Trời vào thu, Đại Ngu buồn lắm em ơi!

Báo Tiếng Dân

Dương Tự Lập

2-4-2023

(Thế hệ một thời đi qua vòm trời vàng son Việt Nam Cộng Hòa)

Trước đó đã có, nhưng rầm rộ hơn phải được tính từ đầu năm 2004 khi ông cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa bốc đồng Nguyễn Cao Kỳ do được những tay “bác sĩ” Cộng sản tài tình kết nối “khúc ruột dư” của ông trở về Việt Nam thành “khúc ruột Thừa ngàn dặm”.

Năm kế tiếp 2005 là lão nhạc sỹ Phạm Duy, người có số phận quá tam ba bận. Kháng chiến chống Pháp ông bỏ chiến khu về Thành, chia cắt hai miền ông bỏ Thành Hà vào Nam, Bắc thâu tóm Nam ông bỏ Nam chạy sang Mỹ. Ba mươi năm mang kiếp sống của kẻ lưu vong.

Từ đó đám chống Cộng xôi thịt bên Mỹ như bọn Nguyễn Ngọc Lập, Hoàng Duy Hùng, Nguyễn Phương Hùng… theo gương ông Kỳ từ Mỹ ào ạt trở về, và cũng đều giống nhau, khi đặt chân xuống sân bay, bọn chúng nước mắt lưng tròng nức nở nghẹn ngào, ân hận, tự nhận đã một thời lầm đường lạc lối, đầy mình tội lỗi đối với đất nước non sông.

Tiếp nối theo có đám ca sĩ Việt ở Mỹ cũng rầm rộ kéo nhau về “kiếm ăn” bởi ở Mỹ thị trường âm nhạc ấy đã hết… ăn. Kiều bào ta rải rác khắp nước Mỹ thời điểm này khoảng hai triệu người. Thế hệ thích nhạc xưa ngày một thưa thớt, trong khi ở Việt Nam một trăm triệu dân, lượng khán giả háo hức đón nhận dòng nhạc vàng, Bolero này còn thịnh hành, còn đông lắm. Thôi thì sống đâu cũng là sống, cũng vẫn phải làm, vẫn phải tồn tại. Chuyện cơm áo gạo tiền gắn liền sinh mạng.

Hơi phiền là các ca sĩ này cứ tưởng bở, được hát những bài hát của họ tự chọn thoải mái như trên sân khấu Mỹ, Pháp, Úc… Như trên sân khấu quê nhà của thời vàng son Việt Nam Cộng hòa còn tồn tại. Họ được trở về Việt Nam hành nghề đã là một “đặc ân lớn” của Chính phủ, của Đảng phẩm chất, trí tuệ, cùng lòng bao dung độ lượng nhân ái dành cho dân và vì dân. Nếu không phải Đảng Cộng sản Việt Nam thì chẳng có cái Đảng chó nào trên thế gian này vĩ đại, giầu lòng chắc ẩn hơn.

Nào là Chế Linh, Thanh Tuyền, nào là Phương Dung, Giao Linh, nào là Hương Lan, Tuấn Vũ, rồi Khánh Ly, Tuấn Ngọc… ùn ùn theo nhau kéo về hát trên sân khấu quê nhà hợp hòa dân tộc. Tất cả các ca sĩ này có một số phận na ná giống nhau, tiền sử của họ đều bị khép tội phản động, bỏ chạy vào ngày “Đất nước trọn niềm vui” 30-4-1975. Họ trở thành thuyền nhân (Boat people) lênh đênh biển cả. Mạng họ đào hoa nên chưa bị sa vào ruột cá. Đến nay tuổi của họ cũng kha khá là cao. Ông Đỗ Phủ cười xếp tất cả loại này vào bọn “người xưa nay hiếm”.

Chương trình của họ vé đã được bán hết, đang chuẩn bị trình diễn, hoặc diễn hát giữa chừng mà lỡ có bị cúp mất điện, tắt đài thì chỉ là chuyện hài Xã hội chủ nghĩa, chuyện muỗi. Lỗi này nếu truy xét nguyên nhân thì đều do từ dân xướng ca phạm luật chơi, đi sai đường hoặc hát chệch hướng chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương.

Xin nêu mấy trường hợp mới xẩy ra đối với nhóm ca sĩ đã trải qua chế độ Việt Nam Cộng hòa trở về hát trên quê nhà thời gian gần đây để ta suy ngẫm.

Chế Linh gốc người Chăm, từng sáng tác và hát cho lính “Ngụy quân, Ngụy quyền”. Tuổi trẻ vô Sài Gòn nói tiếng Việt chưa sõi. Bắt đầu nổi tiếng từ bài hát đầu tiên “Tình bơ vơ” của nhạc sĩ Lam Phương. Từng bị chế độ Cộng sản bỏ tù rồi vượt biên thoát nạn. Ra hải ngoại, đứng trên sân khấu Thúy Nga Paris by night dám đóng vai Vua Champa Chế Bồng Nga, vị vua vĩ đại cuối cùng của Quốc vương Chăm vì sau khi ông tử trận năm 1390 khép lại lịch sử cường hùng, người sau thế ông không ai hơn được. Nước Chăm cũng bị nhà Hồ Đại Ngu đánh chiếm giang sơn dần, mất hết đất đai thịnh vượng và về sau bị xóa sổ hoàn toàn.

Báo An Ninh Thế giới cuối tháng ngày ấy đã đăng hình ông “Vua Chế Linh” trong bộ áo bào uy nghi lẫm liệt và có hẳn một trang dài luận tội Chế cực kỳ phản động, dám gợi lại một triều đại đã qua. MC Nguyễn Ngọc Ngạn thì đùa tếu, Chế là người vô tổ quốc, người nước ngoài nói hai thứ tiếng. Nay cho về lại Việt Nam hát là hồng phúc rồi, nếu lỡ như có xẩy ra sự cố chi chi đó khi chuẩn bị trình diễn tại Thủ đô Hà Nội như hồi trung tuần tháng 11 năm 2022 thì chỉ là do phúc của Chế hết hồng mà thôi. Dẫu có thế nào thì Chế cũng đừng oán than chế độ ưu việt đãi ngộ cho Chế trở về, bởi kết cục nó tất phải thế.

Khánh Ly làm cả một chương trình show tại Đà Lạt cuối tháng 6 năm 2022 không sao, ngứa nghề tương thêm bài “Gia tài của mẹ” (Trịnh Công Sơn sáng tác):

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu

Một trăm năm đô hộ giặc Tâу

Hai mươi năm nội chiến từng ngàу

Gia tài của mẹ để lại cho con …

Gia tài của mẹ một rừng xương khô

Gia tài của mẹ một núi đầу mồ…

Gia tài của mẹ một nước Việt buồn”…

Tắt điện. Cấm hát, về nước Mỹ mà hát. Giá như lúc đó nữ ca sĩ này hứng lên hát: “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên), hay “Tiếng hát từ thành phố mang tên Bác” (Cao Việt Bách), hoặc “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” (Trần Kiết Tường), “Đất nước trọn niềm vui” (Hoàng Hà) … chắc chắn Khánh Ly còn được hát, hát nữa, hát mãi, hát tẹt ga, ca tẹt sức. Thậm chí sẽ được hát khuyến mại, hát dưới ánh điện sáng trưng, hát tưng bừng như chưa bao giờ được hát.

Hỏng rồi! Giặc Tây thì còn được chớ sao lại có giặc Tàu ở đây? Sao lại nội chiến, bọn chúng ông “đánh cho Mỹ cút đánh Ngụy nhào” kia mà, phải nói ngoại chiến chứ, nội chiến cái con khỉ tiều, chẳng hiểu gì về điện. Xương khô nào đầy mồ. Việt nào là Việt buồn, không thấy chúng ông suốt ngày vui như có Bác, sướng như được sống bên lăng Người đó thây. Tắt, biến.

Nói vui vậy thôi chứ gì thì gì ca sĩ Khánh Ly vẫn đáng khen bởi bà dũng cảm “Hát trên những xác người” (Trịnh Công Sơn) của một trời tóc tang Mậu Thân Huế 1968 bị Cộng sản tàn sát:

“Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người

Tôi đã thấy, tôi đã thấy,

Trên con đường, người cha già ôm con lạnh giá.

Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người

Tôi đã thấy, tôi đã thấy,

Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em”.

Thể hiện nhạc phẩm nào thì Khánh Ly cũng rất tôn trọng tác giả cùng lời ca trong bài hát. Dẫu có bị Ban Tuyên giáo đuổi về lại nước Mỹ thì bà cũng nên vui vẻ. Không vì thế mà danh của bà sứt mẻ mòn hao.

Khánh Ly có chung số phận đắng cay với hơn một triệu người dân miền Nam đúng ngày “Đất nước trọn niềm vui” ấy, Ly chạy ra biển, Ly biến sang Mỹ. Trên sân khấu tự do thân hình gầy gò khô héo, Ly hát rắt réo : “Đêm chôn dầu vượt biển” (của Châu Đình An) nghe đau nhói:

Đêm nay anh gánh dầu ra biển anh chôn

Anh chôn, chôn hết cả những gì của yêu thương

Anh chôn, chôn mối tình chúng mình

Gửi lại đây trăm nhớ ngàn thương

Tạm biệt… nước non!

Rồi Ly lại hát: “Một chút quà cho quê hương” của (Việt Dzũng) sao tang tóc hãi hung:

Con gởi về cho cha một manh áo trắng

Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây

Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy

Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình…

Cả tác giả lẫn người hát đều là nạn nhân, thuyền nhân, chứng nhân trong cuộc chiến cốt nhục tương tàn, tiêu tan đất nước. Nên Ly thả hồn mình vào lời ca thổn thức, nhói nhức tâm can, chứa chan nước mắt, đau thắt con tim.

Cũng giống Chế Linh, Báo An Ninh Thế giới cuối tháng ngay sau đó có bài viết đầy trang về bà. Vạch trần bộ mặt phản quốc, tiểu sử Lệ Mai (tên thật của Khánh Ly) còn gọi Mai “đen” sinh ra và lớn lên trên phố Hàng Bông – Hà Nội. Đích thị gốc người Tràng An thanh lịch. Theo mẹ di cư vào Nam năm 1954 khi còn tuổi nhỏ lên chín lên mười, rồi trưởng thành người ca sĩ trong chế độ Ngụy Sài Gòn bơ thừa, sữa mứa của Mỹ.

Lịch sử ở đâu? Lịch sử chính là đây? Trong ca, văn, nhạc, họa chốn này… Thế hệ sau ta có hiểu nổi sao lại phải vượt biển? Sao lại phải chôn dầu mỗi nơi một chút, sao lại phải chôn lén lút giữa đêm đen. Phải gom tới bao nhiêu hộc dầu như thế mới đủ được cho ghe, cho xuồng chạy ra hải phận Việt Nam.

Sao đất nước văn hiến, văn vật mà cứ tối đen như mực, nào là “Tắt đèn”, tiểu thuyết Ngô tất Tố. Sau “Đêm đông” nhạc phẩm Nguyễn Văn Thương, đến “Đêm hội Long Trì”, tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng, “Đêm chôn dầu vượt biển” ca khúc Châu Đình An, “Cái đêm hôm ấy… đêm gì” bút ký Phùng Gia Lộc, “Đêm giữa ban ngày” hồi ký Vũ Thư Hiên, “Đêm dày lấp lánh” chính luận Nguyễn Thanh Giang… Ôi đất nước tôi, triền miên nghe nỗi đau của mẹ: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ”. Ôi đất nước tôi, những kẻ biệt xứ xa xôi, lòng hằng mong giản đơn thôi “Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình”.

Ngỡ đất nước thanh bình nên bốc đồng Nguyễn Cao Kỳ muốn gửi nắm tro tàn của mình trên quê hương vào cuối đời như mơ ước. Khi cầm quân chống Bắc Việt ông Tướng cao bồi này đã đại bại, lúc nhắm mắt ông Kỳ còn thảm hại hơn. Ông ta phải chết ở nước ngoài. Nghe bảo cô con gái ông ở Mỹ có đi nói khó với mấy chùa người Việt bên đó nhờ ký gửi nắm tro cốt của cha mình họ mới chịu. Còn nhạc sĩ Phạm Duy (Phạm Duy Cẩn), người Hà Nội “xịn” trăm phần trăm luôn, sinh tại phố Hàng Cót, sống chỗ phố Hàng Dầu:

Nhà tôi ở phố Hàng Dầu

Số nhà năm bốn (54) đứng đầu… du côn” (Hồi ký)

Trước khi nhắm mắt, ông lấy làm tiếc là nhiều tác phẩm của mình còn bị cấm. Hai trường ca chưa được cấp phép “Con đường cái quan” và “Mẹ Việt Nam”. Ông nhận thấy hoàn toàn thất bại khi người Việt còn chưa thực sự hòa hợp hòa giải cho dù đất nước đã thống nhất từ lâu.

Sau năm 1975 các vở kịch “Lá sầu riêng” (Kim Cương), “Đời cô Lựu” (Trần Hữu Trang), “Nửa đời hương phấn” (Hà Triều-Hoa Phượng)… tràn ra, dẹp dần các đoàn kịch Bắc. Gần nửa thế kỷ sau dòng nhạc vàng – Bolero của các nhạc sĩ miền Nam lan tỏa khắp bản làng thôn quê nước Việt. Thậm chí các cuộc thi Bolero bao giờ cũng được đón nhận người thi, người xem đông đảo, hoàn hảo, hào hứng, sôi nổi nhất. “Tình bơ vơ” (Lam Phương), “Xuân này con không về” (Trịnh Lâm Ngân), “Nỗi lòng người đi” (Anh Bằng), “Hai mùa mưa” (Lê Minh Bằng), “Trăng tàn trên hè phố” (Phạm Thế Mỹ), “Hoa trinh nữ” (Trần Thiện Thanh) …

Người nặng lòng gìn giữ phát huy di sản “tàn dư văn hóa đồi trụy” này ở Hải ngoại, công lớn nhất phải nhắc tới cố Giáo sư Tô Văn Lai (To Lai Peter) 1937 – 2022. Vượt biên sang Pháp cuối năm 1976, từ hai bàn tay trắng sáng lập gây dựng nên hãng băng dĩa Thúy Nga Paris, hãng băng dĩa lớn nhất của người gốc Việt ở hải ngoại, mang tên – Trung tâm Thúy Nga.

Ngày ông mất báo chí trong nước im hơi lặng tiếng. Nghe nói cô con gái ông là Tô Ngọc Thủy (Marie To) thay cha đem chương trình Thúy Nga về trình diễn lởn vởn mấy quốc gia châu Á sát Việt Nam như Singapore, Bangkok-Thái Lan. Người Việt mua vé bay sang xem đông như ngày hội. “Khúc ruột đặc biệt” ngàn trùng cách trở của dân tộc không được kết nối. Tội.

Rút ra sự thật bẽ bàng hôm nay và mãi muôn sau lời khẳng định chắc nịch của ông Tuyên giáo mẫn cán Trần Long Ẩn, Ủy viên Thường vụ Hội Nhạc sĩ Việt Nam: “Toàn bộ nền văn hóa nghệ thuật miền Nam trước năm 1975 là độc hại. Cần xóa bỏ hết”. Sặc mùi tanh tưởi, Nhổ rồi Liếm đã thành căn bệnh mãn tính của ban bệ này.

Dẫu sao mấy ca sĩ trên đây nói gì thì nói vẫn còn tư cách, giấy rách mà giữ được lề chứ cái nhà ông thợ hát Tuấn Ngọc kia tự tiện sửa lời làm ôi mặt làng “xướng ca muôn loài”. Trong ca khúc “Tình bơ vơ” nổi tiếng của cố nhạc sĩ Lam Phương hồi giữa tháng 3 năm 2023 này được tổ chức mở show tại Sài Gòn.

Nguyên bản “Trời vào thu Việt Nam buồn lắm em ơi”, Tuấn Ngọc hát thành “Trời vào thu chiều nay buồn lắm em ơi”. Phần đông khán thính giả, người xem, người đọc, bức xúc, xô vào bình luận chửi bới phê phán Ban Tuyên giáo quá khắt khe, rồi thì Ban Tuyên giáo hay nhăm nhe soi mói, Ban Tuyên giáo dữ dằn hơn con sói đói mồi, nên Tuấn Ngọc phải sửa lời, vân vân và vân vân…

Sai, hoàn toàn sai nếu trút hết nỗi căm giận cùng tội lỗi này lên đầu Tuyên giáo quốc gia. Nhiều người còn suy luận hát về mùa Thu Việt Nam thì phải tươi sáng, hào hùng khí thế như mùa thu Cách mạng tháng Tám 1945, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9. Nếu có đúng chỉ đúng một phần nào đó thôi. Trong khi lỗi đó lại do chính “Ngọc hành” – xử trên sân khấu.

Cứ cho là Ngọc sợ Tuyên giáo cấm chứ bảo Ngọc quên lời nên hát sai càng không đúng vì đời Ngọc hát bài này có dễ đến trăm lần dư. Nếu còn nhân cách không phải hạng người giẻ rách chiếu manh thì ông ta bỏ hát bài đấy, lấy bài hát khác thế thôi có sao đâu, Tuyên giáo chắc bái chào thua. Cũng không phải vậy, đã lâu rồi trước đó “Tình bơ vơ’ được các ca sĩ hát ở Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội. Các sân khấu diễn tại Sài Gòn, và nhiều nơi khác nữa trên cả nước mà vẫn trung thành với bản gốc, bài hát vẫn thể hiện được đúng lời. Như thế là không có sự cấm đoán ở đây, chí ít đúng bài này.

Tôi ghép thêm môt kẻ nữa cùng dân sàn diễn thời gian chưa xa, đó là Giám đốc nhà hát kịch, thằng hề láo Xuân Bắc. Vẫn biết nó là thằng hề của Tuyên giáo hay Tuyên giáo đẻ ra thằng hề Xuân Bắc xược láo cũng vậy. Thay vì tiếp thu lời phê bình của khán giả trong chương trình Táo quân trên Đài Truyền hình VTV càng ngày càng nhạt nhẽo, Bắc đã bịa bài viết “Cái tát của mẹ” chửi xéo Sử-tô nghĩa là Tổ-sư khán giả. Vậy nếu có vả thì ta vả gẫy răng vỡ mồm thằng hề láo chứ không thể vả mồm Tuyên giáo Trung ương. Ấy vậy mà ối kẻ vẫn ngu ngơ, bao biện cho Bắc, nghiêm khắc với Ban Tuyên giáo mới hay.

Quay lại chuyện ca sĩ Tuấn Ngọc, nay ông ta đã ở tuổi 75, đi mấy mươi năm trên con đường ca hát. Ông ta thừa trình độ để hiểu rõ nghệ thuật bao giờ cũng lưu giữ thông tin, ghi lại lịch sử, dấu tích của thời thế. Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khi viết họ đã dồn hết tâm huyết vào tác phẩm của mình, mỗi câu mỗi chữ sáng tác ra đầy ắp nỗi niềm trăn trở, chỉ có họ mới có quyền sửa lời họ viết. Ngay cả Ban Biên tập muốn sửa câu chữ cũng phải hỏi ý kiến nếu tác giả còn sống chứ chưa nói thợ hát Tuấn Ngọc dám tự ý thay chữ khi tác giả đó đã khuất.

