ĐIỀU ĐÓ CHẮC CHẮN ĐẾN, CHỈ SƠM HAY MUỘN THÔI.

Tin Thế Giới
ĐIỀU ĐÓ CHẮC CHẮN ĐẾN, CHỈ SƠM HAY MUỘN THÔI.


Thực tế này đã được nhấn mạnh trong một bài viết trên Fox News ngày 16/2, tác giả là ông Marc Thiessen, một thành viên tại Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ (AEI), người từng là nhà viết kịch bản chính cho Tổng thống George W. Bush và Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld.

Xem các phương tiện truyền thông ca ngợi về phái đoàn Triều Tiên tại Thế vận hội Pyeongchang, ông Thiessen cho biết ông lại nhớ lại một bức ảnh mà cấp trên của ông, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld, giữ dưới bàn làm việc của ông. Đó là một bức ảnh vệ tinh chụp bán đảo Triều Tiên vào ban đêm. Ở phía nam tràn đầy ánh sáng là Hàn Quốc tự do và dân chủ. Trong khi đó, ở phía bắc, Triều Tiên chìm trong bóng tối hoàn toàn, trừ một điểm sáng nhỏ bé ở thủ đô Bình Nhưỡng.
Ông Rumsfeld thường chỉ ra rằng, hai nước có cùng con người và cùng một nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, một bên đang phát sáng với ánh sáng tự do, đổi mới và năng động, còn bên kia lại bao bọc trong bóng tối của sự đau khổ của con người.

Trong hai tuần qua, Triều Tiên đang có cuộc “tấn công quyến rũ” tại Olympic ở Hàn Quốc, theo ông Thiessen. Kim Yo Jong, em gái của Kim Jong Un, không phải là “Ivanka của Triều Tiên”. Cô ta là Phó giám đốc Ủy ban tuyên truyền Đảng Lao động Triều Tiên, một lãnh đạo cao cấp của chế độ độc tài tàn bạo nhất trên trái đất, ông Thiessen bình luận. Như một người tị nạn Triều Tiên đã nói với tờ The Washington Post năm ngoái: “Nó giống như một tôn giáo. Từ khi sinh ra, bạn được học về gia đình Kim, được dạy rằng đó là những vị thần, rằng bạn phải hoàn toàn vâng lời gia đình họ Kim”.

Bất kỳ một nhận thức không trung thành nào với gia đình Kim có thể dẫn đến một cuộc viếng thăm vào giữa đêm từ Bowibu, cơ quan công an của Triều Tiên, không chỉ người phạm tội mà cả ba thế hệ người thân của họ có thể bị bắt đến một trại lao động và bị giam cầm ở đó cả đời.

Hệ thống các trại “cải tạo” của Triều Tiên, gần đây được Ủy ban Nhân quyền về Triều Tiên vẽ bản đồ, là khu vực trại giam rộng nhất trên thế giới. Dưới ba thế hệ của nhà họ Kim, hàng trăm ngàn người, nếu không phải hàng triệu người, đã bị bỏ tù và giết chết trong các trại này. Các tù nhân trải qua những hình thức tra tấn tàn nhẫn nhất, bao gồm bị móc treo lên trên các đống lửa, phụ nữ mang thai bị buộc vào cây trong khi con của họ bị cắt ra khỏi bụng.

Tuy nhiên, các trại cải tạo này chỉ đơn giản là nhà tù nằm trong một nhà tù lớn hơn. Toàn bộ đất nước này là một nhà tù khổng lồ. Bởi tình trạng suy dinh dưỡng lan rộng, người Triều Tiên thấp hơn người Hàn Quốc từ 30mm đến 78 mm. Và vì sự quản lý yếu kém về kinh tế, 97% các con đường không được trải nhựa. Theo ông Nicholas Eberstadt ở Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ, có tới một triệu người Triều Tiên chết trong nạn đói xảy ra sau sự sụp đổ của Liên Xô. Ông ghi nhận: “Đây là lần duy nhất trong lịch sử con người đã bị chết đói trong một xã hội văn minh, có văn hoá trong thời bình”.

Người dân Triều Tiên chết đói trong khi chế độ sử dụng nguồn lực của mình vào tham vọng triển khai tên lửa hạt nhân có khả năng tiếp cận và phá hủy các thành phố của Mỹ.
Ngay cả những người Triều Tiên trong giới tinh hoa cũng không được an toàn. Năm ngoái, Phó Bộ trưởng giáo dục Triều Tiên đã bị xử tử vì không giữ đúng tư thế của ông tại một sự kiện công cộng. Bộ trưởng Quốc phòng Hyong Yong Chol đã bị bắn chết bằng đại bác vì tội ngủ gật tại một cuộc diễu hành.
Và nếu bạn ngạc nhiên tự hỏi tại sao đội cổ vũ của Triều Tiên vẫn cổ vũ đồng đều một cách hoàn hảo như vậy, có thể vì họ đã nhìn thấy 11 nhạc công của Triều Tiên bị buộc vào cột và bị bắn bằng súng phòng không từng người một trước đám đông 10.000 người xem. Một nhân chứng nói: “Các nhạc công đã biến mất sau mỗi lần bị pháo bắn”, một nhân chứng cho biết, “thân thể của họ bị thổi bay hoàn toàn, máu và các mảnh vụn bay khắp nơi. Và sau đó, các xe tăng của quân đội tiến vào và cán qua các mảnh vụn trên mặt đất, nơi những mảnh thân xác còn sót lại”.

Đây là sự tàn bạo mà Kim Yo Jong, em gái của Kim Jong Un đại diện. Tuy nhiên, bất chấp thực tế tàn bạo này, các phương tiện truyền thông lại ca ngợi phái đoàn Triều Tiên. Reuters tuyên bố Kim Yo Jong là “người giành huy chương vàng ngoại giao tại Thế vận hội”. CNN đã phát biểu như thế nào, “Với một nụ cười, một cái bắt tay và một thông điệp ấm áp trong thư mời gửi tổng thống Hàn Quốc, Kim Yo Jong đã gây được thiện cảm với công chúng”. NBC thậm chí còn đăng lên Twitter một bức ảnh của đội cổ vũ Triều Tiên với tiêu đề “Điều này rất đáng để xem”. Đây có phải là điều nghiêm túc? NBC đã không đề cập đến điều đó trong năm 2005, khi mà 21 thành viên đội cổ vũ đã bị đưa đến một trại giam vì họ kể với người khác về những gì họ thấy ở Hàn Quốc.

