Bản quyền hình ảnh EPACác bác sĩ gắp được 5 viên đạn trên cơ thể người đào tẩu và nghi rằng vẫn còn hai viên chưa lấy ra được
Một người lính Bắc Hàn đào tẩu bằng cách vượt qua Khu Phi Quân sự (DMZ) đã bị trúng ít nhất 5 phát đạn và đang trong tình trạng nguy kịch, Nam Hàn cho hay.
Người lính này băng qua biên giới phía Nam Hàn của Khu vực An ninh chung (JSA) ở Bàn Môn Điếm hôm 13/11.
Ông lái xe đến gần JSA, nhưng sau đó buộc phải nhảy xuống và chạy về phía Nam vì xe gặp sự cố, một bánh long ra.
Các đồng đội của người này đã bắn chừng 40 phát đạn về phía ông ta, kể cả khi người đào tẩu đã sang phía miền Nam.
Bị trúng đạn vào vai, tay và bụng, người này gục ngã nhưng cố bò về phía Nam.
Đây là nơi đã ở trong lãnh thổ miền Nam chừng 50 mét, ở phía sau căn nhà do Quân đội Hàn Quốc kiểm soát.
Câu chuyện về một người trốn khỏi Bắc Hàn thành sĩ quan Nam Hàn
Vì sợ bị trúng đạn, các quân nhân Mỹ và Hàn Quốc đã bò vào điểm này để kéo người lính Bắc Hàn về phía mình.
Theo những gì các bác sỹ phẫu thuật cho người này nói với báo chí thì người bộ đội miền Bắc này mặc quân phục cấp thấp.
Các bác sỹ nói họ lấy ra 5 viên đạn từ cơ thể người lính miền Bắc nhưng nghi rằng có thể còn hai viên nữa bên trong.
Buổi sáng ngày thứ Ba, người bộ đội này bị ngất đi nhưng bác sỹ Lee Cook Jong, trưởng nhóm phẫu thuật, nói bệnh nhân sẽ sống.
Mỗi năm có khoảng 1.000 người từ miền Bắc chạy trốn sang miền Nam nhưng rất ít người vượt qua được khu DMZ, một trong những nơi được được canh phòng cẩn mật nhất thế giới.
Bản quyền hình ảnh EPABinh lính Bắc Hàn được cho là bắn người đào tẩu 40 phát
Điều lạ thường hơn nữa là có những người Bắc Hàn cố tìm cách vượt biên ở khu vực JSA, nơi thu hút nhiều khách du lịch và là nơi duy nhất thuộc về DMZ có binh lính hai bên đối mặt nhau.
Bộ trưởng Quốc phòng Nam Hàn Song Young-moo nói với các nhà lập pháp rằng đây là lần đầu tiên binh lính Bắc Hàn nổ súng vào phần JSA thuộc miền Nam.
Một số dân biểu hiện đang đặt câu hỏi về việc liệu như vậy có phải là Bắc Hàn đã vi phạm các điều khoản của thỏa thuận đình chiến giữa hai bên, hãng tin Yonhap của Nam Hàn tường thuật.
‘Bị thương nặng’
Một ủy ban của Liên Hiệp Quốc đã được thành lập để điều tra về việc liệu các điều khoản đình chiến có bị phá vỡ hay không, phóng viên BBC Mark Lowen ở Seoul nói.
Otto Warmbier: Chuyến du lịch sinh mạng ở Bắc Hàn
Nếu họ phát hiện rằng phía Bắc Hàn vẫn tiếp tục nổ súng khi quân nhân đào ngũ đã ở lãnh thổ miền Nam, thì đây là hành vi vi phạm điều khoản đình chiến.
Các bác sĩ cho hay người lính bị thương nặng trong lúc chạy khỏi miền Bắc và vẫn đang được chữa trị tại bệnh viện ở miền Nam.
Trên lý thuyết, bán đảo Triều Tiên vẫn còn trong tình trạng chiến tranh dù cuộc xung đột giữa hai miền chấm dứt vào năm 1953 với thỏa thuận đình chiến.
Ông Suh Uk, một quan chức trong quân đội Nam Hàn nói với các nhà lập pháp: “Đến sáng 14/11, chúng tôi được biết người đào ngũ vẫn chưa tỉnh và phải thở máy, nhưng có thể giữ được mạng sống.”
Các bác sĩ gắp được 5 viên đạn trên cơ thể ông ta và nghi rằng vẫn còn hai viên chưa lấy ra được.
Seoul nói có hơn 30.000 người Bắc Hàn đã chạy sang Nam Hàn kể từ khi kết thúc Cuộc chiến Triều Tiên hồi 1953 cho tới nay.
Vào ngày này năm 1982, Lech Walesa, lãnh đạo phong trào Đoàn kết bất hợp pháp của Ba Lan, đã trở lại căn hộ của ông ở Gdansk sau 11 tháng bị giam tại một nhà nghỉ săn bắn nằm gần biên giới với Liên Xô. Hai ngày trước đó, hàng trăm người ủng hộ đã bắt đầu một buổi canh thức ở bên ngoài nhà ông khi biết rằng người sáng lập phong trào công đoàn Ba Lan sắp được thả. Khi Walesa trở về nhà vào ngày 14/11, ông được một đám đông vui vẻ nâng lên và đưa đến tận cửa căn hộ, nơi ông chào vợ mình và sau đó có một bài phát biểu trước những người ủng hộ từ cửa sổ tầng hai.
Walesa, sinh năm 1943, đang là một thợ điện tại Nhà máy Đóng tàu Lenin ở Gdansk khi ông bị đuổi việc vì kích động công đoàn vào năm 1976. Khi biểu tình nổ ra tại nhà máy đóng tàu Gdansk vì giá lương thực tăng cao vào tháng 8/1980, Walesa đã trèo qua hàng rào đóng tàu và tham gia cùng với hàng ngàn công nhân bên trong nhà máy. Ông được bầu làm lãnh đạo của cuộc đình công, và ba ngày sau, các yêu cầu của cuộc đình công đã được đáp ứng. Walesa tiếp đó đã phối hợp các cuộc đình công khác ở Gdansk và yêu cầu chính phủ Ba Lan cho phép tự do thành lập các công đoàn và trao quyền được đình công. Vào ngày 30/08, chính phủ đã chấp nhận những đòi hỏi của các nhà lãnh đạo, hợp pháp hóa công đoàn và trao quyền tự do ngôn luận và tôn giáo.
Hàng triệu công nhân và nông dân Ba Lan đã tụ tập để thành lập các công đoàn, và phong trào Đoàn kết được hình thành như một liên hiệp các công đoàn quốc gia, với Walesa làm chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo đầy sức lôi cuốn của Walesa, tổ chức này ngày một phát triển về quy mô và ảnh hưởng chính trị, sớm trở thành mối đe dọa lớn đối với chính quyền Ba Lan. Ngày 13/12/1981, Ba Lan tuyên bố thiết quân luật, phong trào Đoàn kết bị cấm, và Walesa cùng các nhà lãnh đạo khác bị bắt.
Tháng 11/1982, áp lực dư luận quá lớn đã khiến chính phủ phải thả Walesa, nhưng Đoàn kết vẫn là một phong trào bất hợp pháp. Năm 1983, Walesa được trao Giải Nobel Hòa bình. Lo sợ cảnh lưu vong trái ý nguyện, ông đã từ chối đi đến Na Uy để nhận giải thưởng. Walesa sau đó tiếp tục lãnh đạo phong trào Đoàn Kết mà nay phải hoạt động ngầm; ông thường xuyên bị các nhà cầm quyền cộng sản kiểm soát và quấy rối.
Năm 1988, tình hình kinh tế xấu đi đã dẫn tới một đợt đình công lao động mới ở Ba Lan, và chính phủ buộc phải đàm phán với Walesa. Tháng 04/1989, phong trào Đoàn kết được hợp pháp hóa, và các thành viên của tổ chức này được phép đề cử một số lượng nhất định ứng viên trong các cuộc bầu cử sắp tới. Vào tháng 09, một chính phủ liên minh dẫn đầu bởi Đoàn kết đã được thành lập, với đồng nghiệp của Walesa, Tadeusz Mazowiecki, giữ chức Thủ tướng. Năm 1990, cuộc bầu cử Tổng thống trực tiếp đầu tiên của Ba Lan đã được tổ chức, và Walesa đã giành chiến thắng áp đảo.
Tổng thống Walesa đã thực hiện thành công cải cách thị trường tự do, nhưng đáng tiếc, ông lại là một nhà lãnh đạo công đoàn hiệu quả hơn là Tổng thống. Năm 1995, ông đã bị đánh bại trong lần tái tranh cử với đối thủ là nhà cựu cộng sản Aleksander Kwasniewski, người đứng đầu Liên minh Các Đảng Dân chủ Cánh tả (Democratic Left Alliance).
TT – Quốc hội Liên bang Nga ngày 25-11 đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết thừa nhận vụ cảnh sát Nga sát hại 22.000 sĩ quan và công dân Ba Lan ở rừng Katyn, phía tây nước Nga, năm 1940 do nhà lãnh đạo Josef Stalin ra lệnh.
Báo The Moscow News dẫn nguồn từ trang web duma.gov.ru cho biết với tỉ lệ ủng hộ 342/450, Hạ viện Nga đã thông qua nghị quyết dựa trên tài liệu mật thu được từ đầu thập niên 1990.
“Tội ác Katyn đã được thực hiện theo lệnh trực tiếp của Stalin và các lãnh đạo Liên Xô khác” – tuyên bố của Quốc hội Nga cho biết.
Itar-Tass dẫn lời Chủ tịch Duma Nga Konstantin Kosachev khẳng định nghị quyết “lịch sử” này không chỉ quan trọng đối với quan hệ Nga – Ba Lan mà còn với chính người Nga.
Theo Reuters, phía Ba Lan đánh giá rất cao quyết định khó khăn của Quốc hội Nga.
Báo chí Nga và Ba Lan cho rằng nghị quyết trên được đưa ra như một thiện chí của Nga trước cuộc viếng thăm của Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đến Ba Lan vào ngày 6-12.
Tuy nhiên, chính quyền Ba Lan khẳng định muốn Nga phải có trách nhiệm hơn nữa về vụ việc trên và tuyên bố đó là tội diệt chủng.
Phe đối lập ở Ba Lan yêu cầu Nga chính thức xin lỗi và bồi thường cho gia đình các nạn nhân.
Trước đây, Nga đổ cho phát xít Đức thực hiện vụ thảm sát.
Bức hình chụp hôm 14/12/2012 cho thấy một đám đông đứng xem các công nhân kéo đổ bức tượng Vladimir Lenin bằng đồng ở Ulan Bator, Mông Cổ sau khi Thị trưởng thành phố gọi Lenin là kẻ giết người.
AFP
Kỷ niệm lần thứ 100 cuộc Cách mạng tháng 10 Nga đã qua đi mấy ngày. Quan sát những hoạt động xảy ra trên thế giới về sự kiện này, người ta có nhiều suy nghĩ. Trước hết, đó là suy nghĩ về một thứ tư tưởng – tư tưởng Cộng sản – mà hầu hết các nơi trên thế giới đã vứt bỏ vào sọt rác nhưng tại sao ở Việt Nam, ĐCS cố bám giữ lấy nó như một thứ bảo bối cho riêng mình.
Ở cái nôi Cách mạng tháng 10
“Những người bị thảm sát, khủng bố nằm trong số những con người ưu tú và can đảm nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó”
Tổng thống Nga – Putin
Cần phải ghi nhận rằng đó là một sự kiện “trọng đại” đã làm rung chuyển thế giới. Sự rung chuyển đó như thế nào, theo chiều hướng tốt lên, hay xấu đi lại là chuyện khác. Kể cả việc hai quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima và Nagadaki giết chết hàng trăm ngàn người, hay sự kiện Thiên An môn hàng ngàn sinh viên, thanh niên bị sát hại dã man… cũng đều làm thế giới rung chuyển tương tự.
Với những sự kiện kỷ niệm như vậy, nếu cách đây chừng ba chục năm hẳn rằng cả thể giới đã chấn động bởi những hoạt động hoành tráng và tốn kém vô cùng từ các nước “trong phe Xã hội chủ nghĩa”. Sẽ là những cuộc diễu binh khổng lồ phô trương sức mạnh bạo lực, sẽ là những điện thư, chúc mừng, là hội họp, mít tinh rầm rộ, sẽ là những cuộc diễu hành đông đúc từ các nước Cộng sản.
Thế nhưng oái oăm thay, những ngày kỷ niệm sự kiện “trọng đại” này, ngay tại nước Nga, luôn được gọi là “quê hương của Cách mạng Tháng 10 vĩ đại”, những hoạt động kỷ niệm đã diễn ra âm thầm, èo uột và thậm chí là những lời tố cáo đanh thép nhất từ Tổng thống Liên bang Nga – Vladimir Putin về một sự kiện mở đầu cho một giai đoạn lấy bạo lực làm phương châm cho mọi hành động xã hội. Xây dựng một xã hội bạo tàn, độc tài và bất chấp quy luật xã hội, đạo đức và văn minh loài người.
Tại nước Nga, thay vì những cuộc duyệt binh, diễu hành được tổ chức ở cấp nhà nước, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã lảng tránh những sự kiện kỷ niệm, ca ngợi Cách mạng Tháng 10/1917.
Trái lại, ông đã tham dự những sự kiện có ý nghĩa khác hơn.
Đó là việc ông dự khai trương một giáo đường mới ở Matxcơva, mà theo ông là “mang nặng ý nghĩa biểu tượng” vì phe Cộng Sản khi lên nắm quyền năm 1917 đã đàn áp Giáo hội.
Việc Tổng thống đến dự khai trương một Thánh đường để đánh dấu biểu tượng đàn áp tôn giáo thời kỳ nước Nga dưới chế độ Cộng sản vô thần cầm quyền nhằm nói lên điều gì nếu không phải là một sự lên án mạnh mẽ một chế độ, một tư tưởng, chủ nghĩa bất nhân.
