Tài sản của Bashar al-Assad, ‘tên trộm thành Damascus:’ 20 tấn vàng, $16 tỷ và 5 tỷ euro

Ba’o Nguoi-Viet

December 19, 2024

Trúc Phương/Người Việt

Hình ảnh những cuộc “hôi của” tại dinh tổng thống của ông Bashar al-Assad sau khi ông trốn chạy sang Moscow, Nga, khiến người dân Syria thật sự sốc, khi lần đầu tiên chứng kiến nguồn tài sản khổng lồ của cựu tổng thống Syria.

Ông Bashar al-Assad (trái), cựu tổng thống Syria, đang được chế độ độc tài Vladimir Putin, tổng thống Nga, chứa chấp. (Hình: Louai Beshara/AFP via Getty Images)

Trong nhiều thập niên, ông Bashar al-Assad và gia đình luôn xây dựng hình ảnh là nhà lãnh đạo “khắc khổ,” không phô trương lối sống xa hoa như ông Muammar Gaddafi (Libya) hay ông Saddam Hussein (Iraq). Tuy nhiên, một bức tranh hoàn toàn khác về ông Bashar al-Assad đã lộ ra.

Tài sản chìm nổi

Suốt gần 25 năm cai trị Syria bằng bàn tay sắt, ông Bashar al-Assad và gia đình ông “sống, theo một cách nào đó, một cuộc sống bình thường trước mặt mọi người,” theo lời doanh nhân nghỉ hưu Ammar Mahayni, người ở gần dinh thự gia đình Assad tại Damascus trong nhiều thập niên, theo The Washington Post.

“Con cái ông ấy học những trường bình thường” cùng với những cư dân Damascus bình thường, thay vì học tại trường tư cao cấp hoặc trường nội trú nước ngoài. Thành viên gia đình Bashar al-Assad sử dụng những chiếc xe bình thường và mặc “quần jean và áo thun” đơn giản khi ra ngoài chốn công cộng. “Chị gái tôi thường thấy con gái ông ấy ngồi với bạn bè tán gẫu trong một hồ bơi câu lạc bộ,” ông Ammar Mahayni nói thêm.

Tuy nhiên, khi ông Bashar al-Assad trốn chạy, người dân mới phát hiện dinh thự của ông toàn đồ cao cấp, từ những bức tường dát vàng, hàng đống hàng hiệu Louis Vuitton, Hermes, Cartier đến những chiếc xe siêu sang Lamborghini, Aston Martin, Cadillac, Ferrari… Trong garage, người ta thấy một chiếc Lexus màu đen bóng cáu cạnh đậu gần một chiếc Ferrari F50 màu đỏ có giá tới 1.5 triệu bảng Anh.

Tờ Elav của Saudi Arabia, dẫn từ nguồn tình báo Anh (MI6), cho biết tài sản gia đình Assad gồm 200 tấn vàng, $16 tỷ và 5 tỷ euro – tương đương toàn bộ ngân sách quốc gia Syria. Một phúc trình năm 2022 của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ước tính tài sản gia đình Bashar al-Assad nằm trong khoảng $1 tỷ đến $2 tỷ. Nguồn tài sản của họ có được từ những hoạt động kinh doanh và đầu tư hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Họ dính vào buôn lậu, buôn bán vũ khí và cả ma túy. Tiền thu từ những hoạt động bất hợp pháp được chuyển qua các công ty và tổ chức phi lợi nhuận.

Tờ Daily Mail cho biết, đại gia đình Bashar al-Assad, tính cả “bà con nội ngoại hai bên” và “anh em dâu rể,” đã mua ít nhất 20 căn chung cư ở Moscow trị giá hơn 30 triệu bảng Anh, chưa kể những ngôi nhà xa hoa ở Dubai, United Arab Emirates, và nhiều tài khoản bí mật ở Lebanon.

Năm 2012, Wikileaks tiết lộ, Đệ Nhất Phu Nhân Asma al-Assad (một cựu nhân viên ngân hàng tại JPMorgan) từng chi $350,000 để mua đồ nội thất cho dinh tổng thống và $7,000 cho một đôi giày nạm pha lê.

Chế độ gia đình trị và nền chính trị thân hữu

Sự giàu có của gia tộc Assad liên tục tăng trong khi người dân Syria phải vật lộn với tác động của cuộc nội chiến bùng nổ vào năm 2011. Năm 2022, Ngân Hàng Thế Giới cho biết gần 70% dân số Syria sống trong nghèo đói. GDP của Syria chỉ đạt vỏn vẹn $9 tỷ vào năm 2021. Và theo Liên Hiệp Quốc, khoảng 3/4 người dân Syria cần được hỗ trợ nhân đạo và hơn một nửa phải vật lộn mới có đủ thức ăn.

Tài sản gia đình Assad được giấu khéo léo trong nhiều công ty và quỹ tín thác. Mỹ và Tây phương đã chú ý nguồn tiền phi pháp của chính quyền Bashar al-Assad trong nhiều năm. Anh đã đóng băng hàng triệu đô la của ông Bashar al-Assad.

Tháng Tư, 2017, cảnh sát Tây Ban Nha tịch thu $740 triệu từ một trong những người chú của ông Bashar al-Assad. Trong cùng năm, chính phủ Anh đóng băng hơn $124 triệu nguồn tài sản liên quan ông Bashar al-Assad. Thụy Sĩ cũng đóng băng 50 triệu franc Thụy Sĩ nguồn tài sản dính dáng cá nhân ông Bashar al-Assad lẫn 127 quan chức Syria và 40 công ty liên quan, theo tờ Finance-Monthly.com.

Gia đình Assad bắt đầu làm giàu bằng việc xây dựng một mạng lưới đầu tư và kinh doanh rộng lớn trong nhiều thập niên kể từ khi “tộc trưởng” Hafez al-Assad lên nắm quyền tổng thống vào năm 1970. Tờ Wall Street Journal cho biết, Tổng Thống Hafez giao cho anh rể Mohammad Makhlouf, thời điểm đó là một nhân viên hàng không, phụ trách độc quyền nhập khẩu thuốc lá. Ông Makhlouf sau đó phụ trách thêm lĩnh vực xây dựng.

Cuộc nội chiến Syria bùng nổ năm 2011 tiếp tục mở ra cơ hội làm giàu cho gia tộc Assad. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, em trai của ông Bashar al-Assad – Maher, chỉ huy trưởng Sư Đoàn Thiết Giáp Số 4 của Syria – đã dùng quân đội để buôn lậu chất ma túy captagon đến các nước Trung Đông. Theo Tổ Chức Quan Sát Các Mạng Lưới Chính Trị và Kinh Tế (Observatory of Political and Economic Networks), tiền thu được từ việc kinh doanh captagon đã giúp chế độ Bashar al-Assad sống khỏe ngay cả trong thời điểm Syria chịu nhiều lệnh trừng phạt kinh tế của phương Tây. Nhờ buôn lậu captagon, ông Bashar al-Assad kiếm được trung bình hằng năm khoảng $2.4 tỷ từ năm 2020 đến năm 2022.

Gia tộc Makhlouf

Đáng chú ý nhất vẫn là gia tộc Makhlouf – từng một thời là cánh tay phải của gia đình Assad. Ông Mohammad Makhlouf – anh rể của cha ông Bashar al-Assad – từ lâu được xem gia đình giàu có nhất nhì Syria.

Năm 2018, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Phòng Tiên Tiến (Center for Advanced Defense Studies, Washington DC) cho biết, gia đình Makhlouf đã mua hàng loạt bất động sản ở Dubai trị giá khoảng $3.9 triệu, chưa kể các khách sạn hạng sang trị giá 20 triệu euro ở Vienna, Áo, và một nhượng quyền thương mại quán bar cao cấp Buddha Bar.

Theo cuộc điều tra năm 2019 của nhóm chống tham nhũng Global Witness, thành viên gia đình Makhlouf cũng sở hữu khối bất động sản trị giá khoảng $40 triệu ở Moscow.

Khi ông Bashar al-Assad kế nhiệm ghế tổng thống vào năm 2000, ông Mohammad Makhlouf trao lại đế chế kinh doanh cho con trai Rami. Những năm sau đó, ông Rami Makhlouf đã giúp ông Bashar al-Assad tích cóp khi “thầu” lĩnh vực ngân hàng, truyền thông, cửa hàng miễn thuế, các hãng hàng không và viễn thông, với tổng giá trị lên tới $10 tỷ – theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Năm 2008, chính phủ Mỹ đã trừng phạt ông Rami Makhlouf vì tội trục lợi và tiếp tay cho tham nhũng ở Syria.