Theo ông Thiessen, thay vì bình thường hóa chế độ tàn ác này, Olympic Pyeongchang lẽ ra phải là một cơ hội để các hãng truyền thông cho khán giả biết về cuộc sống thực tế ở Triều Tiên dưới sự cai trị gia đình họ Kim.
Minh Đức
Ít ngày sau khi chúc mừng năm mới Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Trung Quốc đã liên lạc với các binh sĩ của nước này trên quần đảo Hoàng Sa tranh chấp với Hà Nội.
Ông Tập hôm 12/2 đã trò chuyện với các binh sĩ của nước này đồn trú trên quần đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa qua kết nối video, và hỏi họ chuẩn bị đón năm mới ra sao, theo Tân Hoa Xã.
Đây là một phần nỗ lực động viên tinh thần các quân nhân Trung Quốc nhân dịp Tết Nguyên đán của ông Tập.
Nguyên thủ còn làm chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc này cũng nhấn mạnh tới sự trung thành của lực lượng vũ trang quốc gia đông dân nhất thế giới.
Ba ngày trước, báo chí đưa tin rằng ông Tập đã gửi lời chúc mừng năm mới tới lãnh đạo đảng của Việt Nam, trong đó tuyên bố “sẵn lòng duy trì quan hệ gần gũi với đồng chí Tổng bí thư [Trọng] trong nỗ lực chung nhằm thúc đẩy mối quan hệ Việt – Trung và nâng mối bang giao đó lên tầm cao mới”.
Ám chỉ tới các hoạt động rầm rộ xây đảo trên Biển Đông của Bắc Kinh, bạn đọc Khanh Le viết trên trang Facebook của VOA tiếng Việt: “Có mời ra thăm HS [Hoàng Sa], TS [Trường Sa] để xem sự ‘phát triển đổi mới’ của vùng biển đảo này không?”
Lãnh đạo hai nước gửi lời chúc Tết Nguyên đán lẫn nhau một ngày sau khi quân đội Trung Quốc thông báo đã đưa các máy bay chiến đấu tới Biển Đông.
Ông Dương Danh Dy, chuyên gia về quan hệ Việt – Trung, nhận định với VOA Việt Ngữ rằng “Biển Đông sẽ là vấn đề lâu dài, sống còn và sống chết” giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Cựu quan chức ngoại giao từng làm việc nhiều năm ở Quảng Châu, Trung Quốc, nói thêm rằng Trung Quốc sẽ “không bao giờ từ bỏ tham vọng bành trướng hơn nữa, bá quyền hơn nữa” ở vùng biển tranh chấp giữa nhiều nước.
Trung Quốc đã chiếm toàn bộ Hoàng Sa sau trận hải chiến đẫm máu làm 74 binh sĩ Việt Nam Cộng hòa bỏ mạng ngày 19/1/1974.
Hôm 11/2, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh, người trực tiếp chỉ huy trận hải chiến chống Trung Quốc, đã qua đời ở tiểu bang Virginia, Mỹ.
Ngoài một số cơ quan báo chí hải ngoại, không một tờ báo nào ở Việt Nam đưa tin về sự ra đi của tư lệnh hải quân cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa.
Trước Tết, truyền thông Việt Nam đã đăng nhiều bài viết về không khí đón Tết Mậu Tuất ở Trường Sa.
Tin cho hay, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đi thăm nhiều đơn vị vũ trang Việt Nam, nhưng không rõ có gọi điện chúc Tết các binh sĩ ở quần đảo nơi nơi Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền hay không.
(Nếu không vào được VOA, xin hãy dùng đường link vn510.com hoặc vn73.com để vượt tường lửa)

Các nhà lãnh đạo Ủy ban Tình báo Thượng viện Mỹ ngày 13/2 bày tỏ quan ngại về điều mà họ mô tả là những nỗ lực của Trung Quốc tiếp cận công nghệ nhạy cảm và tài sản trí tuệ của Mỹ thông qua các công ty Trung Quốc có liên hệ với chính phủ.
Thượng nghị sĩ Richard Burr bên đảng Cộng hòa, Chủ tịch Ủy ban, nêu lên những quan ngại về việc lan truyền công nghệ nước ngoài tại Mỹ mà ông gọi là “phản tình báo và những nguy cơ an ninh thông tin đính kèm với hàng hóa và dịch vụ của một số nhà buôn nước ngoài.”
“Tâm điểm quan ngại của tôi hiện nay là Trung Quốc, và đặc biệt là những công ty viễn thông Trung Quốc như Huawei và ZTE mà mọi người đều biết là có quan hệ đặc biệt với chính phủ Trung Quốc,” ông Burr nói.
Thượng nghị sĩ Mark Warner thuộc đảng Dân chủ, Phó Chủ tịch Ủy ban, cho biết ông cũng có những quan ngại tương tự.
“Tôi quan ngại về những quan hệ chặt chẽ giữa chính phủ Trung Quốc và những công ty công nghệ Trung Quốc, đặc biệt trong lãnh vực thương mại hóa công nghệ giám sát của chúng ta và những nỗ lực định hình thị trường trang thiết bị viễn thông,” ông Warner nói.
Cả hai Thượng nghị sĩ phát biểu tại một buổi điều trần thường niên của Ủy ban, nơi lãnh đạo các cơ quan gián điệp Mỹ điều trần về những đe dọa toàn cầu.
Một vài nhà lập pháp Mỹ gần đây đã chú ý đến các công ty công nghệ Trung Quốc.
Tuần qua, hai Thượng nghị sĩ Cộng hòa khác là Marco Rubio và Tom Cotton đệ trình dự luật ngăn chặn chính phủ Mỹ không được mua hay thuê các trang thiết bị viễn thông của Huawei Technologies Co Ltd hay ZTE Corp (0763.HK), viện dẫn những quan ngại là những công ty Trung Quốc sẽ lợi dụng sự tiếp cận này để do thám các giới chức Hoa Kỳ.
Các công ty này tuần qua không trả lời yêu cầu bình luận về dự luật này.
Vào năm 2012, những công ty này là đối tượng trong một cuộc điều tra của Mỹ về việc liệu những trang bị của họ có tạo cơ hội cho gián điệp nước ngoài và đe dọa hạ tầng cơ sở quan trọng của Hoa Kỳ hay không -điều mà họ luôn luôn phủ nhận.
(Nếu không vào được VOA, xin hãy dùng đường link vn510.com hoặc vn73.com để vượt tường lửa)
Các nhà lãnh đạo Ủy ban Tình báo Thượng viện Mỹ ngày 13/2 bày tỏ quan ngại về điều mà họ mô tả là những nỗ lực của Trung Quốc tiếp cận công nghệ nhạy cảm và tài…


Đức Bảo Phạm is with Lâm Đồng and 41 others.
NẾU VIỆT NAM ÁP DỤNG SẼ PHẢI TỐN RẤT NHIỀU ĐẠN
Năm 1961, tướng Park Chung Hee làm cuộc đảo chính quân sự thành công và lên làm Tổng thống Nam Hàn với Quốc sách: Tập trung sức phát triển kinh tế để biến Nam Hàn từ nghèo đói trở thành một đất nước giàu có.
Tháng 7/1961, trước 20.000 sinh viên Đại học Seoul ông đã nói:
“Toàn dân Nam Hàn phải thắt lưng buộc bụng trong 5 năm, phải cắn răng vào mà làm việc nếu muốn được sống còn. Làm thế nào trong vòng 10 năm chúng ta tạo được một nền kinh tế đứng đầu Đông Á, và 20 năm sau chúng ta trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới. Chúng ta sẽ bắt thế giới phải ngưỡng mộ chúng ta! Hôm nay có thể một số đồng bào bất đồng ý kiến với tôi. Nhưng xin những đồng bào ấy hiểu cho rằng Tổ Quốc quan trọng hơn quyền lợi cá nhân! Tôi không muốn mị dân! Tôi sẽ cương quyết ban hành một chính sách khắc khổ. TÔI SẼ ĐEM BẮN BẤT CỨ KẺ NÀO ĂN CẮP CỦA CÔNG DÙ CHỈ 1 ĐỒNG! Tôi sẵn sàng chết cho lý tưởng đã đề ra!…”.

