thi trong thực tế thì chúng ta có nền dân chủ. Nhưng dân chủ chỉ được củng cố và phát triển nếu nhân dân liên tục đấu tranh để tiếp tục cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, tham gia vào các phong trào xã hội, liên tục gây áp lực để buộc những người cầm quyền phải duy trì, nâng cao những quyền đã đạt được, mở rộng các quyền khác của nhân dân. Nói cách khác, dân chủ hóa là một quá trình không bao giờ chấm dứt.

Chúng ta có thể tóm tắt tư tưởng của Phan Châu Trinh được thuyết hiện đại hóa mới đúc kết thành lý thuyết với hình sau đây:

Hình 1. Tóm tắt tư tưởng Phan Châu Trinh theo thuyết hiện đại hóa mới.

Chúng ta có thể thấy lý thuyết dân chủ hóa toàn diện nhất hiện nay – được công bố năm 2013 – minh họa rất rõ ràng các tư tưởng chính mà Phan Châu Trinh đưa ra hơn một trăm năm trước. Như thế, có thể xem Phan Châu Trinh là nhà cải cách sáng suốt nhất, nhà cách mạng triệt để nhất, người có tầm nhìn xa trông rộng nhất ở Việt Nam trong đầu thế kỷ thứ hai mươi, nếu không muốn nói là đạt tầm vóc của nhiều nhà cải cách có ảnh hưởng lớn trên thế giới thời kỳ đó.  Vậy vì sao cụ Phan chưa thành công và cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có dân chủ?

III. Vì sao Phân Châu Trinh chưa thành công?

Có nhiều nguyên nhân cho sự nghiệp chưa thành công của Phan Châu Trinh.

Cụ Phan Châu Trinh đã vượt quá xa tầm hiểu biết của các trí thức, những người yêu nước, và của nhân dân ta cũng như trình độ phát triển, hoàn cảnh chính trị và xã hội thời đó. Chính phải hiểu rõ những khó khăn đó chúng ta mới hiểu tầm vóc vĩ đại của Phan Châu Trinh. Cũng nên lưu ý rằng Phan Châu Trinh trẻ hơn Mahatma Gandhi ba tuổi và hai vị đưa ra phương pháp đấu tranh bất bạo động gần như đồng thời, Phan Châu Trinh năm  1905 và Mahatma Gandhi năm  1906. Tuy vậy, thế giới hình như biết đến Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Dalai Lama, Václav Havel, Thích Nhất Hạnh và Aung San Suu Kyi nhiều hơn Phan Châu Trinh khi nói đến phương pháp đấu tranh bất bạo động.

Hầu như phần lớn những người yêu nước và trí thức thời đó đã không hiểu cụ và chủ trương các đường lối gần như ngược với đường lối của cụ (từ Phan Bội Châu chủ trương dùng bạo lực và nhờ nước ngoài, đến Hồ Chí Minh sau đó).

Nhân dân cũng vậy. Cụ chủ trương tuyệt đối bất bạo động, nhưng nhân dân chính quê cụ không kiên trì thực hiện. Phong trào chống sưu cao thuế nặng tháng Ba năm 1908 ban đầu diễn ra một cách ôn hòa nhưng sau đó đã trở nên hết sức bạo lực, vượt ngoài tầm kiểm soát của những người tổ chức (không có Phan Châu Trinh trong số những người tổ chức). Và phong trào đã bị dập tắt trong sự đàn áp dã man của chính quyền thuộc địa Pháp. Dù không tham gia tổ chức, cụ Phan, cùng nhiều nhân sĩ khác, đã bị bắt và nhiều người bị kết án tử hình, rồi cụ bị đày ra Côn Đảo. May nhờ sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, cụ thoát án nặng và bị quản thúc tại Mỹ Tho rồi đi Pháp (1/4/1911); xem Chu Hảo (2023).

Chính quyền thuộc địa Pháp và triều đình đã đàn áp rất quyết liệt, bắt, bỏ tù, xử tử hình hoặc lưu đày các trí thức yêu nước, kể cả Phan Châu Trinh.

Ngoài những nguyên nhân trên, có lẽ cũng bổ ích để xem xét các nguyên nhân, mà tôi cho là cốt lõi hơn, của sự chưa thành công theo khung khổ của chính tư tưởng của Phan Châu Trinh được lý thuyết hóa trong thuyết hiện đại hóa mới. Đầu tiên, hãy xem xét các điều kiện cần là các nguồn lực hành động, rồi đến dân khí khi đó.

  1. Nguồn lực vật chất

Đáng tiếc, chưa có những nghiên cứu lịch sử về vấn đề này ở Việt Nam, chí ít từ thế kỷ XIX cho đến giữa thế kỷ XX (các nhà nghiên cứu trẻ có thể dựa vào các tài liệu lưu trữ của Pháp may ra có thể dựng lại lịch sử phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này). Vì thế chúng tôi phải chọn một biến đại diện (proxy variable) là GDP/đầu người tính theo sức mua (PPP) với giá trị đô-la một năm cố định nào đó (để tiện so sánh). Theo Madisson Project, dữ liệu về GDP/đầu người (PPP, theo đô-la 2011) của Việt Nam từ 1820 đến 2018 diễn biến như sau:

Hình 2. GDP/đầu người ở Việt Nam, theo sức mua (PPP) tính bằng đô-la 2011. Nguồn: Maddison Project

Hãy xem so sánh quốc tế với vài nước lân cận trên hình sau:

Hình 3: GDP/đầu người, so sánh quốc tế. Nguồn: Maddison Project.

Chúng ta thấy Nhật Bản vượt hẳn các nước khác trong khu vực trong thế kỷ XIX cho đến hết thế kỷ XX. Hàn Quốc và Đài Loan bắt kịp (và thậm chí vượt Nhật Bản) một cách ngoạn mục trong các thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Cũng nên lưu ý rằng, mức nghèo tuyệt đối (đủ để tồn tại theo sức mua PPP) là 694 đô-la năm 2011. Theo Hình 2 và Hình 3, trong suốt một thế kỷ rưỡi, nguồn lực vật chất của người Việt Nam chỉ hơn mức sinh tồn một chút: mức năm 1975 là $1.132, cho đến đầu thời kỳ Đổi mới năm 1986 đều dưới mức $1.500 (là mức của năm 1987); cho đến năm 1993, mức này vẫn dưới 2.000 đô-la và vào năm 1994 chỉ đạt 2.018 đô-la. Có thể nói cho đến năm 1994, nguồn lực vật chất của người Việt Nam là rất eo hẹp, lo cái ăn là chính chứ lấy đâu thời gian để nghĩ đến chuyện gì khác.