Tôi đã từng kểvề người hàng xóm nhà tôi, nhạc sĩ Phạm Tuyên, vào dịp kỷ niệm ba mươi năm chiến tranh biên giới phía Bắc, Nhà xuất bản thuộc bên Quân đội yêu cầu ông sửa lại ca từ “quân xâm lược Bành trướng dã man” trong bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” để đỡ bớt sự hung hãn của giặc Trung Quốc, vì Đảng sợ Bắc Kinh nổi giận. Người ta dự định sẽ cho ra mắt một tuyển tập nhạc đồ sộ: “Những khúc quân hành vượt thời gian”. Ca khúc “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ Phạm Tuyên viết trong đêm 17 sang ngày 18-2-1979 không thể bỏ qua. Nó không chỉ đơn giản là bài hát, mà còn là trang sử bi tráng quý giá sống động, chính xác hơn trăm vạn lần những trang sử dối trá khác của cuộc chiến tranh hào hùng đánh giặc bành trướng xâm lăng dân tộc đã bị tẩy xóa, giấu giếm, cắt xén, cấm đoán, thêm tốt bớt xấu cho Trung Quốc. Phạm Tuyên kiên quyết từ chối và người ta cũng từ chối đưa bài hát của ông vào tuyển tập. Nếu lúc đó ông đồng ý sửa thì nhân cách của ông có còn hay không. Bài hát đó có ai thèm ca nữa hay không.

Cũng thời gian cả nước dồn hết tổng lực đánh đuổi giặc cướp Trung Quốc trên biên giới phía Bắc năm 1979 đó, có thần đồng thơ Trần Đăng Khoa đang ngồi bó gối ba láp ba la tại nước Nga viết: “Uống rượu với người bạn Nga”

Nào nâng cốc! Mừng quê tôi

Quân Tàu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi.

Biên giới mùa này, hoa ban nở

Loài hoa như trái tim người! (1979)

Khi lọt đít vừa chiếc ghế Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Khoa sợ “thế lực thù địch” thân bọn Bành trướng ngầm hãm hại, Khoa hãi vãi vứt không thương tiếc những hạt máu chữ lịch sử trên của mình để thay vào:

Và em gái hái nho ấy

Mắt em như cốc rượu đầy

Chỉ nhìn vào mầu mắt ấy

Là tôi đã ngả nghiêng say.

Hai khổ thơ hoàn toàn trật lất, không ăn nhập gì với nhau. Thần đồng vớ thần đồng vẩn. Liêm sỉ có hạn, khốn nạn dư thừa. Khoa chưa đủ tầm cỡ “Phong trần, mài một lưỡi gươm” nhưng dứt khoát vào hạng “Những loài giá áo túi cơm sá gì” (Nguyễn Du).

Hành động sửa lời đổi chữ tùy tiện dại dột dốt nát của bô lão xướng ca Tuấn Ngọc cũng chỉ xếp vào loài giá áo túi cơm như Trần Đăng Khoa vậy thôi. Việc này giúp tôi nhớ lại chương trình Thúy Nga Paris by Night 1994 với chủ đề “Lam Phương 40 năm âm nhạc” và tìm vào trang Web Bolero (chấm) com, đọc được bài viết của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, người dẫn dắt chương trình lâu năm nhất cho Trung tâm Thúy Nga này. Ông Ngạn thường thắc mắc tại sao trong nhạc của Lam Phương có nhiều câu từ buồn đến thế. Gần 20 năm sau gặp nhau tại Pháp, Lam Phương mới kể lại cho Ngạn nghe câu chuyện tình đơn phương của chàng nhạc sĩ trẻ quê mùa là ông và cô ca sĩ Sài Thành hoa lệ Bạch Yến, quãng thời gian 1970 – 1972 không thành. Để rồi ca khúc “Tình bơ vơ” lãng mạn của ông ra đời mang giai điệu man mác buồn xuyên hai thế kỷ.

Lam Phương viết “Tình bơ vơ” một ngày trời Thu Việt Nam khi người mà mình yêu thầm nhớ trộm là Bạch Yến đã qua nước Pháp. “Em khóc cho đời viễn xứ… rồi anh lặng lẽ ra đi. Gom góp yêu thương quê nhà, dâng hết cho người tình xa”. Nếu không ông đã viết trời vào Đông hay trời vào Xuân… Việt Nam buồn lắm. Ý muốn nhắn gửi cô nhân tình của mình biết về địa điểm, không gian, thời gian, vào mùa Thu nay ở hai đầu nỗi buồn, nỗi nhớ từ hai phương trời cách biệt, hai quốc gia Pháp – Việt cách xa.

Ta e rằng, nếu xướng ca Tuấn Ngọc cứ phát huy “biên tập viên” bừa bãi, ngu xuẩn kiểu này thì có ngày hát về cuộc chiến đánh giặc Trung Quốc bành trướng “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ (Phạm Tuyên), Ngọc ngỏng đầu ngoác mồm: “Quân xâm lược tàn ác dã man” mà vứt mẹ nó đi bốn chữ “bành trướng Bắc Kinh” vì sợ Tuyên giáo khép tội hỗn láo với Thiên triều. Hát “Viếng lăng Bác” của Hoàng Hiệp “Tôi ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Nếu mọi người thắc mắc “Con ở miền Nam” chứ sao lại “Tôi ở miền Nam” thì Ngọc sẽ quắc mắt: Tao là ông hoàng nhạc chữ tình lừng danh Tuấn Ngọc đây, tao đ3o phải “con ở” thuê, đứa ở đợ, ô sin làm mướn coi nhà đuổi gà cho ai cả, hiểu chưa?

Bị “cái đám quần chúng” chửi nhức óc xóc tim quá, Ngọc xin hát lại: “Tình bơ vơ” của nhạc sĩ Lam Phương thế này để tạ lỗi khán giả cùng tác giả: “Trời vào Thu Đại Ngu buồn lắm em ơi”. Có còn ai dám thắc mắc nữa hay không? Thắc mắc hả, Đại Ngu là tiền thân tên nước Việt Nam xưa. Có thế mà cũng không biết. Ngu!

Sao không khởi tố Phan Thanh Nam, đứa con rơi của ông Võ Văn Kiệt?

Báo Tiếng Dân

Thu Hà

1-4-2023

Vẽ ra các dự án nghìn tỷ để hút máu ngân sách, xài tiền quốc gia như tiền chùa, là ngón nghề của lãnh đạo các công ty, tổng công ty nhà nước.

Tuần qua, hàng trăm tờ báo quốc doanh có cơ hội được phép nhắc lại 12 đại dự án thua lỗ lên đến 63.000 tỷ đồng của Bộ Công thương. Trong đó, dự án gai góc, nhức nhối nhất là dự án Nhà máy bột giấy Phương Nam, chưa đưa vào sản xuất ngày nào, đã thành ra đống phế liệu và tiêu tốn hơn 3000 tỷ. Có điều, cả hệ thống chính trị lẫn báo đảng đều tránh né, không đề cập đến tên một nhân vật mà lẽ ra phải bị khởi tố, điều tra trong vụ “đốt” 3000 tỷ này là Phan Thanh Nam.

Chân dung Phan Thanh Nam, cựu Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Tracodi. Nguồn: Tracodi

Phan Thanh Nam là ai?

Theo một số nguồn tin, năm 1951, ông Võ Văn Kiệt ra Bắc dự Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II tại Tuyên Quang, Việt Bắc. Sau đó, ông ở lại dự lớp học chính trị “Hoa Nam”. Tại đây, ông Kiệt gặp bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của báo Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ. Bà Minh là phụ nữ trẻ trung xinh đẹp, giỏi tiếng Pháp. Xứ uỷ Nam kỳ đưa bà Minh ra miền Bắc giúp việc cho ông Hồ.

Ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông Hồ kể rằng, Trung ương có ý định mai mối bà Minh cho ông Hồ, ông Hồ cũng ưng ý. Năm đó ông Hồ 61 tuổi, ông Kiệt 29 tuổi, bà Minh 24 tuổi. Một năm nơi thâm sơn cùng cốc ấy, bà Minh yêu ông Kiệt và dính thai. Ngày 25 tháng 2 năm 1952, bà Minh sinh con trai, nhưng đưa cho người khác nuôi.

Ông Kiệt có tìm gặp bà Minh, thăm con, đặt tên là Nam, nhưng sau đó ông quay trở về Nam bộ. Cậu bé Nam là đứa con ngoài giá thú, bởi lúc đó ông Kiệt đã có vợ ở Sóc Trăng là bà Trần Kim Anh và hai người có với nhau một cậu con trai tên là Võ Dũng (tức Phan Chí Dũng), sinh năm 1951.

Cậu bé Nam có “tuổi thơ dữ dội”. Nam được sinh ra ở Việt Bắc nhưng theo người cha nuôi tên Cái về sống tại Nhã Nam, Bắc Giang. Nam lưu lạc nhiều năm, qua tay nhiều gia đình nuôi nấng. Gia đình cuối cùng đem Nam về cưu mang là ông Hà Văn Quán và bà Nguyễn Thị Mỹ, tại làng Tăng Xá, xã Tuy Lập, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ. Tại đây, Nam được lập khai sinh mang tên Hà Văn Nam.

Năm Nam 17 tuổi, ông Quán hướng dẫn Nam tìm lại cha ruột. Bà Ngô Thị Huệ, phu nhân ông Nguyễn Văn Linh, là người đã lặn lội đi đón Nam và đưa Nam thực hiện chuyến hành trình về Nam bộ, gặp lại cha đẻ là ông Võ Văn Kiệt vào tháng 9 năm 1971, khi Nam 19 tuổi.

Ông Võ Văn Kiệt và gia đình con trai Phan Thanh Nam. Nguồn: Báo Người Đô Thị

Sau năm 1975, Phan Thanh Nam học Đại học Bách khoa, ngành chế tạo máy. Ra trường, Nam về làm việc ở cơ sở huyện Củ Chi.

Năm 1986, Nam du học ở Liên Xô, làm nghiên cứu sinh, lấy học vị Tiến sĩ kỹ thuật. Về nước, Nam được bố trí công tác tại một doanh nghiệp thuộc Bộ Giao thông – Vận tải, là Công ty Đầu tư Phát triển Giao thông Vận tải (tên giao dịch là Tracodi).

Hơn hai mươi năm ở Tracodi , ông Nam lần lượt kinh qua các chức vụ quan trọng như: Tổng Giám Đốc (giai đoạn 1993-1994); Chủ tịch Hội đồng quản trị (1995-2013); thành viên Hội đồng quản trị (2013-2015).

Hơn hai mươi năm nhờ đảng bảo bọc, tạo cho cơ chế độc quyền, vì vậy Tracodi chiếm giữ được nhiều nhà xưởng, đất vàng ở thành Hồ. Tracodi chuyên xây dựng hạ tầng và phát triển dự án, khai thác chế biến vật liệu xây dựng, thương mại xuất nhập khẩu và xuất khẩu lao động.

Nhờ thế lực của ông Võ Văn Kiệt, Tracodi do Phan Thanh Nam điều hành, được thầu các dự án giao thông đường bộ, nhà ga phi trường, các cơ sở hạ tầng lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Tracodi cũng là đơn vị “trùm” xuất khẩu lao động Việt Nam sang Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… Mỗi cá nhân muốn đi lao động xuất khẩu, phải đóng cho Tracodi từ 5000 đến 6000 Mỹ kim. Một nguồn tin cho biết, hàng trăm tỷ đồng đã chảy vào túi ngài Tổng giám đốc Phan Thanh Nam một cách nhẹ nhàng. Giai đoạn chuẩn bị cổ phần hoá Tracodi, Tổng giám đốc Phan Thanh Nam cho thanh lý nhiều tài sản, lập công ty sân sau để xà xẻo “đất vàng”.

Báo Thanh Tra đưa tin, đầu năm 2015, Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) đã hoàn tất thoái vốn tại Tracodi và Bamboo Capital (mã BCG) mua lại 68% cổ phần, qua đó nắm cổ phần chi phối. Sau khi thâu tóm được Tracodi, Bamboo Capital đã gần như xoá sổ doanh nghiệp nhà nước này.

Phan Thanh Nam nghỉ hưu năm 2013, nhưng “di sản” lớn nhất mà ông ta để lại cho ngành công nghiệp Việt Nam là đống nợ hơn 3000 tỷ đồng của Nhà máy bột giấy Phương Nam.

Tháng 10-2003, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho TRACODI làm Dự án Nhà máy Bột giấy Phương Nam thuộc xã Thuận Nghĩa Hòa, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An, trên diện tích 45 hecta. Vốn sẵn có chỉ hơn 20 tỷ đồng, nhưng lại đầu tư dự án lên gần 2.287 tỉ đồng. Ngân sách nhà nước cấp 69,486 tỷ đồng; vay nước ngoài 1.322,35 tỷ đồng; vay ngân hàng thương mại 28,252 tỷ đồng; vay Công ty Tài chính Dầu khí 845,12 tỷ đồng.

Rót vào dự án hơn 2000 tỷ, mà nhà máy vẫn không vận hành được, Phan Thanh Nam và Tracodi tìm cách “chuyền bóng” cho người khác, bỏ của thoát thân.

Tháng 6-2009, Thủ tướng Chính phủ chuyển giao chủ đầu tư dự án từ Tracodi sang Tổng Công ty Giấy Việt Nam (Vinapaco). Những “ông kẹ” ở Vinapaco lại nâng mức đầu tư Nhà máy giấy Phương Nam lên 3.410 tỷ.

Đến tháng 6-2012, Nhà máy giấy Phương Nam xây dựng hoàn thành. Trớ trêu thay, đưa vào sử dụng thì không vận hành được. Các nhà thầu không chịu trách nhiệm, lãnh đạo Vinapaco cũng không chịu trách nhiệm, Nhà máy giấy Phương Nam trở thành hoang phế, sau ba lần rao bán đấu giá “đống sắt vụn” mà không có người nào hỏi mua. Con số gần 3.500 tỷ bị “cuốn theo chiều gió”.

Nhà máy giấy Phương Nam, “đống sắt vụn” gần 3.500 tỷ. Ảnh trên mạng

Ảnh: Phán quyết của toà về nợ nần của Nhà máy Phương Nam đã lên đến Chính phủ từ năm 2016

Tính đến năm 2019, Chính phủ đã phải trả nợ nước ngoài cho Nhà máy giấy Phương Nam 97 triệu Mỹ kim, còn các ngân hàng trong nước thì vẫn theo đuổi các phiên toà kiện đòi nợ Nhà máy giấy Phương Nam.

Ngày 26-3-2023 vừa qua, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, cùng thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Sinh Nhật Tân tổ chức họp các ban ngành tại Long An để tìm hướng xử lý dự án. Rất nhiều “tiến sĩ”, “cao cấp chính trị” tham gia hội thảo, nhưng tất cả đều bế tắc, bó tay. Bí thư Trung ương đảng, Lê Minh Khái đành chốt “các bộ, ngành, đơn vị liên quan cũng như địa phương tổng hợp trước ngày 15-4-2023, đề xuất báo cáo Ban Chỉ đạo để trình Ban Cán sự Đảng Chính phủ xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị”.

Dân phải gánh nợ

Dư luận Long An râm ran, chắc Bộ Chính trị sẽ duyệt cho “phân lô bán nền” 43 hecta đất vốn được lấy từ ruộng của dân để làm dự án Nhà máy giấy Phương Nam, để có tiền trả nợ.

Điều lạ lùng là không ai nhắc đến thủ phạm “đầu têu” vẽ ra dự án hoang tưởng, đốt mấy ngàn tỷ đồng của quốc gia. Phan Thanh Nam và bộ sậu Tracodi lẽ nào vô can?

Thì ra, các “thái tử đảng” loại gộc, dù con chính thất hay con ngoài giá thú, gần như được miễn trừ, tránh xa vòng tố tụng. Đại tá an ninh Lê Minh Hoàn, con trai ông Phan Văn Khải, không hề hấn gì trong một vụ án bắn chết người tại một vũ trường năm xưa. Phó Chánh văn phòng Chính phủ Lê Mạnh Hà, con trai ông Lê Đức Anh, chỉ bị khiển trách trong đại án AVG. Thành viên Hội đồng Thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Phan Đình Đức, con trai ông Đinh Đức Thiện, cháu ruột ông Lê Đức Thọ và Mai Chí Thọ, dù ra toà vẫn được HĐXX cấp phúc thẩm tuyên phạt mức án cảnh cáo và không phải chịu bồi thường trách nhiệm dân sự. Phó Tổng giám đốc Cty bia Sài Gòn, Nguyễn Minh An, con trai ông Nguyễn Minh Triết, cũng vô can trong các vụ chuyển nhượng “đất vàng”. Mới đây, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ông Đặng Xuân Thanh cháu nội ông Trường Chinh, dù bị cảnh cáo, vẫn phụ trách điều hành Viện như thường.

Đến đây, dân chúng có thể nhận ra rằng “lò ông Trọng” xem ra chỉ là chiến dịch “đập ruồi” chứ không hề “đả hổ”. Hàng ngàn tỷ tiền thuế của dân đã bị con cái của các “ông hoàng bà chúa” ném qua cửa sổ không thương tiếc, nhưng cả hệ thống chính trị của đảng chỉ loay hoay việc báo cáo, giải trình, mà không biết làm gì hơn.

Vụ Tracodi, hình như cái bóng của ông Kiệt quá lớn, làm cho cái gọi là “nhà nước pháp quyền” chỉ đứng xa mà nhìn… tiến sĩ Phan Thanh Nam. Nếu Nam là con dân, có lẽ ông ta đã bị “nhập kho” từ lâu rồi!

Biên khảo : Không quên biến cố 1 tháng 11 – 1963 tại Nam Việt Nam ?

Nguồn: Batkhuat.net

Phan Đức Minh

Thời gian gần đây, có rất nhiều bài viết xuất hiện trên các trang mạng , trên các điện báo, báo in của người Việt định cư khắp nơi trên thế giới , nói về nhân vật lịch sử Ngô Đình Diệm , về biến cố ngày 1 tháng 11 – 1963 tại Nam Việt Nam. Rồi những buổi Lễ tưởng niệm nhân vật lịch sử này được tổ chức ở nhiều nơi có Cộng Đồng người Việt. Lại có cả những nhóm người đến viếng thăm ngôi mộ của nhân vật Ngô Đình Diệm tại Việt Nam rất long trọng…Một số bạn trẻ trưởng thành nơi hải ngoại liên lạc bằng điện thư hoặc gặp chúng tôi, hỏi về chuyện “Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đình Diệm, ngày 1 tháng 11 – 1963 ở Việt Nam ? “xem ý kiến ra sao.