Nguồn: Cardinal Mindszenty of Hungary sentenced, History.com
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vào ngày này năm 1949, Hồng Y József Mindszenty, giáo chức Công giáo cao nhất Hungary, đã bị Toà án Nhân dân Cộng sản kết tội phản quốc và bị kết án tù chung thân. Các nhà quan sát ở Tây Âu và Hoa Kỳ đã tức giận, lên án phiên tòa và việc buộc tội Mindszenty là “gian dối” và “trái pháp luật.”
Hồng y Mindszenty đã quá quen với các vụ bắt bớ chính trị. Trong Thế chiến II, chính quyền phát xít của Hungary đã bắt giữ ông vì dám phát biểu lên án chiến dịch đàn áp người Do Thái trong nước. Sau chiến tranh, khi chế độ cộng sản lên nắm quyền tại Hungary, ông tiếp tục công việc chính trị của mình, tố cáo sự áp bức chính trị và thiếu tự do tôn giáo ở nước ông.
Năm 1948, chính phủ Hungary đã bắt giữ Hồng y. Mindszenty, cùng một số giáo chức khác của Giáo hội Công giáo, một nhà báo, một giáo sư, và một thành viên của gia đình hoàng gia Hungary, đã bị kết án vì những cáo trạng khác nhau trong một phiên xử ngắn của Toà án Nhân dân Cộng sản ở Budapest. Hầu hết đều bị buộc tội phản quốc, cố ý lật đổ chính phủ Hungary, và đầu cơ bằng ngoại tệ (chuyển tiền ra nước ngoài bất hợp pháp). Tất cả những người này, ngoại trừ Mindszenty, đã nhận được án tù từ một vài năm tới tù chung thân.
Hồng y Mindszenty là trọng tâm của phiên toà. Trong quá trình tố tụng, các công tố viên đã đưa ra một số tài liệu cho rằng Mindszenty có liên quan đến các hoạt động chống chính phủ. Đức Hồng y thừa nhận rằng ông “có tội, về mặt nguyên tắc và về chi tiết cụ thể, trong hầu hết các cáo buộc được đưa ra,” nhưng đã mạnh mẽ phủ nhận rằng các hoạt động của ông được thiết kế để lật đổ chính phủ Hungary. Tuy nhiên, ông vẫn bị luận tội và bị kết án tù chung thân.
Phản ứng trước các cáo buộc về Mindszenty đã diễn ra một cách nhanh chóng và đầy phẫn nộ. Ngoại trưởng Anh Ernest Bevin tuyên bố phiên xử là một sự sỉ nhục đối với hiểu biết của người Anh về tự do và công lý. Tòa thánh Vatican đã ban hành một tuyên bố rằng Hồng y là “người đạo đức và vô tội.” Chủ tịch Hạ viện Mỹ Sam Rayburn (thành viên Đảng Dân Chủ, đại diện bang Texas) tuyên bố rằng “những người Kitô hữu quá sốc trước phán quyết này.” Nhiều cuộc biểu tình đã được tổ chức tại một số thành phố của Mỹ, nhưng chúng vẫn không thể thay đổi bản án.
Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc cho thấy chiều sâu của phong trào chống cộng ở Hungary. Năm 1956, Mindszenty được thả ra khi một chính phủ cải cách lên nắm quyền tại Hungary. Một thời gian ngắn sau đó, quân đội Liên Xô đã vào Hungary để đàn áp các cuộc biểu tình đòi dân chủ. Mindszenty phải xin tỵ nạn tại Đại sứ quán Mỹ ở Budapest và đã ở lại trong tòa nhà Đại sứ quán cho đến năm 1971. Năm đó, ông được Vatican triệu hồi và đưa đi định cư tại Vienna, nơi ông qua đời vào năm 1975.
The Libertyweb: Mổ cướp nội tạng từ tử tù tại Trung Quốc vẫn không ngừng phát triển mạnh mẽ

Tại cuộc họp báo, ông David Matas, David Kilgour và Jacob Lavee đã trình chiếu một đoạn video dài 20 phút với tựa đề “Diệt chủng y khoa: Cuộc diệt chủng hàng loạt bị che giấu trong ngành công nghiệp cấy ghép tạng của Trung Quốc”. Họ cũng đưa ra nhiều nhận định khiến giới y khoa không khỏi bàng hoàng về thực trạng cấy ghép tạng tại Trung Quốc hiện nay.
Đoạn video đã cho thấy kết quả điều tra của ông Matas, ông Kilgour và nhà báo Ethan Gutmann trong suốt 10 năm qua về nạn thu hoạch tạng tại Trung Quốc, được thống kê chi tiết trong phiên bản mới nhất của cuốn sách Thu hoạch đẫm máu/Đại thảm sát: Bản cập nhật (Bloody Harvest/The Slaughter: An Update).

Các nhà điều tra đã dày công gọi điện thoại đến khảo sát 169 bệnh viện được phép thực hiện cấy ghép tạng ở Trung Quốc, cuối cùng đi đến kết luận rằng Trung Quốc tiến hành khoảng 60.000-100.000 ca ghép tạng mỗi năm. Trong khi đó, báo cáo chính thức của chính quyền Bắc Kinh khẳng định họ chỉ thực hiện 10.000 ca cấy ghép mỗi năm. Khoảng cách quá lớn giữa hai con số này đủ cho thấy chính quyền đang nói dối.
Vậy nguồn tạng khổng lồ đó đến từ đâu? Các nhà điều tra khẳng định đa số đến từ những người tập Pháp Luân Công, người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng và các tín đồ Cơ Đốc giáo.
Trong buổi họp báo, ông Kilgour đã phát biểu: “Ngay cả khi số lượng các ca ghép tạng mỗi năm là 50.000 ca, thì tính trung bình có 165 người bị giết mỗi ngày. Đa số tạng đến từ các tù nhân lương tâm vô tội, đặc biệt là người tập Pháp Luân Công. Mỗi ngày họ bị ép lao động cưỡng bức lên đến 16 giờ đồng hồ, sau đó bị đưa đi xét nghiệm tổng quan để xem nội tạng của họ có phù hợp cho cấy ghép hay không.”
Nói một cách thẳng thắn thì phẫu thuật cấy ghép tạng của Trung Quốc chính là “giết người theo nhu cầu”. Từ năm 1999, ngành cấy ghép tạng của Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng. Trung Quốc đã thực hiện hơn 1.000.000 ca cấy ghép nội tạng từ năm 2000 đến nay. Theo The Libertyweb, không ngẫu nhiên mà cột mốc này trùng khớp với thời điểm khai màn cuộc bức hại Pháp Luân Công. Ngay khi cuộc bức hại bắt đầu, hàng chục ngàn người tập Pháp Luân Công đã bị bắt giữ, đưa đến các cơ sở tẩy não hay các trại lao động. Để đối phó với nhu cầu cấy ghép tạng ngày càng tăng cao, chính quyền Bắc Kinh đã quyết định xây dựng cơ sở dữ liệu y tế, rồi giết những người tập Pháp Luân Công này để thu hoạch nội tạng.
Tại Mỹ, thời gian chờ đợi tạng hiến tặng phù hợp để cấy ghép lên đến 2-3 năm, trong khi ở Trung Quốc, chỉ cần không đến 2 tuần là có thể tìm được tạng cấy ghép, có trường hợp cá biệt tạng được cung cấp chỉ trong vài giờ đồng hồ. Điều này đã cho thấy thực tế rằng, các cơ sở cấy ghép tại Trung Quốc phải có sẵn một “kho dự trữ tạng sống khổng lồ” và đó chính là những người tập Pháp Luân Công.
Trong cuộc họp báo, bác sĩ Lavee cũng nhận định: “Không ai biết trước khi nào mình sẽ chết [trong trường hợp tự nguyện hiến tạng], do đó chúng ta không thể lên kế hoạch ghép tạng vào một thời điểm nhất định nào đó. Nhưng ở Trung Quốc, người ta có thể lên lịch phẫu thuật cấy ghép chỉ trong 1-2 tuần là bởi họ có thể hành quyết những người tập Pháp Luân Công bị cầm tù và mổ lấy tạng trong cùng một ngày.”
Ông Matas còn nhấn mạnh: “Ở Trung Quốc, việc kiểm tra sức khỏe và xét nghiệm máu các tù nhân chính là để thiết lập cơ sở dữ liệu cho ghép tạng. Nói cách khác, những người cung cấp tạng đã bị liệt vào ‘danh sách chờ đợi’ và khi ai đó có nhu cầu ghép tạng, họ sẽ bị hành quyết để lấy nội tạng.”
Thông qua khảo sát, bác sĩ Lavee chỉ ra rằng, có một số bệnh nhân Nhật Bản sang Trung Quốc để du lịch ghép tạng: “Ít nhất 66 bệnh nhân Nhật đã cấy ghép nội tạng ở Trung Quốc. Điều này là do bảo hiểm y tế Nhật Bản có thể được sử dụng ở nước ngoài.” Để so sánh, bác sĩ Lavee nêu ra tình huống tại Israel, luật cấy ghép được quốc gia này thông qua vào năm 2008. Theo đó, nếu một người Israel đến cấy ghép ở một đất nước bị liệt vào đối lập chính trị với Israel, bảo hiểm không chi trả cho hoạt động này. Do đó mà gần như không có bệnh nhân Israel đến Trung Quốc ghép tạng. Nhật Bản cũng nên thiết lập điều luật như vậy.
The Liberty Web cũng kêu gọi chính phủ Nhật Bản không thể để cho một tội ác kinh hoàng như vậy vẫn tiếp tục, đồng thời, các bác sĩ y khoa cũng nên ngăn cản bệnh nhân đến Trung Quốc ghép tạng và giúp nhiều người hơn biết đến tội ác tàn bạo đang diễn ra trong ngành cấy ghép tạng ở Trung Quốc, bởi xét về bản chất thì nó không khác gì những vụ thảm sát hàng loạt của Hitler và Stalin trong quá khứ.
Hiện nay, giới y khoa nói riêng và chính phủ nhiều quốc gia nói chung đã nhận thức rõ về vấn nạn mổ cướp nội tạng ở Trung Quốc và ban hành các điều luật nhằm hạn chế người dân đến quốc gia này du lịch ghép tạng. Mới đây, các nghị sĩ Quốc hội Úc đã xem xét việc mở rộng bổ sung điều khoản pháp luật nhằm ngăn chặn nạn buôn bán nội tạng người, và quy định rõ hành động ra nước ngoài ghép tạng của công dân Úc chính là phạm tội. Trước đó, Đài Loan, Ý, Tây Ban Nha và Israel đều đã thông qua điều luật cấm công dân đến Trung Quốc ghép tạng.
Minh Ngọc

