Câu chuyện về cô bé 7 tuổi cứu sống hàng triệu trẻ em ở Châu Phi.
Đây là câu chuyện có thật về cô bé ấy có tên là Katherine Commale: – Vào ngày 6/4/2006, cô bé Katherine Commale ở Mỹ xem đoạn phóng sự ở châu Phi trên TV, trong đó có nói ở châu Phi trung bình mỗi 30 giây sẽ có một đứa trẻ tử vong do bệnh sốt rét.
Cô bé 5 tuổi ngồi trên sô pha đếm số bằng tay 1, 2, 3,… 30. Khi đếm đến 30, cô bé hoảng sợ nói: “Mẹ ơi, có một bạn nhỏ ở châu Phi chết rồi, chúng ta nhất định phải làm gì đó!”. Mẹ cô bé lên mạng tìm thông tin và nói với Katherine: “Bệnh sốt rét rất đáng sợ, trẻ em bị sốt rét rất dễ mất mạng.”
“Vậy vì sao trẻ em lại bị sốt rét ạ?”
“Sốt rét truyền nhiễm qua muỗi, ở châu Phi có quá nhiều muỗi.”
“Vậy phải làm sao đây ạ?”
“Hiện nay có một loại mùng (màn) được ngâm qua thuốc diệt muỗi, có nó sẽ có thể bảo vệ chúng ta khỏi bị muỗi đốt.”
“Vậy vì sao họ không dùng mùng ạ?”
“Bởi vì loại mùng này quá đắt đối với họ, họ không mua nổi.”
“Không được, chúng ta phải làm gì đó!”
Vài ngày sau, mẹ của Katherine nhận dược điện thoại của cô giáo mẫu giáo nói rằng cô bé không đóng tiền ăn nhẹ.
Khi mẹ hỏi tiền đâu thì Katherine nói: “Mẹ ơi, nếu con không ăn đồ ăn nhẹ ở trường, bình thường không ăn vặt, cũng không mua búp bê nữa, vậy thì có đủ để mua một chiếc mùng không ạ?”
Mẹ đưa cô bé đến siêu thị, mua một chiếc mùng chống muỗi lớn có thể sử dụng cho 4 trẻ em có giá mười mấy đô la. Sau đó cô gọi điện thoại cho tổ chức làm từ thiện ở châu Phi hỏi cách làm thế nào để gửi được chiếc mùng đến đó.
Rất nhanh sau đó họ đã tìm cho cô tổ chức Nothing But Nets chuyên gửi mùng đến châu Phi cho trẻ em. Katherine tự tay gửi chiếc mùng đi, một tuần sau, cô bé nhận được thư cảm ơn từ tổ chức Nothing But Nets, trong thư họ cho biết cô bé là người quyên góp nhỏ tuổi nhất và nếu cô bé quyên góp 10 chiếc mùng thì sẽ được giấy chứng nhận.
Katherine yêu cầu mẹ cùng mình ra chợ bán đồ cũ để bày bán sách cũ, đồ chơi cũ, quần áo cũ của cô bé để lấy tiền quyên góp mùng. Nhưng bán cả một ngày mà không ai mua. Katherine nghĩ: “Mình quyên tiền mua mùng, tổ chức Nothing But Nets sẽ cho mình giấy chứng nhận. Vậy người khác mua đồ của mình, đưa cho mình tiền, họ cũng nên nhận được giấy chứng nhận mới đúng chứ.”
Thế là cô bé bắt đầu tự làm giấy chứng nhận, mẹ giúp mua vật liệu, bố giúp sắp xếp phòng làm việc, em trai giúp vẽ trái tim. Mỗi tờ giấy chứng nhận đều có dòng chữ “Nhân danh bạn, chúng ta mua một chiếc mùng để gửi đến châu Phi” do chính Katherine viết tay, đương nhiên còn có chữ ký chứng nhận của cô bé.
Chỉ cần quyên góp 10 đô la để mua một chiếc mùng là sẽ nhận được một tờ giấy chứng nhận. Hàng xóm nhìn thấy giấy chứng nhận của cô bé, họ cảm thấy vừa ngây thơ vừa cảm động, cô bé nhanh chóng bán được 10 tờ giấy chứng nhận. Katherine gửi tiền cho tổ chức từ thiện và nhận được “Giấy chứng nhận danh dự” đặc biệt làm riêng cho cô bé từ tổ chức Nothing But Nets, họ phong cho Katherine là “Đại sứ mùng chống muỗi”.
Những người ở Hiệp hội nói với Katherine rằng những chiếc mùng mà cô bé quyên tặng đã gửi đến ngôi làng có tên là Stiga ở Ghana, ở đó có 550 gia đình.
Nhưng chỉ có 10 chiếc mùng thì phải dùng sao đây?
Hàng xóm của Katherine không chỉ cùng cô bé mua mùng, mà các con của họ cũng tham gia giúp Katherine làm giấy chứng nhận và trở thành “đồng đội của Katherine”. Mục sư trong khu vực cũng mời cô bé đến nói chuyện ở nhà thờ, cô bé chỉ nói vài phút ngắn ngủi, nhưng đã nhận được 800 đô tiền quyên góp. Lần này cô bé rất phấn khởi bắt đầu đến nói chuyện tại các nhà thờ khác. Khi vừa tròn 6 tuổi, Katherine đã gây quỹ được 6.316 đô la.
Tổ chức Nothing But Nets đăng tải câu chuyện về cô bé Katherine trên mạng và đã thu hút được rất nhiều người. Một ngày nọ, Katherine nhìn thấy đoạn quảng cáo công ích cho tổ chức Nothing But Nets của siêu sao bóng đá người Anh David Beckham trên TV. Cô bé lập tức viết một lá thư cho Beckham để cảm ơn anh, đương nhiên cũng gửi cho anh một tờ giấy chứng nhận. Beckham có chia sẻ giấy chứng nhận của Katherine lên trang cá nhân và được chia sẻ rộng rãi.
Vào ngày 8/6/2007, Katherine nhận được thư gửi đến từ làng Stiga, các bạn nhỏ trong làng viết: “Cảm ơn mùng mà bạn đã gửi cho chúng mình, chúng mình đã thấy ảnh của bạn, mọi người đều cảm thấy bạn rất xinh!”. Katherine vui lắm khi nhận được sự khích lệ này, khiến cô bé có động lực lớn hơn, cô và các “đồng đội” cùng chung tay làm 100 tờ giấy chứng nhận để gửi cho mỗi tỷ phú trong bảng xếp hạng của tạp chí Forbes mỗi người một tờ.
Trên một lá thư có viết: Kính gửi ông Bill Gates, không có mùng chống muỗi, các bạn nhỏ ở châu Phi sẽ bị mất mạng do bệnh sốt rét. Họ cần tiền, nhưng nghe nói tiền đều ở chỗ của ông…
Ngày 5/4/2011, Quỹ từ thiện Bill Gates tuyên bố quyên góp 3 triệu đô la cho tổ chức Nothing But Nets. Bill Gates cho biết ông nhận được một tờ giấy chứng nhận cùng một lá thư, trong thư nói rằng số tiền mà trẻ em ở châu Phi cần để mua mùng chống muỗi đều ở chỗ ông. Có vẻ như ông “không đưa tiền ra là không được đâu”.
Năm 2008, Quỹ từ thiện Bill Gates đã quay một bộ phim tài liệu công ích có tên là “Trẻ em cứu trẻ em”, nhờ đó mà Katherine đã đến châu Phi. Cô bé nhìn thấy các bạn nhỏ dùng bút viết lên mùng chữ “Katherine”, các bạn đều gọi những chiếc mùng cứu mạng này là “mùng Katherine”. Chiếc mùng đầy tình yêu thương này sẽ bảo vệ cho các bạn mỗi đêm. Làng Stiga bây giờ có tên là “Làng mùng Katherine”!.
– Hiện tại, ở Việt Nam mỗi ngày cũng có vô số trẻ em chết do ung thư, bệnh hiểm nghèo, chết do mưa lũ… vân vân và vân vân. Bạn (những người đang đọc bài viết này) cũng có thể làm một điều gì đó để số trẻ em phải chết mỗi ngày được giảm đi đáng kể. Có nhiều cách, chẳng hạn như hãy chia sẽ bài viết này để lan tỏa điều tốt đẹp giúp người khác đọc được và làm thêm điều nhiều việc ý nghĩa.
Thứ hai, bạn có thể lên tiếng chống thực phẩm bẩn tràn lan, đương nhiên là khi bạn lên tiếng, dù ít hay nhiều thì nó cũng sẽ có ảnh hưởng tích cực đến vấn nạn này.
Thứ ba, khi thấy ai đó đang mắc bệnh hiểm nghèo thì hãy giúp đỡ họ bằng nhiều cách, ý nghĩa nhất vẫn là cách quyên góp tiền để giúp họ chữa bệnh. (lưu ý, quyên góp một cách thông minh để tránh cho việc lòng tốt của mình bị lạm dụng).