Ngày 30/10/2017, ông Putin cũng tham dự buổi lễ khánh thành một đài tưởng niệm các nạn nhân bị đàn áp chính trị. Tại đây, ông Putin đã có những lời mạnh mẽ như sau: “Đối với tất cả chúng ta, đối với các thế hệ tương lai, điều rất quan trọng là phải biết và ghi nhớ thời kỳ bi thảm này trong lịch sử nước ta, khi toàn bộ các tầng lớp, toàn bộ các dân tộc: công nhân và nông dân, kỹ sư và thuyền trưởng, linh mục, quan chức chính phủ, nhà khoa học và nhà văn hóa bị bức hại nghiêm trọng.” Và “Quá khứ khủng khiếp này không thể bị xoá nhòa khỏi ký ức quốc gia, không có bất cứ điều gì, không có lợi ích cao cả nào cho nhân dân có thể biện minh cho chuyện đó.”
Có lẽ, những lời nói trên đã đủ để người ta hiểu rõ vì sao nước Nga cũng như trên toàn thế giới đã không hồ hởi, tưng bừng kỷ niệm một “sự kiện trọng đại” như vậy trong lịch sử chính dân tộc họ.
Theo một nhà sử học, đa số người Nga đã không thèm nhớ đến có một ngày gọi là Cách mạng Tháng 10, họ như cố quên đi một sự kiện mở đầu một thời kỳ bi thảm, gieo biết bao tai họa cho người dân Nga và các nước theo mô hình Cộng sản trên toàn thế giới. Nếu như trước đây, người Nga kỷ niệm cả ngày Stalin chết, thì ngày hôm nay, người Nga thấy Tổng thống Nga Vladimir Putin, tham dự một buổi lễ theo nghi thức Giáo hội Chính thống giáo Nga ở Butovo, tưởng niệm các nạn nhân của Stalin.
Nếu như trước đây, Stalin được tôn sùng như một lãnh tụ vĩ đại không chỉ của người Nga, mà của toàn thế giới cộng sản – Đến mức Tố Hữu từ Việt Nam đã có những câu thơ về cái chết của ông ta đến nay đang được lưu truyền như những câu chuyện cười về thói xu nịnh ở tầm vĩ mô – thì ngày nay, Nga tuyên bố Stalin là một tội đồ, một kẻ khát máu đã từng ra lệnh thảm sát hàng vạn người, điển hình là hàng chục ngàn sỹ quan Ba Lan đã bị ông ta ra lệnh giết tại rừng Katyn.
Những nước khác, những kỷ niệm nếu có, chỉ là những cuộc tập trung, truyền thông để nhắc nhở nhân loại về một thời kỳ kinh hoàng, đau thương đẫm máu, nước mắt và con người bị biến dạng dưới thời kỳ Cộng sản cai trị.
Thậm chí, đúng ngày đó, Tổng thống Mỹ Donal Trumph đã quyết định lấy ngày 7/11 hàng năm là ngày tưởng niệm các nạn nhân Cộng sản mà con số được thống kê ít nhất là là hàng trăm triệu người bị giết hại.
Vẻ vang thế, cao đẹp thế, sáng ngời vậy sao không kỷ niệm?
Khéo dư nước mắt?
Thế nhưng, hẳn là ngay cả Tổng thống Nga Vladimir Putin cho đến người dân thường của Nga sẽ hết sức sửng sốt, giật mình khi biết tin rằng tại một góc trời Đông Nam Á xa xôi, vẫn có một nhóm người đang cầm quyền quyết theo đuổi đường lối bạo lực và cướp bóc, theo đuổi chủ nghĩa vô thần, khủng bố và sát hại chính người dân mình theo mô hình xô viết, đã tưng bừng kỷ niệm “sự kiện” mà không ai có lương tri trên thế giới muốn nhớ lại.
Cả hệ thống chính trị Việt Nam đã có những phát ngôn mà người dân nghe đến chỉ thấy một cảm giác… buồn cười. Hãy nghe những lời mà người dân gọi là “Ngáo đá” từ miệng quan chức Cộng sản Việt Nam về sự kiện này:
Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị – một sản phẩm đặc trưng của thời kỳ Cộng sản xô viết – nói về Cách mạng tháng 100 Nga như sau: “Sau 100 năm lý tưởng cao đẹp và những giá trị to lớn của cách mạng Tháng Mười Nga là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội vẫn luôn tỏa sáng, vẫn luôn là nguồn động lực thôi thúc và khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Việt Nam”.
Vâng, nó cao đẹp, nó giá trị, nó ưu việt, nó tỏa sáng như thế nào, thì cả thế giới đã biết và họ đã trả lời bằng hành động cụ thể.
Nguyễn Phú Trọng, TBT Đảng CSVN: “Sau 100 năm lý tưởng cao đẹp và những giá trị to lớn của cách mạng Tháng Mười Nga là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội vẫn luôn tỏa sáng, vẫn luôn là nguồn động lực thôi thúc và khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Việt Nam”.
Vâng, nó giá trị, nó to lớn, cái hành vi thành lập bè đảng vì “Không có gì để mất mà được thì được tất cả” thì chỉ có lũ cướp ngày mới đưa lên thành lý tưởng mà thôi.
Ma đưa lối, quỷ dẫn đường
Lẽ nào đám quan lại cộng sản Việt Nam như Nguyễn Phú Trọng, Võ Văn Thưởng không có mắt để mà nhìn, không có não để mà suy? Hay là cả thế giới đều ngu, chỉ có mỗi bộ sậu đảng Cộng sản Việt Nam mới đủ thông minh để nhìn thấy điều đó?
Người ta buồn cười, người ta thắc mắc chỉ vì có phải cái tư duy cổ hủ, cái suy nghĩ cứng nhắc đã đóng đinh trong những bộ não xơ cứng này nên không thể tiếp nhận thêm thông tin?
Hay chỉ vì miếng cơm, manh áo hoặc những đống tiền của, xương máu người dân bị hút sạch bằng quyền lực được tạo ra từ những chiếc ghế ngồi mà chân ghế là đầu, là cổ người dân Việt Nam do chính cái Chủ nghĩa vô thần, vô nhân bản, vô đạo đức, vô luân vô pháp mang tên Chủ nghĩa Cộng sản đã đem lại cho họ?
Có lẽ, hầu hết đều nghiêng về yếu tố thứ hai này.
Thực ra, trong thời đại ngày nay, khi mà thông tin đã đến mọi ngõ ngách, tận rừng sâu thì những lời lừa bịp trên không còn bịp được ai.
Nhưng họ không thể thay đổi mà nói khác đi. Chỉ đơn giản là lấy gì để mà lừa bịp tiếp?
Kể từ sau khi hệ thống Cộng sản thế giới sụp đổ, đảng CSVN như người bị ném ra khỏi cộng đồng và bơ vơ giữa rừng. Họ không biết bấu víu vào đâu để có thể tồn tại theo bản năng lệ thuộc và được che chở bởi đàn anh. Trong cơn khủng hoảng toàn diện về mọi mặt từ lý luận, thực tiễn, nhân sự và tổ chức, đảng Cộng sản VN đã hết sức lúng túng trong hướng đi và hoảng hốt lo lắng cho sự tồn tại của mình.
Để tiếp tục bám víu lấy một thể chế vốn đem lại cho họ chỉ có lợi ích mà chẳng mất mát gì, họ đã tìm mọi cách chèo kéo, gắng gượng để giữ lấy cái mà họ đã cướp được: Chính quyền.
Sau khi cái gọi là Lý tưởng Cộng sản đã bị chính họ bôi đen và xé nát bằng những hành động của mình, thần tượng Lenin, Stalin đã hiện nguyên hình là những tội đồ khát máu, họ vội vàng dựng lên cái gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tuy nhiên, cái gọi là tư tưởng này đã nhanh chóng bị những học giả, những nhà nghiên cứu vạch rõ rằng chỉ là món “lẩu thập cẩm” được cóp nhặt, suy diễn và bịa đặt nhằm tạo ra một bóng ma, một biểu tượng, một hình nộm nhằm dẫn đàn cừu dân Việt cúi mặt đi theo.
Cũng chính trong sự hoảng loạn ấy, mà Đảng CSVN đã bí mật tìm kiếm cái phao cứu hộ cho sự tồn tại của mình ở người anh cả là ĐCS Trung Cộng, bất chấp đó cũng là một ổ Mafia công khai vốn vẫn mang nặng tư tưởng bành trướng từ ngàn đời như chính ĐCSVN đã xác nhận trước đó. Cũng vì thế mà cái gọi là “Mật ước Thành Đô” đang bị người dân nghi ngờ là một mật ước bán nước thì đảng vẫn giấu hơn cả mèo giấu… phân.
Chính vì thế mà lãnh thổ đất nước, quyền con người của người dân, truyền thống của cha ông ngàn năm dựng nước và đánh giặc giữ nước bị xé bỏ. Cho đến khi họ tổ chức đàn áp người dân yêu nước, rước giặc vào nhà ngang nhiên, thì Đảng CSVN hiện nguyên hình là một nhóm tay chân của ngoại bang trong cái gọi là Phong trào Cộng sản Quốc tế.
Và cứ thế, như cha ông đã nói:
Ma đưa lối quỷ dẫn đường
Cứ lần theo bước đoạn trường mà đi (Kiều)
Vì thế, không có gì lạ khi người Cộng sản Việt Nam cứ “dư nước mắt” để khóc cho tổ mối đã bị sụp đổ từ lâu.
Có một sự thật thú vị là đa phần người Việt Nam đều yêu mến văn hóa và đất nước Mỹ mặc dù hai quốc gia đã từng ở hai đầu chiến tuyến. Theo điều tra xã hội của Trung tâm Nghiên cứu Pew (Pew Research Center – PRC) công bố vào tháng 6 năm 2017, 84% số người Việt Nam được hỏi có thiện cảm với nước Mỹ, tăng 6 điểm phần trăm so với năm 2015.
Con số này ở các nước châu Á như Philippine, Hàn Quốc hay cả Nhật Bản cũng đều rất cao, nhưng Việt Nam thể hiện mức độ thiện cảm cao nhất lại là một điều khá bất ngờ.
Tôi quen biết nhiều người đang sinh sống và học tập ở Mỹ, tôi đã từng không thể hiểu nổi vì sao họ cứ sang Mỹ là lại muốn ở lại hoặc tìm kiếm công việc để có thêm nhiều thời gian trải nghiệm cuộc sống nơi đây hơn là trở về nước ngay sau khi kết thúc việc học. Cho đến khi được nghe nhiều chuyện về nước Mỹ từ những người em đang sinh sống ở đó và đích thân trải nghiệm trong một chuyến đi không quá dài, tôi mới dần cảm nhận được tinh thần Mỹ và giấc mơ Mỹ đã hấp dẫn bao người.
Chấp hành luật pháp là một phản xạ vô điều kiện
Người duy nhất không phải là tổng thống được in hình trên đồng đô-la khi được hỏi: “Ngài đã để lại cho chúng tôi những gì?”, Benjamin Franklin – một trong bảy “người cha lập quốc” đã trả lời: “Một nền Cộng hòa, thưa bà, nếu bà và con cháu bà có thể bảo vệ được nó”. Cộng hòa tiếng Latinh là Respulica bao gồm Res (điều, thứ) và Pulica (của chung, công cộng). Hai từ gộp lại có nghĩa là điều của chung, trong nền Cộng hòa, điều của chung này chính là luật pháp. Những nhà lập quốc của nước Mỹ có một cơ hội kiến tạo hình thức chính phủ tùy ý, nhưng những bài học từ lịch sử đã khiến họ lựa chọn cho người dân Mỹ một quốc gia cai trị bằng pháp luật trong một nền Cộng hòa, chứ không phải cai trị bằng số đông trong một nền Dân chủ.
Benjamin Franklin (17 tháng 01 1706 – 17 tháng 4 1790) là một trong những người thành lập đất nước nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ. Ông là một chính trị gia, một nhà khoa học, một tác giả, một thợ in, một triết gia, một nhà phát minh, nhà hoạt động xã hội, một nhà ngoại giao hàng đầu.
Chính vì thế khi tới Mỹ, dù không cần quá lâu, bạn sẽ bị ấn tượng rằng người dân ở đây có tinh thần tuân thủ pháp luật rất cao, thậm chí theo nhiều người Việt thì còn là hơi máy móc và “kỳ quặc”. Trong tự sự về “Trải nghiệm của một người Việt ‘khùng điên’ ở Mỹ”, anh Misha Doan đã kể về câu chuyện tưới cây đầy “gian truân” của mình. Chả là chủ công ty của ông là Việt Kiều đã lớn tuổi, sống ở Mỹ 10 năm , thi thoảng nhắc anh tưới cho các cây xanh trong khuôn viên văn phòng. Nhưng vị quản lý trẻ tuổi gốc Việt sinh ra ở Mỹ lại không đồng ý vì California đang vào mùa hạn hán, chính quyền kêu gọi người dân tiết kiệm nước sinh hoạt, mỗi ngày chỉ được tưới cây từ khoảng thời gian từ 5 giờ chiều đến 8 giờ sáng.
Ông chủ thì nói cứ tưới đi, ai biết đâu, trong khi vị quản lý nhất quyết là không cho vi phạm luật. Nhưng nếu đợi sau 5 giờ chiều mới tưới thì quá giờ làm việc và anh Doan không thể ở lại làm thêm giờ chỉ để tưới cây. Cuối cùng công ty đã tìm ra một sự thỏa hiệp bằng cách cho anh Doan đi làm trễ 1 tiếng, về trễ 1 tiếng để kịp tưới cây cho đúng Luật. Như vậy họ đã không vi phạm Luật Lao động cũng như Luật tiết kiệm nước của tiểu bang.
Những tình huống quá mới mẻ với người Việt lần đầu sang Mỹ như vậy không phải là hiếm. Các tay lái người Việt vượt đèn đỏ, rẽ không bật đèn xi nhan thường sẽ được gắn mác “chắc là mới sang” ngay trong cộng đồng những người Việt ở đây. Tôi đã từng sống trong cộng đồng người Việt ở các nước châu Âu, họ dù sang đó sinh sống đã hai chục năm, đã có quốc tịch nước sở tại nhưng tính cách “đại khái”, coi thường luật pháp còn khá nhiều, biểu hiện qua cách buôn bán lách luật và lối sống “khác biệt” so với dân bản địa. Nhưng ở Mỹ, chính cộng đồng những người sinh sống lâu năm sẽ nhắc nhở và chỉ cho những người mới đến rằng, họ phải tuân thủ luật pháp và điều đầu tiên khi trở thành công dân Mỹ là phải tuân thủ luật pháp.