Nguồn: Chris Patten, “China’s New Emperor”, Project Syndicate, 25/10/2017.
Biên dịch: Nguyễn Lương Sỹ | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Một giai thoại về chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon vào năm 1972 từ lâu được xem như là sự chứng thực cho tầm nhìn dài hạn của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về lịch sử. Chu Ân Lai, nhân vật số hai mẫn cán của Mao Trạch Đông, được cho là đã trả lời câu hỏi về các bài học của cuộc Cách mạng Pháp bằng cách nói rằng còn quá sớm để nói lên được điều gì. Nhưng thực tế, theo các nhà ngoại giao có mặt ở đó, Chu không tranh luận về cuộc cách mạng năm 1789, mà là về phong trào nổi dậy của sinh viên ở Paris năm 1968, do đó có lẽ đúng là vẫn còn quá sớm để có thể nói lên điều gì.
Sau sự hiểu lầm này, bài học từ cuộc Cách mạng Pháp đã trở lại với Trung Quốc. Ngay sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 vào năm 2012, cuốn The Old Regime and the Revolution (Chế độ cũ và Cách mạng) của Alexis de Tocqueville viết năm 1856 đã trở thành cuốn sách “phải đọc” dành cho cán bộ cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Giá trị của cuốn sách được ca ngợi nhiệt tình nhất bởi Vương Kỳ Sơn, người chèo lái chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình và có lẽ là đồng minh thân cận nhất của chủ tịch Tập.
Toqueville lập luận rằng sự thịnh vượng ngày càng cao của nước Pháp thế kỷ 18 đã thực sự khiến cho việc quản lý đất nước này trở nên khó khăn hơn. Khi người dân trở nên giàu có, họ cũng đồng thời quan tâm nhiều hơn đến bất bình đẳng kinh tế và xã hội và do vậy sự bất bình đối với những người có quyền lực và giàu có ngày càng gia tăng. Những nỗ lực cải cách hệ thống chỉ làm nổi bật thêm tình trạng dễ tổn thương của chính nó. Cách mạng đã theo sau, quét sạch nền quân chủ và tầng lớp quý tộc. Đầu họ đã rơi.
Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 19 mới kết thúc của Trung Quốc đã cho thấy mức độ nằm lòng quan điểm của Toqueville trong giới lãnh đạo Trung Quốc. Ông Tập đã khẳng định quyền lực không tranh cãi của mình đối với Đảng và quốc gia. Tập Cận Bình củng cố vị thế của mình trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên, bằng cách đảo ngược phần lớn di sản để lại của Đặng Tiểu Bình, bao gồm việc mở cửa nền kinh tế, tách bạch Đảng ra khỏi chính quyền, và đường lối “giấu mình chờ thời” về chính sách đối ngoại và an ninh.
Tập cũng triệt tiêu các đối thủ tiềm tàng, chủ yếu dựa vào chiến dịch chống tham nhũng sâu rộng nhắm đến các quan chức từng được xem là không thể đụng đến. Ông đã giám sát cuộc thanh trừng lớn nhất từ trước tới nay tại Ủy ban Trung ương Đảng. Ông thẳng tay đàn áp cả những chỉ trích và dấu hiệu bất đồng chính kiến dè dặt nhất, và thậm chí cấm truyện cười trên Internet, gồm cả những hình ảnh hài hước so sánh ông với chú gấu Winnie the Pooh.
Nếu ở một quốc gia khác, những phương thức như vậy có thể gây ra chỉ trích gay gắt, với những cáo buộc rằng hành vi của Tập đã đưa đất nước trở lại chế độ độc tài kiểu Leninist cũ kỹ. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, những phương thức này đã thu hút được những lời ca ngợi từ giới quan sát, những người tin rằng ông Tập đang dẫn dắt con đường hiện thực hóa “giấc mơ Trung Hoa” nhằm phục hưng đất nước.
Nhưng, đối với một vài người, giấc mơ đó đang trên bờ vực trở thành cơn ác mộc. Các xu hướng dân số đang đe dọa biến sự dư thừa lao động vốn mang lại tốc độ tăng trưởng cao cho Trung Quốc trong những thập niên vừa qua thành thiếu hụt lao động với tốc độ chưa từng có. Ô nhiễm và khan hiếm nguồn nước, cùng với phát thải khí CO2 và mức độ ô nhiễm không khí gây chết người đang đe dọa sức khỏe người dân và hủy hoại sự bền vững của nền kinh tế Trung Quốc.
Ngoài ra, tăng trưởng GDP của Trung Quốc, mặc dù rất đáng hoan nghênh, lại đang được tiếp sức chủ yếu bởi sự kết hợp các khoản nợ đang tăng nhanh và bong bóng tài sản tràn lan. Thậm chí các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng thừa nhận rằng đất nước của họ đang có một trong những mức độ bất bình đẳng thu nhập lớn nhất trên thế giới. Khi mà người nghèo ngày càng nghèo đi, và người giàu mỗi lúc một giàu hơn, nhiều người đang đặt câu hỏi rằng liệu “chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc” thực sự nghĩa là gì.
Dĩ nhiên, luôn luôn có những người lạc quan mang lại những suy nghĩ tích cực. Phần lớn khoản nợ của Trung Quốc là nợ trong nước, bởi lẽ các ưu tiên chính trị đã định hướng việc vay mượn bên cạnh các cân nhắc về mặt thương mại. Trung Quốc ủng hộ các nỗ lực quốc tế nhằm giải quyết suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu. Phần lớn người dân trở nên khá giả hơn, dù không đồng đều. Và chính quyền của Tập ít nhất cũng đang làm điều gì đó nhằm tiêu diệt tình trạng tham nhũng tràn lan trong Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Chúng ta đều nên hy vọng rằng ít nhất cũng có một vài điều mà những người lạc quan về Trung Quốc nói là đúng; nếu sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sụp đổ, tất cả nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng, ngay cả khi những người lạc quan đã đúng, thì tuyên bố của ông Tập rằng Trung Quốc đã tìm ra được con đường tốt hơn để vận hành một xã hội và nền kinh tế hiện đại dường như còn lâu mới đúng với thực tế.
Chắc chắn rằng, từ những trò hề ngớ ngẩn của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đến sự trỗi dậy đầy tàn phá của chủ nghĩa dân tộc dân túy ở châu Âu, các quốc gia dân chủ đang phải trải qua phần thử thách của mình. Nhưng các hệ thống dân chủ đều có các cơ chế ổn định hóa nội tại vốn cho phép chúng tự điều chỉnh mà không cần đến việc sử dụng bạo lực hay đàn áp.
Nhưng đó không phải là trường hợp của Trung Quốc dưới thời Tập Cần Bình. Có một tranh luận nghiêm trúc ở Trung Quốc suốt nhiều năm về vai trò đúng đắn của nhà nước trong quan hệ kinh tế. Một phe cho rằng nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc nới lỏng sự kiểm soát nền kinh tế, họ sẽ không tránh khỏi việc mất kiểm soát đối với nhà nước. Những người khác biện luận ngược lại: trừ khi Đảng từ bỏ bớt việc kiểm soát nền kinh tế, họ sẽ mất quyền lực chính trị, vì các mâu thuẫn kinh tế sẽ nhân rộng và sự phát triển trở nên kém bền vững hơn. Ông Tập rõ ràng đã nằm trong nhóm ủng hộ vai trò lớn hơn của nhà nước.
Nhưng không chỉ có Đảng là đối tượng mà ông Tập làm gia tăng quyền lực, ông cũng gia tăng quyền lực cho cả chính mình. Thực tế, khó để biết được ai đang thăng cấp trong nấc thang quyền lực của Đảng và ai sẽ bị triệt hạ bởi bất đồng ý kiến với nhà lãnh đạo tối cao. Điều đó không ngăn cản được những người ngoài cuộc suy đoán, nhưng trò chơi phỏng đoán này cũng chẳng có ích gì. Tập, cũng giống như bất kỳ vị hoàng đế nào khác, sẽ tiếp tục bổ nhiệm những cận thần đi theo con đường mà ông dẫn dắt.
Nhưng quyền lực cao sẽ đi kèm với trách nhiệm lớn – và, ở điểm này, quyền lực của Tập gần như tuyệt đối. Đó sẽ là gánh nặng cho một người duy nhất. Tập có thể thông minh hơn nhiều so với Trump (vốn không phải là một đối thủ khó khăn để vượt qua), nhưng điều đó là không đủ để bảo đảm một tương lai ổn định và thịnh vượng cho Trung Quốc. Và, nếu mọi thứ chệch hướng, tất cả đều biết sẽ phải đổ lỗi cho ai. Đó là lý do tại sao các triều đại độc tài thường có chung một kết cục. Chẳng cần phải đọc Toqueville mới nhận ra điều này.
Chris Patten, Thống đốc người Anh cuối cùng của Hong Kong và cựu Ủy viên đối ngoại của Liên minh châu Âu, là Hiệu trưởng trường Đại học Oxford.
Giàu có và nhiều quyền lực vẫn không bình an, hạnh phúc?
HAVANA, Cuba (AP) – Người con trai lớn nhất của cố lãnh tụ Fidel Castro vừa tự tử hôm Thứ Năm, sau nhiều tháng bị bệnh trầm cảm, truyền thông nhà nước Cuba cho biết.
Năm nay ông 68 tuổi.
Trang web chính thức Cubadebate nói ông Fidel Castro Diaz-Balart lâu nay trong “tình trạng trầm cảm nặng.”
Một thông báo ngắn trên truyền hình nhà nước nói rằng cách chữa trị cho ông “buộc ông phải vào bệnh viện, rồi sau đó cho về nhà theo dõi tiếp.”
Người con trai lớn nhất này của ông Castro có nét giống người cha nhất, nên thường được người ta gọi là “Fidelito” hoặc “Little Fidel.”
Ông Castro Diaz-Balart học vật lý nguyên tử ở Liên Xô và là cố vấn khoa học trong Hội Đồng Nhà Nước Cuba. Ông cũng là phó chủ tịch Học Viện Khoa Học Cuba, và từng đứng đầu chương trình nguyên tử của học viện này.
Ông là con người vợ đầu tiên của ông Fidel Castro, bà Mirta Diaz-Balart, một phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc Cuba.
Ông Fidel Castro lập gia đình với bà từ hồi còn trẻ, trước khi bắt đầu cuộc cách mạng mà sau đó đưa ông và người em, Raul Castro, lên nắm quyền lãnh đạo Cuba.
Vì thế, về phía họ ngoại, ông Castro Diaz-Balart là anh em họ với Dân Biểu Mario Diaz-Balart, thuộc đảng Cộng Hòa và đại diện cộng đồng Cuba lưu vong ở Florida.
Ông Fidel Castro qua đời hồi Tháng Mười Một, 2016 ở tuổi 90.
Ông Raul Castro, chủ của ông Fidel Castro Diaz-Balart, hiện là chủ tịch Cuba. (Đ.D.)
Hơn chục nghị sĩ trong Quốc hội Mỹ đề cử nhà hoạt động của phong trào dân chủ và là lãnh tụ sinh viên nổi tiếng nhất của Hong Kong, anh Joshua Wong, làm ứng viên nhận Giải Nobel Hòa bình năm nay, một động thái chắc chắn làm Bắc Kinh nổi giận.
Với việc đề cử anh Wong, 21 tuổi, cùng các bạn đồng chí hướng là Nathan Law, 24 tuổi, và Alex Chow, 27 tuổi (những người đã đứng ra lãnh đạo hàng ngàn sinh viên tại Hong Kong trong cuộc biểu tình đòi dân chủ lớn nhất vào năm 2014), các nhà lập pháp Mỹ muốn công nhận “những nỗ lực ôn hòa của họ nhằm mang lại cải cách chính trị và quyền tự trị cho Hong Kong.”
Những cuộc biểu tình mà chính phủ Trung Quốc và Hong Kong xem như bất hợp pháp, là một phần của cuộc nổi dậy dân túy gây ra những thách thức to lớn nhất đối với Bắc Kinh trong nhiều thập niên.
Đề cập đến quyền tự quyết chắc chắn làm nhà cầm quyền Bắc Kinh và Hong Kong nổi giận vì họ cho rằng việc này không phù hợp với nguyên tắc “một quốc gia, hai hệ thống” mà trung tâm tài chánh châu Á này được quản trị.
“Những người bênh vực dân chủ tại Hong Kong đã có những đóng góp đáng kể cho hòa bình bằng cách tích cực mưu tìm một tương lai đảm bảo cho Hong Kong vào chính thời điểm mà Bắc Kinh có những bước phá hoại sự tự trị ấp ủ lâu nay của Hong Kong,” 4 đảng viên Dân chủ và 8 đảng viên Cộng hòa trong Quốc hội Mỹ, trong đó có cựu ứng cử viên Tổng thống Marco Rubio, trình bày với Ủy ban Giải Nobel Hòa bình trong một bức thư.
Nếu được giải, anh Wong sẽ là người trẻ thứ hai được Giải Nobel Hòa bình sau Malala Yousafzai, người Pakistan đoạt giải này vào năm 2014 khi mới 17 tuổi. Khôi nguyên thắng giải sẽ được loan báo vào tháng 10 năm nay.
Kể từ khi Anh trao trả Hong Kong lại cho Trung Quốc vào năm 1997, vùng đất này được cai trị theo nguyên tắc “một quốc gia, hai hệ thống” và Trung Quốc hứa cho Hong Kong được tự trị và tự do nhiều hơn mà người dân Hoa lục không được hưởng.
Hàng người biểu tình, nhiều người dùng dù để tự vệ trước hơi cay của cảnh sát, đã cắm trại trên những xa lộ chính trong suốt 79 ngày vào cuối năm 2014, khiến thế giới chú ý.
Tuy nhiên, các cuộc biểu tình đa phần ôn hòa này đã không áp lực được nhà cầm quyền Hong Kong và Bắc Kinh cho phép Hong Kong được hoàn toàn dân chủ.
Ba nhà lãnh đạo trẻ đã bị giam cầm trong nhiều tháng trời và bản thân anh Wong đang đối mặt với hai phiên phúc thẩm với các án tù.
Anh Wong nói anh hy vọng đề cử dành cho anh sẽ mang lại thêm sức mạnh cho phong trào dân chủ ở Hong Kong.
Anh Wong nói: “Tôi tin là sự đề cử này sẽ cho cộng đồng thế giới và Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình, thấy rằng thế hệ trẻ sẽ kiên trì đấu tranh cho dân chủ tới mức nào, cho dù chúng tôi phải đối mặt với tù đày và bị cấm vĩnh viễn không được bước vào vị trí công cử nào.
Vì sao chủ nghĩa xã hội thất bại?