Hình 3 cho thấy nguồn lực vật chất của người Việt Nam thấp thế nào so với các nước trong khu vực. Vào năm 1986, khi Philippines chuyển sang dân chủ, mức của họ là $3.161/đầu người, gấp hơn 2,1 lần của Việt Nam; Hàn Quốc khi chuyển đổi năm 1987 đạt $9.756/đầu người, còn hơn mức năm 2018 của Việt Nam.

Với trường hợp Đài Loan, khi Tưởng Giới Thạch mất năm 1975, GDP đầu người của họ đạt $5.614. Sau đó, Quốc Dân Đảng độc tài, một đảng Leninist đúng nghĩa, bắt đầu nới lỏng dần chính sách cai trị với việc đưa Lý Đăng Huy – người sinh ra ở Đài Loan – lên làm lãnh đạo cấp cao của đảng. Năm 1986, khi phong trào đối lập “Đảng ngoại” – khi đó vẫn bất hợp pháp – lập ra Dân Tiến Đảng và được chính quyền để yên cho hoạt động, GDP/đầu người của Đài Loan đạt $11.918. Và 14 năm sau, khi ứng cử viên Trần Thủy Biển của Dân Tiến Đảng được bầu làm tổng thống, chấm dứt sự độc quyền của Quốc Dân Đảng, GDP đầu người của Đài Loan đã là $26.787.

Cũng thật đáng lưu ý từ Hình 3 rằng xuất phát điểm của tất cả các nước này vào năm 1820 là gần như nhau: Nhật – $1.321, Đài Loan – $966; Malaysia – $960; Philippines – $931; Thái Lan – $909 và Việt Nam $840.  Đến đầu thế kỷ XX vẫn đại thể như vậy (trừ Nhật Bản)  với GDP/đầu người năm 1913 là $1.159 ở Việt Nam, $1.171 ở Hàn Quốc, $1.286 ở Đài Loan; $1.289 ở Malaysia; $1.341 ở Thái Lan; $1.575 ở Philippines, và $2.431 ở Nhật Bản. Nhưng, từ những năm 1950-1960 trở đi, sự phân kỳ là hết sức rõ rệt do những lựa chọn khác nhau của mỗi nước.

  1. Nguồn lực trí tuệ

Cũng tương tự như nguồn lực vật chất, chúng ta không có dữ liệu lịch sử chi tiết về nguồn lực trí tuệ, mà có thể dựa vào tỷ lệ biết chữ, số người đi học các cấp, thời gian học, số các trường học các loại, chương trình học, số sách báo, số sách báo người dân đọc, số sáng chế, v.v.

Trong hệ thống giáo dục truyền thống (trước khi Pháp xâm chiếm các vùng lãnh thổ Việt Nam), ngoài các trường công như Quốc Tử Giám (chủ yếu để dạy con cháu nhà vua), có nhiều thầy đồ ở các làng chủ yếu dạy chữ Nho, Khổng giáo. Hệ thống nhà chùa cũng là nơi việc học phật pháp diễn ra.

Tôi cố gắng tìm hiểu xem ngoài chữ Nho, Khổng giáo, Phật giáo và thơ văn ra các trường công, tư và cộng đồng này còn dạy gì khác không, chẳng hạn như toán, thiên văn học, các môn khoa học và kỹ thuật theo cách nhìn hiện nay. Rất ít tư liệu nói về các nội dung đào tạo này.

Theo Dân Việt, ba kỳ tài toán học Việt Nam là Vũ Hữu (1437-1530) có để lại tác phẩm Lập Thành Toán Pháp (立成算法) – cuốn sách toán học cổ nhất Việt Nam; Lương Thế Vinh (1441-1496) là trạng nguyên giỏi toán nhất; và Nguyễn Hữu Thận (1757-1831) nghiên cứu việc làm lịch và dịch các tác phẩm toán Trung Quốc, ông để lại tập sách “Ý Trai toán pháp”. Cả ba vị kỳ tài toán học này đều làm quan to trong các triều đình thời các cụ. Giá mà các cụ không làm quan mà chỉ chăm chú nghiên cứu toán, dạy toán, viết sách toán thì chắc nền toán học Việt Nam đã có thể khác đi, nhưng đáng tiếc mục tiêu học chỉ để làm quan (hay được vua phát hiện ra tài năng và bị bắt làm quan).

Gail Paradise Kelly (2000) cho rằng trong hệ thống giáo dục truyền thống của Việt Nam, các thầy đồ không chỉ đóng vai trò công cụ của chính quyền – dạy chữ Nho và Khổng giáo cho học sinh và chuẩn bị cho những người trẻ xuất sắc nhất để tiến những bước tiếp trên đường làm quan. Họ còn tạo thành các mạng lưới riêng của mình qua các mối quan hệ học hành để tập hợp phản kháng chính quyền khi cần thiết. Nói cách khác, thầy đồ đã là xương sống của một mạng lưới chính trị.

Hiểu vai trò này của hệ thống giáo dục truyền thống Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp bắt đầu tổ chức hệ thống giáo dục của mình. Việc các trí thức Việt Nam xây dựng hệ thống giáo dục riêng, mà điển hình là phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, bị coi là nguy hiểm.  Vì thế, Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp giải tán sau chỉ tám tháng tồn tại. Mặc dù vậy, đó vẫn là một áp lực quan trọng buộc chính quyền thực dân phải cải tổ giáo dục, nhất là bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ tại trường, cải cách chế độ thi cử.

Gail Paradise Kelly (2000) cho chúng ta một phân tích khá toàn diện và khá nhiều dữ liệu về hệ thống giáo dục Việt Nam thời kỳ 1906-1939.

Hệ thống giáo dục quốc gia thống nhất chỉ bắt đầu hình thành sau năm 1917 với các nghị định cải cách của Toàn quyền Albert Sarraut. Hệ thống tiểu học 5 năm và sau đó là 5 năm trung học cơ sở và bậc đại học với một trường duy nhất ở Hà Nội (được thành lập từ 1906).

Chỉ xin trích vài dữ liệu năm 1926, năm cụ Phan mất, từ trang 84-85 của Gail Paradise Kelly (2000), Việt Nam có tổng cộng 3.053 trường tiểu học (3 năm) với 153.737 học sinh; 244 trường tiểu học đầy đủ (5 năm) với 65.329 học sinh; 17 trường trung học cơ sở (dạy 10 năm) với 3.656 học sinh, 2 trường cấp hai (secondary school, lycée) với 56 học sinh (năm 1923 lại có 83 học sinh).