Năm 2020, quan hệ giữa ông Bashar al-Assad và gia đình Rami Makhlouf trở nên căng thẳng. Ông Bashar al-Assad công khai gạt ông Rami Makhlouf ra ngoài lề và bắt đầu kiểm soát tất cả. Ông Rami Makhlouf bị quản thúc tại gia. Nhiều hoạt động làm ăn của ông Rami bị nhà nước Syria quản lý.

Có thể sự phô trương của các thành viên gia đình Rami Makhlouf là một trong những lý do khiến ông Rami bị thất sủng. Hai con trai của ông Rami thường xuyên khoe khoang lối sống sang chảnh trên mạng xã hội, từ việc đàn đúm tại các hộp đêm sang trọng ở Dubai đến hình ảnh phóng xe Ferrari, từ việc vung vẩy chai champagne đến hình ảnh phanh áo ngực trong các phòng tập thể dục cao cấp ở Dubai. Cậu con trai Mohammad của ông Rami từng khoe xài đến $43 triệu chỉ để “độ” lại chiếc máy bay riêng cũng như “đập ra sửa lại” hai phòng khách và một phòng tắm.

Sau khi ông Rami Makhlouf bị tống cổ, Đệ Nhất Phu Nhân Asma al-Assad trực tiếp giám sát khối tài sản khổng lồ của ông Rami bên trong Syria, trong đó có việc kiểm soát một công ty viễn thông lớn. Nhiều người tin rằng việc ông Rami bị hất cẳng là xuất phát từ mâu thuẫn giữa ông với ông Asma al-Assad. Trong những năm tháng quyền lực của chồng, bà Asma al-Assad có ảnh hưởng rất lớn, đứng sau nhiều quyết định liên quan trợ cấp lương thực và nhiên liệu.

Cần nhắc lại, năm 2011, tạp chí thời trang Vogue đăng bài báo có tựa “Asma al-Assad: A Rose in the Desert” (sau đó bị gỡ xuống và xóa khỏi Internet), với nội dung ca ngợi “bản chất giản dị” của gia đình Assad. “Phong cách của bà (Asma) không phải là sự hào nhoáng của thời trang cao cấp và sự hào nhoáng của quyền lực Trung Đông mà là lối sống giản dị,” bài báo viết.

Không lâu sau đó, tờ The Hill (trong bài viết ngày 3 Tháng Tám, 2011) tiết lộ rằng chính phủ Syria đã thuê công ty quan hệ công chúng Brown Lloyd James của Mỹ để móc nối tạp chí Vogue viết bài ca ngợi bà Asma al-Assad. Theo The Hill, Brown Lloyd James ký hợp đồng $5,000 một tháng với Tổng Thống Bashar al-Assad vào Tháng Mười Một, 2010, để thực hiện bài viết đánh bóng bà Asma.

Truy tìm nguồn tài sản của Bashar al-Assad

Vấn đề đang được quan tâm bây giờ là truy lùng nguồn tài sản bất chính của ông Bashar al-Assad. Ông Toby Cadman, luật sư nhân quyền thuộc tổ chức “Guernica 37 International Justice Chambers” có trụ sở tại London, Anh, cho biết việc tìm kiếm và đóng băng toàn bộ nguồn tài sản rải rác khắp nơi của chế độ Bashar al-Assad là rất khó. Các cuộc điều tra truy tìm hàng tỷ đô la của ông Saddam Hussein và ông Muammar Gaddafi mất nhiều năm vẫn không thành công. Trong $54 tỷ tài sản ước tính do chế độ Libya trước đây tích lũy, rất ít tài sản được thu hồi, trừ một bất động sản $12 triệu ở London và $100 triệu tiền mặt ở Malta.

Tương tự nguồn Elav của Saudi Arabia, cổng thông tin tài chính Bizportal của Israel cũng viết rằng gia đình Assad tích lũy được khối tài sản trị giá $34 tỷ, trong đó có 200 tấn vàng, $16 tỷ tiền mặt và 5 tỷ euro. Bất luận là $2 tỷ (như ước tính của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ) hay $34 tỷ, sự thật vẫn là chế độ Bashar al-Assad đã hút máu người dân đến cạn kiệt, không chỉ đẩy đất nước vào cảnh chiến tranh tương tàn mà còn biến hàng triệu người dân sống trong cảnh bần cùng đói khổ.

Ông Bashar al-Assad thật sự là một tội phạm chiến tranh. Và kẻ ấy đang được chế độ độc tài Vladimir Putin, tổng thống Nga, chứa chấp. [qd]


 

Làm thế nào để Trump kết thúc chiến tranh ở Ukraine

Ba’o Tieng Dan

17/12/2024

Foreign Affairs

Tác giả: Michael McFau

Trần Gia Huấn, chuyển ngữ

12-12-2024

Tóm tắt: Thuyết phục Kyiv đổi lãnh thổ lấy tư cách thành viên NATO

Một người lính Ukraine đang điều khiển pháo xạ gần Chasiv Yar, Ukraine, tháng 11 năm 2024. Nguồn: Oleg Petrasiuk/ Lực lượng vũ trang Ukraine/ Reuters

Khi vận động tranh cử, Trump hứa, nếu đắc cử, Trump sẽ kết thúc chiến tranh Ukraine trong một ngày. Lời cam kết lạc quan này đã trở thành điệp khúc quen thuộc mỗi ngày. Trump là người duy nhất có thể buộc cả Nga và Ukraine phải đình chiến để đàm phán. Việc Trump trở lại Nhà Trắng đã dấy lên lời đồn đoán về một thỏa thuận hòa bình.

Chiến tranh thường kết thúc bằng hai cách: Một bên chiến thắng, hoặc cả hai cùng rơi vào thế bế tắc. Thực tế, cả Ukraine và Nga còn xa mới đến đích chiến thắng, và chưa bế tắc. Riêng Putin thì cho rằng ông đang chiến thắng. Nếu Trump càng dọa cắt viện trợ cho Ukraine, thì Putin càng táo tợn. Không có chuyện Putin ngừng tấn công, khi đối thủ đang rơi vào thế yếu. Nếu Putin cảm thấy Trump và ban lãnh đạo mới ve vuốt, hòa dịu thì Putin sẽ hung hăng lên nhiều.

Bài học mà Trump đã từng thương lượng với Taliban ở nhiệm kỳ 1.0 sẽ giúp Trump biết cách đối phó với Putin. Trump và Taliban đã thỏa thuận những điều khoản có lợi cho Taliban. Chính quyền Biden phải tôn trọng những điều khoản đã ký, gồm lệnh đình chiến, mốc thời gian rút quân, và thành lập chính phủ nhiều thành phần. Taliban không thực hiện lời cam kết, sử dụng lệnh đình chiến như một trạm dừng để giành chiến thắng. Hòa dịu với Taliban không tạo ra hòa bình. Hòa dịu với Putin càng không tạo ra hòa bình. Thay vì cho Putin tất cả những gì Putin muốn để Trump trở thành người đàm phán tài ba, Trump nên nghĩ đến một kế hoạch khuyến khích Ukraine nhường lại phần lãnh thổ mà Nga đang chiếm đóng đổi lấy nền an ninh vững chắc là thành viên NATO. Chỉ có thỏa hiệp này mới mang lại hòa bình lâu dài cho Ukraine.

Con át chủ bài trong tay Trump

Trong những lời hùng biện khi tranh cử, Trump cho rằng sự giúp đỡ Ukraine là vung phí, là kéo dài chiến tranh. Nhưng, nếu cắt viện trợ cho Ukraine bây giờ cũng không mang lại hòa bình. Ngược lại, còn thúc đẩy Putin mở rộng chiến tranh. Để tiến tới một thỏa thuận hòa bình, Trump nên cung cấp viện trợ quân sự đã phê duyệt, và báo hiệu sẽ cung cấp thêm vũ khí tấn công để ngăn đà tiến của Nga, đưa cuộc chiến vào thế bế tắc. Putin chỉ đàm phán khi quân Nga không thể chiếm thêm lãnh thổ, hoặc tốt hơn nữa là Nga bắt đầu thua. Putin chỉ nghiêm túc khi biết Mỹ không bỏ rơi Ukraine.

