CHỌN LỰA CHÍNH TRỊ CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH NHU.

Image may contain: 2 people, people smiling, child, closeup and outdoor
No automatic alt text available.
Image may contain: outdoor and nature
Image may contain: outdoor
Image may contain: 2 people, text
Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.

CHỌN LỰA CHÍNH TRỊ CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH NHU.

Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm

Phần 2: Ngô Đình Nhu (1910-1963): Một nhà chiến lược

Đăng trên trang FB: Lm. Lê Ngọc Thanh

Những người làm việc và tìm hiểu kỹ lưỡng về ông Ngô Đình Nhu đều nhận thấy một điểm son trong cuộc đời chính trị của ông là tuy ông không hể nắm giữ một chức vụ quan trọng của quốc gia, nhưng hầu như cương lĩnh và tồ chức chính trị cơ bản của chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963) đều chủ yếu do ông dàn dựng ở cương vị làm cố vấn chính trị cho Thủ Tướng rồi Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì thế tìm hiều sự nghiệp của ông, người ta chú trọng nhiều đến những thành tựu chính trị hạ tầng trong việc hình thành các cấu trúc quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa I: Chủ nghĩa nhân vị, chính đảng Cần lao Nhân vị và chính sách ấp chiến lược (khu trù mật, dinh diền, …).

Theo ý kiến ông Minh Võ, ông Cao Xuân Vĩ, dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.

Ông Cao Xuân Vĩ cho biết liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19/12/1946. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến thì nhóm ông gồm 36 trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, vùng Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi cộng sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.

Mãi cuối năm 1953, Cao Xuân Vĩ vào Sài Gòn mới gặp lại Trần Chánh Thành và Ông Thành giới thiệu Cao Xuân Vĩ với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại Cao Xuân Vĩ, thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du.

Khi làm Cố Vấn, Ông Ngô Đình Nhu chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khỏan nào dành cho ông Cố Vấn.

Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.

Chủ Nghĩa Nhân Vị Thời Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963).

1.

Theo GS Tôn Thất Thiện, những khảo sát bổ sung, công phu và nghiêm chỉnh về sau của Ông Nguyễn Ngọc Tấn góp phần làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử 1954-1963, thời gian ông Diệm cầm quyền. Những khảo sát này làm rõ những điểm cơ bản của Chủ Nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I. Trong 40 năm qua, có những tác giả viết về Chủ Nghĩa Nhân Vị dưới khía cạnh khoa học, nhưng có lẽ chưa đánh giá về tầm quan trọng của nó như là một chủ thuyết chính trị, dù chủ thuyết này trong thực tế đã khai sanh ra chế độ Việt Nam Cộng Hòa I.

Đây quả đúng là một vấn đề lịch sử chưa được trình bày một cách có hệ thống trong thế kỷ qua. Chủ thuyết ấy cần được khảo luận, cân nhắc kỹ lưỡng, phê phán công bình, khách quan và bình thản, xác định những tiêu cực và tích cực trong quá trình thực hành để trả lại sự thật chính xác của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng oanh liệt của dân tộc Việt Nam, nhất là nhân dân sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963).

2.

Người ta có thể đặt ra mấy vấn đề chính là:

– Mục đích của Chủ Nghĩa Nhân Vị.

– Bản chất Chủ Nghĩa Nhân Vị được hiểu thế nào?

– Chủ Nghĩa Nhân Vị được quan niệm làm cương lĩnh cách mạng quốc gia thế nào và thể hiện bằng các đường lối chính sách nào?

– Về triết học Chủ Nghĩa Nhân Vị có phải là một thuyết ngoại lai hay thế hiện đặc tính văn hoá Việt Nam?

Trả lời các câu hỏi trên là đặt nền tảng để thẩm định phẩm chất lãnh đạo và những đóng góp lịch sử của tổng thống Ngô Đình Diệm trong 9 năm cầm quyền…. Chương khảo luận của tác giả Hoàng Ngọc Tấn “Chủ Nghĩa Nhân Vị, Con Đường Mới, Con Đường Của Tiến Bộ” có nhiều dữ kiện, suy đoán, và phân tích tỉ mỉ, khiến người đọc phải đọc kỹ và nghiền ngẫm, khảo chứng từng chi tiết.

Luận đề này đề cập đến một số khía cạnh độc giả cần đặc biệt quan tâm.