Tuy nhiên, đây là vài số liệu rời rạc được trích ở trên và tóm tắt của World Bank 2010 Report (trang 2): “Vào thời kỳ thịnh vượng nhất của Đông Dương bị Pháp xâm chiếm, Việt Nam chỉ có 2.322 trường tiểu học (ba năm) và số học sinh chiếm 2% tổng dân số; 638 trường tiểu học cho 2 năm cuối của giáo dục tiểu học với số học sinh chiếm 0,4% tổng dân số; 16 trường trung học cơ sở (primary colleges cho 4 năm sau bậc tiểu học) chiếm 0,05% tổng dân số và 6 trường trung học phổ thông trong đó có 3 trường nhà nước với số học sinh học trường công chỉ chiếm 0,019% dân số. Toàn bộ Đông Dương thuộc Pháp chỉ có ba đại học (Luật, Y Dược, Khoa học) tại Hà Nội với 834 sinh viên, trong số đó có 628 sinh viên Việt Nam… Với một hệ thống giáo dục như vậy 95% dân Việt Nam đã mù chữ.”

Hãy so sánh với Nhật Bản đầu thế kỷ XX. Theo ước lượng của Giáo sư Tsujimoto Masashi (2000), tỷ lệ biết chữ của các thành phố lớn của Nhật vào đầu thế kỷ XIX là trên 70%, mức ở vùng nông thôn là khoảng 10 hay 20% hay thấp hơn. Tuy vậy, vào năm 1909 tỷ lệ dự học bắt buộc (6 năm lúc đó) là trên 98%.  Sự khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam thật sự khủng khiếp.

Nói cách khác, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và chính trị ở Việt Nam đầu thế kỷ XX hoàn toàn không thuận lợi ngay cả cho việc khai dân trí của Phan Châu Trinh, và chính biết rõ điều đó nên cụ đã chủ trương khai dân trí.

  1. Nguồn lực kết nối

Nguồn lực kết nối có thể được phản ánh khá tốt bằng tỷ lệ dân cư đô thị, số người làm trong các nhà máy, công sở (nơi có đông người tụ tập và sự kết nối dễ dàng hơn những người sống ở nông thôn, nhất là vùng sâu vùng xa), mạng lưới giao thông, số người dùng Internet (và cả các chính sách kiểm duyệt Internet), v.v. Hãy xét tỷ lệ dân cư đô thị.

Hình 4. Dân số đô thị 1960-2020, so sánh quốc tế. Nguồn: Tác giả soạn theo dữ liệu của Macrotrends (trích dữ liệu của Ngân hàng Thế giới).

Có thể thấy nguồn lực kết nối của Việt Nam trong giai đoạn từ 1960 cho đến nay luôn luôn thấp hơn các nước trong khu vực. Lưu ý rằng vào năm 1986, khi chuyển đổi sang dân chủ, tỷ lệ dân cư đô thị của Philippines đạt 43,2%, còn tương tự tại Hàn Quốc trong năm 1987 là 68,56%, trong khi đó tỷ lệ hiện nay của Việt Nam cũng chỉ là 38,77%. Đó là chưa kể đến việc tự do tư tưởng và sự kết nối khác và tổ chức kết nối (như các tổ chức xã hội dân sự, các hội thảo, hội họp) mà ở nước ta là thấp hơn các nước được nhắc đến, và hiện nay có thể còn kém thời cụ Phan Châu Trinh.

  1. Dân khí

Đáng tiếc chúng ta không có những số đo lịch sử về dân khí (mà có quan hệ mật thiết với chỉ số các giá trị giải phóng (EVI), xem Nguyễn Quang A (2017), vì các giá trị này mới chỉ được đo từ năm 1981 đến nay trong bảy đợt.

Hãy xem xét EVI của vài nước trong khu vực để chúng ta có thể có chút cơ sở nào đó để mường tượng. Do các giá trị thường được thiết lập trong các năm hình thành (formative years, 0-8 tuổi; và môi trường kinh tế xã hội và nhất là môi trường gia đình, giáo dục ở tuổi trước khi đến trường và trong thời vị thành niên là hết sức quan trọng) và các giá trị của toàn xã hội (tức mức trung bình phổ biến của giá trị nào đó) thay đổi chủ yếu qua sự thay thế các nhóm tuổi, cho nên các giá trị, kể cả dân khí (EVI), thường thay đổi rất chậm.

Hình 5. EVI của một số nước trong khu vực được đo trong bảy đợt khảo sát của World Values Survey. Nguồn: Tác giả soạn dựa vào dữ liệu của World Values Survey.

Có thể thấy xu hướng tăng dài hạn của EVI trong tất cả các nước (chủ yếu do những thay đổi giá trị của các nhóm lứa tuổi [age cohort] trẻ bước vào tuổi trưởng thành và của các nhóm lứa tuổi già chết đi, hay nói cách khác sự thay đổi giá trị giữa các nhóm lứa tuổi). Nhưng, EVI cũng tăng hay giảm trong ngắn hạn do những thay đổi giá trị bên trong nhóm lứa tuổi phản ánh những biến động về những thay đổi về các nguồn lực hoạt động. Do EVI được chuẩn hóa (0 ≤EVI ≤ 1) nên sự thay đổi không nhiều trong thời gian ngắn, và sự chênh lệch 0,05 là rất lớn và thường xảy ra do sự thay thế nhóm lứa tuổi.

Với số điểm dữ liệu ít ỏi (Việt Nam 3 điểm, và Hàn Quốc 7 điểm trong 40 năm qua), khó có thể có những ước lượng lùi về quá khứ, thí dụ lùi lại khoảng một thế hệ quay lại các năm 1960. Nhưng dùng nhiều điểm dữ liệu hơn của các vùng văn hóa (với số điểm dữ liệu của mỗi vùng lên đến hàng trăm), Christian Welzel (2021) và các cộng sự của ông có thể làm việc này và cho chúng ta các ước lượng đáng tin cậy về EVI cho giai đoạn 1960-1980 cùng với EVI thực đo cho giai đoạn 1981-2020, cho chúng ta thấy rõ xu hướng tăng toàn cầu của các giá trị giải phóng trên Hình 6.

Hình 6. Sự thay đổi của EVI của các vùng văn hóa (1960-2000). Nguồn: Hình OA-9 của Christian Welzel (2021).

Việt Nam, dù có thuộc về vùng văn hóa Sinic East (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) hay không, chắc nó nằm giữa vùng Indic East và Sinic East, có thể suy đoán rằng EVI là thấp cỡ 0,3 trong suốt giai đoạn đầu thế kỷ XX của cụ Phan và lên 0,34 năm 2001, 0,36 năm 2006, và 0,41 năm 2020.