(st)
Liên Xô sụp đổ: Vì định mệnh hay vì “kẻ tội đồ” Gorbachev? Bởi AdminTD Luật Khoa Võ Văn Quản 11-11-2019
Cựu Tổng bí thư Mikhail Gorbachev của Liên Xô. Ảnh: Getty Images
Vì sao Liên Xô sụp đổ? Trong muôn vạn lý do mà cho đến nay các nhà khoa học vẫn còn chưa hoàn toàn thống nhất, một bộ phận người dân yêu mến Liên Xô luôn cho rằng Mikhail Gorbachev chính là kẻ tội đồ làm cho liên bang này sụp đổ. Họ khẳng định Liên Xô sẽ tiếp tục tồn tại và hùng cường nếu Gorbachev không xuất hiện.
Trong một cuộc điều tra về quan điểm của người dân Nga đối với các lãnh đạo từng nắm quyền trong lịch sử do Trung tâm Nghiên cứu Pew (Mỹ) thực hiện, Gorbachev bằng cách nào đó ở vị trí thấp hơn cả vị độc tài quân sự Stalin khét tiếng, người từng phủ bóng Liên Xô với nạn thanh trừng và đàn áp. Một bộ phận không nhỏ khác đi xa đến mức gọi vết bớt (birthmark) trên trán của Gorbachev là dấu hiệu của Quỷ Satan (The mark of Satan).
Tuy nhiên, một số tài liệu khác thì lại ghi nhận rằng Liên Xô mà Gorbachev kế thừa thật ra đã rệu rã và có những dấu hiệu kiệt sức trong cuộc đua kinh tế với phương Tây. Liên Xô cần phải cải cách, và đó là lý do mà Gorbachev trở thành người quyền lực nhất khối xã hội chủ nghĩa.
Cách nhìn nhận sự kiện lịch sử nói chung và vai trò của Gorbachev nói riêng phụ thuộc vào quan điểm của mỗi người. Bài viết này không nhằm định hướng hay áp đặt người đọc vào một lề thói nhất định. Mục tiêu của bài viết là cung cấp thông tin đúng – đủ, có căn cứ – nền tảng không thể thiếu cho mọi đánh giá.
Tính hai mặt của lịch sử kinh tế Liên Xô
Ngày 31 tháng 12 năm 1991, Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết chính thức chấm dứt tồn tại với tư cách một thực thể pháp lý quốc tế. Sự sụp đổ của nhà nước hùng mạnh kéo dài hơn nửa thế kỷ này không hề được dự đoán trước, và tin tức về nó khiến người Liên Xô, các nhà lãnh đạo và giới quan sát quốc tế phải bất ngờ. Vậy nên không có gì khó hiểu khi những thành tựu của Liên Xô luôn khiến những người còn luyến tiếc đôi khi vẫn mộng mơ về nó.
Ngay từ khi vừa thành lập cho đến ngày tan rã, nền kinh tế Liên Xô luôn phát triển tịnh tiến tăng dần đều (và chỉ bị gián đoạn trong Đệ nhị Thế chiến). Đời sống người dân tuy không tăng trưởng ở tốc độ choáng ngợp và có của cải dư thừa như ở phương Tây, nhưng các nhà khoa học đồng tình rằng nó luôn theo chiều hướng đi lên. Sự can thiệp toàn diện của nhà nước vào mọi vấn đề xã hội đồng nghĩa với việc chính phủ Liên Xô luôn duy trì chế độ giáo dục miễn phí, hệ thống y tế toàn dân. Đóng góp khoa học và công nghệ của Liên Xô cho nhân loại luôn được Đông – Tây thừa nhận. Từ cuộc chạy đua lên vũ trụ cho đến cờ vua và khúc côn cầu, Liên bang Xô Viết luôn khẳng định mình là đại diện duy nhất có khả năng đối trọng với “nửa bán cầu của Hoa Kỳ” suốt hàng chục thập niên.
Một nhà máy ở Moscow, Liên Xô, năm 1957. Ảnh: Getty Images.
Tuy nhiên, trong cùng lúc đó, nên thừa nhận một sự thật rằng mô hình Liên Xô có hàng loạt những vấn đề hệ thống vô cùng nghiêm trọng. Từ thói tham nhũng và thân hữu, giới lãnh đạo bảo thủ thiên cực (ultra-conservative), cho đến giai đoạn kinh tế phát triển chững lại và hơn 20% ngân sách quốc gia phải chi cho hoạt động quân sự để gìn giữ “chế độ xã hội chủ nghĩa” ở nước ngoài, có nhiều lý do để tin rằng Liên Xô đã đi đến chỗ buộc phải cải cách nếu muốn sống còn.
Tham nhũng là một vấn đề không xa lạ với mọi quốc gia trên thế giới. Song tham nhũng và lạm quyền tại một quốc gia mà mọi ngóc ngách của nền kinh tế bị chính phủ kiểm soát có những đặc trưng thú vị hơn.
Theo nhà nghiên cứu Charles A. Schwartz, có đến ba kiểu tham ô – tham nhũng tại Liên Xô. “Tham nhũng hành chính trắng” (white administrative corruption), là loại nhẹ nhất (không bị pháp luật Liên Xô hình sự hóa), nhưng cũng đi sâu vào bản chất văn hóa lao động nhất và có ảnh hưởng gốc rễ đến năng suất làm việc và khả năng sáng tạo sản phẩm tiêu dùng của người dân tại đây.
Do các ngành sản xuất đều bị kiểm soát theo sản lượng và kế hoạch, việc hoàn thành chỉ tiêu mà nhà nước đề ra trở thành “nồi cơm” của mọi tầng lớp lao động hay quản lý tại Liên Xô. Lương, thưởng, thăng tiến, lợi thế chính trị đều lệ thuộc vào những chỉ tiêu này. Cách thức quản lý này gây ra hiện tượng “báo cáo khống” (report padding) – hay nói kiểu dân dã Việt Nam, là căn bệnh “thành tích”. Người quản lý các đội nhóm làm việc thì không muốn báo cáo các vấn đề sản xuất của đội mình lên cấp trên. Giới lãnh đạo nhà máy, xí nghiệp có nhận ra vấn đề hay không thì vẫn theo guồng mà chạy để bảo đảm các lợi ích kinh tế và chính trị của việc hoàn thành chỉ tiêu tạo ra.
Không phải quan tâm đến chất lượng, thị trường sản phẩm, nhu cầu của người tiêu dùng hay cạnh tranh, không có gì khó hiểu khi sự đa dạng, tiêu chuẩn, khả năng sáng tạo của hầu hết các loại sản phẩm của Liên Xô dù là nông nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp hay công nghiệp nặng đều có dấu hiệu thua kém so với các quốc gia tư bản phương Tây, nơi mà hiệu quả, năng suất và lợi nhuận là những tiêu chí hàng đầu trong đánh giá sản xuất.
Thể dạng tham nhũng nói trên dần được Khruschev xác định ra và bị chuyển hóa thành một tội hình sự dạng nhẹ trong những năm giữa thập niên 1960. Song điều này không làm thay đổi thực tế là nền kinh tế Liên Xô vẫn vận hành hoàn toàn bằng kế hoạch và chỉ tiêu sản lượng từ nhà nước giao xuống, một mô hình luôn được được những nhóm hưởng lợi từ cơ chế cũng như bởi những nhà Marxist bảo thủ bảo vệ.
Không chỉ vậy, nghiên cứu “Sự trỗi dậy và lụi tàn của nền kinh tế Liên Xô” (tên tiếng Anh: The rise and decline of Liên Xô economy) khá nổi tiếng vì tính trung lập của Giáo sư kinh tế Robert C. Allen, thuộc Đại học British Columbia, còn tiếp cận và chỉ ra những đặc điểm thú vị khác của nền kinh tế Liên Xô.
Theo ông, cần thừa nhận rằng từ năm 1928 đến năm 1970, Liên Xô có tốc độ tăng trưởng vượt trội mọi quốc gia công nghiệp phát triển (OECD) khác, kể cả nếu so sánh với Hoa Kỳ. Họ đứng sau Nhật Bản, nhưng điều đó cũng đủ khiến Liên Xô trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh thứ hai thế giới (luôn giữ mức trên 5%).
Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moscow, năm 1963. Ảnh: rferl.org.
Song trong giai đoạn thứ hai, từ năm 1970 cho đến khi không còn tồn tại, tỷ lệ tăng trưởng (dù là GNP hay GDP) của Liên Xô chỉ thoi thóp ở mức 2%, thấp hơn hầu hết các quốc gia OECD cũng như Hoa Kỳ. Điều gì khiến cho sự chênh lệch này lại đáng kể và đột ngột đến như vậy?