Nguồn: Paul R. Gregory, “Why Socialism Fails”, Hoover Institution, 10/01/2018.
Biên dịch: Hiếu Chân
Khi Liên bang Xô viết gần sụp đổ, Francis Fukuyama tuyên bố chế độ dân chủ tự do đã chiến thắng chủ nghĩa xã hội kế hoạch hóa trong bài nhận định năm 1989 của ông, “Điểm tận cùng của Lịch sử?”. Hơn một phần tư thế kỷ sau đó, Liên Xô quả thực đã tan rã. Phần lãnh thổ Đông Âu của nó bây giờ thuộc về Liên minh Âu châu. Trung Quốc có một nền kinh tế thị trường cho dù đất nước vẫn bị cai trị bởi một đảng duy nhất. Còn các nhà nước “xã hội chủ nghĩa” Bắc Hàn, Cuba và Venezuela đang trong đống đổ nát về kinh tế. Giờ đây, ít ai ủng hộ việc “quay lại Liên Xô”. Nhưng đồng thời, nhiều người vẫn coi chủ nghĩa xã hội là một hệ thống kinh tế hấp dẫn. Hãy xem trường hợp ông Bernie Sanders[1] – một người công khai thừa nhận ủng hộ một nước Mỹ xã hội chủ nghĩa – và rất nhiều người trẻ trưởng thành vào điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ ưa thích chủ nghĩa xã hội hơn chủ nghĩa tư bản.
Sự tương đồng về kỵ sĩ và con ngựa giải thích cho sự hấp dẫn kéo dài của chủ nghĩa xã hội. Những người xã hội chủ nghĩa tin rằng các chế độ xã hội chủ nghĩa đã chọn sai kỵ sĩ để cưỡi con ngựa xã hội chủ nghĩa đi tới chiến thắng xứng đáng với nó. Những kỵ sĩ tệ hại như Stalin, Mao, Fidel, Pol Pot và Hugo Chavez đã chọn những chiến thuật và chính sách dẫn con ngựa xã hội chủ nghĩa của họ đi trật đường. Nhưng trên thực tế, một cái nhìn vào cách thức Liên Xô hoạt động lại bộc lộ rằng, chính bản thân con ngựa mới là vấn đề.
Sau khi giành được quyền lực một thế kỷ trước và nắm giữ quyền lực thông qua một cuộc nội chiến, những người cộng sản Liên Xô có ý định xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ chôn vùi chủ nghĩa tư bản. Sở hữu nhà nước và kế hoạch hóa khoa học sẽ thay thế cho tình trạng vô chính phủ của thị trường. Lợi ích vật chất sẽ dồn về phía giai cấp lao động. Một nền kinh tế công bằng sẽ thay cho sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản và con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ nổi lên, những người đặt ưu tiên cho lợi ích của xã hội lên trên lợi ích cá nhân. Chuyên chính vô sản sẽ bảo đảm quyền lợi của giai cấp lao động. Thay vì bóc lột giá trị thặng dư từ người lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ lấy đồ cống nạp của các nhà tư bản để tài trợ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những nền tảng căn bản của “con ngựa” Xô-viết đã được thiết lập vào đầu thập niên 1930. Theo hệ thống này, Stalin và bộ chính trị của ông ta đặt ra những ưu tiên chung cho các bộ công nghiệp và ủy ban kế hoạch nhà nước. Các bộ và các nhà kế hoạch làm việc cùng nhau để soạn ra các kế hoạch kinh tế. Cán bộ quản lý của hàng trăm ngàn nhà máy, công xưởng, cửa hàng thực phẩm và ngay đến các nông trại đều bị pháp luật bắt buộc phải hoàn thành kế hoạch mà cấp trên giao cho.
Nhà nước Xô-viết khởi động nền kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa của họ khi thế giới tư bản chủ nghĩa chìm sâu vào suy thoái, chiến tranh thương mại và lạm phát phi mã. Chính quyền Xô-viết khoe khoang về mức tăng trưởng chưa từng có trước đây. Các tổ hợp công nghiệp mới mọc lên từ số không. Các tạp chí đăng hình ảnh những công nhân vui sướng nghỉ ngơi trong những khu nghỉ mát đầy đủ tiện nghi. Thông điệp là: Phương Tây đang thất bại và hệ thống kinh tế Xô-viết là con đường đi tới tương lai.
Khi cuộc cạnh tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội Liên Xô trở nên rõ rệt trong thời Chiến tranh Lạnh, hoạt động nghiên cứu học thuật nghiêm túc về nền kinh tế Xô-viết cũng bắt đầu. Chương trình nghiên cứu bao quát của các học giả phương Tây nhắm vào “kế hoạch hóa khoa học” – những người xã hội chủ nghĩa tin rằng các chuyên gia kỹ trị có thể quản lý nền kinh tế tốt hơn là những lực lượng thị trường tự phát. Suy cho cùng, chẳng phải các chuyên gia thì hiểu biết hơn người mua người bán về chuyện cần sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai sử dụng hay sao?
Chính các nhà kinh tế học người Áo F.A. Hayek và Ludwig von Mises là những người chống lại niềm tin này quyết liệt nhất. Trong sự phê phán có tính biểu tượng của họ, được trình bày trong hàng loạt công trình nghiên cứu từ thập niên 1920 đến 1940, họ đi đến kết luận rằng chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại. Trong các nền kinh tế hiện đại, hàng trăm ngàn doanh nghiệp sản xuất ra hàng triệu sản phẩm. Quản lý một số lượng lớn như vậy là việc quá phức tạp mà không một cơ quan hành chính nào có thể phân bổ nguồn lực nổi, cho dù có sự trợ giúp của công nghệ máy tính tinh vi nhất. Kinh tế hiện đại do đó quá phức tạp và không kế hoạch hóa được. Không có thị trường và giá cả, các nhà hoạch định chính sách không biết được mặt hàng nào bị khan hiếm, sản phẩm nào dư thừa. Nếu tài sản thuộc về mọi người, thì những người quản lý tài sản cho xã hội sẽ phải theo những luật lệ nào?
Giải pháp của người Xô-viết cho những vấn đề về tính phức tạp và thông tin là một kế hoạch quốc gia đặt mục tiêu sản xuất cho những khu vực kinh tế lớn chứ không phải cho những giao dịch cụ thể. Nói cách khác, thay vì bắt buộc nhà máy A phải giao cho nhà máy B 10 tấn dây cáp thép, các nhà kế hoạch đặt mục tiêu tổng số tấn dây cáp được sản xuất trong cả nước. Chỉ có một số mặt hàng đặc biệt – chẳng hạn như dầu thô, quặng nhôm, than nâu, điện năng và toa vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt – mới được lập kế hoạch như những giao dịch thật sự. Còn tất cả những mặt hàng khác chỉ được kế hoạch hóa theo số lượng thô, chẳng hạn như đặt mục tiêu dệt ra vài triệu mét vuông vải. Các đặc điểm của sản phẩm, kế hoạch giao hàng và thanh toán tiền chỉ được vạch ra ở những cấp thấp, và thường dẫn tới những kết quả thảm hại.
Kế hoạch hóa khoa học kiểu Xô viết trong thực tế chỉ tác động tới một phần rất nhỏ sản phẩm. Vào đầu thập niên 1950, các cơ quan trung ương lập ra hơn 10.000 chỉ mục kế hoạch trong khi sản phẩm công nghiệp có đến hơn 20 triệu chỉ mục khác nhau. Các cơ quan trung ương lập ra những kế hoạch tổng quát cho các bộ công nghiệp, các bộ này lại đề ra những kế hoạch chi tiết hơn cho các “khu hành chính quan trọng”, nơi sẽ chuẩn bị kế hoạch cho các doanh nghiệp. Không bao giờ có yêu cầu các quan chức hàng đầu phải đưa ra kế hoạch sản xuất các sản phẩm đặc biệt nào đó.
Để làm cho vấn đề thêm phức tạp, gần như tất cả mọi kế hoạch đều chỉ là “dự thảo”, có thể được thay đổi bất cứ lúc nào bởi các quan chức của đảng và chính quyền cấp cao hơn. Sự can thiệp thường xuyên này, gọi là “giám sát”, là một điều phiền toái xảy ra từ ngày đầu tiên tới ngày cuối cùng của hệ thống Xô-viết, nhưng đó cũng là cột trụ cho công cuộc phân bổ nguồn lực.
Các nhà kế hoạch trung ương chuẩn bị những kế hoạch sơ bộ cho một bộ phận nhỏ của nền kinh tế. Những “kế hoạch dự thảo” này lại kích hoạt “những trận chiến giành kế hoạch” to lớn khi các bộ và các doanh nghiệp tìm cách hoàn thành mục tiêu sản xuất của họ và đáp ứng các định mức giao hàng; tất cả những chuyện này đều có thể thay đổi bởi các cán bộ đảng và cán bộ địa phương vào bất cứ lúc nào.
