From facebook: Lê Hoài Tân shared a link to the group: Những người bạn của Đảng Dân chủ Tự do.


Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44)
Tin Thế Giới

Tại sao Jerusalem Quan Trọng với cả Hồi giáo Cơ đốc và Do Thái giáo ?
Tại Jerusalem, mỗi hòn đá đều có câu chuyện, mỗi cây ô liu là một lịch sử, và mỗi ngọn núi có tên khác nhau, tùy thuộc vào người kể cho chúng ta về những địa danh đó là ai. Bởi vì nơi đây là cội nguồn và nơi cùng chung sống của cả 3 tôn giáo hàng đầu thế giới: Hồi giáo, Cơ đốc giáo và Do Thái giáo.
Thành phố ngày nay là một bức tranh khảm vừa cổ kính vừa hiện đại. Từ các bức tường cũ kỹ đầy những cây bụi phủ rêu phong đến tuyến đường sắt hiện đại đi qua các cửa hàng cao cấp và khách sạn năm sao của khu phố đi bộ Mamilla. Cảnh quan sắc tộc của Jerusalem phản ánh sự đa dạng về dân cư, xã hội.
Một góc nhìn về Thành phố cổ Jerusalem. Ảnh (Getty Image)
Bên cạnh vẻ đẹp cổ kính xen lẫn hiện đại của mình, Jerusalem cũng là khởi nguồn của những tranh cãi gay gắt bất tận. Đây là một thành phố bị chia cắt, một phần của người Ả Rập, một phần của người Do Thái, và các bên vẫn đang tranh đấu không ngừng nghỉ cho quyền sở hữu thánh địa này. Cả Israel và Palestine đều tuyên bố Jerusalem là thủ đô của nước mình. Israel đã chiếm Đông Jerusalem trong cuộc chiến tranh năm 1967 và sau đó sát nhập lãnh thổ này vào quốc gia Do Thái, nhưng cộng đồng quốc tế chưa công nhận chủ quyền này.
Ngoài nổi tiếng là vùng đất tranh chấp triền miên giữa Israel và Palestine, Jerusalem cũng được biết đến là thánh địa của cả 3 tôn giáo hàng đầu thế giới là Cơ đốc giáo, Hồi giáo và Do thái giáo, những tín ngưỡng cùng chia sẻ nguồn gốc chung về Thánh Abraham.
Trung tâm của thánh địa này là ‘Thành phố cổ’, một ”mê cung ”
những ngõ hẹp và kiến trúc lịch sử đặc trưng cho bốn phần dân cư: Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Do thái và người Armenian. Thành cổ được bao quanh bởi một bức tường và những ngôi nhà bằng đá pháo đài, cùng các địa điểm linh thiêng nhất thế giới.
Mỗi một thành phần chủng tộc, tôn giáo sinh sống tại ¼ lãnh thổ thành phố cổ. Người Cơ đốc giáo có 2 phần vì người Armenia cũng theo đạo Cơ đốc. Người Armenia sống ở ¼ nhỏ nhất và đó là một trong những trung tâm lâu đời nhất của người Armenia trên thế giới.
Vùng đất thiêng của Cơ đốc giáo
Những người hành hương Cơ đốc giáo tổ chức thắp nến tại Nhà thờ Holy Sepulcher ở Jerusalem, theo truyền thuyết là nơi chôn cất của Chúa Jesus. (Ảnh Sebastian Scheiner/AP)
Khi bước vào bất kỳ một nhà thờ Cơ đốc giáo nào, hình ảnh đập vào mắt chúng ta ở trên các bức tường chính là khung cảnh về thánh địa Jerusalem. Trên đó có vẽ các Trạm Thập tự là một chuỗi 14 bức ảnh miêu tả hành trình cuộc đời của Chúa Jesus cho tới khi qua đời. Vào mùa Lễ Mùa Chay các tín đồ Cơ đốc hàng ngày vẫn cầu nguyện trước mỗi bức tranh này. Với mỗi tín đồ Cơ đốc điều quan trọng nhất trong cuộc đời họ là tới được Jerusalem và trở thành một người hành hương đi bộ qua đường Dolorosa – Con đường Đau khổ – theo bước chân của Chúa Jesus đã từng trải qua khi vác thập tự giá. Từ thời trung cổ, hàng ngàn Trạm Thập tự đã được tạo ra ở khắp nơi trên thế giới để cho phép bất cứ con chiên nào cũng có thể hành hương thông qua các bức tranh dù không có khả năng để thực sự tới được Đất Thánh.
Bethlehem là nơi sinh của Chúa Jesus, Nazareth là nơi ông lớn lên, nhưng Jerusalem mới là thành phố thực sự quan trọng đối với các tín đồ Cơ đốc. Đây là nơi mà Chúa Jesus thuyết giảng, dự ‘Bữa tiệc Cuối cùng’ với các môn đồ trước khi chết; cũng là nơi ông bị bắt, đưa ra xét xử, bị kết án tử hình, bị đóng đinh và qua đời; là nơi Jesus bị chế nhạo và tra tấn bởi những người La Mã chiếm đóng. Đó là nơi, các tín đồ Cơ đốc giáo tin rằng, ngôi mộ của ông đã được tìm thấy trống rỗng và Jesus đã hồi sinh từ cõi chết. Do đó, Jerusalem là một nơi đau khổ sâu sắc, tuyệt vọng cùng cực, nhưng cũng là mảnh đất của hy vọng và cứu rỗi. Đó là trái tim thiêng liêng của câu chuyện Cơ đốc giáo.
Nhà thờ tại Jerusalem được quản lý cùng nhau bởi các đại diện của các giáo phái Cơ đốc giáo khác nhau, chủ yếu là Chính thống giáo Hy Lạp, các tu sĩ dòng Franciscan từ Giáo hội Công giáo La Mã và Hội dòng Armenia, và có cả người Ethiopia, Coptics và Giáo hội Chính thống Syria.
Jerusalem không chỉ là một nơi lịch sử cho các tín đố Cơ đốc giáo, nó cũng là phép ẩn dụ cho tất cả những gì mà họ khao khát trong thế giới này và thế giới tiếp theo. Đó là một nơi hoàn hảo, một thành phố hoàng kim, một thiên đường mà họ sẽ đạt được vào một ngày nào đó sau khi chết. Nó cũng đại diện cho việc tạo ra một trái đất mới.
Đế chế Hồi giáo ở Jerusalem kéo dài trong 12 thế kỷ
Phụ nữ Palestine tham dự vào các buổi cầu nguyện thứ Sáu trong tháng lễ Ramadan tại nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa ở Jerusalem. (Ảnh: Getty Image)
Jerusalem (trong tiếng Ả Rập là al-Bayt al-Maqdis – “Nhà Thánh hóa” – hay đơn giản là Al-Quds, “Thành Thánh”) là nơi quan trọng với người Hồi giáo vì nhiều lý do.
Trước tiên, Jerusalem là nơi đầu tiên mà tín đồ Hồi giáo hướng về cầu nguyện (qibla), trước khi nó được đổi sang hướng tới thánh địa Mecca. Khi Nhà tiên tri Muhammad bắt đầu sứ mệnh của mình vào năm 610 sau công nguyên, ông đã theo sau Do Thái và Cơ đốc giáo hướng về Jerusalem khi cầu nguyện hàng ngày và coi Hồi giáo là sự tiếp nối và đổi mới của dòng họ tín ngưỡng Abraham. Tuy nhiên, ông ước rằng Chúa sẽ thay đổi qibla tới Ka’ba ở Mecca và đó là những gì đã xảy ra sau đó.
Jerusalem cũng là một nơi quan trọng của chuyến hành trình tâm linh sâu sắc về đêm của Nhà tiên tri Muhammad được gọi là wal-Mi’raj của al-Isra (“cuộc hành trình ban đêm và hướng thượng”), trong đó ông đã được gặp hiện thân của Chúa. Cuộc hành trình này bắt đầu từ “nhà thờ Hồi giáo thiêng liêng” (al-masjid al-haram, tức là thánh địa Mecca) tới “nhà thờ Hồi giáo xa nhất” (al-masjid al-aqsa, tức là Thánh địa Jerusalem, còn gọi là Núi Đền).
Theo truyền thuyết Hồi giáo, nhà Tiên tri đã đi một cách kỳ diệu từ Mecca đến Jerusalem và sau đó đi lên qua bảy thiên đường, lên đến đỉnh điểm và có một cuộc trò chuyện trực tiếp với hiện thân của Chúa. Trước khi lên thiên đường, Nhà tiên tri Muhammad đã dẫn dắt linh hồn của tất cả các vị tiên tri trước đây của Chúa cầu nguyện, bao gồm tất cả các vị tiên tri trong Kinh thánh và truyền tụng trong người dân Do Thái. Chính theo cách tiếp nối đức tin Abraham này, mà người Hồi giáo thường coi al-masjid al-aqsa (còn được gọi là al-haram al-sharif, hay “Thánh địa Cao quý”) tại Jerusalem như “Đền thờ của Vua Solomon”. Thánh địa này đã trở thành nơi thiêng liêng thứ ba trong hành trình hành hương của các tín đồ Hồi giáo.
Các tín đồ Hồi giáo hành hương tới khu thánh địa này quanh năm, nhưng mỗi thứ Sáu trong tháng Ramadan, hàng trăm ngàn người Hồi giáo đến cầu nguyện tại “Thánh địa Cao quý”.
Luật Hồi giáo đã áp dụng ở Jerusalem kéo dài 12 thế kỷ, dài hơn bất kỳ hệ thống luật lệ nào khác, dù là của Do thái, La Mã, Ba Tư hay Cơ đốc giáo.
Những điểm nổi bật về chính trị bao gồm cuộc chinh phục của Vua Hồi Omar, cuộc phục hồi của Saladin từ những người theo chủ nghĩa thánh chiến, và việc xây dựng lại các bức tường thành của Sulejyman. Ngoài ra, Jerusalem cũng có lịch sử tâm linh và trí tuệ Hồi giáo mạnh mẽ – ví dụ, nhà thần học Al-Ghazali được cho là đã dành cả năm để tĩnh tâm, thiền định và cầu nguyện ở một tháp giáo đường của “Thánh địa Cao quý”.