Mục Đích Của Chủ Nghĩa Nhân Vị

Trong tình hình chia cắt hai miền Bắc Nam dưới hai chế độ khác nhau vì ý thức hệ khác nhau. Miền Bắc theo ý thức hệ chủ nghĩa Cộng Sản, nên miền Nam muốn được đầu với chế độ chủ trương đấu tranh giai cấp theo chủ nghĩa Cộng sản, thì miền Nam cũng phải xây dựng xã hội theo một ý thức hệ ưu việt để đối kháng lại. Theo tác giả Nguyễn Đức Cung[23].

Ngày 8/1/1963, trong cuộc nói chuyện với học giới gồm nhiều học giả trí thức, giáo sư đại học, giáo sư trung học và cán bộ tại Trung Tâm Thị Nghè, Ông Ngô Đình Nhu xác định:

“… mình đánh nhau với Cộng Sản, bây giờ Cộng Sản nó đánh mình với một Ý thức hệ, mà chúng ta không có một ý thức hệ cứng rắn, rõ ràng trong tâm trí chúng ta để đối lại, để có lẽ sống mà đối phó với đảng Cộng Sản thì chúng ta sẽ bị ý thức hệ Cộng Sản lan tràn lung lạc…”

Ông nói tiếp:

“Muốn phục vụ con người trong xã hội, thì con người đó phải tiến, xã hội đó phải tiến. Nhưng xã hội chỉ tiến được với nhữhng con người ý thức nhiệm vụ. Cho nên, trên nguyên tắc, chúng ta phải nhìn nhận rằng cần phải có một ý thức hệ tiến bộ. Ý thức hệ chúng tôi chủ trương là ý thức hệ Nhân Vị.” (Nguyễn Văn Minh, sđd., t. 421).

Bản Chất Đích Thực Của Chủ Nghĩa Nhân Vị

3.

Về bản chất Nhân Vị, theo chính tài liệu ông Diệm giải thích:

Về Nhân Vị là gì:

Nhân và Vị là hai học thuyết Nho giáo. Nhân 仁 do chữ Nhân 人 và chữ Nhị 二 hợp thành (仁) có nghĩa là lòng thương người, đạo lý làm người; Vị 位 do chữ Nhân 人 và chữ Lập 立 hợp thành (位) có nghĩa là người có cái vị trí của họ, đứng giữa và ngang hàng với Trời và Đất. Hai chữ này kết hợp lại, diễn đạt ý tưởng nói về phẩm giá cao quí của con người và vị trí của con người trong cộng đồng nhân loại và trong vũ trụ.

Đó là tương quan chặt chẽ của ba yếu tố vũ trụ (Thiên Địa Nhân) trong triết lý Tam Tài truyền thống của Phương Đông.

Một cách giải thích khác tương tự như trên về Chủ Nghĩa Nhân Vị theo lối phân tích của Lm. Bửu Dưỡng:

“Nhân là người. Vị là thứ bậc. Nhân Vị là tính cách con người sống đầy đủ con người theo thứ bậc của mình. Theo nghĩa đó hai chữ nhân vị đầy đủ hơn chữ Personne Humaine của Pháp ngữ, vì hai chữ Personne Humaine nhấn mạnh đến ý nghĩa của chữ nhân mà ít chú trọng tới vị. Cần phải hiểu ý nghĩa đày đủ của hai chữ. Nhân là sống đầy đủ con người. Vị là sống đúng theo thứ bậc của mình trong những tương quan với người khác và vạn vật. Như vậy thì quan niệm về nhân vị tùy thuộc quan niệm về con người và quan niệm các tương quan.”

Theo cách nói của LM. Nguyễn Thái, đúng là phải trải qua kinh nghiệm ngàn năm dựng nước, giữ nước và cứu quốc, ông bà tổ tiên Việt Nam mới để lại cho con cháu cái bí quyết thành công qua thành ngữ “Thiên thời địa lợi nhân hòa”. Thành ngữ này dựa trên quan niệm của Khổng Tử lấy ra từ Kinh Dịch diễn tả tương quan hòa đồng biện chứng giữa Trời, Đất và Người, qua lý tưởng Thái Hòa. Được giáo dục bởi nền văn hóa Nho Giáo, hai anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã hệ thống hóa tư tưởng nhân bản nho học lại thành một chủ thuyết lấy tên là “Chủ Nghĩa Nhân Vị”.