Thông qua kiểm chứng số liệu và chạy mô hình kinh tế, Giáo sư Allen cho biết thành công của Liên Xô giai đoạn 1928 – 1970 dựa trên ba lý do chính:
(1) Việc duy trì chính sách Kinh tế mới (New Economic Policy) từ 1928 đến 1940, theo đó duy trì sản xuất nông nghiệp hộ – cá thể và những cốt lõi của nền kinh tế thị trường như cho phép giá cả dao động theo cung cầu, bảo hộ quyền tư hữu một cách cơ bản… tạo nền tảng cho phát triển kinh tế;
(2) Chú trọng và can thiệp độc quyền vào các ngành công nghiệp nặng (sản xuất gang, thép, chế phẩm kim loại…), đồng thời với chính sách nhấn mạnh vào các loại hàng hóa sản xuất như máy móc thiết bị nông nghiệp, công nghiệp (Producer goods, trái ngược với Consumer goods là hàng hóa tiêu dùng – công nghiệp nhẹ) giúp cho năng lực sản xuất công nghiệp được tăng cường, và lĩnh vực này cũng tạo ra được nguồn tư bản đáng kể thông qua hoạt động xuất khẩu.
(3) Cuối cùng, cơ chế điều hành kinh tế tập trung và quản lý sản xuất dựa trên chỉ tiêu kết hợp cùng Ức chế ngân sách mềm (Soft Budget Constraint – tạm hiểu là việc các nhà nước sẽ hỗ trợ, cung cấp ngân sách hay thậm chí bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước) khiến cho hoạt động sản xuất mở rộng một cách chóng mặt, từ đó thu hút việc làm cho phần lớn người dân tại các vùng nông thôn chưa có việc làm, đẩy tăng trưởng của năng suất lao động và thành phẩm, mở rộng nhu cầu tiêu dùng của cả nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, kiểm soát thị trường bằng mệnh lệnh hành chính cũng phải tới thời điểm lộ ra sự yếu kém của nó. Khi mọi người đều có việc, năng suất lao động bắt đầu chững lại, và sản lượng chỉ có thể tăng dựa vào các quyết định đầu tư và cải thiện đúng đắn. Song các quyết định đầu tư khổng lồ vào những ngành công nghiệp cũ kỹ không tìm thấy được kết quả sản lượng và tăng trưởng việc làm như mong đợi. Các mỏ khoáng sản truyền thống như dầu, gang thép… cứ dần cạn kiệt và hoạt động khai thác không có tiến triển tốt dù chi phí duy trì của những ngành này là khổng lồ. Như Allen nói đùa, chính các lãnh đạo Liên Xô đã biến nền kinh tế nước này trở thành một điều thần kỳ, nhưng khi thế giới thay đổi, và những vị lãnh đạo này không còn khả năng tưởng tượng ra tương lai của nền kinh tế thế giới, điểm mạnh nhất của chính quyền trở thành yếu điểm của nó – nền kinh tế Liên Xô đã không còn kịp thích nghi và đáp ứng với thế giới xung quanh.
Gorbachev – Nhà cải cách hay kẻ tội đồ?
Năm 1985, Liên bang Xô Viết đứng ở ngã ba đường. Các chỉ số kinh tế sụt giảm, người dân bắt đầu cảm nhận được sự khác biệt trong đời sống tiêu dùng tại các quốc gia tư bản Tây Âu – Hoa Kỳ và tại Liên Xô, sự mệt mỏi và cồng kềnh của bộ máy quan liêu dần biểu lộ rõ sau khi công nghệ thông tin và hệ thống mạng toàn cầu lần đầu tiên được giới thiệu và hoàn thiện.
Và cũng không may cho Liên Xô, giới lãnh đạo Đảng dường như cũng không còn sức sống. Với ba cái chết liên tục của các đời tổng bí thư Leonid Brezhnev, Yuri Andropov, Konstantin Chernenko chỉ trong ba năm, phương thức tuyển chọn lãnh đạo của các chính thể chuyên chế như Liên Xô không còn nhiều sự lựa chọn – và Mikhail Gorbachev trở thành người kế nhiệm của “đế chế” Liên Xô khổng lồ. Nói ra điều này không phải để phủ nhận năng lực của Gorbachev, mà nhằm cho thấy nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đang trong tình trạng khủng hoảng, và một nhân vật có tư tưởng cấp tiến như Gorbachev cuối cùng có cơ hội trỗi dậy.
Tháng Năm năm 1985, chỉ hai tháng sau khi nhậm chức, Gorbachev đưa ra chính sách cải cách đầu tiên của mình – chiến dịch chống lạm dụng rượu. Ông nhìn thấy được sự thiếu hiệu quả của hệ thống lao động và sản xuất của Liên Xô, như các nhà nghiên cứu mà bài viết đề cập ở trên, song đối tượng – nguyên nhân của tệ nạn mà ông nhắm tới có vẻ không chính xác.
Chính sách bắt đầu với việc hạn chế các cửa hàng được phép bán thức uống có cồn, nhiều nhà máy pha chế và nấu rượu bị đóng cửa, tiêu hủy các vườn trồng nho và nguyên vật liệu khác để nấu rượu tại những nền cộng hòa chỉ chuyên sản xuất rượu bên trong liên bang như Moldavia, Armenia và Georgia. Không chỉ vậy, nhà hàng bị cấm bán rượu trước 2 giờ chiều; và các cơ quan tại Nga phấn đấu thi đua trở thành những cơ quan không rượu.
Tuy nhiên, như đã nói, năng suất lao động kém ở Liên Xô là một vấn đề của cơ chế và mô hình của nền kinh tế, không phải chỉ bởi vì thói quen thích uống rượu của người Liên Xô. Chiến dịch kết thúc mà không đạt được thành tựu gì cụ thể, chỉ riêng Gorbachev bắt đầu được gọi là mineral’nyi sekretar’ (Bí thư nước khoáng) thay vì general’nyi sekretar’ (Tổng bí thư).
Mọi sự vẫn còn chưa đến đâu thì vào năm 1986, thảm họa Chernobyl diễn ra. Sự tụt hậu và cũ kỹ của công nghệ Liên Xô không chỉ được phơi bày, nó còn làm các quốc gia cộng hòa thành viên đặt dấu hỏi về tính minh bạch và sự trung thực của các nhà lãnh đạo Liên Xô sau thảm họa. Nhu cầu và áp lực cải cách ngày càng đè nặng lên vai Gorbachev.
Để dễ thở hơn cho các cải cách trong nước, Gorbachev tìm cách giảm căng thẳng Chiến tranh Lạnh với phương Tây, mà đặc biệt nhất là Hiệp ước Giải giáp Vũ khí Hạt nhân Trung tầm (Intermediate-Range Nuclear Forces Treaty), theo đó hai bên cam kết sẽ tiêu hủy và không phát triển hay sử dụng các loại vũ khí hạt nhân có bán kính sử dụng từ 500 đến 5.000 km. Giới chính trị phương Tây có cảm giác có thể làm việc và tin tưởng Gorbachev, trong khi bản thân ông này cũng có thể tập trung vào các vấn đề quốc nội nhiều hơn.
Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tiếp Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev năm 1987 tại Nhà Trắng. Ảnh: AP.
Lần này, chính quyền Gorbachev buộc phải dùng cách tiếp cận cấp tiến hơn và những cải cách “nặng đô” hơn, với hai nguyên tắc chủ đạo là perestroika (restructuring – tái cơ cấu) và glasnost (openness – mở) nhắm vào cả không gian kinh tế và chính trị. Ví dụ, tháng Sáu năm 1987, cuộc bầu cử đa ứng viên đầu tiên được thử nghiệm ở cấp địa phương với kỳ vọng tăng cường hoạt động tham gia dân chủ của người dân và tiếp nhận thêm ý kiến để hoàn thiện mô hình thể chế. Ngay sau đó, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được giải phóng dần, trao bớt quyền cho địa phương và doanh nghiệp thay vì điều hành nền kinh tế theo cơ chế mệnh lệnh tập trung, cũng như cho phép thành lập những doanh nghiệp hợp tác (cooperative enterprises) đầu tiên.
Tuy nhiên, những cải cách này cũng không tỏ ra hiệu quả. Đổi mới trong kinh tế dù được thực hiện, lại vẫn còn vướng với mô hình quản trị lâu năm của kế hoạch hóa, kiểm soát giá và trợ cấp chính phủ – những đặc trưng của nền kinh tế XHCN mà giới lãnh đạo trung ương Liên Xô vẫn loay hoay cãi nhau xem nên bỏ hay giữ. Do đó, văn hóa sáng tạo và nhận thức kinh doanh – sản xuất hàng hóa như một nhu cầu tư nhân vẫn không thể hình thành.