Trump phải thuyết phục Zelensky ngừng chiến đấu. Đây là một việc khó khăn. Bởi vì, không một tổng thống nào dám từ bỏ lãnh thổ. Từ bỏ đất đai đồng nghĩa với từ bỏ đồng bào. Không một lãnh đạo dân cử nào dám làm điều này. Trong cuộc thăm dò vào mùa thu năm nay, 88% dân Ukraine tin rằng họ sẽ thắng. Nhiều quân nhân Ukraine đang chiến đấu để trả thù cho đồng đội đã hy sinh, sẽ rất khó để hạ vũ khí.

Zelensky và người Ukraine không hy sinh quả cảm, nếu không nhận được thứ gì đó đáng giá như tư cách thành viên NATO. Việc trở thành thành viên NATO ngay lập tức sẽ giúp bù đắp lại những nhượng bộ đầy cay đắng khi cho phép 25% lãnh thổ nằm dưới sự chiếm đóng của Nga. Đây là con bài duy nhất mà Trump có thể chơi để thuyết phục người Ukraine ngừng chiến đấu.

Ukraine thuộc NATO là con đường duy nhất để bảo đảm hòa bình lâu dài cho Ukraine. Đây là bài học phải áp dụng cho bất cứ nơi nào. Bản Đồng thuận Budapest – 1994 giữa Nga, Mỹ, Vương quốc Anh, và Ukraine đã trở thành giấy lộn. Anh và Mỹ không thực hiện cam kết bảo đảm an ninh cho Ukraine, đổi lấy việc Ukraine nhường lại kho vũ khí nguyên tử cho Nga. Người Ukraine thừa hiểu Nga không bao giờ dám đụng đến NATO, nhưng đã xâm lược Georgia năm 2008, xâm lược Ukraine năm 2014, năm 2022, và đang chiếm đóng một phần Moldova.

Người Ukraine đã chứng kiến Nga ký kết, cam kết, thỏa thuận, hiệp ước… nhưng vất bỏ ngay sau đó. Những mảnh giấy có chữ ký chẳng có ý nghĩa gì để ngăn cản những cuộc xâm lăng triền miên của Nga. Người Ukraine có lý. Họ hiểu rằng lệnh ngừng bắn, nhưng không là thành viên NATO, chỉ giúp Nga câu giờ, thêm thời gian tổ chức lại nền công nghiệp quân sự, chuẩn bị cho một cuộc xâm lăng khác. Chính xác những gì đã xảy ra giữa 2014 đến 2022. Nếu người Ukraine chấp nhận sự chiếm đóng lâu dài của Nga trên ¼ lãnh thổ, thì họ cũng nên nhận được bảo đảm tin tưởng của NATO.

Thời điểm NATO kết nạp Ukraine có ý nghĩa lớn. NATO nên đưa ra lời mời chính thức vào thời điểm Zelensky và Putin tuyên bố ngừng chiến. Sau lời mời, các nước thành viên NATO phải phê chuẩn nhanh chóng. Trump phải đích thân lên tiếng để các thành viên khác không kéo dài quá trình phê chuẩn. Trump đang nắm trong tay vốn liếng chính trị lớn với thủ tướng Viktor Orban và Robert Fico. Trump nên sử dụng đòn bẩy này để kết thúc cuộc chiến đẫm máu ở Ukraine.

Một ngày chiến thắng cho tất cả 

Có ý kiến cho rằng, Putin không bao giờ chấp nhận Ukraine gia nhập NATO. Thế nhưng, việc Ukraine trở thành thành viên NATO không cần phải xin phép Putin, và Putin không có vai vế gì trong việc đàm phán giữa Ukraine và NATO. Cho phép Putin can thiệp vào lộ trình này sẽ bộc lộ sự yếu kém của Mỹ không những với Moscow mà còn cả với Bắc Kinh.

Nhiều người đánh giá quá cao mối quan ngại của Putin về việc Ukraine nhập NATO. Putin xâm lược Ukraine không phải vì lý do mở rộng NATO. Trước 2022, không ai bàn tới tư cách thành viên NATO của Ukraine. Từ Brussels tới Moscow, từ Kyiv tới Washington đều hiểu rõ điều này. Putin xâm lược Ukraine với một mục đích lôi kéo người Ukraine vào Nga để thống nhất nòi giống Slav, và phá hoại nền dân chủ Ukraine hướng về phương Tây. Putin không hề khó chịu khi Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO vào năm 2023 và 2024. Mặc dù, Phần Lan có chung đường biên giới dài 1400 Km với Nga. Chính Putin đã đẩy Ukraine về phía NATO, chứ NATO không lôi kéo Ukraine.

Hiển nhiên, Nga khăng khăng rằng Ukraine nhập NATO là đe dọa an ninh Nga. Trump có thể giải thích với Putin rằng tư cách thành viên NATO của Ukraine sẽ khóa tay Ukraine. Zelensky không chấp nhận việc mất lãnh thổ, nhưng một trong những điều kiện để Kyiv được nhập NATO là phải tìm kiếm sự thống nhất lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình. Tây Đức và Nam Hàn đã đồng ý những điều khoản tương tự để đổi lấy những hiệp ước quốc phòng với NATO và Mỹ. Một trong những điều kiện gia nhập NATO là Zelensky phải rút quân khỏi Kursk. NATO là một liên minh phòng thủ. NATO chưa bao giờ tấn công Liên Xô hoặc Nga. Putin hiểu rõ chuyện này.

Thời điểm thích hợp nhất để kết thúc chiến tranh là ngày Ukraine gia nhập NATO. Đó cũng là ngày huy hoàng nhất trong sự nghiệp của Putin. Putin có thể tuyên bố với người Nga và toàn thế giới rằng: Ông đã thành công, đã chiến thắng. Putin sẽ cho duyệt binh trên Quảng trường Đỏ. Bên ông là những nhà lãnh đạo Trung Quốc, Iran, Bắc Triều Tiên, đứng cạnh lăng Lenin. Putin sẽ có một vị trí xứng đáng trong sách giáo khoa lịch sử Nga, ngang hàng với Peter Đại đế, Catherine Đại đế, Nguyên soái Stalin vĩ đại. Putin trở thành một trong những người mở rộng bờ cõi cho đế chế Nga. Putin tuyên bố chiến thắng, và sẽ không phá hỏng bữa tiệc chiến thắng của mình bằng một cuộc xâm lược khác, sẽ không đe dọa hay ngăn cản tư cách thành viên NATO của Ukraine.

Vài chính khách ở Đức và Hung, thường bày tỏ lo lắng: Ukraine gia nhập liên minh sẽ châm ngòi Thế chiến III. Họ lập luận rằng: Nga và đồng minh sẽ mở rộng chiến tranh. Lập luận này sai. Sau ba năm tham chiến cay đắng và đau đớn với Ukraine, Nga không còn hứng thú gì để chiến đấu với một liên minh hùng mạnh nhất thế giới trong đó có quân đội Mỹ. Quân đội Nga đã chịu một tổn thất to lớn về sinh mạng và khí tài, trong lúc chỉ giành được vài chiến thắng nho nhỏ trước đội quân Ukraine yếu hơn. Putin không bao giờ dám gây chiến trực tiếp với Mỹ, khi đã có tới 78,000 tử sĩ trên chiến trường Ukraine. Ước tính số thương và vong của Nga khoảng 400,000 tới 600,000. Đó là chưa kể tới cuộc vật lộn sống mái chống các lệnh trừng phạt của phương Tây.

Các lãnh đạo Đức cũng nên hiểu những lợi ích to lớn của tư cách thành viên NATO. Tây Đức nhập NATO năm 1955 mà không hề châm ngòi cho Thế Chiến III; trong khi, Tây Berlin bị vây quanh bởi lãnh thổ Đông Đức. Ngược lại, với tư cách thành viên NATO, Tây Đức đã sống sót ngay cạnh Hồng Quân Liên Xô đồn trú ở bên kia biên giới Đông Đức.

Nhìn rộng hơn, Âu châu sẽ hưởng lợi lớn về kinh tế từ một Ukraine ổn định và an toàn. NATO không phải cung cấp hàng tỷ Mỹ kim cho Ukraine, không phải tiếp nhận hàng triệu người tị nạn. Giống như trong Chiến tranh Lạnh, NATO đã tạo điều kiện cho Tây Âu phát triển. Giờ đây, Ukraine thuộc NATO sẽ giúp nền kinh tế của các thành viên khác hưởng lợi, thương mại, đầu tư bùng nổ thời hậu chiến. Mỹ sẽ tiếp cận nguồn khoáng sản quan trọng của Ukraine. Mỹ sẽ giảm phụ thuộc vào những nhà cung cấp chuyên quyền, không đáng tin cậy.

