Tại sao cấm họ về? Ở lại sẽ chết vì đói chết vì y tế quá tải sao?

Sáng nay, nghe thông tin Saigon tiếp tục phong tỏa thêm 1 tháng, Dân lao động trụ lại hi vọng dịch sớm qua đi, cuộc sống sẽ ổn trở lại – đã bất lực, không còn tiền, không ai hỗ trợ và quyết định đào thoát về quê. Ngay lập tức công an lập rào chắn chặn lại, yêu cầu bà con ai ở đâu thì ở yên đó, quay lại trọ.

Mấy hôm nay, tôi xem nhiều clip Dân quận 7 và Bình Tân đã kéo lên phường khu phố đòi tiền hỗ trợ. Người nghèo, lao động thu nhập thấp, mưu sinh ngoài đường đã quá lâu nhốt ở nhà họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì họ cuộc sống của họ xung quanh tờ vé số, lon chai trong thùng rác…

Người nghèo yếu thế, không thu nhập chính phủ không lo được cho họ thì hãy để họ về quê tự lo.

Tôi chưa thấy chính phủ nào lại đốn mạt và bại hoại như CP Việt Nam!

Tại sao cấm họ về? Ở lại sẽ chết vì đói chết vì y tế quá tải sao?

Hôm qua báo chí nói 5 bệnh viện ở Bình Dương từ chối nhận người cấp cứu, sau đó người ta về trọ và đã chết trong sự oan ức.

Họ chết không phải không cứu được, chết vì cách chống dịch sai lầm. Không

kế hoạch chống dịch đúng đắn, toàn chỉ thị và nghị quyết nặng tính cách mạng. Không có chính sách minh bạch hỗ trợ người nghèo, doanh nghiệp đã gây ra tình trạng khủng họa và thảm hoạ.

Những người này là nạn nhân của chính sách sai lầm, họ bị chính phủ mặc kệ và bỏ rơi. Không còn đường sống phải về quê. Song, họ sẽ bị dư luận chỉ trích vì thiếu ý thức.

Nhưng, họ là Dân đen nên bị chỉ trích thôi. Chứ con cháu bí thư, các tỉnh sẽ sẵn sàng đợi lệnh để mở chốt cho bí thư chở con gái ra thẳng sân bay sang Mỹ du học. Vì có quyền và có tiền, báo chí sẽ phớt lờ xem như đó là điều bình thường, nhưng Dân không còn đường sống, ngay lập tức bị cho là thiếu ý thức.

Nhìn đất nước hôm nay, đồng bào ta quá khốn khổ vì những kẻ ngồi phòng lệnh sợ trách nhiệm triệt đường sống, mặt khác lại tung hô kẻ có tiền và có quyền.

Ta thật sự thấy nhục nhã, nhục vô cùng khi các quốc gia khác lo cho Dân từ an sinh xã hội tới Vx. Còn đây chống dịch trong phòng lạnh mặc kệ Dân sống chết ra sao.

Các ông ở biệt phủ có kẻ hầu người hạ có bao giờ nghĩ về họ. Nghĩ về đồng bào ta không còn đường lùi…

Ép họ quay lại câu hỏi họ sẽ ở đâu khi chủ trọ đuổi? Ăn gì khi tiền không còn một xu?

– Phạm Minh Vũ

May be an image of motorcycle and road

Điều VTV không nói: hơn 5.000 người đã chết vì COVID-19 ở Việt Nam

Điều VTV không nói: hơn 5.000 người đã chết vì COVID-19 ở Việt Nam

Luật Khoa

Báo Tiếng Dân

Con số tử vong đã luôn bị né tránh trong những tường thuật “chính thống” về dịch bệnh.

 14/08/2021

By  HIỀN MINH

VTV hoàn toàn im lặng về số ca tử vong. Ảnh gốc: VTV. Đồ họa: Luật Khoa.

Nếu theo dõi thông tin về diễn biến dịch COVID-19 trên các bản tin hàng ngày của VTV trong suốt đợt dịch vừa qua, bạn sẽ thường xuyên được cập nhật thông tin về số ca nhiễm mới, số liều vaccine đã được tiêm, và số bệnh nhân đã khỏi bệnh.

Duy chỉ có một thông tin bạn sẽ không bao giờ được nghe: số người tử vong.

Bao nhiêu người đã chết vì COVID-19 mỗi ngày? Bao nhiêu người đã chết trong đợt dịch bùng phát nghiêm trọng hơn ba tháng qua?

Thông tin này hoàn toàn không được đề cập trong mục cập nhật diễn biến dịch hàng ngày của Bộ Y tế. [1]

Nếu chịu khó tìm tòi kỹ hơn một chút, bạn sẽ thấy con số này ở phần thống kê số liệu và lẩn khuất trong các bản tin chi tiết hơn. Phần lớn các tờ báo tuân theo format đưa tin này, đặt con số tử vong đâu đó ở giữa bản tin. Rất hiếm hoi mới nhìn thấy con số tử vong xuất hiện trên tít báo, như trường hợp báo Pháp Luật TP. Hồ Chí Minh và báo Tiền Phong vào ngày 10/8. [2][3]

Ngày hôm đó, có 388 người chết vì COVID-19. Đó là ngày ghi nhận con số tử vong cao thứ ba trong suốt thời gian đại dịch diễn ra tại Việt Nam. Và đây là tựa đề bản tin của Bộ Y tế ngày hôm đó:

Bản tin dịch COVID-19 của Bộ Y tế tối 10/8: Thêm 3.241 ca COVID-19, riêng Hà Nội 60 ca, 4.428 người khỏi bệnh

Báo Thanh Niên thì giựt tít thế này:

Bản tin tình hình Covid-19 hôm nay 10.8: Cả nước 4.428 ca khỏi bệnh, TP.HCM phấn đấu kiểm soát dịch trước 15.9

Chuyện không nhắc đến con số tử vong trên tít không thể là cách hành xử thông thường của báo chí. Đơn giản là vì số người chết chắc chắn sẽ thu hút được nhiều “view” hơn số người khỏi bệnh. Con người có xu hướng thích đọc tin tiêu cực hơn, và các vụ chết chóc thường được liệt kê trong số những điều làm nên tin tức. [4]

Không giựt tít về số người chết chỉ có thể là cách hành xử sau khi bị kiểm duyệt hoặc tự kiểm duyệt.

Nguồn tin của Luật Khoa cho biết, chỉ đạo xuyên suốt của cơ quan tuyên giáo đối với báo chí trong thời gian này luôn là: tăng tích cực, giảm tiêu cực.

Chỉ đạo này khớp với những gì chúng ta nhìn thấy trên truyền thông: Những giai điệu tích cực, những tuyên ngôn chiến thắng, những cuộc ra quân rầm rộ, những hình ảnh nhân viên y tế được mô tả như những chiến sĩ anh hùng, những ca bệnh được chữa khỏi, những nhận xét rằng số ca nhiễm đang “đi ngang” đúng như dự đoán.

Không có chỗ cho thông tin về số người tử vong trong chiến dịch lan tỏa tích cực này.

Dữ liệu số ca nhiễm mới COVID-19 và số người tử vong trong 2 tuần qua. Nguồn số liệu: Bộ Y tế, VnExpress. Ngày 1/8 không có ca tử vong nào được báo cáo.

Tính đến hết ngày 13/8, đã có tất cả 5.088 người tử vong vì COVID-19 được ghi nhận tại Việt Nam. [5] Trong số đó, 4.030 ca (tương đương 79.2%) thuộc TP. Hồ Chí Minh. Con số tử vong trung bình trong bảy ngày vừa qua là 296 người/ngày.

Nếu xếp hạng dựa trên số người chết vì COVID-19 trong vòng bảy ngày vừa qua, Việt Nam đứng thứ 9 trên toàn cầu và thứ 4 trong khu vực châu Á, theo số liệu của Wordometer tính đến ngày 13/8. [6]

Một cách chính thức, tỷ lệ tử vong trên số ca nhiễm (observed case-fatality ratio) và tỷ lệ tử vong trên 100.000 dân là những chỉ số được dùng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh tại một quốc gia.

Hai chỉ số này của Việt Nam đều đang thuộc hàng cao trên thế giới. [7] Cụ thể, tỷ lệ tử vong trên số ca nhiễm hiện nay xấp xỉ 2% (cứ 100 người nhiễm thì có 2 người chết), xếp thứ 11 trên toàn cầu. Tỷ lệ tử vong trên 100 nghìn dân là 4,99 (cứ 100 nghìn người thì có 5 người chết vì COVID-19), nằm trong top 20 của thế giới.

Chúng cho thấy hệ thống y tế của Việt Nam đang quá tải.

Biểu đồ: Đại học John Hopkins. Số liệu cập nhật đến 13/8/2021.Biểu đồ: Đại học John Hopkins. Số liệu cập nhật đến 13/8/2021.

Chính quyền thành phố Hồ Chí Minh chỉ công khai thừa nhận sự nghiêm trọng của những con số tử vong này vào ngày 13/8, ngày họ công bố rằng thành phố “có thể” sẽ phải giãn cách thêm một tháng nữa và kêu gọi người dân chuẩn bị tinh thần “trường kỳ kháng chiến”. [8]

“Vấn đề thành phố phải quan tâm nhất hiện nay là tỷ lệ tử vong ở mức cao, trung bình 241 ca mỗi ngày trong thời gian gần đây”, ông Dương Anh Đức, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh trả lời báo chí.

Người dân TP. Hồ Chí Minh không lạ gì chuyện này. Từ cách đây hai tuần, những đoạn phim ghi lại cảnh xe chở hòm xếp hàng dài trước lò thiêu Bình Hưng Hòa đã được lan truyền rộng rãi trên mạng. [9] Với cư dân thành phố, đó là chỉ dấu cho thấy chính quyền không làm chủ được tình hình như cách họ đang cố gắng tuyên truyền.

Dân kêu cứu khắp nơi, chính quyền thì đang làm gì?

Dân kêu cứu khắp nơi, chính quyền thì đang làm gì?

Không có khả năng giúp dân thì phải để dân tự giúp nhau.

 06/08/2021

By  NĂNG TỊNH

Những lời kêu cứu xuất hiện khắp nơi ở TP. Hồ Chí Minh. Ảnh chụp màn hình trang web sosmap.net vào sáng 6/8/2021.

Chắc bạn đã tưởng lầm khi nhìn vào tấm hình ở trên. Nó không phải là bản đồ dịch bệnh của TP. Hồ Chí Minh. Đó là bản đồ kêu cứu của cư dân thành phố.

Mỗi một chấm đỏ là một lời kêu cứu. Những chấm ghi số có nghĩa là khu vực đó tập hợp nhiều người kêu cứu.

Bản đồ này nằm ở trang web SOSmap.net, dự án thiện nguyện do Phạm Thanh Vi, một chuyên gia công nghệ, và các tình nguyện viên lập ra. [1] Dự án này hỗ trợ kết nối những người cần giúp đỡ và các đội nhóm làm từ thiện.

Ngày 28/7, khi thông tin về dự án được giới thiệu trên báo Tuổi Trẻ, có hơn 1.000 lời kêu cứu được đăng lên, trong đó chỉ có hơn 100 trường hợp là đã nhận được giúp đỡ. [2] Vào thời điểm trên, trang web mới hoạt động chưa đến bảy ngày.

Một tuần sau đó, tính đến ngày 6/8, số lượng cần cứu trợ đã lên tới 7.600, với chỉ hơn 500 trường hợp ghi nhận đã được giúp đỡ.

Nghĩa là trong 100 trường hợp kêu cứu, chỉ mới có khoảng 6 trường hợp là được trợ giúp, tỷ lệ 6%. Con số tương đối này, dù xám xịt, vẫn chưa phản ánh hết bức tranh đau lòng trên thực tế.

Phía sau hơn 7.000 lời kêu cứu chưa được hồi đáp không phải chỉ là 7.000 con người đang tuyệt vọng. Trong rất nhiều trường hợp, đó là lời kêu cứu từ một gia đình, hay đại diện cho cả dãy phòng trọ, hoặc một khu vực đang bị phong tỏa.

***

Giúp đỡ em với, em đang gặp khó khăn và thất nghiệp do dịch covid-19, hiện tại em có con nhỏ nữa, thất nghiệp 1 tháng, gia đình nằm trong khu phong tỏa.

Anh chị ơi, hỗ trợ vợ chồng em với ạ. Hiện tại hai vợ chồng em bị thất nghiệp do dịch, đồ ăn dự trữ cũng đã hết. Tiền cũng cạn kiệt, em lại đang mang bầu nữa ạ, 2 đứa em quê ở ngoài Bắc vào đây lập nghiệp. Cho bọn em xin chút lương thực để qua mùa dịch này với, em xin cảm ơn nhiều ạ.

Xóm trọ em chủ yếu là lao động tự do, thất nghiệp nhiều nên mong quý mạnh thường quân giúp sớm để mọi người đỡ khổ trong giai đoạn này ạ. Xin chân thành cảm ơn rất nhiều.

Tôi thất nghiệp 2 tháng nay, tiền phòng chỗ tôi không giảm và tôi cũng không nhận được sự cứu trợ từ đâu hết, hiện tại tôi đang gặp khó khăn về kinh tế và nhu yếu phẩm mong được sự giúp đỡ.

Khu trọ thất nghiệp hơn tháng nằm trong hẻm sâu chưa được ai giúp đỡ. Toàn công nhân thất nghiệp khu nhiều trẻ con. Mong được sự giúp đỡ của các mạnh thường quân ạ.

Khu phòng trọ 12 phòng có nhiều trẻ em và người già, tất cả các phòng đều thất nghiệp lâu do nghỉ dịch nên khó khăn, thiếu thốn, mong được sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm, xin cảm ơn.