Mặt khác, cải cách chính trị khiến Liên Xô giống như một con bệnh lâu ngày mới khám, và ổ bệnh liên quan đến xung đột sắc tộc cũng như danh tính quốc gia bùng nổ. Các quốc gia cộng hòa thành viên của Liên Xô cũng như quốc gia cộng sản trong khối xã hội chủ nghĩa không còn nhìn hệ thống như một sự gắn kết của tư tưởng chính trị nữa. Thay vào đó, họ cho rằng đây là sự áp đặt của ngoại bang. Biểu tình ngày càng lan rộng, và những xung đột bạo lực vượt quá tầm kiểm soát của chính quyền địa phương. Ở thời điểm này, có hai phe trong giới lãnh đạo Liên Xô. Nhóm thứ nhất chủ trương không can thiệp và chấp nhận một số yêu cầu của những nền cộng hòa thành viên – mà đại diện là Gorbachev. Theo lập luận của phe này, đại đa số những khu vực này vẫn còn muốn nằm trong Liên bang Xô Viết, chúng ta chỉ cần trao quyền bớt cho chính quyền dân cử địa phương mà thôi. Tuy nhiên, phe bảo thủ của Đảng Cộng sản Liên Xô không đồng tình. Họ cho rằng đây là biểu hiện của một chính quyền yếu đuối, và sẽ làm suy giảm nghiêm trọng vị thế của Liên Xô trên trường quốc tế.
Ngày 19 tháng Tám năm 1991, sau khi thành lập Hội đồng Khẩn cấp Quốc gia (State Emergency Committee – vốn vi hiến vì không được ghi nhận trong pháp luật Liên Xô), giới tướng lĩnh quân sự và quan chức Cơ quan An ninh Quốc gia (KGB) tiến hành đảo chính Gorbachev. Theo họ, đây là biện pháp cuối cùng để cứu Liên bang Xô viết khỏi sự sụp đổ.
Gorbachev bị đặt vào tình trạng quản thúc tại gia và lệnh thiết quân luật được ban hành.
Mikhail Gorbachev xung đột với Boris Yeltsin ngày 23/8/1991 tại Quốc hội, ngay sau cuộc đảo chính không thành của Yeltsin. Ảnh: AFP.
Tuy nhiên, bất kể có Gorbachev hay không, bản thân những người cầm đầu cuộc đảo chính hoàn toàn không rõ họ sẽ làm gì trong tình trạng kinh tế – chính trị Liên Xô thời điểm đó.
Người dân Nga không mong muốn nhìn thấy một Liên Xô cũ kỹ của ngày xưa quay trở lại – điều mà cuộc đảo chính nhắm đến, và đồng loạt xuống đường ngăn chặn các lực lượng quân sự. Kế hoạch của quân đội và KGB cũng không nhận được sự đồng tình từ hệ thống quan chức hành chính, cơ quan lập pháp và bộ máy nhà nước nói chung. Cô đơn trên mọi mặt trận, cuộc đảo chính của giới quân sự và an ninh thất bại sau ba ngày, và chỉ càng làm tăng thêm sự tức giận của người dân dành cho mô hình nhà nước Liên Xô.
Đây chính là cơ sở để ba lãnh đạo của ba quốc gia lớn nhất còn tồn tại trong Liên Xô: Nga (do Boris Yeltsin đứng đầu), Belarus (do Stanislav Shushkevich lãnh đạo) và Ukraine (do Leonid Kravchuk nắm quyền) họp kín để quyết định về vận mệnh của Liên bang Xô Viết mà không có Gorbachev. Cả ba bên thống nhất giải thể liên bang vào ngày 31 tháng 12 năm 1991, riêng Gorbachev không còn cách nào khác ngoài từ chức.
Lời kết
Với những thông tin kiểm chứng nói trên, khó có thể cho rằng Liên Xô tan rã là một “tai nạn” của lịch sử, một sự kiện xảy ra chỉ bởi vì sai lầm của một cá nhân. Liên Xô đúng là vĩ đại theo cách riêng của nó, nhưng chính những thứ làm quốc gia này trở nên vĩ đại cũng là rào cản cho sự phát triển và năng động của nó trong thời đại mới. Gorbachev, theo người viết, thật ra đã làm hết sức mình. Bản thân ông vẫn còn luyến tiếc Liên Xô và thù hận sự phản bội của Boris Yeltsin. Song với làn sóng mới trong kinh tế, công nghệ và chủ nghĩa dân tộc địa phương, sự tan rã của Liên Xô một thời hùng mạnh thật ra cũng chỉ nằm trong guồng quay của lịch sử mà thôi.
Liên Xô sụp đổ: Vì định mệnh hay vì “kẻ tội đồ” Gorbachev? Bởi AdminTD – 11/11/2019 Luật Khoa Võ Văn Quản 11-11-2019 Cựu Tổng bí thư Mikhail Gorbachev của Liên Xô. Ảnh: Getty Images Vì sao Liên Xô sụp đổ? Trong muôn vạn lý do mà cho đến na…
“Lưu trữ là sức mạnh,” Kirill Mikhailovich Anderson, cựu giám đốc Cục Lưu trữ Lịch sử Chính trị – Xã hội Quốc gia Nga tại Moskva, đã từng nói với tôi như vậy. Ông kể về vị giám đốc đầu tiên của Viện Marx-Engels (thành lập năm 1919): Là một người Bolshevik cũ, David Riazanov gần như không thể kiên nhẫn được với các viên chức Đảng Cộng sản – những người liên tục yêu cầu các văn kiện hoặc để khẳng định lập trường ý thức hệ hoặc để bôi nhọ kẻ thù.
Một ngày nọ, ông lấy ra một lá thư của Karl Marx, ve vẩy nó trước mặt một lãnh đạo và hét lên: “Marx của ông đây. Giờ thì biến đi!” Riazanov chạy trốn khỏi Stalin vào năm 1931, nhưng đã bị bắt vào năm 1937 và bị hành quyết một năm sau đó.
Giống như hàng ngàn nhà xuất bản, nhà nghiên cứu và nhà báo nước ngoài khác – những người lũ lượt tới Moskva vào tháng 01/1992, tôi đã tìm đến kho lưu trữ nhà nước sau khi Boris Yeltsin tuyên bố vào tháng 12/1991 rằng ông sẽ cho mở cửa các kho lưu trữ bí mật của Liên Xô. (Tôi là đại diện của Nhà xuất bản Đại học Yale/ Yale University Press.) Sức mạnh mà Anderson nói đến quả thực hiện diện sống động ở đó.
Khám phá tại những kho lưu trữ này đã làm thay đổi hoàn toàn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu của Chiến tranh Lạnh như: gián điệp trong Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, Đại Thanh trừng (Great Terror) của Stalin, số phận của các nhà văn và nghệ sĩ, và nhiều sự kiện khác. Đối với vài người, phát hiện mới này giúp khẳng định quan điểm trước đó của họ; còn với những kẻ khác, nó làm xáo động niềm tin vốn đã được khắc sâu. Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất [của nó] chắc chắn là làm sâu sắc hơn và tạo nên những góc nhìn đa chiều về sự phức tạp của hiện tượng chủ nghĩa cộng sản Liên Xô và tính cách của Joseph Stalin.
Tôi đã từng hỏi một nhà sử học người Nga rằng liệu chúng ta có thể nghiên cứu “đến tận đáy” các hồ sơ lưu trữ của K.G.B., cơ quan mật vụ Liên Xô, về một chủ đề cụ thể hay không. “Dĩ nhiên,” ông đáp đầy khéo léo. “Nhưng K.G.B. có nhiều đáy lắm.”
Một trong những vấn đề tăm tối nhất liên quan đến bản chất và nguyên nhân hành động khủng bố của Stalin, và câu hỏi liệu rằng Stalin có vi phạm chính sách của Lenin hay chỉ là đang tiếp nối nó. Đằng sau đó chính là câu hỏi về việc thể chế hoá bạo lực trong nền văn hoá Bolshevik và nhà nước Liên Xô.
Dù sự chấp nhận phổ biến đối với việc sử dụng bạo lực chính trị đã sớm được thiết lập trong phong trào cách mạng Nga – ngay từ thời bản tuyên ngôn năm 1869 của Sergey Nechayev về “Giáo lý của Một Nhà Cách mạng” (Catechism of a Revolutionary) – nhưng chính sách của Lenin và Đảng Bolshevik lúc đầu không dựa vào khủng bố. Tuy nhiên, các điều kiện khắc nghiệt của cuộc nội chiến 1917 – 1922, trong đó bảy triệu người đã thiệt mạng, cùng với việc xuất hiện các chính sách kinh tế tàn nhẫn của Lenin, đã dẫn đến cảnh khốn cùng và tuyệt vọng của hàng triệu người khi thấy mình chẳng còn lương thực, sinh kế, nơi ở và an ninh.
Cuộc nổi dậy hàng loạt của nông dân bắt nguồn từ các quy định hà khắc của nhà nước Liên Xô trong việc thu mua ngũ cốc. Chế độ Bolshevik non trẻ cần ngũ cốc để ngăn chặn nạn đói ở các thành phố, và khi không thấy có lựa chọn nào khác, Lenin đã ban hành mệnh lệnh này vào tháng 08/1918, mà sau đó được phát hiện trong một kho lưu trữ bí mật: “Hãy treo cổ (không được giấu diếm, phải làm công khai để mọi người đều thấy) ít nhất 100 địa chủ, nhà giàu, những kẻ hút máu dân.” “Công khai tên của chúng,” ông chỉ định. “Lấy hết ngũ cốc của chúng. Chỉ định ai sẽ làm con tin.”
