Cấp phó của TT lâm thời Venezuela Juan Guaido bị bắt và kéo đi bằng xe tải kéo.

Image may contain: 1 person, text
Trần Bang

Cấp phó của TT lâm thời Venezuela Juan Guaido bị bắt và kéo đi bằng xe tải kéo.

CARACAS (Reuters) – Lãnh đạo phe đối lập Venezuela Juan Guaido hôm thứ Tư nói rằng các nhân viên tình báo đã bắt giữ phó của ông, vụ bắt giữ một nhà lập pháp đầu tiên kể từ khi Guaido cố gắng châm ngòi cho một cuộc nổi dậy quân sự vào tuần trước để hạ bệ chính phủ của Tổng thống Nicolas Maduro.

Lãnh đạo phe đối lập Venezuela Juan Guaido, người được nhiều quốc gia công nhận là nhà cai trị lâm thời hợp pháp của đất nước, đã lên sân khấu để phát biểu trong cuộc họp với các công nhân của công ty dầu khí nhà nước Venezuela PDVSA tại Venezuela, Venezuela, ngày 3 tháng 5 năm 2019. REUTERS / Ueslei Marcelino
Edgar Zambrano, phó chủ tịch Quốc hội do phe đối lập kiểm soát, mà Guaido đứng đầu, cho biết trên Twitter rằng các đặc vụ từ cơ quan tình báo SEBIN đang sử dụng một chiếc xe kéo để kéo chiếc xe của anh ta, vào bên trong, đến một trong những căn cứ của họ ở Venezuela.

Vào thứ ba, Hội đồng lập hiến ủng hộ Maduro của Venezuela đã đồng ý tước Zambrano và sáu nhà lập pháp khác, về quyền miễn trừ nghị viện của họ để cho phép truy tố trong tương lai.

Tòa án Tối cao trước đó đã buộc tội các nhà lập pháp về âm mưu, nổi loạn và phản quốc, và vào thứ Tư đã buộc tội ba nhà lập pháp đối lập khác của cùng một tội ác. Phe đối lập nói rằng Maduro đã chồng lên tòa án với những người ủng hộ của mình và không công nhận tính hợp pháp của nó, trong khi chính phủ Mỹ trong tuần này đe dọa sẽ xử phạt tất cả các thành viên.

https://www.reuters.com/…/deputy-of-venezuelas-guaido-arres…

FB Tinh Nhanh Việt Nam

Venezuela nóng tiếp

Trần Bang is with Bang Trần.

Lãnh đạo phe đối lập Venezuela Juan Guaido tuyên bố giai đoạn cuối cùng trong nỗ lực lật đổ chính phủ của Tổng thống Nicolas Maduro đã bắt đầu. Ngay sau tuyên bố đã có những vụ đấu súng dữ dội giữa những người ủng hộ ông và quân đội ủng hộ Tổng thống Mudoro dọc theo biên giới giữa nước này với Colombia. (ảnh AP)

Nguồn http://soha.vn/anh-dau-sung-du-doi-doc-bien-gioi-venezuela-…

Image may contain: one or more people, people standing, sky and outdoor
Image may contain: one or more people, motorcycle and outdoor
Image may contain: 1 person, standing and outdoor
Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: one or more people, sky and outdoor
+2

Liêu Diệc Vũ : Trung Quốc sẽ tốt đẹp hơn nếu được chia thành chục nước

 

VI.RFI.FR|BY RFI TIẾNG VIỆT
Nhà thơ ly khai Liêu Diệc Vũ (Liao Yiwu), sinh năm 1958, từng bị đày ải trong goulag Trung Quốc bốn năm trời, vì đã sáng tác bài thơ « Vụ thảm sát vĩ đại », về sự kiện nhà cầm quyền Bắc Kinh điều quân đội đàn áp đẫm máu sinh viên bi…

Chế độ Maduro dùng xe bọc thép Trung Quốc đàn áp người biểu tình

M.TRITHUCVN.NET
Trong cuộc biểu tình hôm 30/4 tại Caracas, một chiếc xe bọc thép được cho là đã đâm vào đám đông người biểu tình làm nhiều người bị thương. Truyền thông quốc tế xác nhận chiếc xe quân sự này của chế độ Maduro được nhập từ m….

Những Thiên tài không bằng cấp

Những Thiên tài không bằng cấp

1. Frederick Douglass

Một trong những tấm gương tự học nổi tiếng trong lịch sử là Frederick Douglass. Ông sinh năm 1818 trong một gia đình nô lệ ở Maryland. Khi còn là một đứa trẻ, ông đã tự mày mò học chữ khi gia đình ông đang sống ở Baltimore. Kể từ đó, ông luôn tự tìm cơ hội trau dồi thêm kiến thức bằng cách đọc thật nhiều.

Vào năm 20 tuổi, ông thoát khỏi chế độ nô lệ và định cư ở Massachusetts. Tại đây, ông vẫn tiếp tục con đường tự học, tự đào tạo và sau đó ông trở thành một trong những nhà văn, một người theo chủ nghĩa bãi nô có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ.