Từ năm 1967, đối với nhiều người Hồi giáo, Jerusalem đã trở thành biểu tượng kháng chiến chống lại sự chiếm đóng các lãnh thổ Ả Rập của người Israel và tình trạng của Jerusalem là một trong những vấn đề chính cần được giải quyết như là một phần của bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào giữa Israel và Ả Rập ở hiện tại và trong tương lai. Trong khi đó, các nhóm cực đoan và khủng bố như al-Qaeda, IS và lực lượng Al-Quds của Iran vẫn thường xuyên gọi “giải phóng Jerusalem” là một trong những mục tiêu chính của họ.
Với người Do Thái, Jerusalem là một ý niệm tôn giáo vượt thời gian
Những người Do Thái được phủ khăn choàng cầu nguyện thực hiện lời cầu nguyện ở Bức tường phương Tây tại Thành phố cổ Jerusalem. (Ảnh: Getty Image)
Đối với người Do Thái, Jerusalem không chỉ là một địa điểm thực tế đầy ý nghĩa trong cả lịch sử Do Thái trong quá khứ và hiện tại, mà đó còn được coi là một lý niệm tôn giáo vượt thời gian. Khu vực này đã được người Do Thái đầu tiên, Abraham (năm 1800 trước Công nguyên) tìm ra trong khi đi vân du khắp các vùng đất để tìm “Miền đất hứa”. Theo truyền thuyết, nơi mà Abraham chuẩn bị quyên sinh đứa con trai Isaac của mình cho Thiên Chúa nhưng sau đã được lệnh không làm như vậy, bởi đây chỉ là một thử thách về đức tin dành cho Abraham, chính là địa điểm mà sau đó thành Jerusalem được xây dựng.
Sau khi người Do Thái đi tới Ai Cập để tránh nạn đói, bị bắt làm nô lệ và sau đó trở về Israel và David đã chọn Jerusalem làm thủ đô của vương quốc mình (khoảng năm 1000 trước công nguyên). Do đó, Jerusalem là một phần quan trọng của vương quốc đầu tiên của Israel. Jerusalem cũng đã trở thành trung tâm tôn giáo, vì ở đó là nơi vua của vương quốc Israel, Solomon đã xây dựng Đền thờ – trung tâm thờ phụng quốc gia. Người đứng đầu tất cả các hộ gia đình Israel đều được yêu cầu phải tổ chức một cuộc hành hương tới Đền thờ đó ba lần một năm để cùng nhau tổ chức ba lễ hội lớn.
Jerusalem là thành phố cực kỳ quan trọng trong thời kỳ đó và những ai không thể hành hương đến đây, ít nhất cũng nên hướng về đất thánh Jerusalem để cầu nguyện, trong trường hợp đó, lời cầu nguyện của họ sẽ được nghe như thể họ có mặt. Cho đến ngày nay, tất cả các giáo hội đều phải hướng về Jerusalem, để những tín đồ Do Thái được định hướng theo đúng truyền thống. Jerusalem bị phá huỷ hai lần, lần đầu bởi người Babylon vào năm 586 trước công nguyên, và lần thứ 2 là trong cuộc chiến Do Thái – La Mã vào năm 70 sau công nguyên.
Người Do Thái đã phải sống lưu vong trong 2.000 năm tiếp theo, nhưng trong trái tim họ Jerusalem vẫn còn nguyên vẹn như là biểu tượng của sự thống nhất quốc gia. Khi nhà nước Israel được khai sinh vào năm 1948, một cách tự nhiên Jerusalem đã được phục hồi là thủ đô của đất nước.
Ngày nay, tại nơi Vua Solomon xây dựng Đền thờ vẫn còn lưu giữ được Bức tường Than khóc – Kotel hay còn gọi là Bức tường phía Tây – là nơi gần nhất mà người Do Thái cho rằng họ có thể cầu nguyện tới Đức Thánh Cha Abraham.
Vấn đề khó khăn nhất để giải quyết tranh chấp giữa Do Thái và khối Ả Rập là thành phố Jerusalem, ai sẽ làm chủ thành phố này ?
Ngược dòng thời gian khi quốc gia Do Thái được thành lập 1948, thành phố Jerusalem bị chia đôi, Do Thái kiểm soát phân nửa phía tây và phía Ả Rập (nước Jordan ) giữ phân nửa phía đông, sự phân chia rất có ý nghĩa để cân bằng lực lượng hai bên.
Trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967, Do Thái chiến thắng vẻ vang chiếm luôn phần phía đông của Jerusalem và một phần đất giáp giới với Do Thái của Jordan, bao gồm thành phố Jerusalem.
Do Thái có tham vọng giữ luôn hoàn toàn thánh địa Jerusalem và dời thủ đô của họ từ Tel Aviv về Jerusalem. Mỹ và khối Tây Phương cho đến nay từ chối công nhận phần đất phía đông Jerusalem mới chiếm là thuộc về Do Thái vì lý do rất tế nhị là không muốn làm khối Ả Rập tức giận và xung đột sẽ lan rộng.
Từ 1967 đến nay các tổng thống Mỹ đã khôn khéo tránh đặt chân đến Jerusalem vì có ý không công nhận cả thành phố Jerusalem vĩnh viễn là của Do Thái, tòa đại sứ Mỹ vẫn nằm ở Tel Aviv, cho đến khi mới đây Donald Trump phá lệ đến thánh địa này và còn viếng thăm Western Wall , một biểu tượng thiêng liêng của dân tộc Do Thái.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đặt tay lên bức tường Than khóc
Bức tường phía Tây hàng năm thu hút hàng triệu lượt khách du lịch khắp nơi trên thế giới tới thăm quan.
Người Do Thái từ năm châu cũng đến thăm nơi này để cầu nguyện và kết nối với quá khứ của họ.
CARACAS, Venezuela (NV) – Chính phủ Mỹ hôm Thứ Năm ra lệnh cho gia đình nhân viên tòa đại sứ ở Venezuela phải rời khỏi nơi này trong khi cuộc khủng hoảng chính trị tại quốc gia này đang trở nên trầm trọng hơn, trước ngày có cuộc bầu cử mà theo phía đối lập là sẽ chấm dứt nền dân chủ tại đây.
Bạo động tiếp tục diễn ra trên đường phố, khi thêm bảy người khác thiệt mạng trong cuộc đình công mới nhất do phía đối lập chủ xướng, để phản đối việc Tổng Thống Nicolas Maduro dự trù tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày Chủ Nhật.
Trong khi đó, hãng hàng không Avianca của Colombia bất ngờ loan báo ngưng bay tới Venezuela, tạo thêm sự cô lập đối với quốc gia này trên trường quốc tế.
Bên cạnh việc ra lệnh cho thân nhân của giới chức tòa đại sứ phải ra đi, Bộ Ngoại Giao Mỹ hôm Thứ Năm cũng nói rằng các người khác nếu không có nhiệm vụ cần thiết và tình nguyện rời khỏi Venezuela thì cũng sẽ được cho tạm thời đi khỏi quốc gia này. (V.Giang)
Venezuela từng là cường quốc giàu nhất khu vực Mỹ Latin và cũng là nước có dự trữ dầu thô lớn nhất thế giới. Khi ấy, dầu mỏ được xem là “giếng tiền” vô tận của quốc gia này. Thậm chí, cựu Tổng thống Mỹ – Bill Clinton còn chọn Venezuela là điểm dừng đầu tiên trong chuyến thăm khu vực này năm 1997.
Nhưng sau đó, bất bình đẳng tại Venezuela ngày càng gia tăng. Tầng lớp giàu có kiểm soát mọi thứ, trong khi phần đông dân số ngày càng nghèo đói. Hiện tại, chính phủ Venezuela đã cạn kiệt tiền, giá cả tăng chóng mặt. Mọi thứ tại đây đều bị đảo lộn.
Chính phủ nước này không cung cấp được bất kỳ số liệu thống kê đáng tin cậy nào, bao gồm cả tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Các quan chức nhận hàng triệu USD hối lộ trong các dự án xây dựng, trong lúc Chính phủ phải vật lộn với nhiều khoản nợ cần trả. Trong khi đó, giá dầu thô – mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của quốc gia này lại đang lao dốc.
*Cuộc chiến bánh mỳ ở Venezuela
Hôm thứ Tư (26/7), chính phủ Trump đã phát đi thông báo áp đặt trừng phạt lên 13 quan chức cấp cao Venezuela, trong thời điểm phe đối lập đang tổ chức 2 ngày đình công phản đối chính phủ của đảng Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) cầm quyền. Điều này càng gia tăng áp lực mạnh mẽ ép Tổng thống Nicolas Maduro phải hủy bỏ kế hoạch thành lập quốc hội mới.
Reuters cho hay các chế tài áp dụng với 13 quan chức Venezuela lần này bao gồm đóng băng tài sản ở Mỹ, cấm di trú tới Mỹ và cấm công dân Mỹ làm ăn với các đối tượng này.

Caracas, một biển người đòi người kế thừa của Hugo Chavez, là tổng thống Maduro từ chức. Ảnh tháng 6/2017. REUTERS/Christian Veron
Mới chỉ ba thập niên trước, Venezuela là một đất nước giàu có, phát triển không kém Tây Ban Nha, nay nước này lâm vào cảnh đói kém. Sống trên giếng dầu lớn thứ nhì thế giới nhưng người dân Venezuela lại không có xăng để dùng. Hồi kết của mô hình « Xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21 » được cố tổng thống Hugo Chavez vạch ra cách nay chưa đầy hai thập niên ?
« Chín tầng địa ngục »
Vào đầu những năm 2000, Venezuela đóng vai trò đầu tàu của châu Mỹ La Tinh. Năm 1999, lãnh đạo cánh tả mang tên Phong Trào Nền Cộng Hòa Thứ Năm, Hugo Chavez, lên cầm quyền và giương cao ngọn cờ mô hình « Xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21 », mà ở đó vế phát triển xã hội phải là ưu tiên hàng đầu. Caracas, dưới những năm tháng Chavez đã huy động đến 43 % ngân sách Nhà nước để phát triển các chương trình xã hội, từ y tế đến giáo dục và nhất là nhà ở cho dân nghèo.