Trong bài phát biểu mới đây, nhân dịp tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lm. đã phát biểu:

“Sống với Nhân Vị là sống với lòng yêu thương như tổ tiên đã dạy: “Thương người như thể thương thân”. Chủ Nghĩa Nhân Vị là đạo lý làm người, là sống cho ra cái phẩm giá cao quý của con người. Đó là sống với chữ tâm của “Tiết trực tâm hư”, chữ tâm như cụ Nguyễn Du đã khuyên dạy: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.” Đó là phải biết đặt mình hòa hợp vào đúng vị trí của mình đối với Thiên Chúa [Trời] – Thiên; đối với Tổ Quốc, Quê Hương, Đất Nước – Địa; đối với Nhân Dân, Đồng Bào – Nhân.”

Ông Ngô Đình Nhu giải thích:

“Về tư tưởng Nhân vị có nhiều thứ. Có thứ họ căn cứ vào một tin ngưỡng hữu hình, một tin ngưỡng chắc chắn, căn bản. Có thứ lại nhuốm phần nào vô thức… Ý thức hệ Nhân vị chúng tôi chủ trương nó rất rộng rãi và không cần phải đi sâu vào các đạo giáo… Tất cả các đạo giáo, tất cả các triết lý khác, có thể cùng đi với chúng ta được trong ý thức hệ đó…”

Chủ Nghĩa Nhân Vị là một triết thuyết đề cao địa vị và phẩm giá của con người trong tương quan với vũ trụ, Trời và Đất, với người khác trong xã hội. Chủ nghĩa Nhân Vị cho rằng bản vị con người có một nhân phẩm tối thượng, nên mọi sinh hoạt trên đời đều được tập trung và phải là phương tiện qui hướng đến mục tiêu phục vụ con người. Chủ nghĩa Nhân Vị lấy Con người biết tu thân (vừa tĩnh vừa động) làm nền tảng để giải quyết các mâu thuẫn trong sinh hoạt của con người.

Nguồn Gốc Hình Thành Chủ Nghĩa Nhân Vị VNCH I

Về quá trình hình thành, chắc chắn khi học ở bên Pháp trong thập niên 1930 thanh niên Ngô Đình Nhu đã tiếp xúc với tư tưởng và có thể chính con người năng động của Emmanuel Mounier, nhưng một người sắc sảo như Ngô Đình Nhu không hấp thụ tư tưởng Chủ Nghĩa Nhân Vị một cách thụ động, nô lệ, ngoại lai, mà đã tinh chế cho phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam. Chủ Nghĩa Nhân Vị của các ông Diệm, ông Nhu không thuần túy là Chủ Nghĩa Nhân Vị của Mounier, là của Công Giáo. Những lời phê bình này có thể chứa đựng một chủ đích chính trị nào đó, hay chưa tìm hiểu thấu đáo về Chủ Nghĩa Nhân Vị.

Trong số những người phê bình theo chủ đích chính trị có những người, theo Nguyễn Ngọc Tấn, như Nguyễn Thái. Trong tác phẩm “Is South Vietnam Viable?”, ông nói rằng ông Nhu đã say mê thuyết dân chủ xã hội dựa trên lòng bác ái và giá trị nhân bản mang danh “Personnalisme” của Emmanuel Mounier, và mối liên hệ của Chủ Nghĩa ấy với xã hội mà ông Nhu cổ võ chẳng có gì là mới mẻ, và “Personnalisme” cũng chẳng có gì xa lạ vì trong một trường phái triết học Pháp trong đó có Emmanuel Mounier và Jacques Maritain để hết mình cổ võ cho nó…

Thưc ra trên đời không có gì mới mẻ, nhưng mới mẻ là cách vận dụng nó có phù hợp vói thời đại không và được thời đại đó chấp nhận không?

Nhà sử học Robert Scigliano, sau khi nghiên cứu chủ nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I đã ghi lại:

“Chủ Nghĩa Nhân Vị nhấn mạnh đến sự điều hòa những ước vọng vật chất cũng như tinh thần của cá nhân với các nhu cầu của cộng đồng và các nhu cầu chính trị của quốc gia. Nó nhằm tìm kiếm một con đường trung dung giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể mác-xít.”

Mới đây tác giả Jean-François Petit nghiên cứu quá trình hình thanh tư tưởng E. Mounier (1905-1950). Ông thấy Mounier là một trong những khuôn mặt trí thức Pháp thuộc thế kỷ XX. Theo J.F. Petit, căn cứ vào nhiều tài liệu ông viết, trong suốt quá trình suy tư và hành động, E. Mounier có xu hướng muốn dung hợp nhiều luồng tư tưởng triết học và thần học khác nhau. Mounier chịu tác động tư tưởng triết học từ Descartes, Pascal và Bergson, đồng thời quan điểm thần học từ linh mục Guerry.