2. Ando Tada

Ando Tada là một kiến trúc sư nổi tiếng người Nhật dù ông chưa hề qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào. Ông đã từng kiếm sống bằng nghề tài xế, làm một võ sĩ quyền Anh và là một thợ mộc trước khi tự học để trở thành một kiến trúc sư. Ông đã từng một mình thực hiện một chuyến đi từ Đông sang Tây để tự quan sát và học hỏi về nghệ thuật kiến trúc bằng cách đến thăm những công trình nổi bật trên thế giới. Năm 1969, ông thành lập hãng kiến trúc Ando Tadao.

Công trình nhà lô ở Sumiyoshi (Azuma House) hoàn thành năm 1972 là công trình đầu tiên bộc lộ những đặc điểm kiến trúc của ông. Năm 1995, Ando được nhận giải thưởng Pritzker và 100.000 đô la Mỹ. Ông đã tặng số tiền đó cho những trẻ em mồ côi trong cuộc động đất Hanshin.

3. Janes Goodall

Tiến sĩ Janes Goodall, một trong những nhà hoạt động bảo vệ môi trường nổi tiếng thế giới, đồng thời là sứ giả hoà bình của Liên hiệp quốc, là một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Anh trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã. Năm 1960, khi ngoài 20 tuổi, bà đã đến Kenyathuộc châu Phi để nghiên cứu về tập tính và đời sống của loài tinh tinh. Bà đã có 40 năm sống và làm việc ở châu Phi và những nghiên cứu của bà được nhiều người đánh giá là “đã ảnh hưởng đến toàn thế giới, nói chung và thế giới động vật, nói riêng”. Điều thú vị về bà là phần lớn những công trình nghiên cứu khoa học quan trọng của bà được thực hiện khi bà chưa qua một trường lớp đào tạo nào.

TS Janes Goodall đã được trao tặng nhiều danh hiệu cao quý và giải thưởng về bảo tồn động vật hoang dã, Đại sứ hoà bình của Liên hợp quốc năm 2002, Huy chương Benjamin Franklin vì sự nghiệp khoa học năm 2003. Bà còn được biết đến với tên gọi “người phụ nữ của tinh tinh”.

4. Michael Faraday

Michael Faraday là một nhà Hóa Học và Vật Lý người Anh đã có công đóng góp cho lĩnh vực Điện từ học và Điện hóa. Là con thứ ba trong một gia đình nghèo có bốn người con, cậu bé Faraday chỉ có được những kiến thức cơ bản nhất từ nhà trường nhưng bù lại cậu là một đứa trẻ ham học và đã nổ lực tự học không mệt mỏi.

Năm 14 tuổi, Faraday học việc ở một cửa hiệu sách và trong suốt 7 năm học việc, ông đã đọc được rất nhiều sách, trong đó có sách của Isaac Watts, quyển mở mang trí tuệ, ông say mê tiến hành các nguyên lý và quan điểm trong quyển sách. Từ đó, ông đã biểu lộ niềm đam mê khoa học, nhất là trong lĩnh vực điện năng.

Mặc dù Faraday được đào tạo ở trường rất ít và biết ít về toán cao cấp nhưng ông là một trong những nhà khoa học có uy tín trong lịch sử khoa học. Ông là vị giáo sư hóa học đầu tiên và lỗi lạc nhất của Viện Hoàng Gia Anh Quốc và đã giữ vị trí này trong suốt cuộc đời.

5. Hai anh em nhà Wright

Hai anh em nhà Wright, Orville  Wilbur Wright, là những người đầu tiên thử nghiệm thành công làm cho máy bay bay được. Chuyến bay đấu tiên trong lịch sử nhân loại được thực hiện vào ngày 17/12/1903 tại đồi Kill Devil, Kitty Hawk, bang Bắc Carolina, Mỹ. Mỗi anh em thực hiện hai chuyến bay vào ngày hôm đó. Lần bay đầu tiên do Orville thực hiện kéo dài 12 giây và bay được khoảng 36.5mét (120 ft).

Lần bay cuối cùng do Wilbur thực hiện kéo dài 59 giây và đi được 296 mét. Chiếc máy bay lúc đó được gọi là Flyer I. Nó có sải cánh khoảng 12 mét và nặng khoảng hơn 300kgs với động cơ xăng 12 mã lực. Hiện nay, nó đang được đặt tại Viện bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ tại Washington, D. C..

Điều đặc biệt là cả hai người đều chưa từng học qua trường đào tạo kỹ sư hay nhận được bất cứ bằng cấp chuyên môn nào. Thành công của họ đến từ niềm đam mê khoa học kỹ thuật cộng với nỗ lực tìm tòi học hỏi không ngừng. Thiên tài của hai anh em nhà Wright đã biến giấc mơ từ ngàn xưa của loài người thành sự thật.

6. Srinivasa Ramanujan

Srinivasa Ramanujan là nhà toán học huyền thoại người Ấn Độ, nổi tiếng là người dù không được đào tạo bài bản về toán học lý thuyết nhưng đã có nhiều đóng góp quan trọng cho nhiều ngành toán học như giải tích, lý thuyết số, dãy vô hạn. Ông sinh ra và lớn lên tại Erode, Tamil Nadu, Ấn Độ và làm quen với toán học từ năm lên 10 tuổi.