Một số chính trị gia, cả ở Tây Âu, từng kỳ vọng nhân vật này đang mở ra một con đường mới. Chính sách xã hội của tổng thống Chavez ở Venezuela khiến nhiều nước ở châu Mỹ La Tinh ngưỡng mộ. Caracas là điểm tựa của Cuba, Nicaragua và nhiều nước bạn ở Nam Mỹ nhờ cấp dầu hỏa cho các quốc gia này với giá « hữu nghị ».
Năm 2017, người bạn hào phóng này của nhiều nước ở châu Mỹ La Tinh lao đao : người dân Venezuela lo kiếm cơm từng bữa. Năm 2006 khi vận động tái tranh cử, ông Chavez tự hào cải thiện đời sống cho 30 triệu dân Venezuela. Một chục năm sau, Venezuela đang thiếu đủ mọi thứ từ thuốc men đến lương thực thực. Thiếu luôn cả điện và xăng dầu.
Venezuela lún sâu vào khủng hoảng kinh tế, xã hội và chính trị. Đất nước bị chia rẽ hơn bao giờ hết. Trên phương diện chính trị, khủng hoảng khơi mào từ cuối 2015 khi phe đối lập giành được đa số tại Quốc Hội. Phe chống tổng thống Maduro đòi ông từ chức.
Từ tháng 09/2019, có tới 80 % người dân Venezuela đòi thay đổi chính quyền. Thế nhưng để bám víu vào chiếc ghế tổng thống, Nicolas Maduro đưa ra sáng kiến vô hiệu hóa Quốc Hội do đối lập kiểm soát bằng cách lập một Quốc Hội Lập Hiến, với 545 thành viên do ông chỉ định. Tối Cao Pháp Viện thân chính quyền đã phủ quyết tất cả các quyết định của Quốc Hội. Đó là giọt nước làm tràn ly.
Khủng hoảng Venezuela bước sang một khúc quanh mới kể từ ngày 18/04/2017, khi ba người biểu tình thiệt mạng trong một cuộc tuần hành chống Maduro. Tính cho tới ngày 10/07/2017, tức chưa đầy ba tháng sau, số nạn nhận đã lên tới gần 100 người.
Trong địa hạt kinh tế và xã hội, hơn 1/4 dân số không có việc làm. GDP giảm 18,6 % so với 2015. Lạm phát sau khi đã tăng 800 % năm ngoái. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự báo vật giá sẽ còn tăng lên gấp 10 lần trong năm 2017.
Giấc mơ tan vỡ
Giấc mơ mở ra một con đường mới, xây dựng một mô hình phát triển mới theo hướng xã hội chủ nghĩa cho thế kỷ 21 của cố tổng thống Chavez tan vỡ. Đâu là những sai lầm của chủ thuyết đó ? Trả lời Jean-Pierre Boris trên đài RFI Pháp ngữ, trong khuôn khổ chương trình Eco d’Ici Eco d’Ailleurs, Luis Colasante, chuyên gia về thị trường dầu khí Venezuela, kinh tế gia Camillo Umana-Dajud thuộc trung tâm nghiên cứu kinh tế CEPII của Pháp và phóng viên độc lập François Xavier Freland cùng phân tích về những sai lầm trong chiến lược phát triển của gần 20 năm dưới thời Chavez và Maduro.
Trưng thu đất của nông dân
Trước hết chuyên gia người Venezuela Luis Colasante nhấn mạnh đến sai lầm của Caracas chỉ trông chờ vào một lĩnh vực dầu khí để đem lại ngoại tệ :
« Venezuela sản xuất có mỗi một mặt hàng là dầu hỏa. Xuất khẩu dầu hỏa bảo đảm 76 % ngân sách quốc gia. Hiềm nỗi, các chính quyền Caracas liên tiếp không biết sử dụng nguồn thu nhập này để mở mang mạng lưới công nghiệp trên toàn quốc- như là ngành chế biến thực phẩm chăn nuôi, trồng trọt. Đáng tiếc hơn nữa, Venezuela có đất đai màu mỡ và phì nhiêu nhưng nông nghiệp lại không được phát triển. Từ gần 20 năm qua, giới tiểu nông đã đua nhau bán đất để lên thành phố kiếm sống ».
Nhà báo François Xavier Freland nói thêm đến chính sách tịch thu đất đai của nông dân để phát triển các hợp tác xã mà hậu quả là một phần giới canh nông phải bỏ nước tha phương cầu thực :
« Có rất nhiều người đã bị chế độ Chavez tịch thu đất đai. Đầu những năm 2000, khi lên cầm quyền, Hugo Chavez chủ trương dẹp bỏ các hoạt động tư nhân để thành lập các tổ hợp tác xã. Chính sách tịch thu đất của nông dân đã tăng tốc trong giai đoạn 2008-2009.
Mọi người còn nhớ những loạt phóng sự truyền hình cho thấy người hùng Chavez ồn ào khánh thành những hợp tác xã với một số máy móc mua lại của Iran. Nhưng rồi, nông dân không được đào tạo để sử dụng từ máy cầy đến máy gặt, hay là hệ thống tự động vắt sữa bò … Chỉ sau một thời gian, hàng trăm hợp tác xã bị bỏ trống. Nông dân thì đói vì không còn đất canh tác. Tôi có biết rất nhiều các trường hợp mà người ta phải bỏ xứ, sang Costa Rica hay Colombia kiếm sống ».
Sai lầm trong quan hệ thương mại
Về phía nhà nghiên cứu Camillo Umana-Dajud, Trung Tâm Nghiên Cứu về triển Vọng Kinh Tế Quốc Tế CEPII của Pháp, ông cho rằng cố tổng thống Chavez đã đi lỡ một nước cờ khi xa rời cộng đồng Andean – CAN để xích lại gần với khu vực MERCOSUR từ đó tách rời hai nhà cung cấp truyền thống là Equador và nhất là Colombia :
« Nông nghiệp không là chủ lực kinh tế của Venezuela. Quốc gia này thường phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm Colombia, của Equador. Khúc mắc nằm ở chỗ, khi lên cầm quyền năm 1999, Hugo Chavez và người kế nhiệm ông sau này là tổng thống Nicolas Maduro, đã xa rời Cộng đồng Andean- CAN – bao gồm 10 nước thành viên mà Colombia là một trong bốn cột trụ sáng lập ra khối này. Caracas mở rộng quan hệ với thị trường chung Nam Mỹ- MERCOSUR.
Liên minh mới này dẫn tới hậu quả là Venezuela nhập hàng của Brazil và Achentina nhiều hơn. Thực phẩm, ngũ cốc, lúa mì, bơ, sữa và nhất là thịt bò tăng giá vì phải nhập từ xa, tốn kém nhiều chi phí chuyên chở. Vấn đề này không đặt ra ở thời điểm mà Venezuela xuất khẩu dầu hỏa với giá 120-150 đô la một thùng. Nhưng khi giá dầu bị giảm đi phân nửa, rồi chỉ còn có 1/3 so với thu nhập hồi năm 2010, thì Venezuela lâm vào thế kẹt.
Thêm vào đó, ở vào đầu những năm 1980 kinh tế Venezuela phụ thuộc 75 % vào dầu hỏa, nhưng 25 % còn lại gồm nhiều có nhiều lĩnh vực như công nghệ hóa chất, nhựa và kể cả ngành công nghiệp xe hơi. Trong hơn một chục năm dưới thời của tổng thống Chavez, chỉ còn có mỗi ngành dầu hỏa là đứng vững. Phần còn lại bị thui chột vì hàng sản xuất ra không bán được cho các đối tác trong khu vực Andean. Đặc biệt là cả Chavez lẫn Manduro đều quyết định đóng cửa biên giới với Colombia ».
Quản lý kém cỏi
Sau nhiều lần công tác trên quê hương của Chavez, phóng viên Pháp nhà báo François Xavier Freland nhận thấy là người dân Venezuela mới chỉ 5 năm trước có khuynh hướng béo phì vì ăn uống quá độ, nay đang hốc hác vì thiếu ăn. Với nhà báo François Xavier Freland, Venezuela được thiên nhiên ưu đãi nhưng do quản lý kém cỏi đang đẩy 30 triệu dân vào cảnh đói nghèo.
« Venezuela là một quốc gia may mắn có đủ mọi thứ : có rất nhiều sông ngòi, ruộng đất phì nhiêu. Xưa kia có những nông trại lớn hoạt động tại ngay trên vùng Barinas- quê của Chavez, nhưng nay tất cả đều đã đóng cửa vì thiếu phân bón, vì không có phương tiện để tiếp tục khai thác, chăn nuôi. Venezuela là xứ nuôi bò và gia súc, chỉ sau 2 thập niên lại phải đi mua lại thịt bò của Urugugay và Achentina với cái giá đắt đỏ ».
Nhà kinh tế Camillo Umana-Dajud nêu bật sai lầm của chính sách quốc hữu hóa các ngành công nghiệp chính của Venezuela :
« Mới chỉ vào quảng năm 1985 Venezuela giàu có và phát triển ngang tầm với Tây Ban Nha. Đây là vùng đất hứa của người nhập cư từ bỏ châu Âu đi tìm một chân trời mới để lập nghiệp. Nhưng từng bước, quốc gia nam Mỹ này lún vào khủng hoảng. Đặc biệt bất bình đẳng trong xã hội ngày càng lớn. Đây chính là chìa khóa đưa ông Chavez lên cầm quyền. Có thể nói là trong 12 năm trời, Hugo Chavez đã thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo đó lại.
Nhưng bên cạnh đó là hàng loạt những sai lầm trong chính sách kinh tế : chúng ta đã nói tới những vụ trưng thu đất để lập ra các hợp tác xã. Ngoài ra, nhà nước quốc hữu hóa luôn các nhà máy, các công ty khai thác quặng mỏ.
Hàng loạt các tập đoàn ngoại quốc rút vốn khỏi Venezuela. Những hãng cung cấp hàng cho Venezuela gần đây đều ngưng giao dịch với quốc gia này, vì Caracas không còn khả năng thanh toán. Venezuela nợ rất nhiều các công ty của Colombia, hay Chilê, Achentina …
Tất cả những yếu tố đó giải thích vì sao, hiện tại, người dân xứ này thiếu đủ mọi thứ, từ thực phẩm đến thuốc men và kể cả xăng dầu ».