Xin chào các anh chị, chúng tôi cần trợ giúp. Tôi ở tỉnh Long An lên Sài Gòn làm, mất việc làm trước dịch đã mấy tháng nay, tiền nhà trọ đóng đều hàng tháng, chủ bớt tiền ít nên gặp khó khăn. Nhà trọ có 19 người đa số làm phụ hồ, công nhân, và bán vé số. Chúng tôi trụ từng ngày ở đây. Xin nhờ các mạnh thường quân giúp đỡ. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Em ở trọ. Em làm ở chợ đầu mối Thủ Đức, vợ làm công ty. Do dịch 2 vợ chồng em thất nghiệp hơn 1 tháng rồi ạ. Tài sản hiện giờ còn 6 gói mì 3 quả trứng, tiền mặt em còn 66k. Mong anh chị hỗ trợ giúp đỡ em qua được mùa dịch ạh.

Thất nghiệp 2 tháng. Cạn kiệt lương thực rồi ạ. Cứu em với.

Ảnh chụp màn hình những lời kêu cứu trên SOS map.

Đó mới chỉ là vài lời kêu cứu ngẫu nhiên trên những chấm đỏ SOS. Nếu bạn thấy không khí quá nặng nề, hãy tưởng tượng tình cảnh của người phải viết ra những lời trên.

Hãy tưởng tượng tiếp tâm trạng của họ khi đọc thấy những lời nô nức báo công của chính phủ kiểu “100% lao động tự do tại TP. Hồ Chí Minh đã nhận được hỗ trợ”. [3] Tưởng tượng họ nghĩ gì khi nghe những khẩu hiệu chắc như đinh đóng cột của các lãnh đạo như “không được để dân đói”, “không để người nào thiếu ăn, thiếu mặc”, hay “không cho phép có người bị bỏ lại phía sau”. [4] Tưởng tượng xem họ thấy “ấm lòng” cỡ nào khi nghe nhà nước thông báo “giảm 10-15% tiền điện trong hai tháng”. [5]

Chỉ khi nào tưởng tượng được, bạn mới có cảm giác rùng mình giống họ trước quyết tâm của chính phủ phải “chống dịch quyết liệt hơn” hay mệnh lệnh của thủ tướng “kiên quyết yêu cầu người dân ‘ai ở đâu ở đó’”. [6] [7]

Chống dịch mà đẩy người dân vào chỗ sống dở chết dở, đó là chống dịch kiểu gì? Rốt cuộc là chính quyền đang chống dịch hay chống dân?

Điều tệ nhất trong chính sách chống dịch cực đoan của chính quyền không phải là chuyện đẩy người dân lâm vào cảnh khốn cùng.

Điều tệ hại nhất là chính quyền, với các biện pháp ngăn sông cấm chợ, áp đặt kiểm soát vô lý, phản khoa học, đã và đang ngăn cản người dân giúp đỡ lẫn nhau.

Bạn có thể lên trang web sosmap.net để tìm hiểu và liên lạc trực tiếp với những người đang cần giúp đỡ, nhưng khả năng cao là bạn sẽ không thể giúp họ, khi giờ đây bạn, cùng với hàng triệu người khác, cũng đang bị nhốt một chỗ.

Nếu “dám” tự tiện đi giúp người, bạn rất có thể sẽ bị phạt vì “ra đường không có lý do chính đáng”.

Nhờ vào tinh thần “chống dịch như chống giặc” của Việt Nam, giúp người giờ đây trở thành một lý do không chính đáng.

Sẽ có những người bảo vệ cách làm phong tỏa, hay nói thẳng ra là cầm tù người dân của chính quyền.

Lý do là việc tự do đi lại sẽ làm lây lan dịch bệnh, còn hỗ trợ người dân thì đã có nhà nước lo.

Năng lực của nhà nước trong việc hỗ trợ người dân đến đâu, hãy để chính những người sống dở chết dở với chính sách phong tỏa lên tiếng.

Còn việc lo lắng rằng một khi người dân được tự do đi lại, dù chỉ là trong phạm vi thành phố, sẽ khiến dịch bệnh lây lan, là một giả định rất có vấn đề.

Hãy hỏi bất kỳ một chuyên gia y tế nào, rằng khi hai người tiếp xúc với nhau đều đeo khẩu trang, đều giữ khoảng cách, và đều rửa tay trước khi chạm vào mắt mũi miệng, xác suất họ lây bệnh cho nhau, nếu một trong hai người có bệnh, là bao nhiêu?

Trên thực tế, virus corona chỉ lây lan khi những người tiếp xúc gần không thực hiện các biện pháp tự bảo vệ.

Đó là cơ sở để những người làm công tác “chống dịch” vẫn có thể tự do đi lại, tiếp xúc với người khác.

Nếu cùng thực hiện các biện pháp bảo vệ như nhau (đeo khẩu trang, giữ khoảng cách, rửa tay kỹ càng), chẳng có lý do gì cho rằng nhóm người này sẽ không làm lây bệnh, còn nhóm khác thì sẽ khiến bệnh lây lan.

Vấn đề ở chỗ chính quyền luôn xem dân là đối tượng phải bị cai trị thay vì là một đối tác bình đẳng cùng quản trị đất nước.

Nhiều người lấy các trường hợp người dân xem thường dịch bệnh, không đeo khẩu trang, không giữ vệ sinh để từ đó suy rộng ra rằng cứ phải áp dụng biện pháp mạnh vì “người Việt Nam đều thiếu ý thức như nhau”. Điều kỳ lạ là những kẻ tuyên bố như trên thường vô tư xem mình là ngoại lệ “tôi không phải đám dân trí thấp đó”.

Tiêu chuẩn kép này lộ rõ khi chính quyền tự nói về mình. Vô số các trường hợp cán bộ phạm luật, bị truy tố, ngồi tù, v.v. đều chỉ bị phủi tay cho đó là “con sâu làm rầu nồi canh”.

Họ tìm mọi cách để giữ lại nồi canh nhung nhúc sâu của mình, trong khi sẵn sàng vặt lá tìm sâu để hất đổ nồi canh của người khác.

***

Chính sách chống dịch cực đoan của chính quyền rõ ràng đang gây hại nhiều hơn lợi.

Bản đồ kêu cứu trên SOS map, cho dù con số tăng lên từng ngày, vẫn chỉ là một lát cắt nhỏ trong bức tranh ai oán của người dân. Còn biết bao nhiêu trường hợp tuyệt vọng chưa được ghi nhận. Còn hàng vạn người lao động thành phố đã phải lũ lượt bỏ về quê trên những chuyến đi đầy nguy hiểm. Và đó mới chỉ là hình ảnh của TP. Hồ Chí Minh, nơi đang biến thành trại tập trung khổng lồ.

Chính quyền cần thẳng thắn thừa nhận sự bất lực của mình trong việc chăm lo cho những nhu cầu cơ bản nhất của người dân. Họ phải gỡ bỏ chính sách chống dịch cực đoan, ngăn sông cấm chợ, xem dân như giặc, để cho người dân ít nhất có thể tự giúp đỡ lẫn nhau qua cơn khủng hoảng này.

Vì nếu đã không giúp được, thì việc tối thiểu có thể làm là tránh ra.

Bắc/Nam Giữa Thời Mắc Dịch

Bắc/Nam Giữa Thời Mắc Dịch

Tưởng Năng Tiến

Tuy chào đời tại Sài Gòn – trước Hiệp Định Geneve – tôi vẫn có mặt trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam hồi năm 1954. Tuy đây không phải là một “giai thoại” ly kỳ hay thú vị gì sất cả nhưng vẫn xin được phép ghi thêm đôi dòng (cùng dặm thêm chút đỉnh mắm muối) để câu chuyện được tỏ tường, và đỡ phần nhạt nhẽo.

Tác giả Lê Duy San cho biết:

“Ngày 12/7/1946, theo lệnh của Trường Chinh, Việt Minh âm thầm cho công an đột nhập trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng ở số 9 phố Ôn Như Hầu. Hằng trăm người bị giết bằng cách trói lại và bị quăng xuống những con sông để họ chết chìm rồi loan tin là những người này bị VNQDĐ thủ tiêu.

Vụ này đã làm cho VNQDĐ tan rã, nhiều người phải chạy trốn sang Tầu trong đó có cụ Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Hồng Khanh, Hoàng Đạo, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và nhiều lãnh tụ của Việt Quốc và Việt Cách khác. Hàng ngàn người khác bị chúng bắt đem di giam giữ tại Hỏa Lò Hà Nội và nhiều nơi khác trong đó có nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư.”

Tôi sinh sau đẻ muộn nên không được tường tận về những sự kiện thượng dẫn nhưng biết chắc rằng – ngoài những nhân vật nổi tiếng vừa nêu – còn có vô số những đảng viên cấp địa phương (của cả Việt Quốc lẫn Việt Cách) cũng bị truy lùng hay sát hại vì không “bung” kịp, hoặc không tìm được đường để ra đến nước ngoài.

Thân phụ tôi là một trong những kẻ thuộc cái đám đông vô danh tiểu tốt này. Thay vì chạy sang Tầu, như phần lớn những đồng chí ở trung ương, ông trốn vào Nam. Tuy tay trắng, không có chi để lận lưng, ngoài cái bằng tiểu học (Certificat D’Étude Primaires Complémentaires Indochinoises, C.E.P.C.I) ông vẫn kiếm được đôi ba chỗ kèm trẻ, và một nơi để trú thân, trong một cái xóm lao động nghèo nàn –  có tên là Xóm Chiếu – bên Khánh Hội.

Trong Thư Về Làng (viết năm 1956) nhạc sỹ Thanh Bình tâm sự: Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng/ Sắt son gửi trong mấy hàng/ Thăm bà con dãi dầu năm tháng/ Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang/ Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng …

Bố tôi không phải là nghệ sỹ nên ông chỉ đề cập đến chuyện cơm, áo, gạo, tiền … Thư ông viết: “Trong này có khi cơm ăn không hết, người ta đổ cho gà hay cho lợn”. Mẹ hiền, tất nhiên, không thể nào tin vào một chuyện “hoang đường” cỡ đó!

Bà vùng vằng, tức tối xé nát tờ thư trong tay (ấy là tôi đoán thế, nếu sai, xin má thứ tha và bỏ qua cho thằng con út) lầu bầu: “Lại phải lòng con đĩ nào trong ấy rồi, và chắc là định trốn vợ trốn con luôn đây, chứ thức ăn ở đâu ra mà lại phí phạm như vậy được?”

Nói xong, bất chấp mọi sự can ngăn/khuyên giải của họ hàng nội ngoại, bà tức tốc lặn lội vào Nam. Tới nơi, hiền mẫu tìm quanh quất mãi nhưng chả ra một con đĩ (ngựa) nào ráo trọi mà nhìn đâu cũng thấy phố xá tấp nập, hàng quán tùm lum, và đồ ăn thức uống ê hề khắp chốn.  

Vốn ham vui, và rất chóng quên nên mẹ tôi ở lại luôn trong Nam cả năm trời. Hệ quả (hay hậu quả) là tôi cất tiếng khóc chào đời tại Sài Gòn. Khi hiệp định đình chiến được ký kết tại Geneve, vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi mới vừa lẫm chẫm biết đi. Cũng mãi đến lúc này bà má mới “chợt nhớ” ra rằng mình còn mấy đứa con nữa, đang sống với ông bà ngoại, ở tuốt luốt bên kia vỹ tuyến.

Thế là tôi được bế ra ngoài Bắc, rồi lại được gồng gánh vào Nam (cùng với hai người chị) không lâu sau đó. Nhờ vậy (nhờ ra đời trước cái đám Bắc Kỳ con sinh trong Nam đôi ba năm) nên từ thuở ấu thơ tôi đã được nghe nhiều bài hát ca ngợi tình bắc duyên nam – qua radio – vào thời điểm đó:

– Người từ là từ phương Bắc đã qua dòng sông, sông dài/ Tìm đến phương này, một nhà thân ái/ Ơi! Tình Bắc duyên Nam là duyên tình chung muôn đời ta đắp xây… (“Khúc Hát Ân Tình.” Xuân Tiên & Song Hương).

– Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa/ Em đất Thanh Nghệ, anh nhà Cà Mau/
Đồi nương thương sức cần lao/ Se duyên Nam Bắc ngọt ngào tình yêu, ngọt ngào tình yêu
… (“Đất Lành.” Phạm Đình Chương)

Chuyện se duyên Nam Bắc có ngọt ngào tình yêu (thiệt) không thì chả ai dám chắc, và cũng không có chi bảo đảm cả nhưng với thời gian – rồi ra – ai cũng biết cái mền là cái chăn, cái mùng còn gọi là cái màn, cái phong bì với cái bao thư là một, cái bật lửa đã trở thành bựt lửa, cái hôn và cái hun cùng một nghĩa (và cùng đã) như nhau.

Cuộc chung đụng giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm … tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.

Kết quả của mối giao duyên tốt lành này là một phần tư thế kỷ sau – dù chả cần ai tuyên truyền, hay cổ động gì ráo nạo – chàng trai Biên Hoà Nguyễn Tất Nhiên vẫn cứ si mê “cô em tóc demi garçon,” và mê chết bỏ: Đôi mắt tròn, đen, như búp bê/ Cô đã nhìn anh rất… Bắc Kỳ/ Anh vái trời cho cô dễ dạy/ Để anh đừng uổng mớ tình si. (“Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ.” NXB Nam Á: Paris 1982).

Nền Đệ I Cộng Hoà ở miền Nam cũng có không ít những khiếm khuyết (vô cùng đáng tiếc) nhưng việc ổn định hằng triệu người dân di cư phải được coi là một điểm son của chế độ này, nhờ vào sự trợ giúp tận tình của cả nước Hoa Kỳ. Không phải thế lực ngoại bang nào đến Việt Nam cũng chỉ với mục đích xâm chiếm, cùng với chính sách chia để trị.