“Hãy làm việc này theo cách để hàng trăm người xung quanh phải nhìn thấy, run rẩy, thừa nhận, thét lên,” ông tiếp tục, rằng những người Bolshevik “đang siết cổ, bóp chết bọn địa chủ hút máu người.”
Ông kết thúc bản ghi nhớ khủng khiếp bằng chỉ thị: “Hãy tìm những người thực sự khét tiếng”
Một tháng sau, ông ra lệnh: “Cần phải giữ bí mật – và khẩn trương – chuẩn bị đợt khủng bố.”
Lenin sử dụng khủng bố để chống lại những kẻ thù được thừa nhận của nhà nước. Stalin lại dùng nó để chống lại các thể chế của nhà nước và bản thân xã hội Liên Xô. Stalin đi theo Lenin, nhưng đã vượt qua ông.
Ngày 07/11/1937, ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, bài phát biểu của Stalin tại cuộc họp gồm các nhà lãnh đạo Bộ Chính trị đã được đảng viên Cộng sản Bulgaria và lãnh đạo Tổ chức Comintern, Georgi Dimitrov, ghi lại trong cuốn nhật ký được xuất bản của ông.
“Tôi muốn nói vài lời, có lẽ không được vui cho lắm.” Stalin nói. “Các Sa hoàng đã làm rất nhiều điều xấu. Họ cướp bóc và biến dân chúng thành nô lệ. Nhưng họ đã làm một điều tốt. Họ đã xây dựng được một đất nước to lớn, kéo dài đến tận Kamchatka. Chúng ta đã được thừa hưởng đất nước đó.”
Ông nói tiếp: “Chúng ta đã thống nhất đất nước theo cái cách mà nếu một phần nào đó bị cô lập khỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa chung, thì nó sẽ không chỉ gây ra thiệt hại cho nhà nước, mà còn không thể tồn tại một cách độc lập và chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng nô lệ cho nước ngoài. Vì vậy, bất cứ ai cố gắng hủy hoại sự thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bất cứ ai tìm cách tách rời bất kỳ phần nào của nó – thì hắn là kẻ thù, một kẻ thù công khai của nhà nước và của các dân tộc thuộc Liên bang Xô viết. Và chúng ta sẽ hủy diệt từng kẻ thù như thế, ngay cả khi hắn là một thành viên Bolshevik cũ; chúng ta sẽ giết tất cả họ hàng, gia đình của hắn. Chúng ta sẽ tàn nhẫn hủy diệt bất cứ ai, nếu hành động hay tư tưởng của hắn – đúng, tư tưởng của hắn – đe dọa sự thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hãy nâng ly vì sự hủy diệt hoàn toàn tất cả các kẻ thù và họ hàng của chúng!”
Lúc đó, các thành viên Bộ Chính trị đã lên tiếng ủng hộ: “Hãy nâng ly vì Stalin vĩ đại!”
Tính đến thời điểm ấy, những kẻ thù trong nước của chế độ Bolshevik đã bị loại bỏ, bao gồm cả những nông dân cứng đầu đã chết trong nạn đói năm 1932 – 1933. Đại hội Đảng lần thứ 17 (1934) đã được tung hô là “Đại hội của những người chiến thắng,” và Andrei Zhdanov, đảng viên đại diện vùng Leningrad và một người yêu thích Stalin, có thể tự tin tuyên bố tại Đại hội Hội Nhà văn Xô viết trong năm đó rằng “những khó khăn lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã bị vượt qua.”
Nghịch lý là, Stalin đã tiến hành Đại Thanh trừng vào năm 1936, trong thời điểm tương đối hòa bình và ổn định. Hàng loạt kẻ thù đột nhiên xuất hiện trong xã hội Liên Xô là do tưởng tượng nên. Hàng triệu người vô tội đã bị bắt giữ, tra tấn và bắn chết, chẳng hề có bằng chứng, nhưng chỉ dựa theo quota mà Kremlin chỉ thị. Stalin đã không nói dối: Đúng là “bất cứ ai” cũng có thể phạm tội.
Nikolai Bukharin, cựu lãnh đạo Bolshevik và biên tập của tờ Pravda, đã trở thành một trong những kẻ thù: bị bắt vào tháng 02/1937 và bị hành quyết vào tháng 03/1938. Bức thư ông viết cho Stalin từ nhà tù, vào ngày 10/12/1937, là một bức thư run rẩy và đáng thương từ một người đàn ông biết chắc chắn mình sẽ chết. Nhưng ngạc nhiên thay, ông không chỉ khẳng định những lời Stalin nói với Bộ Chính trị cách đây vài tháng, mà còn thừa nhận vai trò của mình trong việc tạo ra cỗ máy mà giờ đây khiến ông mắc kẹt trong tuốc-bin của nó.
“Có điều gì đó vĩ đại và táo bạo trong ý tưởng chính trị của một cuộc thanh trừng hàng loạt,” ông viết. “Việc thanh trừng này này bao gồm 1) kẻ tội đồ; 2) người bị nghi ngờ; và 3) những người có khả năng bị nghi ngờ. Hành động này không thể được thực hiện mà không có tôi.”
Nhà nước độc tài mà Bukharin hình dung là nhà nước dựa trên một trạng thái bất ổn lâu dài, trong đó hỗn loạn và sợ hãi là những thành phần thiết yếu của chính phủ. Nhà văn Lydia Chukovskaya đã miêu tả nỗi sợ hãi vốn là cốt lõi của thế giới đảo ngược này trong tiểu thuyết tuyệt vọng năm 1939, “Sofia Petrovna”, vốn không được xuất bản ở Liên Xô mãi cho đến cuối thập niên 1980. Nhân vật nữ chính trong tác phẩm “giờ đây khiếp sợ mọi người và mọi thứ,” Chukovskaya viết. “Có lẽ họ đã đưa cô ta đến đồn cảnh sát, tước mất hộ chiếu và đẩy cô vào cảnh lưu đày? Cô sợ hãi từng tiếng chuông kêu.”
Xóa bỏ trật tự xã hội, xem thường các quy định của pháp luật, truyền nỗi sợ vào sâu trong ý thức cá nhân và gieo mầm sự hồ nghi là điều cần thiết cho mục tiêu của Stalin, nhằm loại bỏ bất cứ mối đe dọa nào đối với quyền lực tuyệt đối của ông. Stalin không chỉ dùng Đại Thanh trừng để loại trừ những người có thể trở thành đối thủ trong đảng, mà còn gửi đi một tín hiệu không thể nhầm lẫn cho cả nước: Nếu Bukharin, Lev Kamenev và Grigory Zinoviev còn có thể có tội, thì mọi người đều bị nghi ngờ.
Một câu chuyện kể rằng Stalin đã giữ bức thư của Bukharin trong ngăn kéo trên cùng ở bàn làm việc của mình, nơi nó được phát hiện sau cái chết của ông, nhưng chỉ được xuất bản sau khi Liên Xô tan rã.
Thế chiến II kết thúc, đất nước giành được chiến thắng tuyệt vời trước Hitler, tuy nhiên, Stalin lại nhận ra rằng khi sự suy giảm về thể chất của ông xuất hiện, thì quyền lực cá nhân của ông cũng bắt đầu suy giảm. Phản ứng của ông là chuẩn bị một đợt thanh trừng thứ hai.
Một lần nữa, không ai được an toàn. Stalin giận dữ vì Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov đã cho phép xuất bản đầy đủ bài phát biểu của Winston Churchill trên tờ Pravda. Molotov đã không nhận ra kẻ thù của họ. Ngoài ra còn có Zhdanov, khi ấy đang là một trong những thành viên quyền lực nhất của Bộ Chính trị, cũng bị Stalin oán giận khi con trai ông, Yuri, người đứng đầu bộ phận khoa học của Uỷ ban Trung ương, cho tổ chức một cuộc hội thảo kín để thảo luận về công trình của nhà nông học “rởm” T. D. Lysenko, một nhân vật giống như Rasputin trong chính quyền Stalin.
Stalin đã trả thù bằng cách quen thuộc: dùng tra tấn thể xác như là một phương pháp đối phó với kẻ thù chính trị; lan truyền sự hoang tưởng, sợ hãi và hồ nghi trong xã hội; bịa đặt ra kẻ thù; và tự cho mình là nhà lãnh đạo có khả năng duy nhất trong những thời điểm khó khăn như vậy. Bằng cách thao túng, lập mạng lưới bảo trợ, sự tàn bạo và lén lút, Stalin tiếp tục tiến hành cuộc tấn công vào chính đất nước mình. Quyền lực của ông nằm bên ngoài cấu trúc chính thức của nó, và trong giai đoạn cuối cùng của chế độ độc tài Stalin, khủng bố lên đến đỉnh điểm sau vụ “Âm mưu của các Bác sĩ” năm 1953, một cuộc khủng hoảng được bịa ra, trong đó các bác sĩ Do Thái nổi tiếng bị buộc tội âm mưu chống lại lãnh đạo Liên Xô. Tiếp nối những lời đe dọa mà ông thốt ra trong bài phát biểu năm 1937, âm mưu mới này chứa đựng những hạt giống tai họa thậm chí còn lớn hơn do sự xuất hiện của Chiến tranh Lạnh.