Ông bộc lộ năng khiếu đặc biệt về toán khi được tặng một quyển sách lượng giác cao cấp của S L Loney. Năm 13 tuổi, ông đã thành thục quyển sách này và bắt đầu tìm cách tự phát minh ra các định lý toán học. Năm 17 tuổi, ông tự nghiên cứu về số Bernoulli và hằng số Euler-Mascheroni.

Trong quãng đời ngắn ngủi của mình (1887-1920), Ramanujan đã độc lập công bố gần 3.900 kết quả nghiên cứu phần lớn thuộc lĩnh vực phương trình và đồng nhất thức mà ngày nay hầu hết đã được công nhận là chính xác. Tạp chí Ramanujan ra đời để công bố các nghiên cứu toán học có ảnh hưởng từ các công trình của ông.

  1. Mark Twain

Mark Twain, một tên tuổi lớn trong nền văn học Mỹ, tên thật là Samuel Langhorne Clemens. Gia cảnh của ông khá chật vật và túng thiếu. Năm 12 tuổi, sau khi cha qua đời vì căn bệnh viêm phổi, Mark Twain phải kiếm sống bằng nghề sắp chữ. Có thời gian ông phải bỏ học, theo nghề lái tàu để kiếm sống.

Sau đó, ông tiếp tục tự học ở các thư viện công cộng tại những thành phố mà ông sinh sống và bắt đầu dấn thân vào công việc của một nhà báo. Những cuộc hành trình lênh đênh trên miền sông nước trước đó đã trở thành cảm hứng thôi thúc ông viết nên những kiệt tác như Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn, Cuộc sống trên sông Mississippi…

8. Steven Paul Jobs

Steven Paul Jobs là một tỷ phú, là ông trùm kinh doanh và sáng chế người Mỹ. Ông là đồng sáng lập viên, chủ tịch và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng máy tính Apple. Ông cũng từng là tổng giám đốc điều hành của xưởng phim hoạt hình Pixar (hãng sở hữu nhiều giải oscar cho phim hoạt hình hay nhất như Đi tìm Nemo, Gia đình siêu nhân, Chú chuột đầu bếp, WALL-E, Up và Câu chuyện đồ chơi 3. Sau đó, ông trở thành thành viên trong ban giám đốc của công ty Walt Disney sau khi Disney mua lại Pixar.

Jobs sinh ra tại thành phố San Francisco, bang California, là con nuôi của Paul và Clara Jobs. Ông theo học trường trung học Cupertino và Homestead tại thành phố Cupertino, bang California. Năm 1972, Jobs tốt nghiệp trung học và đăng kí vào học tại cao đẳng Reed College ở Portland, bang Oregon nhưng bị đuổi chỉ sau 1 học kỳ.

Mặc dù vậy ông vẫn tiếp tục dự thính các lớp học tại Reed, trong đó có một lớp học viết chữ đẹp. Trong thời gian “học ké” đó, ông phải ngủ dưới sàn nhà của những người bạn, đổi lon nước ngọt để lấy tiền ăn và nhận các suất ăn miễn phí mỗi tuần tại đền Hare Krishna. Sau này, Jobs bày tỏ rằng: “Nếu tôi chưa từng tham dự những khoá học lẻ đó tại trường, Mac sẽ không bao giờ có nhiều kiểu chữ hay phông chữ cách nhau tỉ lệ cân xứng như vậy”.

9. A braham Lincoln

Là vị Tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, cha mẹ ông là những nông dân mù chữ. Ông không có điều kiện đi học chính thức. Thời gian theo học thực sự của ông có lẽ chỉ kéo dài 18 tháng do các giáo viên không chuyên nghiệp dạy. Kiến thức của ông chủ yếu có được từ việc tự học qua việc đọc mọi cuốn sách có thể mượn được từ Kinh Thánh đến các sách tiếu sử và sách văn chương.

Ông thông thạo Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử Anh và lịch sử Mỹ. Ngoài ra, ông còn học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Ông dành nhiều thời gian đọc sách đến nỗi những người hàng xóm cho rằng ông cố tình làm vậy để khỏi phải làm những công việc chân tay nặng nhọc.

Lincoln nổi tiếng nhất với vai trò gìn giữ Hợp chủng quốc và chấm dứt chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ với bản Tuyên ngôn Giải phóng và Sửa đổi thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ về việc bác bỏ̉ chế độ nô lệ.

10. Henry Ford

Nếu con bạn luôn tìm cách đối phó với việc học mà thay vào đó là ngồi lỳ lau chùi chiếc xe máy thì đừng vội buồn. Biết đâu bé sẽ có thể trở thành Henry Ford của Việt Nam.

Henry Ford ngày nhỏ cũng lười học và say mê sửa chữa đồ cũ, hỏng. Máy móc có sức quyến rũ với ông một cách kỳ dị. Năm ông mười hai tuổi, ông đã bắt chước chế tạo được một máy nhỏ chạy bằng hơi nước. Năm hai mươi tám tuổi, khi là một công nhân điện, ông quyết tâm theo đuổi chinh phục phát minh máy nổ của người Đức.

Thành công đã tới với người kiên trì bền bỉ 5 năm sau chiếc xe hơi đầu tiên của thế giới chào đời. Tuy nó cao lồng cồng, không mui, không thắng và chạy dật lùi được, tốc độ tối đa 30 km/giờ.