Chủ trương phân biệt vùng miền, mỉa mai thay, lại là đường lối xuyên suốt và nhất quán của cái nhà nước được mệnh danh là cách mạng hiện hành – theo như lời của nhiều công dân Việt:

  • FB Trần Đình Thu: “Để kỳ thị hai miền Nam Bắc xẩy ra ngày càng nghiêm trọng là do những chủ trương tuyên truyền hung hăng của nhà nước VN.”
  • Blogger Ku Búa: “Ai là người gây ra nạn phân biệt Bắc Kỳ Nam Kỳ? Đó không phải là sự khác biệt trong tư duy, trong môi trường sống, trong quan niệm sống hay con người. Mà chính là sự phân biệt trong chính sách chính phủ hiện tại.”
  • FB Thuc Tran: “Bất công là nguồn gốc của mọi sự thù ghét nhau giữa dân chúng hai miền và có lẽ đó cũng là ý đồ của đảng khi chia để trị.”

Họ có quá lời chăng?

Không dám “quá” đâu. Từ cuối thế kỷ trước, ông Vũ Đình Huỳnh (một nhân vật quan trọng của ĐCSVN) cũng đã từng nói những điều tương tự: “Sài Gòn là một thành phố bị chiếm đóng. Không phải là một thành phố được giải phóng. Chỉ vài năm thôi, nó sẽ giống Hà-Nội.” (Nguyễn Chí Thiện. Hỏa Lò. 7th ed. NXB Cành Nam, Virginia: 2007).

Thực sự thì Sài Gòn chưa bao giờ được Bên Thắng Cuộc xem “giống như Hà Nội” cả. Sự thực phũ phàng này được nhìn thấy rõ hơn trong những ngày tháng vừa qua.

Tác giả Nguyễn Khoa nhận xét:

“Dịch bệnh cũng làm bộc lộ mâu thuẫn chính trị vùng miền, với sự thống trị của miền Bắc, vốn là nơi phát xuất những đội quân chiến thắng năm 1975. Trong những năm 1990, người ta dành kinh phí quốc gia để xây dựng đường số 5 Hà Nội – Hải Phòng, hay đường số 18 Hải Dương – Quảng Ninh, thay vì con đường nhiều hàng hóa hơn là Quốc lộ 1 Sài Gòn – Mỹ Tho, hay liên tỉnh số 8 Sa Đéc – Long Xuyên.

Việc này có thể được thông cảm vì hệ thống đường sá miền Bắc quá tệ hại. Nhưng vào năm 2021, với một dân số gấp đôi, số người nhiễm bệnh gấp ba Hà Nội, mà số liều vaccine phân phối về Sài Gòn lại ít hơn là điều không thể tha thứ được.”

Bao giờ mà kẻ thống trị còn giữ được quyền bính thì họ chả cần đến sự “tha thứ” của bất cứ ai. Câu hỏi đặt ra là cái đạo quân chiếm đóng hiện nay sẽ còn tiếp tục duy trì được quyền lực ở Việt Nam thêm bao lâu nữa, và chuyện gì sẽ xảy ra sau đó?

Tưởng Năng Tiến
8/2021

CẢ GIA ĐÌNH NHẬP VIỆN CUỐI CÙNG CHỈ CÓ 2 CHỊ EM NHỎ XUẤT VIỆN

THẢM THƯƠNG HƠN THỜI CHIẾN: CẢ GIA ĐÌNH NHẬP VIỆN CUỐI CÙNG CHỈ CÓ 2 CHỊ EM NHỎ XUẤT VIỆN, BA MẸ VÀ ÔNG NỘI KHÔNG VỀ NHÀ NỮA!

Hai chị em còn thơ dại, đứa lớn mới 13 tuổi, cháu trai 7 tuổi, được bên ngoại đón về sau khi 2 chị em xuất viện, còn ngôi nhà của họ bỏ trống. Có lẽ mai mốt bên quân đội sẽ giúp làm cho cái bàn thờ để đưa 3 hũ tro cốt về nhà.

Tôi hình dung ánh mắt thơ dại bàng hoàng của các cháu khi không về cùng với ba mẹ. Những ngày tháng tươi đẹp khi xưa của các cháu ngày 2 buổi đến trường ba đưa mẹ rước, những giây phút quây quần bên nhau của cả gia đình nay còn đâu?

Tôi không biết nói gì hơn trong giây phút đau buồn tang tóc này. Chỉ biết nhắn gửi mọi người rằng hãy cố gắng giữ mình để được sống khi mà chung quanh chết chóc tang thương đang tràn ngập!

Xin hãy cầu nguyện cho linh hồn 3 người thân của 2 cháu bé sớm siêu thoát và cầu bình an cho các cháu!

Sài Gòn sáng ngày 12.8.2021

TRẦN ĐÌNH THU

May be an image of flower and indoor

Sài Gòn, im lặng hay cất tiếng? (RFA)

Sài Gòn, im lặng hay cất tiếng? (RFA)

Bài bình luận của Viết Từ Sài Gòn
2021-08-08

Hình minh hoạ: đưa quan tài người mất vào xe ở TPHCM giữa dịch COVID-19 tháng 8/2021

HCDC

Mấy ngày nay, các trang mạng xã hội nổi lên hình ảnh thanh niên “shipper” những hũ tro cốt, các hũ nằm lăn lóc, chồng chất trong một chiếc giỏ nhựa, hình ảnh này gây sốc với rất nhiều người. Và, người ta bắt đầu tìm hiểu nguồn gốc của tấm hình kinh động này thử nó là hình giả hay thật. Đáng buồn ở chỗ, nó thật, và sự thật này còn nấp bóng sau một sự thật khác đau lòng hơn! Tất cả mọi sự giấu giếm, dấm dúi của nhà cầm quyền trước bệnh dịch, chết chóc và đau khổ của người dân trong lúc này, lại là một nỗi đau khác.

Theo Facebooker Trần Ngọc Tuấn, Trưởng Đại diện báo Tiền Phong tại Đà Nẵng (trích nguyên văn): “Sau khi hình ảnh và câu chuyện của một “anh bán gas” kể về trường hợp thấy người ta ship tro cốt trên đường phố SG, đã có nhiều chia sẻ trên mạng, gây chấn động tân can nhiều người, trong đó có tôi.

Rồi tối qua báo TTO tìm hiểu sự việc, thông qua vài người, là bà Chủ tịch phường Phú Trung, quận Tân Phú, ông chủ cơ sở mai táng (một của nhà nước, một tư nhân), và trao đổi với chủ tút là Facebooker Lan Nguyen Van.

Tóm lại bài viết trên báo TTO có bốn ý:

– Chủ cơ sở mai táng tư nhân cho rằng “người em của ông chỉ giao khoảng 10 hũ, không phải 27 hũ như Facebooker đã viết”

– Chủ lò thiêu của nhà nước (Cty MTĐT) cho rằng: “hiện tại công ty đã tạm ngưng dịch vụ giao tro cốt tại nhà”. Và khi còn dịch vụ (miễn phí) giao tro cốt đến từng nhà, thì các hũ tro của cty “đều đóng vào thùng các tông đúng quy cách, chứ không chở lổn nhổn như giao rau…”.

– Bà Chủ tịch phường Phú Trung (quận Tân Phú): Chỉ có 1 trường hợp được giao tro cốt tại hẻm 477 Âu Cơ, cứ không phải tại hẻm 42 Âu Cơ. Và bà này khẳng định: “Thống kê trong tháng 7 phường không có người mất, tháng 8 có 3 trường hợp…”!

– Facebooker Lan Nguyen Van (Nguyễn Văn Lân) nói với TTO: “Hôm qua, tôi chứng kiến câu chuyện sao kể vậy, tôi không hỏi thông tin của ai hết. Về hoàn cảnh thằng bé, tôi biết từ bà hàng xóm dẫn cháu bé ra ký tên xác nhận để nhận 2 hũ tro cốt”. Về số lượng hũ tro cốt, anh Lân nhấn mạnh: “Tôi thấy sao nói vậy, đếm sao nói vậy. 50 tuổi rồi, không phải thằng con nít mà đếm nhầm. Dưới chân anh shipper còn một đống dây băng keo để ràng ba lớp hũ tro cốt, nếu bung hình sẽ thấy rõ”. Về cháu bé (nhân chứng), anh Lân cho biết “nhân viên công ty anh đã liên hệ Ủy ban MTTQ phường để hỗ trợ cháu bé. Và “chính quyền địa phương đã hỗ trợ đầy đủ thức ăn cho người dân trong khu phong tỏa”.

FB Lan Nguyen Van

Sở dĩ dài dòng một chút như trên, để xâu chuỗi lại, thấy rằng:

– Dịch vụ chạy xe máy giao tro cốt đến từng nhà là CHUYỆN CÓ THẬT. Đến nay chưa có bằng chứng nào khẳng định tấm hình của Facebooker kia là ẢNH FAKE

– Về số lượng hũ tro cốt: Có sự lệch nhau, nhưng cho đến thời điểm này, tôi tin vào sự chứng kiến trực tiếp của người viết status Nguyễn Văn Lân, hơn sự suy đoán gián tiếp của những người khác (chợt liên hệ tới stt của ông Đoàn Ngọc Hải trước đó). Nhất là khi bà chủ tịch phường lại khẳng định đinh đóng cột với báo chí, là: “Trong tháng 7 phường không có người mất, tháng 8 có 3 trường hợp…”(?!).

Tra trên mạng, thấy phường Phú Trung có dân số 38.397 người (số liệu năm 2003). Tự hỏi, mấy chục ngàn người này đều là “thánh bất tử” hết hay sao, mà lại có số liệu như lãnh đạo phường khẳng định?

– Đọc fb của Lan Nguyen Van, tôi thấy đây không phải người chơi fb theo kiểu “trẻ trâu” chuyên chia sẻ, phát ngôn bậy bạ lấy views. Mọi người vào đọc ở đây sẽ thấy

Những gì Đúng-Sai, hay Chưa chính xác từ status trên của Lân, cần làm rõ và minh định rạch ròi, chứ không phải ào ào “chụp mũ” rồi đòi “xử lý” này nọ.

NHƯNG, điều quan trọng hơn cả, với tôi, đó là nỗi CHẤN ĐỘNG TÂM CAN.

DÙ dịch vụ giao tro cốt (có thu tiền hoặc miễn phí) đến từng nhà có được gọi bằng cái tên mĩ miều nào, thì bản chất vẫn là SHIP HÀNG”.

DÙ dịch vụ SHIP HÀNG ấy vốn đã có từ lâu, ở các đô thị lớn và không chỉ mùa dịch. Nhưng đến giờ giữa thời điểm này bỗng trở nên đau nhói, cho thấy sự vô thường của nhân thế.

DÙ tất cả các hũ tro cốt trên, và các trường hợp lũ lượt xếp hàng đợi trước lò thiêu KHÔNG PHẢI ĐỀU LÀ BỆNH NHÂN COVID (như rất nhiều người đưa lên hình ảnh đoàn xe xếp hàng trước lò thiêu với sự mập mờ, cố tình ù xọe đánh đồng, dọa nạt nhằm mục đích riêng), nhưng sự dồn dập người chết là sự thật không thể chối bỏ. Khi mấy ngày qua mỗi ngày có 300 ca tử vong vì COVID, trong đó chủ yếu ở SG. Khi rất nhiều ca bệnh khác do quá tải BN COVID nên không kịp cứu. Khi cả SG phong tỏa cứng, không nơi nào có thể tự tổ chức tang lễ, cũng không thể tự đến BV lấy thi thể người thân, thì còn cách nào khác là cơ sở y tế tự mang đi thiêu, rồi hoặc giao “hàng”, hoặc xếp trong kho chờ… Quá tải (việc xử lý) người chết là có thật, đã được thừa nhận như ở Quảng Ngãi hôm kia, có ca tử vong đầu tiên vì COVID, do tỉnh không có lò thiêu, nên bệnh viện đã tự liệm, tự đem đi chôn và đánh dấu, để sau này người thân ra khỏi vùng cách ly sẽ tìm lại. Khác nào những người lính chôn đồng đội giữa chiến trường, cắm cành cây đặt cục đá làm dấu!

DÙ, và cuối cùng là DÙ thế nào, thì chúng ta cũng không thể an tâm, hay thanh thản nhẹ nhõm hơn, vơi bớt nỗi hoảng sợ hơn, khi “nhắm mắt cho qua”, khi kêu gọi không đưa những hình ảnh buồn/câu chuyện buồn lên mạng. Đó là thái độ nhắm mắt bịt tai trước hiện thực cuộc sống, nhất là với những người là nhà thơ nhà văn nhà báo. Đó là SỰ LỪA DỐI chính mình (TẤT NHIÊN mọi hình ảnh/câu chuyện trước khi được đưa ra, đều phải được cân nhắc điều tiết, thanh lọc, chọn lọc từ CHÍNH LƯƠNG TÂM và TRÁCH NHIỆM của mình, chứ không phải đợi ai tuyên giáo).

Lúc này đây, tôi cho rằng việc đối diện với chính NỖI ĐAU và biết NHÌN THẲNG VÀO THỰC TẾ mới đem lại sức mạnh cho mỗi cá nhân. Nhất là với giới viết lách, sáng tạo, phản ánh hiện thực.

Chứ không phải thái độ NHẮM MẮT BỊT TAI, NGỒI THU LU TRONG BÓNG TỐI…”

Trong một status không quá dài và cũng không đến nỗi ngắn, dường như bản chất, căn để của câu chuyện về tro cốt, về đời sống vùng dịch, về cách hành xử của chính quyền địa phương và cả những trí trá của họ bị bóc trần. Nói khác đi là bản chất sự việc được bóc trần. Và sự bóc trần này dẫn đến ba câu hỏi:

Tại sao đến giờ phút này, chính quyền thành phố Hồ Chí Minh vẫn cố gắng dấm dúi mọi thông tin về dịch?