Khi học tại Paris, ông tỏ ra thất vọng, vì ông không thành công xác định một nền giáo dục thiên về chủ nghĩa duy tâm và duy lý của Trường Đại Học Sorbonne và một nền thẩn học bị tác động do cuộc khủng hoảng duy tân hiên đại.

Luận đề của ông về triết thuyết thần bí thất bại. Vì thế ông chuyển hướng thiết lập một triết học riêng biệt, tách rời khỏi tư tưởng có màu sắc tôn giáo.

Nhưng khi đọc những tư tưởng của Péguy, ông chuyên chú đến các tương quan giữa yếu tố thiêng liêng và yếu tố trần thế. Sau cùng tiếp xúc gặp gỡ Landsberg, ông tỏ ra nhạy cảm thấy người ta phải dấn thân. Xu hướng hiện sinh ấy khiến ông từ chối nền thần học Kitô giáo. Từ đó nảy sinh ra quan niệm triết học về nhân vị và cộng đồng, có hơi hướng tư tưởng Augustin từ thế kỷ thứ tư thuộc Công nguyên.

Paul Ricoeur xem tư tưởng Mounier là dấu ấn triết học chuẩn mực, nhưng không phải là đối tượng nghiên cứu có hệ thống theo giác độ này, mạc dù tư tưởng Mounier có tầm ảnh hưởng lớn lao lên các lãnh vực triết học, thần học, chính trị và sư phạm. Công lao của tác giả J. L. Petit là xác định rõ nguồn gốc tư tưởng Mounier bằng nhiều văn bản chưa được xuất bản.

Theo quan điểm nghiên cứu của E. Miller khi tiếp xúc với nhiều người Việt Nam sau nau 30/4/1975, thì khi Ngô Đình Nhu từ Pháp về lại Đông Dương, ông say mê chủ nghĩa nhân vị, tin tưởng rằng tư tưởng của Mounier có thể vận dụng nhuần nhuyễn vào hoàn cảnh Việt Nam. Sau năm 1945, chủ nghĩa Nhân vị có thể là “con đường thứ ba” để phát triển xã hội là điều Ngô Đình Nhu gắn bó.

Trong nhãn quan Ngô Đình Nhu, tư tưởng Mounier bác bỏ cả chủ nghĩa tự do cũng như chủ nghĩa cộng sản là vấn đề chính trị cho Lực lượng thứ Ba do Ngô Đình Diệm đang đề xướng. Ngô Đình Nhu cảm thấy người anh của mình đang lĩnh hội tư tưởng của ông qua việc Ngô Đình Diệm nhận xét và bài viết trong giai đoạn này nhắc đến nhiều chi tiết của thuật ngữ chủ nghĩa Nhân vị.

Những nghiên cứu của E. Miller cũng xác định từ tháng 4 năm 1952, Ngô Đình Nhu phác thảo quan điểm về chủ nghĩa Nhân vị trong bài nói chuyện tại trường Võ Bị Đà Lạt vừa thành lập. Ông thừa nhận rằng khái niệm nhân vị ban đầu là một tư tưởng Công giáo, nhưng nhấn mạnh rằng nó mang tính thích hợp và hữu dụng phổ quát, đặc biệt là cho một đất nước bị chiến tranh tàn phá như Việt Nam.

Phát biểu với một cửa tọa mà đa số là những người không Công giáo có mặt trong cuộc nói chuyện này, ông tuyên bố rằng “… ưu-tư của người Công-giáo cũng chỉ như một tiếng dội đáp lại những nỗi ưu-tư ở tâm-hồn bất-mãn của các ông vậy.” Ông Nhu lập luận rằng, tất cả người Việt Nam thuộc mọi phe phái chính trị và tôn giáo, nên cùng nhau nhất trí bất thần và mãnh liệt” để bảo vệ nhân vị chống lại các thế lực đang đe doạ tiêu diệt nó.

Trong số những người chưa nghiên cứu đầy đủ về Mounier, có thể kể một nhà biên soạn nổi tiếng là ông Nguyễn Gia Kiểng. Gần đây, trong một bài phê phán ông Ngô Đình Diệm, ông viết:

“Nếu dựa trên những gì ông Nhu đã viết về chủ nghĩa nhân vị thì có thể nói là chính ông cũng chỉ hiếu lơ mơ Có lẽ ông đã du nhập chủ nghĩa nhân vị vào Việt Nam vì lý do là lúc đó nó được coi là giải pháp Thiên chúa giáo cho hòa bình Công giáo của thế giới. Nó có tham vọng là một vũ khí tư tưởng chống lại chủ nghĩa cộng sản. Trên thực tế, nó là một bước lùi lớn, gần như một sự đầu hàng, bởi vì nó phủ nhận cá nhân, cốt lõi của dân chủ”.