Như bộ trưởng công nghiệp nặng Sergo Ordzhonokidze than phiền vào năm 1930: “Tôi đoán họ nghĩ rằng chúng tôi là một lũ ngốc. Mỗi ngày họ cho chúng tôi từ nghị quyết này đến nghị quyết khác mà không có cơ sở nào cả”. Một nửa thế kỷ sau một nhà thầu quốc phòng ẩn danh cũng đưa ra lời than phiền tương tự: “Họ nhúng mũi vào mọi vấn đề. Chúng tôi bảo họ rằng họ đã sai, nhưng họ vẫn đòi phải làm theo cách của họ”.
Nhiệm vụ của người quản lý được cho là rất đơn giản: Kế hoạch là pháp lệnh, công việc của người quản lý là hoàn thành kế hoạch. Nhưng kế hoạch cứ tiếp tục thay đổi. Hơn thế nữa, nó bao gồm nhiều nhiệm vụ khác nhau, chẳng hạn như giao hàng, sản lượng và phân loại. Xuyên qua toàn bộ lịch sử của Liên Xô, tổng sản lượng gộp (đo bằng tấn, mét hoặc toa hàng/dặm) là các chỉ tiêu kế hoạch quan trọng nhất và cũng dễ thao túng nhất. Các nhà sản xuất đinh chẳng hạn, mà sản lượng được tính theo trọng lượng, chỉ sản xuất các loại đinh to và nặng. Các nhà sản xuất máy kéo, cố gắng hoàn thành định mức máy kéo, bị phát hiện chỉ giao cho khách hàng những chiếc máy kéo không có động cơ; buộc khách hàng phải mua động cơ như mua phụ tùng. Các nhà sản xuất giày mà kế hoạch dựa trên số lượng giày làm ra chỉ sản xuất giày cùng một cỡ, cùng một màu, bất chấp nỗi khổ tâm của khách hàng. Những mục tiêu kế hoạch khác, chẳng hạn như áp dụng công nghệ mới hoặc làm giảm chi phí sản xuất, bị lãng quên vì bị coi là không có tác dụng giúp hoàn thành kế hoạch.
Dưới chế độ kế hoạch hóa khoa học, cung cầu phải gần ngang nhau – và do ác cảm của họ đối với tính lộn xộn của thị trường, các nhà kế hoạch Xô-viết không thể cân đối cung cầu bằng cách nâng giá hoặc hạ giá. Thay vì vậy, họ soạn ra cái gọi là “cân đối vật chất”, sử dụng phép kế toán cổ xưa để so sánh những vật liệu nào đang có sẵn với những vật liệu cần có theo một nghĩa nào đó.
Kế hoạch hóa cân đối-vật chất kiểu Xô-viết có rất nhiều khiếm khuyết. Ví dụ, chỉ có thể soạn ra một số sự cân đối – năm 1938 chỉ có 379 sự cân đối ở trung ương được chuẩn bị cho một thị trường có hàng triệu mặt hàng. Và rồi, những sự cân đối này lại dựa trên những thông tin méo mó. Các nhà sản xuất hàng hóa trong phép cân đối này vận động để được phân bổ những mục tiêu thấp, che giấu năng lực sản xuất thật của họ. Những người sử dụng sản phẩm công nghiệp trong phép cân đối, ngược lại, lại khai vống lên những gì họ cần để bảo đảm việc hoàn thành kế hoạch của riêng họ.
Hình dung ra một sự cân đối thích hợp là một công việc mệt mỏi – và các nhà kế hoạch Xô-viết không phải năm nào cũng sáng tác ra cái mới; thay vì vậy, họ áp dụng cách gọi là “kế hoạch hóa từ mức độ đã hoàn tất”, nghĩa là kế hoạch của mỗi năm là kế hoạch của năm trước đó cộng thêm một số điều chỉnh nhỏ.
Vào đầu thập niên 1930, các cơ quan cung cấp phân phối nguyên vật liệu dựa trên những gì họ đã làm trong năm trước đó. Lướt nhanh đến thập niên 1980, cũng vẫn thấy cung cách làm việc như vậy. Khi một nhà sản xuất vật liệu nghề hàn muốn sử dụng tấm kim loại mỏng hơn thì câu trả lời chính thức là: “Tôi không quan tâm tới công nghệ mới. Cứ làm như cũ để mọi sự vẫn như cũ”. Kế hoạch hóa cân đối vật chất là kẻ thù của sản phẩm mới và công nghệ mới bởi vì chúng đòi hỏi phải làm lại một hệ thống các cân đối vốn đã rất mong manh. Các nhà kinh tế học Mỹ nghiên cứu sản xuất công nghiệp của Liên Xô trong thập niên 1950 hết sức ngạc nhiên khi thấy những cỗ máy đã sản xuất vài thập niên mà không hề được cải tiến gì cả, một chuyện chưa từng nghe thấy ở phương Tây.
Kế hoạch hóa cân đối vật chất là điểm yếu cơ bản nhất của hệ thống Xô-viết. Nó làm cho nền kinh tế Liên Xô bị đông cứng lại. Sản xuất của mỗi năm là bản sao chép năm trước đó. Một cán bộ quản lý Liên Xô năm 1985 sẽ cảm thấy hết sức thoải mái trong cùng doanh nghiệp đó vào năm 1935.
Ngoài kế hoạch hóa cân đối vật chất, ngân sách mềm (soft budgets) cũng tạo thành một khuyết điểm nghiêm trọng khác. Nhà kinh tế học Janos Kornai của trường Đại học Harvard lớn lên ở Hungary dưới thời xã hội chủ nghĩa kế hoạch hóa. Nghiên cứu của ông, dựa trên những trải nghiệm trực tiếp, tập trung vào những thất thoát kinh tế diễn ra cùng với những giới hạn của ngân sách mềm. Theo Kornai, nếu doanh nghiệp không phải đối mặt với nguy cơ phá sản, chúng sẽ không tìm cách cắt giảm chi phí và tìm những chiến lược sinh tồn khác. Từ ngày đầu tiên của hệ thống Xô-viết, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã hiểu rằng họ sẽ được tự động cứu nguy, nếu không nói là cứu ngay.
Nguyên nhân ban đầu của chính sách ngân sách mềm là do hệ thống Xô-viết dựa trên kế hoạch sản lượng. Đầu ra của doanh nghiệp này là đầu vào của doanh nghiệp khác. Nếu kế hoạch sản lượng bị đổ vỡ thì toàn bộ kế hoạch sẽ thất bại. Đưa một doanh nghiệp ra khỏi nền sản xuất do làm ăn kém cỏi không đơn giản là một sự lựa chọn.
Trong thực tế, các doanh nghiệp thua lỗ thường trả các khoản tiền hàng bằng trái phiếu ghi nợ (IOU). Các phiếu ghi nợ không được thanh toán đúng hạn sẽ nhiều lên dần rồi đạt tới quy mô khủng hoảng. Gosbank, tức ngân hàng nhà nước Liên Xô – sẽ vào cuộc và giải quyết các hóa đơn chưa thanh toán bằng cách phát hành thêm tiền và tạo ra cái mà các quan chức ngân hàng Xô-viết gọi là “treo tiền” – đồng tiền chạy theo hàng hóa hơn là có hàng hóa để mua. Trong thực tế, việc kinh doanh chính của Gosbank trong những năm đầu tiên của hệ thống Liên Xô là tổ chức những vụ cứu nguy tài chính. Khi một vụ cứu nguy này hoàn tất cũng là lúc bắt đầu tiến hành vụ cứu nguy kế tiếp.
Vấn đề của chủ nghĩa xã hội không phải là kỵ sĩ tồi mà là chính con ngựa. Hệ thống kinh tế Xô-viết mắc nhiều chứng bệnh cuối cùng sẽ làm nó ngã quỵ. Bắt đầu từ cuối thập niên 1960, kinh tế Liên Xô rơi vào cuộc suy thoái kéo dài, về sau được gọi là “giai đoạn trì trệ”. Mikhail Gorbachev được chọn làm tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô năm 1985 với cam kết rằng ông, một nhà cải cách cấp tiến, sẽ đảo ngược đà suy thoái này.
Gorbachev đã thất bại vì cốt lõi của hệ thống kế hoạch hóa Xô-viết đã mục ruỗng. Bất chấp thiên hướng cải cách của ông, Gorbachev vẫn là một tín đồ của chủ nghĩa xã hội. Ông quyết tâm cứu vãn chủ nghĩa xã hội Xô-viết bằng cách làm cho nó giống với chủ nghĩa tư bản. Khi làm như vậy, ông đã tạo ra một nền kinh tế không phải là kế hoạch hóa, cũng không phải kinh tế thị trường – một cuộc tranh chấp đầy hỗn loạn, mà nhân dân Nga tới hôm nay vẫn buồn rầu gọi đó là “chủ nghĩa tư bản hoang dã”.
Paul Roderick Gregory lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại Đại học Harvard, làm nghiên cứu viên của Viện Hoover, giáo sư khoa kinh tế của Đại học Houston, Texas; giáo sư nghiên cứu tại Học viện Đức về nghiên cứu kinh tế ở Berlin; chủ tịch danh dự Ban Tư vấn quốc tế trường Kinh tế Kiev (Ukraine). Ông cũng đồng thời là giáo sư thỉnh giảng các trường Đại học quốc gia Moscow (Nga), Đại học Viadrina (Nga) và Đại học Tự do Berlin (Đức).
——————
[1] Bernie Sanders: Thượng nghị sĩ Dân chủ bang Vermont, Hoa Kỳ, thất bại trong cuộc tranh giành với bà Hillary Clinton tư cách đại diện đảng Dân chủ ra tranh cử tổng thống Mỹ trong cuộc bầu cử tháng 11-2016.
Nguồn: Viet-studies