Vài năm sau, ông thành lập Công ty xe hơi Detroit rồi Công ty xe hơi Cadillac. Tuy không được học hành bài bản nhưng Henrry có đầu óc lãnh đạo tuyệt vời. Bên cạnh việc những mẫu xe hơi liên tục được cải tiến nâng cao chất lượng và mẫu mã với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, Henrry có chiến lược phát triển hoàn hảo.

Năm 1906, ông sản xuất được 8.400 chiếc xe. Bốn năm sau, con số đó tăng lên 34.000. Một năm sau nữa, nó tăng lên 78.000 và tới năm 1927 thì mỗi ngày ông sản xuất được 7.000 chiếc xe. Tính ra cứ 7 giây đồng hồ có một chiếc xe hơi ở trong xưởng ông từ từ chạy ra để được gửi đi khắp thế giới.

11. Soichiro Honda

Năm 1980, Soichiro Honda đã được tạp chí uy tín “People” vinh danh là “người đặc biệt nhất của năm”, còn thế hệ nay coi ông như một “huyền thoại Henry Ford của Nhật Bản”.

Từ tuổi thơ khốn khó đến địa vị Chủ tịch tập đoàn Honda hùng mạnh, chuyện nghề, chuyện đời của Soichiro Honda đã trở thành huyền thoại “thiên tài không bằng cấp”.

Khi mới 2 tuổi, cậu bé Soichiro đã bị thu hút và thích mày mò chiếc cối xay gió. Lớn thêm chút nữa, cậu tự “chế tạo” chiếc máy bay đồ chơi bằng tre có gắn “động cơ” làm bằng dây cao su. Cậu suốt ngày lấm lem mặt mũi do hay giúp đỡ cha mình trong xưởng đến mức bạn bè đặt cho cậu biệt danh “chú chồn nhọ mũi”.

Chú chồn nhọ mũi” không ham thích học hành, chỉ quan tâm đến những môn kỹ thuật và bảng điểm của cậu dở tệ. Năm 15 tuổi, Soichiro Honda bỏ học để lên Tokyo học nghề tại xưởng cơ khí ôtô Shokai, thắp lửa niềm đam mê cùng tốc độ mãi cho tới sau này.

Bốn năm sau, Honda đã mở xưởng sản xuất của riêng mình. Chỉ sau một thời gian ngắn, xưởng sản xuất “doanh nghiệp một thành viên” cho ra đời xe đạp gắn động cơ. Ngay lập tức, Sản phẩm len lỏi khắp các ngõ ngách ở Nhật Bản.

Từ đây, Honda Technical Research Institute của ông đã thành công và không ngừng phát triển. Đến năm 1948, Công ty Honda Motor Co. Ltd được thành lập và trở thành một tập đoàn số 1 thế giới về sản xuất xe máy, top 10 sản xuất ô tô.

12. Bill Gates

Tại khuôn viên trường Harvard mang tên “Harvard Crimson” có một tấm biển ghi “Bill Gates là người bỏ học thành công nhất của Harvard” trong khi phần còn lại của thế giới vẫn gọi ông là “người đàn ông giàu nhất thế giới” trong hơn một thập kỷ qua. Bây giờ, mặc dù không giữ vị trí dẫn đầu, ông vẫn còn trong danh sách những người giàu có của thế giới.

Gates nhập học tại Harvard vào mùa thu năm 1973. Hai năm sau, ông ta đã bỏ học để thành lập công ty Microsoft với người bạn Paul Allen. Sau khi thành danh, Bill Gate mới quay trở lại trường để tiếp tục sự nghiệp học hành. Và trong năm 2007, cuối cùng ông cũng nhận được học vị Tiến sĩ danh dự từ trường cũ của mình.

Khi được mời phát biểu tại buổi lễ phát bằng tốt nghiệp cho sinh viên Havard, Bill Gates nói: “Tôi là một ví dụ xấu. Đó là lý do tại sao tôi được mời tới đây để nói chuyện tốt nghiệp của bạn.. Nếu gặp tôi trước khi nhập học, có thể số lượng sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp có mặt ở đây sẽ ít hơn nhiều.”

13. Frank Lloyd Wright

Theo kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Mỹ, Wright đã dành nhiều thời gian hơn vào việc thiết kế các trường cao đẳng, đại học hơn là tham dự các lớp học trong đó. Sau khi dành một năm học tại Đại học Wisconsin-Madison, ông bỏ học để đến Chicago và trở thành một người học việc của Louis Sullivan, “cha đẻ của chủ nghĩa hiện đại”.

Trong sự nghiệp thiết kế và sáng tạo không ngừng nghỉ của mình, Wright đã tạo ra hơn 500 công trình kiến trúc kỳ vĩ, nổi tiếng nhất trong số đó là Fallingwater và New York City của Solomon R. Guggenheim Museum.

14. Buckminster Fuller

Bị trục xuất khỏi Harvard hai lần, kiến trúc sư đồng thời là nhà phát minh vĩ đại người Mỹ Buckminster Fuller đã phải trải qua rất nhiều thăng trầm, biến cố. Một số ý tưởng kinh doanh ban đầu thất bại và trải qua nỗi đau đớn của việc mất đi cô con gái đầu lòng, ông tưởng chừng như không thể gượng dậy.