  1. Các phong trào xã hội

Động cơ mạnh nhất, lâu bền nhất để tham gia các hoạt động phong trào xã hội là các giá trị giải phóng, hay dân khí. Ngoài ra, có các động cơ khác như lợi ích, sự bất bình, hận thù và chúng không mạnh như dân khí. Nếu hoạt động phong trào xã hội có động cơ chính là các giá trị giải phóng thì hoạt động đó chủ yếu là bất bạo động và kinh nghiệm thực tế chứng minh nó là phương pháp đấu tranh hiệu quả nhất.

Khi các nguồn lực hành động thấp, dân khí thấp thì quần chúng có thể dễ bị (các nhà hoạt động dân túy và/hay chủ trương bạo lực hoặc những kẻ khiêu khích do chính quyền cài vào) kích động tham gia vào các phong trào xã hội, với các động cơ khác với các giá trị giải phóng. Điều này dễ khiến các phong trào xã hội trở nên bạo động và/hay vượt khỏi tầm kiểm soát của những người chủ trương bất bạo động, và như thế tạo cớ cho nhà cầm quyền đàn áp thẳng tay.

Chiến lược chính của các nhà cầm quyền độc tài để bẻ gãy liên kết giữa các giá trị giải phóng và các hoạt động phong trào xã hội là tuyên truyền và đàn áp, xem Welzel (2013, tr.219). Dân khí càng cao thì tác dụng của sự tuyên truyền và đàn áp càng ít có hiệu quả, trong khi nếu dân trí thấp, kinh tế không phát triển và dân khí thấp thì hiệu quả của tuyên truyền và đàn áp rất cao.

Tóm lại, cho đến khi cụ Phan Châu Trinh mất năm 1926, các nguồn lực hành động của nhân dân tất cả các nước trong khu vực, kể cả dân khí đã rất thấp và chẳng nước nào đã dân chủ hóa thành công trong vòng 60 năm sau đó cả, nói chi đến Việt Nam.

Về phương pháp, ngược với chủ trương bất bạo động của Phan Châu Trinh các nhà cầm quyền ở Việt Nam trong suốt thế kỷ hai mươi đã sử dụng phương pháp bạo động.

Ngược với chủ trương chống bài ngoại và chống ỷ lại vào nước ngoài của Phan Châu Trinh, đáng tiếc tư tưởng bài ngoại và đôi khi ỷ ngoại đã phổ biến theo những thái cực khác nhau và các tàn dư của nó vẫn còn đến ngày nay.

  1. Vài suy ngẫm

Như thế, có thể dễ hiểu là cụ Phan Châu Trinh đã chưa thành công (nhưng dứt khoát không thất bại vì sự nghiệp đó đang và sẽ còn tiếp tục). Và suốt từ đó đến nay, nhất là từ thập niên 1990 khi Đổi mới thực sự bắt đầu, Việt Nam đã ngày càng đi theo các tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh dù nhiều người không muốn thú nhận như thế.

Về nguồn lực vật chất, như Hình 3 cho thấy Việt Nam luôn luôn ở mức thấp nhất cho đến tận ngày nay, so với các nước trong khu vực. Dù ở miền Nam nền kinh tế thị trường được khuyến khích cho đến tận năm 1975 nhưng sau đó chính quyền đã tìm mọi cách hủy diệt nền kinh tế thị trường. Mãi đến năm 1986, do không “đổi mới” thì chết nên chính quyền đã buộc phải trả lại cho dân một phần các quyền kinh doanh của mình. Cuộc Đổi mới thực sự chỉ bắt đầu từ thập niên 1990: cởi trói kinh doanh, xóa bỏ ngăn sông cấm chợ, chú trọng thương mại, coi trọng doanh nhân, hợp tác kinh tế với nước ngoài, v.v. Xét cho cùng là chúng ta làm theo các tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh đề ra gần 100 năm trước và đã mang lại sự phát triển kinh tế ngoạn mục cho Việt Nam trong hơn 30 năm qua. Tuy nhiên, xét về tất cả các nguồn lực vật chất, chúng ta vẫn còn yếu khi so sánh với các nước trong khu vực như được phân tích sơ bộ ở trên.

Về nguồn lực trí tuệ, kể từ phong trào xóa mù chữ năm 1945, tỷ lệ biết chữ được cải thiện đáng kể. Ngày nay, tỷ lệ biết chữ của Việt Nam đạt mức 98,85%. Tuy nhiên, nếu tính đến chất lượng giáo dục (đo bằng số năm học ở trường chẳng hạn và tính đến kết quả như số sách được viết, số bằng sáng chế) cũng như đóng góp thực cho trí tuệ nhân loại, cho phát triển kinh tế thì dân trí của chúng ta ngày nay vẫn rất thấp. Chẳng hạn, theo Wikipedia, tính trung bình thì một người ở Việt Nam đọc 0,8 cuốn sách/năm (không tính sách giáo khoa). So với Malaysia thì trung bình một người đọc 10-20 cuốn/năm (2012) và Thái Lan là 5 cuốn/năm.

Hiện nay và mãi mãi trong tương lai chúng ta vẫn phải tiếp tục thực hiện chủ trương khai dân trí của cụ Phan.

Về nguồn lực kết nối, như Hình 4 cho thấy, tỷ lệ đô thị hóa của chúng ta vẫn thấp nhất cho đến tận ngày nay so với các nước được so sánh. Đó là chưa nói đến các thành tố khác của nguồn lực kết nối như sự lập hội, các tổ chức công đoàn độc lập, các tổ chức xã hội dân sự không được khuyến khích, các cuộc hội họp cũng bị kiểm soát nên có lẽ lĩnh vực này hiện nay còn kém thời của Phan Châu Trinh.

Về phương pháp bất bạo động của cụ Phan Châu Trinh, có lẽ do người Việt Nam luôn sống trong văn hóa chống ngoại xâm từ hàng ngàn năm nay nên quá quen với từ ngữ mang tính chiến đấu (chiến sĩ, tấn công, mặt trận, chiến dịch, xung kích, ra quân, tiêu diệt, truy quét, báo thù…) cho đến tận ngày nay. Thậm chí, nhiều nhà lãnh đạo còn “sáng tạo” ra các từ ngữ mới sặc mùi chiến tranh như “tư lệnh ngành”. Các từ ngữ này được báo chí tuyên truyền rộng rãi nên việc chấp nhận phương pháp bất bạo động có thể không dễ. Việc giáo dục cho dân ta về tinh thần và phương pháp bất bạo động vẫn là một nhiệm vụ cam go và phải tích cực làm liên tục.