4,

Người ta có thể bác bỏ dễ dàng những luận điểm và nhận định sai lầm nặng nề cùng những phê phán hời hợt trên đây. Căn cứ vào những trích dẫn tuyên bố, phát biểu trực tiếp của các ông Diệm-Nhu, và nhiều khảo luận của học giả Việt Nam có uy tín, người ta chứng minh Chủ Nghĩa Nhân Vị là một lý thuyết chính trị mang một bản sắc dân tộc rõ rệt.

Hơn nữa nhiều học giả như Lương Kim Định, Nghiêm Xuân Hồng và Đinh Văn Khang với biện chứng mạch lạc rõ rệt, khẳng định Chủ Nghĩa Nhân Vị (Tâm linh, Đông phương) của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, bắt nguồn từ nền tảng văn hóa Việt Nam, không thể lầm lẫn với Personalisme của Mounier (Duy tâm Tây phương) được. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì mọi việc đã được sáng tỏ và những nghiên cứu lịch sử cho phép ta kết luận Chủ Nghĩa Nhân Vị do hai ông Diệm-Nhu chủ xướng mang bản chất văn hóa và chính trị Việt Nam.

Theo dẫn chứng của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn, nhiều tuyên bố của ông Diệm và ông Nhu ở những hoàn cảnh khác nhau có thể minh chứng xác quyết sự thật đó, như:

– “Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang”

– “Chủ thuyết [Nhân Vị] đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người và đẩy mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhất. Quan niệm này… ở ngay trong truyền thống dân gian Việt Nam.

– “Tôi phải nói ngay rằng: Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến cái Nhân Vị Công Giáo đang được giảng dạy bởi các tổ chức Công Giáo tại miền Nam Việt Nam… Hiện nay cái học thuyết nhân vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là một món quà của ông già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng, mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được định sẵn“.

Như thế, giải pháp Nhân Vị mà ông Diệm và ông Nhu đã cổ võ 40 năm về trước chính là mô hình xã hội dân chủ nhân vị đã được thể nghiệm ở miền Nam từ 1954 đến 1963, có mấy đặc điểm:

– Hoạch định một chính cương thống nhất, lấy chủ nghĩa nhân vị làm nền tảng, phù hợp với văn hóa Việt Nam làm căn bản hướng dẫn cả nước đi lên

– Định hướng dân chủ trên thượng tầng cấu trúc xã hội dân sự.

– Vận dụng một nền kinh tế thị trường có điều hòa uyển chuyển của một chính phủ nhắm đến phúc lợi từng cá nhân và cho chung cho cả cộng đồng xã hội.

– Thực hiện có điều tiết dần dần tính công bằng xã hội và nền dân chủ đa nguyên thực sự ở hạ tầng cơ sở qua các chính sách đất đai dinh diền, ấp chiến lược, khu trù mật.

– Kiến tạo hòa bình, ổn định, đoàn kết, trong tình trạng thực tế có hoạt động chính trị kết hợp với vũ trang của chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam lúc đó.

Chủ nghĩa Nhân Vị chỉ được thể nghiệm trong một thời gian ngắn ở Miền Nam Việt Nam, nhưng xét theo lý thuyết khoa học, Chủ Nghĩa Nhân Vị có một giá trị đóng góp lâu dài và quan trọng vào công cuộc phát triển con người nói chung và đặc biệt tại các quốc gia nghèo đói hiện nay.

Sử gia Henry Fairbanks tóm lược toàn sự thật lịch sử bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo tựa đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal như sau:

“Ông Diệm tìm kiếm và khôi phục lại những giá trị cổ truyền làm nền tảng cho giải pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác lại đi tìm những học thuyết ngoại lai… Dù sao đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng những kẻ đeo đưổi một lý tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực hiện một nhà nước được xây dựng trên những giá trị cổ truyền tốt đẹp nhất của Á Châu và Tây Phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền lợi chung và tôn trọng nhân phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã Hội Chủ Nghĩa và Tư Bản Chủ Nghĩa đều là những học thuyết cực đoan cần có một hình thức trung gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá trị ưu tú nhất của cả hai để phục vụ cho lợi ích chung: Công bằng đối với người này là tự do của kẻ khác, cũng như loại bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ Nghĩa Cá Nhân.”