Tuy nhiên, ở tuổi 32, cuộc sống của Fuller bắt đầu thay đổi. Những ý tưởng sáng tạo của ông như các thiết bị ghép năng động áp dụng cho nhà ở và cả xe ôtô nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ công chúng. Đặc biệt là kết cấu xây vòm hình tượng của ông đã đưa tên tuổi của ông lên tầm cao mới và được quốc tế công nhận.

15. Mark Zuckerberg

Bỏ học ở Harvard, Mark Zuckerberg phát triển Facebook trong ký túc xá trường mình. Bây giờ Facebook đã trở thành một trong những trang web phổ biến nhất trên thế giới mạng xã hội. Theo sự bùng phát của Facebook, Zuckerberg đã bỏ học để di chuyển địa điểm công ty của anh đến California.

Mark Zuckerberg đã chứng minh rằng quyết định của anh là sáng suốt. Theo Forbes, Zuckerberg là tỷ phú trẻ nhất thế giới với trị giá tài sản năm 2010 là 4 tỷ USD. Tuy nhiên, mới đây Ông chủ Facebook nhận bằng tốt nghiệp Harvard sau 12 năm bỏ học.

From : TU-PHUNG

Tỷ phú giàu nhất Đan Mạch mất 3 người con vì đánh bom ở Sri Lanka

Tỷ phú giàu nhất Đan Mạch mất 3 người con vì đánh bom ở Sri Lanka

Zing22/04/19 17:32 GMT+74 liên quanGốc

Anders Holch Povlsen, người giàu nhất Đan Mạch, cho biết ba người con của ông thiệt mạng trong vụ đánh bom khủng bố khiến 290 người chết tại Sri Lanka hôm 21/4.

Cả bốn người con của tỷ phú này đang tới thăm Sri Lanka nhân kỳ nghỉ Lễ Phục sinh. Vài ngày trước khi qua đời, con gái Alma của ông đăng một bức ảnh trên mạng xã hội Instagram, cho thấy ba người em ruột của Alma đang ngồi bên bể bơi. Trong chú thích ảnh, cô còn gọi các em là “ba chú gấu nhỏ”.

Bộ Ngoại giao Đan Mạch cho biết ba công dân nước này là nạn nhân của vụ đánh bom. Người phát ngôn của ông Holch Povlsen cũng xác nhận ba trong số bốn đứa trẻ đã thiệt mạng trong cuộc tấn công tại Sri Lanka, tuy nhiên không nêu rõ danh tính, theo Mail Online.

Bức ảnh con gái Alma của ông Holch Povlsen đăng trên Instagram vài ngày trước vụ nổ bom. Ảnh: Chụp màn hình từ Instagram.

Ông Holch Povlsen, 46 tuổi, là người sở hữu nhiều bất động sản nhất tại Scotland, đồng thời là cổ đông lớn nhất của tập đoàn thời trang Asos. Ông là CEO và chủ sở hữu chuỗi cửa hàng bán lẻ Bestseller. Người đàn ông 46 tuổi này được Forbes xếp thứ 252 trong danh sách tỷ phú năm 2019.

Ngày lễ Phục sinh đã trở thành ngày chủ nhật đẫm máu ở Sri Lanka, với tổng cộng 8 vụ nổ khiến 290 người thiệt mạng và hàng trăm người bị thương, trong đó có nhiều người nước ngoài.

Chính phủ Sri Lanka mới đây cho biết tổ chức thực hiện các vụ đánh bom nói trên là nhóm Hồi giáo có tên National Thowheeth Jama’ath (NTJ). Các cuộc điều tra vẫn đang được tiến hành để làm rõ nhóm NTJ có được “hậu thuẫn từ nước ngoài” hay không.

Hương Ly

From: tiennkhuat & thunnguyen

  ĐTC Phanxicô – Giảng Lễ Đêm  Phục Sinh

From: Daminhmariacaotantinh
ĐTC Phanxicô – Giảng Lễ Đêm  Phục Sinh

Những người phụ nữ mang dầu thơm đến mồ, nhưng họ sợ rằng hành trình của họ vô bổ, bởi tảng đá to chặn ở ngay cửa mồ. Cuộc hành trình này của những người phụ nữ ấy cũng là cuộc hành trình của chúng ta; nó giống như cuộc hành trình cứu độ chúng ta đã thực hiện buổi tối hôm nay. Có những lúc mọi sự xẩy ra dường như chạm đến một tảng đá, chẳng hạn như vẻ mỹ lệ của tạo vật trái ngược lại với thảm cảnh của tội lỗi; việc giải phóng cho khỏi tình trạng nô lệ phản nghịch lại với tính cách bất trung của giao ước; những lời hứa của các vị tiên tri ngược nghịch lại với thái độ lãnh đạm khôn xiết của dân chúng. Cũng thế ở nơi lịch sử của Giáo Hội cũng như nơi lịch sử bản thân của chúng ta. Những nỗ lực của chúng ta dường như không bao giờ đưa chúng ta tới được đích điểm. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng niềm hy vọng bị hổng lỗ của chúng ta là một thứ luật hoang trống của đời sống.