Tại sao mọi chuyện đã đến nước vỡ trận, nguy cơ đói và chết vì suy dinh dưỡng trong nhân dân tăng cao nhưng chính quyền thành phố Hồ Chí Minh vẫn khư khư giữ lối chống dịch bằng cách phong tỏa trong khi thực tế đã chứng minh rằng phong tỏa là một sự thất bại nặng nề?

Ngoài các biện pháp đã dùng, liệu còn biện pháp nào khả dĩ hơn, giúp dân tránh nguy cơ chết đói, chết cô đơn hơn?

httpv://www.youtube.com/watch?v=E2-SRf0n8J4&t=43s

Lò thiêu Bình Hưng Hòa chật cứng xe cứu thương chở hòm đi hỏa táng 

Ở câu hỏi thứ nhất, dường như không cần câu trả lời nào khác, bởi nó đã chứng minh rằng cùng hệ thống, dường như mọi hành xử của người Cộng sản đều y hệt nhau. Hiện tại, thành phố Hồ Chí Minh là một phiên bản khác của Vũ Hán. Những tiếng kêu từ nhân dân sẽ bị bóp nghẹt, cho đến khi chính quyền tuyên bố thành phố đã sạch dịch, thì nhân dân cũng chết không ít, cái đói và đau đớn bị che khuất. Thắng lợi, thắng lợi và thắng lợi… Đó là ngụ ngôn thời Cộng sản!

Ở câu hỏi thứ hai, vì sao chính quyền thành phố Hồ Chí Minh không lựa chọn một giải pháp phòng chống dịch khác ngoài chuyện phong tỏa, biến thành phố thành thứ chuồng trại kiểu mới dành cho con người? Rõ ràng, ở đây, nếu chính quyền hành xử theo lối của các nước tư bản tiên tiến, nguy cơ mất quyền lực và chạm mặt với tự do báo chí, tự do ngôn luận của chính quyền là rất cao. Bên cạnh đó, một khi người dân có quyền lựa chọn, điều đó cũng đồng nghĩa với quyền lực Cộng sản sụp đổ. Chính vì vậy, khư khư chọn phương pháp giới nghiêm, chuồng trại với cách dùng chữ mỹ miều là “giãn cách” nhằm bảo vệ chính quyền hơn là bảo vệ nhân dân.

Ở câu hỏi cuối, có rất nhiều biện pháp chống dịch. Thử nghĩ, nếu người ta chuyển hóa các đội dân phòng chuyên đi bắt bớ, lập biên bản và bươi móc lỗi của người dân thành những đội bán rau lưu động trong vùng dịch, thì nhân dân có lợi biết bao nhiêu? Và thay vì chích vắc-xin cho cán bộ về hưu, cho những người có công trước, dành lượng vắc-xin đó để chích cho những người bán hàng trong các chợ truyền thống, sau đó mở lại các chợ truyền thống hoặc thiết lập các gian hàng lưu động trong các vùng xanh để người dân luôn đảm bảo dinh dưỡng?

Nhưng không, người ta đã chọn theo cách khác, ở đó, tính thành tích và tính công thần vẫn được đặt lên hàng đầu. Ngay từ các khoản hỗ trợ cho người dân bị ảnh hưởng cúm Vũ Hán, người ta vẫn ưu tiên cho gia đình có công nhận trước. Nhiều gia đình thừa ăn, thừa mặc vẫn được nhận hỗ trợ, trong khi đó, bên cạnh họ, những gia đình đói ăn, thiếu mặc không hay biết gì về khoản tiền này. Và mọi thứ, một khi tư duy công thần và thành tích vẫn hiện hữu thì đừng mơ bất cứ điều gì tốt đẹp cho nhân dân!

Chuyến ‘di tản thứ ba’ của lịch sử Việt Nam: Bỏ chạy khỏi Sài Gòn

Chuyến ‘di tản thứ ba’ của lịch sử Việt Nam: Bỏ chạy khỏi Sài Gòn

August 3, 2021

Kalynh Ngô/Người Việt

QUẢNG TRỊ, Việt Nam (NV) – Là một trong hàng trăm ngàn người dân tứ xứ vừa thực hiện chuyến bỏ chạy khỏi Sài Gòn, vùng “đất lành chim đậu,” để về tận miền Trung nắng gió bằng xe gắn máy để tránh dịch COVID-19, cô Phan Thị Cẩm Nhung cho biết trước khi đi, cô đã đi xét nghiệm COVID-19, vì đó là tờ giấy thông hành của cô ở mỗi trạm kiểm soát.

Đoàn người “tháo chạy” khỏi Sài Gòn bằng xe gắn máy trong đêm. (Hình: Facebook Quỹ Từ Thiện Bông Sen)

Khuya Chủ Nhật, 1 Tháng Tám, từ khu cách ly ở huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, cô gái 32 tuổi kể lại với phóng viên nhật báo Người Việt về cuộc hành trình xa thẳm này: “Sáu giờ tối ngày 25 Tháng Bảy, em chạy xe gắn máy từ Gò Vấp về Quảng Trị. Lúc đó trời đang mưa. Qua những chốt, trạm kiểm soát đều có công an đứng chặn hỏi thì em đưa tờ giấy xét nghiệm [COVID-19] ra và họ cho đi. Suốt đường không có gì bán. Trước khi đi em chuẩn bị nước uống, bánh kẹo chứ trên đường không có bán đồ ăn thức uống gì cả. Mình cũng không dám tấp vào đâu hết. Họ sợ mà mình cũng sợ.”

“Di tản” bằng xe gắn máy

Không muốn ảnh hưởng đến giấc ngủ của những người đang cùng phòng cách ly, cô Nhung bước ra ngoài để nói chuyện. Đến Chủ Nhật là ngày cách ly thứ tư của cô ở Cam Lộ, sau hơn hai ngày hai đêm chạy xe gắn máy. Cái thời dịch giã, cái thời của Chỉ Thị 15, 16, 16+, không có hàng quán, nhà nghỉ nào hoạt động, chỉ trừ các cây xăng dọc đường.

“Em và một chị bạn chạy suốt đêm, lúc nào mệt thì tấp lại ven đường, nằm ngủ chút rồi chạy tiếp. Người ta đâu có cho mình nghỉ lại nhà nghỉ. Từ Sài Gòn về đến đây em mang theo 1.7 triệu đồng ($74). Tiền xăng, mua đồ ăn đi đường và đóng tiền cách ly cho 14 ngày (80,000 đồng [$3.5]/ngày), giờ em còn 100,000 đồng ($4.3),” cô nói qua điện thoại.

Vì sao cô phải quyết định “di tản” giữa lúc mọi chuyện ngổn ngang như thế? Chắc gì quê nhà (Quảng Trị) yên ổn hơn hoặc tốt hơn? Thân gái “dặm trường” biết bao là nguy hiểm? Cô trả lời nhanh: “Em vào Sài Gòn phụ người chị bán hàng. Từ khi dịch xảy ra, tiệm đóng cửa, không có việc, nhà trọ thì không giảm tiền thuê nhà nên em chọn cách về lại quê.”

Một gia đình “di tản” khỏi Sài Gòn bằng xe gắn máy nghỉ lại ven đường trong đêm. (Hình: Phan Thị Cẩm Nhung cung cấp)

Cùng một tuyến đường, nghĩa là từ Sài Gòn về Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị… cô Nhung gặp rất nhiều bạn “đồng hành.” Họ đều là những người “di tản” bằng xe gắn máy. Trước đây, họ là những người phải rời quê hương để tìm đường mưu sinh cho cuộc đời mình và cho gia đình đỡ vất vả hơn. Rồi giờ đây, cũng chính họ đang phải “tháo chạy” khỏi vùng đất ấy. Nơi đó không còn là “vùng trời bình yên” của những người dân lao động tứ xứ như cô nữa.

Vì không có hàng quán nào mở cửa trên suốt đoạn đường, nên bữa ăn của cô Nhung, và những người “di tản” khác chủ yếu là thức ăn đã chuẩn bị sẵn để mang theo. “Ngoài ra thì tụi em nhận được những phần cơm, nước uống từ bà con giúp đỡ dọc đường,” cô nói.

“Tháo chạy” bằng mọi cách

Từ Sài Gòn chạy về Quảng Trị hai ngày hai đêm, đó là bằng xe gắn máy. “Phi thường” hơn, là hai vợ chồng “chạy nạn” bằng cách đi xe đạp từ Lâm Đồng về Thanh Hóa trong ba tuần lễ. Người dân Phú Yên ghi lại được cảnh vợ chồng ông đang nhận nước uống từ nhóm thiện nguyện tại quốc lộ 1A, xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

Hình ảnh trong video cho thấy ông luôn miệng cảm ơn khi nhận chai nước suối và hộp cơm từ người dân ven đường. Phía sau yên xe của người vợ là chiếc chiếu cói. Có lẽ đó là “giường ngủ” của hai vợ chồng ở dọc đường. Chiếc xe đạp cao quá khổ so với người phụ nữ. Bà phải “nhấp” vài nhịp mới leo lên được yên xe. Cuộc hành trình “di tản” của hai vợ chồng tiếp tục quay đều theo vòng xe nhọc nhằn.

Bữa cơm của cô Phan Thị Cẩm Nhung được người dân tiếp tế dọc đường. (Hình: Phan Thị Cẩm Nhung cung cấp)

Mạng xã hội những ngày qua tràn ngập hình ảnh đoàn người “dắt díu nhau chạy trốn.” Họ là những người cha, người mẹ vào đất Sài Gòn mưu sinh để nuôi gia đình. Họ là những người trưởng thành, chọn Sài Gòn là nơi kiếm sống.

Họ là những những đứa trẻ được sinh ra ngay chốn Sài Gòn hoa lệ, nhưng, như câu nói của cô Nhung: “Hoa cho người giàu, lệ cho người nghèo.”

Họ là đứa bé chỉ mới vừa được sinh ra chín ngày tuổi, ánh mắt chưa kịp quen với ánh sáng cuộc đời. Họ là những người nằm mệt lả ngay giữa đèo Hải Vân, tạm nghỉ trên đoạn đường về nhà xa thẳm.

Họ, nói chung, là những người dân nghèo từ các vùng miền xa xôi tìm việc ở Sài Gòn. Đó là anh thợ hồ, chị lao công, cô gái phụ bán quán, anh thanh niên chạy “shipper”… Đó là những người làm nên một phần bản sắc của Sài Gòn.

Một trạm tiếp tế người đi xe gắn máy về quê của Quỹ Từ Thiện Bông Sen-VietBay Group. (Hình: Quỹ Từ Thiện Bông Sen)

“Người đi càng đêm càng đông dần” (lời trong ca khúc Kinh Khổ của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng). Dòng người “tháo chạy” khỏi Sài Gòn càng ngày càng nhiều hơn. Cho đến khi họ không thể “chạy” được nữa vì chỉ thị đưa ra nghiêm ngặt hơn: Người dân không được tự ý rời khỏi địa phương, nơi cư trú.

Lúc này, các doanh nghiệp tư nhân như xe khách Phương Trang, hoặc các hội đồng hương bắt đầu vào cuộc để giúp người dân về quê. Các chốt, trạm tiếp tế của người dân và nhóm thiện nguyện lập ra trên quốc lộ 1A cũng ngày càng nhiều.

Những đoàn người từ Sài Gòn đi xe gắn máy về Quảng Trị đêm 31 Tháng Bảy được cả cảnh sát giao thông đón, dẫn đường, với thông điệp “để bảo đảm an toàn.” Tại mỗi chốt kiểm soát, dòng người được tiếp tế thức ăn, nước uống và xăng.

Dù rằng, hình ảnh thật “hùng tráng” với xe cảnh sát hú còi, quay đèn chạy trước, theo sau là đoàn xe gắn máy trật tự, ngay hàng thẳng lối, tạo ra một bức tranh ánh sáng thật đẹp. Bất cứ nhiếp ảnh gia nào cũng có thể tạo ra một tác phẩm nghệ thuật với những dòng ánh sáng như thế.

Nhưng, những ánh sáng của đèn xe và nơi chốt kiểm soát vẫn không “làm mờ” được ánh mắt hoang mang, mệt mỏi của người đàn ông trong đêm tối, bế đứa bé nhỏ, có lẽ chỉ mới vài tháng tuổi đang ngủ ngon trên tay.

Giữa lúc chính phủ Việt Nam loan tin đón nhận thêm những lô vaccine viện trợ từ nước ngoài, hàng ngàn người dân nghèo vẫn tiếp tục “tháo chạy.” Trong dòng người quy cố hương ấy, có những đứa bé, sau này, sẽ là nhân chứng kể lại cho thế hệ sau biết về một lần quy cố hương. 

Chợt nhận ra bài hát “Đường Về Nhà” của ca nhạc sĩ Ái Phương chưa bao giờ buồn đến thế: “Trở về nhà bên mẹ cha có con sông chảy bên hiên nhà/ Có cánh diều đàn em bé thơ thả bay la đà/ Những buổi chiều xanh khói bếp, có khoai ngon mẹ ấp lửa vàng/ Có em cười ngây ngô sáng vang lên cả khúc sông…”  [qd]

—–
Liên lạc tác giả: ngo.kalynh@nguoi-viet.com

 

Covid – Việt Nam: Y tế phía Nam quá tải, nhiều “F0” không cứu kịp (RFI)

Covid – Việt Nam: Y tế phía Nam quá tải, nhiều “F0” không cứu kịp (RFI)

Đăng ngày: 07/08/2021 – 16:57

Sài Gòn hoang vắng mùa đại dịch. Ảnh minh họa. © Wikimedia

Trọng Thành

Dịch bệnh Covid-19 đang đẩy hệ thống bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương miền Nam vào tình trạng quá tải. Nhiều trường hợp trở nặng tử vong do không kịp cấp cứu.