Chúng ta nên tỉnh táo chú ý đến các dấu ấn văn hóa và lịch sử không hay đó và từ từ thay đổi chúng một cách có chủ ý chứ không phải ngược lại dù vô tình hay cố ý.

Chúng ta còn chưa xét đến các yếu tố ảnh hưởng của quốc tế và địa chính trị mà có thể thuận lợi hay bất lợi cho sự phát triển và dân chủ hóa của Việt Nam. Và liên quan đến vấn đề này là câu hỏi được một số người đưa ra: dựa vào ai? Tất nhiên chúng ta nên tận dụng sự giúp đỡ và sự ủng hộ của tất cả các nước khác, tận dụng tất cả các cơ hội mà thế giới và khu vực tạo ra cho chúng ta, nhưng chúng ta phải dựa vào chính chúng ta. Đấy cũng là một tư tưởng chủ đạo của cụ Phan: “vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử”.

Nói cách khác, nội lực vẫn là chính, chúng ta phải dựa vào chính mình. Nếu các nguồn lực hành động thấp, dân khí không cao thì dù ai đó (một nhà độc tài nhân từ hay một lực lượng quốc tế) có đưa cho chúng ta nền dân chủ thì nền dân chủ đó cũng chỉ là phù du, sớm nở tối tàn. Dân chủ chỉ có thể hình thành qua cuộc đấu tranh liên tục, không biết mệt mỏi của chính người Việt Nam chúng ta để phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí và tích cực tham gia vào các phong trào xã hội, tức là liên tục làm theo các tư tưởng của Phan Châu Trinh.

Tóm lại, Phan Châu Trinh chưa thành công bởi vì người Việt chưa hiểu các ý tưởng của cụ. Thậm chí, các nhà cầm quyền ở Việt Nam đã làm ngược lại tư tưởng của cụ, dùng phương pháp bạo động, vọng ngoại, không chú ý đến việc xây dựng các nguồn lực hành động của nhân dân, thậm chí có những lúc đã hủy hoại chúng (cải tạo công thương, tiêu diệt khu vực kinh tế tư nhân, ngăn sông cấm chợ gây khó khăn cho phát triển kinh tế, cho các nguồn lực vật chất; ngăn cản sự phát triển lành mạnh của xã hội dân sự gây hại cho nguồn lực kết nối; đàn áp các phong trào xã hội). Muốn phát triển đất nước, chúng ta cần tiếp tục bổ sung, phát triển thêm, làm phong phú các tư tưởng của Phan Châu Trinh và thực hiện chúng ngay trong hiện nay và tương lai. Chúng ta đang tiếp tục con đường của Phan Châu Trinh. Lịch sử không lặp lại và không có chữ nếu, nhưng lịch sử có cho chúng ta những bài học quý giá nếu chúng ta muốn học và phát triển.

  1. Lời cảm ơn

Tác giả cảm ơn nhà thơ Hoàng Hưng, cựu đại sứ Nguyễn Trung và một số bạn trẻ đã góp ý cho vài bản thảo của bài viết này.

_____

Chú thích:

– Daron Acemoglu and Simon Johnson (2023), POWER and PROGRESS, our Thousand-Year Struggle over Technology and Prosperity (TIẾN BỘ và QUYỀN LỰC, cuộc Chiến đấu Ngàn Năm của chúng ta về Công nghệ và sự Thịnh Vượng), PublicAfaire, New York

– Chu Hảo (2023), Phan Châu Trinh trước khi sang Pháp, Viện Phan Châu Trinh.

– Gail Paradise Kelly (2000), Frech Colonial Education: Essays on Vietnam and West Africa, AMS Press, Inc. 2000

– Seymour Martin Lipset (1959), Some Social Requisites of Democracy: Economic Development and Political Legitimacy, The American Political Science Review, Volume 53, Issue 1 (1959): 69-105.

– Nguyen Quang A (2019), Tiananmen Protests and Lessons for Democratization in Vietnam, Contemporary Chinese Political Economy and Strategic Relations: An International Journal, Vol.5. No.2, June/Aug. 2019, pp.745-763.

– Nguyễn Quang A (2017), Phan Châu Trinh và Thuyết Hiện đại hóa Mới, Tạp chí Dân trí

– Tsujimoto Masashi (2000), Maturing of a Lierate Society, Journal of Japanese Trade & Industies, March-April 2000, pp. 44-48. Truy cập online

– Christian Welzel (2013), Freedom Rising, Oxford University Press 2013 (Bản tiếng Việt 2017)

– Christian Welzel (2021), Why The Future is Democratic, Journal of Democracy, Volume 32, No. 2, April, 2021, pp. 132-144

– World Bank (2010), 2010 World Report: “Education in Vietnam”


 

 Luật sư môi trường tuyệt thực trong tù trong khi Hà Nội bị ô nhiễm không khí trầm trọng

Ba’o Tieng Dan

Thục Quyên

5-2-2024

Ô nhiễm không khí ở Hà Nội tệ đến mức hơn 100 chuyến bay phải chuyển hướng hoặc hoãn cất cánh, hạ cánh vì khói bụi dày đặc, bao trùm thủ đô Việt Nam (1), gây mất an toàn do tầm nhìn kém. Một số chuyến bay phải chuyển hướng đến các sân bay khác như Cát Bi ở Hải Phòng.

Vào lúc 4h30 sáng thứ sáu 2-2-2024, sân bay Nội Bài, Hà Nội tạm dừng đón khách. Các sân bay Thọ Xuân ở Thanh Hóa, Vinh ở Nghệ An và Phú Bài ở Huế cũng bị gián đoạn hoạt động, do khói bụi ô nhiễm. Bụi mịn (PM 2.5) ở Hà Nội cao hơn 11 lần so với mức an toàn.

Theo IQAir, trang web giám sát chất lượng không khí, bụi mịn (PM 2.5) ở Hà Nội cao hơn 11 lần so với mức an toàn do WHO xác định. Người dân được khuyến cáo đeo khẩu trang khi ra ngoài trời, cũng như tránh các hoạt động ngoài trời như tập thể dục, đóng cửa sổ khi ở trong nhà và chạy máy lọc không khí.

Nguyên nhân gây ô nhiễm trầm trọng ở Hà nội

Ô nhiễm đến từ một số vật liệu xây dựng độc hại, giao thông đông đúc, công nghiệp thép và xi măng, và các nhà máy nhiệt điện đốt than.

Báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới cho biết, gần 35% lượng bụi mịn PM 2.5 đến từ các nhà máy điện và các ngành công nghiệp lớn quanh thành phố. Khoảng 25% đến từ giao thông; có gần 8 triệu chiếc xe được đăng ký ở Hà Nội.

Khí thải amoniac từ chăn nuôi và sử dụng phân bón tạo ra 20% lượng bụi mịn PM 2,5, trong khi 10% đến  từ các sinh hoạt như nấu ăn bằng than củi và khoảng 7% từ việc đốt chất thải nông nghiệp. Việc đốt rác trong và chung quanh thành phố càng làm tình trạng trở nên tồi tệ hơn.

Mức ô nhiễm cũng tăng trong mùa đông, khi mưa ít và nhiệt độ thấp giữ tầng khí ô nhiễm ở gần mặt đất. Ngoài ra, những cơn gió cuối năm 2023 và đầu năm 2024 được cho là đã mang các chất ô nhiễm từ các siêu đô thị phía nam Trung Quốc xuống Hà Nội.

Theo ước tính của WHO năm 2016, ô nhiễm không khí thường xuyên ở Việt Nam có liên quan đến hơn 60.000 trường hợp người trẻ tử vong mỗi năm.

Lập chương trình đối phó ô nhiễm

Để đối phó tình trạng ô nhiễm ngày càng tồi tệ hơn ở Hà Nội, chính phủ Việt Nam đề ra kế hoạch giảm khí carbon, bằng cách không phát triển các nhà máy điện than mới, đồng thời giảm lượng than từ 50% xuống còn 20% công suất, từ năm 2030.

Hà Nội đang nhận được sự hỗ trợ từ Ngân hàng Thế giới để thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm ô nhiễm không khí. Tổ chức tài chính quốc tế này đã khuyến nghị các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính, chẳng hạn như chuyển hướng sử dụng năng lượng than, giảm tắc nghẽn giao thông, giảm khí thải giao thông và cải thiện các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi.

Chính phủ Việt Nam cũng đang cố gắng lập chương trình xin tài trợ 15,5 tỷ đô la (14,25 tỷ euro) từ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) liên chính phủ – do Vương quốc Anh và EU đồng chủ trì, để hướng tới quá trình chuyển đổi xanh: Phát triển năng lượng thủy điện, giảm thải khí nhà kính (bớt sử dụng năng lượng than), giảm tắc nghẽn giao thông, giảm khí thải giao thông và cải thiện các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi.

Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội gần đây cũng thông báo rằng, họ đang nghiên cứu các chính sách đào tạo nông dân trồng lúa về cách giảm thiểu và tái sử dụng chất thải thay vì đốt chúng.

Nhưng bỏ tù nhà các hoạt động môi trường

Tuy nhiên, chương trình đối phó ô nhiễm môi trường của nhà cầm quyền Việt Nam không thuyết phục. Trong vài năm qua, một số nhà hoạt động và các chuyên gia môi trường bị nhà nước Việt Nam bắt giữ. Hàng loạt tổ chức phi chính phủ bảo vệ môi trường đã phải đóng cửa, ngưng hoạt động.

Một trong những nhà hoạt động môi trường tiêu biểu là luật sư Đặng Đình Bách, 46 tuổi. Ông Bách đã bị bắt vào ngày 2-7-2021, sau đó bị kết án 5 năm tù về tội “trốn thuế”. Gia đình ông Bách cho biết, sáng 2-2-2024, tại trại giam số 6, tỉnh Nghệ An, ông bắt đầu tuyệt thực, đòi chính quyền Việt Nam phải thực thi nghiêm túc hiến pháp và pháp luật, nhằm bảo vệ quyền con người.

Theo tin từ bà Kate Holcome, thuộc Liên minh Luật Môi trường Toàn cầu (ELAW Environmental Law Alliance Worldwide) cho biết, bà Trần phương Thảo, vợ của LS Đặng Đình Bách, đã gửi thư đến các toà Đại sứ tại Việt Nam, các tổ chức bảo vệ môi trường, các bạn và đồng nghiệp của chồng bà trên toàn cầu, loan tin ông Bách bắt đầu tuyệt thực ngày 2-2-2024 để phản đối trại giam không thực thi pháp luật, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tù nhân. Bà Thảo kêu gọi sự giúp sức của mọi người trong cuộc tranh đấu đòi công lý và tự do cho chồng bà và cũng chuyển lời LS Bách đến chính quyền Việt Nam:

“Trên tinh thần xây dựng một nhà nước pháp quyền, Việt Nam cần bảo đảm thực thi nghiêm túc hiến pháp và pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người, điều mà bấy lâu nay không được bảo vệ đầy đủ nên tạo ra những bức xúc và bất công trong toàn xã hội. Thực thi pháp luật là yếu tố tiên quyết thể hiện thiện chí của nhà nước Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”.

Chương trình xin tài trợ 15,5 tỷ đô la từ JETP của chính phủ Việt Nam hiện đang gặp chống đối dữ dội từ Liên minh bảo vệ Khí hậu Việt Nam (VCDC – Vietnam Climate Defenders Coalition), gồm hàng trăm các tổ chức bảo vệ môi trường toàn cầu (2) vì trong hai năm qua nhiều chuyên gia hoạt động môi trường ở Việt Nam bị bắt giữ. Tổ chức này cho tuyên bố:

“Trong khi các quan chức công khai cam kết làm chậm lại vấn đề biến đổi khí hậu, thì chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục bắt và giam giữ những nhà hoạt động môi trường hàng đầu như LS môi trường Đặng Đình Bách“.

“Chính phủ Việt Nam hoan nghênh tài trợ từ các nỗ lực quốc tế như Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) trị giá 15,5 tỷ đô la, đồng thời bịt miệng các nhà hoạt động. Chính phủ Việt Nam đang cố che giấu điều gì với cộng đồng quốc tế và các nhà đầu tư?“

VCDC nêu lên sự vi phạm của chính phủ Việt Nam về khía cạnh “công bằng” của JETP khi xã hội dân sự ở Việt Nam bị hạn chế nghiêm trọng về khả năng tham gia vào quá trình này. VCDC cũng lên tiếng đòi hỏi sự giám sát của Nhóm Đối tác Quốc tế (G7 và Hoa Kỳ) và các nhà tài chính của JETP.

Để có một quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam, các nhà chức trách cần:

– Tìm cách trả tự do ngay lập tức cho ông Đặng Đình Bạch, bà Hoàng Thị Minh Hồng và các nhà lãnh đạo xã hội dân sự khác đang bị cầm tù bất công ở Việt Nam.