Tự tay bóp chết con gà đẻ trứng vàng
Sau cùng chuyên gia về dầu khí người Venezuela, Colasante nêu lên « sự điên rồ » của chế độ Chavez đã từng bước bóp chết con gà đẻ trứng vàng, đem lại 96 % ngoại tệ cho quốc gia, bảo đảm 76 % ngân sách nhà nước :
« Venezuela đang nắm giữ nguồn dự trữ dầu hỏa lớn thứ nhì trên thế giới, chỉ sau có Ả Rập Xê Út. Nhưng người dân không có xăng. Venezuela có khả năng cung cấp 5.000 triệu thùng dầu một ngày, nhưng trước mắt chỉ sản xuất được có 1,8 triệu. Có nhiều yếu tố giải thích cho điều này : thứ nhất là thiếu đầu tư, do các tập đoàn ngoại quốc từ của Ý đến Anh, hay Hà Lan đều đã rút khỏi Venezuela.
Thứ hai là chính sách quốc hữu hóa của ông Chavez đã đem lại nhiều tai hại. Tập đoàn dầu khí lớn nhất trên toàn quốc bị nhà nước thâu tóm. Chính phủ đuổi một loạt các kỹ sư giỏi và có nhiều kinh nghiệm để đưa những thành phần trung thành với ‘cuộc cách mạng mang tên Chavez’ vào thay thế. Không có đầu tư, không có kỹ thuật và kinh nghiệm, chỉ trong một thời gian ngắn, một phần lớn của nền công nghiệp dầu khí Venezuela- nguồn thu nhập chính của cả nước- đương nhiên bị xuống cấp.
Điểm thứ ba là dầu của Venezuela vừa đặc vưà khó khai thác. Đòi hỏi đầu tư nhiều trong lĩnh vực lọc dầu, mà như đã nói, đầu tư vào công nghệ dầu hỏa của Venezuela đã xuống cấp nghiêm trọng dưới những năm tháng cầm quyền của Hugo Chavez và Nicolas Maduro. Hệ quả trực tiếp là đã xảy ra nhiều tai nạn, như vụ nổ nhà máy lọc dầu vì bảo quản kém … ».
Không chỉ thất bại với công luận trong nước, mà ngay cả trên trường quốc tế, mô hình xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21 được ông Chavez vạch ra năm 1999 đã hết thiêng. Cánh tả ở châu Mỹ La Tinh đang phải thoái lui, từ Achentina tới Brazil. Trong lúc đồng minh cốt lõi của Venezuela là Cuba thì ngày càng hướng về Hoa Kỳ.
Caracas không còn khả năng tài chính để giữ những người bạn mới !
Côn Minh & Bắc Kinh- S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

tuongnangtien
Trung Hoa (dường như) chưa từng thoát khỏi đêm trường trung cổ.
Gần hai mươi năm trước, tôi hân hạnh được Đại Tá Phạm Văn Liễu gửi cho mấy tập hồi ký (Trả Ta Sông Núi) cùng lời yêu cầu viết một bài giới thiệu về tác phẩm của ông. Tôi thưa lại rằng mình rất vinh dự khi được nhờ cậy. Tuy nhiên, theo công tâm, tôi sẽ góp đôi lời về những trang sách mà tác giả đề cập đến những nhân vật quá cố (Ngô Đình Diệm & Hoàng Cơ Minh) với quá nhiều hằn học.
Ông không đồng ý như thế nên chút duyên nợ, về chữ nghĩa, giữa chúng tôi đã không có cơ thành tựu. Từ đó đến nay – thỉnh thoảng – tôi vẫn được đọc thêm những cuốn hồi ký khác, của nhiều nhân vật khác.
Phần lớn những người Việt Nam đi làm cách mạng, hồi đầu thế kỷ trước, đều có lúc phải sang Trung Hoa lánh nạn. Họ thường đi qua ngả Vân Nam vì địa danh này giáp giới với miền Bắc nước mình.
Phạm Văn Liễu cũng thế. Là một đảng viên Việt Quốc ông đã phải lưu lạc đến Côn Minh (thủ phủ của Vân Nam) khi còn là một thanh niên, ở tuổi đôi mươi. Ông kể lại rằng khi đang bơ vơ nơi đất lạ quê người thì may mắn được một phú gia người Hoa cho tá túc. Không những thế (và có lẽ vì cảm cái khí phách và nhân cách của chàng trai nước Việt) ông còn được vị ái nữ xinh đẹp, cùng cả gia đình, của vị đại gia này đem lòng thương mến.
Thiệt là quá đã!
Nếu tôi mà rơi vào hoàn cảnh tương tự thì cuộc đời cách mạng, tới đây, là … kể như rồi. Bôn ba làm chi, cho má nó khi. Làm rể người giầu – bất kể Tây/Tầu – là cơ hội hiếm, và (rất) không nên bỏ lỡ.
Quan điểm nhân sinh (nhỏ hẹp) của tôi, tất nhiên, cũng không được Phạm Văn Liễu đồng tình. Vì nghĩa lớn nên ông từ chối một cuộc sống ấm êm – bên cạnh mỹ nhân – và lại khoác áo lên đường, để lại biết bao là luyến thương (cùng sầu muộn) trong lòng người ở lại.
Tôi vốn hay thương vay khóc mướn nên cứ áy náy hoài về mối tình (dang dở) của vị tiểu thư Trung Hoa, và có cảm tình mãi với vùng đất mà cô sinh trưởng. Vì vậy nên ngay sau khi khi cầm được cái visa sang Tầu là tôi mua vé bay ngay đến Côn Minh.
Phi cơ hạ cánh giữa mưa. Nhìn núi đồi nhấp nhô và mờ nhạt xa xa khiến tôi cứ ngỡ như mình vừa đáp xuống phi trường Liên Khương, vào một chiều mưa nào đó (tưởng chừng) như vẫn chưa xa xôi lắm.
Cũng như Đà Lạt, Côn Minh ở độ cao hai ngàn mét nên khí hậu rất dịu dàng. Cây cỏ xanh tươi, đất trời mát rượi. Xa lộ dẫn vào thành phố khá tân kỳ. Đường rộng thênh thang. Hoa lá được chăm sóc kỹ càng, tử tế.
Tôi đã đặt phòng với giá rẻ nhất, chưa tới mười Mỹ Kim, bao luôn ăn sáng. Phòng ngủ chung nhưng nhà trọ vắng khách nên chỉ có mình tôi tui với mấy cái giường đôi, ngó trống trải thấy mà ái ngại.
Sau một giấc ngủ dài, tôi đeo máy ảnh đi loanh quanh khi trời chiều còn sáng. Đường phố rộng rãi, được phân làn rõ ràng và trật tự. Côn Minh không thiếu ô tô, và có nét đặc thù là rất nhiều xe hai bánh điện (e-bike) cùng không ít xe đạp.
Tranh cổ động dán ở khắp nơi. Dù không đọc được tiếng Hoa nhưng tôi cũng đoán được nội dung rất “lành mạnh” qua sắc mầu tươi vui, và những nét vẽ đơn sơ mộc mạc: giữ vệ sinh chung, nhường nhịn người già, chăm sóc cây cảnh …
Tranh cổ động ở Côn Minh. Ảnh chụp tháng 7/2017
Điều đáng nói là Côn Minh không chỉ làm đẹp bằng tranh cổ động. Du khách còn có thể thấy được “thiện chí” của thành phố này qua những con phố không bụi rác, và những nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ (miễn phí) dù không dễ tìm.
Tuy nhiên, chỉ cần rời bỏ đại lộ với những cao ốc chọc trời và rẽ ngang vào bất cứ một con đường ngang nào khác là sẽ có ngay một Côn Minh khác. Nhà cửa cũ kỹ, mái ngói rêu phong, cái nghèo có thể nhìn thấy được qua những cánh cửa mở toang (giường tủ, bàn ghế bừa bộn, tuyềnh toàng) và qua những khuôn mặt buồn phiền, cam chịu.
Tua tủa hai bên những con đường nhỏ là những ngõ hẻm sâu, vừa chỉ vừa lọt một chiếc xe đạp hay hai người đi bộ trái chiều. Cái gì chứ cảnh nghèo ở Á Châu thì tôi nhìn thấy hoài mà (ở Miên, ở Miến, ở Lào đều như vậy tuốt) nên không có hứng thú tiếp tục lần dò tiếp vào những ngõ ngách khai khai, tôi tối, và âm ẩm của Côn Minh.
Côn Minh. Ảnh chụp tháng 7/2017
Trở ra đường lớn thì không thiếu hàng quán tấp nập nhưng tôi không có thói quen ăn tiệm mình ên nên mua một phần cơm chỉ hai món (đậu đũa xào và thịt heo kho trứng) hết mười lăm nhân dân tệ, cỡ hai MK, và một chai rượu nhỏ cùng giá. Về lại nhà trọ, tôi ngồi nhai trệu trạo vì bụng không thấy đói và rượu thì quá dở: đã nhạt phèo mà lại còn có vị hơi ngòn ngọt nữa. Thiệt là vô duyên hết biết luôn!
Tôi không vào được gmail, face book, hay youtube. Mấy trang mạng quen thuộc cũng không luôn nên nghĩ rằng có lẽ vì mình thuê chỗ ở quá rẻ tiền nên wifi yếu. Thôi thì đành mua rượu uống nữa, dù là rượu dở, rồi lăn ra ngủ tiếp.
Sáng hôm sau tôi chạy ngay đi nơi khác, vào khách sạn có sao tử tế (Spring City Star Hotel) trên một con lộ lớn: No.636 Beijing Road, Panlong District 650051 China / Yunnan / Kunming.
Pass word của wifi ghi sẵn luôn trong thang máy. Thiệt là văn minh chưa từng thấy. Nhận phòng xong là tôi mở labtop liền.
Tưởng sao?