Tâm điểm là Trump

Trump là người hoài nghi về NATO và nguồn viện trợ cho Ukraine, không dễ gì thuyết phục ông đi theo hướng này. Tuy nhiên thỏa thuận trên sẽ giúp Trump đạt được một số mục tiêu của riêng ông. Bằng cách kết nạp Ukraine vào NATO, Trump sẽ giành được một chiến thắng ngoại giao quan trọng là chia sẻ gánh nặng của NATO. Sau khi vào NATO, quân đội Ukraine, chỉ sau một đêm, sẽ trở thành quân đội Âu châu mạnh và giàu kinh nghiệm nhất trong liên minh. Lực lượng võ trang Ukraine có thể được triển khai tới những quốc gia đồng minh khác giúp Washington bớt gánh nặng.

Ukraine sẽ giúp các thành viên NATO có đường biên giới với Nga về kỹ thuật điều khiển phương tiện không người lái trên không, trên biển, và trên bộ mà quân đội Ukraine vô cùng lão luyện. Trump có thể giải thích cho dân Mỹ rằng: Kết nạp Ukraine vào NATO sẽ giúp Mỹ bớt chi tiêu quốc phòng, tập trung ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương.

Kế hoạch này sẽ giúp tránh được sự sụp đổ có thể xảy ra như ở Afghanistan sau khi Mỹ rút quân 2021. Nó cũng tạo ra một nền hòa bình lâu dài ở Âu châu, chứ không phải là lệnh ngưng bắn tạm thời mà Nga dễ dàng xé bỏ. Nếu Trump thành công trong việc môi giới đạt đến thỏa thuận này, ông xứng đáng trở thành ứng cử viên cho giải Nobel Hòa Bình mà ông hằng khao khát.

Không dễ gì thuyết phục Putin và Zelensky hạ vũ khí để đàm phán. Trump sẽ bực bội khi dùng việc hỗ trợ Ukraine làm phương tiện đàm phán. Thế nhưng, cuộc chiến kéo dài bất tận, hoặc đầu hàng Putin thì còn tồi tệ hơn nhiều.

_______

Tác giả: Michael McFau là giáo sư Khoa Chính trị, nghiên cứu viên cao cấp Học viện Hoover, giám đốc viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford. Ông McFau từng giữ chức Đại sứ Mỹ ở Nga từ năm 2012 tới 2014, và là tác giả của cuốn sách “Từ Chiến Tranh Lạnh Tới Hòa Bình Nóng: Đại sứ Mỹ tại nước Nga của Putin”.


 

Giới chức Mỹ ‘tiếp xúc trực tiếp’ với quân chiến thắng tại Syria

Ba’o Nguoi-Viet

December 15, 2024

AMMAN, Jordan (NV) – Ngoại Trưởng Antony Blinken cho hay Hoa Kỳ đã “liên lạc trực tiếp” với nhóm phiến quân HTS, những người hiện đang nắm quyền kiểm soát đất nước Syria sau khi họ chiến thắng và lật đổ chế độ Assad, theo nguồn tin Đài BBC hôm Thứ Bảy, 14 Tháng Mười Hai.

Đây là lần đầu tiên có lời nhìn nhận về tiến trình liên lạc trực tiếp của Mỹ với tổ chức Hayat Tahrir al-Sham mà Mỹ hiện vẫn xác định là một tổ chức khủng bố. Ông Blinken cho các phóng viên hay rằng Mỹ đã đặc biệt liên lạc với họ về số phận của nhà báo Mỹ mất tích, là Austin Tice.

Ngoại Trưởng Blinken đã lên tiếng tại Jordan sau cuộc hội đàm với đại diện của một số nước Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ và Âu Châu về tương lai của Syria.

Bộ Trưởng Ngoại Giao Antony Blinken chào tạm biệt ở Aqaba, Jordan, ngày 14 Tháng Mười Hai, 2024. (Hình: ANDREW CABALLERO-REYNOLDS/AFP/Getty Images)

Bản thông cáo chung kêu gọi phải có một chính phủ Syria bao gồm các phe phái, tôn trọng quyền của các nhóm thiểu số, và không cung cấp căn cứ hoạt động cho “các nhóm khủng bố.”

Mặc dù nhóm HTS không có mặt tại cuộc họp ở Jordan, những cuộc luận bàn giữa các giới chức tham dự ở cả trong và ngoài Syria sau các biến cố lộn xộn trong những tuần gần đây mang tầm quan trọng có tính sống còn của việc thiết lập một chính quyền mới đại diện cho mọi người dân Syria.

Ngoại Trưởng Iraq Fuad Hussein bày tỏ lo ngại về tương lai của Syria. Ông Hussein phát biểu rằng các nước trong khu vực không muốn thấy lại xuất hiện một Libya khác, ý muốn nói tới tình trạng hỗn loạn xảy ra sau khi Đại Tá Muammar Gaddafi bị lật đổ.

Ngoại Trưởng Thổ Nhĩ Kỳ Hakan Fidan tuyên bố: “Đừng bao giờ cho phép chủ nghĩa khủng bố lợi dụng giai đoạn chuyển tiếp hiện nay. Và chúng ta phải phối hợp nỗ lực của mình với các nỗ lực khác, đồng thời học hỏi từ những sai lầm trong quá khứ,” ông Fidan nói và được thông tấn xã Reuters ghi nhận.

Trong tình thế đó, một nhà quan sát chiến sự cho biết Israel lại tiến hành thêm hàng chục cuộc không kích vào Syria. Trước đó, Israel từng nói rằng họ hành động là để “hủy diệt các khả năng chiến lược” đe dọa nền an ninh của họ.

HTS, nhóm nổi dậy mạnh nhất Syria, được thành lập vào năm 2011 dưới một cái tên khác, là Jabhat al-Nusra, vốn là một chi nhánh trực tiếp của tổ chức khủng bố al-Qaeda, một lực lượng chống chính quyền Assad.

Nhóm Jabhat al-Nusra đã bị Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ và một số các quốc gia khác coi là một nhóm khủng bố, và bây giờ vẫn như vậy.

Thủ lãnh Ahmed al-Sharaa, người trước đây vẫn dùng tên Abu Mohammed al-Jolani, đã cắt đứt quan hệ với al-Qaeda hồi năm 2016.

Hồi gần đây, ông Sharaa đã cam kết đối xử khoan dung với các nhóm tôn giáo và cộng đồng khác nhau. Nhưng cái quá khứ thánh chiến bạo lực của nhóm này đã khiến một số người nghi ngờ, không biết liệu họ có thực hiện được lời hứa đó hay không. (TTHN) 


 

THỦ TƯỚNG ISRAEL PERES ĐÃ TỪNG KHUYÊN PUTIN: ANH ĐANG ĐẦU TƯ VÀO SỰ NGU NGỐC….-THÁI BÁ TÂN dịch

8 SÀI GÒN

Câu chuyện giữa Shimon Peres, người có 2 nhiệm kỳ Thủ tướng và 1 nhiệm kỳ quyền Thủ tướng Israel, với Vladimir Putin vào năm 2015, có thể còn được coi là lời khuyên với một số chính khách khác.

“Ông Peres chốt hạ một câu khiến ông Putin lặng người: “Tin tôi đi, kẻ thù và hận thù là tổn thất lớn nhất trong cuộc đời. Anh đang đầu tư vào sự ngu ngốc”.

Nội dung cuộc nói chuyện tại buổi gặp mặt cuối cùng giữa cựu Tổng thống Israel Shimon Peres và Vladimir Putin năm 2015 gần đây đã được công bố. Ông Peres đã chân thành giải thích cho Putin, rằng tất cả sẽ mất hết và không còn gì có thể cứu vãn được, vì tất cả các nỗ lực hiện nay của ông Putin đang trở nên vô ích vì sẽ không thể đạt được bất cứ điều gì.

Ông Peres nói với ông Putin: “Anh đang ở độ tuổi 63, còn tôi đã 93 rồi, thế anh muốn đạt được điều gì trong 30 năm tới vậy? Anh đang đấu tranh vì điều gì thế? Vì dân tộc anh hay vì muốn là kẻ thù của người Mỹ chăng?”

Ông Putin đáp: “Không phải như thế”.

Ông Peres hỏi tiếp: “Nước Mỹ muốn chiếm một phần nước Nga chăng? Không, giữa anh và ông Obama có những vấn đề không hiểu nhau chăng?”