Sự điên đảo của xã hội hiện nay là thay vì đầu đội Trời, chân đạp đất, tay ôm lấy nhau trong tình người thái hòa thì người ta đảo lộn tất cả!

– Thiên là Trời cũng chẳng còn biết kính trọng nữa, mà:
“Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già.”

“Ông Trời hãy dẹp một bên, để cho nông hội tiến lên làm Trời!”

– Địa là quê hương, tổ quốc, đất nước, nhưng ngày nay thì:

“Tổ quốc với chẳng tổ cò
Nơi nào no ấm ta dò ta bay”.

– Còn Nhân (con người) với nhau thì coi nhau như lang sói, đầy đấu tranh, tham nhũng:

“Thanh cha, thanh mẹ, thanh dì
Hễ có phong bì thì lại thanh-kiu”.

So sánh với thực tại cá nhân và xã hội Việt Nam ngày nay, người ta mới thấy rõ hơn tính ưu việt của Chủ Nghĩa Nhân Vị lấy tương quan Trời Đất Người làm nền tảng xây dựng xã hội con người. Chủ Nghĩa ấy đối kháng rõ rệt với chủ nghĩa độc tài chuyên chính độc đảng toàn trị, không có dân chủ, không tôn trọng con người để xây dựng một xã hội thái hòa giữa Trời Đất và Người.

Không thể gọi chế độ ấy là Cộng Sản đích thực, vì đã hội nhập vào nền kinh tế thị trường tự do và đã chấp nhận tham gia xã hội pháp quyền dân sự, trong khi Đại Khối Cộng Sản từ Phương Tây đã tan rã. Đó là một toan tính ngoan ngạnh, dị hợm, chắp vá đầu Ngô mình Sở, một quái thai nẩy sinh giữa chế độ toàn trị độc đảng mà vẫn muốn sống trong thế giới dân chủ tự do chấp nhận kinh tế thị trường.

Chế độ xã hội ở cả Việt Nam ngày nay (sau 30/4/1975 đến nay) và ở một nửa nước tại Miền Bắc Việt Nam trước kia (1954-1975), người ta mất hướng đi chân chính, vì thiếu một chủ nghĩa nhân bản dân chủ chân chính:

– Chế độ chính trị thì do một đảng chuyên chính độc đoán, toàn trị, dù có phân biệt theo hình thức Tòa Án, Chủ Tịch nước, Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội, trong đó tất cả đều theo lệnh của Bộ Chính Trị đảng.

– Nền kinh tế thị trường, nhưng những người chủ chốt đều thuộc một đảng chuyên chính. Có phát triển nhưng là một nền kinh tế bất công, giàu sang nhờ đầu tư kinh doanh của các công ty liên doanh ngọai quốc.

– Xã hội suy đồi vì nền giáo dục khuôn sáo thiếu suy tư sáng tạo, vì tự do hôn nhân chân, nam nữ tự do giao du, tham nhũng, mãi dâm, xì ke, ma túy, HIV/AID tràn lan, ứng xử gian dối trong tương quan xã hội, các đoàn thể chỉ là phên dậu của một chính đảng được bầu cử theo cách sắp đặt trước của một đảng.

Và nhờ đó người ta muốn hiểu rõ và thương mến trân trọng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Chủ Nghĩa Nhân Vị thời Việt Nam Cộng Hòa trước kia (1954-1963) và ngày nay ở trong cũng như ngoài nước (từ sau 30/4/1975 đến nay) đã và vẫn đang tiếp tục bị các lực lượng thù ghét xuyên tạc và có ý làm sai lệch tư tưởng chính thống thế nào là chủ nghĩa nhân vị.

Từ Chủ Nghĩa Nhân Vị Đến Đảng Cần Lao Nhân Vị

Chủ nghĩa nhân vị chính là nền tảng để xây dựng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Muốn cho nhà Việt Nam bền vững, ngôi nhà đó cần có một nền tảng vữa chắc để xây những bộ phận khác. Làm việc gì cũng cần có trước có sau một cách hợp tình hợp lý và hài hòa. Bài diễn văn của Ngô Đình Nhu báo trước cho việc thiết lập hệ thống Đảng Cần Lao Nhân Vị để qui tụ, động viên và tổ chức nhân sự trong guồng máy Việt Nam Cộng Hòa.