Tất nhiên là người viết chỉ có thể nói sơ qua và hẹn gặp nhau trên trang báo này để có thể bàn luận với nhau nhiều hơn. Vì vậy cho nên bài viết này được đưa ra, mong trả lời các bạn trẻ đó, đồng thời đóng góp chút ít vào công việc làm sáng tỏ một vấn đề lịch sử quan trọng, có ảnh hưởng lớn lao đến sự…mất còn, sụp đổ của Nam Việt Nam sau đó, cũng như ảnh hưởng đen tối của nó còn kéo dài cho tới bây giờ. Muốn tìm hiểu kỹ lưỡng, sâu xa hơn, tất nhiên là chúng ta phải tìm đọc những cuốn sách đáng tin cậy về chuyện này…

Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Tình hình trước khi xẩy ra cuộc Đảo Chánh:

Những tháng giữa năm 1960, Ông Diệm với tư cách Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, đi thăm các Bộ Tư lệnh Quân Khu I – 2 – 3 – 4 và Quân Khu Thủ Đô để nói chuyện với các Sĩ Quan trong quân đội, các Quân Binh Chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng là: chính quyền Mỹ lúc đó muốn đổ quân tác chiến ( Combatant forces ) vào lãnh thổ Nam Việt Nam để đảm nhiệm vai trò chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên chiến trường này, tất nhiên là theo chủ trương, chính sách của Hoa Kỳ… Tại Hội trường Bộ Tư lệnh Quân Khu I, Đà Nẵng, trước mặt rất đông Sĩ Quan: cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, Ông Diệm đã nói rõ ý chí cuả Ông là nhất định không chấp nhận cho chính phủ Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam, mà chỉ chấp nhận vai trò cuả người Mỹ trong nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Ông nói “Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện cuả người Mỹ, chúng ta cần có sự viện trợ quân sự, kinh tế cuả người Mỹ, nhưng chúng ta không cần và nhất định không chấp nhận để cho người Mỹ chiến đấu thay thế cho chúng ta trong công cuộc bảo vệ Quê Hương, Đất Nước này. Chúng ta đang phải đương đầu với với một cuộc chiến tranh ý thức hệ (ideological war) giữa chủ thuyết “ Quốc Gia-Dân Tộc “ tự do, dân chủ của chúng ta và “ học thuyết ảo tưởng – Utopian doctrine “ của cộng sản, xây dựng trên nền tảng tuyên truyền, lừa bịp có hệ thống, có khả năng lôi cuốn đông đảo quần chúng vào một cuộc chiến tranh nhân dân, trường kỳ kháng chiến, để tiến tới một thiên đường không bao giờ có thực . ..

Cuộc chiến đấu này không thể đơn thuần giải quyết bằng sức mạnh cuả vũ khí chiến tranh, nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến. Nếu người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghiã, mất sự hậu thuẫn cuả nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng Thống bù nhìn và anh em, các Sĩ Quan đang có mặt tại đây, sẽ chỉ còn là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc…

“ Ông nói thật nhiều, với tất cả tấm lòng và trái tim cuả Ông. Rồi ông kêu gọi tất cả các Sĩ Quan Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đã từng nêu cao tinh thần anh dũng, can đảm trên mọi chiến truờng khắp các Vùng Chiến Thuật ( tactical areas ), hãy cùng Ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi đúng đường lối lãnh đạo chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc mà ông đã vạch ra và quyết tâm theo đuổi, bất chấp mọi sức ép bất cứ từ đâu đến ! Những cánh tay giơ lên, những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội Trường Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I “Quyết tâm ủng hộ Tổng Thống ! Quyết tâm giữ vững lập truờng chiến đấu cuả Tổng Thống để bảo vệ Tổ Quốc !”

Tôi lúc đó chỉ là một Chuẩn Uý hiện dịch, nhưng với cái vốn kinh nghiệm gần 7 năm kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, 2 lần bị Tây bắt nhốt vào tù, rồi hơn 6 năm trong hàng ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, chống cộng sản, tôi cũng đủ trí khôn để thông cảm với những khó khăn, nguy hiểm đang đợi chờ Ông Diệm, vị Tổng Thổng đầu tiên cuả nền Cộng Hoà non trẻ tại Nam Việt Nam.

Tôi nhìn các Sĩ Quan đàn anh đứng chung quanh, hình như ai nấy đều linh cảm thấy có một cái gì nặng nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng Thống khả kính và can đảm cuả mình. Phải thành thực mà công nhận rằng: vào thời gian đó, dưới sự lãnh đạo cuả Ông Diệm, Quân Đội ra Quân Đội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ Quan ra Sĩ Quan, chớ không có như tình trạng cuả những thời gian sau này, sau khi Ông Diệm không còn nưã..

Lúc đó, tôi không phải là người công giáo như Ông Diệm, mà trong cương vị một quân nhân hiện dịch thuần tuý, từng quyết tâm từ bỏ hàng ngũ cộng sản, tìm đến hàng ngũ quốc gia để chống lại cộng sản, lúc này chỉ nghĩ đến quân đội, đến việc chống cộng, nhưng cũng thấy như mắt mình nhoà đi…

Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ, che chở cho Ông, cũng như cho Đất Nước này…

* Ngày 19-6-1960: Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, Elbridge Durbrow, gửi cho ngoại trưởng Mỹ, Christian Herter ở Hoa Thịnh Đốn 1 điện văn mật, thông báo tình hình Sài Gòn: Có thể có 1 cuộc đảo chánh nhằm lật đổ chính quyền cuả Ông Diệm, trong khi đó ở nông thôn, hoạt động cuả cộng sản gia tăng mạnh mẽ…

Phần cuối, bản văn kết thúc “ Nếu thế đứng cuả Ông Diệm tiếp tục giảm sút, không còn phù hợp với tình thế chính trị, tâm lý, kinh tế và an ninh tại đây nưã thì có thể là điều mà chính phủ Hoa Kỳ nên tính đến những phương cách khác để hành động và thay thế người lãnh đạo hầu đạt đến những mục tiêu cuả chúng ta… ( If Diem’s position in the country continues to deteriorate as result failure adopt proper political, psychological, economic and security measures, it may become necessary for US Government to begin consideration for alternative courses of action and leaders in order to achieve our objectives…). *

Ngày 11 – 12 tháng 11-1960 : Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Lữ Đoàn nhẩy dù và Trung Tá Vương Văn Đông chỉ huy một lực lượng quân sự gồm vài Tiểu Đoàn nhẩy dù và 1 đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến, bao vây dinh Tổng Thống để làm một cuộc đảo chánh với lý do được công bố trên đài phát thanh Sài Gòn đã bị quân đảo chánh chiếm giữ “…Ông Diệm đã tỏ ra không đủ khả năng cứu đất nước khỏi họa cộng sản cũng như bảo vệ sự đoàn kết quốc gia… – Diem has shown himself incapable of saving the country from Communism and protecting national unity…”

Biết rằng cuộc âm mưu đảo chánh này không do những nhân vật chính trị có danh tiếng, không có hậu thuẫn chính trị thực sự cuả dân chúng, không có sự tham gia cuả các Tướng Lãnh cũng như đông đảo lực lượng quân đội dưới quyền, cho nên ông Diệm tạo thế trì hoãn, thoái thác nhượng bộ trước sự đòi hỏi cuả phe đảo chánh là từ – Đại tá Nguyễn Chánh Thi – bỏ chính quyền và đợi cho các lực lượng quân đội, hầu hết vẫn còn trung thành với ông, cùng ông theo đuổi đường lối chống cộng đã vạch ra, từ các nơi kéo về dẹp loạn. Cuộc đảo chánh bất thành vì quá non kém về tổ chức, lãnh đạo, cũng như đường lối chinh trị và quân sự. Tuy nhiên cuộc đảo chánh bất thành này đã đem lại cho chính quyền cuả Ông Diệm những bài học quan trọng :

A.- Cộng sản ngày càng tích cực tung cán bộ vào thành phố khai thác những mâu thuẫn, bất đồng giưã chính quyền và các nhân vật, các nhóm chống đối tại thành thị. Những mâu thuẫn này tất nhiên phải có trong hoàn cảnh miền Nam Việt Nam đang phải thực hiện một xã hội tương đối tự do, dân chủ, phồn thịnh ( hơn hẳn miền Bắc ). Có tự do, dân chủ khá nhiều cho nên các lực lượng, nhóm người chống đối này khác mới có hoàn cảnh, điều kiện mà hoạt động chống chính quyền, chớ còn như tình trạng Việt Nam hôm nay, dưới chế độ cộng sản, thì chính quyền thấy chống đối bằng bạo lực, là lập tức dùng công an, quân đội bằng võ lực tiêu diệt ngay, còn chi nữa mà chống đối. Chính quyền miền Nam lúc đó, cùng một lúc phải đối phó với hoàn cảnh đất nước như thế, lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lăng, phá hoại toàn diện cuả cộng sản Hà Nội, được chỉ đạo và yểm trợ từ Mạc-Tư-Khoa cũng như từ Bắc Kinh, theo “Đường lối cách mạng vô sản toàn cầu cuả Đệ Tam Quốc tế – Global Proletarian Revolution Policy of the Third International ”.

B.- Thi hành 1 đường lối vô cùng khó khăn khả dĩ đáp ứng được nhu cầu cuả tình thế : Giữ vững chính quyền đang bị âm mưu khuynh đảo từ bên ngoài do bọn tài phiệt quốc tế ( International Financial Oligarchy ), ở bên trong thì do cộng sản chỉ đạo. Ngay trong nội bộ hàng ngũ quốc gia cũng có những phần tử ham danh, hám lợi cũng như 3 quyền lực, đang lợi dụng không khí tự do, dân chủ của xã hội miền Nam, nhất là truyền thông, báo chí , tạo ra hay chờ đợi thời cơ để hành động.

C.- Giữ vững tinh thần kỷ luật và lòng trung thành cuả quân đội, là sức mạnh bảo vệ chính quyền, chế độ, đồng thời giữ vững sự đoàn kết các tôn giáo là sức mạnh hậu thuẫn cuả nhân dân, nhưng cả hai: Quân Đội và Tôn giáo lại là những mục tiêu quan trọng nhất mà cả 3 lực lượng chống phá nói trên ( Tài phiệt quốc tế, cộng sản và các nhóm chống đối trong nước ) đang quyết tâm nhắm vào để tạo ra một động lực làm nổ bùng một cuộc đảo chánh khác, có tầm vóc quy mô, có tổ chức tinh vi và …” cao cấp “ hơn cuộc đảo chánh đã thất bại một cách dễ dàng ngày 11 tháng 11 năm 1960.

* Ngày 20-12-1960 , để đánh lưà dư luận quốc tế, để thu hút các nhóm chống đối và lôi kéo nhân dân Miền Nam, cộng sản Hà Nội tuyên bố chính thức cho ra mắt công khai Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam tại 1 Chiến Khu ( Strategic war zone) cuả cộng sản tại phiá đông miền Nam Việt Nam, thành phần bao gồm chừng 100 nhân vật nói là đại diện cho các nhóm chính trị đối lập với chính quyền, đại diện cho các tôn giáo có mặt tại Nam Việt Nam, các lực lượng vũ trang còn sót lại sau khi bị quân chính phủ đánh tan trong các chiến dịch hành quân tại miền Tây trước đó ít năm.

Mặt trận này thực sự đặt dưới quyền lãnh đạo cuả một cán bộ cao cấp cuả Hà Nội, thuộc Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng.

* Ngày 1 tháng 4-1961: Cộng sản tung một Tiểu Đoàn chủ lực quân, có du kích địa phương tăng cường, gồm hơn 400 quân, tấn công thử sức vào 1 ngôi làng chiến đấu kiểu mẫu cuả “Quốc sách ấp chiến lược – National policy of Strategic Hamlets ” thuộc Tỉnh Kiến Hoà, nhưng bị quân đội Cộng Hoà đánh tan và bị thiệt hại nặng nề. Hai ngày sau, cộng sản thử sức lần nưã bằng cách tấn công vũ bão và bất ngờ vào khu vực Bến Cát, phiá Bắc Sài Gòn, nhưng hơn 100 quân cộng sản bị quân Cộng Hoà tiêu diệt, bỏ xác tại trận. Cộng sản buộc phải đổi hướng, tập trung nỗ lực vào những hoạt động võ trang phá hoại tại các thành phố, tung cán bộ len lỏi vào trong các tầng lớp nhân dân, hàng ngũ tôn giáo nào có đông đảo quần chúng ( nhưng hàng ngũ thiếu huấn luyện, tổ chức không chặt chẽ ) để tìm cơ hội gây xáo trộn chính trị tại các thị trấn, nơi tập trung đông đảo dân cư, làm suy yếu chính quyền Miền Nam thay vì nôn nóng giành chiến thắng quân sự để hỗ trợ cho các hoạt động chính trị và ngoại giao.

* Ngày 12-5-1961: Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson, trong cuộc viếng thăm Á Châu, đã gặp Tổng Thống Diệm tại Sàigòn. Ông Johnson ca tụng Tổng Thống Diệm là một Churchill cuả Á Châu và nói, “Đối với thế đứng cuả Hoa Kỳ tại Á Châu, Tổng Thống Diệm là nhân vật, là người bạn không thể thiếu được.” Tuy nhiên, khi trở về Mỹ, ông Johnson lại báo cáo cho Tổng Thống Kennedy cũng như cho các nhân vật chính trị cao cấp biết rằng: Ông Diệm vẫn giữ vững lập trường không có quân chiến đấu cuả Hoa Kỳ tại Việt Nam, trừ phi cộng sản Hà Nội xua quân tràn qua vĩ tuyến 17 một cách đại quy mô như cộng sản Bắc Hàn đã xua quân tràn qua vĩ tuyến 38 hồi 1950 …. Vice President Lyndon B. Johnson meets Mr. Ngo . Dinh Nhu at Gia Long Palace, Saigon 12-5-1961 Do lập trường cương quyết Bảo vệ Chủ quyền Quốc gia, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã luôn luôn kiên trì tranh đấu cho sự Độc lập Dân tộc dù phải chấp nhận những khó khăn.

Ngày 09.05.1961, ông Diệm đã bày tỏ với Phó Tổng Thống Mỹ Johnson đang viếng thăm chính thức Việt Nam rằng : chính phủ Việt Nam rất biết ơn sự viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ, nhưng về việc gửi Quân đội tác chiến Hoa kỳ đến Việt Nam, ông cương quyết từ chối : Nếu quý vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi ? Với người Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp còn ghi sâu trong tâm trí họ. Sự hiện diện của Quân đội Mỹ sẽ làm cho dân chúng dễ tin những lời tuyên truyền của cộng sản. Sự can thiệp trực tiếp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam, vì làm cho cuộc chiến đấu của chúng ta mất chính nghĩa.

Tháng 11.1961, Đại sứ Frederick Nolting được yêu cầu từ tòa Bạch ốc gặp Tổng Thống Diệm về vấn đề quân chiến đấu Mỹ ( được 4 xem như ‘chia sẽ trách nhiệm ). Ông Diệm trả lời : « Chắc ông Đại sứ cũng hiểu, những đề nghị ấy đụng chạm tới vấn đề trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam. Việt Nam không muốn là một nước bị bảo hộ ( Vietnam does not want to be a protectorate) ».

* Ngày 18-9-1961: Cộng sản bất thần mở trận đánh lớn cấp Trung Đoàn ( Regiment ), tung 1,500 quân bao vây và đành chiếm Tỉnh Lỵ Phước Vinh, sau khi đã mở chiến dịch gồm 41 trận đánh lớn nhỏ trên khắp lãnh thổ Miền Nam để áp đảo và chia sẻ lực lượng đối phương. Sau đó 3 tuần lễ, tại diễn đàn Quốc Hội, Tổng Thống Diệm chính thức tuyên bố với quốc dân và thế giới là Việt Cộng, với sự chỉ đạo và yểm trợ cuả cộng sản quốc tế đã chính thức biến cuộc chiến tranh du kích trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thành một thứ chiến tranh xâm lăng quy mô thực sự, có sự tham chiến cuả quân chính quy cộng sản Bắc Việt, được trang bị tối tân, hùng hậu với đầy đủ pháo binh cỡ nặng, xe tăng, thiết giáp… Bọn tài phiệt quốc tế, buôn bán chiến tranh, càng thêm cơ hội để tung tiền và thủ đoạn để đưa đám “ Lobbyists ” vào các hành lang, ngõ ngách cuả Quốc Hội, hệ thống truyền thông Hoa Kỳ, dọn đường cho một kế hoạch ào ạt đổ quân tác chiến cuả Mỹ và lôi kéo một số đơn vị quân đội Đồng Minh vào chiến trường Nam Việt Nam. Chậm chân là thiệt hại cả… núi đô la chớ không phải chuyện đuà. Nhưng, lại tiếng nhưng ở chỗ này ! Nhưng Ông Diệm nhất định không chấp nhận cho quân đội tác chiến cuả Mỹ chiến đấu tại Nam Việt Nam. Còn Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy thì cũng không hăng hái, thiết tha cho lắm với việc đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào chiến trường Miền Nam trong hoàn cảnh lúc này, không như lúc cộng sản Bắc Hàn xua quân cấp Quân Đoàn ( Army Corps ) tràn qua vĩ tuyến 38 hồi năm 1950…

Ông Kennedy vẫn trung thành với “ Đường lối ngăn chặn – Containment Policy ” để chống lại sự bành trướng cuả phong trào cộng sản trên thế giới từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, bằng những phương cách ít tốn sinh mạng người Mỹ nhất, trừ trường hợp nền an ninh cuả Mỹ bị đe dọa trực tiếp, nghiã là ông Kennedy chỉ chấp nhận hy sinh nhân mạng cuả Mỹ trong “ Trường hợp tối cần thiết – In case of absolute necessity ”. Thế thì “chúng nó ” bắt buộc phải loại trừ Ông Diệm khỏi ngôi vị lãnh đạo Nam Việt Nam trước đã, và sau đó bất cứ kẻ nào làm ngăn trở việc đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào Nam Việt Nam cũng đều bị “chúng nó” xoá sổ hết ( kể luôn cả Tổng Thống Mỹ ).