Theo anh Doan, nước Mỹ không phải xứ sở thần tiên nhiệm màu, nhưng hầu như ai qua Mỹ cũng được thay đổi theo chiều hướng hoàn thiện hơn. Và một trong những điểm tích cực đó là tính tự giác và tôn trọng Luật pháp. Do luật pháp Mỹ rất khắt khe và công bằng nên bạn sẽ có ý thức phải tuân thủ, dần dà hình thành thói quen. Và khi đã trở thành thói quen tốt, một phản xạ vô điều kiện thì hành vi của bạn một cách vô thức cũng sẽ trở nên có lợi cho cộng đồng hơn.
“Bản thân tôi bây giờ không thể vứt rác bừa bãi, không phải vì sợ bị phạt hay bị chỉ trích, mà bởi thành một thói quen không thể thay đổi”, anh Doan chia sẻ. Chính tôi khi quay trở về Việt Nam cũng khiến nhiều người thân đi cùng mình cảm thấy khó chịu khi tôi cứ nhất quyết phải qua đường ở vạch sang đường. Mặc dù ở Việt Nam tỷ lệ bạn bị phạt khi sang đường không đúng nơi quy định là rất thấp, vì thế tôi không phải là sợ bị phạt, mà đơn giản vì nó đã trở thành thói quen.
Dù bạn ở bất cứ quốc gia nào nếu muốn nhập cư ở Mỹ thì điều đầu tiên khi trở thành công dân Mỹ là phải tuân thủ luật pháp. Ảnh dẫn theo tintucmy.net
“Chúa phù hộ nước Mỹ!” và “Năng lực vĩ đại đi kèm với trách nhiệm vĩ đại”
Người Mỹ có một niềm tin mãnh liệt vào Chúa và nó mãnh liệt hơn bất kỳ quốc gia phương Tây nào khác. Bạn sẽ hiếm khi nào nghe các lãnh đạo ở các quốc gia có tỷ lệ dân theo đạo Thiên Chúa cao nào nói “Chúa phù hộ bạn”, nhưng đó là một câu nói được nghe thường xuyên ở Mỹ từ người dân cho tới lãnh đạo.
Năm 1954, bản tuyên thệ dưới cờ được bổ sung thêm cụm từ “One Nation, Under God” (tạm dịch: Một quốc gia dưới Chúa). Năm 1956, “In God, We Trust” (tạm dịch: Chúng ta tin vào Chúa) trở thành tiêu ngữ quốc gia của Mỹ mà bạn sẽ dễ dàng đọc thấy trên mỗi tờ tiền đô-la.
Chẳng có một chính phủ nào trên thế giới lại có “Bữa sáng cầu nguyện toàn quốc”, một sự kiện thường niên được tổ chức vào ngày thứ Năm đầu tiên của tháng Hai tại Washington, D.C. Hàng năm, có khoảng 3.500 khách mời từ hơn 100 quốc gia tới tham gia sự kiện. Các vị khách mời bao gồm giới chính khách, giới doanh nhân, và những người có tầm ảnh hưởng rộng lớn trong xã hội. Kể từ thời Tổng thống Eisenhower tới nay, tất cả các tổng thống Mỹ đều tham dự sự kiện thường niên này.
Trong mắt người Mỹ, họ là con dân của Chúa. Nước Mỹ được thành lập dựa trên cơ sở: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Nhân dân không thuộc về chính phủ mà thuộc về Chúa. Chính phủ không phải là khái niệm cao cả và quyền lực nhất, Chúa mới là người quyền lực nhất. Tổng thống Donald Trump trong bài phát biểu nhân ngày Độc lập đã nhấn mạnh: “Ở Mỹ, chúng ta không tôn kính chính phủ, chúng ta tôn kính Chúa”.
Vì chính phủ cũng là bên dưới Chúa nên họ chẳng có quyền lợi gì cao cả hơn nhân dân. Thậm chí với trí tuệ và khả năng vượt trội hơn mọi người, lãnh đạo và nhà nước phải có trách nhiệm cao hơn trước Chúa, đó là trách nhiệm bảo hộ và làm quốc gia thịnh vượng, vững mạnh hơn.
Và triết lý này còn thể hiện ở ngay cả trong những bộ phim anh hùng bom tấn của Hollywood. Anh hùng khi có được sức mạnh và năng lực siêu nhiên, thì họ phải có trách nhiệm với năng lực đã được ban cho đó. “A great power comes with great responsibilities” (tạm dịch: Năng lực vĩ đại đi kèm với trách nhiệm vĩ đại) là câu nói được lấy làm tư tưởng chủ đạo của bộ phim Người Nhện. Ở Mỹ, trẻ em được dạy ngay từ khi còn nhỏ rằng, Chúa ban cho ai đó sức mạnh thì đó không chỉ đơn giản là một món quà miễn phí mà đi kèm theo là sứ mạng cải tạo và giúp đỡ xã hội, cộng đồng.
Một trong những gia tộc Mỹ giàu có nhất trong hơn một thế kỷ – Rockefeller đã trải qua hơn ba đời giàu có, hưng thịnh. Họ nổi tiếng bởi sự hào phóng và có trách nhiệm với xã hội cũng bởi một tâm niệm rằng: Người giàu chỉ là người được Chúa ủy thác quản lý tài sản mà thôi, họ được trao cho món quà là để quay lại giúp đỡ xã hội.
Triết lý năng lực đi kèm với trách nhiệm này không những chi phối nhân sinh quan của người Mỹ mà thể hiện rõ ràng trong chính sách đối ngoại của quốc gia này. Người Mỹ tin rằng đất nước họ được trao cho vị thế là cường quốc trên thế giới là vinh diệu mà Chúa ban cho họ, vì thế người Mỹ phải hành động để cải tạo thế giới.
Nhiều người không hiểu vì sao nước Mỹ cứ đem quân can thiệp khắp nơi, đánh giá nhân quyền các nước và “nhúng tay” vào mọi vấn đề của thế giới. Tại sao Mỹ luôn đứng đầu danh sách cứu trợ người nghèo Châu Phi và những nơi có thảm họa, thiên tai. Tại sao Mỹ phải viện trợ lương thực cho dân Bắc Triều Tiên, nơi mà lãnh đạo của họ luôn đe dọa bắn tên lửa vào Nhà Trắng… Bởi Mỹ luôn cố gắng để xứng đáng với vai trò số một thế giới, vị thế đã được Thượng Đế ban cho.
Vì thế, không phải chỉ là một lời nói theo thói quen, những câu cuối cùng trong bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Donald Trump là: “Chúa phù hộ các bạn! Và Chúa phù hộ nước Mỹ!”.
Tổng thống Donald Trump trong lễ tuyên thệ nhậm chức.Bài phát biểu nhân ngày độc lập Tổng thống đã nhấn mạnh: “Ở Mỹ, chúng ta không tôn kính chính phủ, chúng ta tôn kính Chúa”. Ảnh dẫn theo todayonline.com
Nền văn hóa có sức dung nạp cao
Hầu như mọi người dân nhập cư khi đến Mỹ đều vì một “Giấc mơ Mỹ”. Một khái niệm nổi tiếng của riêng nước Mỹ, đó là niềm tin về một miền đất tự do, nơi ai cũng có thể theo đuổi những mục tiêu của mình bằng sự nỗ lực và lựa chọn tùy ý.
Nhà văn kiêm sử gia James Truslow Adams đã lần đầu tiên mô tả “Giấc mơ Mỹ” trong cuốn Epic of America (tạm dịch: Thiên Anh Hùng Ca Hoa Kỳ): “…Nó không phải là một giấc mơ về chiếc xe hơi hay đơn thuần là tiền lương cao, mà là một giấc mơ về trật tự xã hội trong đó mọi người đàn ông và đàn bà đều có thể đạt được tầm vóc đầy đủ tùy theo khả năng bẩm sinh của mình, và được những người khác công nhận vì những gì của chính họ, không phân biệt môi trường hoàn cảnh sinh ra hay địa vị ngẫu nhiên của họ”.
Arnold Schwarzenegger từ một người nhập cư vô danh nói tiếng Anh không sõi đã trở thành diễn viên phim hành động nổi tiếng và thống đốc bang California. Ông nội của Tổng thống Trump từ Đức tới Mỹ với một chiếc vali duy nhất năm 16 tuổi, không một xu dính túi và phải bắt đầu bằng công việc thợ cắt tóc. Mười bốn năm sau, ông trở thành ông trùm bất động sản và từ đó là lịch sử sáng lạng của gia đình Trump. Chỉ có ở trên đất Mỹ, những người không có bằng cấp, tiểu sử ấn tượng mới có thể thành công một cách không tưởng. Một anh chàng bán băng đĩa vì có đam mê và am hiểu phim võ thuật nảy ra ý tưởng về một bộ phim pha trộn tất cả các thể loại võ thuật và viết kịch bản. Anh ta đi bán ý tưởng và bộ phim dựa trên kịch bản đó – Kill Bill đã trở nên nổi tiếng không ngờ. Ở một nơi khác, ngoài nước Mỹ, có lẽ anh ta sẽ vẫn mãi là một người bán băng đĩa.
Xã hội Mỹ rộng mở và công bằng, ai cũng có thể tìm được chỗ đứng cho mình, thoải mái theo đuổi đam mê mà không có bất cứ ai cản trở. Chỉ cần làm đúng theo luật pháp, bạn không cần phải chạy chọt, đi cửa sau cho bất kỳ quan chức nào nếu muốn làm kinh doanh chính đáng. Chỉ cần một bản kế hoạch đủ thuyết phục và đến ngân hàng trình bày, bạn có thể được đầu tư để khởi nghiệp dù là dự án nhỏ hay to.
Người Mỹ không quan tâm tôn giáo của bạn là gì hay bạn đến từ đâu. Nếu bạn có khả năng, họ sẽ rót vốn đầu tư cho bạn. Nếu bạn có ý tưởng để thay đổi xã hội, họ sẽ góp tiền cho bạn. Bạn có công trình nghiên cứu hàn lâm khả thi, dù thời gian có lâu, họ cũng sẽ cấp tiền cho bạn. Chính vì tinh thần trọng dụng này nên Mỹ trở thành một cục nam châm thu hút nhân tài. Hàng năm, dòng nhân lực chất lượng cao vẫn ùn ùn đổ về Mỹ và rất nhiều những thương hiệu lớn trên thế giới đều được khai sinh từ đây.
Người Mỹ rất cởi mở với những ý tưởng và họ sẵn sàng chia sẻ. Khi họ thất bại, họ cũng sẽ chia sẻ điều đó mà không ngại ngần, giữ thể diện. Vì tinh thần chấp nhận sự thất bại đó nên các doanh nhân Mỹ không hề cảm thấy nhục nhã khi thất bại. Và chính bởi không ngại nên họ sẽ làm lại cho tới khi thành công. Người Mỹ rất ngưỡng mộ những người thành công, họ coi những tỷ phú là những cảm hứng để họ phấn đấu chứ không so bì, ghen tức với người giàu và nổi tiếng. Thành công là một thứ được khuyến khích và chấp nhận, cốt là bạn làm ngay chính.
Nước Mỹ không phải là thiên đường, cũng không phải là địa ngục. Nước Mỹ là một nơi dành cho những trái tim can đảm. – (Phim ‘Người Bắc Kinh ở New York’)
Mỹ không phải là một xã hội kim tiền
Là một đất nước khuyến khích công dân làm giàu, phát triển sự nghiệp cá nhân nhưng nước Mỹ không phải là một xã hội kim tiền. Phần lớn người Mỹ cho rằng, những người giàu có có nghĩa vụ giúp đỡ xã hội, bởi vì họ sở hữu và nắm giữ lượng lớn tài sản của quốc gia. Bởi sự giàu có, thành đạt đều là do Chúa ban cho, nên năng lực lớn luôn đi kèm với trách nhiệm lớn. Từ nhỏ, trẻ em Mỹ đã được dạy về tầm quan trọng của công việc tình nguyện và thiện nguyện. Rất nhiều người Mỹ lựa chọn tham gia công tác từ thiện, dạy học, y tá, cứu viện khẩn cấp và công tác xã hội trong các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu. Cũng có rất nhiều gia đình Mỹ nhận nuôi những đứa trẻ bất hạnh từ các quốc gia khác.
“Ở nơi công cộng nếu gặp được một vị tỷ phú nào đó, bạn thậm chí có thể trực tiếp đến bắt chuyện, nói với họ rằng mình đang gặp phải khó khăn về học phí, rất mong nhận được sự giúp đỡ”, cô Pauline Kelly – nữ nhà văn, giáo sư ngôn ngữ học cho biết. “Thông thường, họ sẽ không từ chối yêu cầu của bạn. Họ sẽ chỉ cho bạn cách liên lạc với trợ lý hoặc quỹ từ thiện, mong bạn hãy tiếp tục giữ liên lạc với họ”. Đây là lối hành xử khiến nhiều người nước ngoài đến Mỹ cảm thấy không thể giải thích nổi.
Tại các thành phố Mỹ cũng có những người dân lang thang ăn xin, không phải là không có trại xã hội cho họ sống mà là họ thích sống ngoài đường. Có một Việt kiều kể rằng, cách đây hơn 10 năm có một trận tuyết rơi rất dày ở New York và nhiệt độ hạ thấp vào đêm Giáng sinh. Thị trưởng thành phố ra lệnh mở tòa thị chính và tất cả bệnh viện đón người lang thang vào trú rét. Các bác sĩ cũng được điều động tới khám cho dân lang thang và thậm chí sau đó còn bưng cà phê nóng tới cho họ. Qua mùa rét năm đó, dân vô cư ở New York tụ tập tổ chức một buổi mít-ting lớn. Họ cử đại diện ăn mặc lịch sự ra phát biểu trước công chúng cảm ơn chính quyền thành phố đã cứu họ khỏi chết cóng. Một câu chuyện mang đậm tính cách hóm hỉnh mà hiện thực kiểu Mỹ, những tưởng chỉ có thể thấy trên phim Hollywood.
Một đất nước văn minh luôn có những con người có trái tim chân thành. Ảnh dẫn theo nypost.com
Nói tới phim ảnh, ấn tượng đầu tiên của tôi khi tới đất Mỹ là người dân ở đây có cách nói chuyện, phản ứng hệt như trên các bộ phim Hollywood mà tôi vẫn thường xem. Động tác hình thể, ánh mắt, phản ứng trên khuôn mặt, cách nói tiếng Mỹ đầy màu sắc, và đặc biệt là nụ cười Mỹ. Anh chàng lái xe đón tôi từ sân bay là người Mỹ đen, trông như dân Hip hop. Suốt cả chặng đường anh ta nói chuyện và chỉ cho tôi những điều đặc biệt ở New York, anh cười rất nhiều và muốn tôi có ấn tượng tốt trong lần đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ mặc dù bản thân đang bị ốm. Có thể nói, anh ấy đã thành công, bởi cho tới bây giờ tôi vẫn nhớ nụ cười ấy, rất tươi sáng và chân thành.