Cũng y như hôm qua thôi. No Gmail, no face book, no youtube … , dù những hình ảnh quảng cáo khách sạn hay vé máy bay (Agoda, Travelgenio, Jetcost, Expedia, Cheapoair …) vẫn xuất hiện đều đều, và thử bấm chơi thì đều chạy vo vo.
Tới lúc đó tôi mới chợt nhớ ra rằng (thôi chết mẹ rồi) mình đang ở trong đất Tầu. Côn Minh đâu phải là Vientiane, Phnom Penh, Yangon, hay Bangkok. Đây là thủ phủ của một tỉnh thuộc Trung Hoa Lục Địa, và bưng bít thông tin vốn là “chủ trương xuyên suốt” của mọi đảng CS mà. Thảo nào mà những người trẻ, ở nơi này, chả thấy mấy ai chăm chăm cầm cái smart phone như nhiều nơi khác!
Tự nhiên lại chợt nhớ đến Lưu Hiểu Ba, và câu nói lạc quan của ông khi còn tại thế: “Internet là món quà Chúa ban cho Trung Quốc. Nó là công cụ tốt nhất cho nhân dân Trung Quốc đang mơ ước vất đi sự nô lệ và đạt đến tự do.” Có lẽ vì món quà này qúi báu quá nên Đảng CS Trung Hoa phải nhất định “dằng lại” bằng mọi giá, kể cả cái giá là sự ngu dân để Nhà Nước dễ bề cai trị.
Thôi thì tạm quên Lưu Hiểu Ba, quên internet, và lại tiếp tục đi lòng vòng phố xá cho rộng tầm con mắt. Mắt tôi đụng toàn chữ Hán, đủ kích cỡ khác nhau nhưng đều đỏ rực như nhau – ngoại trừ tên mấy cái ngân hàng và khách sạn: China Construction Bank, Fudian Bank, Holiday Inn City Centre, Howard Johnson City of Flower Hotel …
Chinese – English. Ảnh chụp tháng 7/2017
Đi gần muốn rã cẳng luôn tôi mới chợt thấy một cái bảng hiệu tiếng Anh (Travel Agency) mà mừng muốn rơi nước mắt. Ôi Trời, tha hương ngộ cố tri!
Tôi cần một hướng dẫn viên, cần thuê một cái xe hơi, hay ít ra thì cũng phải mướn được một cái e-bike (cùng với bản đồ thành phố) để thăm thú Côn Minh cho biết sự tình. Chớ cứ lết bộ hoài, và xung quanh thì toàn là chữ Tầu không (chả hiểu cái con bà gì ráo trọi) thì chịu đời sao thấu?
Tôi hăm hở mở cửa bước vào văn phòng du lịch, với nụ cười tươi tắn, và một câu tiếng Anh thông dụng. Người đối diện đáp lại bằng tiếng Tầu. Tôi quay sang cô nhân viên ngồi kế, lập lại câu nói vừa rồi. Cô này cũng trả lời bằng tiếng Hoa, nghe từa tựa y như cô trước.
Coi như là hết thuốc!
Bây giờ thì tôi hiểu thế nào là một nhà tù lớn. Tuy không có chấn xong nhưng kẻ ở bên trong cũng hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài. No English, no face book, no youtube, no Gmail … mà tôi thì chỉ có gmail và không dùng điện thoại – bất kể loại nào.
Theo dự tính thì sau Côn Minh là sẽ đến Bắc Kinh (vài bữa, hoặc mươi ngày) nhưng tôi đổi ý. Tôi sẽ trở lại Phnom Penh hay Bangkok vào chuyến bay sớm nhất – khuya nay – với bất cứ giá nào. Côn Minh hay Bắc Kinh thì có khác gì nhau. Cả xứ sở này chỉ là một cái ngục tù bao la, có tên gọi là Trung Hoa Vỹ Đại!
1. Bảo vệ sinh mạng công dân
Năm 1988, trong thảm họa rơi máy bay Lockerbie, phần lớn hành khách là người Mỹ. Chính phủ Mỹ đã sử dụng hàng nghìn chuyên gia kỹ thuật, từ trong mấy triệu mảnh vụn của máy bay mà tìm ra thủ phạm là những phần tử khủng bố Libya.
Cuối cùng, nước Mỹ cứng rắn ép buộc chính quyền Tổng thống Gaddafi khi ấy giao nộp phần tử khủng bố. Chính phủ Mỹ đồng thời chi ra 2,7 tỷ đô-la tiền bồi thường cho nạn nhân vụ tai nạn này, gia đình mỗi nạn nhân nhận được 10 triệu đô-la (hơn 227 tỷ VNĐ).
Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai (nổ ra vào tháng 3/2003), quân Mỹ huy động lực lượng quân sự lớn mạnh tấn công tầm xa trong sa mạc. Quân đội của nhà độc tài Saddam Hussein binh bại như núi đổ, nhếch nhác bỏ chạy. Lúc này, trong cát bụi mịt trời, một chiếc xe vận tải của quân Mỹ mất phương hướng, lạc vào trận địa của quân địch.
Người lái xe là một nữ quân nhân tên Lira, bị thương và bị địch bắt giữ làm con tin để uy hiếp quân Mỹ. Cô bị nhốt ở một nơi hẻo lánh bí mật và bị canh giữ sát sao. Vì để cứu Lira, quân Mỹ đã huy động đội đột kích Hải Báo tấn công mãnh liệt khiến quân địch mất phương hướng, hoảng loạn tan vỡ.
Chỉ trong thời gian mấy phút, quân Mỹ đã giải cứu thành công Lira. Cô nhanh chóng được đưa về hậu phương điều trị. Chiến tranh kết thúc, Lira cùng với hai binh sĩ Mỹ từng bị bắt giữ khác trở về quê nhà và được chào đón như những người anh hùng.

Bảo vệ sinh mạng công dân. (Ảnh dẫn theo tuoitre.vn)
2. Nâng đỡ người nghèo khổ
Thước đo nghèo khổ của nước Mỹ là thu nhập bình quân của cá nhân dưới 11.139 đô-la Mỹ (khoảng 253 triệu VNĐ) mỗi năm, không bao gồm trợ cấp về thực phẩm và nhà ở. Nếu dựa theo tiêu chuẩn này, Trung Quốc ít nhất có 1 tỷ người đang sống dưới mức nghèo khó. Nói là người nghèo khó, nhưng ở Mỹ họ đều được hưởng tiền trợ cấp và nhiều phúc lợi như: Điều trị miễn phí, con cái hưởng giáo dục miễn phí và bữa cơm trưa dinh dưỡng miễn phí.
Ở nước Mỹ, người dân có bệnh thì bệnh viện cần phải điều trị trước, sau đó mới gửi hóa đơn viện phí đến nhà bệnh nhân. Nếu bạn không gánh nổi khoản tiền trị liệu thì các tổ chức từ thiện hoặc chính phủ sẽ ‘ra mặt’ giải quyết. Trong trường hợp người nghèo khó chỉ vì không có tiền chi trả viện phí mà bệnh viện ngưng điều trị thì những người có liên quan sẽ bị chất vấn và nhận chế tài của pháp luật.
Chính phủ Mỹ đầu tư mạnh cho giáo dục đối với trẻ em từ 0 đến 5 tuổi. Chính phủ cũng cung cấp các lớp học trên mạng cho học sinh vùng nông thôn cũng như đầu tư 2 tỷ đô-la để xây dựng hệ thống giáo dục đào tạo trực tuyến trên Internet trong 2 năm tới, cung cấp phục vụ mạng lưới băng thông rộng và vô tuyến cho hơn 20 triệu học sinh.
3. Bảo vệ người yếu thế
Ca sĩ Madonna từng nhổ nước bọt vào mặt một bà cụ, lập tức tòa án Liên bang phán quyết cô phải bồi thường 5 triệu đô-la Mỹ (khoảng 113 tỷ VNĐ) cho bà lão.
Quan tòa nói, sở dĩ mức phạt nặng như vậy không phải bởi miếng nước bọt đó đã mang đến tổn thương lớn ngần nào cho bà cụ. Lý do là với những người có tiền như Madonna nếu chỉ phạt bồi thường 50 nghìn đô-la, lần sau cô ấy chắc chắn sẽ tái phạm. Có thể cô ấy cũng sẽ gây tổn thương cho hơn 10 người khác nữa.
Như vậy, các phán quyết đưa ra không chỉ bởi mức độ thương tổn người bị hại gánh chịu, mà còn vì muốn răn đe, ngăn ngừa các hành vi tái diễn tương tự.
Thành phố Seattle của nước Mỹ có một em bé tên Leo, mắc phải chứng bạch tạng mắt. Thị lực của em không được tốt, chỉ có thể nhận dạng bố mẹ bằng cách sờ tay lên râu, lên mặt. Một công ty kính mắt của Mỹ đã đặc biệt thiết kế một chiếc mắt kính cho Leo. Sau khi đeo lên, em đã vô cùng xúc động bởi cuối cùng cũng nhìn thấy gương mặt mẹ cha.
Sự vĩ đại của lòng lương thiện chính là ở chỗ chân thành, vô tư giúp đỡ những người yếu thế mà không cầu lợi lộc gì. Đảm bảo sự bình đẳng cho một sinh mệnh chính là điều khó làm được nhất trên thế gian này.
Ngày 29/12/2002, sau Lễ Tạ ơn, người dân khắp nước Mỹ đều bận rộn với việc mua sắm. Đây cũng là ngày bận rộn nhất trong năm của các siêu thị. Tại một siêu thị ở thành phố Pittsburg, bang Florida, một bé gái 5 tuổi tên Kerriana cùng mẹ và hai anh cùng đi trên một thang máy có tay vịn tự động đi xuống.
Ở lối ra của thang cuốn, chiếc dép nhỏ của bé Kerriana không may bị mắc kẹt ở giữa tấm sàn và bậc thang, cô bé theo bản năng đã cúi mình xuống dùng tay nhặt chiếc dép lên, kết quả tay phải cũng bị kẹp vào trong, cuối cùng ba ngón tay của bé bị kẹp đứt hoàn toàn.