Chính phủ Mỹ đã ngừng hoạt động liên bang sau khi Thượng viện không thể thống nhất về ngân sách mới.
Mặc dù đã có các cuộc họp lưỡng đảng phút cuối cùng, dự luật cho ngân sách của chính phủ cho đến 16/2 đã không nhận được đủ 60 phiếu.
Điều đó có nghĩa là nhiều dịch vụ của chính phủ sẽ đóng cửa cho đến khi ngân sách được thông qua.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ chính phủ phải đóng cửa trong khi chỉ có một đảng kiểm soát cả hai viện của Quốc hội và Nhà Trắng.
Hạ viện đã bỏ phiếu 230-197 vào tối 18/1 cho dự luật mở rộng ngân quỹ cho tới tháng tới, nhưng lại không được thông qua ở Thượng viện với tỷ lệ 50-49.
Năm đảng viên Cộng hòa đã bỏ phiếu chống lại dự luật, trong khi năm đảng viên Dân chủ phá vỡ quy ước đảng để ủng hộ nó.
Lần cuối chính phủ Mỹ đóng cửa là vào năm 2013 và kéo dài trong 16 ngày, khi đó nhiều nhân viên liên bang đã buộc phải nghỉ việc.
Nhiều văn phòng chính phủ sẽ đóng cửa theo luật liên bang yêu cầu các cơ quan phải đóng cửa nếu Quốc hội chưa phân bổ tiền để tài trợ cho họ.
Các công viên và di tích quốc gia cũng có thể bị đóng cửa.
Nhưng các dịch vụ thiết yếu vẫn sẽ chạy. Bao gồm an ninh quốc gia, dịch vụ bưu chính, kiểm soát không lưu, các dịch vụ y tế nội trú, y tế ngoại trú khẩn cấp, trợ giúp thảm họa, nhà tù, thuế và phát điện.
Chủ đề tranh cãi chính là yêu cầu của đảng Dân chủ đối với hơn 700.000 người nhập cư không có giấy tờ mà đã nhập cảnh Hoa Kỳ khi còn là trẻ em phải được bảo vệ khỏi lệnh trục xuất.