– Tiến hành thẩm định nghiêm ngặt các mối đe dọa đối với những người bảo vệ môi trường và nhân quyền cũng như các hạn chế đối với hoạt động môi trường và sự tham gia của người dân ở Việt Nam, phù hợp với các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và xã hội của các bên liên quan của JETP, vì chúng liên quan đến việc tài trợ và thực hiện dự án do JETP tài trợ.

– Bảo đảm tuân thủ nghiêm ngặt chính sách “tham gia cộng đồng mà không sợ bị trả thù“ được cam kết bởi các bên liên quan JETP, bao gồm IFC, ADB và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP); và phát triển các quy tắc điều chỉnh cụ thể để chủ động ứng phó với các hành động trả thù nếu chúng xảy ra.

– Yêu cầu việc tài trợ và thực hiện dự án JETP phụ thuộc vào các biện pháp bảo vệ rõ ràng, chống lại sự trả thù và trả đũa đối với những người bảo vệ môi trường và các nhà hoạt động nhân quyền, cùng với các khung chính sách để xã hội dân sự tham gia một cách tự do và an toàn vào việc thiết kế, ra quyết định, giám sát và thực hiện dự án của JETP. 

– Thúc đẩy các điều kiện thuận lợi cho xã hội dân sự, được quy định bởi các tiêu chuẩn và hiệp ước quốc tế nhằm tạo ra và duy trì, về mặt luật pháp và trên thực tế, một môi trường thuận lợi an toàn cho xã hội dân sự tự do hoạt động, bao gồm cải cách luật pháp và chính sách liên quan đến đăng ký và các yêu cầu về thuế đối với dân sự, các hiệp hội xã hội quá nặng nề và không phù hợp với các quyền cơ bản, bao gồm quyền tự do hội họp, lập hội và biểu đạt.

Quá trình chuyển đổi năng lượng xanh sẽ không thành công cho đến khi các chuyên gia bảo vệ môi trường như LS Đặng Đình Bách và các nhà hoạt động môi trường được quyền lên tiếng công khai và tự do dẫn đầu phong trào.

_______

Ghi chú:

(1) https://www.euronews.com/green/2024/02/02/air-pollution-is-so-bad-in-this-asian-capital-that-flights-are-being-diverted-due-to-low-v

(2) https://www.standwithbach-viet.org/


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chiều tảo mộ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

06/02/2024

“Vừa rồi tôi có đi Tây Nguyên dự lễ bỏ mả của gia đình ông Y Ngông Niết Đam. Người Eđê có một tục lệ rất đặc biệt. Khi nhà có người chết, gia đình con cháu hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nước ra mộ, khi có điều kiện họ làm lễ bỏ mả.

Đó là bữa tiệc linh đình chia tay vĩnh viễn với người chết. Sau đó họ không quan tâm đến ngôi mộ ấy nữa, để linh hồn người chết được siêu thoát, không còn vướng víu cõi trần.” (Trần Đăng Khoa. Chân Dung và Đối Thoại. Nxb: Thanh Niên, 1988).

Bãi mả, thực ra, không phải là “một tục lệ rất đặc biệt của người Eđê” mà là tập tục chung của nhiều sắc dân bản địa – ở Việt Nam:

“Đối với người Roglai – sắc dân sống rải rác các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, và Lâm Đồng – lễ cúng bỏ mả có nghĩa là người sống từ giã người chết. Lễ này được cử hành sau mùa gặt hái đầu tiên, tính từ ngày người chết qua đời.

Mùa gặt hái hoàn tất, mọi người đều rảnh rang nên lễ cúng bỏ mả làm linh đình lắm. Có giết trâu mổ bò, mời thầy cúng làm lễ cho người khuất rồi đãi làng nước. Sau lễ bỏ mả là hết, ngôi mộ không được ai chăm sóc nữa.

Người Rhadé, đa số sinh sống tỉnh Darlac và Quảng Đức, cũng có lệ bỏ mả vào mùa gặt năm sau. Người nhà ra mộ khóc lóc một lần cuối rồi mộ bị bỏ hẳn. Kỷ niệm của người chết cũng chìm dần vào quên lãng.

Người Bahnar – sắc dân sống ở Đông Nam Kômtum, Tây Bắc Pleiku, và phía Tây Bình Định – cũng chỉ chăm sóc mộ phần một năm… Sau đó họ làm lễ tạ rồi san phẳng, và từ đây không còn ai ngó tới.” (Toan Ánh. “Tang Lễ Của Đồng Bào Thượng.” Nhật báo Cách Mạng Quốc Gia, Sài Gòn 01 Sept 1963).

Bỏ mả, hay bãi mả là điều bắt buộc trong nếp sống du canh. Tục tảo mộ hằng năm, chắc chắn, chỉ bắt đầu khi nhân loại tiến đến giai đoạn định canh. Còn tôi thì phải  mãi cho đến cuối năm 2014, mới được rủ đi tảo mộ (lần đầu) khi đang lơ ngơ giữa một chiều Xuân, nơi đất lạ.

Cái nắng của những buổi chiều cuối năm thường khiến tôi hay bị nặng lòng, dù ở bất cứ đâu. Nhưng phải trải qua một buổi chợ chiều, chợ tết, ở một làng quê nơi đất lạ thì mới hiểu ra thế nào là nỗi buồn xa xứ.

Dân Việt túm tụm dọc mé sông Tonle Sap, đoạn chảy qua xã Phsar Chhnang (tỉnh Kampong Chhnang) có thể đông đến vài ngàn. Tuy thế, cái đám người trôi sông lạc chợ nhếch nhác, te tua, rách nát này không tạo nổi không khí Tết cho khu chợ cạnh bờ.

May mà vẫn còn vài cái cặp đèn lồng đỏ, năm bẩy cây quất, và mấy chậu cúc vàng của những gia đình gốc Hoa nên hè phố trông cũng đỡ phần ảm đạm. Tôi cứ nhìn mãi một em gái nhỏ, đứng bán đôi cành mai đã héo mà không khỏi cảm thấy có đôi chút bận lòng.

Như mọi người Việt khác ở bến sông này, tôi cũng là kẻ phiêu bạt không nhà nên chả có chỗ để cắm hoa. Muốn biếu em một số tiền nho nhỏ, đủ để sắm sửa một bữa cơm chiều cuối năm tươm tất cho gia đình nhưng đang loay hoay chưa biết cách sao cho tế nhị thì chợt nghe tiếng đồng hương quen thuộc:

  • Sao ông thầy lang thang gì mình ên vậy ? Đi tảo mộ với tụi em nha, gần xịt thôi hà.