Khi Molotov không tìm thấy tên mình trong danh sách những người được cho là mục tiêu ám sát của các bác sĩ Do Thái, ông biết mình đã bị đánh dấu trong danh sách bị khử trừ. Nhưng không chỉ có mình ông. Anastas Mikoyan, Kliment Voroshilov và nhiều cấp dưới khác của Stalin lo ngại ngày tàn của họ đã đến. Năm 1952, khi Bộ trưởng An ninh Semyon Ignatiev không thể tạo ra các bằng chứng giả cho vụ các bác sĩ Do Thái đủ nhanh, Stalin đã đe dọa sẽ làm giảm chiều cao của ông “bằng một cái đầu.”
“Đánh chúng, đánh chúng, đánh chúng bằng những cú đánh chết người,” ông hét vào mặt vị lãnh đạo an ninh. Ignatiev nhanh chóng bị trụy tim và được đưa ra khỏi văn phòng.
“Hãy nhìn lại các cậu đi,” ông nói với một nhóm cộng sự thân cận của mình vào tháng 12 năm đó, “bọn mù, lũ mèo con, các cậu không nhìn thấy kẻ thù; các cậu sẽ làm gì nếu không có tôi? – Đất nước này sẽ bị diệt vong bởi vì các cậu không nhìn thấy kẻ thù.”
Chỉ có ông, Stalin, mới có thể lãnh đạo đất nước, bởi vì chỉ có ông, Stalin, mới có thể nhìn thấy kẻ thù. Chỉ có cái chết của Stalin, vào tháng 03/1953, mới cứu được nhiều người khỏi bị hủy diệt – và có lẽ là cứu cả thế giới. Năm tháng sau, Liên Xô cho nổ quả bom hydro đầu tiên của họ.
Jonathan Brent, người khởi xướng loạt ấn phẩm Annals of Communism tại Yale University Press và từng nghiên cứu kho lưu trữ Liên Xô trong giai đoạn 1992-2009, hiện đang là giám đốc điều hành Viện YIVO về Nghiên cứu Do thái và giảng dạy tại Đại học Bard.
Hình: Các đại biểu dự Đại hội 16 Đảng Cộng sản Nga. Những người bị bôi mờ là nạn nhân của đàn áp chính trị dưới thời Stalin.
Già trẻ đứng thẳng làm nguời Bạo quyền đâu sợ đáp lời núi sông Dấn thân ý thức cộng đồng
Tuơng lai con cháu quyết không thể lùi
Dân trí mở mang cắm dùi Mầm dân chủ bật xóa đui sáng ngần Tự do tuơng ái tuơng lân Giá guơng nấy phủ chữ nhân nhiễu điều !
Những nguời già có tuổi không câu nệ sợ sệt , những thanh niên dũng cảm bất khuất đạp lên cuờng quyền Hồng Kông hơn 100 ngày đấu tranh cho tự do bất chấp hết tất cả bạo lực và khủng bố ngày hôm nay để ngày mai họ đứng thẳng làm nguời !
Nguồn: Carl Bildt, “Remembering the Miracle of 1989”, Project Syndicate, 19/08/2019. Biên dịch: Phan Nguyên Tháng này đánh dấu 30 năm kể từ khi châu Âu – và nền văn minh nhân loại nói chung – bắt đầu trải qua một sự biến đổi kỳ diệu mà hiện ….
Liên Xô tan rã như thế nào? Và có nước nào còn kỷ niệm Cách mạng tháng 10 không? Bởi AdminTD – 09/11/2019 Nguyễn Ngọc Chu 9-11-2019 NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA LIÊN BANG XÔ VIẾT 1. Cho đến đầu tháng 12/1991, tuy tất cả các nước cộng sản Đông…
Liên Xô tan rã như thế nào? Và có nước nào còn kỷ niệm Cách mạng tháng 10 không?
1. Cho đến đầu tháng 12/1991, tuy tất cả các nước cộng sản Đông Âu không còn nữa, nhưng Liên bang Xô viết vẫn tồn tại, với Mikhail Gorbachev là người đứng đầu.
Nhưng sau cuộc đảo chính vào tháng Tám 1991, dù chưa bị lật đổ, nhưng Mikhail Gorbachev đã hầu như mất hết quyền lực. Chức vụ tổng thống Liên Xô của Gorbachev chỉ còn trên danh nghĩa. Trên thực tế, quyền lực nước Nga do Yeltsin nắm. Quyền lực ở Ukraine thuộc về Kravchuk. Và quyền lực ở Belarus trong tay Shushkevich.
Không ai ngờ rằng sự tan rã nhanh chóng của Liên Xô lại bắt nguồn từ sự không có tiền thanh toán khí đốt của Belarus. Để có tiền thanh toán khí đốt, tổng thống Belarus lúc đó là Stanislav Shushkevich đã muốn cầu cứu Nga nên đề nghị một cuộc gặp mặt với tổng thống Nga và tổng thống Ukraine tại Belarus. Ông Stanislav Shushkevich đã thừa nhận:
“Nền kinh tế đang bị khủng hoảng, chúng tôi không thể chi trả cho nhà cung cấp mà lại không có ai cho chúng tôi vay tiền, vì thế, chúng tôi cầu cứu nước Nga giúp đỡ, để khỏi chết cóng vào mùa đông. Đó cũng là mục đích của cuộc họp mặt”.
“Chúng tôi mời cả Ukraine, vì muốn mọi chuyện được minh bạch và không muốn thỏa thuận gì với Moscow sau lưng Ukraine.”
Nhưng tổng thống vừa đắc cử ngày 1/12/1991 của Ukraine, Leonid Kravchuk lại muốn dành hoàn toàn độc lập khỏi Liên Xô. Nên ông đến Belarus không phải vì mục đích khí đốt của Belarus:
“Tôi không được thông báo gì trước về dầu lửa và khí đốt. Tôi nghĩ tôi đến đây là để thảo luận về Liên Xô. Đất nước đang bị xâu xé vì những mâu thuẫn, người dân mệt mỏi vì khủng hoảng, xung đột, chiến tranh và phải xếp hàng quá dài. Chúng tôi tập trung về Belarus để thảo luận hướng đi cho đất nước, và có thể ký kết một thỉnh nguyện thư, hoặc một bản tuyên bố để kêu gọi sự chú ý đến cuộc khủng hoảng mà chúng tôi đang phải đương đầu.”
Còn tổng thống Nga, Boris Yeltsin muốn nắm trọn toàn bộ quyền lực. Vì thế, ngày 07/12/1991, Boris Yeltsin, Leonid Kravchuk và Stanislav Shushkevich đã nhóm họp tại Belavezha, thuộc Belarus, gần biên giới Ba Lan.
Sau đây là một vài hồi ức của tổng thống Belarus Stanislav Shushkevich về cuộc gặp lịch sử này.
“Hiển nhiên KGB có thể bắt giữ chúng tôi, theo lệnh của Gorbachev, vì KGB thuộc quyền lãnh đạo của Gorbachev, không phải Yeltsin,” Shuchkevich nói.
“Nhưng lãnh đạo của cơ quan mật vụ Belarus, Eduard Shirkovsky, vẫn giữ liên lạc với cơ quan mật vụ của Boris Yeltsin. Cho đến thời điểm hai tuần trước cuộc họp, ông ta khẳng định với tôi là không có nguy cơ xảy ra chuyện bắt bớ chúng tôi.”
“Như thường lệ, trong lịch trình có tắm hơi. Thường sau khi tắm hơi xong, sẽ có tiệc tùng uống rượu. Nhưng lần này khác, thay vì uống rượu, chúng tôi chọn dịch vụ đấm bóp. Cuộc họp được thực hiện đúng truyền thống của Liên Xô, có nhiều thức ăn, nhiều dịch vụ thư giãn và sau đó là đi săn.”
Ngày hôm sau, 08/12/1991, vào lúc 9 giờ sáng, lãnh đạo các nước cùng các thủ tướng và quan chức cao cấp nhóm họp để cùng thương thảo, dù vẫn chưa rõ sẽ thảo luận về chủ đề gì.
Người đầu tiên khơi mào là cố vấn của Nga, Gennadi Burbulis, với tuyên bố rất cực đoan.Đó cũng là khởi đầu của thỏa thuận của chúng tôi, là thỏa thuận duy nhất mà không hề có tranh cãi: “Liên Xô, một thực thể địa chính trị, cũng như một chủ thể của luật pháp quốc tế, sẽ không còn tồn tại”.
Thỏa thuận cũng đồng thời tuyên bố lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev không còn quyền lực. Thay vào đó tăng thêm quyền lực cho Yeltsin.