* Ngày 2-1-1963: Tại Ấp Bắc, cách Sài Gòn 40 dậm về phiá Đông Nam, gần 2 Trung Đoàn ( 2,500 quân ) thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, trang bị vũ khí tự động, có xe tăng, thiết vận xa, pháo binh và không quân ( cả khu trục cơ lẫn trực thăng ) yểm trợ, mở cuộc hành quân bao vây, tiêu diệt 1 lực lượng cộng sản gồm chừng I Tiểu Đoàn ( battalion ) hơn 300 quân chủ lực địa phương, với hoả lực yếu kém hơn rất nhiều, lại không có xe tăng cũng như không quân, pháo binh yểm trợ. Kết quả thật là đau buồn: Cộng quân lợi dụng đêm tối, thoát khỏi vòng vây gần như toàn vẹn chủ lực, sau khi đã gây cho quân chính phủ những tổn thất đáng kể. Thật là một cơ hội bằng vàng để bọn tài phiệt quốc tế dùng ảnh hưởng, sức mạnh cuả đồng đô la mà lái các cơ quan truyền thông, hướng dẫn dư luận, gây áp lực tại Hoa Kỳ, từ Quốc Hội cho đến chính phủ phải bằng mọi giá đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào Việt Nam ngay lập tức. Nếu không, “ Tiền đồn chống cộng – Advanced Post resisting the communists “ cuả Mỹ tại Á Châu sẽ xụp đổ và Chính sách ngăn chặn cộng sản cuả Mỹ trên thế giới sẽ thất bại và… nền anh ninh cuả chính nước Mỹ cũng sẽ bị lâm nguy… Chúng đem câu nói cuả Lenin, Sư Tổ cuả cách mạng vô sản 1917 tại Nga, người đã mở đường cho phong trào cộng sản thế giới bùng ra hết cách ngăn cản sau thế chiến thứ 2, mà dọa cả nước Mỹ “ Trước hết, chúng ta hãy chiếm giữ Đông Âu, rồi nắm lấy khối quần chúng khổng lồ ở Á Châu, sau đó bao vây Hoa Kỳ là thành lũy cuối cùng cuả chủ nghiã tư bản. Chúng ta khỏi phải đánh đấm chi cả, Hoa Kỳ cũng sẽ rơi vào tay chúng ta như một trái cây đã chín rưã – First, we will take eastern Europe, then the masses of Asia, then we will encircle the United States which will be the last – Nổ ra cuộc đấu tranh ở Huế – 5 bastion of Capitalism. We will not have to attack, it will fall into our hands like an overipe fruit.” ( The Death of A Nation – John A. Stormer – The Liberty Bell Press – Florissant Missouri, July 1978, Page 14 ).

* Ngày 8-5-1963: Bùng nổ vụ rối loạn, chống đối ở Cố Đô Huế, giưã hàng chục ngàn tín đồ Phật Giáo với nhân viên chính quyền địa phương và các lực lượng an ninh. Tổng Thống Diệm tuyên bố trên đài phát thanh quốc gia là vụ này có bàn tay cuả cộng sản nhúng vào, gây thêm tình trạng khó khăn cho địa phương, tạo thêm sự mâu thuẫn trầm trọng giưã chính phủ và 1 tôn giáo lớn trong nước. Cuộc rối loạn ngày càng gay go, dữ dội, quyết liệt và khi 1 trái lựu đạn nổ tung trong khu vực đài phát thanh Huế,gây thương vong cho một số người biểu tình chống đối thì tình trạng biến sang hình thức “ Một Tôn giáo lớn, đông đảo nhất trong nước chống lại một hệ thống chính quyền được lãnh đạo bởi 1 Tổng Thống và các nhân vật cao cấp, trọng yếu, đa số là người thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã.”

Trái lựu đạn nổ tung đó sau này được biết là do CIA cài đặt người, nhân lúc hỗn loạn, đã ra tay, cho nổ bùng đúng lúc để châm ngòi cho cuộc biểu tình chống đối từ Huế và sẽ lan ra khắp nơi, sau cùng là ngay tại Thủ Đô Sài Gòn, trung tâm quyền lực của Việt Nam Cộng Hòa.

Phía chính phủ thì lên tiếng : Tổng Thống Diệm sử dụng người theo nguyên tắc thông thường của các nhà lãnh đạo là căn cứ vào tài năng, đức độ, sự tin cậy, thích hợp cho công việc và lợi ích quốc gia, chớ không phải vì kỳ thị tôn giáo, không kỳ thị Phật Giáo như một số người buộc tội, gán ghép Cho ông Diệm. Ở điểm này, những người hiểu biết thì cho thấy rằng : Trong hàng ngũ Tướng lãnh của quân đội lúc đó, thử tìm coi có những ai là cùng tôn giáo với ông Diệm ?

Trong hàng ngũ các Bộ Trưởng trong chính quyền Ngô Đình Diệm lúc đó, ngoại trừ ông Trần Trung Dung, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống ra, còn có ai là người công giáo như ông Diệm ? Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, được ông Diệm tin cậy, quý trọng, là người miền Nam, thì khác tôn giáo với ông Diệm, là Phật Tử rõ ràng…

Nói một cách rõ ràng thì dưới đây là những Phật Tử được ông Diệm chọn đứng cùng hàng ngũ, phục vụ Đất Nước với ông : – Ông Nguyễn Ngọc Thơ, Phó Tổng Thống. – Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng. – Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Tổng Trấn Sài Gòn- Gia Định. – Ông Vũ Văn Mẫu, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao. – Ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng. – Ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng phủ Tổng Thống, kiêm Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng. – Ông Đoàn Văn Thêm, Phó Đổng Lý Văn Phòng. – Ôn Võ Văn Hải, Chánh Võ Phòng. – Ông Nguyễn Thành Cung, Tổng Thư Ký. – Ông Trần Sử, Bí Thư… Tất cả đều là Phật tử.

* * Toàn thể Bộ Tham Mưu của Tổng Thống đều là Phật Tử. * Trong số 18 Tổng Bộ Trưởng, chỉ có 5 người là Công giáo, còn 13 là Phật Tử.. * Bên quân đội, tổng số 19 tướng lãnh có quyền hành nhất, thì đã có 16 tướng là Phật tử, chỉ có 3 là công giáo… Nghĩa là đại đa số những nhân vật, những người nắm giữ và điều hành bộ máy chính quyền thời Ngô Đình Diệm đểu là Phật tử. Đó là chưa kể chính quyền Ngô Đình Diệm đã giúp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thời đó xây dựng nhiều Chùa – Chùa Xá Lợi ở đường Bà Huyện Thanh Quan, Sài Gòn – ( trong đó có chùa Xá Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm …),giúp nhiều sư tăng ra nước ngoài ( nhất là ở Pháp, ở Mỹ … ) học hành đậu đạt bằng cấp cao ( kể cả Tiến Sĩ ) để trở về phục vụ hiệu quả hơn, mở mang các cơ sở giáo dục đào tạo thế hệ trẻ đủ khả năng phục vụ quốc gia, xã hội theo đường lối của tôn giáo mình .

thichtriquang-1967-13

Vậy, cái chuyện…kỳ thị Phật Giáo chỉ là chiến thuật khởi đầu ( starting tactic ) để mở màn kế hoạch huy động cho được khối dân chúng đông đảo, thực hiện chương trình đảo chánh lật đổ ông Diệm. Điều đó cũng đồng thời đánh trúng tâm lý ganh ghét của một số người không phải là ít, khi thấy sự phát triển mạnh mẽ, có hệ thống, có tổ chức của Giáo Hội công giáo tại miền Nam vào thời điểm đó, sau sự thành công rõ ràng của chính quyền Ngô Đình Diệm trong chương trình định cư cả triệu đồng 6 bào miền Bắc trốn chạy cộng sản, tìm đường vào Nam, mà trong đó phần đông là đồng bào công giáo. Chỉ riêng đồng bào công giáo của vùng Bùi Chu, Phát Diệm rời bỏ Bắc vào Nam cũng đã đông đảo biết bao nhiêu rồi… Sau này, nhiều người lại còn hỏi : bao nhiêu năm nay, Cộng sản Việt Nam đàn áp tôn giáo, kìm kẹp kẻ đối lập, áp bức dân chúng gấp… bao nhiêu lần Ông Diệm, mà sao dân chúng chẳng thấy những phe này, nhóm nọ biểu tình, chống đối, nổi loạn để lật đổ chính quyền cộng sản chi cả. Chỉ thấy gần đây mới có những nhân vật nam nữ đấu tranh ôn hòa cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân quyền ở Việt Nam, đang bị cộng sản – Chùa Vĩnh-Nghiêm ở đường Công Lý – hành hạ, bắt nhốt trong tù mà thôi. ..

Gần đây nhất, vụ cá chết, biển độc, do công ty nước ngoài Formosa ở Hà Tĩnh gây ra thảm họa cho hàng triệu dân các Tỉnh miền Trung, đã thúc đẩy dân chúng đứng lên biểu tình ôn hòa đòi hỏi chính quyền, nhà nước cộng sản phải đứng ra giải quyết, bảo vệ dân, bảo vệ môi trường. Việc biểu tình đấu tranh ngày càng bùng lên với tầm cỡ lớn lao, lan rộng khắp nước, cả ở Hà Nội, Hải Phòng, vào các thành phố trong Nam, trong đó có Sài Gòn.Vậy mà chẳng thấy tổ chức, lực lượng nào đứng lên đấu tranh như những hồi chống ông Diệm hồi 1963, và chống Việt Nam Cộng Hòa ở Huế, Đà Nẵng hồi 1966, mà lúc này chỉ thấy có Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, vị lãnh đạo của Giáo Phận Vinh, đứng về phía dân chúng trong vùng, để cho các Linh mục công giáo của ngài cùng đứng với dân oan, dân khổ để đấu tranh, chỉ thấy Linh Mục Đặng Hữu Nam dẫn giáo dân đi kiện Formosa dù bị công an, cảnh sát cơ động ngăn cản, đe dọa, nhưng Linh mục Nam và giáo dân của ông cương quyết không bỏ cuộc. Người ta chỉ thấy Linh mục Trần Đình Lai hướng dẫn hàng chục ngàn giáo dân khắp vùng đứng lên biểu tình, bao vây, đuổi Formosa đi khỏi, Khí thế dũng mãnh đến độ công an, bộ đội bỏ chạy tán loạn, giáo dân trèo cả lên tường thành khu vực Formosa đã bị kiểm soát, nhưng tuyệt nhiên không bạo động, đốt phá, tạo thêm sức mạnh cho toàn dân Việt Nam sẵn sàng cho những bước đấu tranh kế tiếp.

Như vậy, người ta có thể hiểu : ở Nam Việt Nam, hồi đó người dân có quyền tự do, dân chủ khá rộng rãi cho nên việc biểu tình chống đối chính – Dân Hà Tĩnh biểu tình, Formosa…thất thủ – chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của của cơ quan “ Tình Báo, Gián Điệp của nước bạn đồng minh khổng lồ “ , được Thành Ủy cộng sản ở Huế phối hợp hành động, nắm lấy thời cơ, thúc đẩy dân chúng, dựa vào thế lực tôn giáo, mua chuộc Tướng lãnh quân đội, huy động dân chúng, đưa cán bộ, tranh thủ thời cơ, đẩy cuộc đấu tranh chống chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa vào một thế thuận lợi để giật xập chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền đang làm cho mọi hoạt động của cộng sản lâm vào tình trạng điêu đứng, khó khăn, bế tắc… về đủ mọi phương diện : chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa. Rõ ràng nhất là cộng sản sợ hãi chính sách tố cộng, chiêu hồi đã lôi kéo quá nhiều cán binh Việt cộng, có cả trung và cao cấp, quay trở về đầu thú, tiết lộ rất nhiều thông tin quan trọng. Cộng sản rất sợ quốc sách ấp chiến lược, bình định nông thôn của ông Ngô Đình Nhu… làm tê liệt khả năng của cộng sản trong chiến lược “ nắm vững nông thôn, bao vây và tiêu diệt thành thị “ trong lúc cả hai phía cộng sản cũng như Việt Nam Cộng Hòa đều biết rõ : phía nào nắm vững được nông thôn, bên đó sẽ thắng trong cuộc chiến tranh trường kỳ, phức tạp …trên chiến trường Việt Nam lúc này.

Sự rối loạn càng bùng lên dữ đội và lan mạnh tới các thành phố lớn rồi di chuyển trung tâm đấu tranh chống chính phủ về ngay tại Thủ Đô Sài Gòn, nơi tập trung các cơ quan quyền lực quốc gia, các Toà Đại Sứ ngoại quốc, cũng như các cơ sở truyền thông – Thượng Toạ Thích Trí Quang – 7 quốc tế.

Tại đây, Thượng Toạ Thích Trí Quang, một trong những vị lãnh đạo cao cấp Phật Giáo lúc đó, gốc người Bắc Việt, 2 lần bị Pháp bắt vì tình nghi có liên lạc hoạt động với cộng sản, người được dư luận trong và ngoài nước coi là một nhân vật tôn giáo đặc biệt, có tài tổ chức, lãnh đạo quần chúng trong các hoạt động đấu tranh chính trị… đứng ra phát động và lãnh đạo cuộc đấu tranh cuả dân chúng. Thượng Toạ thông báo cho phiá Mỹ biết là người Mỹ phải chịu trách nhiệm về những hoạt động cuả chính quyền Sài Gòn do Mỹ ủng hộ… ( Thich Tri Quang, a politically sophisticated monk of North Vietnamese origin, twice arrested by French on suspicion of Vietminh connections, stirs the people against Diem and informs US officials, whom he holds responsible for Diem because of US support…).

* Ngày 7- 6 -1963: Bà Ngô Đình Nhu lên tiếng tố cáo trước dư luận là người Mỹ đã cố tình nhúng tay vào, tạo nên vụ biến động này và thúc đẩy cho ngày một thêm trầm trọng, phức tạp thêm, nhằm khuynh đảo chính quyền cuả Tổng Thống Diệm vì Tổng Thống Diệm cương quyết không chấp nhận chính sách can thiệp chính trị và quân sự cuả người Mỹ, là chính sách đi ngược lại ý nguyện và quyền lợi cuả dân chúng Nam Việt Nam.

* Ngày 11-6-1963: Thượng Toạ Thích Quảng Đức “ tự thiêu “ ngay tại trung tâm thủ đô Sài Gòn, để phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo cuả chính phủ. Theo nghĩa thông thường, “ tự thiêu “ là tự mình thiêu đốt mình cho một lý do, mục đích chi đó.Vụ tự thiêu của Thượng Tọa Quảng Đức nói ở đây, thì sự việc lại khác hẳn : …

Sau khi cầm bình săng tưới vào người Thượng Tọa Thích Quảng Đức đang ngồi bất động, tên cộng sản nằm vùng, mặc áo nhà sư, Nguyễn Công Hoan ( Huỳnh Văn Thạnh ) còn cẫn thận rãi thêm một đường săng từ chỗ Thương Tọa Quảng Đức đang ngồi, đi về phía sau, để hắn có thể đứng từ xa mà châm lửa ! Vậy mà toàn bộ sách báo cộng sản và phe phái chống đối đều viết rằng “Hoà Thượng Thích Quảng Đức TỰ tẩm xăng ”!!! Rồi ngay sau đó, cũng không phải do Thượng Tọa Thích Quảng Đức “TỰ bật quẹt Zippo để tự thiêu” như chúng rêu rao, mà là Thượng Toạ vẫn đang chấp hai tay trên ngực trong thế ngồi bất động ! Trước và sau khi ngọn lửa bùng lên, Thượng Toạ vẫn đang chấp tay trên ngực, còn ngọn lửa thì cháy từ phía sau, chạy tới rồi táp vào người Thượng Toạ để bùng lên ngọn lửa “tự thiêu”! Hòa thượng Thích Quảng Đức đã bị bức tử, đã bị… đốt chết bởi sự liên kết thực hiện giữa cộng sản và phe nhóm chống đối lúc đó… nhằm khích động cuộc nổi loạn của dân chúng đúng theo kế hoạch của CIA và cộng sản… Dư luận dân chúng trong nước và thế giới bị xúc động mạnh. Báo chí trong và ngoài nước, các cơ quan truyền thông khác, nhất là tại Mỹ ( đã bị lâm trận hoả mù cuả bọn – Thượng tọa Quảng Đức…bị thiêu – Lobbyists nói ở trên ) khai thác tối đa vụ này theo chiều hướng “ Phải thay thế ngay người lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam”. Thay thế bằng nhân vật nào ? – Các cơ quan truyền thông Mỹ không nói rõ, nhưng chỉ hướng dẫn dư luận là : loại bỏ Ông Diệm khỏi ngôi vị lãnh đạo chính quyền là được rồi…

Đang cơn dầu sôi lưả bỏng như thế thì vì tức giận người Mỹ và lực lượng đấu tranh nên đã nóng giận, mất sự khôn ngoan, bình tĩnh cần thiết trước tình thế bất lợi cho chính phủ., bà Nhu lên tiếng mạt sát, thoá mạ cuộc tự thiêu cuả Thượng Toạ Quảng Đức. Thật là “Lửa đã đỏ lại đổ thêm dầu ”. Điều này làm cho dư luận dân chúng thêm phẫn nộ, lợi thế nghiêng hẳn về phiá lực lượng đấu tranh chống chính phủ.

* Ngày 27- 6- 1963: Thấy tình hình Sài Gòn rối loạn, khó gỡ được ra, Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy bổ nhiệm Ông Henry Cabot Lodge, thuộc Đảng Cộng Hoà, sang Sài Gòn giữ chức vụ Đại Sứ Hoa Kỳ, thay thế cho Đại Sứ Nolting, người đang tỏ ra bất lực trong việc gỡ rối cho tình hình Sài Gòn theo chiều hướng có lợi cho chính sách cuả Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.

Thực tâm Tổng Thống Kennedy là chỉ gỡ rối sao cho êm đẹp, thuận lợi cho đường lối, chính sách cuả Hoa Kỳ, cuả Ông Kennedy, chớ Ông Kennedy lúc này không hề nghĩ đến việc lật đổ Ông Diệm, nhất là không bao giờ nghĩ đến việc phải giết Ông Diệm. Ông Cabot Lodge ( đảng Cộng Hòa ) được giới chính trị và truyền thông Hoa Kỳ coi là “ Một con cáo già chính trị ” và đồng thời là một “ Chuyên viên đảo chánh ”, hiện đang theo đuổi một chính sách mang tính cách “Diều hâu ” khác hẳn với Ông Kennedy ( đảng Dân Chủ ) về vấn đề Việt 8 Nam. Một Cabot Lodge, cáo già chính trị, chuyên viên đảo chánh, không cùng 1 Đảng với Ông Kennedy. Cabot Lodge thuộc Đảng Cộng Hòa, có nhiều liên hệ với quyền lợi cuả bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh, mà sang làm Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn thì tình hình sẽ ra sao ?

Cabot Lodge được cử sang Sài Gòn với nhiệm vụ “gỡ rối – Untangling ” tình hình, nhưng Cabot Lodge lại quyết định chọn “ phương cách gỡ rối ” bằng một “Cuộc đảo chánh – Coup d’état ” êm ái, nhẹ nhàng, không chọc giận Ông Kennedy, sinh trưởng trong 1 gia đình theo đạo Thiên Chuá, nghiã là chỉ cần đẩy Ông Diệm ra khỏi ngôi vị lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam, đưa Ông Diệm đi sống lưu vong ở một quốc gia nào đó nằm trong “ Quỹ đạo chính trị – Political circle ” cuả Hoa Kỳ, như Đài Loan, Thái Lan chẳng hạn là đủ rồi. Sau đó, Cabot Lodge sẽ dựng lên một thứ chính quyền mới hoàn toàn biết vâng phục theo ý muốn cuả Hoa Kỳ, hay đúng ra trong lúc này, là ý muốn cuả “Giới tài phiệt – Financial Oligarchy ” cuả Mỹ đang tính chuyện kiếm lời thật lớn lao trong cuộc chiến tranh đang xẩy ra trên đất nước Việt nam nhỏ bé nhưng đầy đau khổ, máu xương và nước mắt này… Đó ! Câu trả lời cho cái đầu đề cuả bài viết này “Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đình Diệm ? ” tưởng đã đủ rõ ràng, khả dĩ góp phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ 1 trang lịch sử cận đại cuả một đất nước, một dân tộc anh hùng, nhưng quá bé nhỏ trước nanh vuốt cuả …những thế lực khổng lồ, hung bạo nên đành phải chịu chấp nhận tủi nhục, đau thương…

Nó là một bài học vô cùng quý giá cho những quốc gia cường thịnh cũng như nhược tiểu trong cuộc đoàn kết đấu tranh để sinh tồn trong một thế giới ngày càng thêm phức tạp, rắc rối, đòi hỏi một thế liên minh sáng suốt, khôn ngoan và chung thủy. Nếu không, kẻ thắng và người thua, rút cuộc tất cả như nhau, sẽ mang vào mình những kết quả thảm hại, những cái nhìn xấu xa nhất cuả những người chung quanh, kể cả kẻ thù lẫn bạn bè…

San Diego – California

Phan Đức Minh

Tài liệu tham khảo : * The Death of A Nation.- John A. Stormer.- Liberty Bell Press – Missouri, 1978.