Ông Putin vặn lại: “Tại sao ông lại nói vậy?”

Ông Peres trả lời: “Hãy nghe tôi đi, tôi không phải là gián điệp, anh có thể tâm sự với tôi về tất cả kia mà”.

Ông Putin hỏi tiếp: “Thế ông nghĩ sao?”

Và ông Peres liền trả lời: “Hoàn toàn không phụ thuộc vào những gì anh gây ra, nước Mỹ sẽ vẫn chiến thắng đấy”.

Ông Putin hỏi: “Tại sao như thế?”

Ông Peres trả lời: “Vì họ là những người hạnh phúc, còn anh thì không!”.

Ông Putin cười.

Và ông Peres nói tiếp:“Mỗi ngày, khi một người Mỹ tỉnh dậy vào buổi sáng, anh ta nhìn thấy gì nào? Nhìn về phương Nam là đất nước Mexico họ giang tay đón nhận những người Mexico ở trên đất nước mình. Nhìn về phương Băc, nước Canada, người Canada chẳng phải là những người bạn tốt nhất trong thế giới này sao?

.Vậy thì Obama còn phải lo lắng gì nữa nhỉ? Còn anh, khi anh thức dậy vào buổi sáng, anh có biết chắc rằng ai là hàng xóm thân thiện của anh không? Trung Quốc, Afganistan, Nhật Bản à? Lạy Chúa! Họ biết rất rõ rằng anh có rất nhiều đất đai, và anh không chia cho họ một tấc nào cả đâu. Anh sở hữu tới 20% nước ngọt, nhưng lại có biếu không cho ai một giọt nào cả. đâu! Bởi vậy mà, khi tuyết tan ở vùng Siberia, điều đầu tiên mà anh sẽ nhìn thấy đó là những người Trung Quốc. Bởi vì hiện ở Viễn Đông họ có mặt rất nhiều trong khi tại đó lại có rất ít người Nga của anh”.

Ông Peres cũng đề cập vấn đề thứ hai với ông Putin: “Nước Mỹ là đất nước có sự phân bổ hợp lý nhất giữa diện tích, đất đai và dân số. Ở nước Nga sự phân bổ đó là tồi nhất. Hai mươi triệu cây số vuông. Ôi, lạy Chúa! Nhưng đất nước của anh không có đủ người để đến ở. Người Nga rồi đây sẽ chết dần. Đừng ảo tưởng trước những điều nịnh nọt và tán dương của bọn bồi bút nhé. Không ai tha thứ cho anh cả đâu. Tại sao người Nga tuổi thọ chỉ có 62 trong khi người Mỹ lại thọ đến 82 tuổi?”

Ông Peres lạnh lùng nói tiếp: “Anh hành xử như một vị Sa Hoàng. Các vị Sa Hoàng đã làm gì nào? Họ đã xây dựng hai thành phố St. Petersburg và Moscow như những cái tủ kính bày hàng. Dù anh muốn hay không, anh sẽ phải thấy điều đó. Những phần còn lại của Nga thì chẳng khác nào đất nước Nigeria, nhưng khác chăng là nó phủ đầy tuyết. Những người dân của anh đang hấp hối. Anh không cho họ cuộc sống tốt đẹp hơn. Anh có nghĩ rằng họ liệu sẽ tha thứ cho anh chăng?”

Ông Peres ngừng lại rồi hỏi tiếp: “Thế tại sao nước Mỹ lại tươi đẹp?”

Ông Putin trả lời: “Bởi vì họ là những người hay viện trợ cho các nước khác”.

Ông Peres lại hỏi tiếp: “Tại sao Châu Âu lại có nhiều vấn đề?”

Ông Putin trả lời: “Bởi vì họ thủ cựu”.

Ông Peres tiếp tục giải thích: “Nước Mỹ hay đem cho, mọi người nghĩ rằng đó là vì họ hào phóng. Tôi thì nghĩ rằng đó là bởi vì họ là những người khôn ngoan. Nếu anh hay đem cho, anh tạo ra bạn bè. Việc đầu tư hữu ích nhất đó là gây dựng nhiều bạn bè. Người Mỹ có can đảm chấp nhận kế hoạch Marshall, đem một lượng lớn GDP của họ để cho một Châu Âu đang hấp hối sau chiến tranh lần thứ Hai. Và như vậy, họ đã chỉ ra rằng đó là sự đầu tư tốt nhất trên thế giới. Không có một quốc gia Châu Âu nào mà không trải qua thời kỳ đế chế, Sa Hoàng, Người Pháp và người Anh, người Bồ Đào Nha… và tất cả. Và điều gì đã xảy ra? Họ đã bị ném ra ngoài và không còn gì.

Nước Anh, một đế quốc lớn nhất, nơi mà “mặt trời từng chưa bao giờ lặn”, có tất cả các đại dương, và rồi người thổ dân da đỏ tốt bụng đã đuổi họ đi và không để lại gì cho họ ngoài ba hòn đảo nhỏ, để rồi người Anh không biết phải làm gì.

Cuối cùng ông Peres chốt hạ một câu khiến ông Putin lặng người:

“Anh tin tôi đi, kẻ thù và hận thù là tổn thất lớn nhất trong cuộc đời. Anh đang đầu tư vào sự ngu ngốc đấy”.

THÁI BÁ TÂN dịch

#8saigon


 

Nhà báo Mỹ mất tích ở Syria 12 năm, nay gia đình hay tin còn sống

Ba’o Nguoi-Viet

December 9, 2024

WASHINGTON, DC (NV) – Hôm Chủ Nhật, 8 Tháng Mười Hai, Tổng Thống Joe Biden cho biết chính phủ Hoa Kỳ tin rằng Austin Tice, nhà báo người Mỹ bặt vô âm tín từ 12 năm trước gần thủ đô Syria, vẫn còn sống và Washington cam kết đưa ông về nhà sau khi quân nổi dậy lật đổ ách cai trị của Bashar al-Assad ở Damascus, thông tấn xã AP đưa tin.

“Chúng tôi nghĩ rằng giờ đã tới lúc đưa ông ấy về nhà,” Biden nói với các phóng viên tại Tòa Bạch Ốc, đồng thời thừa nhận rằng “chính phủ không có bằng chứng trực tiếp” nào cho thấy hiện giờ Tice đang ra sao. “Assad phải chịu trách nhiệm.”

Tổng Thống Biden cho biết các viên chức vẫn cần phải xác định chính xác vị trí của Tice sau khi ông mất tích vào Tháng Tám 2012 tại một trạm kiểm soát trong khu vực tranh chấp phía Tây Damascus.

Marc và Debra Tice, cha mẹ của ký giả Austin Tice (chân dung bên trái), trong một cuộc họp báo ở Beirut, Lebanon ngày 4 Tháng Mười Hai, 2018 (Hình: JOSEPH EID/AFP/Getty Images)

“Chúng tôi vẫn cam kết giúp ông ấy đoàn tụ với gia đình,” Biden nói.

Tice, cư ngụ tại Houston, viết tin cho The Washington Post, tờ McClatchy và các phương tiện truyền thông khác.

Một đoạn phim công bố vài tuần sau khi Tice mất dạng cho thấy ông bị bịt mắt, bị các chiến binh có võ trang giữ lại, và ông thốt lên, “Ôi, lạy Chúa.” Từ đó cho tới nay, không một ai hay biết gì về ông. Syria từng công khai chối bỏ việc tống giam Tice.

Hoa Kỳ không có bằng chứng mới nào cho thấy Tice còn sống, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động dò la theo giả thuyết ông còn tồn tại, theo một viên chức Hoa Kỳ ẩn danh. Viên chức này cho biết Hoa Kỳ sẽ tiếp tục nỗ lực nhằm xác định vị trí của Tice và cố gắng đưa ông về quê nhà.

Mẹ của Tice, Debra, cho biết trong một cuộc họp báo hôm Thứ Sáu ở Washington rằng gia đình nhận được tin tức từ một “nguồn tin quan trọng,” nhưng bà không nêu danh, xác nhận rằng con trai bà vẫn còn sống.

“Con trai tôi đang được săn sóc và còn khỏe mạnh, chúng tôi biết điều này,” bà nói.

Vào tuần trước, gia đình Tice đã gặp gỡ các viên chức tại Bộ Ngoại Giao và Tòa Bạch Ốc.