Trong nghiên cứu E. Miller cũng thấy trật tự đo. Ngô Đình Nhu là một nhà tư tưởng và một nhà chiến lược. Ông thừa biết rằng phong trào của ông cần được tổ chức; tài năng thật sự của ông là thành lập xong, thì phải tổ chức. Chắc chắn ngay từ đầu thập niên 1950, Ngô Đình Nhu đã xây dựng cốt cán của một đảng chính trị mới, với nhóm người chạy khỏi Hà Nội vào khu tự trị Bùi Phát sau ngày 19/12/1946, mà sau này mới xuất hiện công khai với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị; nhưng thường chỉ gọi là vắn tắt “Cần Lao”.

Lúc đầu, tổ chức Cần Lao hoạt động trong vòng bí mật, và người ta hầu như không biết gì về những năm đầu tiên của nó. Đảng hoạt động theo lối mạng lưới chi bộ, đa số đảng viên được tuyển mộ chỉ biết danh tính của một số ít các đảng viên khác.

Sau năm 1954, đảng này chính thức tồn tại, nhưng đa số những hoạt động của nó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Cuối cùng, đảng Cần Lao trở thành bộ phận quan trọng và nổi tiếng nhất trong bộ máy an ninh của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng trong những năm đầu của đảng, mục đích chính của Ngô Đình Nhu là vận động phong trào ủng hộ cuộc đấu tranh chính trị dân tộc chủ nghĩa mới do Ngô Đình Diệm lãnh đạo.

Việc đặt tên Cần Lao khiến người ta nghĩ chắc chắn Nhu quan tâm đến việc tổ chức lao động (lao động ở đây được hiểu bao gồm cả công nhân và những tá điền nghèo khổ), trong ý thức cạnh tranh với tổ chức lao động kiểu Lê-nin ở miền Bắc khi đó. Tổ chức này cũng có thể liên quan đến một số tư tưởng chỉ đạo phong trào công đoàn Pháp. Ông tán đồng khái niệm công đoàn: Công nhân được tổ chức thành nghiệp đoàn hay hiệp hội để bảo đảm quyền lợi của các thành viên không lệ thuộc vào quyền lợi của tư bản. E. Miller chú ý đến khía cạnh đặc biệt này: “Mặc dù Ngô Đình Nhu, trong những bài thuyết trình kín và công khai, thường hướng tới những yếu tố triết lý Nhân vị, nhưng cung cách và bản chất những nỗ lực tổ chức của ông bị những nguyên tắc của phong trào công đoàn ảnh hưởng sâu sắc”.

Về Đảng Cần Lao Nhân Vị, theo ông Cao Xuân Vĩ, hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông, nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của cộng sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao.

Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale.

Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ úy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất qúy trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký. Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.

Tổ Chức Đoàn Ngũ Hóa Các Giới

Ngoài hệ thống nội bộ Đảng Cần Lao, trong ý đồ chiến lược đa diện của Ngô Đình Nhu, con có những tổ chức ngoại vị nhằm đoàn ngũ hóa các giới mà hai đoàn thể chính là Thanh Niên Cộng Hòa và Phụ Nữ Liên Đới nhằm thi hành thống nhất các đường lối chính sách theo hướng Chủ Nghĩa Nhân Vị.

Chủ trương như thể nhưng có nhiều lạm dụng hay khuyết nhược điểm trong các đơn vị địa phương và cá nhân dẫn dần đến mất hướng đi chính thống của chủ nghĩa và sa sút, trong khi có tổ chức Cộng Sản và những thành phần công dân không tán đồng chủ nghĩa nhân vị tiếp sức phá hoại một cách nào đó.

Khi làm Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông Nhu chỉ thị cho anh em đoàn viên phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.

Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v… thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Ông Cao Xuân Vỹ thật phục sức làm việc của ông Nhu.

Ấp Chiến Lược, Hệ Thống Tổ Chức Hạ Tầng Đa Hiệu Của Xã Hội Nhất Là ở Nông Thôn.

Mục tiêu:

1/. Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược đối phó với xâm nhập và khủng bố của cộng sản mà thôi.

Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang.

Nghiên cứu mới đây theo tác giả Nguyễn Văn Minh trình bày lại công thức tam giác tam túc của quân dân cán chính trong ấp chiến lược.

2/. Chính Ông Ngô Đình Nhu diễn giải tóm lược trong phương trình:

“Tam Túc + Tam Giác = Tam Nhân.