Tuy nhiên, hôm nay chúng ta thấy rằng cuộc hành trình của chúng ta không phải là một cuộc hành trình vô bổ; nó không đụng chạm tới tảng đá chắn cửa mồ. Một câu nói làm cho người nữ bàng hoàng sửng sốt và làm biến đổi lịch sử đó là: “Tại sao các bà tìm kiếm người sống nơi kẻ chết?” (Luca 24:5). Tại sao anh chị em nghĩ rằng mọi sự chẳng còn hy vọng nào nữa, rằng không ai có thể loại đi tảng đá chắn cửa mồ của anh chị em? Tại sao anh chị em thoái lui và chào thua chứ? Phục Sinh là lễ của tảng đá chắn cửa mồ bị đẩy lui, những cục đá bị đẩy sang một bên. Thiên Chúa thậm chí có thể loại đi những tảng đả cứng nhất khiến các niềm hy vọng và niềm trông đợi của chúng ta bị tan vỡ: như sự chết, tội lỗi, nỗi sợ, thế tục. Lịch sử của nhân loại không kết thúc trước một tảng đá chắn cửa mồ, vì hôm nay đây nó gặp gỡ “tảng đá sống” (cf 1Phêrô 2:4) là Chúa Giêsu phục sinh. Chúng ta, như Giáo Hội, được xây dựng trên Người, và ngay cả lúc chúng ta cảm thấy chán chường và có khuynh hướng phán đoán tất cả mọi sự theo chiều hướng thua bại, Người đến dể làm cho tất cả mọi sự trở nên mới mẻ, để lật ngược hết mọi niềm thất vọng của chúng ta. Mỗi người chúng ta được kêu gọi, vào đêm nay đây, tái nhận thức vào Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng đã đẩy tảng đá nặng nhất ra khỏi lòng của chúng ta. Bởi vậy trước hết chúng ta hãy tự vấn xem: Đâu là tảng đá tôi cần loại bỏ, tên của nó là gì?

Cái thường ngăn chặn niềm hy vọng là tảng đá thất vọng. Một khi chúng ta bắt đầu nghĩ rằng hết mọi sự xẩy ra tồi tệ và không còn gì tệ hơn nữa là chúng ta đã tỏ ra chán nản và tin rằng sự chết mãnh liệt hơn sự sống. Chúng ta trở nên yếm thế, tiêu cực và ngã lòng. Đá chồng chất, chúng ta xây lên trong chúng ta một thứ bia kỷ niệm những gì là bất mãn của chúng ta: đó là Ngôi Mộ của niềm hy vọng / the sepulcher of hope. Đời sống trở thành một chuỗi dài đầy những than trách và tinh thần của chúng ta bị bệnh hoạn. Thay thế vào đó là một thứ tâm lý mồ mả (tomb psychology): hết mọi sự đều kết thúc ở đó, không còn niềm hy vọng nào tồn tại. Thế nhưng, vào lúc ấy, chúng ta vẫn còn nghe thấy một lần nữa câu vấn nạn của Lễ Sinh: Tại sao các bạn lại tìm kiếm người sống nơi kẻ chết? Chúa không còn được tìm thấy nơi những gì là thoái lui. Người đã sống lại: Người không còn ở đó nữa. Đừng tìm kiếm Người ở nơi anh chị em không bao giờ thấy Người: Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của kẻ sống (xem Marco 22:32). Anh chị em đừng chôn vùi đi niềm hy vọng!

Có một tảng đá khác thường cha lấp tâm can khóa kín, đó làtảng đá tội lỗi. Tội lỗi là những gì quyến rũ; nó hứa hẹn những gì là dễ dàng và chóng vánh, những gì là thịnh vượng và thành công, thế nhưng sau đó chỉ lưu lại những gì là cô độc cùng chết chóc. Tội lỗi là những gì tìm kiếm sự sống nơi kẻ chết, vì ý nghĩa của đời sống chỉ ở nơi những gì qua đi. Tại sao các bạn lại tìm kiếm người sống nơi kẻ chết? Tại sao anh chị em không quyết tâm từ bỏ tội lỗi, giống như một tảng đá ở trước cửa lòng của anh chị em, những gì ngăn cản ánh sáng của Thiên Chúa khỏi lọt vào chứ? Tại sao anh chị em không yêu chuộng Chúa Giêsu là ánh sáng chân thật (xem Gioan 1:9) hơn là những tia nhấp nhánh của giầu sang phú quí, của nghề nghiệp, của kiêu hãnh và của khoái lạc chứ? Tại sao anh chị em không nói với những sự vật trên thế gian này rằng anh chị em không còn sống cho chúng nữa, mà là cho Chúa của sự sống?