“Tôi có đôi lời nhắn nhủ người dân Syria, xin quý vị hãy lắng nghe, xin hãy nhớ cho một điều, chúng tôi đang chờ Austin,” Debra Tice nói trong các bình luận được các tổ chức ủng hộ con tin lan truyền trên mạng xã hội hôm Chủ Nhật. “Chúng tôi biết chắc một điều rằng khi con tôi quay về với xã hội, nó sẽ cần thời gian để bình tâm và sẽ cần được săn sóc và chỉ dẫn rất nhiều. Hãy giúp tôi đưa đường dẫn lối cho Tice về trong vòng tay gia đình!” (TTHN)


 

Ngày tàn của kẻ độc tài: Tổng Thống Syria Assad chạy trốn sang Nga

  • Cuộc chiến chống Assad kéo dài 13 năm đã thành công.
  • Hậu quả là sự thay đổi lớn ở Trung Đông: Nga yếu hơn, Iran yếu kém và Thổ Nhĩ Kỳ mạnh hơn.
  • Trục chống trả của Iran bao gồm : Iran-Syria-Hezbollah bị gẫy một chân rưỡi. 
  • Chiến binh của Hayat Tahrir al-Sham , hay HTS bị Hoa Kỳ dán nhãn là một tổ chức khủng bố vì có liên hệ trong quá khứ với al Qaeda. HTS đã lãnh đạo cuộc tấn công của phiến quân chiếm giữ các thành phố Aleppo, Hama, Homs và thủ đô Damas.
  • Chính thành công trước đó của Israel trong việc tiêu diệt lực lượng dân quân Hezbollah của Lebanon, vốn từng cung cấp cho Assad lực lượng bộ binh có năng lực nhất, đã cho phép quân nổi dậy Syria đánh bại quân đội của chế độ này.

  • Tuy nhiên, các quan chức Israel cũng lo ngại về sự trỗi dậy của một nhà nước Hồi giáo Sunni do Thổ Nhĩ Kỳ hậu thuẫn tại biên giới của mình.
  • Hoa Kỳ – nước duy trì quân đội tại vùng đất người Kurd ở Syria và một khu vực sa mạc trên biên giới Jordan – vẫn đứng ngoài cuộc khi chế độ Assad sụp đổ. Tổng thống đắc cử Donald Trump cũng đã ủng hộ lập trường này.
  • Nga yếu thế,  không còn đủ sức bảo vệ Assad vì Nga còn đang phải đối phó với cuộc chiến ở Ukraine với các thiệt hại quân sự và sự suy kiệt về tài chánh.
  • Chưa biết số phận của các căn cứ quân sự Nga sẽ ra sao: cơ sở hải quân ở Tartus, và sân bay ở Khmeimim. Chúng có vai trò xung kích trong các cuộc xung đột ở Libya, Sudan, Cộng hòa Trung Phi, Mali và Niger.

Căn cứ quân sự của Nga ở Syria.

Syria: Appeasement in Disguise? | Justice in Conflict

 

 

Trump kêu gọi ‘ngừng bắn ngay lập tức’ ở Ukraine sau khi gặp ông Zelenskyy ở Paris

VOA

08/12/2024

Ông Trump trong cuộc họp hôm 7/12 với người đồng cấp Pháp Emmanuel Macron và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy.

Ông Trump trong cuộc họp hôm 7/12 với người đồng cấp Pháp Emmanuel Macron và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy.

Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump hôm 8/12 đã kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức ở Ukraine, ngay sau cuộc họp tại Paris với các nhà lãnh đạo Pháp và Ukraine, tuyên bố rằng Kyiv “muốn đạt được thỏa thuận” để chấm dứt cuộc chiến kéo dài hơn 1.000 ngày.

Trong một bài đăng trên nền tảng Truth Social của mình, ông Trump tuyên bố rằng Moscow và Kyiv đều đã mất hàng trăm nghìn binh lính trong một cuộc chiến “đáng lẽ không bao giờ nên bắt đầu”.

“Cần phải có lệnh ngừng bắn ngay lập tức và các cuộc đàm phán nên bắt đầu. Quá nhiều sinh mạng đang bị mất đi một cách vô ích, quá nhiều gia đình bị hủy hoại”, ông nói, trong khi kêu gọi Tổng thống Nga Vladimir Putin hành động để chấm dứt cuộc chiến.

Lời kêu gọi của ông Trump được đưa ra sau cuộc họp hôm 7/12 với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy và người đồng cấp Pháp Emmanuel Macron, mà sau đó ông Zelenskyy mô tả là “mang tính xây dựng”.

Phát biểu với các phóng viên sau đó trong ngày, ông Zelenskyy nhấn mạnh rằng bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào “phải công bằng” đối với người Ukraine, “để Nga và Putin hoặc bất kỳ kẻ xâm lược nào khác sẽ không có cơ hội quay trở lại”.

Trong một cập nhật khác trên mạng xã hội hôm 8/12, ông Zelenskyy khẳng định rằng cho đến nay, Kyiv đã mất 43.000 binh sĩ kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện của Moscow bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, trong khi 370.000 người khác bị thương.

Cả Nga và Ukraine đều miễn cưỡng công bố số liệu thương vong chính thức, nhưng các quan chức phương Tây nói rằng vài tháng qua, chiến sự khốc liệt ở miền đông Ukraine đã gây ra tổn thất kỷ lục cho cả hai bên, với hàng chục nghìn người thiệt mạng và bị thương mỗi tháng.

Người phát ngôn Điện Kremlin Dmitry Peskov đã triệu tập một cuộc họp qua điện thoại với các phóng viên để trả lời về các bình luận của ông Trump.


 

Tổng thống Bashar al-Assad rời Damascus, chấm dứt 24 năm chế độ chuyên quyền tại Syria

Bao Dat Viet

December 8, 2024

Bộ tư lệnh lục quân Syria đã thông báo với các sĩ quan rằng chế độ chuyên quyền kéo dài 24 năm của Tổng thống Bashar al-Assad đã chấm dứt, một sĩ quan Syria được báo tin cho hãng tin Reuters biết, sau một cuộc tiến công nhanh chóng của phiến quân khiến cả thế giới bất ngờ.

Phiến quân Syria nói thủ đô Damascus “giờ đã sạch bóng Assad.”

Trước đó nhà lãnh đạo từng đàn áp mọi hình thức bất đồng chính kiến đã bay ra khỏi Damascus đến một địa điểm không rõ ở đâu vào Chủ nhật, hai sĩ quan quân đội cao cấp nói với Reuters, trong khi phiến quân cho biết họ tiến vào thủ đô mà không thấy lục quân được triển khai.

Hàng ngàn người trên xe ô tô và đi bộ tụ tập tại một quảng trường chính ở Damascus vẫy tay và hô vang “Tự do” khỏi chế độ cai trị lâu dài của gia đình Assad, những người mục kích cho biết.

“Chúng tôi ăn mừng cùng người dân Syria trước tin tức những tù nhân của chúng tôi được trả tự do và được tháo xiềng xích và tuyên bố chấm dứt kỉ nguyên bất công trong nhà tù Sednaya,” phiến quân nói.

Sednaya là một nhà tù quân sự lớn ở ngoại ô Damascus, nơi chính phủ Syria giam giữ hàng ngàn người.

Một chiếc máy bay của hãng hàng không Syrian Air đã cất cánh từ sân bay Damascus vào thời điểm thủ đô được cho là đã bị phiến quân chiếm giữ, theo dữ liệu từ website Flightradar.

Ban đầu máy bay bay về phía vùng ven biển Syria, một thành trì của giáo phái Alawite của ông Assad, nhưng sau đó đột ngột quay đầu và bay theo hướng ngược lại trong vài phút trước khi biến mất khỏi bản đồ.

Reuters không thể xác định ngay lập tức những người trên máy bay.

Người đứng đầu nhóm đối lập chính của Syria ở nước ngoài Hadi al-Bahra Syria hôm Chủ nhật cũng tuyên bố Damascus giờ “không còn Bashar al-Assad.”

Trong khi người dân Syria bày tỏ niềm vui, Thủ tướng Mohammad Ghazi al-Jalali cho biết ông sẵn sàng hỗ trợ sự tiếp tục việc quản trị đất nước và sẵn sàng hợp tác với bất cứ nhà lãnh đạo nào do người dân Syria lựa chọn.

Các tiền tuyến của cuộc nội chiến phức tạp ở Syria đã im ắng trong nhiều năm. Sau đó, những phần tử Hồi giáo bảo thủ từng liên kết với Al Qaeda đột nhiên ồ ạt hành động, đề ra thách thức lớn nhất cho ông Assad, người đã sống sót qua nhiều năm chiến tranh khốc liệt và sự cô lập quốc tế với sự giúp đỡ của Nga, Iran và nhóm Hezbollah của Lebanon.