Những chuyện người Mỹ giúp đỡ bạn dù không hề quen biết thì không có gì mới mẻ. Xách hộ đồ nặng lên tầng nhà không có thang máy, cho bạn đi nhờ xe một đoạn dài mà thậm chí họ không thuận đường… Tôi còn nhớ câu chuyện đọc đâu đó về hai vợ chồng già người Việt được một người Mỹ sửa chiếc lốp xe giữa trời nắng nóng, trên cung đường vắng vẻ, mồ hôi nhễ nhại mà không hề nề hà. Lúc sửa lốp xong bà nói “Lời cảm ơn của tôi có lẽ không đủ để đáp lại lòng tốt của ông. Tôi biết làm gì cho xứng đây?”. Người đàn ông Mỹ cười và nói: “Chị hãy giúp đỡ những người khác như tôi đã giúp chị hôm nay. Đó là cách cảm ơn tôi tốt nhất”. Những lời nói của người đàn ông này in đậm trong tâm trí của bà và đã thôi thúc bà không ngừng làm việc thiện.
Sau khi ở Mỹ một thời gian, một ni sư người Việt ở California chứng kiến quá nhiều việc tốt khiến bà suy nghĩ. Bà chia sẻ với một Việt kiều khác rằng: “Hóa ra ở đây có rất nhiều người tâm Phật con à, mặc dù phần lớn họ không theo đạo Phật”. Và có vẻ đúng như anh Misha Doan chia sẻ, ai ở Mỹ về cũng đều hoàn thiện hơn theo hướng tích cực. Khổng Tử đã từng nói rằng: “Ở chung với người thiện như vào nhà có cỏ chi lan, lâu mà mà chẳng thấy mùi thơm, tức là mình cũng đã hóa ra thơm vậy”.
Người Mỹ hay bị mang tiếng là thực dụng, nhưng sống với họ bạn sẽ phải học cách sống “thực dụng” của họ, hoặc là bạn sẽ phải thay đổi khái niệm này, từ thực dụng sang thực tế.
Như một người dùng Facebook có tên Vien Huynh đã chia sẻ về sự thực tế của người Mỹ: “Sống thực tế là hiểu rõ thực trạng cuộc sống, không mơ mộng hão huyền hay tìm cách trốn tránh thực tại. Sống thực tế là hiểu rõ năng lực và giá trị thực của bản thân để có thể phát huy tốt nhất khả năng của mình.
Còn sống thực dụng là bất chấp thực tế, bất chấp năng lực thực sự của mình ra sao mà chỉ chăm chăm giành được cái lợi nhỏ trước mắt, ngoài ra mặc kệ hậu quả sau này nghiêm trọng thế nào”.
Tôi rất vinh dự được có mặt tại Việt Nam, ở trung tâm của vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương, để phát biểu trước người dân và các lãnh đạo doanh nghiệp của khu vực này. Đây là một tuần đáng nhớ với nước Mỹ ở khu vực tuyệt vời này của thế giới. Từ Hawaii, Melania và tôi đã đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và bây giờ là Việt Nam, có mặt ở đây cùng tất cả các bạn hôm nay.
Trước khi chúng ta bắt đầu, tôi muốn gửi lời thăm hỏi tới những người bị ảnh hưởng bởi cơn bão Damrey. Người Mỹ đang cầu nguyện cho các bạn và mong các bạn khôi phục trong những tháng tới. Trái tim của chúng tôi đoàn kết cùng những người dân Việt Nam phải hứng chịu thiệt hại từ cơn bão khủng khiếp này.
Chuyến thăm này diễn ra vào một thời điểm thú vị đối với nước Mỹ. Một tinh thần lạc quan mới đang lan tỏa khắp đất nước chúng tôi. Tăng trưởng kinh tế đạt 3,2% và đang tiếp tục tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất trong 17 năm qua. Thị trường chứng khoán đang ở mức cao chưa từng có. Và toàn thế giới đã được hưởng lợi nhờ sự đổi thay của Mỹ. Bất cứ nơi nào tôi đến trong chuyến đi này, tôi đều vui mừng chia sẻ những tin vui từ Mỹ. Nhưng hơn cả, tôi có vinh dự được chia sẻ tầm nhìn của chúng tôi về một Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và cởi mở – nơi mà các quốc gia độc lập và chủ quyền, với những nền văn hóa đa dạng và nhiều giấc mơ khác nhau, tất cả có thể cùng nhau phát triển thịnh vượng trong tự do và hòa bình.
Tôi rất vui được có mặt ở APEC hôm nay, vì tổ chức này được thành lập nhằm đạt tới mục tiêu đó. Mỹ tự hào là một thành viên của cộng đồng các quốc gia tạo nên một mái nhà ở Thái Bình Dương. Chúng tôi là một thành viên tích cực của khu vực này kể từ khi giành độc lập.
Năm 1784, con tàu Mỹ đầu tiên đến Trung Quốc từ một nước Mỹ mới độc lập. Nó chất đầy hàng hóa để bán ở châu Á và trở về với đầy đồ gốm sứ và trà. Tổng thống đầu tiên của chúng tôi, George Washington, sở hữu một bộ bát đĩa từ con tàu đó. Năm 1804, Thomas Jefferson cử các chuyên gia thám hiểm Lewis và Clark đi khám phá Bờ biển Thái Bình Dương của chúng tôi. Họ là những người đầu tiên trong số hàng triệu người Mỹ đã phiêu lưu về phía tây để hiện thực hóa vận mệnh hiển nhiên của nước Mỹ trên khắp lục địa rộng lớn của chúng tôi.
Năm 1817, quốc hội Mỹ lần đầu tiên phê duyệt việc triển khai một tàu chiến Mỹ đến Thái Bình Dương toàn thời gian. Sự hiện diện ban đầu của hải quân này đã sớm phát triển thành một hạm đội để đảm bảo tự do hàng hải cho ngày càng nhiều tàu hơn, vượt sóng lớn để vươn tới những thị trường ở Philippines, Singapore và Ấn Độ. Năm 1818, chúng tôi bắt đầu mối quan hệ với vương quốc Thái Lan, và 15 năm sau đó, hai quốc gia chúng tôi đã ký kết một hiệp ước hữu nghị và thương mại, đầu tiên của chúng tôi với một quốc gia châu Á. Trong thế kỷ tiếp theo, khi các đế quốc đe dọa khu vực này, Mỹ đã phải trả giá đắt cho chính mình. Chúng tôi hiểu rằng an ninh và thịnh vượng phụ thuộc vào điều đó.
Chúng ta đã là bạn, là đối tác và đồng minh ở Ấn Độ – Thái Bình Dương trong suốt một thời gian dài, và chúng ta sẽ là bạn, là đối tác và là đồng minh trong thời gian dài sắp tới. Là những người bạn lâu năm trong khu vực, không ai vui mừng hơn nước Mỹ khi chứng kiến, giúp đỡ và chia sẻ những bước tiến vượt bậc mà các bạn đã đạt được trong nửa thế kỷ qua. Những gì các quốc gia và các nền kinh tế hiện diện ở đây hôm nay đã gây dựng ở khu vực này là vô cùng kỳ diệu. Câu chuyện về khu vực này trong những thập kỷ gần đây là câu chuyện về những gì có thể xảy ra khi con người làm chủ tương lai của họ.
Cách đây chỉ một thế hệ, ít ai có thể tưởng tượng được các lãnh đạo của những quốc gia này sẽ cùng nhau đến Đà Nẵng để làm sâu sắc thêm tình hữu nghị, mở rộng quan hệ đối tác và chúc mừng cho những thành tựu đáng kinh ngạc của người dân chúng ta. Thành phố này từng là nơi Mỹ đặt một căn cứ quân sự, tại một đất nước nơi rất nhiều người Mỹ và người Việt Nam đã thiệt mạng trong cuộc chiến tranh vô cùng đau thương năm xưa.
Ngày nay, chúng ta không còn là kẻ thù nữa, chúng ta là bạn. Và thành phố cảng này ngày càng tấp nập, nhộn nhịp với tàu thuyền từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Những công trình kỳ công, như Cầu Rồng, chào đón hàng triệu người đến tham quan, tận hưởng những bãi biển tuyệt đẹp, ánh đèn rực rỡ cũng như những nét quyến rũ cổ xưa của Đà Nẵng.
Đầu những năm 1990, gần một nửa người dân Việt Nam sống với chỉ vài USD mỗi ngày và cứ 4 người lại có một người phải chịu cảnh thiếu điện. Ngày nay, Việt Nam, với nền kinh tế mở cửa, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, tăng hơn 30 lần. Sinh viên, học sinh Việt Nam được xếp vào hàng những người trẻ ưu tú nhất toàn cầu. Điều đó thật ấn tượng. Chúng ta cũng đã được chứng kiến sự chuyển mình kỳ diệu tương tự trên khắp khu vực. Người Indonesia trong nhiều thập kỷ đã xây dựng đất nước và thiết lập các thể chế dân chủ để kiểm soát một chuỗi đảo khổng lồ gồm hơn 13.000 hòn đảo. Kể từ những năm 1990, người dân Indonesia đã tự mình vươn lên từ đói nghèo, trở thành một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất G20. Hiện nay, đây là nền dân chủ lớn thứ ba thế giới. Philippines cũng hiện lên với tư cách một quốc gia đáng tự hào với những gia đình bền vững và chân thành. 11 năm liền, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã xếp Philippines ở vị trí đầu tiên trong số các quốc gia châu Á thực hiện tốt mục tiêu thu hẹp khoảng cách giới tính, cũng như thúc đẩy phụ nữ tham gia kinh doanh và hoạt động chính trị. Vương quốc Thái Lan đã trở thành một quốc gia có mức thu nhập trên trung bình trong chưa đầy một thế hệ. Thủ đô Bangkok hoa lệ của họ hiện nay là thành phố thu hút nhiều người tìm đến nhất thế giới. Điều này rất ấn tượng. Không có nhiều người ở đây đến từ Thái Lan! Malaysia đã phát triển nhanh chóng qua vài thập kỷ gần đây, và nay được liệt vào danh sách một trong những địa điểm hấp dẫn nhất thế giới để đầu tư, phát triển kinh doanh. Tại Singapore, người dân mà trước đây bố mẹ họ sinh sống với mức thu nhập 500 USD một năm, nay nằm trong nhóm những công dân thu nhập cao nhất thế giới. Sự biến chuyển này đã thành hiện thực nhờ tầm nhìn của chính phủ Lý Quang Diệu, một chính phủ được quản lý trung thực và tuân theo pháp luật. Con trai cả của ông cũng đang điều hành đất nước tuyệt vời. Tôi vừa tới Hàn Quốc và nhận thấy người dân của đất nước cộng hòa này đã biến quốc gia từ một nơi nghèo đói bị chiến tranh tàn phá, trở thành một trong những nền dân chủ giàu có nhất thế giới chỉ trong vài thập kỷ. Ngày nay, người Hàn Quốc thu nhập cao hơn người dân ở nhiều quốc gia thuộc Liên minh châu Âu. Thật tuyệt vời khi được gặp gỡ và dành thời gian với Tổng thống Moon.
Ai cũng biết về những thành tựu ấn tượng mà Trung Quốc đạt được trong vài thập kỷ qua. Trong giai đoạn ấy – giai đoạn cải cách thị trường lớn, nhiều khu vực ở Trung Quốc đã tăng trưởng kinh tế vượt bậc, thị trường việc làm bùng nổ, hơn 800 triệu người dân thoát nghèo. Tôi vừa rời Trung Quốc sáng nay. Trước đó, tôi đã có buổi làm việc hiệu quả và quãng thời gian tuyệt vời cùng chủ nhà hiếu khách, Chủ tịch Tập Cận Bình. Còn nữa, trong điểm dừng chân đầu tiên của tôi ở chuyến đi này, tại Nhật Bản, chúng tôi thấy được một nền dân chủ năng động trên vùng đất của những kỳ quan công nghiệp, kỹ thuật và văn hóa. Trong chưa đầy 60 năm, đảo quốc này đã sản sinh hơn 24 người đoạt giải Nobel thế giới về các thành tựu vật lý, hóa học, y học, văn học và hòa bình. Thủ tướng Abe và tôi đã đạt được nhiều đồng thuận. Trên khu vực rộng hơn, những nước ngoài APEC cũng đang có những bước tiến dài trên chương mới của khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Ấn Độ đang kỷ niệm 70 năm ngày độc lập. Đó là một nền dân chủ chủ quyền, với hơn một tỷ dân. Từ khi Ấn Độ mở cửa kinh tế, đất nước này đã đạt tăng trưởng đáng kinh ngạc, mở ra thế giới cơ hội mới cho tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh. Thủ tướng Modi đã và đang nỗ lực đưa đất nước rộng lớn này và mọi người dân đoàn kết làm một. Ông ấy đang rất, rất thành công. Như chúng ta có thể thấy, ngày càng nhiều nơi trong khu vực này, người dân những quốc gia độc lập, có chủ quyền, đã nắm bắt được vận mệnh của chính mình tốt hơn, và giải phóng tiềm lực của nhân dân. Họ theo đuổi một tương lai công bằng, trách nhiệm, khuyến khích tư hữu tài sản và tuân thủ pháp luật, đi theo chế độ coi trọng lao động chăm chỉ và doanh nghiệp cá nhân. Họ xây dựng các doanh nghiệp, thành phố. Họ xây dựng toàn bộ đất nước từ điểm khởi đầu. Nhiều người trong số các bạn có mặt tại đây đã tham gia vào những dự án xây dựng vĩ đại, giúp nâng tầm quốc gia. Chúng đã là những dự án của các bạn, từ lúc bắt đầu đến khi hoàn thiện, từ giấc mơ đến hiện thực. Với sự giúp đỡ từ các bạn, toàn bộ khu vực đã trỗi dậy, và nó vẫn đang trỗi dậy, như một chòm sao đẹp gồm các quốc gia, mỗi quốc gia là một ngôi sao sáng. Có những người trong số các bạn đã trải qua những sự thay đổi đó và hiểu rõ những giá trị đã đạt được hơn bất cứ ai. Các bạn cũng hiểu rằng ngôi nhà của bạn chính là di sản của bạn. Bạn phải luôn bảo vệ nó. Trong quá trình phát triển kinh tế, các bạn tìm kiếm quan hệ thương mại với các quốc gia khác, thiết lập quan hệ đối tác dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau, hướng trực tiếp đến lợi ích song phương.