* The World Almanac of The Vietnam War.- John S. Bowman (General Editor). Bison Books Corp.- New York, 1985.

* Vietnam : The History & The Tactics .- Ahsley Brown & Adrian Gilbert .- Orbis Publishing Limited .- London,1982.

* The Final Days .- Bob Woodward & Carl Bernstein.- The Hearst Corporation.- New York, 1976.

* Henry Kissinger Diplomacy.- Simon & Schuster.- New York, 1994.

– * Kennedy .- Theodore Sorensen.- Harper & Row.- New York, 1965.

– *A Book of U.S. Presidents.- George Sullivan .- Scholastic Incorporation.- New York,1984.-

—————————————————————————————–

Tình cảnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 1975

Trích từ tạp chí Luật Khoa

Năm 1982, hai hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị đưa đi lưu đày mỗi người một nơi tại hai tỉnh Quảng Ngãi và Thái Bình.

Hai hòa thượng Thích Quảng Độ (trái) và Thích Huyền Quang trong một tấm ảnh chưa rõ năm chụp, có thể vào những năm 2000 trong thời gian Thích Huyền Quang bị lưu đày ở Bình Định. Hòa thượng Thích Huyền Quang sinh năm 1919, xuất gia ở Bình Định từ năm 13 tuổi. Theo GHPGVNTN, ông bị giam giữ tại các chùa cho đến khi viên tịch

Bắt giữ đồng loạt các nhà sư

Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời (vào ngày 7 tháng 11 năm 1981) cũng là lúc các nhà sư bị phân biệt thành hai nhóm: sư hợp pháp và sư bất hợp pháp.

Những nhà sư bất hợp pháp là những người không tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Các nhà sư bất hợp pháp này hoặc lâm vào cảnh khốn khó như Đại đức Thích Huệ Thâu hoặc góp mặt trong ít nhất 7.000 người trong các trại cải tạo vào năm 1985.

Chính quyền đã tổ chức một cuộc vây bắt đồng loạt các nhà sư không cùng quan điểm với chính quyền và GHPGVN.

Vào tháng 4/1984, chính quyền Việt Nam đã đồng loạt bắt khoảng 12 tăng, ni ở nhiều ngôi chùa khác nhau, trong đó có những người là học giả uyên bác của Phật giáo miền Nam như Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ hay Hòa thượng Thích Trí Siêu.

Theo sau vụ bắt giữ đồng loạt này, tháng 8/1984, chính quyền tiếp tục bắt giữ Hòa thượng Thích Đức Nhuận, giáo sư của Viện Đại học Vạn Hạnh, biên tập viên của Tạp chí Vạn Hạnh. Cùng vụ bắt Hòa thượng Đức Nhuận, Hòa thượng Thích Tâm Quang và chú tiểu “Vinh Hien” cũng bị bắt giữ vì không tham gia GHPGVN.

Vào tháng 10/1984, chính quyền bắt giữ hai trụ trì của chùa Quang Âm và chùa Đại giác ở thành phố Hồ Chí Minh là Hòa thượng Thích Thông Bửu và Thích Thiệu Huệ.

Đến năm 1986, chính quyền vẫn tiếp tục giam giữ mà không đưa ra xét xử các hòa thượng Nguyên Giác, Như Minh, Đức Nhuận, Trí Siêu tại trại giam Chí Hòa.

Mãi cho đến năm tháng 9/1988, chính quyền mới xét xử các hòa thượng Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu cùng 19 tăng ni, phật tử khác. Tất cả đều bị cáo buộc tham gia hoạt động lật đổ nhà nước và thành lập một tổ chức cách mạng. Hai hòa thượng Tuệ Sỹ và Trí Siêu bị tuyên án tử hình nhưng sau đó được giảm án, những người khác bị tuyên án từ bốn năm tù giam đến chung thân.

Nguyễn Phú Trọng điện đàm với Joe Biden, Việt Nam tiếp tục ‘đu dây’

Báo Nguoi-viet

March 29, 2023

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN, vừa có cuộc điện đàm với Tổng Thống Mỹ Joe Biden vào tối 29 Tháng Ba, giờ Hà Nội, truyền thông nhà nước Việt Nam đồng loạt loan tin.

Tờ Tuổi Trẻ cho hay, cuộc điện đàm diễn ra “đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối Tác Toàn Diện (2013 – 2023)” nhưng chưa công bố “nội dung thông cáo về cuộc điện đàm”.

Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN, được ông Joe Biden, phó tổng thống, tiếp đóp tại buổi ăn trưa ngày 7 Tháng Bảy, 2015, khi ông Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ.(Hình: BRENDAN SMIALOWSKI/AFP via Getty Images)

Ông Nguyễn Phú Trọng từng gặp mặt trực tiếp ông Joe Biden vào năm 2015 tại thủ đô Washington DC khi ông Trọng có chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ trong cương vị tổng bí thư đảng CSVN, còn ông Biden khi đó là phó tổng thống của chính phủ Tổng Thống Obama.

Vào năm ngoái, hôm 17 Tháng Mười Một, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN loan tin “sẽ có một cuộc điện đàm giữa Tổng Thống Mỹ Joe Biden và Tổng Bí Thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang được thu xếp và tiến tới thực hiện chuyến thăm cấp cao giữa hai bên vào thời điểm thích hợp và điều kiện cho phép.” Khi đó, ông Joe Biden đang ở Cambodia để tham dự một loạt hội nghị thượng đỉnh với các nhà lãnh đạo Đông Nam Á cùng các nhà lãnh đạo thế giới khác.

Về cuộc điện đàm tối 29 Tháng Ba, hình ảnh trên truyền thông Việt Nam cho thấy ông Trọng ngồi tại trụ sở Trung Ương Đảng cùng nhiều giới chức cao cấp, trong đó có ông Tô Lâm, bộ trưởng Bộ Công An và Ngoại Trưởng Bùi Thanh Sơn.

Việt Nam và Hoa Kỳ đã nâng mối quan hệ ngoại giao lên Đối Tác Toàn Diện vào năm 2013, khi ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nước, có chuyến thăm Hoa Kỳ và gặp gỡ Tổng Thống Barack Obama tại Tòa Bạch Ốc ngày 25 Tháng Bảy.

Vài năm gần đây, Hoa Kỳ liên tiếp đưa ra tín hiệu và hành động cho thấy muốn nâng cấp mối quan hệ từ Đối Tác Toàn Diện lên Đối Tác Chiến Lược nhưng phía Việt Nam bằng nhiều cách né tránh đề nghị này, trong lúc tiếp tục chính sách “ngoại giao đu dây” giữa Washington và Bắc Kinh.

Ông Nguyễn Phú Trọng tại cuộc điện đàm với ông Joe Biden từ trụ sở trung ương đảng CSVN ở Hà Nội hôm 29 Tháng Ba. (Hình: TTXVN)

Chỉ trước cuộc điện đàm giữa ông Nguyễn Phú Trọng với ông Joe Biden một ngày, hôm 28 Tháng Ba, ông Trọng đã đón tiếp ông Vương Ninh, bí thư tỉnh ủy Vân Nam, Trung Quốc khi ông này đến Việt Nam dự “hội nghị lần thứ ba giữa các bí thư tỉnh ủy Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên của Việt Nam với Vân Nam của Trung Quốc.”

Theo truyền thông nhà nước Việt Nam, tại cuộc gặp, “Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ mong muốn tỉnh Vân Nam, Trung Quốc và các địa phương biên giới Việt Nam tiên phong trong nỗ lực thực hiện nhận thức chung giữa lãnh đạo hai nước”

Không chỉ gặp ông Nguyễn Phú Trọng, ông Vương Ninh còn được cả ông Phạm Minh Chính, thủ tướng, đón tiếp trong cùng ngày.

Cũng trong ngày 28 Tháng Ba, ông Bùi Thanh Sơn, ngoại trưởng Việt Nam, đã điện đàm với ông Tần Cương, ngoại trưởng Trung Quốc. Đồng thời ông Trần Lưu Quang, phó thủ tướng, tiếp ông Marc Knapper, đại sứ Mỹ tại Việt Nam, để “chuẩn bị tốt nhất cho các hoạt động tiếp xúc cấp cao” trong thời gian tới.

Cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ biểu tình trước Tòa Bạch Ốc chống chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng đến Washington DC, ngày 7 Tháng Bảy, 2015. (Hình: MLADEN ANTONOV/AFP via Getty Images)

Theo truyền thông Việt Nam, qua 10 năm thiêt lập quan hệ Đối Tác Toàn Diện, Việt Nam và Hoa Kỳ đạt giao thương năm 2022 là $123 tỉ, tăng gấp bốn lần so với năm 2013, tuy nhiên cán cân thương mại đang nghiêng về phía Việt Nam.

Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất cảng đầu tiên của Việt Nam vượt mốc $100 tỉ và Việt Nam trở thành đối tác thương mại thứ tám của Mỹ. Đầu tư trực tiếp của Mỹ tại Việt Nam đạt $11.4 tỉ, đưa Mỹ vào vị trí thứ 11 trong số những quốc gia đầu tư trực tiếp tại Việt Nam.(KN)

 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tù nhân địa lý & tù nhân chính trị

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe giới giáo chức Việt Nam phàn nàn về cái bệnh lười đọc của dân tộc này:

  • Cô giáo Thảo Dân: “Nhiều người không có thói quen đọc sách, hoặc đã từng có, nhưng nhiều năm về sau thì bỏ, hay nói đổ đi rằng, không có thời gian…”
  • Thầy giáo Thái Hạo: “Các quan lại càng không đọc sách. Sách là thứ xa xỉ bậc nhất. Nghĩa là, đất nước đang được lãnh đạo bởi những người không đọc sách. Và nó sẽ đi về đâu thì chúng ta hoàn toàn có thể dự đoán được.”

Những lời than phiền thượng dẫn hay khiến tôi nhớ đến câu chuyện thú vị về G.S Lý Chánh Trung, sau khi ông được mời tham dự Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất – tại Hà Nội – vào hôm 2 tháng 9 năm 1975:

“Ra Bắc, gặp một cô lái đò, cô hỏi: có phải là giáo sư Lý Chánh Trung không? Đúng là tôi. Trước 1975, cháu có đọc nhiều bài viết của chú, cháu thích lắm. Ở Hà nội, cả một phái đoàn đông đảo như thế. Có một thanh niên hô to: Ai là Lý Chánh Trung cho biết. Là tôi đây. Cũng bài bản như cô lái đò: tôi có đọc… Lý Chánh Trung tấm tắc đưa ra nhận xét: ‘Trình độ văn hóa ngoài Bắc cao. Chiến tranh như thế mà một cô lái đò cũng tìm đọc Lý Chánh Trung ở trong Nam.” (Miền Đất Lạnh – Nguyễn văn Lục, ĐCV).

Nửa thế kỷ sau, sau khi “chiến tranh như thế” chấm dứt, non sông thống nhất (Nam/Bắc hòa lời ca) độ vênh của “trình độ văn hóa” Bắc/Nam đã được cào bằng – theo như thông tin cập nhật của báo chí nước nhà:

  • Tuổi Trẻ: “Mỗi người Việt đọc 1,2 quyển sách một năm.”
  • Vietnamnet: “Người Việt không đọc nổi 1 cuốn sách/năm.”
  • Petro Times: “Nhìn ra thế giới, ở một số quốc gia như Pháp, Nhật Bản, Israel trung bình mỗi người dân đọc từ 20 cuốn/năm. Các nước trong khu vực như Singapore trung bình là 14 cuốn/năm, Malaysia là 10 cuốn/năm…”

Dào ôi! Ngóng “nhìn ra thế giới” làm chi (cho chúng nó khi) cứ trông vào con số lợi tức vô cùng khiêm tốn của đại đa số người Việt, và cuộc sống lam lũ “từ tay đến miệng” của họ, gần cả thế kỷ qua (làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ, làm tăng ca chiều, làm tăng ca cuối tuần) thì biết ngay là dân tộc này chả mấy ai còn thời giờ cùng tâm trí cho đời sống tinh thần cả.

Đã thế, thế giới chắc không đâu có những “nhà xuất bản chính trị quốc gia” hay “nhà xuất bản công an” (chuyên cung cấp giấy gói cho quý bà đồng nát, hay quý cô bán xôi, hoặc bán bánh mì) với vô số tác phẩm “định hướng” để ngu dân hơn là khai sáng. Phúc đức mà trung bình mỗi người dân Việt chỉ đọc nửa cuốn sách hàng năm thôi, chứ nếu ai cũng đọc hàng chục “tác phẩm” của nxb Sự Thật thì toàn dân (không chừng) đã “tẩu hỏa nhập ma” hết trơn rồi.

Thế nào là “tẩu hỏa nhập ma”?

Kể cũng khó giải thích tường tận bằng đôi câu nhưng muốn rõ thì chỉ cần nghe các ông Hoàng Chí Bảo, Lê Văn Cương, Lê Thế Mẫu, Trần Nhật Quang (hay bất cứ một đồng chí lãnh đạo cấp cao nào) nói chuyện vài ba phút là biết ngay thôi.

May mà những người như thế cũng không quá nhiều, và may hơn nữa là tình trạng này đang có xu hướng đổi thay. Ông Lê Hoàng, Phó Chủ Tịch Hội Xuất Bản Việt Nam cho biết: “Trong tổng số 60 nhà xuất bản, có những đơn vị thua lỗ nhưng khu vực tư nhân lại kinh doanh khá tốt. Họ ngày càng chuyên nghiệp hơn trong sản xuất, phát hành. Sự năng động, nhạy bén của họ đã góp phần cho sự phát triển của ngành xuất bản.”

Có lẽ vì nhờ vậy nên đã có những ấn phẩm giá trị đã được phát hành, nhất là sách dịch từ tác giả nước ngoài. Xin đan cử một trường hợp tiêu biểu: Tim Marshall và đôi ba tác phẩm của ông:

Công ty Nhã Nam trân trọng giới thiệu: “Tim Marshall, sinh năm 1959, là ký giả người Anh có hơn 25 năm kinh nghiệm về tin tức đối ngoại. Ngoài vai trò ký giả và biên tập viên, Marshall còn là nhà bình luận khách mời về các sự kiện thế giới cho BBC, Sky News. Ông viết sáu cuốn sách, đều là sách bán chạy. Trong đó nổi tiếng nhất là Prisoners of Geography, được liệt vào danh sách New York Times Seller, đã được xuất bản ở Anh, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và Đài Loan.”

Thảo nào mà Những Tù Nhân Của Địa Lý đã được nhiều vị thức giả tìm đọc, và nhiệt tình viết lời giới thiệu:

  • Đặng Tiến Thiều: “Địa chính trị đặc biệt hiệu quả khi được nhìn ở tầm vĩ mô, tức là các quan hệ quốc tế: mỗi quốc gia có những quân bài địa lý riêng, và vị thế của mỗi đất nước sẽ được ấn định theo cách nó chơi những quân bài ấy như thế nào.”
  • Trần Anh Minh: “Đối với Tim Marshall, địa lý không chỉ là thứ giúp chúng ta nhận biết vị trí thế giới, mà nó ảnh hưởng trực tiếp tới cách các quốc gia sử dụng chiến lược chính trị của họ.”
  • Hạ Anh(TCLK) : “Tuy nhiên, dưới con mắt của Tim Marshal ông cho thấy dù thế nào chúng ra vẫn là những tù nhân của địa lý.”
  • Nguyễn Nhật Minh Khôi: “Dĩ nhiên, trong rất nhiều các quốc gia, có những tù nhân muốn thoát gông xiềng, thì cũng có những gã hưởng lợi trời cho từ vị trí địa lý.”

Nhận xét thượng dẫn khiến tôi nhớ đến một bình luận khác, của nhà văn Tạ Duy Anh, về một tác phẩm khác (Quyền Lực Của Địa Lý) của Tim Marsahll:

“Đọc cuốn sách, trong bối cảnh cuộc chiến Nga-Ucraina, trong tình cảnh cuộc cạnh tranh địa chính trị toàn cầu đang vô cùng gay gắt và trong điều kiện cay nghiệt của biến đổi khí hậu, chúng ta sẽ tự có những suy ngẫm hữu ích về lựa chọn nào cho tương lai của con cháu mình, về niềm may mắn được tổ tiên để lại cho một mảnh đất xinh đẹp, trù phú, có đủ cả núi cao, biển rộng làm phên giậu, có những cánh đồng phì nhiêu đẹp đẽ để canh tác dễ dàng…”

Thế hiện nay ai “là kẻ hưởng lợi trời cho từ vị trí địa lý may mắn được tổ tiên để lại” này, và họ đã làm gì với “một mảnh đất xinh đẹp, trù phú, có đủ cả núi cao, biển rộng làm phên giậu, có những cánh đồng phì nhiêu đẹp đẽ …”?

Câu trả lời có thể tìm được qua đôi ba mẩu tin đọc được trên báo chí:

Ủa! Sao kỳ vậy Trời?

Sao “một cường quốc tre” như VN mà phải nhập khẩu cả chục nghìn tấn đũa tre, tăm tre từ Trung Quốc? Sao “mấy ngàn cây số biển xanh mà sao thiếu muối cho canh hàng ngày”?

Dân Việt không phải là tù nhân của địa lý. Họ được thừa hưởng cả một giang sơn xinh tươi, phong phú và giầu đẹp cơ mà. Rõ ràng: họ là những tù nhân chính trị bị giam hãm trong một chế độ lười biếng, ngu tối, tham lam, thối nát, và hèn nhát nên những kẻ nắm quyền không chỉ “hưởng lợi trời cho” bằng cách bán sạch tài nguyên (cùng nhân lực) để ăn mà còn sang nhượng cả lãnh thổ, lãnh hải và biển đảo để đổi lấy quyền lợi cùng sự an thân.