Từ mươi ngày nay, số người tử vong do Covid tại Sài Gòn luôn vượt quá 100. Trong hai ngày liên tiếp 4 và 5/8/2021, số tử vong vượt 200 người. Theo bộ Y Tế Việt Nam, số người nhiễm virus (hay « F0 » theo cách gọi ở Việt Nam) tại thành phố Hồ Chí Minh hiện đã vượt quá 100.000. Theo quy định mới, đa số các « F0 » không triệu chứng tự cách ly và chăm sóc y tế tại nhà để giảm tải cho các cơ sở « thu dung » cũng như điều trị. Tuy nhiên, trong số « F0 » này dự kiến khoảng 5% trường hợp diễn tiến nặng, cần được cấp cứu, chuyển tuyến kịp thời. Có những ca chuyển nặng rất nhanh, không được cấp cứu kịp, đã tử vong. Số người cần thở máy tăng gấp đôi trong mươi ngày vừa qua, từ hơn 700 người (ngày 28/07) thành hơn 1.300 người (ngày 05/08).  

Theo chính sách mới của chính quyền Việt Nam, hệ thống chăm sóc và điều trị người nhiễm SARS-CoV-2 tại Sài Gòn chia thành 5 tầng. « Tầng một » tập trung đa số người nhiễm virus không có triệu chứng để cách ly, theo dõi (gọi là « cơ sở thu dung »). Trước tình trạng quá tải, nhiều cơ sở « thu dung » đã được điều chuyển thành cơ sở điều trị « tầng 2 ». Một bài viết trên trang mạng chính phủ Việt Nam hôm nay 07/08 cho biết « tình trạng quá tải các tầng điều trị của TP HCM làm nhiều bệnh nhân Covid nặng chậm được tiếp nhận, cấp cứu » khiến Quân khu 7 phải « quyết định chuyển đổi » khu thu dung « F0 » không triệu chứng thành bệnh viện dã chiến chuyên điều trị, cấp cứu.  

Sở Y Tế : Các bệnh viện không được từ chối người cấp cứu

Hôm qua 05/08, giám đốc sở Y Tế phải ra « công văn khẩn » yêu cầu tất cả trung tâm cấp cứu, các bệnh viện phải « mở cửa tiếp nhận người bệnh tự đến khám và cấp cứu 24/7, đặc biệt vào ban đêm ». Tuyệt đối không được yêu cầu người bệnh phải có xét nghiệm nhanh hoặc PCR âm tính với Covid. Tuy nhiên, khả năng tiếp nhận của các bệnh viện là có hạn.  

Trả lời báo Tuổi Trẻ hôm qua, giám đốc một bệnh viện điều trị bệnh nhân Covid ở mức tương đối nặng (thuộc « tầng 3 ») quy mô 500 giường tại Sài Gòn cho biết, bệnh viện này lúc nào cũng trong tình trạng kín giường, do đó việc tiếp nhận được bệnh nhân nữa hay không còn tùy thuộc mức độ bệnh lý, « nếu bệnh nhân cấp cứu sẽ ráng cứu ». Vị bác sĩ này cho biết thêm : « Bên cạnh các ca thở máy không xâm lấn được điều trị hồi phục tốt, có ngày 3-4 ca tử vong, chủ yếu tập trung vào nhóm lớn tuổi, có bệnh nền. Gần đây xuất hiện thêm ở nhóm trẻ tuổi bị béo phì ».  

Tình hình căng thẳng không chỉ tại Sài Gòn. Tỉnh Bình Dương láng giềng cũng là một điểm nóng khác. Số ca mới trong 10 ngày gần đây chiếm gần 70% tổng số ca từ đầu mùa dịch. Hiện vẫn còn gần 400 bệnh nhân có diễn biến nặng, đã có 144 người tử vong vì Covid. Có ngày, số ca mắc mới của Bình Dương vượt 2.000, bằng một nửa ca mới của Sài Gòn, dù dân số chỉ bằng một phần năm. 

Theo trang mạng của bộ Y Tế Việt Nam hôm nay, bệnh viện Hồi Sức Covid-19 tại thành phố HCM hiện đang điều trị 522 bệnh nhân, trong đó 149 người trong tình trạng nguy kịch. Bệnh viện Hồi Sức Covid-19, được thành lập khẩn hồi tháng 7/2021, dự kiến có thể tiếp nhận tối đa 1.000 bệnh nhân rất nặng và nguy kịch (tức « tầng 5 », tầng cao nhất theo hệ thống điều trị Covid tại Sài Gòn). Hiện tại bệnh viện chỉ đón nhận được một nửa số bệnh nhân theo mục tiêu thiết kế do thiếu phương tiện và nhân viên.

Nhìn chung, tình trạng thiếu máy trợ thở, thiết bị ECMO (tim phổi nhân tạo), máy thở oxy dòng cao, bồn chứa oxy, máy chụp X-quang di động…, cũng như thiếu y bác sĩ điều trị, cấp cứu, nhân viên điều dưỡng chuyên về Covid, là phổ biến. Tình hình dự kiến sẽ căng thẳng hơn trong những ngày tới.

Cô Gái Pa Ko & Covi19 – Tưởng Năng Tiến

Cô Gái Pa Ko & Covi19

Mùa Hè 2021 – từ Buôn Hồ, Dak Lak – FB Huỳnh Thục Vy trở về Tam Kỳ, nơi bà sinh trưởng, để có dịp ngắm nhìn và ngâm mình lại trong sóng nước Tam Thanh. Khác với Phạm Duy, trong Nha Trang Ngày Về (“Tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát/Chui sâu vào thân xác lưu đầy) Huỳnh Thục Vy chả có tâm sự gì ráo trọi, cũng không kêu than vô vọng (“Dã tràng ơi! Sao lấp cho vơi sầu này?’) mà chỉ thảm thiết kêu Trời :

Tắm biển để thư giãn mà còn bị tra tấn bởi mấy bài hát sặc mùi lên đồng và máu tanh: cô gái mở đường, cô gái vót chông, ‘chờ bọn bay diệt bọn bay’ bla bla, má ơi. Đề nghị ban quản lý bãi biển Tam Thanh chấm dứt ngay việc tra tấn người tham quan bằng những bài hát đáng lẽ phải vứt vô sọt rác lâu rồi ấy…

Những “bài hát sặc mùi lên đồng và máu tanh đáng lẽ phải vứt vô sọt rác lâu rồi ấy” khiến tôi chợt nhớ đến vô số những cô sơn nữ nơi quê hương, đất nước của mình :

Cô Gái Sông Ba “tay vót chông miệng hát không nghỉ.”

Cô Gái Bom Bo “giã gạo ban đêm vì ngày bận làm mùa.”

Cô Gái Pa Ko “gùi trên vai súng đạn ra hoả tuyến”

Súng đạn đã im tiếng gần nửa thế kỷ qua. Các cô sơn nữ cũng đều đã qua hết thời xuân sắc tự lâu rồi, và đang phải đối mặt với vô số khó khăn trong cuộc mưu sinh vào những ngày tháng cuối đời – theo tường trình của RFA (“Người Dân Tộc Thiểu Số Vân Kiều và Pa Ko”) do Nhóm Phóng Viên Từ Việt Nam thực hiện :

Có thể nói rằng đời sống của bà con đồng bào thiểu số Vân Kiều và Pa – Kô khổ cực không còn gì để nói. Đi dọc theo đường 9 Nam Lào từ thành phố Đông Hà lên cửa khẩu Lao Bảo, qua khỏi những dãy nhà ngói đỏ chói của thành phố chừng 10km, đến đoạn sông Dakrong chảy dọc đường 9 Nam Lào, nhìn sang bên kia sông là những mái nhà lụp xụp nằm lặng lẽ trên đồi, nhìn lại bên cánh rừng dọc đường 9 cũng nhiều mái nhà sàn lợp tranh nhỏ xíu, tuềnh toàng gió lộng nằm giữa các nương sắn hoặc giữa các ngọn đồi trọc. Cảnh nghèo đói hiện ra xác xơ, tiều tụy.

Sự túng quẫn, cùng cực cũng có thể nhìn thấy được tại một phiên chợ sớm, họp lúc nửa khuya và tan lúc trời vừa hừng sáng – tại thị trấn A Lưới, Thừa Thiên, Huế – theo ghi nhận của hai ký giả Như Ý và Văn Long :

“Em Hồ Thị Nhơn, 5 tuổi (thôn Pơ Nghi 1, xã A Ngo) thức dậy từ 2h đêm với mớ rau má mang đi. Em Hồ Thị Hiền, học sinh THCS Hồng Quảng đang ngồi bên chậu hến. Hồ Thị Hiền tâm sự: ‘Buổi chiều, khi cô giáo cho lớp nghỉ là em lên cái suối xa để mò con hến, rồi chờ đến sáng sớm mai để đem xuống chợ.’ Mỗi lon hến tươi của Hiền có giá 1.000 đồng. Em vẫn đi mò thường xuyên, và sau mỗi buổi chợ em có được 10 đến 15 ngàn để giúp mẹ cải thiện bữa ăn gia đình và mua thêm sách vở.”

Chỉ có điều an ủi duy nhất là người dân Pa Ko (nói riêng) và những người có công với cách mạng (nói chung) đều được Tổng công ty Hàng không VN dành ưu tiên khi làm thủ tục lên tầu – theo như tin loan của báo Pháp Luật :

Ưu tiên tại khu vực soi chiếu an ninh, khách được ưu tiên sử dụng lối đi riêng dành cho khách hạng thương gia hoặc khách hàng thường xuyên. Dịch vụ ra tàu bay khách ra tàu bay trước cùng với các khách ưu tiên khác. Hành khách là người có công với cách mạng cần xuất trình đầy đủ giấy tờ xác nhận đi kèm (bản sao không cần chứng thực) để được ưu tiên phục vụ.

Thiệt là tử tế và ơn nghĩa hết biết luôn!

Tuy nhiên, với những kẻ suốt đời sống chui rúc dưới những “mái nhà sàn lợp tranh tuềnh toàng gió lộng” thì cái viễn ảnh “ưu tiên sử dụng lối đi riêng dành cho khách hạng thương gia” chắc còn xa lắm. E là họ phải chờ cho đến khi “CNXH có thể hoàn thiện ở Việt Nam vào cuối thế kỷ này,” như vị Tổng Bí Thư đương nhiệm đã từng kỳ vọng!

Thói đời thì xưa nay vẫn vậy mà. Đâu cũng thế thôi. Bạc bẽo vẫn là lẽ thường tình của thế nhân, chứ chả riêng chi những người CSVN. Họ chỉ khác người cái điểm là tuy ăn ở, cư xử rất tệ bạc nhưng lại thích khoe khoang thành tích mà phần lớn đều là giả tạo. 

Thí dụ điển hình gần nhất là hình ảnh “Mẹ Pa Kô Quảng Trị Gùi Bí Ngô Để Ủng Hộ Đồng Bào Miền Nam” đang lan tràn trên nhiều trang FB, giữa mùa dịch bệnh,  cùng với không ít những lời ca ngợi :

  • Hồ Thị Thập: Thương mẹ quá.
  • Tiên Thanh: Tấm gương Sáng ngời !
  •  Chi Vân: Thương bà mong bà có thật nhiều sức khoẻ.
  • Hồ Kết: Bà của mình là người pa cô nha bạn. Sống tại thôn A Đăng/ xã Tà Rụt/ h Đakrông/ T. Qtri.
  • Hồ Nương: Họ thật thà thiệt bụng. Con gái là cô con cháu bác hồ.

Con cháu bác Hồ thì đâu mà chả (dại) y như thế, chứ có riêng chi nơi miền sơn cước. Ở miền xuôi họ cũng vậy thôi :

Báo Quân Đội Nhân Dân, số ra ngày 20/07/21, còn vừa hân hoan cho biết thêm một trường hợp vô cùng “cảm động” khác nữa kia :

Cụ bà 90 tuổi góp lương thực hỗ trợ đồng bào miền Nam chống dịch. Nghe loa truyền thanh xã thông báo, vận động bà con đóng góp hàng hóa, củ, quả ủng hộ đồng bào miền Nam chống dịch Covid-19, cụ ông nói với cụ bà: “Nhà ta có mấy bao lạc. Bà chọn loại ngon nhất đem đi giúp người ta. Miếng khi đói bằng gói khi no bà ạ!”

Tình nghĩa tới cỡ đó mà nhân thế vẫn có điều tiếng eo sèo.

 Blogger Dương Hoàng Mai:

Hình được chú thích đã khiến nhiều người cảm động, riêng tôi chả cảm động chi ráo, mà thấy bất nhẫn khi đọc tin bà cụ 90 tuổi ở miền núi xa xôi phải vác 5 kí lô đậu phộng đi ủng hộ miền Nam thân yêu ! Dù là tình nguyện thì cũng phải hỏi con cháu khỏe mạnh, hàng xóm khỏe mạnh sao không xách giúp bà, 5 kí lô, với quãng đường núi xa xôi, với 90 tuổi.. Tội nghiệp quá !

Blogger Hiếu Chân:

Truyền thông của đảng đăng bài ca ngợi những cụ già 85 tuổi lấy tiền để dành lo hậu sự góp vào quỹ, trẻ em 5 tuổi nói chưa sõi cũng đập heo đất lấy tiền góp vào quỹ, mỗi người cả trăm triệu đồng! Lối tuyên truyền lố bịch đó tưởng rằng nêu gương tốt nhưng thực tế đã làm cho người đọc thấy rõ thêm bộ mặt trâng tráo và lòng tham vô đáy của nhà cầm quyền, cố vơ vét tiền bạc bằng mọi cách, không chừa cả trẻ em và bà lão.