Trong quá trình giải cứu con gái, mẹ của bé cũng bị gãy xương ngón tay. Kết quả, tòa án phán quyết siêu thị phải bồi thường cho bé Kerriana 11,2 triệu đô-la (khoảng 255 tỷ VNĐ), bồi thường cho người mẹ 3,8 triệu đô-la, tổng cộng là 15 triệu đô-la.
4. Bảo vệ quyền trẻ em
Nước Mỹ coi trẻ em là tài sản quý báu của quốc gia, trẻ em được pháp luật che chở cẩn thận. Nếu bạn không có tiền gửi con ở nhà trẻ, chính phủ sẽ chi trả, hoặc không có tiền mua sữa bột, chính phủ cũng sẽ chu cấp. Ngoài ra còn có nhiều chính sách đặc biệt trợ cấp cho phụ nữ mang thai, sản phụ thu nhập thấp và trẻ em chưa đến 5 tuổi.
Các gia đình thu nhập thấp có thể nhận được bữa cơm dinh dưỡng sáng và trưa miễn phí. Nếu bạn không có tiền thuê nhà, chính phủ sẽ chi trả, hơn nữa quy định trẻ nhỏ cần phải có phòng ngủ riêng. Ở nước Mỹ, bạn sẽ không bao giờ bắt gặp hình ảnh trẻ em đi xin ăn.
Có một bà mẹ mải mê bận rộn việc nhà, nhất thời không để ý trông con. Đứa con chẳng may ngã xuống bể bơi chết đuối. Trong lúc người mẹ đang đau khổ không thôi thì bất ngờ nhận được giấy triệu tập của tòa án.
Lý do mà tòa án đưa ra vô cùng đơn giản, bà đã không làm hết trách nhiệm của một người giám hộ nên sẽ phải đối mặt với việc bị tuyên án. Điều đó cũng giúp cảnh tỉnh ý thức chăm sóc con trẻ cho hàng triệu người mẹ khác.
Người Mỹ quan niệm, một đứa trẻ trước hết thuộc về bản thân nó. Đứa trẻ đó mang theo vô số quyền lợi sống vốn có trong xã hội này. Không kể là bản thân nó có ý thức được hay không, không kể là nó có thể lớn lên thành người hay không, xã hội này có tầng tầng pháp luật để bảo vệ nó.
5. Bảo vệ tự do ngôn luận
Ở Mỹ, không có một hãng truyền thông nào thuộc về chính phủ. Bởi vì pháp luật nước Mỹ quy định, không thể lấy tiền của dân chúng để dát vàng cho mình mà lừa mị, mê hoặc dân chúng.
Kênh truyền thông duy nhất mà chính phủ Mỹ bỏ vốn làm chủ là đài phát thanh VOA của Mỹ, nhưng nó không được phép phát sóng trên đất Mỹ. Trong con mắt của người Mỹ, dư luận nên phải là tự do, nhiều nguồn, muôn hình muôn vẻ, thậm chí là mâu thuẫn lẫn nhau.
Năm 1984, Đảng Cộng hòa tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc ở bang Texas, đã có một nhóm nhân sĩ phản đối đến tổ chức hoạt động kháng nghị. Một người đàn ông tên là Johnson đã nhóm lửa đốt lá cờ vốn được treo lên để chúc mừng đại hội này. Vì thế, Jonhson bị tuyên phán có tội.
Nhưng tòa án phúc thẩm hình sự bang Texas đã định tội đối với ông, cho rằng hành vi đốt cờ của Jonhson là thuộc về “ngôn luận mang tính biểu tượng”, được bảo hộ bởi điều khoản tự do ngôn luận trong Hiến pháp Mỹ.
Văn kiện đính chính thứ nhất trong Hiến pháp của Mỹ quy định: Quốc hội Mỹ không được lập ra pháp luật hạn chế tự do ngôn luận của công dân. Dựa theo quy định này, bất cứ cơ cấu chính phủ nào đều không thể hạn chế quyền tự đo ngôn luận của công dân.
6. Nước Mỹ có thật sự bị người giàu thao túng không?
Nhiều người cho rằng nước Mỹ bị giới quyền quý thao túng. Thật ra, 20% người có thu nhập cao nhất nước Mỹ đã đóng trả 67% tiền thuế. Những người có thu nhập vừa và thấp chiếm 49% căn bản không phải đóng thuế, hơn nữa còn được hưởng các đãi ngộ miễn phí về mặt giáo dục, vệ sinh, phòng cháy chữa cháy, y tế…
Điều quan trọng hơn cả là một nửa những người không đóng thuế này lại có quyền bỏ phiếu giống như những nhân vật thượng lưu như Bill Gates, Warren Buffett, Mark Zuckerberg, Clinton…
Sự khác biệt giữa các triệu phú Trung Quốc và Mỹ là rất lớn. Các triệu phú nước Mỹ phần lớn đều là tự gây dựng sự nghiệp làm giàu, còn triệu phú Trung Quốc phần nhiều đều là dựa vào mối quan hệ mà ăn nên làm ra. Triệu phú nước Mỹ trốn thuế là chuyện cực hiếm, còn đa số triệu phú Trung Quốc đều có hành vi này trong đời ít nhất một lần.
Các triệu phú nước Mỹ rất hiếm việc bỏ làm ăn kinh doanh để chạy theo chính trị, còn các triệu phú Trung Quốc phần đông đều vừa là thương nhân, vừa chính trị gia, hoặc là quan thương câu kết.
Triệu phú nước Mỹ phần lớn đều hứng thú với sự nghiệp từ thiện, còn triệu phú Trung Quốc phần đông lại hứng thú với việc tẩu tán tài sản ra nước ngoài. Triệu phú nước Mỹ không có một người di cư sang Trung Quốc, còn các triệu phú Trung Quốc phần đông đều thích di cư sang Mỹ.
7. Nền tảng lập quốc của nước Mỹ
Điều được giảng trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ không phải là quần thể, quốc gia, thậm chí không hề giảng đến dân chủ. Điều được giảng là 3 quyền lợi lớn: quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Ba quyền lợi này đều là quyền lợi của cá nhân, không phải là quyền lợi của quần thể hay quốc gia.
Chính nền tảng văn hóa ấy đã khiến một quốc gia lớn mạnh thật sự. Sự lớn mạnh của nước Mỹ vốn không chỉ vỏn vẹn là sự lớn mạnh về quân sự, kinh tế, lãnh thổ, mà điều căn bản nhất chính là sự lớn mạnh trong tư tưởng, tinh thần.
Nguyên tắc cơ bản của nước Mỹ là chủ nghĩa cá nhân. Nói cách khác, nước Mỹ được kiến lập trên nền tảng “mỗi cá nhân đều có quyền lợi không thể tước đoạt được”. Những quyền lợi này là vô điều kiện, là quyền mà mỗi cá nhân được có và được hưởng, là thuộc về cá nhân, chứ không thuộc về đoàn thể.
Những quyền lợi này có được ngay từ khi công dân Mỹ vừa mới sinh ra, chứ không phải do ai ban tặng. Mặt khác, những quyền lợi này có thể bảo vệ cá nhân, khiến họ không phải chịu đựng sự xâm hại của bất cứ ai. Chỉ có kiến lập trên cơ sở quyền lợi cá nhân, mọi người mới có thể có được một xã hội tự do chính nghĩa, tôn nghiêm và bình đẳng.
Nước Mỹ quả thực đang có được chế độ dân chủ tiên tiến nhất mà nhân loại từng phát minh ra cho đến nay. Họ có được kỹ thuật tân tiến nhất, đỉnh cao nhất về mặt quân sự, dân dụng, thương dụng, hàng không… trên thế giới. Họ cũng có tiềm lực sáng tạo lớn mạnh nhất và bảo vệ quyền sở hữu hoàn thiện nhất.
Ở Mỹ, đất đai đâu đâu cũng đều có thể trồng trọt, chỉ riêng sản lượng nông nghiệp một năm của bang California đã vượt quá tổng số sản lượng nông sản cả năm của Trung Quốc. Nước Mỹ là siêu cường quốc trên thế giới, chính là giống như đế quốc Anh đã từng xưng bá thế giới 300 năm. Nước Mỹ không phải là thiên đường, nhưng lại là nơi gần với thiên đường nhất nơi cõi người.
8. Văn hóa Mỹ và Trung Quốc khác biệt ra sao?
Thời hiện đại bây giờ, ở Trung Quốc, nếu như bạn nói lời chân thật, người khác sẽ nói bạn ngốc. Mỗi người đều bị buộc phải đi cửa sau, mọi người đều bị buộc phải dùng mánh lới thủ đoạn, đào sâu vào lỗ hổng. Còn ở Mỹ, nói dối là một vấn đề nghiêm trọng. Người nói dối một khi bị đánh một vết đen vào hồ sơ lý lịch, sau này dù có làm việc gì cũng đều rất khó khăn.
Hai loại văn hóa khác nhau dẫn đến hai loại hết cục khác nhau: một bên thì dối trá lộng hành, không giảng quy tắc, đạo đức bại hoại, tố chất thấp kém; một bên thì chính khí tràn trề, có phong thái của bậc quân tử.
Rất nhiều người Trung Quốc đã bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với xã hội Âu Mỹ. Trái ngược với những tuyên truyền một chiều của chính phủ Trung Quốc về một nước Mỹ xấu xí, bất ổn, thì người dân Mỹ vẫn có thể đường hoàng sống với những tiêu chuẩn rất cao mà ở đây chỉ tạm liệt kê ra vài điều nổi bật:
– Có thể tự do phê bình chính phủ;
– Làm việc không cần phải luồn lách quan hệ;
– Không ai dám cưỡng chế, sách nhiễu;
– Chỉ cần bản thân có thực lực là có thể thăng chức;
– Gần như không có thực phẩm độc hại, quang cảnh nước biếc trời trong;
– Vật giá rẻ, thu nhập cao, phúc lợi tốt;
– Chăm lo người già, trẻ em, khám bệnh, giáo dục phần lớn đều là do chính phủ gánh vác;
– Nếu như có quan chức không làm tròn trách nhiệm thì có thể bỏ phiếu phản đối;
– Quan niệm mọi người bình đẳng đều đã ăn sâu vào lòng người;
– “Con ông cháu cha” không dám ngông cuồng hống hách.