Hôm nay, tôi có mặt tại đây để đề nghị làm mới mối quan hệ đối tác với Mỹ, cùng nhau hành động nhằm tăng cường mối liên kết hữu nghị và thương mại giữa tất cả các quốc gia trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, và cùng nhau, thúc đẩy an ninh và thịnh vượng của chúng ta. Điều cốt lõi của quan hệ đối tác này là chúng tôi tìm kiếm những mối quan hệ thương mại mạnh mẽ dựa trên nguyên tắc bình đẳng và có qua có lại. Khi Mỹ tham gia một mối quan hệ thương mại với các quốc gia khác, chúng tôi, kể từ lúc này, hy vọng đối tác sẽ tuân thủ các nguyên tắc như chúng tôi. Chúng tôi kỳ vọng các thị trường sẽ mở cửa tương xứng ở cả hai bên, lĩnh vực công nghiệp tư nhân, không phải các nhà hoạch định của chính phủ, sẽ có sự đầu tư trực tiếp. Thật không may, điều trái ngược lại xảy ra suốt thời gian dài và tại nhiều địa điểm. Trong những năm qua, Mỹ mở cửa nền kinh tế một cách có hệ thống chỉ với một số điều kiện. Chúng tôi hạ hoặc chấm dứt hàng rào thuế quan, thương mại, cho phép hàng hóa nước ngoài tự do vào Mỹ. Nhưng trong khi chúng tôi hạ các rào cản thị trường, những nước khác lại không mở cửa thị trường của họ cho chúng tôi. Các quốc gia trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), họ thậm chí không tuân thủ những nguyên tắc được đề ra. Đơn giản là, chúng ta không được WTO đối xử công bằng. Những tổ chức như WTO chỉ hoạt động đúng chức năng khi mọi thành viên tuân thủ luật chơi và tôn trọng quyền chủ quyền của mọi quốc gia thành viên. Chúng ta không thể có những thị trường mở nếu không đảm bảo được tiếp cận thị trường một cách bình đẳng. Cuối cùng, thương mại bất bình đẳng sẽ làm xói mòn tất cả chúng ta.
Mỹ thúc đẩy các doanh nghiệp, sự đổi mới và công nghiệp lĩnh vực tư nhân. Những quốc gia khác lại sử dụng ngành công nghiệp do chính phủ vận hành và hoạch định cùng các doanh nghiệp quốc doanh. Chúng tôi tuân thủ các nguyên tắc WTO về bảo vệ tài sản trí tuệ, đảm bảo cách tiếp cận thị trường bình đẳng. Họ tham gia bằng cách trợ giá sản phẩm, bán phá giá, thao túng tiền tệ và các chính sách công nghiệp bị lợi dụng. Họ phớt lờ các quy tắc để giành lợi thế trước những người tuân thủ luật chơi, tạo ra sự méo mó lớn trong thương mại, đe dọa các nền tảng của chính thương mại quốc tế. Những hành động như vậy, cùng với sự thất bại tập thể của chúng ta trong việc ứng phó, gây tổn hại rất nhiều người dân ở quốc gia của chúng tôi cũng như các nước khác. Việc làm, nhà máy, các ngành công nghiệp bị tước đoạt khỏi Mỹ và nhiều quốc gia khác. Nhiều cơ hội đầu tư mang lại lợi ích song phương cũng mất đi bởi người dân mất niềm tin vào hệ thống. Chúng tôi không thể bỏ qua những sự lợi dụng thương mại này. Chúng tôi sẽ không tha thứ họ. Sau nhiều năm những cam kết bị vi phạm, chúng tôi được bảo rằng một ngày nào đó, sớm thôi, các bên sẽ hành xử công bằng và có trách nhiệm. Người dân Mỹ và ở khu vực Ấn Độ -Thái Bình Dương đã chờ ngày đó tới. Nhưng nó chưa bao giờ xuất hiện. Đó là lý do tôi có mặt ở đây, ngày hôm nay, để nói một cách thẳng thắn về những thách thức của chúng ta và cùng hành động hướng đến tương lai tươi sáng hơn cho tất cả mọi người.
Tôi vừa có chuyến đi tuyệt vời tới Trung Quốc. Tại đây, tôi đã nói chuyện thẳng thắn và cởi mở với Chủ tịch Tập về các hành vi bất bình đẳng thương mại của Trung Quốc và thâm hụt thương mại lớn trong quan hệ thương mại của họ và Mỹ. Tôi bày tỏ mong muốn mạnh mẽ được phối hợp với Trung Quốc để đạt được quan hệ thương mại, thực hiện trên cơ sở công bằng, bình đẳng thực sự. Sự mất cân bằng thương mại hiện nay là không thể chấp nhận được. Tôi không đổ lỗi cho Trung Quốc hay bất kỳ nước nào khác, dù có rất nhiều nước, vì đã lợi dụng nước Mỹ trong vấn đề thương mại. Nếu các đại diện của họ có thể bình an vô sự với điều này, họ chỉ đang làm việc của mình. Tôi ước gì chính quyền trước đây của Mỹ nhìn thấy những gì đang diễn ra và làm điều gì đó. Họ không làm, nhưng tôi sẽ làm.
Từ hôm nay trở đi, chúng ta sẽ cạnh tranh một cách công bằng và bình đẳng. Chúng tôi sẽ không để nước Mỹ bị lợi dụng thêm nữa. Tôi sẽ luôn đặt nước Mỹ lên hàng đầu, như cách mà tôi mong muốn tất cả các bạn trong hội trường này đưa tổ quốc mình lên trên hết. Mỹ sẵn sàng phối hợp với từng lãnh đạo trong hội trường này hôm nay để đạt được thương mại cùng có lợi mang lại lợi ích cho cả nước bạn lẫn nước tôi. Đó là thông điệp mà tôi muốn truyền tải ở đây. Tôi sẽ ký các thỏa thuận thương mại song phương với bất cứ quốc gia Ấn Độ – Thái Bình Dương nào muốn trở thành đối tác của Mỹ và sẽ tuân thủ nguyên tắc thương mại công bằng và có đi có lại. Điều chúng tôi không tiếp tục làm là tham gia vào những thỏa thuận lớn trói tay nước Mỹ, ảnh hưởng đến chủ quyền, cũng như khiến việc thực thi điều đó một cách có ý nghĩa trở nên bất khả thi trong thực tế. Thay vào đó, chúng tôi sẽ thương thảo trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Chúng tôi sẽ tôn trọng độc lập và chủ quyền của các bạn. Chúng tôi muốn các bạn mạnh mẽ, thịnh vượng và tự tin, giữ vững bản sắc lịch sử và vươn tới tương lai. Đó là cách chúng ta cùng thịnh vượng và tăng trưởng, trong mối quan hệ đối tác với giá trị thực tế và lâu bền. Nhưng để cái mà tôi gọi là giấc mơ Ấn Độ – Thái Bình Dương này trở thành hiện thực, chúng ta phải đảm bảo rằng tất cả cùng chơi theo luật, vốn là điều họ không làm vào thời điểm hiện nay. Những nước tuân thủ luật chơi sẽ trở thành đối tác kinh tế gần gũi nhất của Mỹ. Những ai không làm được như vậy có thể chắc chắn rằng Mỹ sẽ không còn nhắm mắt làm ngơ cho những hành động vi phạm, lừa gạt hay xâm lược kinh tế. Những ngày đó đã qua rồi.
Chúng tôi sẽ không tiếp tục dung thứ cho hành vi ăn cắp quyền sở hữu trí tuệ một cách trắng trợn. Chúng tôi sẽ đối đầu với những thủ đoạn ép buộc các doanh nghiệp trao công nghệ cho nhà nước và buộc họ phải tham gia vào các liên doanh để đổi lấy quyền tiếp cận thị trường. Chúng tôi sẽ đối phó với tình trạng trợ cấp quy mô lớn cho các ngành công nghiệp thông qua những doanh nghiệp nhà nước lớn vốn đẩy các đối thủ tư nhân ra khỏi cuộc chơi, điều vẫn thường xuyên xảy ra. Chúng tôi sẽ không tiếp tục im lặng khi các công ty Mỹ bị những đối thủ được nhà nước hậu thuẫn nhắm tới vì lợi ích kinh tế, dù là thông qua các cuộc tấn công mạng, gián điệp kinh tế, hay các thủ đoạn phản cạnh tranh khác. Chúng tôi sẽ khuyến khích tất cả các nước cất lên tiếng nói khi các nguyên tắc về bình đẳng và có đi có lại bị xâm phạm. Chúng tôi biết nước Mỹ có lợi ích trong việc xây dựng quan hệ đối tác ở một khu vực đang trở nên phát đạt, thịnh vượng và không phụ thuộc vào bất cứ ai. Chúng tôi sẽ không đưa ra quyết định vì mục đích quyền lực hay bảo trợ. Chúng tôi sẽ không bao giờ yêu cầu các đối tác từ bỏ chủ quyền, quyền riêng tư và sở hữu trí tuệ, hay hạn chế hợp đồng đối với các công ty quốc doanh. Chúng tôi sẽ tìm cơ hội cho các công ty tư nhân Mỹ hợp tác với công ty của các bạn để tạo ra việc làm, của cải cho tất cả chúng ta. Chúng tôi tìm kiếm đối tác mạnh, không phải đối tác yếu. Chúng tôi tìm kiếm láng giềng mạnh, không phải hàng xóm yếu. Trên tất cả, chúng tôi tìm kiếm tình hữu nghị và không mơ về sự thống trị. Vì lý do này, chúng tôi đang tái tập trung vào những nỗ lực phát triển đang có. Chúng tôi kêu gọi Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á hướng nỗ lực của họ vào đầu tư cơ sở hạ tầng chất lượng cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mỹ cũng sẽ thực hiện phần công việc của mình. Chúng tôi cũng cam kết cải cách các thể chế tài chính phát triển để chúng có thể khích lệ tốt hơn các khoản đầu tư từ lĩnh vực tư nhân vào nền kinh tế của các bạn, và cung cấp những phương án mạnh thay thế các sáng kiến do nhà nước định hướng vốn gắn liền với nhiều ràng buộc. Trong những năm gần đây, Mỹ đã nhiều lần nhắc nhở rằng an ninh kinh tế không chỉ đơn thuần liên quan đến an ninh quốc gia. An ninh kinh tế chính là an ninh quốc gia. Điều đó rất quan trọng với sức mạnh quốc gia của chúng ta. Chúng tôi cũng biết rằng sẽ không có sự thịnh vượng lâu dài nếu chúng tôi không dám đối mặt với những mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh, chủ quyền và sự ổn định mà thế giới hiện nay đang đối diện. Đầu tuần này, tôi đã phát biểu trước quốc hội tại Seoul, Hàn Quốc và kêu gọi tất cả các quốc gia có trách nhiệm đoàn kết trong việc tuyên bố rằng: mọi bước đi của chính quyền Triều Tiên trong việc tăng cường kho vũ khí đều là một bước đi đến nguy hiểm ngày càng lớn hơn. Tương lai của khu vực này và những người dân tốt đẹp tại đây không thể bị kìm giữ như những con tin cho những tưởng tượng méo mó về các cuộc chinh phục bạo lực và hăm dọa hạt nhân của nhà độc tài. Hơn nữa, chúng ta phải tôn trọng các nguyên tắc đã đem lại lợi ích cho tất cả chúng ta, như tôn trọng thượng tôn pháp luật, các quyền cá nhân, tự do hàng hải và trên không, bao gồm các tuyến vận chuyển mở. Ba nguyên tắc này tạo ra sự ổn định và xây dựng lòng tin, an ninh, và thịnh vượng giữa các quốc gia có cùng chí hướng.
Chúng ta cũng phải giải quyết dứt khoát những mối đe dọa khác đối với an ninh và tương lai của con cái chúng ta, như tội phạm, buôn người, ma túy, tham nhũng, tội phạm mạng và việc bành trướng lãnh thổ. Như tôi từng nói nhiều lần: Tất cả những người văn minh phải cùng nhau đẩy lùi những kẻ khủng bố và các phần tử cực đoan khỏi xã hội, chặn đứng nguồn hỗ trợ về tài chính, lãnh thổ và tư tưởng của chúng. Chúng ta phải ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan. Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm việc để có một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương hoà bình, thịnh vượng và tự do. Tôi tin tưởng rằng, cùng nhau, mọi vấn đề chúng ta nói đến ngày hôm nay đều có thể được giải quyết. Mọi thách thức mà chúng ta phải đối mặt đều có thể vượt qua. Nếu chúng ta thành công trong nỗ lực này, nếu chúng ta nắm bắt được cơ hội ngay trước mắt và đặt sự hợp tác làm nền tảng vững chắc vì lợi ích của người dân, chúng ta sẽ đạt được mọi thứ chúng ta ước mơ cho các quốc gia và cho con cái. Chúng ta sẽ có được một thế giới của các quốc gia mạnh mẽ, chủ quyền và độc lập, phát triển trong hòa bình và thương mại với nhau. Đó sẽ là nơi chúng ta có thể xây dựng nhà cửa và nơi các gia đình, doanh nghiệp và con người có thể phát triển. Nếu chúng ta làm được điều này, khi nhìn thế giới vào nửa thế kỷ tới, chúng ta sẽ ngạc nhiên trước chòm sao xinh đẹp của các quốc gia – mỗi nước đều khác biệt, có nét độc đáo riêng và tất cả đều tỏa sáng đầy tự hào trong khu vực này. Cũng giống như khi chúng ta nhìn vào các ngôi sao trên bầu trời đêm, khoảng cách thời gian sẽ làm cho hầu hết những thách thức chúng ta phải đối mặt và nhắc đến ngày hôm nay trở nên rất nhỏ bé. Nhưng điều không nhỏ sẽ là những lựa chọn lớn mà tất cả các quốc gia sẽ phải đưa ra để giữ cho các ngôi sao luôn tỏa sáng rực rỡ.