Tôi thì không tin rằng bây giờ “trẻ em” và “bà lão” ở VN vẫn còn có thể bị dụ vào việc chống dịch như cô gái Pa Ko đã từng lao đời vào chuyện chống “giặc” (một cách hồn nhiên) như ngày xưa nữa. Mọi tin tức và hình ảnh thượng dẫn chỉ là những thủ thuật đã lỗi thời, để phô trương thành tích, của đám dư luận viên ngu ngốc mà thôi.

 Bạn có thể lừa gạt  mọi người vào một thời điểm nào đó, và có thể lừa gạt vài người vào bất cứ lúc nào nhưng bạn không thể lừa gạt tất cả mãi mãi được. (“You can fool some of the people all of the time, and all of the people some of the time, but you can not fool all of the people all of the time” – Abraham Lincoln).

Tưởng Năng Tiến
8/2021

TPHCM có trên 2000 ca tử vong, lò thiêu hoạt động 24/24

Đài Á Châu Tự Do

TPHCM có trên 2000 ca tử vong, lò thiêu hoạt động 24/24

Theo trang thông tin về dịch bệnh của Bộ Y tế Việt Nam, TPHCM hiện có ít nhất 2.105 ca tử vong vì COVID-19 khiến lò thiêu phải hoạt động hết công suất.

Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM Nguyễn Toàn Thắng hôm 5-8 cho hay, các bệnh nhân tử vong do COVID-19 tại thành phố được hỏa táng tại trung tâm hỏa táng Bình Hưng Hòa (Lò thiêu Bình Hưng Hòa) và đang hoạt động 24/24 giờ.

Theo Vietnam Plus, ông Nguyễn Đình Thắng phủ nhận chuyện tăng giá hỏa táng và từ chối nhận ca tử vong do COVID-19 tại Bình Hưng Hòa.

Ông Thắng cho biết thêm, sau khi hỏa táng, tro cốt sẽ được lưu trữ tại điểm lưu trữ của Công ty Môi trường đô thị, có dán đầy đủ thông tin của người mất đến khi gia đình có điều kiện nhận tro cốt sẽ giao lại.

Nếu người mất thuộc diện hộ nghèo, UBND thành phố sẽ chi ngân sách để hỗ trợ toàn bộ chi phí ở các khâu cho người dân, Giám đốc Sở TN&MT TPHCM cho biết.

Ngoài ra, Sở Y tế thành phố khẳng định, hiện nay chi phí cách ly, khám chữa bệnh cho bệnh nhân liên quan COVID-19 và những chi phí khác (trong trường hợp có bệnh nhân mất vì COVID-19) được miễn phí hoàn toàn.

Chi phí hỏa táng người tử vong vì vi-rút corona sẽ ở mức 4,2 triệu đồng và được miễn phí, còn lại các chi phí khác về dịch vụ mai táng thì người nhà sẽ tự chọn với đơn vị dịch vụ mai táng.

Phần chi phí hỏa táng sẽ được phía bệnh viện chi trả với đơn vị thực hiện dịch vụ mai táng, cũng theo thông tin từ Vietnam Plus.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Phan Văn Mãi cũng cho hay, chủ trương của thành phố sẽ hỗ trợ đối với những gia đình không may có người mất bằng ngân sách của thành phố hoặc nguồn xã hội hóa và cho rằng “đây là việc thiêng liêng, cần được làm chu đáo”.

#RFAVietnamese #TinRFA #LoThieuBinhHungHoa #BinhHungHoa 

May be an image of text that says 'Ảnh chụp màn hình CHÂUTỰ DO ĐÀIÁCHÂUTO DO ĐÀI CHÂU DO TPHCM có trên 2000 ca tử vong, lò thiêu hoạt động 24/24'

“Bên thắng cuộc” lột trần hậu trường chính trị VN

“Bên thắng cuộc” lột trần hậu trường chính trị VN

Theo blog BS Ngọc

Phải nói cho rõ là “hậu trường chính trị của chế độ Việt Nam theo chủ nghĩa xã hội, hay cộng sản”. Đã có nhiều người viết bài điểm sách, tôi không có gì để viết thêm. Tôi chỉ muốn rút ra vài điểm chính sau khi đã đọc xong bộ sách. Theo tôi nghĩ những câu chuyện Huy Đức thuật lại trong sách có thể giải thích tại sao nước ta nghèo hèn như hiện nay. Tôi cũng nghĩ các lãnh đạo thuộc phe XHCN của miền Bắc phải chịu trách nhiệm lớn trước lịch sử về những sai lầm của họ.

Một nhà văn hoá Âu châu từng nói rằng lịch sử chỉ là một chuỗi câu chuyện về gia đình và thế giới. Bởi thế, kể chuyện là một phương tiện có hiệu lực cao để giải thích những gì đã và đang xảy ra. Có thể khẳng định ngay rằng bộ sách Bên thắng cuộc của Huy Đức không phải là sách lịch sử. Huy Đức cũng nói rằng anh không viết sử. Tôi xem Bên thắng cuộc là một chuỗi câu chuyện hậu trường chính trị Việt Nam. Tất cả chúng ta cần phải biết những câu chuyện mà Huy Đức kể lại, bởi vì những câu chuyện đó sẽ thấp lên một que diêm trong cái lịch sử mờ ảo của Việt Nam vào những năm giữa thế kỷ 20 cho đến ngày hôm nay.

Đọc phần I của tập sách tôi như xem một cuốn phim quay chậm. Những kẻ một sớm chiều biến thành “Cách mạng 30/4”. Đốt sách. Cạo râu, cắt ống quần. Cải tạo. Kinh tế mới. Đánh “tư sản mại bản”. Đổi tiền. Vượt biên. Tất cả những biến cố đó là sự thật. Là người ở lại trong khi các đồng nghiệp tìm được vượt biên tôi có thể nói rằng tất cả những gì Huy Đức ghi chép đều đúng. Huy Đức không phải là người đầu tiên ghi lại những biến cố đau thương sau 1975. Trước Huy Đức đã có cụ Nguyễn Hiến Lê viết lại cẩn thận những sự kiện và biến cố làm cho miền Nam suy sụp sau ngày “giải phóng” trong tập Hồi Ký nổi tiếng nhưng bị nhà xuất bản cắt xén khá nhiều. Chúng ta thử đọc vài trích đoạn trong Hồi Ký của cụ Nguyễn Hiến Lê trước khi đọc sách của Huy Đức.

Kẻ “thắng trận” muốn biến miền Nam nghèo như miền Bắc:

“Sự thất bại hiển nhiên của chế độ là sự suy sụp của kinh tế như tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt nam trước thế chiến tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.

Nhưng một người Balan trong Ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quầ áo… về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi”. 

Trong cùng lúc ra tay hành hạ dân miền Nam:  

“Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ… để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá”.

Trong khi đó bản thân những kẻ “thắng cuộc” thì ăn hối lộ và tham nhũng:

“Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng: xin vô hộ khẩu một thành phố lớn thì bao nhiêu tiền, một thị xã nhỏ thì bao nhiêu, một ấp thì bao nhiêu. Muốn mua một vé máy bay, vé xe lửa thì bao nhiêu. Muốn được một chân công nhân viên, phải nộp bao nhiêu… Cái tệ đó còn lớn hơn thời trước”.

Họ tạo nên một xã hội trong đó con người mất nhân phẩm:

“Một cán bộ tài chánh xã mà không biết chia 72 cho 24. Trong một buổi hội họp của Hội trí thức thành phố Hồ Chí Minh, một kĩ sư già bực mình vì tình trạng cán bộ đa số dốt nát, bảo: “Tôi chấp nhận vô sản chuyên chính, mà không chấp nhận vô học chuyên chính”. Ngay chiều hôm đó ông ta bị bắt giam; sau cũng được thả ra”.

“Sống dưới chế độ cộng sản, con người hóa ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia. Ngay một phó viện trưởng cũng làm việc điểm chỉ đó mà bạn trong viện không hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó lại bị người khác kiểm soát lại. Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó”.

Tình trạng phân chia Nam Bắc càng nặng:

Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Ðào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.

Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc”.

bởi vì một trong những nguyên nhân là:

Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa.

Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kĩ thuật -điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học- thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẫy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…”.

Nhưng cụ Nguyễn Hiến Lê ghi chép thời cuộc, tình hình chung, còn Huy Đức thì cung cấp cho chúng ta những câu chuyện hậu trường, những suy nghĩ cá nhân của những người nặn ra những chính sách ác ôn dẫn đến tình hình mà cụ Nguyễn Hiến Lê nhận xét. Có thể nói rằng cuốn sách của Huy Đức là một bổ sung quý báu cho hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê.

Bây giờ chúng ta thử đọc xem Huy Đức đã cho chúng ta chứng từ để giải thích cho những nhận xét của cụ Nguyễn Hiến Lê. Đọc xong bộ sách tôi thấy những thông điệp sau đây lắng đọng trong tôi:

1.- Đó là một chế độ độc tài và toàn trị. Người cộng sản nói rằng chế độ do họ dựng lên là dân chủ tập trung. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy rằng chẳng có gì là dân chủ trong chế độ cộng sản. Tất cả các chính sách đều do một nhóm người trong Bộ chính trị quyết định. Nhưng qua Bên thắng cuộc, chúng ta còn biết rằng rất nhiều chính sách có ảnh hưởng đến hàng triệu người chỉ do một người quyết định, bất chấp những lời khuyên của người khác. Điển hình cho tính độc tài là quyết định mở cuộc tổng tấn công vào Tết Mậu Thân. Rõ ràng, đó là một chế độ độc tài, sao gọi là dân chủ tập trung được.

Điều mỉa mai nhất là họ cáo buộc rằng chế độ VNCH là do Mỹ dựng lên và tay sai của Mỹ, nhưng chính người lãnh đạo cao cấp nhất trong chế độ CS là Lê Duẩn khẳng định rằng họ đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Cộng. Hình như chưa một lãnh đạo miền Nam chưa ai trơ tráo nói rằng họ là tay sai của Mỹ. Nói cách khác, chế độ CS ngoài Bắc thời đó là một chế độ toàn trị tay sai của ngoại bang.

Tính toàn trị còn thể hiện qua việc Bộ chính trị kiểm soát cả hành vi xã giao của các đồng chí họ. Đọc đoạn Huy Đức tả cái bắt tay hờ hững của cựu thủ tướng Phan Văn Khải với ông Bill Clinton mà buồn cười về sự trẻ con và thiếu văn hoá của lãnh đạo CS. Ông Khải không mở miệng cười với Bill Clinton. Khi được hỏi tại sao lại có hành vi kém xã giao như vậy, ông Khải thú nhận: “Không được đâu mày ơi, Bộ chính trị đã thống nhất là không được cười”.  Đoạn viết về một ông tướng công an “làm việc” với ban giám hiệu Đại học Quốc gia Hà Nội để chỉ đạo lúc nào nên cười, lúc nào nên vỗ tay, thậm chí những hành vi xem thường ông Bill Clinton như để cho sinh viên đọc báo trong lúc ông nói. Tất cả những hành động và sự giật dây đó là những minh chứng hùng hồn cho thấy chế độ toàn trị kiểm soát tất cả hành vi sống của người dân.

2.- Nội bộ thiếu đoàn kết.  Thoạt đầu, ấn tượng của tôi về các vị lãnh đạo phe CSVN là họ rất đoàn kết với nhau. Nhưng đọc qua Bên thắng cuộc và kinh nghiệm cá nhân, tôi mới thấy ấn tượng đó rất sai lầm. Người CSVN, đặc biệt là trong giới lãnh đạo thượng tần, rất ganh ghét và đố kỵ lẫn nhau. Huy Đức qua những câu chuyện cá nhân phác hoạ một bức tranh rất xấu về Lê Đức Thọ và Lê Duẩn, hai người không ưa tướng Võ Nguyên Giáp. Từ một tướng vang danh thế giới bị hạ xuống người đi đặt vòng ngừa thai cho phụ nữ! Những ganh ghét và đố kỵ rất con người cũng giống như các lãnh đạo thuộc phe VNCH. Nhưng có cái khác biệt căn bản là các lãnh đạo VNCH hành xử có văn hoá hơn và có phần tế nhị hơn so với các lãnh đạo phe CS.

Họ sẵn sàng dựng nên những câu chuyện để bôi xấu lẫn nhau. Vụ án “Năm Châu – Sáu Sứ” được Huy Đức mô tả khá rõ và cho thấy các đồng chí thượng tầng CS có thể lập mưu mô để hạ bệ những ai họ không ưa thích. Họ còn dám dùng cả những thủ đoạn thấp như photoshop để nguỵ tạo hình ảnh trai gái để tố cáo ông Lê Khả Phiêu lúc đó là tổng bí thư đảng.

3.- Tàn nhẫnSự hành xử của một số lãnh đạo CS cấp cao có thể nói là tàn nhẫn. Sự tàn nhẫn thể hiện ngay giữa các đồng chí. Chúng ta thử đọc qua đoạn mô tả Võ Chí Công, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức Tâm trả thù Võ Viết Thanh sau khi tướng Thanh bắt Năm Châu và Sáu Sứ:

“Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khóa VII’.”

Ông Võ Viết Thanh phản ứng như ssau: 

“Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được. Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khóa, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận.”