Tưởng Năng Tiến

Tòa Giám mục Kon Tum lên án hành vi phạm Thánh của cán bộ xã

RFA

27-03-2023

Linh mục Phanxico Xavie Lê Tiên đang dâng lễ bị cán bộ xã, công an và dân quân tự vệ … ngăn trở, xúc phạm.

conggiao.vn

Tòa Giám mục Kon Tum vào ngày 27/3 ra thông báo lên án hành vi phạm Thánh của một số cán bộ xã Đắk Nông, huyện Ngọc Hồi.

Thông cáo đề ngày 27/3 do Linh mục Chánh văn phòng Tòa Giám mục Phê rô Lê Văn Hùng ký gửi đến chính quyền Kon Tum và huyện Ngọc Hồi.

Thông báo nhắc lại vụ việc xảy ra vào lúc 18 giờ 15 phút ngày 22 tháng 3 vừa qua tại nhà nguyện Giáo họ Phao lô thuộc Giáo xứ Đắk Giấc, xã Đắk Nông, huyện Ngọc Hồi tỉnh Kontum.

Như tin RFA loan hôm 24/3, chính quyền xã Đắk Nông (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum) tiếp tục ngăn cản linh mục và giáo dân thuộc giáo họ Phaolo thực hiện nghi lễ trong tuần thứ ba liên tiếp trong nỗ lực ngăn chặn việc sinh hoạt tôn giáo của 20 gia đình trong giáo họ này.

Theo một số video giáo dân cung cấp, khi thánh lễ do linh mục Phanxico Xavie Lê Tiên đang tiến hành tại nhà nguyện của giáo họ, công an và dân quân tự vệ cùng một số người mặc thường phục đến vây quanh vị tu sĩ. Trong một video, người đàn ông mặc thường phục tự xưng tên là Thạch – Phó Chủ tịch xã Đắk Nông chỉ ngón tay vào vị linh mục và chất vấn “ông này là ai” và yêu cầu dừng làm lễ để lên Uỷ ban Nhân dân xã làm việc. Tuy nhiên, vị linh mục tiếp tục thực hiện nghi lễ của mình.

Sau đó, một phụ nữ, được giáo dân xác định là một phó chủ tịch xã, tiến đến bàn thờ tế lễ tự ý gấp cuốn kinh thánh mà linh mục đang đọc ôm vào người và bỏ đi nhưng bị giáo dân phản đối. Một người mặc thường phục khác tắt đèn của nhà nguyện trong tiếng đọc kinh của giáo dân.

Thông báo của Tòa Giám mục Kon Tum ngày 27/3 nêu rõ việc làm đó đã gây bức xúc và làm tổn thương anh chị em giáo họ Phao lô, cũng như đối với các linh mục, giáo dân trong và ngoài giáo phận Kon Tum.

Tòa Giám mục Kon Tum kiến nghị chính quyền sớm công nhận Nhà nguyện của giáo họ Phao lô và các nhà nguyện khác trong các buôn làng thuộc địa bàn tỉnh Kon Tum.

TẦNG ĐỊA NGỤC – Uyên Nguyên

Nơi Gặp Gỡ Không Hẹn Mà Ðến:
 
No photo description available.
 
Ðiểm gặp gỡ không hẹn mà đến của nhóm “Ngụy Quân Ngụy Quyền Sài Gòn ” thoạt tiên là Trại Cải Tạo Long Thành, tọa lạc tại Long Thành Tỉnh Ðồng Nai do Ủy Ban Quân Quản quản lý . Sau trở thành Trải Tạo 15 NV do Bộ Nội Vụ quản lý.
 
Sáng ra, chúng tôi mới định thần và chuẩn bị tinh thần cho một sống đổi đời bắt đầu. Tôi được phân bổ ở nhà 6. Ðội trưởng Ðội 3 là Phạm Ngọc Cửu. Nhà Trưởng là Trần Tấn Toan.
 
Ngày đầu đến trại chúng tôi nhận diện được những nhân vật có tên tuổi sau đây:
 
Về phía đảng phái gồm có Nghị Sĩ , LS Trần Văn Tuyên, Vũ Hồng Khanh…
Về phía Nghị sĩ , có Trần Tấn Toan, nguyên trước là chủ tịch Hội Ðồng Tỉnh Gia Ðịnh.
 
Về phía dân biểu có Ông Nguyễn Bá Lương, chủ tịch hạ Viện, Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa, Dân biểu Lê Minh Ðăng, Khiếu Thiện Kế, Trần Ngọc Châu….
Về phía toà án thì có rất nhiều Chánh Án, Biện Lý, Dự Thẩm các toà án ở Sài Gòn và các tỉnh ở Miền Nam Việt Nam. Trong đó có những ông chánh án mà người viết biết tên, biết mặt như ông Trần Ðại Khâm, Nguyễn Cần ( tức Tú Gàn), Ðào Minh Lượng, Nguyễn Ðắc Trọng, Ngô Văn Cân, Biện Lý Trần Thành Ðô, Dự Thẩm Nguyễn Thành Hương, Trần Cẩm Tựu, Phạm Minh Tâm, Hoàng Phùng Võ, Dương Lân, Ðặng Xuân Nhẫn, Nguyễn Công Ðàn ( tục là “Bò Ðàn” , tiếng chúng tôi hay gọi thân thiết vì anh ta phụ trách giữ mấy con bò cho trại) , Trần Gia Tá, Cao Quãng Chơn…. .
 
Về phía Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh : Phạm Ngọc Cửu ( Bình Thuận); Nguyễn Thanh Sử ( Bình Tuy, Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn Văn Thích ( Bình Ðịnh); Nguyễn Chí Vy ( Quảng Ngãi ) Nguyền Văn Hoàng ( Phú Yên )
và còn nhiều phó tỉnh trưởng hành chánh khác nữa mà tôi quên tên và nơi phục vụ rồi.
 
Về phía hành chánh cao cấp : Kỹ sư Dương Kích Nhưởng, Phó Thủ Tướng; Lê Văn Trường, Bộ Trưởng Tài Chánh; Nguyễn Văn Chi, Tổng Giám Ðốc Trung Tâm Chuẩn Chi- Bộ Tài Chánh; Bùi Hữu Tiể n, Tổng Giám Ðốc Ðiền Ðịa; Trần Huỳnh Châu, Tổng Thư Ký Bộ Nội Vụ; Nguyễn Văn Tương, Ðặc Ủy Trưởng Hành Chánh, Kỹ Sư Ngô Trọng Anh, Cưụ Tổng Trưởng Công Chánh Nội Các Nguyễn Cao Kỳ, Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ, Ông Phạm Trọng Nhân, cựu Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Lào và các Phó Tổng Giám Ðốc Thuế Vụ, Kế Hoạch thuộc các Bộ nữa mà tôi quên mất tên rồi. Ngoài ra còn có rất nhiều Giám Ðốc Nha Sở thuộc Hành Chánh Trung Ương, một số Quận Trưởng các Quận như Trung Tá Kiều Văn Út mà người viết biết mặt, biết tên và cũng như các Ty, Sở Trưởng, Phó Quận Hành Chánh thuộc hành chánh địa phương, các tỉnh thành cũng có mặt trong nhóm này.
 
Về phía cảnh sát thì ngoài những cấp chỉ huy cảnh sát trung ương như Thiếu Tá Ðoàn Ðình Từ,Trung Tá Phấn Bộ Tư Lệnh Cách Sát Quốc Gia… còn có một số Trưởng Ty Cảnh Sát điạ phương mà người viết được biết như Trung Tá Phan Trần Bảo… và còn nhiều người nữa, lâu quá quên tên.
Ngoài ra cũng có một số nhân viên thuộc Trung Ương Tình Báo, Thiên Nga…,
 
Những nhân vật này lần lược được chuyển trại dưới hình thức mà chúng tôi gọi là Bao Bố . Ở đây tôi xin mở một dấu ngoặc để giải thích tại sao có tên là Bao Bố. Những đợt chuyển trại lớn, đông người thường xảy ra trong đêm khuya để dễ bề kiếm soát an ninh lộ trình , người ngoài không ai hay biết. Ðợt chuyển trại đầu tiên đi ra Bắc gọi là Bao Bố I vì sau khi có lệnh tập trung trong đêm khuya, và gọi tên từng người rồi sau đó trao cho mỗi người môt cái bao bố đựng gạo để bỏ hành trang đi tù vào. Ðợt chuyển trại nầy gồm những nhân vật cao cấp trong chính phủ cũng như trong hàng ngũ đảng phái, cảnh sát, trung ương tình Báo…. Ðợt di chuyến ra Bắc lần thứ hai được gọi là Bao bố II đa phần gồm những giám đốc, nha sở thuộc trung ương. Ðể trấn an các trại viên cũng như để bảo dảm an ninh lộ trình, Ban Chỉ Huy Trại đã động viên tất bằng cách nói láo rằng các anh được di chuyển đến những địa điểm học tập an toàn hơn. Nếu có người thắc mắc hỏi có phải chuyển đi Bắc không thì được cán bộ trấn an bằng cách trả lời không thật là các anh sẽ được đưa về miền Nam như Rừng Ðước, Năm Căn… Nhưng thật tình là xuống tàu ra Bắc cải tạo mút mùa lệ thủy.
Sau hai đợt chuyển trại ra Bắc, Trại chỉ còn độ 250 trại viên. Chúng tôi được tái phân bổ lực lượng lao động và tôi đã được công tác trong tổ Vệ Sinh cho đế n ngày chuyển lên trại Xuyên Mộc Ðồng Nai và tiếp lao động cải tạo trong Ðội trồng trọt, rồi tiếp đến là Ðội Văn Nghệ cho đến khi “ học tập tiến bộ” đượ c trại xét tha về vào cuối tháng 8 năm 1989.
 
Trong thời gian đầu học tập chính trị, chúng tôi có dịp học chung với những chịnh trị gia quen thuộc. Trong đó phải kể đến LS Trần Văn Tuyên, Vũ Hồng Khanh . Không biết mấy ông này trình diện vì lý do gì . Chắc thuộc đảng phái thì phải. Nghe nói Luật Sư Tuyên vì liên hê đến bà vợ nhỏ nên bị kẹt lại và đi tù luôn. Nhiều chánh khách, nhà ngoại giao, hành chánh cao cấp cũng đã rơi vào trường hợp này, hối không kịp vì đã vào rọ rồi. Ngày trở về còn xa lắm nếu không muốn nói là bỏ thây nơi những trại giam nổi tiếng là hắc ám nhất ở miền Bắc. Ls Trần Văn Tuyên là một điển hình. Tôi còn nhớ khi lên lớp học chính trị, sau khi giảng xong bài , cán bộ giảng huấn kêu Ls Trần Văn Tuyên đứng dậy và dùng lời lẽ thô bạo để mắng chưởi ông ta. LS Tuyên đã nói một câu rất bất hủ: “Việc tôi làm chỉ có lịch sử phán xét chứ không ai có quyền phán xét tôi” . Sau bữa lên lớp đó, thì chúng tôi không thấy mặt của LS Tuyên nữa vì người ta đã dẫn ông ta đi đâu mất rồi.
Làm ở đội rau xanh một thời gian tôi được xung vào Ðội Văn Nghệ Trại. Tôi nhớ không lầm đội Trưởng là nhạc sĩ Vũ Thành An. Vì chức vụ cuối cùng của anh ta là trưởng cơ sở Dân Vận & Chiêu Hồi Tỉnh Gia Ðịnh, cho nên anh phải đi trình diện học tập cải tạo theo diện “Ngụy Quân Ngụy Quyền” .
 
Có một điều cũng nên nói ở đây mặc dù Vũ Thành An nổi tiếng với những ca khúc không tên trước 75 nhưng khi vào trại bên cạnh ca khúc anh viết nhân đêm giao thừa năm đầu tiên ở trại 1975 có đoạn rất hay và rất “ tiểu tư sản” và được mọi người chấp nhận : “Thắp nến hồng lên em, giao thừa về rồi đó. Ánh sáng bừng trong đêm. Như bình minh đã lên….” Nhưng khi anh viết theo nhu cầu chính trị tuyên truyền anh lại viết một ca khúc lạc lõng, không giống ai. Lời ca như một lời xưng tội và sặc màu “vô sản chuyên chính” . Tôi nghĩ rằng chỉnh những ngườ i bị rối loạn tâm thần, đánh mất bản ngã, lương tri thì mới viết một ca khúc tồi như thế. Vì vậy anh đã bị hết thảy trại viên chê trách và lên án dữ dội.. Ca khúc có đoạn : “ Nếu biết rõ đế quốc Mỹ là quân xâm lược. Lũ ngụy quyền là bọn tay sai. Bao nhiêu năm cặm cụi miệt mài…”. Ðộc hại hơn nữa là các trại viên bị bắt buộc phải hát ca khúc này trong những lần sinh hoạt vă n nghệ. Nhưng dù anh có viết trăm ngàn bài ca tôn vinh chế độ đáng nguyền rủa kể trên thì cộng sản cũng không tha cho anh đâu và thực tế anh phải ra Bắc sau đó và cải tạo dài dài hơn mười năm mới được tha về vì anh thuộc diện “ác ôn” ( dân vận chiêu hồi bên hành chánh- chiến tranh chính trị hay chiến tranh tâm lý bên quân đội ) .
 
Kịp đến khi Vũ Thành An bị chuyển ra Bắc thì người thay thế anh ta là anh Trần Thiên Ân . Anh nầy là một người còn rất trẻ, xuất thân từ học viện quốc gia hành chánh, chức vụ cuối cùng là phó quận trưởng ở đâu đó. Vì có một thời gian học ở chủng viện khi còn nhỏ, nên nhạc lý anh ta rất rành và rất vững. Anh viết hòa âm cho những bài hợp xướng rất dễ dàng và rất hay.
Kịp đến khi nhóm hình sự di chuyển về đây thì Ðội Văn Nghệ có sự tăng cường nam và đặc biệt là nữ trại viên thì sinh hoạt văn nghệ trại khởi sắc hơn. Có những giọng ca trẻ tân nhạc cũng như cổ nhạc, kịch.. dưới sự dìu dắt và hướng dẫn của anh em trại viên thuộc diện chính trị chúng tôi. Trong đó có tôi dù sau này tôi không còn ờ trong Ðội Văn Nghệ nữa mà ở trong Tổ Vệ Sinh.
 
Chuyện anh Nguyễn Văn Tri :
 
Anh Tri là người cũng xuất từ học viên quốc gia hành chánh, làm giám đốc hành chánh Tổng Nha Ðiền Ðịa do kỹ sư Bùi Hữu Tiển làm Tổng Giám Ðốc. Sau khi học tập cải tạo ở trại một thời gian thì anh Tri có triệu chứng bất bình thường. Cứ vào lúc trời mưa, chúng tôi thấy anh ta ra ngồi ngoài mưa. Miệng thì lẩm bẩm những câu gì không ai hiểu cả. Một thời gian sau đó không biết sao anh ta được trại thả về. Không biết vì lý do bị bệnh tâm thần hay anh thuộc ngành mà cách mạng đang cần người hay không hay vì nguyên do khác không ai hay biết. Chỉ biết rằng sau khi được thả về một thời gian sau thì người ta thấy anh ở Sài Gòn và không có biểu hiện gì bất bình thường cả. Ðược thêm sau đó anh và gia đình qua Mỹ theo diện HO.
Chuyện Cụ Nguyễn Bá Lương, cựu chủ tịch Hạ Viện, Quốc Hội Ðệ Nhi Việt Nam Cộng Hòa.
 
Cụ Nguyễn Bá Lương, vốn là một dân biểu. Người ta thường gọi cụ là “Dượng Năm Xe Ðò Bủu Hiệp”. Cụ có người con trai -thiếu Tá Nguyễn Bá Di. Khi cụ nhập trại thì tuổi của cụ khá cao, sức khỏe yếu kém nên chỉ có thể lao động nhẹ mà thôi. Ở tù được mấy năm trại xét tha cụ và cho cụ về. Trước đó Ban Giám Thị trại đã mời cụ lên dùng trà và mời thuốc đồng thời thông báo cho cụ hay là cụ đã được nhà nước cách mạng xét tha. Nhưng ói ăm thay về đâu chẳng thấy mà chỉ thấy bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc- trại Xuyên Mộc Ðồng Nai. Số là như vầy : sau khi mời cụ ra trại và thông báo quyết định tha cụ, Giám Thị trại dự tính là sáng hôm sau sẽ ký lệnh xuất trại .. Nhưng chưa kịp ký lệnh thì thành phố gọi giám thị về họp khẩn. Cho nên lệnh xuất trại chưa được ký và sẽ được ký khi họp xong. Nhưng than ôi, sau khi đi họp về thì lệnh xuất trại của cụ đã không được ký vì quyết định tha cụ đã bị đình hoãn lại trong một thời gian nữa cho đến khi có lệnh mới của trung ương. Thế là hy vọng được sớm trở về sum họp với gia đình tiêu tan theo mây khói. Kịp đến khi nhóm hình sự đã “đủ lông đủ cánh” để điều hành trại thì toàn bộ trại viên “khối chính trị” còn lại ở Trại Long Thành phải chuyển lên Trại Xuyên Mộc Ðồng Nai. Một thời gian sau đó vì không chịu nổi thời tiết khí hậu khắc nghiệt của núi rừng Xuyên Mộc, cụ đã ngã bệnh và qua đời . Sáng cụ ra đi vì tôi bị bệnh nên tôi đã có mặt nơi chỗ cụ nằm, vuốt mắt cho cụ và nguyện cầu hương linh cụ sớm về nơi chín suối chấm dứt những chuỗi ngày đen tối nhất của cuộc đời. Trong thời gian ở Trại Xuyên Mộc, tôi có dịp đàm đạo với cụ và được cụ kể nhiều chuyện thuộc loại “ thâm cung bí sử” ít ai biết trong cuộc đời tình ái và sinh họat chính trị chính em của cụ. Rất sôi nổi vì theo diện tướng số cụ có khuôn mặt tướng hầu. Ngoài ra giới “ thân cận” của cụ có nói cho tôi biết cụ có thêm một cái ẩn tướng khác là “gậy”, “ của quý” của cụ chạm đất khi cụ ngồi chổm hổm. Không biêt có đúng không. Nếu đúng thì cụ từ một thư ký đồn điền rồi lên làm Dượng Năm Xe Ðò Bủu Hiệp , rồi đắc cử dân biểu Hạ Viện. Rồi đắc cử chủ tịch Hạ Viện cũng là lẽ thường tình dễ hiểu thôi. Như ông Thiệu có tướng hầu như cụ, làm đến chức cao nhất nước thì cũng không ngoa gì. Tướng số nhiều khi cũng đúng cho nhiều người lắm.
Ăn mà cấm không được nói cho ai biết. Thế mới là lạ chứ.
 