Ở Mỹ – cũng giống như mọi quốc gia đã chiến thắng và bảo vệ chủ quyền của mình, chúng tôi hiểu rằng không có gì quý giá như quyền lợi đương nhiên của công dân, sự độc lập quý giá và sự tự do. Lý tưởng đó đã dẫn dắt chúng tôi trong lịch sử nước Mỹ. Lý tưởng đó đã thôi thúc chúng tôi hy sinh và đổi mới. Và đó là lý do tại sao ngày nay, hàng trăm năm sau chiến thắng của chúng tôi trong Cách mạng Mỹ, chúng ta vẫn nhớ đến lời của lời nhà lập quốc và là Tổng thống thứ hai của nước Mỹ John Adams. Trước khi từ giã cõi đời, người yêu nước vĩ đại này được yêu cầu đưa ra suy nghĩ trong dịp kỷ niệm 50 năm tự do của Mỹ. Câu trả lời của ông là “độc lập vĩnh viễn”.
Đó là tinh thần cháy bỏng trong lòng người yêu nước và mọi quốc gia. Nước chủ nhà Việt Nam không chỉ có tinh thần đó trong 200 năm mà là trong gần 2000 năm. Vào khoảng năm 40, Hai Bà Trưng đã đánh thức tinh thần của người dân vùng đất này. Đó là lần đầu tiên người dân Việt Nam đứng lên đấu tranh cho sự độc lập và niềm tự hào của các bạn. Ngày nay, những người yêu nước, anh hùng trong lịch sử nắm giữ những câu trả lời cho những câu hỏi lớn về tương lai và thời đại của chúng ta. Họ nhắc nhở chúng ta là ai, sứ mệnh của chúng ta là gì.
Cùng với nhau, chúng ta có sức mạnh để nâng người dân và thế giới lên những tầm cao mới chưa từng có. Hãy chọn tương lai của lòng yêu nước, thịnh vượng, niềm tự hào. Hãy chọn thịnh vượng và tự do chứ không phải nghèo đói và sự tôi tớ. Hãy chọn một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở cửa. Cuối cùng, đừng bao giờ quên rằng thế giới có nhiều nơi, nhiều giấc mơ, và nhiều con đường, nhưng không có nơi nào như nhà mình. Vì vậy, vì gia đình, vì đất nước, tự do, lịch sử và vì Chúa, hãy bảo vệ tổ quốc của các bạn, hiện giờ và mãi mãi về sau. Cảm ơn các bạn. Chúa phù hộ các bạn. Chúa phù hộ khu vực Thái Bình Dương. Chúa phù hộ nước Mỹ. Cảm ơn nhiều. Cảm ơn các bạn.
Bạn có bao nhiêu đôi giày da đẹp , đắt tiền ? Bao nhiêu chiếc xách tay bằng da sang trọng ? Hãy đọc bài viết dưới đây để biết rằng người Tàu lột da bò khi con vật vẫn còn sống . để tránh việc con bò tội nghiệp bỏ chạy , họ chặt hết chân như trong hình .
người Tàu cũng biết đến một cách kinh dị khi họ mổ sống nạn nhân để lấy nội tạng . không biết bạn có coi đoạn youtube họ chiên thân con cá và giữ cho cái đầu vẫn còn sống và dọn lên bàn ăn như thế ? dân tộc gì mà dã man không còn chữ nào tả nổi ?
đọc hết bài dưới đây xin hãy mở đường link thứ hai và ký vào đấy với hy vọng sẽ thay đổi được chính sách đối xử với thú vật sau này .
xin cảm ơn http://www.religionmind.com/…/china-cows-skinned-alive-for-…
Một trăm năm Cách mạng Nga: Cách mạng Nga đã gây ra những tổn thất kinh hoàng
Marxism-Leninism là ý thức hệ tàn ác và làm chết nhiều người nhất trong lịch sử nhân loại.
Tổng thống Nga, Vladimir Putin, muốn phớt lờ cuộc Cách mạng Bolshevik – tháng này sẽ là kỷ niệm 100 năm. Putin nói với các cố vấn rằng sẽ không cần kỷ niệm sự kiện này. Ông ta biết rõ hơn – không có gì đáng tự hào.
Bắt đầu bằng cuộc Cách mạng năm 1917
Những hiện tượng kinh hoàng của chủ nghĩa xã hội thế kỷ XX – của Lenin, Stalin, Hitler, Mussolini, Mao và Pol Pot – là con đẻ của năm 1917. 70 năm trước đó, Marx và Engels dự báo rằng việc lật đổ chế độ tư bản cần bạo lực và “chuyên chính vô sản. . . nhằm quét sạch tàn dư của chủ nghĩa tư bản”. Lenin đã tiến hành “quét sạch” bằng những chiến dịch khủng bố bừa bãi, như những người xã hội chủ nghĩa Nga trước ông ta đã làm và những người khác sẽ tiếp tục làm sau khi ông ta chết.
Rudolph Rummel (đã quá cố), nhà nhân khẩu học nghiên cứu về những vụ giết người hàng loạt do chính phủ tiến hành, ước tính tổng thiệt hại về người mà chủ nghĩa xã hội đã gây ra trong thế kỷ XX: khoảng 61 triệu người ở Liên Xô, 78 triệu ở Trung Quốc, và khoảng 200 triệu người trên toàn thế giới.Những nạn nhân này bị chết trong những nạn đói do nhà nước tổ chức, trong quá trình tập thể hoá, trong các cuộc cách mạng văn hoá, trong những vụ thanh trừng, trong các chiến dịch chống thu nhập “bất hợp pháp” và những cuộc thí nghiệm tàn độc khác trong quá trình sắp xếp lại xã hội.
Đây là vụ khủng bố vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại
Cuộc đảo chính của Lenin, ngày 7 tháng 11 năm 1917, ngày chính phủ lâm thời của Kerensky rơi vào tay lực lượng Bolshevik, đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử nhân loại: Chế độ nô lệ dành cho tất cả mọi người. Kế hoạch hóa nền kinh tế tập thể đã dẫn tới tình trạng cưỡng bức, bạo lực và giết người hàng loạt. Marx và Engels đã định nghĩa chủ nghĩa xã hội là “xóa bỏ tư hữu”. Thành phần cơ bản nhất của tư hữu – quyền tự chủ – đã bị bãi bỏ ngay từ đầu.
Phá hoại trên quy mô lớn
Các mục tiêu lớn nhất của những người Marxist mãi mãi vẫn là gia đình, tôn giáo, và xã hội dân sự – đây là những trở ngại mang tính thiết chế đối với việc áp đặt nhà nước toàn trí toàn năng lên đời sống của con người. Sau khi những người Bolsheviks nắm được quyền lực, Lenin bắt đầu tiêu diệt những thiết chế này.
Vụ giết hại trẻ em đã trở thành bình thường sau khi ông ta ra lệnh giết Sa Hoàng Nicholas II, hoàng hậu Alexandra và năm người con của họ. Hàng triệu gia đình bị bao vây và bị cưỡng bức di chuyển đến những vùng xa xôi hẻo lánh và không có người ở tại Siberia và Kazakhstan. Hàng trăm ngàn trẻ em đã chết vì đói hoặc bệnh tật trong suốt cuộc hành trình đến nơi lưu đầy và bị chôn trong những ngôi mộ không để lại dấu vết gì.
Năm 1935, Stalin áp dụng Điều 12 của Bộ luật Hình sự Liên Xô, cho phép tử hình hoặc giam giữ như người lớn trẻ em từ mười hai tuổi trở lên. “Luật” này nhắm tới những đứa trẻ mồ côi, vốn là con em của các nạn nhân của chế độ, vì người ta tin rằng chúng sẽ là hậu họa của chế độ. Nhiều người trong số trẻ em này, có cha mẹ đã bị bỏ tù hoặc bị hành quyết, thường bị gọi là bụi đời. Chúng bị đưa vào những căn nhà bẩn thỉu, xác xơ, trong khu các gulag, cùng với những tên tội phạm nguy hiểm và đã bị bọn lính canh và thường phạm hành hung và hãm hiếp.
Liên Xô là nước đầu tiên đặt ra mục tiêu về tư tưởng và thực tiễn là xoá bỏ tôn giáo, hay nói cách khác, tiêu diệt về mặt thể xác của những người có đạo. Việc quốc hữu hóa tài sản của nhà thờ được khởi động cùng với nghị định của Lenin, ngày 20 tháng 1 năm 1918: thánh đường, nhà thờ, đất của nhà thờ, và tất cả các tòa nhà thuộc sở hữu của các nhà thờ đều bị cướp bóc, và những món đồ có giá trị (vàng, bạc, bạch kim, tranh, biểu tượng, hiện vật lịch sử) đều bị những người cộng sản vô thần lấy cắp hoặc bán sang phương Tây – thông qua các điệp viên, những người có cảm tình với cộng sản và những du khách như ông trùm kinh doanh người Mỹ, Armand Hammer, từng gặp Lenin vào năm 1921.
Có đạo thường đồng nghĩa với án tử hình. Mục đích là sự độc quyền tuyệt đối của nhà nước trong lĩnh vực tư tưởng, với phương tiện là tôn giáo thế tục – chủ nghĩa xã hội. Hầu như tất cả hàng giáo phẩm và hàng triệu tín đồ tất cả các tôn giáo (truyền thống) đều bị bắn hoặc bị đưa đến các trại lao động. Các trường dòng bị đóng cửa, còn các ấn phẩm tôn giáo thì bị cấm.
Marxism-Leninism giả bộ là “chủ nghĩa xã hội khoa học”, là lời giải thích phổ quát về tự nhiên, đời sống và xã hội. Tuy nhiên, lệch lạc khỏi hệ tư tưởng của nó, đặc biệt là khoa học “tư sản” truyền thống, có thể bị án tử hình. Phạm vi cuộc bức hại các nhà khoa học là cuộc diệt chủng thực sự.
Thất bại nhục nhã
Sau bảy mươi tư năm đau đớn và khổ sở, Cách mạng Bolshevik đã thất bại hoàn toàn. Đất nước lớn nhất hành tinh, với những nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng không thể đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của người dân. Không có quyền sở hữu và các thể chế thị trường dựa trên quyền sở hữu, hệ thống không có những phương tiện phân bổ hợp lý nguồn lực.
Tư tưởng có thể đem lại những hậu quả.
Từ kinh nghiệm sống ở Liên Xô – tôi ra đi đúng vào năm Vladimir Putin báo cáo cho các lãnh đạo của ông ta về việc Bức tường Berlin sụp đổ – tôi có thể làm chứng cho lời tuyên bố của nhà kinh tế học người Áo, Ludwig von Mises, rằng chủ nghĩa xã hội là “cuộc nổi dậy chống lại kinh tế học”.
Tuy nhiên, ở phương Tây vẫn có những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Nhiều người Mỹ tin rằng chủ nghĩa xã hội là tốt, trong khi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít, quốc xã (chủ nghĩa xã hội quốc gia) là bạo lực và chống lại dân chủ. Một cuộc thăm dò ý kiến công chúng được công bố vào năm ngoái đã chứng minh rằng giả định chung: 43% những người trả lời dưới ba mươi tuổi có quan điểm ủng hộ chủ nghĩa xã hội; chỉ có 32% có quan điểm ủng hộ chủ nghĩa tư bản mà thôi. Đây là một cảnh báo đầy sức mạnh. Não trạng bài tư bản đã mang lại biết bao đau khổ và những vụ giết người hàng loạt ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa và đã làm giảm mức sống và chất lượng đời sống trong các nền kinh tế hỗn hợp.
Liên Xô đã vĩnh viễn trở về với cát bụi, những bức tượng khổng lồ của Marx và Lenin rải rác ở phương Đông thì cũng thế, nhưng những tư tưởng đã để lại hậu quả, và không có tư tưởng nào thu hút được nhiều đệ tử hơn là Marxism-Leninism. Người Nga có câu châm ngôn: “Bài học duy nhất của lịch sử là nó chẳng dạy chúng ta điều gì”. Đối với quá nhiều người, câu này vẫn đúng như từ xưa đến nay.
Giáo sư Yuri Maltsev bảo vệ bằng B.A và M.A. ở Đại học Quốc gia Moskava và bằng Tiến sĩ về Kinh tế học lao động tại Viện Nghiên cứu Lao động ở Moskva, Nga. Trước khi chạy sang Mỹ, năm 1989, ông là từng là thành viên của một nhóm các nhà kinh tế học Liên Xô tham gia soạn thảo gói chính sách Perestroika của Tổng thống Gorbachev.
Hậu quả của việc coi chỉ thị, NQ Đảng trên Luật pháp, thói coi thường các cam kết Quốc tế của quan chức CS, mà dân thường nói (tục ngữ) là thói “ nhổ rồi lại liếm”?!
Cố vấn an ninh quôc gia H.R. McMaster tại cuộc họp báo ở Tòa Bạch Ốc ngày 2/11/2017.
Ngày 3/11 Tổng thống Trump rời Mỹ đi Hawaii, chặng dừng chân đầu tiên trên đường đến châu Á, nơi ông sẽ ghé Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam và Philippines. Đây là chuyến Á du dài nhất của một Tổng thống Mỹ trong hơn 25 năm nay.
Mục đích chuyến đi này của ông Trump là nhằm gia tăng sự ủng hộ quốc tế để tước bỏ những nguồn lực của Triều Tiên như một đòn bẩy để buộc nước này từ bỏ vũ khí hạt nhân.
“Tổng thống công nhận là chúng ta hết kiên nhẫn đối với Triều Tiên và sẽ yêu cầu tất cả các nước khác làm nhiều hơn nữa,” cố vấn an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc H.R. McMaster nói với các phóng viên tại một cuộc họp báo.
Trong khuôn khổ nỗ lực của Hoa Kỳ thúc đẩy Trung Quốc tăng áp lực với Triều Tiên, Bộ Tài chánh Mỹ ban hành một qui định chính thức cắt đứt một ngân hàng Trung Quốc bị cáo buộc rửa tiền cho Triều Tiên ra khỏi hệ thống tài chánh Mỹ. Trung Quốc là đối tác thương mại chính của Bình Nhưỡng.
Vào tháng 6 năm nay, Bộ Tài chánh Mỹ tuyên bố Ngân hàng Dandong là “mối quan ngại rửa tiền chính”, là cửa ngỏ đề Triều Tiên tiếp cận hệ thống tài chánh Hoa Kỳ và quốc tế dẫu bị chế tài của Mỹ và Liên hiệp quốc.