4.- Lừa gạt và dối trá. Người dân đã bị bộ máy tuyên truyền của chế độ định hướng suy nghĩ và cảm nhận. Những trẻ em mới lớn lên đã bị bộ máy tuyên truyền nhồi nhét rằng các vị lãnh đạo đáng kính suốt đời hy sinh hạnh phúc cá nhân để đấu tranh cho bình đẳng xã hội. Họ còn bị nhồi nhét rằng chế độ VNCH là chế độ ác ôn, với những con người ăn trên ngồi trốc, trong khi phần lớn người lao động phải sống khổ cực. Nhưng Bên thắng cuộc lột trần “huyền thoại” cao cả của các lãnh đạo CS. Sự thật nói lên rằng họ chính là những người ăn trên ngồi trốc. Trong khi người dân không đủ cơm ăn thì họ phè phỡn với bơ sữa từ Đông Âu. Họ có những vườn rau riêng. Họ có một đội quân bác sĩ chăm sóc sức khoẻ dưới danh xưng “Ban bảo vệ sức khoẻ trung ương”. Người dân không có thuốc điều trị nhưng lãnh đạo CS thì có thừa. Nếu lấy cái nền lãnh đạo VNCH có đặc quyền đặc lợi là 1 thì những người lãnh đạo CS có đặc quyền đặc lợi phải lên đến 100. Do đó, tất cả những gì người CS phỉ báng giới lãnh đạo VNCH thì cũng chính là những gì họ phỉ báng chính họ với cường độ cao hơn 100 lần. Một cách ngửa mặt lên trời phun nước bọt.

5.- Đạo đức giả. Báo chí miền Bắc thường ra rả tuyên truyền rằng lãnh đạo VNCH là những kẻ ăn chơi, đa thê đa thiếp, chỉ biết suốt ngày nhảy đầm chứ chẳng có kiến thức chính trị gì cả. Họ còn viết hẳn một cuốn sách về các tướng lãnh VNCH. Đọc cuốn này cũng là một phương thức giải trí tốt vì các tác giả có khả năng tưởng tượng khá tốt. Nhưng còn các lãnh đạo CS thì sao? Họ là những kẻ nhiều vợ. Lê Duẩn. Nguyễn Văn Linh. Lê Đức Thọ. Võ Văn Kiệt. Có thể cả ông Hồ. Tất cả đều có hơn 1 vợ. Tất cả đều sẵn sàng bỏ vợ lại sau lưng để “theo đuổi sự nghiệp cách mạng”. Nhưng cũng có thể họ xem phụ nữ như là những người để họ giải quyết vấn đề tình cảm sinh lý. Không phải ai trong giới lãnh đạo CS đều sống vô đạo đức, nhưng nhìn qua những nhân vật cao cấp chúng ta thấy nói rằng thói đạo đức giả rất phổ biến trong giới thượng tầng của chế độ.

6.- Dốt nát. Chúng ta biết rằng những người cộng sản thế hệ thứ nhất như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (không tính đến những người như Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ) là những người có trình độ học vấn khá và có bản lãnh. Nhưng Bên thắng cuộc tiết lộ rằng những người thuộc thế hệ đàn em của những người tiền phong toàn là một nhóm người ít học. Những lãnh đạo như ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh … đều xuất thân từ thành phần không có cơ hội học hành đến nơi đến chốn. Sự dốt của lãnh tụ có khi đến mức hài hước. Trong phần viết về sức khoẻ lãnh đạo, chúng ta được biết ông Đỗ Mười nói về bệnh trạng của tướng Đoàn Khuê, qua lời thuật của ông Nguyễn Văn An, như sau: “Đoàn Khuê nói với tao, uống tam thất nó tan hết rồi mà. Đoàn Khuê còn vạch bụng cho tao xem. Tôi bảo: thưa anh, theo chuyên môn thì đấy là khối u nó chạy chứ không phải tan đâu ạ”. Thật kinh hoàng khi những con người như thể được đặt ở vị trí chót vót lãnh đạo một đất nước 90 triệu dân!

Qua Bên thắng cuộc chúng ta biết rằng các lãnh đạo CS có tầm nhìn rất hạn hẹp. Có thể do bị nhào nặn bởi tuyên truyền cộng với kém học thức nên các lãnh đạo CS có kiến thức rất nghèo nàn về thế giới ngoài các nước XHCN và Trung Cộng. Từ đó dẫn đến những nhận định sai lầm và những lựa chọn bất lợi cho đất nước. Điển hình là câu chuyện đằng sau việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Câu chuyện cho thấy giới lãnh đạo CS thiển cận và làng xã trong những nhận xét của họ về một đối thủ rất quan trọng.

Chúng ta thử đọc một đoạn “Cứu chủ nghĩa xã hội” để thấy ông Nguyễn Văn Linh có tầm nhìn và hành xử đầy kịch tính ra sao. Đọc cũng để thấy Gorbachev chẳng những mỉa mai mà còn khinh Nguyễn Văn Linh như thế nào:

Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh:

Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tới Berlin dự lễ kỷ niệm bốn mươi năm ngày thành lập Nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Quyết địng đi dự 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức là quyết định trực tiếp của cá nhân anh Linh. Anh Linh đã bàn với Bộ Chính trị về việc phải triệu tập một Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân quốc tế để cứu phong trào cộng sản, chống chủ nghĩa cơ hội. Anh sang Berlin là để gặp các đồng chí để bàn về việc ấy và gặp Gorbachev. Trong một cuộc họp, anh Linh nhận xét: Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh này”.

Bị đối xử như thương gia tầm thường:

Ngày 4-10-1989, từ Hà Nội, hãng Interflug của Cộng hòa Dân chủ Đức dành cho ông Linh một ghế hạng thương gia, các thành viên cao cấp khác – Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Trợ lý Tổng Bí thư Lê Xuân Tùng, Phó Ban Đối ngoại Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Tạ Hữu Canh và thư ký Lê Đăng Doanh – chỉ ngồi khoang hành khách thường.

Bị xem thường:

Một lễ đón đơn giản được tổ chức tại sân bay Berlin-Schronefeld rồi sau đó đoàn về khách sạn. …. Trong suốt chuyến thăm chính thức ấy, phía CHDC Đức không thu xếp cho ông Linh một buổi gặp chính thức nào với Honecker hay một nhà lãnh đạo khác. Thế nhưng, điều đó đã không làm ông Nguyễn Văn Linh từ bỏ ý đồ đóng vai trò trung tâm cứu nguy chủ nghĩa xã hội.

Đến nơi ở của các nhà lãnh đạo khác mới thấy cách đối xử của Erich Honecker với ông Nguyễn Văn Linh. … Trong khi ông Linh chỉ được xếp một phòng đôi lớn hơn phòng các thành viên khác trong đoàn một chút thì chỗ ở của Ceausesscu là một khu vực gồm nhiều phòngÔng Linh và tùy tùng phải đi qua một sảnh lớn nơi có một đội cận vệ 12 người bồng tiểu liên AK báng gập đứng chào. Ceaucesscu đã để ông Linh phải ngồi chờ rất lâu. Ông Linh nói: “Mày liên hệ thế nào mà giờ không thấy nó”. Tôi bảo: “Tính thằng này nó hình thức thế”. Một lúc sau thì Ceausesscu ra, chính ông ta lại là người tỏ ra hăng hái ủng hộ sáng kiến của ông Nguyễn Văn Linh nhất. Ceausesscu thậm chí còn đòi để Rumani đăng cai. Tuy nhiên, cả Ceausesscu và các nhà lãnh đạo cộng sản khác đều nói với ông Linh: “Vấn đề là ông kia, nếu ông ấy không đồng ý thì rất khó”. “Ông kia” đề cập ở đây là Gorbachev.

Dù ông Linh rất nhiệt tình cứu XHCN nhưng người ta làm ngơ:

Trong ngày 6-10-1989, giữa Berlin rét mướt, ông Nguyễn Văn Linh đã tìm gặp các nhà lãnh đạo cộng sản đến dự lễ quốc khánh để thảo luận về một sáng kiến mà ông đưa ra: triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Ông Linh nói: “Phe ta đang diễn biến phức tạp. Hơn bao giờ hết, đòi hỏi quốc tế vô sản phải siết chặt hàng ngũ. Đảng Cộng sản Việt Nam thấy nên có một hội nghị để thống nhất tư tưởng và hành động, tăng cường tình đoàn kết”.

Đa số các đảng cộng sản làm ngơ đề nghị của ông Linh, chỉ có Batmunkho Tổng Bí thư Mông Cổ, Phó Thủ Tướng Hernandez của Cuba, Tổng Bí thư Ceaucescu của Rumania, Tổng Bí thư Đảng vừa thất cử của Ba Lan Jaruzelski, Chủ tịch Đảng Cộng Sản Tây Đức (DKP) Herbert Mies là chấp nhận gặpChỉ có Helbert Mies, lãnh tụ của một đảng không cầm quyền và Phó thủ tướng Cuba Hernandez là tự tới nơi ông Linh ở. Theo ông Lê Đăng Doanh, những người khác chỉ tiếp ông Nguyễn Văn Linh tại phòng riêng của họ.

Sau nhiều cuộc trì hoản thì ông Linh cũng được Gorbachev cho một cuộc gặp mặt. Nhưng đó là một cuộc gặp mặt để Gorbachev khinh miệt ông Linh. Chúng ta hãy đọc tiếp: 

Từ 19 đến 21 giờ tối 6-10-1989, sau phần đọc diễn văn, cuộc mit-tin được chuyển từ trong một lâu đài ra một lễ đài ngoài trời duyệt quần chúng, thanh niên rước đuốc. Ông Lê Đăng Doanh kể: Đám thanh niên tuần hành sôi lên sùng sục kêu tên Gorbachev, “Gorby! Gorby!”. Anh Linh chỉ mặc bộ complet, tối nhiệt độ xuống khoảng 8 C, cận vệ quên mang áo lạnh, ông Nguyễn Văn Linh đứng run bần bật, kêu tôi: “Tao lạnh quá”. Tôi phải nói với một viên tướng Đức đứng cạnh đấy: “Tổng Bí thư của tôi quên mang áo ấm”. Viên tướng cho mượn tạm tấm áo choàng của ông ta.

Sáng hôm sau, 7-10-1989, theo lịch trình, mười giờ sẽ có duyệt binh, nhưng tám giờ, ông Nguyễn Văn Linh triệu tập họp Chi bộ Đảng thông báo tình hình sức khỏe: “Mình thấy có gì đó không bình thường, không nhắm được mắt, miệng cứng, không ăn được”. Về sau bác sỹ xác định đó là triệu chứng liệt dây thần kinh số 7. Mọi người đề nghị ông Linh không ra lễ đài, ông Nguyễn Khánh thay ông Linh dự duyệt binh rồi báo với “bạn”. Phía CHDC Đức mời ông Linh ở lại khám chữa bệnh và khuyên ông không nên về trong lúc này. Tuy bệnh tình càng ngày càng nặng, nước mắt chảy ra nhiều, miệng có biểu hiện bị méo và nói bắt đầu khó khăn, ông Nguyễn Văn Linh vẫn hy vọng rất nhiều vào cuộc gặp với Gorbachev.

Cuộc gặp Gorbachev dự kiến diễn ra lúc 10:30 sáng 8-10-1989, nhưng chờ đến mười một giờ cũng không thấy văn phòng ông ta gọi lại. Ông Linh rất sốt ruột. Theo ông Lê Đăng Doanh: Trong khi đó, sáng ngủ dậy, bệnh ông Linh càng nặng thêm. Khi ăn cơm, ông kêu tôi ra ngoài vì không muốn tôi chứng kiến cảnh ông ăn rất chật vật. Hàm bên trái của ông Linh cứng lại. Ông phải nhai ở phía bên phải sau đó dùng hai ngón tay đẩy thức ăn vào họng, chiêu một ngụm nước mới nuốt được.

Cuộc gặp Gorbachev được lùi lại 2:30 rồi 5:30 chiều cùng ngày. Gorbachev, khi ấy vẫn là nhà lãnh đạo của cả phe xã hội chủ nghĩa, được bố trí ở trong một tòa lâu đài. Nhưng, cuộc tiếp tổng bí thư Việt Nam đã không diễn ra trong phòng khách riêng mà ở ngay một phòng rộng mênh mông vừa dùng cho một tiệc chiêu đãi lớn, thức ăn thừa còn bề bộn trên các bàn. Nhân viên dọn một góc, kê bàn để Gorbachev tiếp ông Nguyễn Văn Linh. Gorbachev ra đón ông Linh ở sảnh và khi cửa xe mở, ông cúi đầu nói: “Kẻ cơ hội nhất hành tinh kính chào đồng chí Nguyễn Văn Linh”.

Dù đang bệnh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn trình bày rất nhiệt tình, nhưng theo ông Lê Đăng Doanh: Sáng kiến nào của ông Linh cũng được Gorbachev khen là “rất tốt” nhưng chỉ là những lời khen xã giao. Ông Linh nói: “Tôi đã gặp một số đảng cộng sản anh em. Trong tình hình này, Đảng Cộng sản Việt Nam muốn đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế”. Gorbachev liền giơ hai tay lên tươi cười: “Ý này hay nhỉ. Để xem! Để xem! Rất tiếc là giờ tôi đang nhiều việc quá!”. Ông Linh trân trọng mời Gorbachev đến thăm Việt Nam. Gorbachev lại kêu lên: “Hay quá nhỉ! Cám ơn! Cám ơn! Nhưng, tôi đang có nhiều lời mời quá mà chưa biết thu xếp cái nào trước”.

Cuối cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đề cập đến truyền thống viện trợ của Liên xô và khi ông đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp đỡ cho Kế Hoạch 5 năm 1990-1995 của Việt Nam thì Gorbachev xua tay. Không còn xã giao, lịch sự như phần trên nữa, Gorbachev nói: “Khó khăn lắm, khó khăn lắm, các đồng chí Việt Nam tự lo thôi”. Theo ông Lê Đăng Doanh: Thế nhưng, ngày hôm sau, báo Nhân Dân và Pravda đều đưa tin về cuộc gặp diễn ra trong “tình hữu nghị thắm thiết”.

Đọc những đoạn trích dẫn rất sống động này tôi phải nói là rất nhục. Là lãnh tụ một đất nước 90 triệu dân mà không nắm được tình hình thế giới để bị các lãnh đạo của chính thế giới XHCN xem thường như thế. Ông Nguyễn Mạnh Cầm có lẽ là người ngoại giao nên còn biết được tình hình thế giới. Ông đưa ra nhận xét rằng “Nhận thức của một số đồng chí trong Bộ chính trị lúc bấy giờ không theo kịp những thay đổi của tình hình thế giới”. Không theo kịp tình hình thế giới có nghĩa là sống trong cái ao làng. Chẳng biết ông Linh có hiểu những câu nói của Gorbachev hay không. Thật là nhục nhã. Tất cả cũng vì cái dốt.

Cái dốt của lãnh đạo CS còn thể hiện qua lần tiếp kiến giữa ông Lê Khả Phiêu và Bill Clinton. Trong buổi tiếp kiến, trong khi Bill Clinton nói về tương lai hợp tác, ông Lê Khả Phiêu lại tận dụng chuyện Bill Clinton “trốn lính” làm cho ông Bill Clinton rất giận và chắc chắc cũng rất khinh thường người đối diện mình:

Bill Clinton nhớ lại: “Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một người đã từng là tù binh chiến tranh. Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực dân hóa Việt Nam”.

Ông Phan Văn Khải nhớ lại: “Ông Phiêu nói như thời chiến tranh làm cho họ rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế giới giờ đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ giữa hai quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty lớn trên thế giới không có ai vào cả”. …

Clinton nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao hơn thì ngôn ngữ càng “sặc mùi” cộng sản theo kiểu cũ hơn”.

Sự dốt nát chính là một nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc bỏ lỡ cơ hội để phát triển đất nước.  Câu chuyện xung quanh ký hiệp định thương mại song phương BTA cho thấy giới lãnh đạo thượng tầng CS rất sợ Trung Cộng. Ông Nguyễn Mạnh Cầm nói “Tôi tiếc đứt ruột. Năm 1999, Bill Clinton muốn ký trước mặt các nhà lãnh đạo đủ cả phương Tây lẫn phương Đông. Khi ấy các tập đoàn sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ chỉ chờ có hiệp định là nhảy vào Việt Nam. Mình quyết định không ký, mất biết bao nhiêu cơ hội”. Không chỉ BTA, ngay cả những chần chừ để trở thành thành viên của ASEAN cũng phản ảnh sự kém hiểu biết của những người lãnh đạo CS chóp bu.

Sự dốt nát và kém hiểu biết của người CS không phải chỉ biểu hiện trong giới lãnh đạo mà còn ở những người trong giới học thuật và chuyên môn. Sau 1975 tôi đã có nhiều “tiếp cận” với những đồng nghiệp y khoa từ Bắc vào. Tôi có thể nói một cách không ngần ngại rằng trình độ của họ quá kém. Có lần một anh bác sĩ nghe nói là cấp cao ngoài đó mà viết tên thuốc trụ sinh còn sai. Không phải sai một lần mà nhiều lần. Chỉ nhìn nét chữ cũng có thể biết được anh chàng này thuộc thành phần bác sĩ gì. Ngay cả những người được “chi viện” để tiếp thu trường y Sài Gòn cũng là những người rất kém cỏi về kiến thức và kỹ năng lâm sàng. Họ bị các thầy trong Nam khinh ra mặt. Do đó tôi không hề ngạc nhiên khi đọc những dòng chữ viết về phản ứng của giới trí thức trong Nam trước những chính sách quái đản được áp dụng sau 1975. Họ vận hành theo tư duy rặt mùi cộng sản. Cứ đến ngày kỷ niệm nào đó họ hỏi có thành tích khoa học gì để chào mừng và nhận được câu trả lời của thầy Phạm Biểu Tâm: “Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả”. Sau này trong một lần họp bàn về cách giải quyết hệ thống nước bị đục, giáo sư Phạm Biểu Tâm không phát biểu gì cả. Đến khi bị ông Võ Văn Kiệt gặn hỏi, giáo sư Tâm vốn rất quý ông Kiệt, chỉ nói đơn giản “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khoẻ, vì cái gì cũng đã có các anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”. Đối với giới trí thức miền Nam ngày ra mắt đầu tiên của chính quyền không hề thuyết phục được họ. Cho đến bây giờ tình hình vẫn thế.

Bên thắng cuộc đã trở thành một tác phẩm bán chạy. Nếu được công bố ở trong nước tôi nghĩ chắc chắn bộ sách sẽ qua mặt bất cứ cuốn sách nào đang có trên thị trường. Đọc xong bộ sách tôi hiểu được tại sao nó nổi tiếng. Theo tôi, Bên thắng cuộc được nhiều người quan tâm vì trong đó có rất nhiều những câu chuyện hậu trường chính trị. Đặc biệt hơn là tất cả những câu chuyện hậu trường đều nói lên những hình ảnh tiêu cực của giới lãnh đạo CSVN. Khó tìm một câu chuyện nào mang tính tích cực trong sách. Trong đó có những con người ít học nhưng ngạo mạn. Đó là những con người đạo đức giả. Đó là những con người sẵn sàng chấp nhận đớn hèn để sống trong môi trường tàn ác. Đó là những con người tàn nhẫn và xảo trá. Những cá tính lãnh đạo như thế là tác giả của những quyết sách đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Họ dẫn đất nước bỏ mất cơ hội hết năm này sang năm khác. Những câu chuyện như thế giúp cho chúng ta nhìn thấy rõ hơn cái tâm kém và cái trí thấp của một số đông lãnh đạo chóp bu và giải thích tại sao đất nước và dân tộc chúng ta đã quá bất hạnh trong suốt 70 năm qua. Họ là nguyên nhân gần và tác nhân trực tiếp đã đưa đất nước nghèo hèn như hiện nay.  Họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.  

Một Gia Đình Nông Dân – Tưởng Năng Tiến

Một Gia Đình Nông Dân

Tưởng Năng Tiến

Tôi vốn chả thiết tha hay mặn mà gì lắm với chuyện văn nghệ/văn gừng nên hoàn toàn không quan tâm chi đến những điều tiếng eo sèo, quanh mấy câu thơ (“hơi quá tân kỳ”) của Nguyễn Quang Thiều.

Theo Wikipedia, tiếng Việt, đọc được vào hôm 21 tháng 7 năm 2021: “Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyếttruyện ngắnbút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi.”

Thảo nào mà Nguyễn Quang Thiều thường xuất ngoại, và hay viết về những chuyến đi. Năm tháng mà Nguyễn Quang Thiều sống ở nước ngoài, có lẽ, ít hơn thời gian tôi ngồi lê la trong mấy cái bar rượu (nơi xứ lạ) nên đọc mấy trang du ký của ông không thấy có chi là hào hứng lắm.

Cũng theo Wikipedia: “Nguyễn Quang Thiều được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo là tờ An Ninh Thế giới cuối tháng và Cảnh Sát Toàn Cầu.”

Đã là một quan chức trong chế độ toàn trị, lại làm báo Cảnh Sát với một ông tướng công an (rất nhiều tai tiếng) nên thỉnh thoảng Nguyễn Quang Thiều vẫn bị chê trách là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, khách quan mà xét thì khó có thể phủ nhận được rằng ông là một người cầm bút có tài (và cũng rất có tâm) khi viết về cuộc sống ở nông thôn.

Hãy xem qua đôi đoạn (“Thư Của Đứa Con Những Người Nông Dân”) đã được đăng nhiều kỳ trên trang Vietnamnet:

“Cảnh làm ruộng của những người nông dân của mấy chục năm trước kia và bây giờ chẳng khác nhau chút nào. Có khác thì chỉ khác một điểm. Đó là người nông dân đi sau đít con trâu mấy chục năm trước kia hiện ra trong ảnh đen trắng còn người nông dân bây giờ vẫn đi sau đít trâu nhưng là trong ảnh màu rực rỡ….”

Trong những tấm “ảnh mầu rực rỡ” này, Nguyễn Quang Thiều tìm ra được nhiều con số rất “kinh hoàng” – theo như nguyên văn cách dùng từ của chính ông:

“Khi tiếp xúc với những người nông dân, tôi thường xuyên hỏi về tổng thu nhập mỗi tháng của một khẩu trong một gia đình họ là bao nhiêu. Dù rằng tôi biết họ đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả nhưng tôi vẫn kinh ngạc khi nghe một con số cụ thể:

‘Tổng thu nhập một tháng trên một khẩu của chúng tôi là 40.000 đồng …’ 40.000 đồng có giá trị như thế nào lúc này. Đó là giá của 2 bát phở, giá của 4 lít xăng, giá của hai xuất cơm trưa văn phòng, giá của một cuốc xe ôm trên đoạn đường 10km, giá của hơn một bao thuốc lá 555, giá của 3 ly cà phê…Tôi biết sẽ có rất nhiều người không thể tin rằng tổng thu nhập hàng tháng của một khẩu trong hầu hết những gia đình nông dân lại chỉ với một con số ‘kinh hoàng’ như thế.”

Nhà văn Nguyễn Khải còn cho biết thêm đôi ba sự việc còn “kinh hoàng” hơn thế nữa:

“Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay.”

Dù “dở nhiều hơn hay,” làng quê Việt Nam vẫn tồn tại nhờ vào vô số những nông dân “đội sương nắng bên bờ ruộng sâu, vài ngàn năm đứng trên đất nghèo ” để nuôi nấng cho cả dân tộc này được sống “no lành” – theo như lời (Tình Ca) thắm thiết của Phạm Duy.

Câu hỏi đặt ra là liệu giới nông dân còn vẫn có thể tiếp tục “đứng” mãi như thế thêm bao lâu nữa, trước tình trạng nông thôn đang bị bức tử một cách thảm thương như hiện cảnh? Bi kịch mới nhất của giới nông dân Việt Nam vừa được RFA tường trình, vào hôm 22 tháng 6 vừa qua:

“Vụ án hai nhà hoạt động vì quyền đất đai là ông Trịnh Bá Phương và bà Nguyễn Thị Tâm bị cáo buộc tội danh ‘phát tán tài liệu nhằm chống nhà nước’ đã kết thúc giai đoạn điều tra vào hôm 15 tháng 6 năm 2021…

Bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương, cho biết, gia đình chồng của cô có tổng cộng ba người bị bắt giữ, bao gồm ông Phương bị công an Hà Nội bắt giam một năm về trước – chỉ bốn ngày sau khi bà sinh con…

Luật sư Lê Văn Luân, người bào chữa cho cả hai nhà hoạt động thì cho hay trên Facebook cá nhân rằng, cả bà Nguyễn Thị Tâm và ông Trịnh Bá Phương đều bị đề nghị truy tố theo khoản 2, Điều 117 Bộ Luật Hình sự với khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù giam.

Bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương, cho biết, gia đình chồng của cô có tổng cộng ba người bị bắt giữ, bao gồm ông Phương bị công an Hà Nội bắt giam một năm về trước – chỉ bốn ngày sau khi bà sinh con…

Luật sư Lê Văn Luân, người bào chữa cho cả hai nhà hoạt động thì cho hay trên Facebook cá nhân rằng, cả bà Nguyễn Thị Tâm và ông Trịnh Bá Phương đều bị đề nghị truy tố theo khoản 2, Điều 117 Bộ Luật Hình sự với khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù giam.”

FB Vũ Quốc Ngữ cho biết thêm: “Từ đầu năm đến nay, an ninh Việt Nam bắt giữ ít nhất 13 người theo cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ hoặc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ,’ và kết án 14 người cũng theo hai tội danh trên với mức án từ 4 năm đến 15 năm tù giam.”

Cả hai tội danh thượng dẫn đều rất mơ hồ – nếu chưa muốn nói là hàm hồ – chỉ để che đậy cho những sự thực (phũ phàng) liên quan đến việc tranh chấp đất đai ở xứ sở này:

Hiến pháp 1959 vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai” như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…

Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Chính cái được mệnh danh là “chế độ công hữu” này đã sản sinh ra vô số những “vụ cướp ngày” từ mấy thập niên qua:

“Chỉ đến thời đại của Internet và đặc biệt là mạng xã hội, những vụ cướp đất đầy tai tiếng mới được phơi bày, luôn luôn đầy bạo lực, máu, nước mắt, và tù tội. Những cái tên đất, tên làng đã đi vào… lịch sử cướp đất: Tiên Lãng, Văn Giang, Đồng Tâm, Dương Nội, Thủ Thiêm, và nhiều nữa… (Đoan Trang, Trịnh Hữu Long. “Chính Trị Việt Nam: Một Thập Kỷ Nhìn Lại.” Luật Khoa Tạp Chí 30/12/2009).

Tác giả Đỗ Thúy Hường tóm gọn:

“Luật ngày càng rườm, dài. Nhưng ‘tim đen’ của luật lại rất đơn giản. Nó nằm ở nội hàm của từ ‘quản lý’… Chỉ bằng một câu viết trên giấy ‘Đất đai (về hình thức) là sở hữu toàn dân, (nhưng thực chất) do nhà nước toàn quyền quản lý’… Thế là, lập tức 50-60 triệu nông dân đang có ruộng, phút chốc biến ngay thành tá điền của đảng.”

Phải cần thêm bao nhiêu dân oan, bao nhiêu mảnh đời bầm dập, và bao nhiêu gia đình nông dân tan nát nữa để cái nhà nước hiện hành có thể “hoàn thiện CNXH ở Việt Nam vào cuối thế kỷ này” ?

Tưởng Năng Tiến
7/2021