Những ngày bên Thành :
 
Vào khoảng cuối năm 1978 trong khi các trại viên thuộc diện chính trị còn lại ở Trại Long Thành phải chuyển trại lên Trại Xuyên Mộc Ðồng Nai, tôi và Phạm Ngọc Thành được “may mắn” ở lại trại để tiếp tục gánh vác một số công việc mà chưa thể giao ngay cho nhóm hình sự vừa mới chuyển đến từ các trại như Bù Ðăng , Bù Gia Mập …. Nhóm này bị tù từ sau ngày Sài Gòn mất. Sau một thời gian dài bị giam trong các trại lao động khổ sai, thiếu đủ mọi thứ nên khi chúng nó về đây chúng nó chết như rạ. Do đó với nhu cầu “ đột xuất”, tổ Vệ Sinh của chúng tôi phải làm một lúc hai công tác. Một là công tác đổ phân . Hai là công tác “khâm liệm” cũng như “di quan” người vừa mới chết ra nghĩa địa liền tù tì. Có ngày có đến hơn 5 đứa “mò- cua” ( tiếng lóng là chết ). Có khi cả chục đứa cho nên tổ Vệ Sinh của chúng tôi rất đắt khách . Chúng tôi phải “ khẩn trương” đem đi chôn mệt nghỉ cả ngày lẫn đêm. . Nhiều khi phải đem đi chôn vào giữa ban đêm ngày rằm. Không có một chút ánh sáng gì ngoài ánh trăng chiếu vằng vặc. Vào những đêm như thế này, không biết các bạn của tôi nghĩ ra sao chứ riêng tôi tôi rất thích vì bản tính nghệ sĩ, ưa mơ mộng của tôi dù phải lao động cật lực để có thể về trại sớm để ngày mai có sức “đi cày” tiếp . Chuyện sợ ma thì không thể nào nghĩ đến vì làm việc bở hơi tai thì giờ đâu mà nghĩ chuyện vu vơ. Phải nói mệt nhất là việc đào huyệt vì nghĩa địa, nói cho oai chứ thực ra là một mô đất cao toàn là đá ong, cứng như đá nên đào huyệt không thể nào đào sâu được, khoảng chừng độ hơn nửa thước là cùng. Không có vật dụng gì khác ngoài mấy cái xẻn cùn. Sức người là chính. Sở dĩ tôi phải dông dài như vầy là vì có liên hệ đến việc đi chôn cất Thành sau này.
 
Vì phải di chuyển khiêng phân hằng ngày hay phải khiêng quan tài đem đi chôn nên tôi thường gặp Thành trong bồ đồ lính được nhuộm đen và trên đầu đội một cái mũ “phở” không giống ai đi rảo trong trại. Chúng tôi chỉ chào nhau rồi ai làm phận sự người ấy. Thành vốn người dong dỏng cao, nước da tái tái . Nước da này vốn dĩ như vậy kể cả lúc còn làm Phó Quận Hàm Thuận rồi Hòa Ða. Ngoài ra không có biểu hiện gì là bệnh hoạn cả.
Thời gian cứ trôi đi. Rồi đến kỳ thăm nuôi . Bà xã của tôi và bà xã của Thành đi thăm nuôi chúng tôi cùng một ngày vào dịp cuối năm 1978 . Tôi được Trại bố trí thăm nuôi trước, Thành thăm nuôi sau. Trước đó bà xã của tôi cũng đã gặp Thành ở nhà thăm gặp , có chào hỏi đôi điều và cũng không thấy Thành không có biểu hiện gì là bệnh hoạn trầm trọng cả.
 
Một thời gian ngắn sau khi thăm nuôi nhất là gần Tết năm đó sức khỏe của Thành có triệu chứng giảm sút thấy rõ. Mắt và da trở nên vàng nhiều, triệu chứng của bệnh viêm gan. Mặc dù Thành được BS cán bộ tên Hùng cũng như BS trại viên Tùng giúp đỡ rất nhiều nhưng không có kết quả gì vì thiếu thuốc đặc chế. Vì vậy thể theo đề nghị của BS trại Viên Tùng và được đồng ý của BS Hùng, trưởng trạm xá đã ghi cho Thành một toa thuốc và xin cho người nhà của Thành đem lên cho Thành. Nhưng than ôi! chưa kịp đem lên thì Thành đã ra người thiên cổ. Tôi nhớ không lầm là Thành ra đi vào ngày mồng một Tết (nhằm ngày 28 tháng giêng) năm 1979 .
 
Nghe tin Thành qua đời tôi tìm cách để viếng thăm anh. Ðược biết xác Thành được để ở bệnh xá Trại, trong một gian phòng tối như bưng.
Tôi cứ nhớ mãi cây đèn cầy duy nhất mà tôi đã thắp lên quan tài của Thành. Cây đèn cầy này tôi đã cất kỹ trong gói “hành trang” khi đi tù vì nghĩ rằng sẽ có dịp để xử dụng nó. Nhưng chưa có dịp nào để xử dụng thì nay lại đem ra cắm trên quan tài của người bạn đồng môn hành chánh và cũng là người bạn thiết thân lúc còn làm việc chung với nhau ở tỉnh Bình Thuận. Dù cây đèn cầy đã bị gãy nhưng dù sao cũng là vật quý báu và rất cần thiết trong lúc này. Chắc Thành cũng thông cảm cho tôi vì cây đèn cầy không phải đơn thuần là một vật vô tri vô giác nhưng nó biểu tượng cho sự tiếc thương cũng như gói ghép một tình cảm thiết thân không thể phai nhòa.
 
Một điều hy hữu là khi Thành mất tổ Vệ Sinh của chúng lo tẩm liệm và đem Thành ra nghĩa địa. Chúng tôi chỉ biết ngậm ngùi thương tiếc cho người bạn xấu số đã ra đi quá sớm như vậy. Chúng tôi cố ngăn những dòng lệ nhưng không thể nào được. Những giọt nước mắt cứ tuông chảy, cứ lăn dài trên má . Khóc cho Thành một phần mà khóc cho số phận của kiếp đọa đày của những người tù còn lại như chúng tôi thì nhiều.
 
Thành đã từ giã cõi đời bỏ lại vợ con và các bạn tù. Bây giờ Thành có thể yên phận về phần nơi chín suối, không bị ràng buộc với những hệ lụy khổ đau nơi trần thế nữa. Còn lại chúng tôi tiếp tục chịu đựng số kiếp đọa đày nơi chốn tù ngục. Còn lại gia đình với vợ và các con trong nỗi thương đau chất ngất…
 
NHỮNG CHUYỆN BÊN LỀ:
 
Chuyện Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn
 
Nhà văn Nguyễn mạnh Côn , nổi tiếng với tác phẩm “Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử” cũng được mọi người biết đến khi ông ta tuyệt thực để phản đối chính sách giam cầm của cộng sản. Rồi ông ông bệnh, ông chết ở đây.
Chuyện ông Hồ Hữu Tường:
 
Khi chúng tôi đến đây thì có gặp nhà văn Hồ Hữu Tường. Ông Tường nổi tiếng với “Phi Lạc SangTàu”.
 
Hằng ngày, tập họp đi lao động thấy ông gánh đôi gánh. Nghe nói ông bị bệnh phù nên ông được bố trí làm công việc nhẹ là nấu nước cho đội uống. Ông Tường dáng người thấp lùn vả lại ông bị chứng phù thủng nên hai chân ông phù ra. Dáng đi chậm chạp uể oải. Biết ông là nhà văn, là người hiểu biết rộng nên trại đã trao giấy bút để ông viết “thu hoạch, hiến kế.” Nghe nói sau một thời gian sợ ông chết trong trại nên trại đã cho ông về nhà và một thời gian sau thì ông mất.
 
Lại chuyện Ông Nguyễn Bá Lương, dân biểu quốc Hội, chủ tịch Hạ Viện:
Sau khi ông mất một cơ hội trở về sum họp với gia đình ờ trại Cải Tạo Long Thành, ông phải theo chúng tôi lên Khu B Xuyên Mộc Ðồng Nai. Ông được bố trí ở cùng phòng với chúng tôi. Lúc này ông bị bệnh thường hay ở nhà. Khi có dịp rảnh rỗi tôi thường là cà đến nói chuyện với ông. Ông kể cho tôi rất nhiều chuyện thuộc diện “thâm cung bí sử”. Ðiển hình là gán ghép ông và Bà DS Nguyễn Cao Thăng. Không biết ông nói có thật không hay ông phịa ra nhưng chính tai tôi nghe được như vầy: Khi ông Nguyễn Cao Thăng qua đời, giới dân biểu thân chính quyền muốn gán ghép ông với Bà Thăng nhưng chuyện không thành.
 
Ở Khu B một thời gian thì ông bị bệnh nặng và qua đời. Ngày ông mất tôi bệnh phải ở nhà và đã đến tại chỗ nằm của ông để vuốt mắt cho ông .
Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Chúng tôi đã đi vào giấc ngủ với nhiều mộng đẹp và ước vọng tương lai khi đèn của trại tắt.
 
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đuợc lệnh trịệu tập, mang theo hành lý để di chuyển sang Khu B làm thủ tục xuất trại.
 
Chúng tôi đã đến văn phòng làm việc của trại lúc 9 giờ sáng hôm đó. Lần lượt các trại viên ký tên nhận lệnh xuất trại, giấy ra trại và 10 đồng lộ phí đi đường.
 
Khi đã xa cách trại một khoảng khá xa rồi thì tôi bắt đầu vẫy các xe đi qua để xin quá giang. Từng chiếc rồi từng chiếc xe đủ loại đủ cỡ đi qua nhưng không có chiếc xe nào dừng lại cả. May thay cuối cùng có một chiếc xe chở rạ còn ướt vì vừa mới gặt ngừng lại và cho tôi quá giang. Nhìn cách phục sức của tôi, Anh ta hỏi tôi có phải là dân tù cải tạo mới ra không và định về đâu. Tôi trả lời tôi về Sài Gòn. Anh ta bảo tôi chỉ về Biên hòa mà thôi. Tôi đồng ý .
 
Trong khoang xe chất đầy người nên tôi phải ngồi, rồi nằm ngất ngưởng trên đống rạ. Ngước nhìn trời cao và hít thở không khí tự do mà từ lâu vắng bóng và nghĩ về một cuộc đoàn viên trùng phùng sắp đến.
 
Ðến ngã ba Biên Hòa tôi xin anh tài xế cho tôi xuống xe và từ đó tôi lên xe để về Sài Gòn. Vì trong túi tôi chỉ có vỏn vẹn 10 đồng trại phát nên tôi đưa ra cho anh tài xế xe lam. Anh ta nhìn tôi rồi hỏi “dân tù cải tạo mới về hả? rồi anh ta nhận tiền và mời tôi lên xe và không nói thêm một lời nào nữa.
Xe đến đường Ðinh Tiên Hoàng, tôi xin tụt xuống và không quên ngỏ lời cám ơn anh tài xế tốt bụng. Trên đường về tôi hình dung đến bài học thuộc lòng của Thanh Tịnh rồi lẩm bẩm trong miệng “cảnh vật xung quanh tôi hoàn toàn thay đổi như chính lòng tôi đang có một sự thay đổi lớn hôm nay tôi trở về lại mái nhà xưa.”
 
Vì cha mẹ của tôi ở xa lắm tận Cam Ranh nên địa chỉ tôi về là nhà của Cha Mẹ vợ của tôi.
 
Bước vào nhà người đầu tiên tôi gặp không phải là bà xã của tôi vì bà đi làm chưa về,mà là ông gia của tôi. Ông ôm tôi với ràng rụa nước mắt. Rồi đến mẹ vợ tôi, cũng với hai hàng nước mắt . Rồi đến con trai út của tôi. Hai đứa lớn đi học chưa về. Nhìn đứa con trai út của tôi thấy thân hình nó gầy ốm tôi không cầm được nước mắt.
 
Trong đêm trước khi từ giã trại, tôi mường tượng cảnh đoàn viên và cứ tưởng người tôi gặp đầu tiên là vợ tôi và tôi sẽ ôm vợ tôi vào lòng hôn lên môi lên má cho vơi đi những nhớ thương. Nhưng tất cả những sự kiện vừa mới xảy ra ngoài sự tiên đoán của tôi. Nhưng tôi không ân hận điều gì vì trước sau gì tôi cũng sẽ gặp lại vợ con tôi dù hơi muộn màng, không như mình tưởng.
 
Cuối cùng tôi đã gặp vợ con tôi trong sự xúc động đến nghẹn ngào. Tôi ôm hôn vợ tôi, các con tôi cùng với những giọt nước mắt trào dâng vì sung sướng. Hy vọng những ngày tiếp theo sẽ là những ngày hoan ca, hạnh phúc dù tôi biết sẽ rất ngắn ngủi vì sẽ phải đối đầu với những khó khăn, bất trắc, hiểm nguy chực chờ bủa vây trước mặt. ..
 
SanDiego
 
Uyên Nguyên
 


Thêm tiếp viên của Vietnam Airlines ‘dính’ vụ vận chuyển 11 kg ma túy

Báo Nguoi-viet

March 28, 2023

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Vụ bốn nữ tiếp viên hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines mang lô hàng chứa hơn 11 kg ma túy về Việt Nam còn liên quan một nữ tiếp viên khác cũng của hãng.

Theo nguồn tin của báo Zing hôm 27 Tháng Ba, nữ tiếp viên này cũng bị tạm giữ ngay sau khi Hải Quan phi trường Tân Sơn Nhất phát hiện sự việc.

Hơn 11 kg ma túy tổng hợp giấu trong tuýp kem đánh răng được bốn nữ tiếp viên Vietnam Airlines đưa từ Pháp về Tân Sơn Nhất. (Hình: Tuổi Trẻ)

Cụ thể, vào tối 16 Tháng Ba, Chi Cục Hải Quan Tân Sơn Nhất đã triệu tập và tạm giữ tiếp viên BTPT do xác định người này đã cung cấp số điện thoại đầu mối gửi hàng tại Pháp cho tiếp viên Trần Thị Thu Ngân nhận hàng và chia hàng cho ba tiếp viên còn lại là Nguyễn Thanh Thủy, tiếp viên trưởng; Đặng Phương Vân và Võ Tú Quỳnh mang về Việt Nam.

Cả năm nữ tiếp viên trên đều bị tạm giữ. Sau đó, cơ quan điều tra tại Sài Gòn cho phép gia đình bảo lãnh để họ được về nhà, song phải phối hợp điều tra khi có yêu cầu, vì… “chưa đủ cơ sở khởi tố.”

Cùng với việc thả năm tiếp viên, Công An ở Sài Gòn  vẫn đang tạm giữ hai nghi can liên quan đến vụ án.

Tờ Tuổi Trẻ hôm 22 Tháng Ba dẫn lời giải thích của ông Tô Ân Xô, phát ngôn viên Bộ Công An Việt Nam: “Các tiếp viên không biết bên trong 327 tuýp kem đánh răng nhận vận chuyển, có 157 tuýp đã bị trà trộn, cất giấu ma túy. Do đó, các cơ quan chức năng xác định chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự bốn tiếp viên hàng không của Vietnam Airlines.”

Ông Tô Ân Xô nói thêm, kết quả điều tra sơ bộ xác định khi bốn tiếp viên hàng không nêu trên đang lưu trú tại Pháp thì có một nghi phạm người Việt Nam nhờ chuyển hàng tiêu dùng là 327 tuýp kem đánh răng và 17 chai nước súc miệng về Việt Nam qua phi trường Tân Sơn Nhất, để “gửi cho người nhà.”

Tuy nhiên ông Xô không cho biết thêm chi tiết về nhân thân của người gửi hàng cũng như người nhận hàng tại Sài Gòn trong vụ này.

Phát ngôn của ông Tô Ân Xô được cho là “bất nhất” với tường thuật của các báo ở Việt Nam trước đó.

Thuốc lắc được giấu trong các tuýp kem đánh răng. (Hình: Kiến Tường/VNExpress)

Báo Dân Trí hôm 21 Tháng Ba ghi nhận lời khai ban đầu của bốn tiếp viên Vietnam Airlines là họ “đã nhận lô hàng kem đánh răng hàng chục kg thông qua một đồng nghiệp làm chung hãng, rồi chia ra cho từng người để đưa về Tân Sơn Nhất.”

Thù lao của họ trong vụ chuyển lô hàng này là “10 triệu đồng ($425).”

Bốn nữ tiếp viên cũng cung cấp các đoạn tin nhắn thỏa thuận tiền công vận chuyển với người giao hàng tại Pháp.

Trước đó, bốn nữ tiếp viên này đã bị tạm giữ ngay khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất sáng 16 Tháng Ba, sau chuyến bay từ sân bay Paris Charles de Gaulle, Pháp.

Khi kiểm tra những tuýp kem đánh răng, nước súc miệng trong hành lý của bốn nữ tiếp viên, Hải Quan Tân Sơn Nhất phát giác 11.4 kg thuốc lắc và ma túy tổng hợp.

Người mang ma túy nhiều nhất trong số bốn cô được xác định là Đặng Phương Vân với tổng cộng 4 kg ma túy trong hành lý của cô này. (Tr.N)

XIN NÓI THẲNG MẤY ĐIỀU – Mạc Văn Trang

Oanh Vy Lý

Mạc Văn Trang

Tôi thấy giữa Chính quyền với Dân, giữa Dân với nhau có những lầm lẫn nguy hiểm, nên xin nói rõ mấy điều.

  1. VỀ CHÍNH QUYỀN

1.1. Chính quyền vẫn nói: Chưa bao giờ đất nước vững mạnh, có được vị thế như ngày nay. Nhưng cứ mở mồm ra là chống “thế lực thù địch”, nhìn đâu cũng thấy “thế lực thù địch”, “phản động”, “chống phá”; “lực lượng 10 ngàn chiến sĩ 47 vừa hồng vừa chuyên tác nghiệp trên không gian mạng 24/24 đấu tranh với các thế lực thù địch”… Dư luận viên từ cấp huyện trở lên, “đông như quân Nguyên”. Chính những người này đem cái tư duy đấu tố từ hồi Cải cách ruộng đất vào xã hội văn minh ngày nay, phá hoại tinh thần khoan dung, hoà hợp dân tộc, phá hoại tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, gây nên không khí nghi kỵ, quy kết, chia rẽ, căng thẳng, hận thù trong xã hội ta.

Vợ chồng tôi đã nhiều lần nói rằng, chỉ có bọn xâm lược, đe dọa, lăm le xâm lược nước ta là thế lực thù địch. Còn tất cả người Việt Nam, dù ở trong hay ngoài nước, có quan điểm khác nhau, dù là đối lập, ở các đảng phái, hội đoàn khác nhau, yêu quê hương đất nước, đều là ĐỒNG BÀO MÌNH, không phải thế lực thù địch. Chỉ ai có hành động bán nước, phá hoại đất nước, lúc đó pháp luật sẽ xử lý, lịch sử sẽ kết tội.

1.2. Chả có thế lực nào chống phá được Đảng, Nhà nước này khi có lực lượng Công an hùng hậu “Chỉ biết còn Đảng còn mình”, “Quân đội trung với Đảng” trước tiên, hơn 5 triệu đảng viên và toàn hệ thống chính trị – cánh tay nối dài của Đảng, lúc nào cũng sẵn sàng: Có lệnh là “đồng loạt ra quân”… Chỉ có mấy người khùng mới đi “chống phá”. Chỉ có quy luật khách quan của lịch sử mới thắng những gì trái quy luật mà thôi. Vì vậy, chính quyền nên điều chỉnh sao cho hợp quy luật, chứ đừng làm những chuyện vô lý nữa. Ví như:

– Tổ chức đám dư luận viện, chuyên chửi bới những người khác ý kiến với chính quyền, nó làm xấu mặt chế độ và gây ô nhiễm không khí văn hoá- đạo đức xã hội…

– Quy kết, bắt tù tội những người phản biện, đấu tranh ôn hoà, phi bạo lực, làm không khí xã hội sợ hãi, nặng nề. Nếu ai nói, viết cái gì sai thì theo Luật phạt hành chính, có người bị hại thì kiện ra Tòa xét xử đàng hoàng… Như vậy đảm bảo quyền tự do ngôn luận ghi trong Hiến pháp và tạo nên không khí lành mạnh của một xã hội văn minh.

– Cho an ninh gác cửa, ngăn cấm người dân ra ngoài, phá đám những buổi họp mặt cho là “nhạy cảm”, đàn áp giải tán nhóm người tụ tập ôn hoà nhưng chính quyền “không ưa”, trong khi hàng ngàn, vạn người tụ tập tại các chùa làm các trò mê tín dị đoan thì chính quyền làm lơ, cho công an bảo vệ …

1.3. Bớt ác với dân đi!

Chính quyền toàn trị, luật pháp trong tay, muốn làm gì chẳng được. Nhưng bớt ác với dân đi! Xem việc gì ác, làm khó, làm khổ đồng bào mình thì bớt dần đi!

– Thời đại Trí tuệ nhân tạo rồi, giảm biên chế tối đa, cải cách thể chế, bớt họp hành đi. Bộ máy tinh gọn, ít người nhưng có năng lực, hưởng lương cao, sẽ bớt “hành” dân.

– Cải cách chế độ NHÀ TÙ, nhất là với tù chính trị, bớt hành hạ tù nhân và bớt làm khổ gia đình họ. Bắt người tù nhốt thật xa gia đình họ, ngặt nghèo chế độ thăm nuôi… Tàn ác quá! Khốn nạn quá! Tất cả họ đều là ĐỒNG BÀO mình, sao nỡ ác với nhau đến thế! Xem chế độ nhà tù ở các nước văn minh ra sao để mà học hỏi, thay đổi. Đoạn tuyệt với chế độ nhà tù kiểu đế quốc và kiểu nhà tù cộng sản đi! (Nhà tù cho “các quan” thì không biết thế nào, dân đồn đại nhiều lắm).

1.4. Bớt “nổ” đi, bớt “diễn” đi, Trung ương “diễn” một thì cơ sở “diễn” mười, cái gì cũng “diễn” thành lố bịch, ấu trĩ, dối trá, đạo đức giả. Những cái đó ảnh hưởng xấu đến văn hoá, đạo đức toàn xã hội.

Thế giới ngày nay chí có sống THẬT, chân thành, giản dị mới thu hút được nhân tâm. Giả dối thế nào cũng bị bóc trần.

  1. VỀ NGƯỜI DÂN

2.1. Dân ta ở đâu, vợ chồng tôi cũng hòa đồng được và thấy rất dễ thương. Nhưng sống ở trong Nam được ba năm, tiếp xúc, trò chuyện với rất nhiều người, nhất là những người Bắc vào sống trong Nam 10-30 năm nay, tôi phải nói lên một sự thật xót xa: Trong Nam, nhiều người THIỆN LÀNH, ngoài Bắc nhiều người XẤU ÁC! Thiện – ác không phải là tính sẵn, phần nhiều do hoàn cảnh tạo nên. Dân miền Bắc hoàn cảnh tự nhiên khắc nghiệt hơn, sống dưới “chế độ cộng sản” lâu hơn, nhất là qua các cuộc CCRĐ, đấu tranh Nhân văn – Giai phẩm, cải tạo tư sản, hợp tác hoá, bao cấp… nhiều hơn trong Nam mấy chục năm. Dân Nam bây giờ cũng bị “Bắc hoá” nhiều rồi.

Vợ tôi bảo, phân biệt Bắc – Nam thành “nhạy cảm”, ở đâu cũng có người Tốt, người Xấu, bạn bè mình người Bắc đều tốt cả đó thôi. Người Nam cũng có nhược điểm là: Làm đến đâu ăn đến đó, ít biết lo xa; ít chịu phấn đấu học hành, đàn ông hay nhậu…

Nhưng ở đây tôi muốn nói theo xã hội học là số nhiều hơn và ít hơn, mà cũng chỉ nói ở khía cạnh: Thiện lành và Xấu ác; người Thiện lành có thể ít học, chất phác; kẻ Xấu ác có thể có 6 bằng Đại học và bằng Cao cấp chính trị như tướng Đỗ Hữu Ca, nguyên Giám đốc công an Hải Phòng.

Và sau đây mới là điều đáng suy nghĩ hơn cho cả Bắc lẫn Nam. Mới hôm qua vợ chồng tôi cùng nghe câu chuyện: Một anh ở Thái Lan, về Sài Gòn, nói, sống bất hợp pháp ở Thái hơn 10 năm mà thấy tự do thoải mái, thân thiện, bình an quen rồi, về Việt Nam thấy sống gò bó, bất an, lại sang Thái sống thôi… Vậy đó.

Gần những người Thiện lành, tránh xa kẻ Xấu ác là quy luật tự nhiên của cuộc sống. Nên Dân ta ai cũng cần tự tu tập để bớt Xấu ác đi, tăng Thiện lành lên thì mỗi cộng đồng mới yên bình, xã hội mới tốt đẹp được.

2.2. Nhiều người Dân, kể cả trí thức, giới “dân chủ”, “Việt kiều” đều nhiễm nặng cái “căn tính dân tộc” là: Ai khác mình, không vừa ý mình, nhất là đối lập với mình là phản ứng nặng lời, thậm chí coi nhau như thù địch.

Ví du:

– Người ủng hộ Trump với ủng hộ Biden chia rẽ sâu sắc như thù địch.

– Bắt người khác phải làm theo ý mình, không vừa ý là sinh chuyện. Chỉ nói trong giới “phản biện xã hội”: Gán cho người ta “danh hiệu” theo ý mình rồi bắt người ta làm theo ý mình. Chẳng hạn gọi người phản biện là nhà nọ, nhà kia rồi khi người ta viết khác ý mình lại chê người ấy bây giờ “thối chí”, “quay xe”. Tôi đã nhiều lần nói, tôi không phải “nhà dân chủ”, “nhà đấu tranh”, “nhà phản biện”, “nhà đối lập” … gì cả. Tôi chỉ là Nhà giáo, công dân yêu nước, có trách nhiệm xã hội. Thấy cái gì lợi cho Dân, cho Nước thì ủng hộ; cái gì hại cho Dân, cho Nước thì phê phán.

Có lần tôi đưa stt: Cùng với gia đình vợ chồng con gái trên du thuyền buổi tối trên sông Sài Gòn thật tuyệt vời, vậy là có anh từ bên Mỹ bình luận: Giới dân chủ trong nước bây giờ chỉ thích hưởng lạc, ăn chơi, quên hết dân nghèo khổ… Có lần tôi viết bài khen ngợi đội bóng đá Việt Nam, cũng có người vào bảo, bao nhiêu chuyện lớn không viết, đi viết cái vớ vẩn…

Bà Maria Trần Thị Hài từng đấu tranh vì mất đất, bị tù, ra Hà Nội thưa kiện, rồi thấy đông người đi biểu tình phản đối Trung quốc xâm lấn biển Đông, thì tham gia, để lại bức hình lịch sử. Nay già yếu thì nghỉ đấu tranh, sống vui vẻ với con cháu thôi, sao lại bắt bà ấy cứ phải “anh hùng” mãi?

Ông Thái Bá Tân gần đây bị dư luận mạng xã hội đồn loạn lên. Người bảo ông này “quay xe” không phản biện nữa; người bảo “tôi biết từ lâu, tay này đi hai hàng”; người khác bảo FB của ông Tân bị cướp, đăng bài giả mạo, chứ Thái Bá Tân không bao giờ viết như thế; rồi ông Tân bị bệnh hai năm nay không viết gì… (?).

Hôm qua, tôi gọi điện hỏi thăm, ông Tân bảo, tôi vẫn bình thường mà bác. Tôi vẫn lên FB mỗi ngày mà. Nhưng tôi nghĩ, mình phản biện hàng chục năm rồi, cái gì cần nói cũng nói hết rồi. Ai cũng vậy thôi, chuyện gì cứ nói đi nói lại mãi gây khó chịu, mất hay. Nên giờ tôi chỉ viết châm ngôn và văn nghệ giải trí cho cuộc sống vui tươi. Khi nào có chuyện lớn, ảnh hưởng xấu đến đất nước tôi lại lên tiếng…

Dân chủ, văn minh thì phải tôn trọng quyền tự do của mỗi người; có tranh luận, phê phán phải nói vào vấn đề, có lý lẽ, đừng quen thói “bỏ bóng đá người”, “suy bụng ta ra bụng người” rồi quy kết tuỳ tiện!

2.3. Nói thật, tôi sợ nhất những người “Cuồng cộng” và những người “Cuồng chống cộng”. Cả hai loại người này đều rất cực đoan và nguy hiểm như nhau. Cả hai loại người này đều chỉ gây chia rẽ, thù hận dân tộc và gieo rắc tâm địa xấu ác. Họ mà cai trị đất nước thì khốn nạn như nhau. Nhưng tôi chỉ né họ, chứ không coi họ là “thế lực thù địch”. Họ vẫn là đồng bào mình.

(Chính quyền hiện nay, danh nghĩa là “cộng sản”, nhưng tôi nghĩ, không “cuồng cộng”, cũng chẳng “cộng sản”, mà thích tư bản lắm…).

TÓM LẠI, nhiều người nghĩ như tôi, hơn tôi, nhưng họ “khôn” không nói ra, hoặc không thèm nói, nên vẫn vào “diện yêu Đảng, yêu chế độ”… Tính tôi thấy cái gì lướng vướng thì nói toẹt ra để giải tỏa cho nhẹ lòng, thảnh thơi và may ra có ai đó đồng cảm cũng vui.

Biết rằng chính quyền này chỉ thích khen thôi, có gần 800 tờ báo, chí, hàng 100 kênh truyền hình, phát thanh, khen inh tai, nhức mắt suốt ngày vẫn chưa thoả; ai phê phán là mang vạ vào thân, chính quyền thù dai, ghét lâu lắm … Biết thế, nhưng Trời sinh tính rồi, biết làm sao!

25/3/2023

FB MẠC VĂN TRANG

Đề nghị làm hồ sơ xin UNESCO công nhận nghề bán vé số ở Miền Nam là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại

Lê Vi

Hào quang sáng nhứt hiện nay không phải của Trấn Thành, không phải của “King” Đàm Vĩnh Hưng, không phải của bé Di Quanh, cũng không phải của 4 con gơ tiếp viên tàu bay “ma túy”

Hào quang rực rỡ là của người bán vé số

Sáng mở cửa ra chưa kịp hít thở đã bị ba bốn cái bàn tay cầm vé số chìa vô mặt. Đi chợ chưa kịp móc tiền ở túi trả tiền cá đã bị bốn bà vé vố bao vây kéo áo “vé số anh ơi!”

Qua phà cũng vé số. Cái phà nhỏ xíu chở chừng 20 người mà có 6 bà và 2 ông bán vé số. Cứ đi vòng vòng chìa vô mặt.Khách cứ lắc đầu ông này thì phải lắc đầu ông kia.Nhiều khi bực bội quát” Sao tui không mua mà bà cứ mời hoài vậy?”

Mà mua một người thì tám người bao vây trách móc “Mua nó sao không mua dùm tui,tui nghèo hơn nó”

Chiều đi ks “chịt” với bồ. Mới dắt xe ra khỏi ks, dáo dát dòm tứ phía để kín đáo rời xa cái nôi sung sướng.  Mới lên xe đề cái ào thì một xấp vé số chọt vô mặt “Số 44 đi anh!”

Bực quá mới hỏi “Có số 69 không bà?” cái bả trả lời “Có luôn”

Vô bịnh viện cũng có vé số, bị bảo vệ rượt cái vé số chui vô WC núp

Đi Sài Gòn mắc đái, kiếm lùm giữa quốc lộ xìa vô làm sướng. Cái chưa xong, đang dũ dũ cho sạch cũng bị vé số bao vây

Đường xá vắng hoe, vắng tanh, vắng ngắt. Bán buôn ế chết mẹ, không thấy ai mua gì. Đường phố chỉ thấy dân bán vé số là nhiều

Bán vé số đi bộ, đi xe đạp, đi Honda

Bán vé số đứt vốn rồi giựt nợ,trốn nợ. Bán vé số góp rồi trốn, rồi bị bắt bị đánh, bị tán vô mặt.Nửa đêm nghe ngoài đường rần rần “Trời ơi!sao mày đánh tao?tao khổ quá mà”

Bán vé số có đủ chiêu. Từ chiêu lì tới chiêu khóc. Nhiều lần thấy ở ngã tư có giọng khóc lớn dữ lắm “Chời ơi! tui khổ quá bà con ơi! huhuhu, trời ơi !” . Nghe tưởng giết người cướp của. Nhưng không, bán vé số, còn một xấp mà đã …x ổ trước đó 10 phút rồi .Đứng khóc, quỳ, lăn lết giữa đường yêu cầu bà con … mua dùm cho hết.

Nằm dưới đường cứ khóc, cứ đành đạch một buổi . Hôm nay ngã tư này, tuần sau ngã tư khác. Cũng vì miếng cơm,miếng ăn

Diễn cái cảnh bán vé số khóc này bảo đảm đố Trấn Thành, Việt Hương, Cát Tường, Dương Lâm diễn được

Miếng cơm Miền Nam đắng nghét!

Chưa bao giờ vé số thành cái hào quang sáng rực ở đất Lục Tỉnh này như hiện tại

Vinh quang thay vé số Miền Nam!

Nguyễn Gia Việt

Kon Tum: Phó Chủ tịch mời linh mục về xã làm việc khi đang dâng lễ

Đài Á Châu Tự Do

Chính quyền xã Đắk Nông (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum) tiếp tục ngăn cản linh mục và giáo dân thuộc giáo họ Phaolo thực hiện nghi lễ trong tuần thứ ba liên tiếp trong nỗ lực ngăn chặn việc sinh hoạt tôn giáo của 20 gia đình trong giáo họ này.

Theo một số video giáo dân cung cấp, vào khoảng 5 giờ 30 chiều 22/3, khi thánh lễ do linh mục Phanxico Xavie Lê Tiên đang tiến hành tại nhà nguyện của giáo họ, công an và dân quân tự vệ cùng một số người mặc thường phục đến vây quanh vị tu sĩ.

Một giáo dân ở giáo xứ Đắk Jắk chứng kiến sự việc nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong điều kiện ẩn danh vì lý do an ninh:

“Lúc cha đang làm lễ, lúc đọc tin mừng thì ông Phó chủ tịch xã đưa đoàn công an và dân quân xã đi vào, chửi ầm ầm từ ngoài cửa vào.

Họ bắt cha dừng làm lễ rồi kêu công an cưỡng chế bắt cha ra ngoài nhưng cha không ra. Cha tiếp tục đọc tin mừng cho hết nhưng họ đến gấp sách lại không cho đọc tiếp.”

Trong một video, người đàn ông mặc thường phục tự xưng tên là Thạch – Phó Chủ tịch xã Đắk Nông chỉ ngón tay vào người tu sĩ và chất vấn “ông này là ai” và yêu cầu dừng làm lễ để lên Uỷ ban Nhân dân xã làm việc. Tuy nhiên, vị linh mục tiếp tục thực hiện nghi lễ của mình.

#RFAVietnamese #kontum #daknong #Catholic #phaolo

RFA.ORG

Kon Tum: Phó Chủ tịch mời linh mục về xã làm việc khi đang dâng lễ

Tù nhân lương tâm Phan Kim Khánh vừa mãn án 6 năm tù

Báo Nguoi-viet

March 24, 2023

PHÚ THỌ, Việt Nam (NV) – “[Tôi] đã trở về sau sáu năm tù ngục. Cảm ơn toàn thể gia đình anh em bạn bè đã ở bên đồng hành,” ông Phan Kim Khánh, tù nhân lương tâm, viết trên trang cá nhân mới lập sau khi ra tù, hôm 22 Tháng Ba và hứa hẹn “từ từ mình sẽ cập nhật tiếp.”

Ông Khánh, 30 tuổi, quê ở huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ, là sinh viên Đại Học Thái Nguyên trước khi bị cầm tù với cáo buộc “tuyên truyền chống phá nhà nước.”

Ông Phan Kim Khánh sau khi ra tù. (Hình: Facebook Phan Kim Khánh)

Theo bản án được Tòa Án tỉnh Thái Nguyên tuyên hồi năm 2017, dù đã mãn án tù, trước mắt ông Khánh là bốn năm quản chế tại gia.

Bên dưới bài đăng của ông Khánh, nhiều Facebooker đã để lại bình luận “Mừng em đã trở về sum họp với gia đình” và “Chúc em vững lòng cho con đường tiến đến ánh sáng văn minh, tiến bộ.”

Hồi năm 2017, hãng tin Reuters của Anh cho biết: “Phan Kim Khánh là sinh viên Khoa Quan Hệ Quốc Tế và con cả của một gia đình Công Giáo ở một tỉnh vùng sâu phía Bắc thủ đô Hà Nội. Trước khi bị bắt, Khánh đã viết blog chỉ trích chính quyền.”

Vào thời điểm phiên tòa xử ông Khánh diễn ra, một thông cáo do Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (HRW) phát đi kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam hủy bỏ tất các cáo buộc và trả tự do cho ông này nhưng bất thành. Theo HRW, vụ bỏ tù Phan Kim Khánh được nhìn nhận là để “bịt miệng tiếng nói ôn hòa chỉ trích chính quyền Việt Nam và nói về các vấn đề của đất nước trên mạng Internet.”

Ông Phan Kim Khánh khi bị bắt. (Hình: Công Lý)

Cùng lúc, Luật Sư Hà Huy Sơn, người bào chữa cho ông Khánh, được đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) dẫn bình luận: “Tôi đưa ra các ý kiến chẳng hạn như hành vi yêu cầu đa nguyên, đa đảng không vi phạm điều nào trong Bộ Luật Hình Sự [CSVN] cả. Bản án này chỉ dựa vào lời khai của Phan Kim Khánh. Cuối cùng, tư tưởng và quan điểm cá nhân không thể được một cơ quan nào giám định cả, nên kết luận giám định của Bộ Thông Tin Truyền Thông không phải là một cơ sở để kết tội. Nhưng Hội Đồng Xét Xử không chấp nhận quan điểm của tôi.”

Hồi năm 2015, Phan Kim Khánh nhận được học bổng của Chương Trình Thủ Lĩnh Trẻ Đông Nam Á (YSEALI) để tham gia khóa đào tạo do Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội tổ chức. (N.H.K) [qd]