Nhưng các đồng minh của ông đã chú tâm vào và bị suy yếu bởi các cuộc khủng hoảng khác, và việc này đột nhiên khiến ông Assad bị phe đối lập chĩa mũi dùi.


 

Tổng thống Hàn Quốc: nghề nguy hiểm (BBC)

BBC

Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol hiện đang phải đối mặt với việc bị luận tội sau khi ông bất ngờ tuyên bố thiết quân luật, khiến cả đất nước bàng hoàng.

Ông Yoon Suk-yeol không phải là tổng thống Hàn Quốc đầu tiên chứng kiến sự nghiệp chính trị của mình lao tới bờ vực.

Sau đây là bản tóm tắt về các đời tổng thống Hàn Quốc và số phận chìm nổi của họ.

Tổng thống Park Geun-Hye: bị luận tội, ngồi tù

Cựu Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-Hye

Tháng 12/2016, bà Park Geun-hye, Tổng thống Hàn Quốc từ năm 2013, bị Quốc hội luận tội sau một quyết định do Tòa án Hiến pháp đưa ra tháng 3/2017.

Kết quả là bà bị truy tố và sau đó phải ngồi tù.

Là con gái của cựu độc tài Park Chung-hee, bà là nữ tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc và tự coi mình là liêm khiết.

Nhưng bà bị cáo buộc đã nhận hoặc vòi hàng chục triệu đô la từ các tập đoàn, bao gồm Samsung.

Các cáo buộc bổ sung bao gồm chia sẻ tài liệu mật, đưa các nghệ sĩ chỉ trích bà vào một “danh sách đen” và cho thôi việc các quan chức phản đối bà.

Bà Park bị kết án tù 20 năm vào năm 2021 và bị phạt rất nặng.

Nhưng cuối năm đó, bà được người kế nhiệm là Tổng thống Moon Jae-in ân xá.

Ông Yoon, tổng thống hiện tại, lúc bấy giờ là công tố viên ở Seoul và đã đóng vai trò quan trọng trong việc bãi nhiệm và giam giữ bà Park.

Cựu Tổng thống Lee Myung-bak: 15 năm tù

Cựu Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak

Nắm quyền từ năm 2008 tới 2013, người tiền nhiệm bảo thủ của bà Park là ông Lee Myung-bak đã bị tuyên 15 năm tù giam vào tháng 10/2018 về tội tham nhũng.

Đáng chú ý, ông bị kết tội nhận hối lộ từ Samsung để đổi lấy sự ưu ái dành cho chủ tịch tập đoàn khi đó, Lee Kun-hee, người từng bị kết tội trốn thuế.

Cựu tổng thống này được Tổng thống Yoon ân xá tháng 12/2022.

Cựu Tổng thống Roh Moo-hyun: tự tử

 Người dân khóc thương cố Tổng thống Roh Moo-hyun

Ông Roh Moo-hyun làm tổng thống Hàn Quốc từ năm 2003 tới 2008 và là một người ủng hộ mạnh mẽ việc xích lại gần với Triều Tiên. Cựu Tổng thống Roh Moo-hyun, người theo đường lối tự do, đã tự tử bằng cách nhảy xuống vách đá vào tháng 5/2009.

Ông đã trở thành mục tiêu của một cuộc điều tra khoản tiền một triệu đô la mà một nhà sản xuất giày giàu có trả cho vợ ông và năm triệu đô la trả cho chồng của một trong các cháu gái của ông.

Nhà độc tài Chun Doo-hwan: thảm sát và tù tội

Cựu Tổng thống Hàn Quốc Chun Doo-hwan

Nhà lãnh đạo quân sự Chun Doo-hwan, được biết đến với biệt danh “Đồ tể Gwangju” vì đã ra lệnh cho quân đội đàn áp một cuộc nổi dậy ở thành phố miền tây nam Gwangju, đã đồng ý từ chức vào năm 1987 trước áp lực từ các cuộc biểu tình quy mô lớn.

Ông chuyển giao quyền lực cho người được ông bảo trợ, Roh Tae-woo.

Roh và Chun đã thân thiết trong nhiều thập kỷ, lần đầu gặp nhau khi là bạn cùng lớp tại học viện quân sự trong Chiến tranh Triều Tiên.

Năm 1996, cả hai bị kết án phản quốc liên quan đến cuộc đảo chính năm 1979 vốn đưa Chun lên nắm quyền, cuộc nổi dậy Gwangju năm 1980, các hành vi tham nhũng và các tội danh khác.

Roh bị tuyên án 22,5 năm tù, sau đó giảm còn 17 năm, trong khi Chun bị kết án tử hình, sau đó giảm xuống tù chung thân.

Cả hai được ân xá vào năm 1998 và chỉ phải ngồi tù hai năm.

Nhà độc tài Park Chung-hee: bị ám sát

Nhà độc tài Park Chung-hee

Tổng thống Park Chung-hee bị chính người đứng đầu cơ quan tình báo của mình ám sát tháng 10/1979 trong một bữa tối riêng tư.

Các sự kiện xảy ra vào đêm đó từ lâu đã là một chủ đề gây tranh cãi nảy lửa ở Hàn Quốc, đặc biệt về việc có phải vụ ám sát được lên kế hoạch từ trước hay không.

Chun Doo-hwan và Roh Tae-woo khi đó là các tướng lĩnh quân đội và đã lợi dụng tình trạng rối ren chính trị để thực hiện một cuộc đảo chính vào tháng 12/1979.

Yun Po-sun: bị lật đổ trong cuộc đảo chính

Cố Tổng thống Yun Po-sun

Tổng thống Yun Po-sun bị lật đổ năm 1961 trong một cuộc đảo chính do sĩ quan quân đội Park Chung-hee lãnh đạo.

Ông Park vẫn để ông Yun giữ ghế nhưng đã giành quyền kiểm soát chính phủ, rồi thay thế ông Yun sau khi giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử năm 1963.

Syngman Rhee: tổng thống lưu vong đầu tiên

Ông Syngman Rhee

Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc, Syngman Rhee, trúng cử năm 1948, bị buộc phải từ chức bởi một cuộc nổi dậy do sinh viên lãnh đạo vào năm 1960, sau khi nỗ lực kéo dài nhiệm kỳ của mình qua các cuộc bầu cử gian lận.

Ông Rhee bị buộc phải lưu vong ở Hawaii, nơi ông qua đời năm 1965.


 

 Chân dung một Tướng Mỹ

 
Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?

MacArthur đến Nhật với đôi bàn tay đẫm máu người Nhật, đã giết chết cả triệu quân Nhật nhưng khi MacArthur rời Nhật về Mỹ, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật đứng hai bên đường đưa tiễn.

Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật:
Đại nguyên soái!

MacArthur được người Nhật vinh danh là 1 trong 12 danh nhân nước Nhật mọi thời đại.

Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?

Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ Melbourne đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản.
Vì thế người Nhật hận ông thấu xương.

Quả bom nguyên tử Mỹ thả xuống Hiroshima Nhật Bản , mang mật mã “Little Boy”, nặng 4.400kg.

8 giờ 15 phút sáng, quả bom phát nổ ở độ cao 609,6m phía trên Hiroshima, giải phóng năng lượng tương đương khoảng 15.000 tấn TNT, san phẳng 13km2 thành phố chỉ trong trong vài giây.

Bức ảnh chụp từ trên không tại Hiroshima, một ngày sau vụ đánh bom.


Hình ảnh sau vụ đánh bom thứ 2 ở thành phố Nagasaki

Dù hơn 75 năm trôi qua, Hiroshima và Nagasaki đã “thay da đổi thịt” nhưng ký ức kinh hoàng này vẫn như bóng đen đeo bám tâm trí những người may mắn sống sót…
(theo CNN)

Chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước”.

Nhưng tướng MacArthur mang quân đến hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ.

Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi.

Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật.

Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.

Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản.

Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật rất chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó để đi qua, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước.

Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu mình là kẻ chiến thắng thì liệu có làm được như thế không?

Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.

Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật thiết lập tổ chức của mình;

tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.

Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận.

Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua.

Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia.

Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.

Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận.

Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình.

Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.

Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản.

Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là:

Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri.

Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp.

Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp.

Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.

Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh.

Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”.

Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.

Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng.

Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.

Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”.
Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”.

Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý.

Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và sắp xếp chương trình hoàn toàn do người dân tự làm chủ quyết định.

Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản.

Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách  con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang.

Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định.

Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.

Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều
người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur
yêu cầu muốn biếu tặng đất đai của họ cho Ông.

Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”

Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Harry Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng và buộc tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết mà thôi.

Nhưng khi ông ngồi lên xe thì mới phát giác ra, từ nơi dinh phủ ông ở đến phi trường Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn.

Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hoan hô vang dậy của người dân Nhật Bản:

Đại nguyên soái!Đại nguyên soái!

Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy đều rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình.

Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.

Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói:

“Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.”

Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản.

(sưu tầm PHẠM HẢI)

From: Anh Dang & Kim Bang Nguyen

Mỹ kết luận: Virus gây COVID-19 khả năng rò rỉ từ phòng thí nghiệm ở Trung Quốc

Ba’o Dat Viet

December 3, 2024

Ngày 2-12, sau hai năm điều tra, Tiểu ban đặc biệt về đại dịch COVID-19 của Hạ viện Mỹ công bố báo cáo dài 520 trang, đưa ra kết luận đáng chú ý: virus SARS-CoV-2, nguyên nhân gây bệnh COVID-19, “có khả năng xuất hiện do một tai nạn liên quan đến nghiên cứu hoặc phòng thí nghiệm”.

Báo cáo chi tiết và phương pháp điều tra

Cuộc điều tra do Tiểu ban đặc biệt tiến hành bao gồm 25 cuộc họp, hơn 30 cuộc phỏng vấn, và xem xét hơn 1 triệu trang tài liệu. Báo cáo phân tích sâu nhiều khía cạnh của đại dịch, từ phản ứng của chính quyền liên bang và tiểu bang Mỹ, nguồn gốc của virus, đến công tác tiêm chủng vắc xin.

Trong một lá thư gửi Quốc hội Mỹ, nghị sĩ Brad Wenstrup, chủ tịch tiểu ban, nhấn mạnh rằng kết quả điều tra sẽ giúp Mỹ và thế giới chuẩn bị tốt hơn cho các đại dịch trong tương lai.

Nguồn gốc gây tranh cãi của virus SARS-CoV-2

Mặc dù phần lớn các nhà khoa học tin rằng virus SARS-CoV-2 có nguồn gốc tự nhiên, lây lan từ động vật ở Trung Quốc, báo cáo của Hạ viện Mỹ lại nghiêng về giả thuyết virus đã được chỉnh sửa gene và thoát ra từ Viện Virus học Vũ Hán.

Các nghị sĩ khẳng định Viện Y tế quốc gia Mỹ (NIH) đã tài trợ cho nghiên cứu “gain-of-function” tại phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, một phương pháp chỉnh sửa virus nhằm tăng khả năng lây nhiễm để nghiên cứu tác động của chúng lên con người. Đây là loại nghiên cứu gây tranh cãi vì rủi ro tiềm tàng nếu virus thoát ra môi trường.

Báo cáo cũng chỉ trích bác sĩ Anthony Fauci, người đứng đầu Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia Mỹ, cáo buộc ông đã phê duyệt tài trợ nghiên cứu và góp phần gây ra đại dịch. Tuy nhiên, ông Fauci phủ nhận, khẳng định rằng không thể biến virus từ dơi tại phòng thí nghiệm ở Vũ Hán thành SARS-CoV-2 gây đại dịch về mặt phân tử.

Phản ứng với các biện pháp phong tỏa

Bên cạnh vấn đề nguồn gốc của virus, báo cáo còn cho rằng các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt trong đại dịch “gây hại nhiều hơn lợi”. Theo các nghị sĩ, phong tỏa đã dẫn đến thiệt hại kinh tế nghiêm trọng và các vấn đề sức khỏe tâm thần, trong khi không đạt được hiệu quả kiểm soát dịch bệnh như mong đợi.

Tác động toàn cầu và những câu hỏi còn bỏ ngỏ

COVID-19 đã gây ra khoảng 7 triệu ca tử vong trên toàn cầu, bao gồm 1,2 triệu ca tử vong tại Mỹ. Mặc dù báo cáo từ phía Mỹ đưa ra kết luận mạnh mẽ về khả năng virus rò rỉ từ phòng thí nghiệm, cộng đồng khoa học quốc tế và các tổ chức như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về nguồn gốc của đại dịch.

Báo cáo này không chỉ làm gia tăng căng thẳng trong mối quan hệ Mỹ – Trung mà còn đặt ra câu hỏi về cách các quốc gia sẽ chuẩn bị và hợp tác trong việc đối phó với các đại dịch tương lai. Trong bối cảnh đó, việc làm sáng tỏ nguồn gốc của SARS-CoV-2 vẫn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để đảm bảo an ninh y tế toàn cầu.


 

Ông Trump Có Thể Tái Khởi Động Đàm Phán Trực Tiếp Với Bắc Hàn: Cơ Hội và Thách Thức

Ba’o Dat Viet

November 27, 2024

Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump đang cân nhắc việc nối lại đàm phán trực tiếp với nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong-un, với mục tiêu làm dịu mối quan hệ song phương và giảm nguy cơ xung đột. Theo nguồn tin từ Reuters ngày 27/11, nhóm chuyển giao quyền lực của ông Trump đang xem xét cách tiếp cận này như một chiến lược phù hợp, dù kế hoạch chi tiết vẫn chưa được định hình.

Trong nhiệm kỳ đầu tiên từ 2017-2021, ông Trump đã tiến hành ba cuộc gặp thượng đỉnh với ông Kim Jong-un, bước đột phá trong quan hệ Mỹ-Triều. Tuy nhiên, những nỗ lực này không mang lại kết quả cụ thể, với các cuộc đàm phán đình trệ từ năm 2019.

Ông Trump từng thể hiện mong muốn cải thiện quan hệ với Bắc Hàn thông qua đối thoại trực tiếp, thay vì sử dụng các biện pháp áp lực truyền thống. Ông Alex Wong, vừa được ông Trump đề cử làm Phó cố vấn an ninh quốc gia, từng là người đóng vai trò quan trọng trong chiến lược ngoại giao này.

“Tôi lạc quan rằng việc mở lại đối thoại có thể cải thiện quan hệ song phương,” Thượng nghị sĩ Bill Hagerty nhận định, nhấn mạnh rằng ông Trump có khả năng cởi mở hơn với các cuộc tiếp xúc trực tiếp.

Mục tiêu trước mắt của ông Trump là tái thiết lập các cam kết cơ bản giữa Mỹ và Bắc Hàn. Tuy nhiên, việc đạt được thỏa thuận đột phá ngay lập tức là điều khó xảy ra.

Hy vọng nối lại đối thoại: Ông Kim Jong-un từng tuyên bố “đã tiến xa nhất có thể” trong đàm phán với Mỹ, nhưng Bắc Hàn có thể cân nhắc đề nghị mới nếu đối thoại được mở lại.

Vai trò của ông Alex Wong: Kinh nghiệm của ông Wong trong các cuộc đàm phán trước đây có thể giúp xây dựng chiến lược hiệu quả để thúc đẩy các cuộc gặp song phương.

Bất chấp tiềm năng, đối thoại trực tiếp giữa Mỹ và Bắc Hàn đối mặt với nhiều trở ngại:

Bắc Hàn đang mở rộng tổ hợp sản xuất vũ khí, hỗ trợ Nga trong việc lắp ráp tên lửa tầm ngắn sử dụng tại Ukraine. Điều này gia tăng lo ngại về nguy cơ xung đột giữa các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân ở châu Âu và châu Á.

Tổng thống Mỹ đương nhiệm Joe Biden trước đó đã đề nghị Trung Quốc dùng sức ảnh hưởng để kiềm chế Bắc Hàn. Tuy nhiên, triển vọng hợp tác giữa Washington và Bắc Kinh có thể bị hạn chế nếu ông Trump tiếp tục theo đuổi các chính sách cứng rắn với Trung Quốc, bao gồm việc tăng thuế toàn bộ hàng hóa nhập khẩu.

Việc tái khởi động đối thoại Mỹ-Triều có thể là cơ hội để làm tan băng quan hệ song phương và giảm nguy cơ xung đột. Tuy nhiên, để đạt được điều này, ông Trump cần cân nhắc kỹ các thách thức nội tại và quốc tế, đồng thời xây dựng lộ trình rõ ràng nhằm duy trì sự ổn định trong khu vực.