“Theo lời đồn đại, chúng tôi đã soạn thảo thỏa thuận trong trạng thái say rượu,” Shushkevich nói. “Điều này hoàn toàn sai! Tất nhiên, đó là một cuộc họp được sắp đặt theo phong cách Liên Xô, và đồ uống cồn thì rất sẵn, nhưng chẳng ai động đến cả. Tối đa, chúng tôi chỉ làm một ngụm brandy, mỗi khi thông qua một điều khoản.”
Trong vòng vài tiếng đồng hồ, chúng tôi đã thông qua 14 điều khoản. Đến 3 giờ chiều, bản thỏa thuận đồng ý hủy bỏ Liên Xô đã sẵn sàng. Bước tiếp theo là công bố với thế giới và lãnh đạo Belarus nhận trách nhiệm này.
“Yeltsin và Kravchuk đùa với tôi: ‘Chúng tôi đề cử anh là người thông báo cho Gorbachev.’ Và sau đó tôi nói: ‘Kravchuk và tôi đề cử anh, Boris Yeltsin, là người sẽ gọi điện cho bạn anh là Tổng thống Hoa Kỳ Goerge Bush.’”
“Tôi quay số của văn phòng Gorbachev ở Moscow, nhưng đường dây được chuyển sang nhiều tổng đài và tôi phải giải thích tôi là ai. Trong khi đó, Yeltsin trong lúc chứng kiến việc tôi gọi cho Moscow đã gọi điện cho Tổng thống Bush. Ngoại trưởng Nga Andrei Kozyrev, ở đầu dây bên kia để dịch lại lời của Tổng thống Bush.”
“Tôi nhớ khá rõ, ông Bush đưa ra hai câu hỏi. Đầu tiên là có phải quốc gia kế vị sẽ là nước chịu trách nhiệm cho toàn bộ Liên Xô? Và câu sau là điều gì sẽ xảy ra với vũ khí hạt nhân của Liên Xô?” Kravchuk nói.
“Chúng tôi không thể thì ông Yeltsin nói, “Đúng, chúng tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm.’”
Tới lúc đó thì Shushkevich cũng liên lạc được Gorbachev, và một lần nữa, lãnh đạo Ukraine là người cùng nghe.
“Đó là cuộc đàm thoại rất khó khăn,” Kravchuk nói. “Gorbachev giận dữ với Shushkevich, nói, “Các anh đã làm gì vậy? Các anh đã đảo lộn cả thế giới! Mọi người đều đang hoang mang!’ Nhưng Shushkevich vẫn giữ sự trầm tĩnh.”
“Tôi giải thích với Gorbachev về bản thỏa thuận mà chúng tôi sẽ ký. Ông ta phản ứng với thái độ kẻ cả, ‘Thế còn cộng đồng quốc tế thì sao? Các anh có nghĩ đến sự phản ứng của họ không? Và tôi trả lời, ‘Thật sự thì Boris Yeltsin đang nói chuyện với Tổng thống Bush lúc này, và ông Bush không có gì là quan ngại! Trên thực tế, ông ta còn ủng hộ!”
Ngày 8/12/1991 đi vào lịch sử với tuyên bố thành lập “Cộng đồng các quốc gia độc lập” với 3 thành viên sáng lập là Nga, Ukraine và Belarus, đồng thời cũng là ngày cáo chung Cộng hòa Liên bang Xã hội Chủ nghĩa Xô viết.
17 ngày sau (25/12/1991), tổng thống Nga Boris Yeltsin ký hủy bỏ Hiến pháp Liên bang Xô viết trước mặt Mikhail Gorbachev. Gorbachev từ chức và Liên Xô không còn tồn tại.
(Phần này theo nguồn của: Bộ ba những nhà lãnh đạo khai tử Liên Xô Dina Newman BBC Thế giới vụ: bbc.com/vietnamese/38428251)
HỆ QUẢ VẤN ĐỀ HẠT NHÂN CỦA UKRAINE SAU KHI LIÊN XÔ TAN RÃ
Vấn đề quan tâm bậc nhất của tổng thống Mỹ Goerge Bush trong điện đàm với Boris Yeltsin khi tuyên bố hủy bỏ Liên Xô chính là lực lượng vũ khí hạt nhân.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Ukraine trở thành cường quốc hạt nhân số 3 thế giới bao gồm 1.700 đầu đạn hạt nhân, 176 tên lửa liên lục địa và 44 máy bay ném bom chiến lược. Lực lượng hạt nhân của Ukraine nhiều hơn lực lượng hạt nhân của 3 cường quốc là Trung Quốc, Anh và Pháp cộng lại. Ukraine còn có một lực lượng quân đội với 780 000 lính, đứng thứ 2 ở châu Âu sau Nga.
Nhưng vì khó khăn về kinh tế, dưới sức ép của Mỹ và Nga, tổng thống Ukraine Leonid Kravchuk đã phải từ bỏ vũ khí hạt nhân.
Tháng 5 năm 1992, Ukraina ký Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược (START) theo đó Ukraine đồng ý trao mọi vũ khí hạt nhân cho Nga và gia nhập Hiệp ước Không phổ phổ biến Vũ khí Hạt nhân. Đổi lại, Ukraine, Nga, Hoa Kỳ và Anh đã ký Bản ghi nhớ Budapest, năm 1994 là một thỏa thuận quốc tế về bảo đảm an ninh cho Ukraine sau khi Ukraine từ bỏ vũ khí hạt nhân. Ukraina phê chuẩn hiệp ước năm 1994, và tới năm 1996 Ukraine không còn sở hữu vũ khí hạt nhân nữa.
Năm 2014 tổng thống Nga Putin tiến quân vào Crimea bất chấp thỏa thuận Budapest năm 1994 về đảm bảo an ninh cho Ukraine. Một số nghị sĩ Ukraine đã đề nghị tái trang bị vũ khí hạt nhân cho Ukraine.
Cựu tổng thống Leonid Kravchuk hiện còn sống. Sau khi tổng thống Nga Putin đưa quân vào Crimea Ông sẽ nghĩ gì về quyết định giải giáp vũ khí hạt nhân năm 1994? Ông nghĩ gì về một Bắc Triều Tiên chỉ với mấy đầu đạn hạt nhân đã làm cho bao nước điên đầu?; Một Israel nhỏ bé sở hữu vũ khí hạt nhân làm khuynh đảo Trung đông?; Một Ấn độ, một Pakistan đua nhau phát triển vũ khí hạt nhân?; Một Trung Quốc đang gấp rút tăng cường kho vũ khí hạt nhân để dành quyền thống trị thế giới?
CÓ NƯỚC NÀO CÒN KỶ NIỆM CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI KHÔNG?
1. Sau khi Liên Xô tan rã (25/12/1991), nước Nga qua các đế chế quyền lực Yeltsin, Putin, Medvedev, Putin đã không kỷ niệm Cách mạng tháng Mười nữa.
Duyệt binh ngày 7/11 hàng năm là nhớ lại cuộc duyệt binh lịch sử ngày 7/11/1941. Khi đó quân đội Đức đang cách Matxcova 30 km. 28000 chiến sỹ đã đi thẳng ra mặt trận ngay sau khi kết thúc duyệt binh. Đừng hiểu nhầm duyệt binh ngày 7/11 hiện nay ở Nga là kỷ niệm Cách mạng tháng Mười.
2. Ngoại trừ Việt Nam, hiện nay trên thế giới không có nước nào kỷ niệm Cách mạng tháng Mười. Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba đều không nhắc đến Cách mạng tháng Mười vào ngày 7/11.
Lương Tổng thống Trump chỉ có 1 đô la/năm mà bị phạt mất 2 triệu đô la.
Tổng thống Trump đã công nhận sai lầm và chấp nhận thương lượng bồi thường 2 triệu đô la để chấm dứt vụ kiện nhắm vào chính đương kim tổng thống.
Trong khi đó, sau gần 4 năm làm tổng thống, gia tài của ông đã sụt giảm hơn 5 tỷ đô la.
Nếu làm vua nước cộng sản Thì thách đố thằng cộng sản con nào dám kiện ông.
Làm vua nước dân chủ thì cực khổ như thế đó. Theo The Daily News, ông Trump chỉ ngủ khoảng 3-4 giờ mỗi tối – thói quen được ông mô tả là một bí quyết thành công. Thậm chí TT Trump ăn uống đơn giản, ông không hề uống rượu hay thuốc lá. (Ảnh 2&3)
*
Tổng thống Mỹ bị phạt 2 triệu đô la
Mai Vân, RFI
Ảnh 1: Donald Trump trong buổi trao ngân phiếu cho quỹ từ thiện của ông, ở Davenport, Iowa, Hoa Kỳ, ngày 30/01/2016. REUTERS/Rick Wilking
Tòa án New York ngày 07/11/2019 phạt tổng thống Mỹ 2 triệu đô la tiền bồi thường thiệt hại cho một số hội từ thiện. Quyết định này đưa ra trong khuôn khổ một thỏa thuận mà tổng thống Trump đã thương lượng để chấm dứt một vụ kiện nhắm vào ông.