Chúng ta hãy trở lại với những người phụ nữ đi đến mồ của Chúa Giêsu. Họ bang hoàng khựng lại trước tảng đá đã bị lăn ra khỏi đó. Khi thấy các thiên thần thì, như Phúc Âm thuật lại, họ đứng đó “run sợ, và cúi đầu xuống đầt” (Luca 24:5). Họ không đủ can đảm để ngước đầu lên. Biết bao lần chúng ta cũng làm như thế? Chúng ta thích ở lại với những gì là hỗn độn trong các thứ thiếu sót của chúng ta, co cụm lại nơi những nỗi sợ hãi của chúng ta. Đó là những gì quái lạ, vậy mà tại sao chúng ta lại làm như thế? Không phải là không thường xuyên là vì, ủ rũ và khép mình lại, chúng ta mới cảm thấy làm chủ được mình, bởi ở một mình trong tối tăm nơi cõi lòng của mình thì thoải mái hơn mở lòng mình ra cho Chúa. Tuy nhiên, chỉ có Người mới có thể nâng chúng ta lên. Một thi sĩ đã từng viết rằng: “Chúng ta không bao giờ biết được chúng ta cao như thế nào. Cho đến khi chúng ta được kêu gọi chỗi dậy” (E. Dickinson). Chúa kêu gọi chúng ta chỗi dậy, chỗi dậy bằng lời của Người, để nhìn lên và để nhận thức rằng chúng ta được dựng nên cho trời cao, chứ không phải cho đất thấp, cho những đỉnh cao của sự sống, chứ không phải có hố thẳm của sự chết: Tại sao các bạn lại tìm kiếm người sống nơi kẻ chết?

Thiên Chúa xin chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống như chính Ngài nhìn nó, vì nơi từng người chúng ta Ngài không ngừng thấy cái cốt lõi mỹ lệ bất khả chế ngự. Nơi tội lỗi, Ngài thấy những người con nam nữ của mình cần phải được phục hồi; nơi sự chết, những người anh chị em cần phải đưoợc tái sinh; nơi cô độc, những tấm lòng cần phải được canh tân. Vậy thì đừng sợ: Chúa yêu sự sống của anh chị em, ngay cả khi anh chị em sợ nhìn vào nó và nắm lấy nó trong tay. Nơi Phục Sinh Ngài cho anh chị em thấy Ngài yêu thương sự sống đó biết bao: thậm chí cho đến độ sống nó một cách trọn vẹn, khi cảm nghiệm nỗi sầu thương, tình trạng bị bỏ rơi, sự chết và âm phủ, để có thể chiến thắng mà nói với anh chị em rằng: “Các con không lẻ loi cô độc một mình đâu; hãy tin tưởng vào Cha!” Chúa Giêsu là một chuyên gia biến sự chết thành sự sống, biến việc khóc thương của chúng ta thành mừng vui hớn hở (xem Thánh Vịnh 30:11). Với Người, chúng ta cũng có thể cảm nghiệm thấy một cuộc Vượt Qua (a Pasch – a Passover) – từ khuynh hướng qui ngã đến mối hiệp thông, từ nỗi cô độc đến niềm ủi an, từ sợ hãi đến tin tưởng. Chúng ta đừng cứ cúi gầm mặt xuống đất một cách sợ hãi, nhưng hãy hướng mắt của chúng ta về Chúa Giêsu phục sinh. Ánh mắt của Người làm cho chúng ta tràn đầy hy vọng, vì nó nói với chúng ta rằng chúng ta không ngừng được yêu thương và cho dù chúng ta có đủ mọi thứ bê bối, tình yêu thương của Người vẫn không hề đổi thay. Đó là niềm tin tưởng duy nhất bất khả thương thuyết chúng ta có được trong đời: tình yêu thương của Người không thay đổi. Chúng ta hãy tự vấn xem: Trong đời sống của mình, tôi đang tìn kiếm ở đâu đây? Tôi đang hướng mắt về bãi tha ma hay tìm kiếm Đấng Đang Sống?

Tại sao các bạn lại tìm kiếm người sống nơi kẻ chết? Những người phụ nữ nghe thấy những lời này của các vị thiên thần, những vị còn nói: Hãy nhớ những gì Người đã nói với các bà khi Người còn ở Galilêa” (Luca 24:6). Những người đàn bà này đã đánh mất niềm hy vọng, vì họ không thể nhớ lại những lời của Chúa Giêsu, lời kêu gọi của Người xẩy ra ở Galilêa. Vì mất đi ký ức sống động về Chúa Giêsu nên họ mới cứ tìm kiếm ở nấm mồ. Đức tin bao giờ cũng cần trở lại Galilêa, để tái tấu tình yêu ban đầu của nó với Chúa Giêsu cũng như với ơn gọi của Người: hãy nhớ lại, hãy quay lại với Người bằng tất cả trí khôn của chúng ta và bằng tất cả tâm can của chúng ta. Việc trở lại với một tình yêu sống động của Chúa là những gì thiết yếu. Bằng không, đức tin của chúng ta chỉ là một “bảo tang viện”, chứ không phải là một đức tin Phục Sinh. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật trong quá khứ; Người là một con người đang sống động hôm nay đây. Chúng ta không biết Người theo các sử sách; chúng ta gặp gỡ Người trong cuộc sống. Hôm nay, chúng ta hãy nhớ đến việc Chúa Giêsu đầu tiên đã kêu gọi chúng ta ra sao, Người đã không chế bóng tối tăm của chúng ta như thế nào, không chế việc kháng cự của chúng ta, tội lỗi của chúng ta, và Người đã chạm đến cõi lòng của chúng ta bằng tình yêu của Người ra sao.