Người Mỹ bận bịu với việc liên kết thế giới thành một khối, từ thành lập Liên Hợp Quốc cho đến phát minh ra mạng Internet. Người Mỹ tin tưởng rằng chiến tranh của nhân loại bắt nguồn từ gián cách giữa hai bên. Nếu như các nước trên thế giới có thể hiểu rõ nhau hơn, tin tưởng lẫn nhau và cùng theo đuổi giá trị chung, tự khắc xung đột, chiến tranh sẽ giảm đi.
Còn người Trung Quốc thì lại bận rộn với việc phong tỏa mạng lưới nghiêm ngặt để chia cắt thế giới, lừa gạt người dân rằng hy sinh tự do là vì để không trở thành nô lệ mất nước.
Trung Quốc dùng những bài học tư tưởng chính trị để giáo dục người dân yêu nước. Bắc Triều Tiên là dùng súng ống và tay sai để cưỡng ép người dân yêu nước. Nước Mỹ thì trái lại luôn dùng hành động thực tế để cảm hóa người dân mình yêu nước từ trong tâm, thử hỏi ai hay ai dở?
Thật ra, bạn chỉ cần làm rõ hai câu hỏi dưới đây thì có thể cảm giác được ngay:
Thứ nhất, nước Mỹ là nước Mỹ của người dân Mỹ, Trung Quốc là Trung Quốc của ai? Thứ hai, tại sao các tham quan Trung Quốc o bế Bắc Triều Tiên như vậy nhưng lại không một ai di cư sang Bắc Triều Tiên, trái đều lại thi nhau di dân sang Mỹ?
Theo Secret China
Vũ Dương biên dịch
Chỉ trong vòng vài phút sau khi thế giới được tin người đoạt giải Khôi nguyên Hoà bình Lưu Hiểu Ba qua đời, hàng loạt các hãng truyền thông lớn của thế giới, và các nhà đấu tranh, bất đồng chính kiến, người lên tiếng vì môi trường, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam cũng đồng loạt đăng bài viết chia sẻ về cuộc đời, cảm kích về sự nghiệp đấu tranh của ông.
Hãy yên nghỉ, chúng tôi ở đây, và Lưu Hiểu Ba cũng ở đây với chúng tôi.
– Nghệ sĩ, nhà hoạt động nổi tiếng thế giới Ngải Vị Vị
Sau khi có tin về sự ra đi của ông Lưu Hiểu Ba, tin nhận được từ hãng thông tấn AP cho biết những người ủng hộ nhân quyền và các nhà hoạt động dân chủ đã bày tỏ sự đau buồn sâu sắc. Ông Vương Đan, một trong những người lãnh đạo phong trào phản kháng dân chủ năm 1989 tại Quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh, kêu gọi các chính phủ và người dân trên toàn thế giới phải lên tiếng để bà Lưu Hà, vợ của ông Lưu Hiểu Ba được rời Trung Quốc, nơi bà đang bị quản thúc tại gia.
Hãng thông tấn AP trích lời ông Vương viết, “Lưu Hiểu Ba, người thầy đáng kính của tôi, anh trai yêu dấu của tôi, bạn đã chịu quá nhiều khó khăn, hãy yên nghĩ.”
Thủ lĩnh phong trào dù vàng Hồng Kong, Hoàng Chi Phong (Joshua Wong) đăng trên trang tweeter của anh lời cam kết: “Chúng tôi sẽ tiếp bước con đường của ông, tranh đấu cho nền dân chủ của Hồng Kong và Trung Quốc.”
Nghệ sĩ, nhà hoạt động nổi tiếng thế giới Ngải Vị Vị đã viết: “Hãy yên nghỉ, chúng tôi ở đây, và Lưu Hiểu Ba cũng ở đây với chúng tôi.”
Từ Việt Nam, Facebooker Ngô Thanh Tú, từ Bình Thuận viết trên trang cá nhân của ông: “Cái chết của ông Lưu làm người dân Việt Nam nhớ đến thầy giáo Đinh Đăng Định, người đã nhiều lần lên tiếng phản đối việc xây dựng các nhà máy khai thác Bauxite ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Không chấp nhận tiếng nói trái chiều, nhà cầm quyến CSVN đã giam cầm thầy giáo Định trong những nhà tù khắc nghiệt nhất nhằm đè bẹp ý chí của ông.
Cũng như Lưu Hiểu Ba, bất chấp những lên án và kêu gọi thả thầy giáo Định, nhà cầm quyền CSVN quyết tâm giam cầm ông và chỉ thả khi ông mắc bịnh hiểm nghèo và chết không nhắm mắt (theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) một thời gian ngắn sau đó.”
Thầy giáo, tù nhân lương tâm Đinh Đăng Định cũng chính là nhân vật được nhà đấu tranh Nguyễn Chí Tuyến nhắc ngay đến khi được hỏi về ảnh hưởng của ông Lưu Hiểu Ba đối với phong trào đấu tranh dân chủ trong nước.
“Đối chiếu với những nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam, ví dụ như thầy Đinh Đăng Định, thầy cũng bị nhà cầm quyền Việt Nam bắt và bỏ tù. Đến lúc thầy gần chết thì người ta mới đưa ra khỏi nhà tù, về nhà một thời gian sau thì thầy chết.
Với ông Lưu Hiểu Ba thì nhà cầm quyền Trung Quốc đối xử với ông cũng chả khác gì.
Thế nhưng cái nguyện vọng cuối đời của ông ấy là ông ấy nói nếu chết thì ông ấy mong muốn được chết trên một đất nước tự do, tức là ông ấy không muốn chết trên đất nước Trung Quốc, không muốn chết trên chế độ bạo tàn của Cộng sản.”
Năm 2008, ông Lưu Hiểu Ba bị giam giữ. Một năm sau ông bị kết án 11 năm tù giam vì “kích động lật đổ chính quyền” sau khi ông cho ra đời tuyên ngôn mang tên “Hiến chương 2008”, kêu gọi việc xem xét và cải cách dân chủ hệ thống chính quyền của Trung Quốc.
Năm 2010, trong lúc đang trong tù giam, ông được trao giải Nobel Hoà bình. Do ông thể tham dự, giải thưởng đã được đặt trên một chiếc ghế trống, cùng với tấm ảnh chân dung của ông được phóng lớn treo bên cạnh.
Nói về thời khắc “nhận” giải thưởng Nobel Hoà Bình của ông Lưu Hiểu Ba, ông Nguyễn Chí Tuyến liên tưởng đến ngày trao giải Phụ nữ Quốc tế Dũng cảm năm 2017 cho blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.
Hôm đó, bà cũng không thể có mặt vì đang bị giam giữ do bị cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Chí Tuyến, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một trong những ví dụ điển hình cho thấy sự tương đồng về cách đối xử của nhà nước Trung Quốc và Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến.
“Tôi nhìn qua trường hợp của ông Lưu Hiểu Ba thì tôi thấy tất cả những gì của Việt Nam và Trung Quốc thì hoàn toàn không khác nhau gì mấy về tất cả thủ đoạn cũng như gọi là chiêu trò của Đảng cộng sản với người bất đồng chính kiến.”
Tôi nhìn qua trường hợp của ông Lưu Hiểu Ba thì tôi thấy tất cả những gì của Việt Nam và Trung Quốc thì hoàn toàn không khác nhau gì mấy về tất cả thủ đoạn cũng như gọi là chiêu trò của Đảng cộng sản với người bất đồng chính kiến.
– Nhà hoạt động Nguyễn Chí Tuyến
Từ Hà Nội, nhà hoạt động Đường Văn Thái, cho biết blogger Mẹ Nấm và những nhà hoạt động đấu tranh khác đang bị giam cầm trong tù chính là hình ảnh của những Lưu Hiểu Ba ở Việt Nam.
“Điều đó là điều hiển nhiên. Như vừa rồi phiên toà xét xử Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một ví dụ rất điển hình. Cách đối phó cũng như cách hành xử với nhà bất đồng chính kiến của nhà cầm quyền Cộng sản thì như nhau cả thôi. Chẳng qua nó gọi là phiên bản F1, F2”
Nhà đấu tranh Trần Bang, từ Sài Gòn trả lời chúng tôi qua email cho rằng cách thức nhà nước Trung Quốc đối với ông Lưu Hiểu Ba ngay cả những ngày cuối đời không khác với phản ứng của nhà nước Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến, đấu tranh cho dân chủ nhân quyền trong nước.
“Đúng là có sự tương đồng giữ Trung Quốc và Việt Nam trong việc phản ứng với những người bất đồng chính kiến, đấu tranh cho dân chủ nhân quyền.
Nhiều nhà bất đồng chính kiến thường liên hệ rằng “nếu phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Bắc Kinh thắng lợi thì Trung Quốc đã chuyển hoá sang dân chủ như Liên Xô, Đông Âu… thì độc tài Cộng sản Việt Nam cũng đã sập.”
Còn rất nhiều những lời chia sẻ của thế giới và của người Việt Nam gửi đến ông, người Trung Quốc đoạt giải Khôi nguyên Hoà Bình vì những nỗ lực thúc đẩy nhân quyền ngay trên đất nước của ông. Xin mượn câu nói của chính ông Lưu Hiểu Ba: “Vì không có thế lực nào có thể ngăn chặn được đòi hỏi của con người được có tự do và Trung Quốc cuối cùng sẽ trở thành một quốc gia được điều hành bởi luật pháp, nơi nhân quyền là trên hết” để kết thúc cho bài viết Thông điệp của thế giới và các nhà đấu tranh ở Việt Nam gửi về ông Lưu Hiểu Ba.

Khảo sát cho thấy khoảng phân nửa số triệu phú tham gia trả lời đều cân nhắc ra nước ngoài để sống.
Thực trạng ô nhiễm, giáo dục, và việc đồng nhân dân tệ Trung Quốc mất giá ảnh hưởng tới tiền tiết kiệm được cho là các lý do.
Nghiên cứu của Báo cáo Huran và Tập đoàn Tư vấn Visa đã khảo sát 304 cá nhân Trung Quốc với tài sản ròng trong khoảng 1.5 triệu và 30 triệu USD. Khoảng phân nửa số này sống và làm việc tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu hoặc Thâm Quyến.