Ông Trump tổ chức một dạ hội từ thiện ở bang Iowa, nhưng đã sử dụng tiền quyên góp này cho cuộc vận động tranh cử của ông. Hội từ thiện của ông đã bị giải tán vào tháng 12/2018, ngay sau khi vụ kiện được tiến hành.
Thông tín viên RFI, Anne Corpet, giải thích :
“Donald Trump đã nhiều lần khẳng định là không nhượng bộ trong hồ sơ này, nhưng cuối cùng thì ông đã quyết định thương lượng hơn là để bị xét xử. Theo từ ngữ của thỏa thuận, tổng thống đã công nhận sai lầm, một lời thú nhận rất hiếm hoi đối với ông.
Tháng Giêng 2016, vài ngày trước cuộc bầu cử sơ bộ ở bang Iowa, hiệp hội từ thiện của ông Trump đã tổ chức một dạ hội từ thiện tại đây và thu được 2,8 triệu đô la. Nhưng sự kiện này lại do ê kíp vận động tranh cử của ông Trump tổ chức, và tiền thu được chỉ trung chuyển qua hiệp hội từ thiện của ông mà thôi.
Tổng thống Mỹ cũng công nhận là đã sử dụng hiệp hội từ thiện cho các công ty tư của ông. Hiệp hội đã mua một bức chân dung của Donald Trump với giá 10.000 đô la và sau đó trưng bày trong một khách sạn của ông ở Florida.
Đối với Công tố viên ở New York, « Hiệp hội từ thiện của Donald Trump thật ra chỉ là “một tập ngân phiếu” nhằm phục vụ quyền lợi chính trị và tài chính của tổng thống ».
Hai triệu đô la tiền phạt mà tổng thống sẽ chi ra, sẽ được rót vào 8 tổ chức từ thiện, và ông Trump đã cam kết không tái phạm.”
Trong một tin nhắn Twitter vào tối hôm qua, tổng thống Mỹ đã bác bỏ cách mà vị công tố viên New York trình bày thỏa thuận mà ông đã ký. Ông tố cáo vị công tố là đã « bóp méo sự kiện vì mục tiêu chính trị ». Tổng thống Trump đồng thời khẳng định là đã phải chịu « 4 năm truy bức của tư pháp New York ».
Tổng thống Donal Trump nói gì về Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhân ngày lễ Tưởng Nhớ Ngài ???
Nhân ngày lễ nhớ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, xin kính mời quý vị nghe những gì Tổng Thống Mỹ Donald Trump nói về Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II.
”Có ông trùm đẫn thiếu nữ tuổi teen đến cho lái xe nam, bảo ‘đem đi dùng bao lâu cũng được’ rồi làm việc đưa người cho đường dây.”
*
BBC – Hà Lan điều tra băng đảng Ireland thứ hai đưa lậu người Việt – 3 tháng 11 2019
Trong lúc có thêm tin về vụ 39 công dân Việt Nam chết trong xe tải ở Essex, Anh Quốc, nhà chức trách Hà Lan đã mở lại cuộc điều tra một băng đảng Ireland thứ hai, bị nghi chuyển người Việt vào Anh.
Hôm 6 tháng 8 năm nay, một lái xe tải người Ireland đã bị bắt ở Hook, Hà Lan với 29 người Việt Nam trên thùng xe.
Cảnh sát Hà Lan cho hay 29 người đó đều trên đường di cư bất hợp pháp nhưng người lái xe, ở tuổi ngoài 20, chỉ bị tạm giữ rồi thả.
Cuộc điều tra tạm ngưng hồi tháng 8 nay được mở lại với nghi vấn nhóm Ireland này cũng đưa người từ Bỉ sang đảo Ireland.
Theo trang The Irish Sun (03/11/2019), công tố viên Hà Lan đang xem xét việc có ra lệnh truy nã châu Âu với lái xe người Ireland kia hay là không.
Họ nghi ngờ rằng đây cũng là một đường dây buôn lậu người khác nữa từ lục địa châu Âu sang các đảo Anh và Ireland.
Một lái xe khác bị giữ hồi tháng 7 tại Bỉ với 20 người nhập cư lậu trốn trên thùng xe.
Trang Irish Sun trong một bài khác cùng ngày 03/11 cũng mô tả các ông trùm băng đảng tuyển dụng, dụ dỗ và cưỡng bức các lái xe trẻ tham gia đường dây buôn người.
Cùng các chuyến xe qua phà là “hành khách” tức di dân lậu vào Anh, với tiền công cho lái xe 500-3000 bảng một đầu người, tuỳ quãng đường.
Có khi lái xe không hề biết thùng xe có di dân lậu vì ông trùm đã bố trí những thời điểm khác nhau để lái xe vắng mặt, như vào quán cà phê bên đường, tạo cơ hội cho người di dân chui lên xe.
Nhưng đó là những trường hợp đưa người nhỏ lẻ.
Còn để vận chuyển hàng chục người, lái xe phải hợp tác kỹ với băng đảng và đôi khi họ làm vậy do bị mua chuộc bằng tiền, ma tuý và tình dục.
Có ông trùm đẫn thiếu nữ tuổi teen đến cho lái xe nam, bảo “đem đi dùng bao lâu cũng được” rồi làm việc đưa người cho đường dây.
Một lái xe cao niên hơn, dân Ireland, nói ông đã bị băng đảng tiếp xúc hàng chục lần những năm qua với đề nghị tham gia đường dây buôn người.
Các báo Ireland không nói 29 người Việt bị giữ trong vụ hồi tháng 8 ở Hà Lan nay ở đâu.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của BBC, các khu lán trại ở gần Lille, Pháp, và những cộng đồng nhập cư ở Paris, hiện là nơi tạm trú và điểm chờ xe hàng cho không ít người Việt tìm cách sang Anh.
Được biết dù một số gia đình ở Việt Nam đã nhận tin từ Anh rằng con em họ có trong số 39 người chết ở Grays, Essex, công tác xác định danh tính toàn bộ các tử thi vẫn tiếp tục.
Theo BBC nội địa, người chủ trì hoạt động này là bà Caroline Beasley-Murray, Pháp y viên Hoàng gia cao cấp (HM Senior Coroner) của hạt Essex.
Vì vụ việc liên quan đến vùng chủ quyền pháp lý (jurisdiction) của hơn một quốc gia, công tác này sẽ kéo dài hơn thường lệ.
Người đàn ông đeo kính ngồi ở giữa trong ảnh là Sauli Niinisto – tổng thống Phần Lan.
Hôm 6-10 vừa rồi, ông đến hội chợ sách ở thành phố Turku. Ông đến một mình, không thấy vệ sĩ, để nghe một cuộc nói chuyện về bình đẳng tổ chức tại hội sách.
Vào đến nơi hơi trễ, toàn bộ ghế ngồi không còn, ông ngồi bệt xuống bậc tam cấp lối đi giữa mọi người, tay cầm sách và nghe.
Không ai để ý ông cả. Đến khi bức ảnh này lên mạng thì mọi người mới biết. Còn thêm tấm ảnh khác nữa: ông đi mua sách như mọi người, mua một chồng sách ôm không xuể. Nhiều người bình luận hình ảnh này chỉ có ở Phần Lan.
Phần Lan cũng là quốc gia phát triển bậc nhất dựa trên nền tảng văn hóa, văn hóa đi trước, kinh tế theo sau.
Phần Lan một quốc gia bị tàn phá nặng nề sau thế chiến thứ 2, phải nhận trợ cấp của Unicef, không sở hữu nguồn tài nguyên phong phú nào ngoài gỗ, quặng đồng và thủy điện, Phần Lan đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Nước này giàu vì GDP đầu người lên tới hơn 45.000 USD (2017), tuổi thọ trung bình cao, (78 tuổi với nam giới và 84 tuổi với nữ giới), tỷ lệ tham nhũng thấp nhất thế giới, phúc lợi xã hội tốt, hệ thống cảnh sát và ngân hàng đáng tin cậy bậc nhất. Nước này có 4 đảng phái, nhưng các đảng phái này không cạnh tranh loại trừ lẫn nhau mà cùng thành lập ra các liên minh để thảo luận về mọi chính sách trong xã hội.
Người Phần Lan có niềm tin “với tất cả thành viên trong xã hội, tin tưởng hàng xóm, tin tưởng những người hoạch định chính sách, tin tưởng Chính phủ”, đồng thời “đóng thuế vào ngân sách trên tinh thần tự nguyện và vui vẻ”.
Ilkka Taipale, một giáo sư Phần Lan đã cùng cộng sự làm thí nghiệm vứt 100 ví tiền trên phố thì tới 95% số đó được người dân nộp cho sở cảnh sát. Hay theo một cuộc thử nghiệm về tính trung thực toàn cầu, cứ 12 chiếc ví bị cố tình bỏ quên ở thủ đô Helsinki thì có 11 chiếc được trả lại cho chủ nhân.
Từ một nước kém phát triển, bị chiến tranh tàn phá, Phần Lan vươn lên giàu có bậc nhất thế giới, để lại bài học cho mọi quốc gia: Không quốc gia nào mãi mãi nghèo.