Những người phụ nữ, tưởng nhớ Chúa Giêsu, đã rời bỏ ngôi mộ. Lễ Phục Sinh dạy chúng ta rằng thành phần tín hữu đừng có lân la ở bãi tha ma, vì họ được kêu gọi tiến lên gặp gỡ Đấng Sống Động. Chúng ta hãy tự vấn xem: Tôi đang đi về đâu trong cuộc đời của mình đây? Đôi khi chúng ta chỉ đi theo hướng đầy giẫy các vấn đề của mình, và tiến đến với Chúa chỉ để được trợ giúp. Thế nhưng, sau đó, chính  nhu cầu riêng của mình, chứ không phải Chúa Giêsu, dẫn đường chỉ lối cho chúng ta. Chúng ta cứ tìm kiếm Đấng Sống Động nơi kẻ chết. Biết bao nhiêu lần, khi chúng ta đã gặp gỡ Chúa, chúng ta lại quay về với kẻ chết, càng đáng tiếc, đáng trách, đớn đau và khôn thỏa, không để cho Đấng Phục Sinh biến đổi chúng ta? Anh chị em thân mến: Chúng ta hãy lấy Đấng Sống Động làm trọng tâm của đời mình. Chúng ta hãy xin ơn đừng bị cuốn đi theo triều sóng, trong biển khơi những vấn đề của chúng ta; ơn đừng bị mắc cạn ở những chỗ nông cạn của tội lỗi hay bị dập nát ở những mảnh đá thất vọng và sợ hãi. Chúng ta hãy tìm kiếm Người nơi tất cả mọi sự và trên tất cả mọi sự. Với Người, chúng ta sẽ sống lại.

https://zenit.org/articles/pope-francis-homily-at-easter-vigil-full-text/

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Thánh Địa CN Phục Sinh 21/4/2019

CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI SRI LANKA VỪA BỊ ĐÁNH BOM

CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI SRI LANKA VỪA BỊ ĐÁNH BOM
——-
3 nhà thờ Sri Lanka bị đánh bom vào lễ Phục sinh, ít nhất 138 người chết

Ba ngôi thánh đường và ba khách sạn lớn tại thủ đô Sri Lanka và vùng phụ cận vừa bị đánh bom vào ngày lễ Phục sinh khiến ít nhất 138 người thiệt mạng và 400 người bị thương.

Hãng tin Reuters dẫn lời cảnh sát địa phương cho biết có nhiều vụ nổ lớn tại các khách sạn cao cấp và một nhà thờ ở thủ đô Colombo của Sri Lanka. Hai nhà thờ khác ngoài thủ đô cũng bị đánh bom.

Theo con số thương vong mới nhất cập nhật từ giám đốc Bệnh viện quốc gia Colombo, hiện có ít nhất 138 người chết và 400 người bị thương.

Vụ nổ đầu tiên được cho là xảy ra tại nhà thờ Thánh Anthony (St. Anthony’s Shrine) ở thủ đô Colombo.

Nhân chứng tại hiện trường Alex Agileson cho biết các tòa nhà xung quanh rung lên sau vụ nổ. Hiện những người bị thương đang được chở đi cấp cứu.

Vụ nổ thứ hai xảy ra tại nhà thờ Thánh Sebastian (St. Sebastian) ở Negombo, thành phố có số đông là dân Công giáo. Riêng ở nơi này đã có ít nhất 50 người thiệt mạng.

Nhiều nhân chứng trước đó đã chứng kiến hung thủ ôm bom tự sát lao vào nhà thờ. Hiện vẫn chưa có người nhận trách nhiệm vụ đánh bom.

Image may contain: 1 person, standing, sitting and outdoor
Image may contain: 1 person, standing and outdoor
No photo description available.
Image may contain: 1 person, sitting

KHI MỘT QUỐC GIA MANG ƠN KẺ XÂM LƯỢC

KHI MỘT QUỐC GIA MANG ƠN KẺ XÂM LƯỢC

Vào 14h05′ chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật Bản, cho dù ông không mặcquân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước, mất nước, mất nước”. Nhưng tướng MacArthur mang quân đến vì hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ

Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn gây áp lực đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.

Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật vô cùng chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó khăn để đi qua nhau, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu họ là kẻ chiến thắng thì họ có làm được như thế không?

Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.

Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật xây dựng tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.

Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt cho mình để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.

Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận.

Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình.

Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.

Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.

Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.

Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.

Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.

Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang. Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.

Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng điền sản của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”

Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng, tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!

Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.

Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.”

Lịch sử Nhật bản ghi nhận, 12 vị khai quốc công thần quốc gia họ, thì trong đó có Mac Arthur, người mà theo ngôn ngữ của những kẻ mà ai cũng đoán ra là ai sẽ dùng là kẻ đứng đầu quân chiếm đóng, xâm lược. Người Nhật đã hiểu mình là ai, đứng ở đâu và cần gì trong giai đoạn đó….Họ biết cúi đầu, để đứng lên và trở nên hùng cường.

Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản. Còn người Nhật đã chứng minh cho thế giới, biết cúi mình mà không phải hổ thẹn.

Theo Secretchina 

Ảnh: Tướng MacArthur