Cơ quan tình báo Hàn quốc ngày 2/11 cho biết Triều Tiên có thể có kế hoạch thử nghiệm thêm một phi đạn, sau khi có những hoạt động dồn dập được phát hiện tại những cơ sở nghiên cứu của nước này.
Quân đội Mỹ theo dõi chặt chẽ Triều Tiên sau khi nước này thử nghiệm phi đạn gần đây nhất vào ngày 15/9 và thử nghiệm hạt nhân lần thứ 6 và mạnh nhất vào ngày 3/9.
Hai máy bay ném bom Mỹ B-1B xuất phát từ căn cứ Guam đã bay ngang không phận Hàn Quốc trên dãy núi Pilsung trong một cuộc diễn tập hôm 2/11, Không lực Hoa Kỳ cho biết.
Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu trong chính trị Trung Quốc. Vào ngày 24 tháng 10, khi đại hội toàn quốc lần thứ 19 của đảng Cộng sản Trung Quốc hạ màn, các đại biểu của đảng đã sửa đổi điều lệ của tổ chức này để thiêng hóa một nguyên tắc ý thức hệ có vai trò dẫn dắt mới: “Tư tưởng Tập Cận Bình” (Xi Jinping). Ít có nhà quan sát nào biết chính xác học thuyết này dẫn tới cái gì – đó là một tập hợp vô hình vô ảnh những ý tưởng về duy trì nhà nước độc đảng của Trung Quốc và chuyển hóa đất nước thành một cường quốc toàn cầu – nhưng đa số đều lập tức nắm được cái biểu trưng chính trị trong sự ra đời học thuyết này. Đảng Cộng sản đã đề cao những đóng góp về ý thức hệ của nhà lãnh đạo Trung Quốc lên ngang tầm với những đóng góp của Mao Trạch Đông (Mao Zedong) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping), hai lãnh tụ đảng Cộng sản Trung Quốc duy nhất có ý tưởng được thánh hóa như vậy.
Đây mới chỉ là dấu hiệu đầu tiên rằng ông Tập đã giành được một thắng lợi chính trị quan trọng tại đại hội đảng. Quy mô thực sự của chiến thắng của ông trở nên rõ ràng vào ngày hôm sau, khi các đại biểu đảng chọn ra các ủy viên mới của ủy ban thường vụ bộ chính trị, cơ quan quyết định cấp cao nhất của Trung Quốc. Ông Tập lấp đầy cái ủy ban bảy người này bằng những người trung thành với ông, tất cả đều quá già để có thể có cơ hội lên thay vị trí của ông trong đại hội đảng lần tới vào năm 2022. Kết quả là ông Tập sẽ cai trị 15 năm nữa và có thể lâu hơn.
Tuy có vẻ rất vững mạnh, giờ đây ông Tập phải có đủ vốn chính trị để bảo đảm một nhiệm kỳ kéo dài trong tư cách lãnh tụ Trung Quốc. Trong thực tế, ông sẽ cần thực hiện lời cam kết tái cân bằng và làm cho bền vững đà tăng trưởng kinh tế và tái cơ cấu hệ thống tư pháp của Trung Quốc.
Sự gia tăng quyền lực của ông Tập
Trong số bảy ủy viên thường trực bộ chính trị khóa trước của đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ hai người còn tại nhiệm: ông Tập và người phó của ông, thủ tướng Lý Khắc Cường (Li Keqiang). Năm ủy viên khác của cơ quan này là người mới và bốn trong số họ là thân tín của ông Tập.
Lật Chiến Thư (Li Zhanshu), nhân vật thứ ba và mới của đảng, đã gây dựng một tình bạn thân thiết với ông Tập hơn 30 năm về trước và là chánh văn phòng của ông Tập trong nhiệm kỳ đầu của ông, từ năm 2007. Một thuộc hạ trung thành khác, ông Triệu Lạc Tế (Zhao Leji) sẽ là người chỉ huy mới của công cuộc chống tham nhũng, đóng vai người canh tay chủ lực thực hành chỉ thị của ông Tập. Người lãnh đạo cũ của cơ quan này, ông Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan) đã giữ vai trò người xoay chuyển trong việc giúp ông Tập loại bỏ các đối thủ và củng cố quyền lực trong nhiệm kỳ đầu.
Nhiều nhà quan sát Trung Quốc đã nhận ra hai gương mặt mới và khác trong ủy ban thường vụ, ông Vương Hỗ Ninh (Wang Huning) và Hàn Chính (Han Zheng), là thành viên của cái gọi là Nhóm Thượng Hải – một nhóm đầu sỏ câu kết với cựu chủ tịch Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) – một lối suy nghĩ nhằm đặt nghi vấn về lòng trung thành của hai ông này đối với ông Tập. Nhưng cách đánh giá như vậy là không chính xác. Ông Vương đã từng là cố vấn chính về ý thức hệ cho cả ba đời lãnh tụ đảng – ông Giang, ông Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) và ông Tập – và không có khả năng ông ta sẽ gắn bó với nhóm của ông Giang để gây nguy hiểm cho mối quan hệ với ông Tập sau khi nhóm ông Giang đã bị tiêu hao nhiều vì đòn phép chống tham nhũng của ông Tập. Ông Hàn cũng vậy, ông ta là người có năng lực, một nhà kỹ trị điềm tĩnh không có sự trung thành vĩnh viễn với Nhóm Thượng Hải. Thực ra, khi ông Tập làm bí thư Thượng Hải trong các năm 2006-2007 thì ông Hàn đã là thị trưởng thành phố và là cánh tay mặt của ông Tập. Ủy viên thứ bảy trong ủy ban thường vụ là ông Uông Dương (Wang Yang), một người có quan hệ với Nhóm Đoàn Thanh niên đối lập. Ông Uông sẽ trở thành lãnh đạo của hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp) – một cơ quan tư vấn của đảng.
Ông Tập cũng thành công trong việc lấp đầy bộ chính trị 25 thành viên bằng những đồng minh của mình. Có ít nhất 11 trong số 15 thành viên mới của bộ chính trị nằm trong nhóm của ông Tập. Kết quả là, giờ đây ông có thể giành tới 18 phiếu trong bộ chính trị. Các quyết định của ông sẽ được bộ chính trị và ủy ban thường vụ phê chuẩn với số phiếu áp đảo, từ đó sẽ có quyền lực phi thường. Hơn thế nữa, các đồng minh của ông Tập trong bộ chính trị, một số người còn khá trẻ, sẽ là những ứng viên mạnh để được đưa vào ủy ban thường vụ trong đại hội đảng lần thứ 20 vào năm 2022.
Thắng lợi chính trị lớn lao nhất mà ông Tập giành được tại đại hội là sự chấm dứt thông lệ của đảng, theo đó một nhà lãnh đạo mới sẽ được chính thức đề bạt ít nhất 5 năm trước ngày nhận chuyển giao quyền lực. Truyền thống này có từ năm 1992, khi ông Đặng chọn ông Hồ làm người kế tục ông Giang mười năm trước ngày ông Hồ đảm nhiệm chức vụ. Tương tự như vậy năm 2007 đảng đã chọn ông Tập làm người kế nhiệm ông Hồ. Thông lệ này làm giảm rủi ro tranh giành quyền kế tục trong đảng và giúp thực thi quy định không chính thức về giới hạn số nhiệm kỳ của các lãnh đạo cấp cao nhất là hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Nhưng đảng chưa bao giờ pháp chế hóa những truyền thống này trong điều lệ của mình và một lãnh đạo đương nhiệm muốn tìm cách kéo dài sự cai trị của mình sẽ luôn có thể chấm dứt các truyền thống đó nếu như có đủ quyền lực.
Đây rõ ràng là trường hợp của ông Tập; ông và các đồng minh của ông đã đi những nước cờ xuất sắc để thoát ra khỏi tiền lệ. Trước tiên, vào mùa thu năm 2016, đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức phong ông Tập là “lãnh tụ hạt nhân” (core leader) của đảng, khiến ông là lãnh tụ duy nhất từ thời ông Đặng tự mình có được cái danh hiệu đáng thèm muốn ấy và gửi một thông điệp cho các nhân vật cao cấp khác rằng vị trí của ông Tập là bất khả xâm phạm. (Ông Giang cũng được làm core leader nhưng do ông Đặng phong, còn ông Hồ không bao giờ nhận được danh hiệu này). Vài tháng sau đó, vào tháng Giêng năm nay, các đặc vụ an ninh Trung Quốc đã bắt cóc nhà tài phiệt Tiểu Kiến Hoa (Xiao Jianhua) tại một căn hộ trong khu Four Seasons ở Hong Kong. Vụ bắt cóc nhằm ngăn chặn những thách thức tiềm tàng đối với kế hoạch của ông Tập: là nhà tài phiệt cung cấp tiền bạc cho nhiều lãnh đạo chóp bu Trung Quốc, ông Tiểu có khả năng nắm giữ nhiều thông tin có thể dùng để buộc tội một số đối thủ của Tập.
Tháng Bảy, Tập có thêm một động tác nữa: ra lệnh bắt giam bí thư đảng thành phố Trùng Khánh Tôn Chính Tài (Sun Zhengcai) về tội tham nhũng. Vụ hạ bệ ông Tôn có nhiều ý nghĩa, một phần vì ông này kết giao với nhóm ông Giang và còn vì ông này còn trẻ đến mức nếu để cho ông ta yên thì ông ta sẽ là một người kế nhiệm hợp lý của ông Tập. (Ủy viên bộ chính trị nói chung phải dưới 55 tuổi thì mới đủ điều kiện xem xét làm người kế tục tương lai). Giờ đây sau khi ông Tôn đã bị loại bỏ thì chỉ còn một ủy viên bộ chính trị có tuổi đủ trẻ để có thể làm người kế nhiệm ông Tập vào năm 2022: cựu bí thư tỉnh Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (Hu Chunhua). Nhưng ông Hồ 55 tuổi này vừa rồi không được đề bạt vào ủy ban thường vụ bộ chính trị, rõ ràng ông ta không đủ điều kiện để kế nhiệm ông Tập vào năm 2022 nữa. Ông Hồ có khả năng sẽ được bố trí chức phó chủ tịch nặng tính tượng trưng vào tháng Ba năm tới.
Với ít sự lựa chọn như vậy, ông Tập sẽ có cái cớ hoàn hảo để trì hoãn việc đưa ra quyết định ai là người sẽ kế nhiệm ông. Sự thống trị của ông trong bộ chính trị và ủy ban thường vụ sẽ giúp ông có đủ quyền lực để làm như vậy, bảo đảm cho ông có thêm nhiệm kỳ lãnh đạo thứ ba tại đại hội kế tiếp của đảng vào năm 2022.
Ông Tập sẽ sửa đổi điều lệ đảng và hiến pháp Trung Quốc để hợp pháp hóa sự kéo dài quyền lực của ông. Chẳng hạn như ông có thể đảm nhiệm vị trí chủ tịch đảng – khôi phục một chức vụ đã bị bãi bỏ trong điều lệ đảng – và khởi động lại việc tính thời gian lãnh đạo đảng của ông. Còn đối với giới hạn hai nhiệm kỳ ở chức vụ chủ tịch nhà nước Trung Quốc (thường được nói tới “chức chủ tịch” (presidency) trong tiếng Anh nhưng để phù hợp ra phải dịch là “chức chủ tịch hội đồng” (chairmanship)) nó có thể được thay đổi chỉ với một sự điều chỉnh về ngữ nghĩa: các quan chức có thể sửa đổi hiến pháp Trung Quốc để chức danh chính thức của ông Tập trở thành “chủ tịch” (president). Bằng việc bảo đảm thêm hai nhiệm kỳ 5 năm mới với tư cách người đứng đầu cả đảng và nhà nước, ông Tập sẽ có thể cầm quyền cho đến tận năm 2032.
Pháp trị
Những câu hỏi lớn nhất về kỷ nguyên mới của Trung Quốc đều xoay quanh chương trình của ông Tập. Ít ai kỳ vọng ông Tập sẽ trở thành nhà cải cách chính trị do những cuộc đàn áp xã hội dân sự và quyền tự do internet trong suốt nhiệm kỳ đầu của ông. Nhưng những người lạc quan tin rằng, quyền lực tối cao mới giành được của ông Tập sẽ khiến ông được tự do theo đuổi những cuộc cải cách khác nữa, giới thiệu các cải cách kinh tế thân thiện với thị trường và tái cơ cấu hệ thống tư pháp Trung Quốc để bảo vệ quyền tư hữu và thúc đẩy phát triển một cách hiệu quả hơn.
Trong thực tế, ít có điều gì cho thấy rằng một làn sóng mới về cải tổ kinh tế đang hình thành. Ông Tập đã thủ đắc quyền lực to lớn trong suốt nhiệm kỳ đầu, năm 2013 ông đã đưa ra kế hoạch đầy tham vọng nhằm đại tu nền kinh tế Trung Quốc để “[cho phép] các lực lượng thị trường đóng một vai trò quyết định” như kế hoạch đã công bố. Nhưng từ ngày đó, ông chỉ làm được vài bước tiến rất khiêm tốn. Nhờ chính sách tiền tệ lỏng lẻo, mô hình tăng trưởng do đầu tư thúc đẩy và được tín dụng tiếp nhiên liệu vẫn đứng vững, góp phần nâng tỷ lệ nợ so với tổng sản lượng GDP của Trung Quốc từ mức 215% năm 2012 lên 242% năm 2016. Và mặc dù các doanh nghiệp nhà nước nợ nần đầm đìa của Trung Quốc đang trì kéo nền kinh tế quốc gia, chúng vẫn có một vị trí đặc biệt trong tầm nhìn tương lai của ông Tập. Tháng 7-2016, ông lập luận rằng các doanh nghiệp này cần phải trở nên “mạnh hơn, tốt hơn, lớn hơn, không có sự dè dặt nào”.
Niềm tin của các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào các chính sách hiện hành là một lý do khác để các nhà quan sát không nên đặt quá nhiều hy vọng vào cải cách kinh tế. Mặc dù đã có những lời cảnh báo rằng nợ nần không chống đỡ được sẽ dẫn tới sụp đổ tài chính, nhưng Bắc Kinh vẫn chưa phải trả một cái giá đắt cho việc bám chặt vào chiến lược bơm tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng. Thật vậy, hoạt động kinh tế gần đây của Trung Quốc – tăng trưởng GDP chắc chắn sẽ vượt qua mục tiêu chính thức là từ 6,5-6,7% trong năm nay – đã làm sâu sắc thêm niềm tin của các nhà hoạch định chính sách vào mô hình hiện hành.