Thấy tôi hơi ngần ngừ, bà vợ rụt rè thêm:

  • Dạ, sẵn bữa nay có làm gà với mua được xị rượu để cúng nên mới dám mời ông thầy …

Nghe cách xưng hô thì tôi đoán là họ có con đang theo học ở trường làng Kandal, dưới bến sông. Không ai biết tôi tên gì cả, họ chỉ thấy ông già này thường lui tới ngôi trường này và hay chơi đùa với lũ trẻ con nên gọi tôi bằng “thầy” cho nó tiện việc sổ sách – thế thôi.

Phải nhìn thấy cảnh nuôi gà trên những túp lều nổi tả tơi, và những bữa cơm đạm bạc quanh năm (toàn với khô hay cá vụn nhỏ li ti) của những người suốt đời sống lênh đênh thì mới hiểu được rằng được mời ăn gà là một hân hạnh không thể chối từ – dù tôi chả mặn mà gì với gà và vịt!

May mà từ chợ đến nghĩa địa gần thật, chỉ chừng hơn cây số. Đang là mùa khô, nước rút nên mới lộ ra vài chục tấm mộ bia thô kệch và xấu xí. Chả ai sống qua tuổi sáu mươi. Khi còn tại thế (chắc) họ chưa bao giờ được giáp mặt với một ông nha sĩ, hay bác sĩ – dù chỉ một lần.

Sau khi thắp hương, nhổ cỏ, vun xới mộ phần, mọi người ngồi quanh chuyện trò ăn uống. Dường như ai cũng cảm thấy mãn nguyện vì đã làm xong chút bổn phận, cuối năm, với kẻ đã khuất.

Khó có thể ngờ rằng được đó là lần tảo mộ cuối cùng của cộng đồng người Việt ở xã Phsar Chhnang. Năm sau, từ Phnom Penh, thông tín viên Sơn Trung ̣(RFA) tường thuật: “Làng nổi của người Việt bị di dời… Theo thông báo của chính quyền tỉnh Kampong Chhnang thì việc di dời sẽ được thực hiện từ ngày 10 tháng 10 và chấm dứt trước ngày 25 tháng 10 năm 2015.”

Tháng 10 thì Á Châu vẫn còn mưa, và mưa tầm tã. Bia mộ vẫn còn chìm sâu dưới nước. Với cái “thông báo” bất ngờ (và bất nhơn) trên thì chắc chắn không ai có cơ hội tạ mả, trước khi tiếp tục trôi xuôi theo kiếp lục bình.

Ở trời Âu, có những kẻ may mắn hơn nên được nằm yên mãi mãi trong những mộ phần và được thăm viếng thường xuyên:

“Tôi vào tiệm tạp hóa Tàu ở Luân Đôn mua một thẻ nhang ngắn rồi xuống Portsmouth, bắt phà qua Normandy… Bây giờ là mùa đông. Khi phà tiến gần vào bờ cho đến khi cặp bến Ouistreham nằm phía cực đông của bờ biển Normandy, trời còn rất tối. Sao Mai sáng long lanh, các ngọn đèn rải thưa quanh bến tàu, ánh sáng vàng đứng bóng, không hắt hiu…

Tôi đi bộ dọc bờ biển từ hướng đông, bắt đầu từ chỗ giáp mép biển của con kênh đào từ Caen (cách biển chừng 16 cây số). Cứ khoảng 100 thước, một tấm biển tưởng niệm, hình ảnh thế hệ các người lính thuộc binh chủng đã đổ bộ, và tên tuổi của một người lính tử trận ngày 6.6.1944…

Từ nơi này đi bộ hai cây số đến nghĩa trang đồng minh ở làng Ranville, ngôi làng đầu tiên trên đất Pháp được giải phóng sau khi người lính Dù chiếm giữ cầu Pegasus. Trên bản đồ là nghĩa trang của Anh, nhưng ở góc bên trái từ cổng vào có 330 bia mộ người lính Đức, chia cùng mảnh đất nghĩa trang với 2.235 người lính nhảy dù thuộc quân đội Anh, Úc, New Zealand, Bỉ, Pháp, Ba Lan…

Mỗi ngôi mộ người lính Đức đều có bia như các ngôi mộ của người lính đồng minh, tên tuổi, ngày sinh và ngày chết, chỉ khác là huy hiệu binh chủng được thay bằng dấu Thập tự Sắt. Dưới bầu trời xám đục, đài thánh giá trắng có hình cây kiếm mũi hướng xuống đất nổi bật ngay giữa nghĩa trang. Những linh hồn nơi đây không còn chiến tranh nữa. Kiếm đã cắm hay cất. Không có một chữ ‘hòa giải’ nào trong nghĩa trang chung này. Nhưng các bia mộ của người lính Đức và người lính đồng minh nằm bên nhau. Người sống không thù hận nên người chết yên lành.” (Hồ Đắc Túc. “Những Mộ Phần Bên Nhau”. Dân Luận 01/01/201̣9).

Cùng lúc với Hồ Đắc Túc, Ngô Thanh Tú cũng đi tảo mộ ở quê nhà (Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà) nhưng với tâm trạng hoàn toàn không thư thái:

“Cứ mỗi bước chúng tôi đi đều phải chịu sự giám sát của ít nhất hai bảo vệ nơi này. Ánh mắt soi mói, những câu hỏi vô duyên, như : chụp hình để làm gì? Có động cơ gì không? làm chúng tôi vô cùng khó chịu. Người bạn đi cùng tôi nói, dường như cái chủ trương truy cùng giết tận còn được áp dụng cho cả người chết. Chế độ này ko chỉ trả thù người chết mà còn sợ họ đội mồ sống dậy nên kiểm soát rất chặt chẽ.”

FB Từ Đức Minh cho biết thêm : “Với bản chất thú tính, bất chấp luân lý và tình người. Người Cộng Sản không cần biết thế nào là nghĩa tử, nghĩa tận. Họ chủ động giáo dục cho đám con trẻ gọi mộ người lính Việt Nam Cộng Hòa là ‘mả ngụy’, ‘mả giặc’. Người ta canh tác rau trên mộ, tưới nước phân dơ bẩn, thả trâu bò lội giẫm đạp lên mộ. Khốn nạn hơn nữa, họ cho người đào giữa ngôi mộ và trồng lên đó những cây to. Mấy năm sau cây lớn làm xập mộ…”

Người đang sống ở Lộc Hưng mà họ còn ủi cho xập nhà, xập cửa thì xá gì đến chuyện mộ bia ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà!