Việt Nam ngày 30/4, bận bịu với quá khứ và chưa biết phải làm gì với hiện tại

Việt Nam ngày 30/4, bận bịu với quá khứ và chưa biết phải làm gì với hiện tại

Bởi  AdminTD

 Jackhammer Nguyễn

2-5-2022

San Jose, California, Hoa Kỳ

Buổi lễ kỷ niệm 30/4 diễn ra trước bảo tàng Viet Museum, San Jose, California, hay còn gọi là Bảo tàng Thuyền nhân Việt Nam.

Người ta thả bảy quả bong bóng màu vàng tượng trưng cho 7 vị sĩ quan cấp tướng và tá của quân đội Việt Nam Cộng hòa tự sát trong ngày 30/4/1975, không để bị quân đội cộng sản cầm tù.

Buổi lễ năm nay có một gương mặt còn trẻ của cộng đồng, là thiếu tướng Lương Xuân Việt, một trong những người được vinh dự cầm một trong bảy quả bóng, tượng trưng cho bảy vị tuẫn tiết. Ông Việt là người gốc Việt đầu tiên được phong tướng trong quân đội Mỹ.

Những người như ông Việt không nhiều. Cũng như những buổi tập hợp mang tính chính trị của cộng đồng người Việt ở Mỹ trong 10 năm trở lại đây, người ta thấy những mái đầu bạc ngày càng nhiều, rồi những hàng ghế cũng trống đi, mà không có mấy mái đầu xanh thế chỗ.

Các diễn từ thì không thay đổi, vẫn nhắc lại ngày đau buồn của Sài Gòn sụp đổ, cùng với thảm trạng tù cải tạo, thuyền nhân sau đó. Tôi cảm thấy như đang đi trên một con tàu xuyên ngược thời gian, và hóa thạch lại ở một điểm dừng cách đây bốn thập niên. Hai lá cờ Việt Nam Cộng hòa và Mỹ bay phần phật trong nắng gió California, phía sau lưng tôi là một cụ bà lưng đã còng, chắp tay theo nghi thức Phật giáo, hướng mắt về lá cờ, nước mắt lưng tròng.

Cách đây mấy năm, một người bạn vong niên nói với tôi rằng: Chúng ta đang chết (nguyên văn: We are dying).

Bên ngoài công viên của nhà bảo tàng, “chúng ta không đang chết” chút nào cả. Các tiệm ăn, quán xá dọc hai con đường Story và Tully, được xem như trung tâm của khu Việt Nam ở San Jose, tấp nập thực khách, ngoài đường xe kẹt hàng đoàn dài…

Hơn 100 ngàn người gốc Việt ở San Jose vẫn tạo nên cái không khí nhộn nhịp đó như mọi ngày. Hơn 100 ngàn người gốc Việt đó đủ sức kéo các quan chức hàng đầu của địa phương đến dự lễ 30/4, từ ông thị trưởng Sam Liccardo cho đến dân biểu liên bang Ro Khanna (tôi có nghe xướng tên ông này, nhưng không thấy ông), đều có mặt tại nhà bảo tàng, cầm bong bóng tưởng niệm các vị tướng Việt Nam.

Việt Nam

Sau buổi lễ ở San Jose, tôi về nhà giở các trang báo Việt Nam trong nước ra, xem họ nói gì về ngày 30/4. Trên các tờ báo nhiều người xem nhất Việt Nam hiện nay, như Tuổi Trẻ, VietNamNet… tôi không thấy người ta dùng chữ … “giải phóng”, mà thay vào đó là “thống nhất”, hay “kết thúc chiến tranh”. Nhưng bài xã luận trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, vẫn là một áng văn mẫu đầy… “giải phóng”!

Tuy nhiên, điều đáng chú ý nhất trong ngày 30/4 năm nay từ bên kia Thái Bình Dương là bài viết của ông Nguyễn Đình Bin, cựu đại sứ Việt Nam tại Pháp, cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nay đã về hưu. Ông Bin cũng từng là ủy viên Trung ương Đảng, một trong 200 người có quyền nhất ở Việt Nam. Ông Bin nói, cuộc chiến Việt Nam có tính chất nội chiến và ông bác bỏ mô hình cộng sản.

Ông Bin là nhân vật cộng sản cao cấp nhất của Việt Nam cho đến nay công nhận rằng cuộc chiến Việt Nam có tính chất nội chiến. Dù văn phong của ông vẫn là văn phong của một cán bộ chính trị cộng sản, bài viết của ông vẫn bị cái bóng của Đảng trùm lên, việc công nhận tính chất nội chiến, đồng thời với sự thẳng thắn bác bỏ mô hình kinh tế xã hội cộng sản, là một điều rất khác so với trước.

Tôi nghĩ, ông Bin là một người từng trải, từng chứng kiến nhiều điều bên ngoài Việt Nam, từng quan sát cộng đồng người Việt hải ngoại, thực lòng nói lên suy nghĩ của ông là mong muốn hòa giải giữa những người dự buổi lễ ở San Jose, và những người viết bài xã luận trên báo Nhân Dân. Nhưng trong bài viết của ông lộ rõ một mâu thuẫn, khi ông thẳng thắn gạt bỏ mô hình kinh tế xã hội cộng sản lỗi thời, làm thế nào ông có thể dung hòa với cái bóng của Đảng trong bài viết của ông?

Ông Bin là một viên chức đã về hưu, sức mạnh trong cái mới của bài viết ông cũng bị giảm đi phần nào. Nhưng nếu chúng ta nhìn lại rằng, đã từng có vị đại sứ bị cầm tù không án sau thời gian hoạt động ở “vùng địch”, có thể nói rằng ông Bin là một tiếng nói can đảm.

Bận bịu với quá khứ và chưa biết làm gì

Các hoạt động từ hải ngoại nhằm thay đổi chế độ toàn trị cộng sản trong nước, cho đến giờ này đã hoàn toàn thất bại. Nhiều người bỏ công tìm kiếm nguyên nhân, và có lẽ ý kiến hợp lý nhất, cũng được nêu lên trong ngày 30/4 năm nay, là của ông Từ Thức, ở Pháp, rằng ý thức dân chủ của người Việt hãy còn chưa đủ!

Có thể còn một lý do nhỏ nữa, theo ý chủ quan của tôi, là hoạt động của người Việt hải ngoại trong ngần ấy năm không có gì thay đổi, vẫn quá nhiều cảm xúc, không theo kịp sự thay đổi của cuộc sống bên trong Việt Nam. Mà không phải chỉ bên trong Việt Nam, nếu chúng ta quay lại khung cảnh đường phố San Jose sôi động ngày thứ bảy và những buổi lễ ngày càng thưa thớt trước Viet Museum. Trong cái đám đông người gốc Việt làm cho San Jose sôi động ấy, rất nhiều người không gắn với quá khứ tù cải tạo, hay thuyền nhân, và họ ngày càng đông. Những người này không biết có một buổi lễ kỷ niệm có tên gọi là Tháng Tư Đen.

Bên kia Thái Bình Dương, tôi không chắc bài viết của ông Nguyễn Đình Bin đại diện cho một sự thay đổi lớn nào đó. Dù có sự thay đổi trong cách phát ngôn, nhưng các trang báo “quan điểm lập trường, chủ trương đường lối” cũng vẫn như cũ. Mà không chỉ báo chí nhà nước, nếu ta bỏ công theo dõi mạng xã hội của những người Việt ủng hộ nước Nga xâm lược trong những ngày này, vẫn đầy rẫy những cái gọi là… “hồng hơn chuyên”!

Bộ máy thư lại theo kiểu toàn trị của Việt Nam thất bại thảm hại trong việc chống dịch bằng công an trong năm 2021. Vị trí địa lý đắc địa của Việt Nam đã cứu dân chúng bằng những lô vaccine từ Mỹ và Anh, vì Mỹ và Anh cần Việt Nam hiện nay trong cuộc đối đầu với Bắc Kinh.

Trong quyển hồi ký của cựu đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Ted Osius có nói rằng, nỗ lực hòa giải của ông giữa cộng đồng người Việt chống Cộng ở hải ngoại và nhà cầm quyền Hà Nội đã thất bại.

Tôi chợt nghĩ đến chuyến thăm Mỹ sắp tới đây của thủ tướng Phạm Minh Chính, nhân thượng đỉnh Mỹ ASEAN trong hai ngày 12 và 13/5/2022.

Theo những tin tức chưa được kiểm chứng, có thể ông Chính sẽ tới Bắc California để họp bàn các vấn đề hợp tác kinh tế với California. Nếu điều đó diễn ra, chắc chắn ông Lam Liccardo, thị trưởng thành phố San Jose, sẽ có mặt. Thị trưởng Liccardo cũng đã có mặt trong buổi lễ kỷ niệm Tháng Tư Đen năm nay.

_______

Một số hình ảnh lễ kỷ niệm Tháng Tư Đen tại Bảo tàng Thuyền nhân Việt Nam ở San Jose, California, Hoa Kỳ, của tác giả Jackhammer Nguyễn gửi cho Tiếng Dân:

Vì sao tháng 4 vẫn là thời điểm làm người Việt nhức nhối? (VOA)

Vì sao tháng 4 vẫn là thời điểm làm người Việt nhức nhối?

28/04/2022

Tại một sự kiện tưởng niệm biến cố 30 tháng Tư tại Little Saigon, California.

Còn ba năm nữa là tròn 50 năm Việt Nam thống nhất về mặt địa lý nhưng thực tế cho thấy, thời gian không phải là yếu tố có thể tạo ra… đồng tâm.

Sắp hết tháng thứ tư của năm 2022 và dù sắp tròn 47 năm kể từ sự kiện 30/4/1975 nhưng tháng tư năm nay vẫn là thời điểm cho thấy sự kiện “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” không thống nhất được nhân tâm dù hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không ngừng đề cao… “hòa hợp, hòa giải”…

Không chỉ ở hải ngoại, tại Việt Nam, nhờ Internet và thực trạng quốc gia trong 47 năm qua, đặc biệt là thời gian gần đây đã khiến nhận thức về sự kiện 30/4/1975 đang tiếp tục thay đổi cả trên diện rộng lẫn chiều sâu, ngược chiều với nỗ lực tuyên truyền về cuộc “kháng chiến chống Mỹ” nhằm… “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”!..

Ví dụ, Nguyễn Thiện góp ý về… “Ngụy”: Cách đây nhiều năm, báo Tuổi Trẻ đề nghị tôi viết suy nghĩ về 30 tháng 4. Tôi nêu ý kiến là phải chấm dứt việc gọi Việt Nam Cộng hòa (VNCH) là “ngụy” và Tuổi Trẻ lúc ấy đã đăng. Theo dõi, tôi thấy thay đổi chậm, nhiều phim tài liệu chiếu trên Đài Truyền hình Quốc gia vẫn ra rả… “ngụy”. Tôi mong dịp 30 tháng 4 này, Bộ Chính trị có văn bản chỉ đạo toàn bộ hệ thống chính trị không được gọi VNCH là ngụy. Nếu điều đó được làm với sự thành tâm thì không chỉ nhằm hòa giải đoàn kết dân tộc mà còn liên quan mật thiết đến tính pháp lý khi chúng ta khẳng định với thế giới rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam (1).

Ví dụ, Nguyễn Đình Bin – cựu Ủy viên BCH TƯ đảng CSVN, cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài – nhấn mạnh “thiết tha kiến nghị” của ông: Truy phong “Liệt sĩ” và khen thưởng xứng đáng các sĩ quan, binh lính, viên chức của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc ở Hoàng Sa. Đó là những người con đích thực của dân tộc Việt Nam. Thực hiện đầy đủ chính sách người có công hiện hành đối với họ và thân nhân, cũng như tất cả sĩ quan, binh lính, viên chức khác của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đồng bào miền Nam đã có công tham gia phục vụ cuộc chiến đấu lịch sử này.

Ông Bin đề nghị: Xây dựng tượng đài xứng đáng về sự kiện hải chiến ở Hoàng Sa tại thành phố Đà Nẵng. Xây dựng tượng đài xứng đáng tưởng niệm các Liệt sĩ Gạc Ma và những người đã anh dũng hy sinh bảo vệ quần đảo Trường Sa tại thành phố Nha Trang. Xây dựng tượng đài xứng đáng, đặt tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh để tưởng niệm tất cả đồng bào ta, dù ở bên này hay bên kia, đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh đã diễn ra trên đất nước ta hơn một thế kỷ qua, nói cho cùng, cũng như toàn thể dân tộc ta, đều là nạn nhân của đại họa ngoại bang đến thống trị và xâm lược nước ta và của cuộc xung đột tư tưởng Đông – Tây trực tiếp đã diễn ra trên đất nước ta.

Ông Bin còn đề nghị: Chấm dứt chính sách phân biệt đối xử, thực hiện chính sách xã hội hiện hành đối với cả các thương, phế binh, viên chức cũ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và thân nhân. Theo ông: Các việc làm nói trên sẽ lay động mọi trái tim Việt, khơi dậy và thổi bùng nhiệt huyết yêu nước, tình nghĩa đồng bào, góp phần hòa giải, hòa hợp, hàn gắn vết thương dân tộc sau gần nửa thế kỷ chiến tranh chấm dứt vẫn còn rỉ máu, kết nối mọi con cháu các Vua Hùng, ở trong cũng như ngoài nước, thành một khối, đồng lòng sát cánh cùng nhau chung sức đạp bằng mọi chông gai, trở ngại, đưa non sông gấm vóc bật dậy, đuổi kịp và sánh vai tiến bước cùng các quốc gia giầu mạnh, tiên tiến trên thế giới, bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc đã và đang bị Trung Quốc vi phạm, xâm lấn nghiêm trọng (2)…

Giống như 47 năm qua, tháng tư năm nay, có rất nhiều người hồi tưởng về những gì họ đã trải qua trước, trong cũng như sau sự kiện 30/4/1975, chẳng hạn trên “Trang văn chương miền Nam” (3), Thanh Luu đề nghị mỗi người trong số hơn 75.000 thành viên kể lại chuyện của chính họ (4)…

30 tháng 4 năm nay, Hoang Ngoc Dieu công bố một tài liệu được lưu trữ trong kho dữ liệu của “Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Khánh” (hình thành sau tháng 4/1975 và đã được tách ra thành Phú Yên và Khánh Hòa). Theo Hoang Ngoc Dieu thì trong quá trình lục lọc, tìm kiếm tài liệu, ông tìm được tài liệu này – bản thống kê tên chủ sở hữu và địa chỉ những bất động sản bị đảng CSVN “tịch thu” sau khi “giải phóng hoàn toàn miền Nam”. Hoang Ngoc Dieu nhấn mạnh, danh sách bất động sản bị tịch thu và nay ông công bố chỉ trong phạm vi thị xã Nha Trang – nơi theo thống kê của Nha Điền địa chỉ có khoảng hơn 10.000 gia đình nhưng có tới hơn 1.000 gia đình bị “tịch thu” nhà.

Ngoài việc đề nghị mọi người tham khảo, Dieu lưu ý: Ai có tên trong danh sách hoặc ai đang cư ngụ ở những địa chỉ có trong danh sách thì nên biết rằng, năm xưa, từng căn nhà trong danh sách này đã từng là mái ấm – nơi cư trú của gia đình nào đó rồi bị cướp đoạt sau khi miền Nam “được giải phóng” (5).

Từ danh sách mà Hoang Ngoc Dieu công bố, Như Hiếu – một friend của Dieu – kể thêm câu chuyện về gia đình bác gái. Vợ chồng bà có bốn người con ngụ ở Nha Trang. Họ có nhà và một dãy phòng trọ cho thuê. Sau khi miền Nam “được giải phóng”, gia đình này không chỉ tan tác mà còn mất sạch tài sản. Đầu tiên là dãy phòng trọ cho thuê bị tịch thu, kế đó là họ bị “tịch biên tài sản” vì là “tư sản”. Trắng tay, họ bỏ Nha Trang vào TP.HCM ở trọ nhà sui gia rồi mất… Con cái họ đã bỏ xứ đi ngoại quốc. Như Hiếu cho biết: Anh chị họ của tôi giờ đang ở bên Mỹ. Tuy không tiện để hỏi cho tường tận nhưng tôi biết chắc toàn bộ tài sản của họ đều… lọt vào tay… “tộc cối”!..

***

Cho dù vẫn đề cao… “hòa hợp, hòa giải” nhưng những diễn biến về mặt nhận thức trong tất cả các giới ở Việt Nam như vừa kề đã khiến hệ thống chính trị, hệ thống công quyền buộc phải tự lột mặt nạ, một số cơ quan truyền thông trong hệ thống truyền thông chính thức như Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân,… trước nay luôn sắm vai… “xung kích” để bảo vệ… “sự đúng đắn” của đảng CSVN, giờ bị đẩy vào thế phải sổ toẹt “hòa hợp, hòa giải” hay “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”… Theo Quân Đội Nhân Dân thì… “Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa” (6).

Bất kể các tư liệu lịch sử đã được bạch hóa cả ở trong lẫn ngoài Việt Nam, chứng minh đảng CSVN đã xâm chiếm miền Nam Việt Nam suốt 20 năm, chính quyền cộng sản ở miền Bắc Việt Nam đã vi phạm các cam kết với cộng đồng quốc tế trong những hiệp định như Geneve (1954), Paris (1973), vừa xin, vừa vay đủ thứ từ các quốc gia trong khối cộng sản, vừa đón ngoại nhân vào lãnh thổ để gia tăng nguồn lực xâm chiếm miền Nam,… thì “hòa hợp dân tộc” vẫn là phải cúi đầu thừa nhận… sự kháng cự của miền Nam Việt Nam là “phi nghĩa” và “chính quyền Việt Nam Cộng hòa là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới”.

Với quan điểm như thế, Công An Nhân Dân xếp những người không chấp nhận “hòa hợp, hòa giải” bằng cách… cúi đầu thừa nhận “chính nghĩa” của cuộc chiến 21 năm do đảng CSVN khởi xuống để “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” là “chống đối”, xếp việc có chính kiến khác với quan điểm của đảng về cuộc chiến này là “giữ cách nhìn thù hận về đất nước, quê hương”. Lên án họ “không có khái niệm hòa hợp”, thiếu thiện chí, “chứng tỏ sự bảo thủ, định kiến trước sự đổi mới, mở cửa của đất nước cũng như truyền thống bao dung, chung lòng đất mẹ, ân nghĩa một nhà…”. Khuyên họ “hướng về nguồn cội bằng sự chân thành chứ không phải là đặt điều kiện” (7).

***

Còn ba năm nữa là tròn 50 năm Việt Nam thống nhất về mặt địa lý nhưng thực tế cho thấy, thời gian không phải là yếu tố có thể tạo ra… đồng tâm. Tại sao “hòa hợp, hợp giải” thất bại, thậm chí càng ngày càng nhiều người Việt nhận thức lại về cuộc chiến “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, về sự kiện 30/4/1975?

Chú thích

(1) https://www.facebook.com/nguyenthien.haihuoctutrao/posts/10221809446605448

(2) https://www.facebook.com/dinh.nguyen.94009841/posts/5106092716119686

(3) https://www.facebook.com/groups/395853348109312

(4) https://www.facebook.com/groups/395853348109312/posts/735055564189087/

(5) https://www.facebook.com/HND.Activist/posts/5242213912467540

(6) https://www.qdnd.vn/phong-chong-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/nhan-thuc-dung-gia-tri-cua-chien-thang-30-4-1975-co-so-cua-dao-duc-nhan-cach-va-tri-tue-cua-nguoi-viet-nam-692927

(7) https://antgct.cand.com.vn/Chuyen-de/dat-me-bao-dung-i651611/

Những ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam và bí mật về sự can thiệp của Trung Quốc (VOA)

Những ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam và bí mật về sự can thiệp của Trung Quốc

30/04/2022

Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai gặp mặt Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger trong cuộc gặp được gọi là “lịch sử” tại Bắc Kinh ngày 9/7/1971.

Hơn mt thp k tìm kiếm qua nhng tài liu gii mt và các cuc phng vn vi nhng người trong cuc, nhà s hc George J. Veith phát hin ra điu mà ông gi là bí mt ln cui cùng ca Chiến tranh Vit Nam

Lần đầu tiên ông Veith, người có bằng tiến sỹ về sử học, biết về ‘bí mật’ này là qua một nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa và cũng là bạn của ông, Nguyễn Xuân Phong, người từng là Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm Paris của chính phủ VNCH trước khi tới Mỹ và làm việc tại Đại học Texas Tech đầu những năm 2000.

“Ông (Phong) nói rằng ông có một ‘bí mật lớn’ mà ông chưa nói với ai,” ông Veith, một cựu Đại úy Lục quân Hoa Kỳ, nói và cho biết ông Phong đã giữ kín bí mật đó trong hơn 30 năm. “Ông ấy chỉ nói rằng khi còn ở trong trại cải tạo (của Bắc Việt), những người Cộng sản đã đánh đập ông để tìm ra những gì ông ấy biết nhưng ông không nói.”

Qua một cuộc điện thoại cách đây nhiều năm, ông Phong cho ông Veith biết rằng “phía Trung Quốc muốn đưa hai sư đoàn nhảy dù vào Biên Hòa để chặn cuộc Nam tiến của quân Bắc Việt” trong những ngày tháng cuối của cuộc chiến tranh.

Theo phát hiện của nhà sử học từng viết 4 cuốn sách về đề tài Chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc, một đồng minh lâu năm của miền Bắc Việt Nam, có thể đã tìm cách tạo ra một miền Nam trung lập vào năm 1975 nhằm ngăn cản Hà Nội giành được chiến thắng mà họ đã tìm kiếm từ lâu.

“Điều này thực sự là sốc vì Trung Quốc, cùng với Liên Xô, đã hỗ trợ Hà Nội trong suốt những năm tháng đó rồi đột nhiên thay đổi,” ông Veith nói với VOA về sự phát hiện khiến ông “bàng hoàng.”

Phát hiện này được ông Veith tiết lộ trong cuốn “Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams,” (Tuốt gươm ở miền đất xa lạ: Những giấc mơ tan vỡ của miền Nam Việt Nam) trong đó cung cấp nhiều chuyện hậu trường chưa được biết tới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, tập trung vào sự nghiệp chính trị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng như thăng trầm của chính quyền dưới thời ông. Đây là cuốn sách mới nhất và cũng là cuốn sách thứ 4 của ông Veith về Chiến tranh Việt Nam, ra mắt vào năm ngoái. Trước đó, ông cho ra mắt cuốn “Black Friday: The Fall of South Vietnam 1973-75” (Tháng Tư đen: Sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam 1973-75) sau hai cuốn về việc tìm kiếm binh sỹ Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam.

‘Người đưa thư

Trong thời gian đàm phán ở Paris về Việt Nam từ 1968 đến 1975, ông Phong – từ địa vị thành viên đến trưởng phái đoàn rồi Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm – cho ông Veith biết rằng ông đã tiếp xúc với phía Trung Quốc nhằm để cứu vãn miền Nam Việt Nam.

Không lâu sau khi Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger có chuyến thăm lịch sử tới Bắc Kinh năm 1971, ông Phong được mời tới tham dự một tiệc chiêu đãi ở Sứ quán Miến Điện ở Paris. Tại đó, theo ông Veith kể trong chương cuối cùng của cuốn sách, ông Phong được giới thiệu với một quan chức Trung Quốc từ Văn phòng Thủ tướng Chu Ân Lai. Người này kết thúc cuộc thảo luận bằng câu hỏi: “Liệu Tổng thống Thiệu có biết ai là bạn ai là thù của ông ấy không?”

Theo ông Phong, phía Trung Quốc đã qua ông gửi nhiều thông điệp tới ông Thiệu để tìm cách có được một cuộc hội thoại trực tiếp nhưng vị tổng thống VNCH đã không đáp lời.

Ông Phong nói rằng khi trở lại Sài Gòn vào năm 1975, ông mang theo một thông điệp bí mật từ phía Trung Quốc. Ông ngay lập tức đi gặp Tổng thống Trần Văn Hương, người lên nắm quyền từ 21/4/1975 sau khi ông Thiệu từ chức, để thông báo rằng không có hy vọng cho các cuộc đàm phán khi ông còn đương nhiệm. Ông Phong không nhắc tới thông điệp từ phía Trung Quốc. Ngày hôm sau, ông Hương triệu tập cuộc họp để bắt đầu quá trình chuyển giao quyền lực cho Tướng Dương Văn Minh.

Sau đó vài ngày, ông Phong gặp mặt với người bạn thân của Tướng Minh, Tướng Trần Văn Đôn, và một đại diện của Chính phủ Giải phóng Lâm thời (PRG) để bàn thảo về việc thành lập một chính phủ liên minh. Tại cuộc gặp, có cả sự hiện diện của một quan chức PRG – do Bắc Việt hậu thuẫn – ông Phong nói rằng Pháp và các nước khác sẽ giúp đỡ chính phủ mới nhưng cố tình mơ hồ về ý nghĩa của điều này.

Trung Quốc, theo ông Phong, rất muốn PRG nắm quyền thông qua công thức liên minh của Pháp với Tướng Minh để ngăn chặn sự tiếp quản của Bắc Việt. Sau khi một liên minh được thành lập, ông Minh sẽ gửi lời kêu gọi trợ giúp và người Pháp sẽ trả lời rằng một lực lượng quốc tế sẽ vào Nam Việt Nam để bảo vệ chính phủ mới. Ban đầu, như ông Phong cho biết, sẽ là “hai sư đoàn nhảy dù của Trung Quốc vào Biên Hòa” và Bắc Kinh yêu cầu có 4 ngày để điều động quân của họ đưa đến căn cứ không quân này.

“Bắc Kinh không thể ra mặt và làm việc này một cách trực tiếp nhưng họ để mọi người thấy rằng họ… để cho người Pháp làm việc này!,” ông Phong giải thích về ý định của Bắc Kinh – được nhà sử học Veith ghi lại trong cuốn sách. “Bắc Kinh không thể ngang nhiên can thiệp quân sự vào miền Nam Việt Nam. Pháp cần phải kêu gọi một số quốc gia tham gia vào một ‘lực lượng quốc tế’ (với Pháp là mũi nhọn) để cho phép Bắc Kinh can thiệp.”

Vì sao Trung Quốc muốn can thiệp bằng quân sự để ngăn cản chiến thắng của quân Bắc Việt sau nhiều năm ủng hộ Hà Nội?

Theo giải thích của nhà sử học Mỹ, Trung Quốc muốn một miền Nam Việt Nam trung lập để không bị bao vây bởi một hiệp ước tiềm tàng giữa Moscow và Hà Nội. Điều này được Nayan Chanda của Far Eastern Economic Review khẳng định khi cho rằng Bắc Kinh đã “nhất quán tuân thủ chính sách duy trì bằng mọi cách theo ý của mình một Đông Dương bị chia cắt không có các cường quốc lớn.”

Thông đip t Trung Quc

Ông Phong, qua đời năm 2017, không phải là người duy nhất mang thông điệp của Trung Quốc tới chính thể VNCH. Theo ông Veith, một tướng hồi hưu người Pháp có tên Paul Vanuxem, người quen biết ông Thiệu và các sĩ quan cao cấp khác của quân đội VNCH từ sau Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, cũng mang một thông điệp tương tự như ông Phong. Ông Vanuxem đã thỉnh thoảng đến thăm ông Thiệu và trở lại Việt Nam vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh với tư cách là phóng viên tuần báp Carrefour của Pháp.

Trong cuốn sách phát hành năm 1976 về những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, ông Vanuxem, người mất năm 1997, nói rằng ông đã tới Dinh Độc Lập vào ngày 30/4/1975 để nói chuyện với Tướng Minh, lúc đó là tổng thống. Theo sử gia Veith, ông Lý Quí Chung, bộ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ tồn tại hai ngày của Tổng thống Minh, khẳng định điều này khi cho biết rằng “ông Vanuxem nói rằng ông ấy muốn đưa ra một kế hoạch cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng mà chính thể Sài Gòn đang đối mặt.” Ông Vanuxem nói với ông Minh, ngay sau khi ông Minh ghi âm lời tuyên bố đầu hàng sáng ngày 30/4, rằng: “Tôi đã sắp đặt việc này ở Paris. Tôi yêu cầu ông công khai xin trợ giúp từ Nước C (China – tức Trung Quốc) để bảo vệ ông.”

Ông Vanuxem yêu cầu ông Minh cầm cự trong 3 ngày nhưng ông Minh từ chối, theo ghi nhận của sử gia Veith. Ông Minh đã cười một cách cay đắng trước lời đề nghị của ông Vanuxem và nói rằng: “Theo Tây, theo Mỹ mãi chưa đủ sao mà bây giờ lại theo Tàu?”

“Tôi tiếp tục đào sâu và sau đó tôi tìm thêm ra nhiều thông tin được chính những người Cộng sản công bố, trong đó cũng nói về những điều tương tự,” ông Veith cho biết và nói rằng Hà Nội cũng biết được lời đề nghị của ông Vanuxem và cuối cùng thừa nhận về ý định can thiệp của Trung Quốc. “Sách Trắng Quốc phòng (của Việt Nam) xuất bản 10 năm sau khi chiến tranh kết thúc, trong đó thừa nhận rằng ông Vanexum đã tới Dinh (Thống Nhất) và tìm cách thực hiện âm mưu nhằm ngăn chặn bước tiến của họ để giành chiến thắng trong cuộc chiến đó.”

Phía Trung Quốc cũng được cho là đã tiếp cận cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ. Trong một cuộc phỏng vấn với William Buckley trên Firing Line tháng 9/1975, ông Kỳ nói rằng các đặc vụ Trung Quốc đã tới nhà ông ở Sài Gòn vào năm 1972 và yêu cầu ông lật đổ Tổng thống Thiệu cũng như “tuyên bố miền Nam Việt Nam trung lập, không theo Nga hay Mỹ.” Ông Kỳ, người đã đưa gia đình di tản sang Mỹ sau khi Sài Gòn sụp đổ, nói rằng nếu ông làm điều đó, “thì phía Trung Quốc sẽ hỗ trợ ông” bởi vì Bắc Kinh “đã gặp khó khăn ở biên giới phía bắc với người Nga” và “không muốn sườn phía nam của mình bị vệ tinh của Nga (tức Bắc Việt Nam) chiếm đóng.”

Với những khẳng định từ nhiều nguồn khác nhau, sử gia Veith tin rằng những nỗ lực của Trung Quốc nhằm ngăn cản chiến thắng của quân Bắc Việt bằng cách hậu thuẫn một chính phủ trung lập ở miền Nam Việt Nam, là có thật. Tuy nhiên điều này không thể được khẳng định hoàn toàn khi không có bằng chứng tài liệu hay sự chấp nhận chính thức từ chính phủ Trung Quốc hoặc Pháp.

Liệu Trung Quốc hay Pháp, mỗi nước vì lợi ích quốc gia, có thông đồng để tìm cách làm cho miền Nam Việt Nam trung lập cũng như ngăn chặn chiến thắng của Hà Nội hay không, sẽ vẫn là một khả năng bỏ ngỏ và sử gia Veith gọi đó là “bí mật lớn cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam.”

Cựu thứ trưởng Ngoại Giao CSVN đòi thả giới bất đồng đang bị giam cầm

Cựu thứ trưởng Ngoại Giao CSVN đòi thả giới bất đồng đang bị giam cầm

May 1, 2022

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Trong bài dài đăng trên trang cá nhân vào dịp 30 Tháng Tư, ông Nguyễn Đình Bin, cựu thứ trưởng Ngoại Giao CSVN, thẳng thắn đề nghị nhà cầm quyền “hàn gắn vết thương huynh đệ tương tàn vẫn còn rỉ máu.”

Ông Bin nêu yêu cầu với nhà nước: “Trả lại tự do cho những người đang bị giam giữ chỉ vì bất đồng chính kiến, phê phán các chủ trương, chính sách cũng như lãnh đạo đảng và nhà nước. Thực sự tôn trọng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí như đã được quy định tại hiến pháp và khẳng định rõ ràng trong các văn kiện chính thức, trong các phát biểu lâu nay của lãnh đạo đảng và nhà nước. Khuyến khích phản biện xây dựng, đóng góp ý kiến theo tinh thần đã nói trên.”

Ông Nguyễn Đình Bin, cựu thứ trưởng Ngoại Giao CSVN. (Hình: Quốc Tế)

Vị cựu thứ trưởng cũng bình luận rằng, các ý kiến phản biện đúng đắn “chỉ giúp cho đảng và nhà nước hoàn thiện đường lối, chính sách, còn nếu đường lối, chính sách mà đúng đắn thì lo sợ gì.”

Theo ông, những ý kiến phản biện [nếu] sai trái “chỉ càng làm sáng tỏ hơn tính đúng đắn đó, giống như hòn ngọc chỉ càng thêm ngời sáng giữa những cục đá, viên sỏi.”

Ngoài ra, ông Bin nhắc lại yêu cầu xây dựng các tượng đài xứng đáng, đặt tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn “để tưởng niệm tất cả con dân Việt đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh đã diễn ra trên đất nước ta hơn một thế kỷ qua.”

“Tôi tin tưởng rằng chỉ cần thực hiện được các việc cơ bản nói trên, thì mỗi dịp kỷ niệm ngày Tháng Tư cũng như các ngày lịch sử vẻ vang khác của đất nước, chắc chắn tất cả mọi con dân Việt sẽ đều vui, chẳng còn một ai buồn nữa,” theo Facebook Nguyễn Đình Bin.

Blogger Phạm Đoan Trang, nhà báo tự do, bị phạt 9 năm tù vì chỉ trích nhà cầm quyền trên mạng xã hội. (Hình: Người Lao Động)

Bên dưới bài đăng của ông Bin, Giáo Sư Mạc Văn Trang phản hồi: “Cảm ơn anh đã rất thành thực và dũng cảm nói lên nỗi niềm tự đáy lòng. Những lời tâm huyết này chắc đã được ấp ủ, nung nấu từ lâu, nay mới được nói ra thật rành rẽ, cụ thể. Nhưng Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư đảng Cộng Sản có ai dám nghĩ, dám làm đổi mới chính trị, khi cả hệ thống chính trị cứ bùng nhùng níu kéo chặt lấy nhau?”

Dường như các ý kiến của vị cựu thứ trưởng không được đảng và nhà nước lắng nghe như mong muốn của ông. Hồi Tháng Ba, ông Bin từng lên tiếng đề nghị dựng tượng đài binh sĩ VNCH bảo vệ Hoàng Sa nhưng cũng không được nhà cầm quyền hồi đáp. (N.H.K)

Khởi tố bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn do đấu đá nội bộ CSVN

Khởi tố bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn do đấu đá nội bộ CSVN

May 1, 2022

HÀ NỘI, Việt Nam (NV).- Khởi tố Nguyễn Thị Thanh Nhàn là đấu đá quyền lực nội bộ chóp bu đảng CSVN, đồng thời làm trở ngại cả thương vụ mua bán võ khí giữa Israel và Hà Nội.

Báo Do Thái Haaretz ngày Chủ Nhật mùng 1 Tháng Năm, đưa tin như vậy khi bật mí những uẩn khúc trong vụ việc “khởi tố vụ án” và ra lệnh bắt giam bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, “nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty AIC” cùng với giám đốc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai.

Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn. (Hình: Tiền Phong)

Họ bị cáo buộc “vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” dẫn đến sự thiệt hại lối $7 triệu đô la cho nhà nước trong vụ đấu thầu xây dựng bệnh viện đa khoa của tỉnh Đồng Nai mấy năm trước, mà guồng máy thông tin tuyên truyền của chế độ rầm rộ đưa tin ngày 29 Tháng Tư.

Giám đốc Sở Y tế Đồng Nai, Phan Huy Anh Vũ, thì thấy tờ Thanh Niên nói bị khám xét nhà và bắt giam. Nhưng bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn thì chỉ nói “ ra quyết định khởi tố bị can” với bà này chứ không rõ rệt nói bà ta bị bắt. Nói chung báo chí tại Việt Nam rất mập mờ trong vụ khám xét chỗ ở và bắt giữ bà Nhàn, khác hẳn những vụ bắt giữ nổi cộm khác khi báo chí nhà nước đăng tải tin tức kèm theo hình ảnh đương sự đứng nghe công an đọc lệnh bắt giữ.

Trong các bản tin khởi tố và lệnh bắt giữ bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, như tờ Tuổi Trẻ, không thấy hình ảnh đó. Báo Do Thái Haaretz nói bà Nhàn đã chạy qua Âu châu ở trước khi xảy ra vụ khám xét chỗ ở và khởi tố, nhiều phần đã “đánh hơi” được sự nguy hiểm trong khi một Facebooker Việt Nam thì lại cho là bà ta đang ở Nhật. Nói khác, bà Nhàn chỉ bị khởi tố khiếm diện chứ không bị bắt.

Có vẻ, vụ khởi tố bà Nhàn qua vụ đấu thầu gian lận xây dựng bệnh viện ở Đồng Nai chỉ là cái cớ bề ngoài của một vụ việc chằng chịt giữa quyền lực và quyền lợi trong hậu trường chính trị CSVN.

Theo tờ Haaretz, xuất cảng các loại võ khí, trang bị an ninh của Isreal tới Việt Nam gia tăng chóng mặt mấy năm gần đây, có thể gặp trục trặc vì việc bắt giữ bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn. Bà là nhân vật chính yếu vận động và môi giới các thương vụ mua bán võ khí cả thập niên vừa qua giữa Việt Nam với Israel.

Trong hơn 15 năm qua, Việt Nam là một trong những thị trường xuất cảng võ khí quan trọng của kỹ nghệ an ninh quốc phòng Israel. Hai nước ký thỏa hiệp kín (confidentiality agreement) hồi năm 2011 để tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng. Hơn ba năm trước, một phái đoàn cấn cao của Isreal đã thăm viếng Việt Nam năm 2018. Trước đó, tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN cầm đầu phái đoàn sang Isreal thăm một số kỹ nghệ quốc phòng nước này.

Thương vụ quốc phòng giữa hai bên đã vượt quá 1 tỉ USD, và theo Haaretz, hiện đang có cuộc đàm phán để Hà Nội mua vệ tinh tình báo quân sự Ofek (Chân Trời) của công ty quốc phòng không gian IAI (Israel Aerospace Industries) sản xuất. Trị giá thương vụ khoảng $550 triệu USD.

Mấy tháng trước, một phái đoàn Isreal đã ký thỏa hiệp kỹ thuật cho thương vụ nhưng chưa hoàn tất được vấn đề tài trợ tín dụng. Tuy nhiên, tập đoan quốc phòng Pháp Thales cũng cạnh tranh với Isreal trong vụ bán hàng này của IAI với những nỗ lực được mô tả là quyết liệt để dành mối khách hàng.

Theo Haaretz, nguồn tin ở Việt Nam liên quan đến vụ khởi tố bà Nhàn nói lý do thật sự của vụ việc dính đến các vụ mua sắm quốc phòng. Nguồn tin nhấn mạnh rằng vụ khởi tố bắt nguồn từ đấu đá nội bộ giữa ông thủ tướng Phạm Minh Chính với ông Tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng dự trù sắp về vườn, Bộ trưởng Công an Tô Lâm và ông chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc.

Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, 53 tuổi, được coi là một nhân vật thân cận với ông thủ tướng Phạm Minh Chính. Báo chí chính thống tại Việt Nam từng nhiều lần ca ngợi bà này qua những lần bà nhận lãnh giải thưởng, hay vinh danh.

Thương vụ quân sự lớn nhất giữa Isreal và CSVN diễn ra cách đây 5 năm khi Hà Nội mua 3 giàn hỏa tiễn phòng không Spyder từ công ty Rafael Advanced Defense Systems trị giá hơn nửa tỉ đô la. Một công ty khác của Isreal từng bán hệ thống dò xét an ninh cho chế độ Hà Nội, trị giá từ $20 triệu tới $30 triệu USD, từng bị cáo buộc là Công an dùng để theo dõi, đàn áp giới bất đồng chính kiến.

Nhiều thương vụ khác như IAI bán kỹ thuật và giúp nâng cấp xe tăng, hỏa tiễn cho CSVN trị giá hàng chục triệu USD. Công ty Samy Katsav đã giúp CSVN xây dựng nhà máy trị giá 100 triệu USD để lắp ráp súng trường Tavor. Một công ty khác bán hệ thống kiểm soát, điều hành trị giá khoảng $60 triệu USD, một số trang bị không gian và viễn thông khoảng $30 triệu trị giá, từ công ty Elbit cho Hải quân CSVN.

Triển lãm quân sự gồm các loại hỏa tiễn phòng không tại tỉnh Thái Nguyên năm 2019, có cả hỏa tiễn Spyder của Isreal. (Hình: Linh Pham/Getty Images)

Công ty IAI bán 3 máy bay không người lái quân sự Heron cho Việt Nam trị giá khoảng $140 triệu USD trong khi các công ty con của IAI bán các hệ thống radar trị giá $150 triệu USD bên cạnh 60 xe thiết giáp trị giá 20 triệu USD. Rồi một công ty khác kiếm được hàng chục triệu đô khi bán các hệ thống giám sát trên không cho Hà Nội.

Bây giờ, bà Nhàn đang ở đâu vẫn còn là điều bí mật trong khi tương lai các vụ mua bán trang bị quốc phòng giữa Hà Nội và Isreal chưa biết sẽ ra sao. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ về vườn khi có đại hội đảng giữa kỳ như đồn đoán từ đầu năm ngoái hay vẫn ngồi lỳ lại để “đốt lò” làm vui?

Tờ Tuổi Trẻ ngày 30 Tháng Tư được mớm tài liệu khui ra một loạt những vụ trúng thầu ở nhiều lãnh vực khác nhau của “đế chế” AIC tức “Công ty cổ phần Tiến bộ quốc tế” của bà Nhàn. Nếu không phải là “sân sau” của những ai đó thì khó lòng hốt được những vụ trúng thầu lớn như vậy. Tuy nhiên, Tuổi Trẻ không hề đả động gì hay không biết gì về cái lớn nhất, tức các môi giới trang bị quân sự của bà.(TN)

Những câu chuyện Di Tản của nhà văn Tiểu Tử (RFA)

 Những câu chuyện Di Tản của nhà văn Tiểu Tử

Hành trình vượt biên được nói nhiều, viết nhiều bởi những ngòi bút hải ngoại, nhưng bên cạnh cuộc vượt biên vĩ đại đó, những hình ảnh của cuộc di tản cũng không kém phần đau thương của người dân Việt Nam hầu như bị bỏ quên.

Tường An, thông tín viên RFA

2011.04.30

Nhà văn Tiểu Tử

Photo by Tường An/RFA

vtan04302010.mp3

00:00/00:00

Nhà văn Tiểu Tử – hiện đang định cư tại Pháp – là một trong số rất ít những nhà văn đã ghi lại những hình ảnh này để nhớ lại một giai đoạn bi thảm trong hành trình tìm tự do. Thông tín viên Tường An trò chuyện với nhà văn Tiểu Tử và giới thiệu một vài đoản văn của ông về cuộc di tản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Mời quý vị cùng nghe:

Với lối hành văn mộc mạc của người Nam Bộ, những truyện ngắn của nhà văn Tiểu Tử luôn luôn gây xúc động cho người đọc bằng những hình ảnh rất đơn giản trong cuộc sống hàng ngày: một chiếc nón lá, một tô cháo huyết, một cái quần rách, một bản vọng cổ. Những hình ảnh rất đời thường đó, qua giọng văn của ông đã biến thành những âm điệu quê hương khơi dậy nhiều dòng nước mắt.

Cuộc di tản kinh hoàng

Dân chúng quá sợ cộng sản qua sự kiện Tết Mậu Thân đã bỏ chạy khi thấy các đơn vị quân đội rút khỏi Huế. Photo by Trần Khiêm.

Trong tâm tư người Việt hải ngoại, cuộc vượt biên đánh dấu một đoạn đời không thể quên, tuy nhiên nhà văn Tiểu Tử muốn nhắc cho mọi người nhớ lại một một cuộc hành trình khác không kém phần bi thảm đã xảy ra trên chính quê hương của mình trước ngày 30 tháng 4 năm 75. Đó là cuộc di tản từ miền Trung vào miền Nam, từ làng này sang làng khác của người dân để trốn chiến tranh. Ông cho biết lý do ông chọn đề tài này:

“Mỗi một hình ảnh có một cái đau thương riêng của nó. Hình ảnh di tản là cái đầu tiên hết mà mình thấy, thành ra nó gây xúc động mạnh hơn cái hình ảnh của cuộc hành trình tị nạn. Mặc dù rằng hành trình tị nạn có nhiều cái ví dụ như chết ở dưới biển, bị Thái lan nó hãm hiếp rồi nó chặt đầu….này kia…Cái đó là cái mình thấy sau này. Tức là không phải cũng một lúc mà mình có ngần đấy hành trình tị nạn, nghĩa là, nó rời rạc.

Trong lúc đó, thì cuộc di tản nó ồ ạt, nó nhiều, nó đông và cùng một lúc. Thành ra những cái đau thương của cuộc di tản bị cái ồ ạt đó che lấp đi mình không thấy. Nếu mà mình thấy được, viết ra được tất cả những cái đau thương khổ cực trong lúc di tản. Mình sẽ thấy có nhiều hơn nhiều lắm. Bởi vì, nó đông, cái số người đi di tản cũng một lúc, đông lắm.”

Nếu mà mình thấy được, viết ra được tất cả những cái đau thương khổ cực trong lúc di tản. Mình sẽ thấy có nhiều hơn nhiều lắm.

Nhà văn Tiểu Tử

Xin mời quý thính giả cùng nghe 1 đoạn tả lại một hình ảnh trong cuộc di tản:

Giữa cầu thang, một bà già, bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chỉ tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên la ó! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp.

Chuyện chỉ có vậy, nhưng hình ảnh đó đã đeo theo nhà văn Tiểu Tử từ bao nhiêu năm, ông thắc mắc:

“Bà già đó sợ gì mà phải đi di tản? Con cháu bà đâu mà để bà đi một mình? Rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao? Còn cậu thanh niên đã làm một cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu?… Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậy đó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn tạp như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975…

Những bàn tay nhân ái

Quá sợ cảnh tàn sát của cộng sản trong trận Tết Mậu Thân, người dân bỏ nhà cửa, ruộng đất gồng gánh theo đoàn quân di tản. Photo by Trần Khiêm.

Đàn bà, trẻ con luôn luôn là những mảnh đời lau sậy, yếu đuối  trong cơn lốc của chiến tranh, truyện của Tiểu Tử hầu như luôn có những bàn tay nhân ái đưa ra gánh vác những mảnh đời lau sậy này:

Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ – chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy – người mẹ tiếp tục van lạy cầu khẩn.

Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài…

Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem.

Nhà văn Tiểu Tử

Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu,  rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội. Họ bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xốc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước….

Hình ảnh người Mẹ lúp xúp chạy theo đứa con sắp chết của mình trong tay một người xa lạ, Hình ảnh ấy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng khi viết lại câu chuyện này, nhà văn Tiểu Tử vẫn:

“Cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm!

Quê hương xa rồi

Mọi người đổ xô ra biển để theo tàu vào Đà Nẵng. Photo by Trần Khiêm.

Cái nón lá, hình ảnh mộc mạc, thân quen đến độ người ta không còn nhớ đến nó, không để ý đến nó. Nhưng trong giờ phút chia lìa, nó bỗng trở thành một cái gì gắn bó, một cái gì thân thuộc mà nếu rời xa, người ta tưởng chừng như xa cả quê hương:

Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh!

Lên gần đến bong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết…

Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi. Yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà:

“Đó là cái nón lá! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa đau khổ? Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương…

Những cuộc chia tay xé lòng

Dân chúng quá sợ cộng sản qua sự kiện Tết Mậu Thân đã bỏ chạy khi thấy các đơn vị quân đội rút khỏi Huế. Photo by Trần Khiêm.

Ngòi bút của ông trải dài qua nhiều đoạn đời bi thảm của cuộc di tản, nhưng hình ảnh thương tâm nhất đã ở lại mãi trong tâm hồn ông là cảnh chia tay xé lòng của hai cha con trên một bến tàu, cuộc chia tay không có tiếng còi tàu hú dài, cũng không có cả một lời từ biệt mà cả cha lẫn con đều biết là sẽ không có ngày gặp lại, nhà văn Tiểu Tử chia sẻ:

“Cái hình ảnh làm tôi xúc động nhất có lẽ là cái hình ảnh mà thằng nhỏ mà Cha nó dẫn đi ra bến tàu. Cầu tàu kéo lên rồi Cha nó lạy lục những người trên tàu. Những người trên tàu thòng xuống cái sợi dây. Người Cha nắm được cái sợi dây cột ngang eo ếch của thằng con, rồi ra dấu cho ở trên kéo thằng con lên.

Thằng con không khóc, không giãy dụa. Nó nghiêng người nhìn xuống cái người đứng ở dưới, lúc đó tôi mới đoán ra cái người đứng ở dưới là Cha của nó. Người đứng ở dưới ra dấu “đi đi, đi đi”. Rồi tự nhiên tôi thấy ông già đó úp mặt vô hai tay khóc nức nở, tôi thấy tôi cũng ứa nước mắt.

Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất! Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt!

Nhà văn Tiểu Tử

Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng, đầu dây đong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn teng dọc theo hông tàu, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay ra dấu như muốn nói: “Đi, đi! Đi, đi!”. Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất! Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt!

Không biết thằng nhỏ đó –bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi — ở đâu? Cha con nó có gặp lại nhau không? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy.

Bên cạnh nghề chính là một kỷ sư hóa học. Nhà văn Tiểu Tử, với trên dưới 30 truyện ngắn ở hải ngoại đã cùng với Lê Xuyên, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Ngọc Tư đưa văn học miền Nam đến với người đọc bằng ngôn ngữ bình dị mà thắm thiết, lắt léo mà bao dung, đơn sơ nhưng chan hòa tình cảm.

47 năm sau và tháng tư vẫn thế: Xảo trá, trâng tráo…(VOA)

47 năm sau và tháng tư vẫn thế: Xảo trá, trâng tráo…

13/04/2022

Một banner kỷ niệm 30 tháng Tư tại Việt Nam hồi 2010. Hình minh họa.

Đã là CAND thì từ người viết đến tòa soạn muốn viết sao cũng được, muốn nói gì cũng được và đặc biệt là không cần tri thức, không cần suy nghĩ?

Tờ Công an nhân dân (CAND) – cơ quan ngôn luận của Bộ Công an Việt Nam – vừa đăng “Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” (*). Nếu dành thời gian đọc bài viết vừa đề cập, có lẽ sẽ không ít người ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam tiếp tục thở dài vì 47 năm sau ngày “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, cả nhận thức lẫn giọng điệu của “ta” qua hệ thống truyền thông chính thức vẫn thế: Vẫn xảo trá và trâng tráo!

***

Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” là một chuỗi nhiều mâu thuẫn khó tin đến mức tội nghiệp vừa vì ngụy biện, vừa vì kém cỏi!

Tại sao đã thừa nhận… cộng đồng người Việt định cư và hội nhập ổn định ở nước ngoài, mỗi khi thiên tai, địch họa đe dọa cuộc sống và vận mệnh của tổ quốc, lập tức muôn người như một, kết thành khối vững chắc, sẵn sàng cống hiến công sức, xả thân vì lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, vì vận mệnh của tổ quốc và cuộc sống của đồng bào mình,… mà còn mỉa mai… một số người lầm lạc, chĩa súng vào đồng bào, gây nên nhiều tội ác, lại chọn cho mình con đường rời bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình để tiếp tục mưu lợi cá nhân, đi ngược lại lợi ích của dân tộc?

Nếu không có hàng trăm trại cải tạo sau 30/4/1975, không có tịch biên nhà cửa – sản nghiệp, không chia các thành phần trong xã hội thành “bốn nhóm, 21 đối tượng”, tước bỏ cả cơ hội học hành, nghề nghiệp của con cái những người thuộc “nhóm bốn”, lẫn sinh kế của nhiều giới tại miền Nam Việt Nam thì những người ở phía bên kia chiến tuyến, bao gồm cả cựu viên chức, cựu quân nhân và thường dân Việt Nam Cộng hòa có “rời bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của họ” không?

Đúng là “chiến tranh đã đi qua”, thậm chí đã “đi qua” rất lâu, chỉ vài năm nữa là tròn nửa thế kỷ nhưng vết thương chưa ‘liền da’ và quê hương chưa “hòa làm một” vì nhận thức và giọng điệu xấc xược, đểu cáng vẫn là chủ đạo như “Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người”. Vì sao xứ sở mà “những người lầm lạc” định cư cho phép họ “sử dụng lá phiếu cử tri buộc một số vị dân biểu nơi họ cư trú lên tiếng tạo sức ép với chính quyền các nước” về đối sách với Việt Nam, còn những người Việt Nam đang sống trên quê hương của chính họ lại không được dùng “thủ đoạn” như vậy?

Vì sao xứ sở mà “những người lầm lạc” định cư cho phép họ “lợi dụng mạng Internet để lập ra nhiều trang mạng, diễn đàn lấy danh nghĩa yêu nước” để bày ra đủ loại hình ảnh, thông tin, ý kiến mà “ta” khẳng định là “bóp méo sự thật, tuyên truyền xuyên tạc các chủ trương, đường lối chính sách” nhưng “ta” lại ban hành Luật An ninh mạng, nghiêm cấm dân ta làm như vậy? Vì sao những “Nhân dân”, “Quân đội nhân dân”, “Công an nhân dân” chỉ cung cấp… “sự thật” nhưng chẳng có bao nhiêu người đếm xỉa? Cứ cho là “sự thật” bị “bóp méo” sao “ta” không “vo cho tròn”? Ví dụ vì sao CAND không công bố “sự thật” liên quan đến sự kiện ông Tô Lâm và thuộc cấp thưởng thức “bò dát vàng”?

***

Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” trên CAND đề cập đến cuộc sống của những Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày), Tạ Phong Tần,… kèm một số thông tin nhặt nhạnh hoặc từ tâm sự của chính họ, hoặc từ mạng xã hội để cho rằng họ… “vỡ mộng” nơi xứ người và tiên đoán đó là… “đoạn đầu của con đường không tương lai của những kẻ phản bội đất nước, dân tộc để cầu vinh”!

Cần lưu ý, những Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày), Tạ Phong Tần,… đều đã từng bị hệ thống chính trị, hệ thống công quyền, hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam cáo buộc là tội phạm “đặc biệt nguy hiểm” đã “xâm hại an ninh quốc gia”. Vì sao những Đài, Hà, Quỳnh, Hải, Tần đều đã bị phạt tù và đều xuất ngoại khi đang chấp hành hình phạt tù. Có gì quan trọng hơn sự nghiêm minh của công lý, sự đúng đắn của hệ thống tư pháp, thể diện của quốc gia? Tại sao đảng, nhà nước, chính phủ “ta” bấp chấp tất cả để giao họ cho “ngoại bang”. Cứ cho là họ… “cầu vinh” còn “ta”… “cầu” gì mà… bất chấp mọi thứ?

Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” ấu trĩ tới mức tự thóa mạ như thế này: Đối với chủ quyền quốc gia và nền độc lập dân tộc, lòng yêu nước mãnh liệt chính là nền tảng vững chắc nhất để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giang sơn cha ông để lại. Giá trị đó không thể là điểm tựa để dung túng, kích động tinh thần dân tộc cực đoan, đề cao bá quyền, đe dọa sử dụng bạo lực và bất chấp thủ đoạn gian dối, hèn hạ, bất chấp đạo lý và luật pháp của văn minh nhân loại, cốt tranh đoạt trắng trợn và phi pháp lãnh thổ của người khác. Ðiều này đã và phải tiếp tục trở thành yêu cầu của lương tri, của đạo đức không chỉ với Việt Nam mà với mọi quốc gia – dân tộc khác trên thế giới

Nếu điều vừa kể đúng là nhận thức của “ta”, tại sao “ta” bỏ “phiếu trắng” khi cộng đồng quốc tế muốn lên án Nga xâm lược Ukraine? Tại sao “ta” bỏ “phiếu trắng” khi cộng đồng quốc tế muốn nhấn mạnh yêu cầu phải bảo vệ thưởng dân? Tại sao “ta” bỏ “phiếu chống” khi cộng đồng quốc tế muốn loại bỏ Nga khỏi Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc? Nếu điều vừa kể chỉ là nhận thức của tờ CAND, tại sao CAND không góp ý với đảng, nhà nước, chính phủ mà nhắm vào “những người lầm lạc”?

Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” còn một số những điều ngớ ngẩn khác. Chẳng hạn khi kể về hoàn cảnh của Lê Thu Hà, CAND cho biết, cô sống ở “thị trấn Bad Naheim, bang Hawai, Đức”. Đức chỉ có Bad Nauheim, một thị trấn thuộc khu vực Wetteraukreis ở tiểu bang Hesse. Còn “Hawai” (viết đúng phải là Hawaii) là một trong 50 tiểu bang ở Mỹ. Đã là CAND thì từ người viết đến tòa soạn muốn viết sao cũng được, muốn nói gì cũng được và đặc biệt là không cần tri thức, không cần suy nghĩ?

Chú thích

(*) https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/thang-tu-nghi-ve-nhung-giac-mong-tan-vo-noi-xu-nguoi-i649860/

Tháng 4-1975: Những ‘đứt gãy’ và câu chuyện của một giáo sư đệ nhị cấp (VOA)

Tháng 4-1975: Những ‘đứt gãy’ và câu chuyện của một giáo sư đệ nhị cấp

30/04/2022

Học sinh Việt Nam sau năm 1975 luôn được khuyến khích phấn đấu để trở thành “cháu ngoan Bác Hồ” và để được vào Đoàn, vào Đảng.

Như một công trình xây dựng, sau gần nửa thế kỷ, người ta bắt đầu nhìn thấy giá trị thực và chất lượng kết cấu của nó sau khi lớp sơn màu đẹp đẽ trôi dần đi. Việt Nam sau 47 năm miền Bắc Cộng sản chiến thắng và “thống nhất” với miền Nam, những mảng vỡ nứt từ cốt lõi nền giáo dục đang lộ dần lên bề mặt cấu trúc xã hội và mọi mặt đời sống…

Những câu chuyện nhỏ “rất quen” dưới đây của một cô giáo từng đau đớn tận trong tim khi trải qua những năm tháng trên bục giảng, từ một “giáo sư đệ nhị cấp” thời Việt Nam Cộng Hoà trở thành một giáo viên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, cho thấy phần nào những “đứt gãy” ấy…

Mời quý vị nghe cuộc trò chuyện của Khánh An với cô giáo đã trải qua cuộc chuyển đổi giáo dục này.

0:5815:4714:04

Tháng 4-1975: Những ‘đứt gãy’ và câu chuyện của một giáo sư đệ nhị cấp

Tháng 4-1975: Những ‘đứt gãy’ và câu chuyện của một giáo sư đệ nhị cấp

 VOA: Xin chào cô. Trước tiên xin cô giới thiệt một chút về cô nhé. Cô làm gì trước năm 1975?

Cô Nguyên Thiện: Trước tiên, xin chào Khánh An và xin chào tất cả quý vị thính giả của đài VOA. Xin cho tôi tự giới thiệu với pháp danh, là vì tôi đã nương vào Phật pháp để giữ được thân mạng của mình được tồn tại đến ngày hôm nay. Tôi là Nguyễn Thiện. Tôi tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Sài Gòn năm 1973, ngành huấn luyện giáo sư đệ nhị cấp. Những trường mà tôi đã đi dạy qua là trường Lương Văn Can ở quận 8 Sài Gòn, trường Lê Quý Đôn ở quận 3, và gần cuối là trường Hai Bà Trưng. Nó mang tên Hai Bà Trưng bây giờ nhưng trước đây nó là trường Thiên Phước Học Đường, sát bên nhà thờ Tân Định.

VOA: Được biết cô đã đi dạy từ trước năm 1975, sau năm 1975 cô có tiếp tục làm nghề giáo viên hay không?

Cô Nguyên Thiện: Trước năm 1975, đời sống của một giáo sư đệ nhị cấp tuy không giàu nhưng mà nó đủ để cho mình tươm tất và tự tin khi bước lên bục giảng, là hình tượng mẫu mực cho học sinh nhìn vào. Nhưng sau năm 1975 thì thầy cô giáo hầu hết bị sàng lọc, đuổi việc, đi vùng kinh tế mới, ra đạp xích lô hoặc là đi bán chợ trời, hay làm bất cứ việc gì để có đồng tiền đặng tồn tại. Tôi thì được cái may mắn là vì họ thiếu giáo viên ngoại ngữ cho nên được giữ lại với cái đồng lương gọi là lương chết đói, mà người ta thường ví von với câu vè dân gian là “Muốn sang thì lấy thợ tiện, muốn diện thì lấy thợ may, muốn ăn mày thì lấy thầy giáo”.

VOA: Vâng, nghe rất chua xót. Sau năm 1975, cô tiếp tục được giữ lại làm giáo viên thì cô thấy có những thay đổi nào so với thời trước năm 1975? Có những thay đổi nào đáng nhớ và đáng lưu ý?

Cô Nguyên Thiện: So sánh với trước năm 1975 thì học sinh có điểm số là do tự lực cá nhân của mỗi em. Nhưng sau năm 1975 thì giáo viên chủ nhiệm cho điểm học sinh bằng lý lịch từ ban giám hiệu gửi xuống. Hễ con cán bộ thì được cho lên thắng. Lúc đó, họ dùng những từ như “cho lên thẳng” và ở lại lớp thì gọi là “lưu ban”. Nhưng đã có lý lịch là con cán bộ thì được lên thẳng, giáo viên chủ nhiệm không được phép cho con cán bộ lưu ban. Còn có lý lịch là con của nguyên quân, nguỵ quyền là bị đánh rớt. Rất rõ ràng.

Tôi lấy ví dụ là có một lớp 12 do tôi làm chủ nhiệm lúc đó, học sinh của lớp năm đó rất giỏi. Nó học ban toán và nó rất xuất sắc, nhưng mà cái lớp năm đó bị đánh rớt gần hết cả lớp, chỉ vì cái tội là có cha đang ở trong tù cải tạo. Và còn một điểm nữa là cô giáo dạy môn toán năm đó, cô ấy là cán bộ miền Bắc vào. Lớp này là học sinh ban toán lúc đó, nó rất giỏi, nên khi cô cho bài toán trên bảng mà cô chứng minh không ra đáp số. Thế là có một em nó dám lên nó giải bài toán thay cho cô giáo, thì bà ta hơi bị quê. Từ đó, bà đì mấy đứa trong lớp. Em đó bị bà đì hỏng luôn, không được lên lớp ngay trong năm đó, mà bị loại ra khỏi trường luôn, với lý do là lý lịch em đó không trong sạch, có cha đi tù cải tạo.

VOA: Khi cô chứng kiến những trường hợp như vậy, mà bản thân cô là một giáo viên chủ nhiệm phải đánh rớt những học trò như vậy, cảm giác của cô lúc đó như thế nào?

Cô Nguyên Thiện: Tôi hơi cứng đầu. Tôi hơi bướng bỉnh, ở chỗ là cứ mỗi lần lên lớp là phải có soạn giáo án đàng hoàng, mà giáo án thì phải soạn luôn luôn phải đúng tiêu chuẩn là phải có ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ. Cho nên, nhiều khi soạn giáo án thì mình soạn một đường cho nó duyệt, nhưng mà khi lên lớp thì mình giảng theo trái tim của mình, theo kiến thức trung thực của mình, thì dễ bị Ban Giám hiệu nó khó dễ lắm.

VOA: Cô đã bị khó dễ như thế nào?

Cô Nguyên Thiện: Có một đứa học trò tên là Nguyễn Ái Quốc. Nó học dốt vô cùng, mà khi họp để xét cho học trò lên lớp thì chỉ vì nó có tên Nguyễn Ái Quốc nên phải xét cho nó lên lớp. Chứ nếu mà giữ nó lại thì coi như bôi nhọ Bác Hồ, tại vì nó cùng tên với Bác Hồ. Có chi tiết rất buồn cười như vậy đó. Mà hầu hết con cán bộ lúc đó học dốt mà cứ phải cho lên lớp… Rồi thi đua lúc nào cũng ép học sinh, đưa vô khuôn mẫu là tụi nó phải phấn đấu để thành “cháu ngoan Bác Hồ”. Mà muốn thành cháu ngoan Bác Hồ là phải lao động tốt, học tập tốt, chữ gì cũng mang cái chữ tốt tốt… nhưng nó không cụ thể, chỉ lẩn quẩn ca ngợi Đảng với ca ngợi Bác Hồ, thì tôi làm cái đó không được. Cho nên, lớp của tôi lúc đó luôn luôn là hạng chót.

Nếu tham gia tiết mục văn nghệ, thì làm cô giáo, tôi chỉ biết dạy tụi nó đóng kịch thí dụ như “Ngao Sò Ốc Hến” hoặc những cái bài hát như “Bạch Đằng Giang”, hoặc bài hát “Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến…” thì nó không có tính Đảng, không những vậy còn bị ghép cho là “phản động” bởi vì hầu hết học trò trong lớp nghe lời cô giáo. Học trò của mình hầu hết cha mẹ của nó đi cải tạo. Cho nên, ai có lâm vào cảnh thì mới hiểu được người trong cảnh. Mình thấy là mình dạy học trò lúc đó bằng cái tâm của một người thông cảm với nỗi đau của đồng loại. Có vậy thôi, nên không làm được cái việc là cho học trò thi đua để ca ngợi Bác, để được “cháu ngoan Bác Hồ”, nên hầu hết học trò trong lớp của tôi không có danh hiệu “cháu ngoan Bác Hồ”.

Mấy anh trong trong trường thì nói “thứ nhất là ngồi lì, thứ nhì là đồng ý”, chớ đừng nên nói ngược lại mà bị khó khăn rắc rối. Nhưng mà tôi không làm được những cái ngược lại lương tâm của mình. Thành ra không bao giờ có được danh hiệu “Giáo viên tiên tiến”. Không những vậy còn bị ban hiệu mời lên thường xuyên để nhắc nhở. Có cái may là không bị đuổi. Nhưng sự thật, họ không đuổi không biết là may hay rủi. Bởi vì người ta bung ra chợ trời người ta bán buôn, người ta còn giúp được con cái ăn học, tồn tại được. Còn mình với cái đồng lương chết đói mà mà cứ ráng chịu đựng, vừa nuôi con vừa đi làm trong hoàn cảnh đồng lương chết đói, thì cô Khánh An có biết là lúc đó tôi nuôi con bằng cách là, với đồng lương lãnh ra không đủ để nuôi con trong một tuần lễ chứ đừng nói chi một tháng, thành ra tôi cho tụi nó ăn gạo lứt muối mè. Cháo cũng muối mè, cơm cũng muối mè. Rồi nó đi học. Rồi trời cũng thương, lúc đó tụi nó khỏe mạnh, cũng học giỏi, cũng tròn trịa. Nhờ gạo lứt muối mè mà tụi nó sống. Ban Giám hiệu thì nói bà này có chồng đi nước ngoài mà bả nói bả cho con ăn gạo lứt muối mè để bả qua mặt mình thôi. Chứ họ không tin.

VOA: Cô đã giảng dạy ở mái trường xã chủ nghĩa. So với mái của thời Việt Nam Cộng hòa, cô thấy có những điểm gì mà cô là cô cho là đáng tiếc, hoặc ngược lại, cô cảm thấy nó tốt hơn?

Cô Nguyên Thiện: Bây giờ nói không phải mình chê hay mình vạch lá tìm sâu đâu. Mà những cái tệ hại của nhà trường sau năm 1975 đến bây giờ, mình nhìn thấy nó đau lòng hơn là các điểm tốt. Không thấy điểm tốt. Chưa có bao giờ mà thầy cô giáo lại có thể làm những việc như phải có tiền đút lót thì mới được đi vào trường, rồi đút lót thì con mới được tốt nghiệp, nhiều thứ…

Rồi học trò hồi xưa thì tình thầy trò thương yêu quý trọng lẫn nhau. Học trò rất kính trọng thầy giáo không phải vì có hay không có tiền, mà nó kính trọng vì phẩm chất đạo đức của nhà giáo. Bởi vì nhà giáo lúc đó được huấn luyện là mình làm việc dạy học không phải là vì đồng tiền, mà dạy học là vì thích “thiên chức”. Hồi xưa gọi là “thiên chức của nhà giáo”, phải có lương tâm nghề nghiệp. Còn bây giờ, học trò trong lớp, chưa bao giờ có hình ảnh mà học trò xăn quần xăn áo lên, con gái mà nắm đầu nắm cổ rồi quần thảo nhau như là bề hội đồng. Thấy mà thương tâm! Mà không phải một chỗ, mà gần như khắp nơi, rồi cách dùng từ ngữ bây giờ nó hoàn toàn khác với từ ngữ mà mình dùng cho học trò dạy ở học đường trước 1975…

Trong bài giảng, trong giáo án lúc nào cũng không thể thiếu hai cái tính là ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác. Cho đến những cái bài Toán của học trò học ở trong trường, mà sách giáo khoa nhà trường cũng soạn là hôm nay diệt được bao nhiêu lính Mỹ, hôm qua diệt được bao nhiêu lính Mỹ, như vậy trong tuần lễ này diệt được bao nhiêu lính Mỹ. Chỉ như vậy thôi thì mình thấy tính nhân bản, lòng nhân đạo đã không có, nó đã bị giết chết từ trong trứng rồi…

Từ trong môi trường giáo dục như vậy thì con người ta chỉ biết là ganh đua. Ganh đua chứ không phải thi đua. Người ta ganh nhau, rồi lòng đố kỵ… Bây giờ thì ai cũng muốn làm giàu học. Học trò nó học với mục đích làm sao ra trường là để nó chiếm được vị trí, nhất là làm sao phấn đấu để nó vô đảng. Vô Đoàn, vô Đảng là để nó ngồi trên, ngồi trước, đặng nó làm giàu. Chứ còn cái lương tri của con người thì bây giờ hiếm có…

VOA: Vâng, cám ơn cô đã dành thời gian cho VOA.

Cô Nguyên Thiện: Rất cảm ơn Khánh An đã tạo cho tôi cơ hội mà trong nước chưa bao giờ tôi có được điều kiện để nói như thế này. Cảm ơn quý vị thính giả đã lắng nghe. Xin chân thành cảm ơn quý đài.

Cô Nguyên Thiện đã giảng dạy tại Việt Nam cho tới năm 1988, khi cô được bảo lãnh sang Hoa Kỳ định cư. Hiện cô đang sống tại bang Florida.

Phú Quốc xây tượng đài Hồ Chí Minh trị giá 353 tỷ đồng

 Đài Á Châu Tự Do

Phú Quốc xây tượng đài Hồ Chí Minh trị giá 353 tỷ đồng

Hôm 29/4/2022, tỉnh Kiên Giang tổ chức lễ động thổ khởi công xây dựng “Tượng đài Bác Hồ” tại thành phố Phú Quốc với tổng kinh phí đầu tư là 353 tỷ đồng bằng nguồn vốn Trung ương và ngân sách địa phương.

Hồi tháng 6 năm ngoái, Sở Văn hóa và Thể Thao tỉnh Kiên Giang từng cho biết dự án xây tượng đài và quảng trường của ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ cộng sản sẽ được khởi công vào dịp lễ 2-9-2021 và phấn đấu hoàn thành toàn bộ dự án vào cuối năm 2023.

Tuy nhiên, trước đó Chính phủ cho thành lập và quản lý “Quỹ vắc-xin phòng chống COVID-19”, huy động tiền bạc từ người dân và doanh nghiệp để mua sắm vắc-xin, thông tin xây tượng đài được đưa ra sau đã vấp phải phản ứng của người dân và cho đến nay công trình này mới được khởi công xây dựng.

#RFAVietnamese #tuongdaiHochiMinh

Thế hệ hậu chiến với nỗ lực bảo tồn và quảng bá sách thời Việt Nam Cộng Hoà

 Đài Á Châu Tự Do 

Tự nhận mình là “người miền bắc thuần tuý” do có bố mẹ là đảng viên Đảng Cộng Sản, và sinh trưởng ở vùng nông thôn bắc bộ sau khi chiến tranh đã kết thúc, nhưng ông Trịnh Hữu Long cho biết bản thân đã tìm ra lời giải cho việc hoà hợp, hoà giải giải dân tộc, và sách thời Việt Nam Cộng Hoà là một công cụ hữu hiệu.

Thế hệ hậu chiến với nỗ lực bảo tồn và quảng bá sách thời Việt Nam Cộng Hoà
RFA.ORG

Thế hệ hậu chiến với nỗ lực bảo tồn và quảng bá sách thời Việt Nam Cộng Hoà

Một tổ chức do người Việt Nam sinh ra thời hậu chiến đang

Cụm từ “ngụy quyền Sài Gòn” vẫn được báo chí chính thống Việt Nam sử dụng…

BBC News Tiếng Việt 

Cụm từ “ngụy quyền Sài Gòn” vẫn được báo chí chính thống Việt Nam sử dụng, trong các bài đánh dấu sự kiện 30/4/1975 năm nay.

Trong vài năm qua, thỉnh thoảng lại có ý kiến ở Việt Nam dè dặt cho rằng không nên gọi chính quyền Việt Nam Cộng hoà là ngụy quân, ngụy quyền như trước.

Tuy vậy, điểm qua báo chí tháng Tư 2022, người ta thấy chữ “ngụy quyền” vẫn được sử dụng chính thức tại Việt Nam.

Ví dụ, một bài của Thông tấn xã ngày 30/4/2022 viết: “ Trên chiến trường miền Nam, mặc dù ngụy quân, ngụy quyền và đế quốc Mỹ dùng mọi thủ đoạn chia rẽ nhân dân với bộ đội, du kích nhưng mối quan hệ đoàn kết quân dân luôn được củng cố, ngày càng gắn bó.”

Tạp chí Tuyên giáo hôm nay 30/4 viết: “Nhân dân các địa phương toàn miền Nam kiên cường bất, khuất suốt cuộc kháng chiến, khi cuộc tổng tiến công nổ ra, đã dũng cảm nổi dậy phối hợp cùng các lực lượng vũ trang đập tan bộ máy ngụy quyền, thiết lập chính quyền cách mạng, giải phóng quê hương.”

Báo Quân đội Nhân dân ngày 28/4 viết: “Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào miền Nam.”

Báo Tuổi Trẻ Thủ đô ngày 30/4 viết: “Vào lúc 11h30 ngày 30/4/1975, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên nóc dinh Độc Lập – sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn.”

Báo Long An ngày 30/4 có bài viết: “Sự sụp đổ của Ngụy quyền Sài Gòn là tất yếu vì chính quyền đấy đi ngược lại lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia, dân tộc.”

Như vậy có thể thấy cụm từ “ngụy quyền Sài Gòn” vẫn là ngôn ngữ chính thức được sử dụng để chỉ các chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước đây.

ANH GIẢI PHÓNG TÔI HAY TÔI GIẢI PHÓNG ANH?!

Van Pham

ANH GIẢI PHÓNG TÔI HAY TÔI GIẢI PHÓNG ANH?!

Nhân 47 năm ngày được chế độ mênh danh là “ngày giải phóng”. Chúng ta hãy nghe nhà văn miền Bắc Nguyễn Quang Lập kể lại chuyện cuộc sống của hoc sinh miền Bắc vào thời điểm ấy!!!!

*******

Sài Gòn giải phóng tôi….

Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp.

Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn.

Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kì diệu.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó.

Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Minh bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các nhà du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.

Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế.

Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à?

Thằng Minh tủm tỉm cười không nói gì, nó mở cassette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.

Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.

Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời.

Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu đần. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.

Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.

Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.

Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác.

Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn. Với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy.

Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.