“Giáo dục và ô nhiễm đang là các nguyên nhân khiến người giàu tại Trung Quốc di cư,” giám đốc nghiên cứu Báo cáo Huran là Rupert Hoogewerf cho biết.
“Nếu Trung Quốc có thể giải quyết những vấn đề này thì các lý do cơ bản để đi định cư sẽ không còn nữa.”
Báo cáo cho thấy Anh bị tụt hạng trong danh sách các điểm ưa thích của triệu phú Trung Quốc muốn ra nước ngoài sống, theo một báo cáo.
Trong khi Hoa Kỳ vẫn là nơi yêu thích để định cư, Canada hiện đứng thứ hai, đẩy Anh xuống vị trí thứ ba.

Báo cáo không nói chi tiết vì sao Anh tụt hạng sau Canada.
Los Angeles là điểm đến ưa thích cho giới có tiền của tại Trung Quốc và sau đó là Seattle, San Francisco và New York. London đứng thứ 14.
Đồng nhân dân tệ, vốn mất giả kỷ lục vào tháng 11 năm ngoái, rõ ràng ảnh hưởng tới quyết định của giới giàu có tại Trung Quốc.
Trong số những người tham gia khảo sát, 84% nói lo ngại nhân dân tệ mất giá là nguyên nhân chính khiến họ cân nhắc ra nước ngoài định cư.
Cử tri trả lời ba câu hỏi và với tỷ lệ phiếu áp đảo, bác bỏ đề xuất thành lập cơ quan lập pháp cấp cao mới, kêu gọi quân đội bảo vệ hiến pháp hiện hữu, đồng thời ủng hộ việc tổ chức bầu cử trước khi ông Maduro kết thúc nhiệm kỳ vào đầu năm 2019.
Cử tri Dioinisio Espinoza ở thủ đô Caracas nói:
“Tôi đến đây vì lương tâm, trách nhiệm công dân thôi thúc. Và đây là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy người dân không hài lòng. Ở cấp độ quốc tế, ở bất kỳ quốc gia nào có quyền bầu cử, dù ai đang cầm quyền, thì quyền lực vẫn trong tay của người dân. Đây là sự thay đổi mà mọi người trông đợi, tất cả chúng tôi đến đây để thực hiện điều đó.”
Nhiều tay súng di chuyển trên xe gắn máy đã nổ súng vào một nhóm cử tri tại thủ đô Caracas khi họ bỏ phiếu hôm Chủ nhật, giết chết một phụ nữ khoảng 60 tuổi và làm bị thương 3 người khác.
Phe đối lập đổ lỗi cuộc tấn công bên ngoài nhà thờ ở một trong các quận nghèo của thủ đô Caracas, là do các thành phần “bán quân sự” ủng hộ chính quyền thực hiện. Một tuyên bố của phe đối lập nói họ cảm thấy “đau đớn” về vụ nổ súng này.
Việc năng lượng giảm giá trên toàn cầu cùng với nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền đã phá hủy nền kinh tế giàu tài nguyên dầu hỏa của Venezuela, khiến hàng triệu người phải chật vật xoay sở để thỏa đáng các nhu cầu căn bản. Khoảng 100 người đã thiệt mạng trong các cuộc biểu tình chống chính phủ diễn ra hầu như hàng ngày trong vài tháng qua.
Ông Maduro bác bỏ cuộc trưng cầu dân ý hôm Chủ nhật, ông nói cuộc biểu quyết này vi hiến và ông tiếp tục vận động ủng hộ cuộc bỏ phiếu ngày 30/7 sắp tới để thành lập một quốc hội có thẩm quyền viết lại hiến pháp và giải thể các cơ quan nhà nước.
Ông Maduro nói thay đổi hiến pháp là cách duy nhất để đưa Venezuela thoát cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội trầm trọng. Ông Maduro kêu gọi phe đối lập bắt đầu thực hiện một vòng hòa đàm mới.
Tuy nhiên, phe đối lập nói rằng quốc hội mới này sẽ được dàn xếp một cách gian lận để có lợi cho ông Maduro. Phe đối lập nói việc soạn lại hiến pháp không có ý nghĩa gì, đây chỉ là một âm mưu của ông Maduro để biến Venezuela thành một chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa và triệt tiêu những tiếng nói bất đồng.

LƯU HIỂU BA – BIỂU TƯỢNG TỰ DO CỦA ĐẤT NƯỚC TRUNG QUỐC ĐÃ QUA ĐỜI.
Copy từ Fb Phạm Thanh Nghiên
Nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng người Trung Quốc, giáo sư Lưu Hiểu Ba vừa qua đời ở tuổi 62 tại một bệnh viện thuộc thành phố Thẩm Dương sau một thời gian ngắn điều trị bệnh ung thư gan.
Ông Lưu Hiểu Ba bị bắt năm 2008 và bị kết án 11 năm tù giam với cáo buộc “âm mưu lật đổ nhà nước”.
Sau khi đã thụ án được 8 năm, ngày 23/5/2017 ông Lưu bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư gan và được đưa ra khỏi nhà tù để điều trị tại một bệnh viện ở tỉnh Thẩm Dương (đông bắc Trung Quốc).
Nhà nước cộng sản Trung Quốc loan tin rằng ông Lưu được ra khỏi nhà tù để điều trị bệnh là do “chính sách nhân đạo” của chế độ.
Tuy nhiên, “chính sách nhân đạo” này lại khước từ yêu cầu của gia đình ông Lưu và các tổ chức nhân quyền Quốc tế về việc cho phép ông sang Mỹ hoặc Đức chữa bệnh.
Tên tuổi vị giáo sư, nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng này gắn liền với sự kiện Thiên An Môn năm 1989 khi nhà cầm quyền Trung cộng cho quân đội, công an giết hại, thảm sát hàng ngàn người biểu tình ôn hòa đòi dân chủ.
Giáo sư Lưu khi đó còn rất trẻ, đang thỉnh giảng tại đại học Columbia ở New York. Lòng yêu nước và sự quả cảm của một trí thức chân chính đã thúc đẩy ông bay về Bắc Kinh, đồng hành với giới trẻ Trung Quốc, tham gia các cuộc biểu tình ôn hòa và chứng kiến tận mắt tội ác của nhà cầm quyền Trung cộng.
Cùng với một số người sống sót khác, ông Lưu Hiểu Ba được thừa nhận là đã có công thương thuyết với quân đội để cứu hàng trăm (có tài liệu nói hàng ngàn) người biểu tình khỏi sự giết hại và rời khỏi quảng trường một cách an toàn.
Kể từ sau vụ thảm sát Thiên An Môn đến trước năm 2008, Lưu Hiểu Ba liên tục bị khủng bố, đe dọa và đã từng hai lần bị bắt đi tù. Ông từng từ chối đi tị nạn chính trị ở Úc, quyết định ở lại Trung Quốc để đấu tranh, vận động nhân quyền trong bối cảnh bị khủng bố rất khốc liệt.
Bản án 11 năm tù vào năm 2009 (sau hơn 1 năm bị tạm giam) là bản án dài nhất trên con đường tranh đấu mà ông từng nhận, tận đến khi ông qua đời.
Trong khi Lưu Hiểu Ba bị đày đọa trong nhà tù nhiều năm trời thì vợ ông, bà Lưu Hà cũng bị nhà cầm quyền Trung cộng khủng bố, đe dọa và ngăn cản quyền tự do đi lại.
Tháng 10 năm 2010, nhà hoạt động nhân quyền Lưu Hiểu Ba được trao tặng giải Nobel Hòa Bình khi còn đang ở trong tù. Trước ông, từng có hai người được nhận giải thưởng danh giá này trong lúc bị giam giữ là ông Carl von Ossietzky người Đức (1935) và bà Aung San Suu Kyi người Myanmar (1991). Nhà cầm quyền Trung cộng khi đó đã phản đối rất gay gắt giải thưởng này dành cho ông, đồng thời không ngừng cho báo chí bôi nhọ và mạ lị ông.
Lưu Hiểu ba từng phát biểu rằng “Không có thế lực nào có thể ngăn chặn được đòi hỏi của con người được có tự do và Trung Quốc cuối cùng sẽ trở thành một quốc gia được điều hành bởi luật pháp, nơi nhân quyền là trên hết.”
Sự kiện giáo sư, nhà văn và trên hết là nhà hoạt động nhân quyền đáng kính Lưu Hiểu Ba mắc bệnh ung thư trong tù và qua đời chỉ sau chưa đầy hai tháng “được về nhà chữa bệnh” là một sự kiện chấn động. Nó không chỉ phản ánh thực trạng đất nước Trung Quốc dưới sự cai trị của chế độ cộng sản mà còn như một sự nối tiếp của quá khứ đen tối hàng ngàn năm trước đến thời đại văn minh nhân loại – thứ văn minh mà Trung cộng đã khước từ. Trung Hoa (dường như) chưa từng thoát khỏi đêm trường trung cổ.
Cái chết của Lưu Hiểu Ba liệu có đánh động đến người dân Trung Quốc cho một sự trỗi dậy, cho khát vọng tự do từng nhuốm nhiều máu và đổ xuống nhiều sinh mạng?
Câu chuyện tù của Lưu Hiểu Ba có làm rúng động tâm cam của những người còn lương tri ở bên ngoài biên giới Trung Quốc, trong đó có người Việt Nam?
Tôi ngưỡng mộ Lưu Hiểu Ba, cảm phục ý chí, trí tuệ, tinh thần, tầm vóc của ông. Và dấy lên nỗi lo lắng cho những TNLT mang tên Trung Quốc, mang tên Việt Nam, mang tên xứ sở độc tài với không chỉ đói ăn, thiếu mặc, nhục hình mà còn đối mặt với nhan nhản những thứ độc hại.
Khoan hãy nói đến những nghi vấn về chất độc được xâm nhập vào cơ thể của người tù bởi sự ác ý. Sự thực cần phải được nhìn ra là từ nhà tù to đến nhà tù nhỏ mang tên Việt Nam, mang tên Trung Quốc đều đầy rẫy những mầm chết, khi mà môi trường đã bị chính những người cộng sản ở hai quốc gia này tàn phá.