Những người này còn được biết đến là “Dreamers”, đã được trao quyền pháp lý tạm thời theo một chương trình do cựu Tổng thống Barack Obama thiết lập.
Tháng 9, ông Trump tuyên bố ông sẽ chấm dứt chương trình này và cho phép Quốc hội cho đến tháng Ba để thay thế một chương trình khác.
Chủ tịch đảng Cộng hòa và những người của phe bảo thủ của Quốc hội đã sử dụng vấn đề này để thương lượng lấy sự nhượng bộ từ đảng Dân chủ.
Ông Trump muốn tài trợ cho các biện pháp kiểm soát biên giới mới, bao gồm cả việc xây bức tường biên giới giữa Hoa Kỳ-Mexico mà ông đề xuất.
Các đảng viên Cộng hòa đã dỗ ngọt đảng Dân Chủ bằng cách bổ sung chính sách gia hạn 6 năm cho một chương trình bảo hiểm y tế cho trẻ em thuộc các gia đình có thu nhập thấp.
Nhưng đảng Dân chủ muốn chương trình này kéo dài vĩnh viễn.
Hiện không rõ cuộc bỏ phiếu sẽ diễn ra theo hướng nào khi hạn chót nửa đêm đang gần kề, với đảng Cộng hòa và Dân chủ vẫn chia rẽ rõ rệt về những vấn đề chính.