Cuối cùng, bởi vì tất cả các cuộc cải cách kinh tế mạnh mẽ trong quá khứ đều được thôi thúc bởi những vụ khủng hoảng, những cú sốc nên các nhà quan sát nên giảm nhẹ cái khả năng Bắc Kinh sẽ theo đuổi những sự cải tổ sâu rộng một khi nền kinh tế vẫn đang vận hành tương đối tốt như ngày hôm nay.
Thay vì vậy, ưu tiên chính trị hàng đầu của ông Tập trong tương lai gần rất có thể là cải tổ toàn diện hệ thống tư pháp Trung Quốc, không phải nhắm tới sự thiết lập nhà nước pháp quyền (rule of law) thật sự mà là thực hiện pháp trị (rule by law), theo đó nhà nước sẽ dùng hệ thống tư pháp để duy trì sự kiểm soát về chính trị, xã hội và kinh tế. Nếu như vậy thì kết quả rất có thể là sự đàn áp chứ không phải là sự tiến bộ.
Có ba dấu hiệu cho thấy ông Tập sẽ tập trung vào cải cách tư pháp. Một là, đại hội đảng đã phê chuẩn kế hoạch của ông Tập cải tổ hệ thống tư pháp qua việc thành lập một “nhóm lãnh đạo về quản trị toàn diện đất nước theo luật pháp”, một cơ quan mà ông Tập là người đứng đầu. Thứ đến, ông Tập đã bổ nhiệm tay chân thân tín nhất của ông, ông Lật Chiến Thư, làm chủ tịch Đại hội Nhân dân toàn quốc, tức Quốc hội Trung Quốc, cơ quan lập pháp của quốc gia, sẽ soạn thảo và thông qua các luật lệ thiết yếu cho việc hiện thực hóa tầm nhìn của ông Tập. Cả hai biện pháp này cho thấy rằng, chẳng bao lâu nữa, cải cách tư pháp sẽ nhận được rất nhiều sự quan tâm ở cấp cao. Cuối cùng, ông Tập là người tin tưởng sâu sắc vào truyền thống pháp trị của Trung Quốc và trọng tâm của nhóm lãnh đạo mới về quản trị “toàn diện” phản ánh tham vọng đó.
Như đã thấy, trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông Tập đã ban hành một số luật quan trọng nhằm kiểm soát xã hội, siết chặt hoạt động an ninh mạng của Trung Quốc và hạn chế các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Nhưng để tái xác nhận quyền lực của đảng đối với xã hội và để cung cấp nền tảng pháp lý vững chắc cho chế độ độc tài chuyên chế thì còn nhiều chuyện phải làm. Ví dụ, Trung Quốc có thể áp đặt thêm nhiều hạn chế đối với các tổ chức phi chính phủ nội địa, ban hành những luật lệ mới về giáo dục tư tưởng trong các trường đại học, cao đẳng hoặc viết lại bộ luật hình sự sao cho nó trở thành công cụ ngày càng hiệu quả trong việc trấn áp sự phản kháng trong nước. Mục đích sẽ là biến đổi Trung Quốc từ một chế độ tản quyền hậu toàn trị chủ nghĩa thành một chế độ độc tài chuyên chế được cai trị bởi một đảng Leninist có kỷ luật.
Thói quan liêu
Trong ngắn hạn, các kế hoạch của ông Tập sẽ không gặp nhiều sự phản kháng công khai. Cuộc đàn áp thẳng tay giới bất đồng chính kiến và xã hội dân sự của ông đã có hiệu quả một cách đáng buồn, và đã xóa bỏ mọi mối đe dọa đối với sự cai trị của chế độ trong tương lai gần. Giờ đây, vai trò tối thượng của ông Tập trong đảng Cộng sản đã bao trùm tới mức không thể hình dung được có đồng nghiệp nào của ông dám đứng ra thách thức ông.
Sự phản kháng thật sự đối với tham vọng của ông Tập sẽ đến từ guồng máy hành chính quan liêu to lớn của Trung Quốc. Các quan chức cấp thấp và cấp trung của chế độ, số lượng lên tới hàng triệu người, là những con người có tính tư lợi đầu tiên và cao nhất, và họ quan tâm nhiều tới chuyện gia tăng đặc quyền và của cải của chính mình hơn là thúc đẩy những mục tiêu ý thức hệ trừu tượng. Khi ông Tập giải thể cơ chế chia sẻ quyền lực và bổng lộc từng là đặc trưng của trật tự ở Trung Quốc thời kỳ sau biến cố Thiên An Môn, triển vọng về quyền lực và tiền bạc của những cán bộ trong guồng máy quan liêu này cũng phai mờ dần. Đã không còn những băng nhóm tinh hoa để họ nhập vào, cũng không có nhiều người đỡ đầu để họ phục vụ. Ngày nay, mỗi quan chức đều phải cạnh tranh giành ân huệ của một chế độ do một nhóm duy nhất thống trị, và có rất ít con đường để thăng tiến so với thời kỳ trước khi ông Tập nắm quyền. Tệ hơn nữa, công cuộc trấn áp tham nhũng của ông Tập đã xóa sổ những hành vi hối lộ béo bở, những bổng lộc từng bảo đảm cho lối sống của giới cán bộ trong suốt hai thập kỷ qua. Trừ phi ông Tập bớt nghiêm khắc và cho phép đa số quan chức trong guồng máy được tiếp tục thu vén cho cá nhân họ, lòng trung thành sẽ mất đi sức hấp dẫn của nó.
Tất nhiên phần lớn các cán bộ cấp thấp hơn sẽ không từ bỏ đảng Cộng sản hoặc biểu lộ công khai sự bất mãn của họ. Thay vì vậy họ sẽ làm những gì mà guồng máy quan lại Trung Hoa đã làm trong hàng ngàn năm qua: phản ứng một cách thụ động với những mệnh lệnh từ cấp cao nhất. Mục tiêu của những cán bộ này là làm cho ông Tập phải nhận ra giá trị của họ và tưởng thưởng cho họ một cách tương xứng, có thể bằng cách chấm dứt cuộc trấn áp tham nhũng và yêu cầu thắt lưng buộc bụng. Cách thức duy nhất để đạt được điều này là thông qua sự tránh né, dối gạt của hệ thống quan liêu, làm chậm lại vòng quay của guồng máy hành chính và làm trì trệ cỗ máy kinh tế của Trung Quốc nhằm thu hút sự chú ý của ông Tập. Cho dù quyền lực của ông Tập có sâu rộng đến đâu thì nó cũng bị xói mòn nhanh chóng nếu tăng trưởng kinh tế bị trì trệ vài năm và giới quan chức Trung Quốc biết rõ điều đó.
Ông Tập không phải là nhà lãnh đạo đầy quyền năng đầu tiên của Trung Quốc phải đối mặt với guồng máy quan liêu cứng đầu cứng cổ. Ông Mao cũng đã đương đầu với một thách thức tương tự vào đầu thập niên 1960, khi ông nghĩ rằng các cán bộ đảng không có đủ nhiệt tình cách mạng. Một trong những động cơ để ông Mao phát động cuộc Cách mạng Văn hóa là sử dụng khủng bố của đám đông để đưa guồng máy quan liêu vào kỷ luật và phục hồi tinh thần cách mạng.
Nhưng ông Tập không phải là người tin tưởng vào các phong trào quần chúng và ông cũng không có cái uy tín tuyệt đối của ông Mao, người có thể huy động hàng trăm triệu thường dân Trung Quốc vào một hành động chung. Thay vì vậy, ông Tập phải tìm cách mở rộng phạm vi quyền lực của ông từ cấp ủy ban trung ương xuống tới các tỉnh thành quận huyện. Đó là một công việc nặng nhọc và tốn nhiều thời gian, chẳng hạn như nỗ lực xem xét và tuyển dụng cán bộ có triển vọng ở cấp địa phương.
Nhiều viên chức cấp thấp và cấp trung sẽ gia nhập phe của ông Tập. Nhưng khi cơ sở của ông mở rộng, nó cũng có thể gieo những hạt mầm tranh chấp trong nội bộ đảng. Biết rằng trận chiến kế tiếp để giành quyền lực tối thượng sẽ diễn ra trong 10, 15 năm nữa, khi ông Tập tiến tới ngày ra khỏi quyền lực, những thủ hạ bề ngoài có vẻ trung thành của ông sẽ quan tâm nhiều tới việc xây dựng quyền lực của riêng họ hơn là thực thi chương trình của ông Tập. Đây là chuyện đã xảy ra trong thời Cách mạng Văn hóa: sau khi Mao diệt xong các đối thủ thì những thủ hạ trung thành của ông ta, nhóm Lâm Bưu (Lin Biao) và nhóm Tứ Nhân Bang (Gang of Four) đã nhanh chóng đối địch với nhau vì lo sợ rằng nhóm kia sẽ tự đặt mình vào vị thế nối nghiệp vị chủ tịch già nua ấy.
Trong bàn tay của Tập
Trong những năm tháng sau khi Mao Trạch Đông qua đời, các nhà lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu hiểu rằng, tập trung quyền lực vào tay một nhân vật đơn lẻ có thể gây thảm họa cho đảng. Đó là lý do tại sao những người sống sót sau cuộc Cách mạng Văn hóa đã tập hợp lại trong thập niên 1980 để bảo đảm rằng không bao giờ một lãnh tụ như Mao lại có thể cai trị Trung Quốc. Những sự thay đổi mà nhóm này đưa ra – chẳng hạn như cơ chế lãnh đạo tập thể, những luật lệ không chính thức về sự kế nhiệm, và những sự bảo đảm ngầm về an ninh cho các lãnh đạo cấp cao – đã sinh ra một sự ổn định của giới tinh hoa trước đây chưa từng thấy trong lịch sử của đảng. Chúng cũng giúp cho chế độ tránh được những sai lầm nguy hiểm phát sinh từ sự giao phó quyền lực vào tay một cá nhân.
Các quan chức Trung Quốc dường như đã quên những bài học này. Giờ đây đảng Cộng sản đã quay lại với sự cai trị chuyên chế của một nhà độc tài, tương lai của nó sẽ phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất những quyết định của ông Tập. Sẽ có rất ít hạn chế về cách thức ông này đưa ra quyết định. Lần cuối cùng mà đảng có một lãnh tụ với quyền lực không bị kiểm soát như thế thì hậu quả là thảm họa. Chỉ có thể hy vọng rằng, lần này các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết những gì mà họ đang làm – và rằng kết quả sẽ không giống trước.
Facebook tại Trung Quốc. ( CS Việt Nam định theo đuôi CSTQ, Dân VN có cho theo không? )
TQ được coi là một trong những nước thù nghịch của internet. Sau khi lập ra cái gọi là Vạn lí trường thành trên mạng (Great Firewall) từ năm 1997, chính quyền nước này đã chặn fb từ năm 2009. Riêng google thì mãi đến 2014 mới bị chặn hoàn toàn. Để làm được điều đó, các sản phẩm nội địa của TQ phải thừa nhận là khá mạnh.
Các công ty thuần “tàu” này đã thay thế được cho hầu hết các ứng dụng của các hãng tên tuổi trên thế giới. Ví dụ, mạng nội địa Weibo đã thay cho facebook, Baidu thay cho Google, Youku thì thay cho Youtube, WeChat cũng thay cho Viber hoặc Whatsapp với những tính năng đa dạng hơn nguyên bản,…
Chính quyền TQ kiểm duyệt internet và mạng xã hội (MXH) khá hiệu quả bởi họ nắm trong tay các nhà cung cấp dịch vụ. Muốn cung cấp được sản phẩm cho thị trường đông dân nhất thế giới này, các công ty phần mềm buộc phải cấp quyền truy cập máy chủ cho cơ quan hữu trách.
Ngoài ra họ còn phải cài đặt phần mềm chặn từ khóa, phần mềm “tìm và diệt” chủ tài khoản có dấu hiệu “phản động”, phần mềm theo dõi “thế lực thù địch”,… Ví dụ như nếu bạn là một người sử dụng mạng xã hội tại TQ, bạn chỉ cần nhắc đến từ Pháp luân công hay Cách mạng văn hóa,… thì ngay lập tức bạn sẽ nằm trong diện theo dõi của an ninh mạng (ANM).
Đương nhiên là nếu gõ từ khóa “biến cố Thiên An môn” trong công cụ tìm kiếm Baidu, bạn không những nhận được cảnh báo lỗi mà còn rơi vào danh sách đen của ANM. Vì những từ khóa và sự kiện nhạy cảm ngày càng nhiều lên do những bất công trong xã hội gây ra nên đội ngũ lập trình viên và an ninh mạng TQ phải hoạt động hết công suất để cập nhập hàng ngày.
Như vậy ở TQ cũng có MXH nhưng nó chỉ để phục vụ cho việc hẹn hò, du hí, chụp ảnh tự sướng, bán hàng online,… Tôi coi MXH như vậy là một mạng chết. Vì các thành viên trên mạng xã hội made in China không được phép nói khác, nghĩ khác chính quyền.
Họ có thể ca ngợi Tập Cận Bình nhưng không được khen Lưu Hiểu Ba, họ được quyền nói thành phố Huế là của TQ chứ không được phép nghi ngờ về tính pháp lí đường “lưỡi bò” tham lam, đê tiện.
Lâu dần thành quen, điều giả dối được nhắc lại hàng triệu lần thì sẽ thành chân lí, cả tỷ người tàu đều tin rằng 90% diện tích biển đông là thuộc về họ, thậm chí từ thời hồng hoang ra khơi bằng thuyền thúng.
Chính quyền TQ tiếp tục quản lí tư tưởng của người dân để biến giấc mơ TQ thành ác mộng của toàn nhân loại.
Tại những quốc gia không có tự do ngôn luận, MXH là một cứu cánh cho người dân thấp cổ bé họng. Nó tựa như một khoảng trời nhỏ để người ta được hít thở chút khí trời hiếm hoi trong một bầu không khí ngột ngạt, ngục tù.
Nếu như cái quyền biểu đạt cuối cùng của người dân trên MXH cũng bị cấm cản thì sẽ là một sự thụt lùi khủng khiếp của đất nước, cho dù họ có cố gắng tăng cái GDP đến mức nào đi chăng nữa.