A. Tam Túc là:

1- Tự Túc Về Tư Tưởng là tự mình suy luận cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để phụng sự và một khi đã chọn rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là cuộc cách mạnh chính trị, xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp Chiến Lược. Sau đó ta tự phát huy chính nghĩa trong tâm hồn, tự học tập và tự bồi dưỡng tinh thần của ta, không cần ai thôi thúc.

Tự túc về tinh thần về tư tưởng, thì tất nhiên trong mọi trường hợp khó khăn, ta vẫn vững tâm, hoặc dù có nội loạn ở thủ đô Sài Gòn chăng nữa, thì ta vẫn không bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự túc về tư tưởng để phát huy và bành trướng chủ nghĩa.

Muốn được như vậy thì phải:

2- Tự Túc Về Tổ Chức Và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều nhân vật lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính phủ chỉ cần giúp ta một số vốn căn bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn hiện giờ ta thiếu kẽm gai để làm ấp chiến lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất cứ ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên Cao nguyên); hoặc dùng địa danh địa vật để lồng hệ thống bố phòng ấp chiến lược vào trong đó, đỡ cần đào hào hay rào kẽm gai.

Muốn thực hiện tự túc về tổ chức, thì cần phải:

3- Tự Túc Về Kỹ Thuật là phát huy khả năng chiến đấu, và khai thác, phát triển khả năng của nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100%. Ba bộ phận của tam túc có liên hệ mật thiết với nhau; muốn tự túc về tổ chức mà không tự túc về kỹ thuật, thì tổ chức không thành; thiếu tự túc tư tưởng thì tất nhiên sẽ không có tự túc tổ chức và tự túc kỹ thuật.

Từ quan niệm tam túc sinh ra quan niệm tam giác.

B. Tam Giác là:

1- Cảnh Giác Về Sức Khỏe (thể xác), nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất cả những việc làm phương hại đến thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm sức khỏe thì mới bảo đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ.

2- Cảnh Giác Về Đạo Đức Và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong đạo đức là cốt yếu của cán bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tu tưởng, sẽ biến khả năng làm việc thiện ra việc ác, chưa kể việc thất nhân tâm.

3- Cảnh Giác Về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của nhân vật lực sẵn có đến tột độ.

Vậy, không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp phạm vi hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo đức, cũng không có khả năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc sáng tạo, nhưng không có đạo đức thì sức khỏe ấy, óc sang tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không phải cho chính nghĩa…”

3/. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu.

Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thanh những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu cộng sản.

Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lươc được an tòan trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì cộng sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.

4/. Về Ấp Chiến Lược chức Chủ Tịch ủy Ban Liên Bộ, theo ông Cao Xuân Vĩ, thì có chức này. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ toạ các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận.

Theo tác giả Nguyễn Đức Cung, người ta đọc thấy ông Nguyễn Bá Cẩn trình bày quan điểm về một vấn đề rất trọng yếu mà ông mệnh danh là Thế Cá Nước và Chiến Tranh Du Kích. Theo ông, ai cũng biết người dân miền Nam hiền hòa và chỉ muốn an phận sinh sống với mảnh ruộng, luống rau, khu vườn, ao cá của mình. Cho nên, chỉ cần tiêu diệt cán bộ cơ sở Cộng Sản thì người dân sẽ không còn bị khủng bố, không bị bắt buộc tham gia bất cứ điều gì kể cả hoạt động tiêu cực nhất là góp tiền. Vấn đề chỉ là tìm cá bắt ra khỏi nước.

Nhưng thực ra ông Nguyễn Bá Cẩn đã không nhận thức được giá trị của ấp chiến lược, khi tập trung dân vào trong ấp, thỉ tất cả những người ở ngoài ấp chính là những người hoạt động bảo vệ chủ nghĩa Cộng Sản và sinh sống với Cộng Sản.

Chính vì nhiều người miền nam chưa nhận thức được hết những kinh nghiệm về hiểm họa Cộng Sản trong chủ trương “tam cùng” và những điều giải thích về tam túc và tam giác nói trên trong tình thế đấu tranh với Cộng Sản. Chủ trương ấp chiến lược đã từng được áp dụng thành công ở Mã Lai trong việc tách lìa Cộng quân khỏi trà trộn vào trong dân để tồn tại bằng lương thực và khủng bố để được cưỡng bách che chở.

Nhưng chính ông mắc mưu tuyên truyền của Cộng Sản, dùng ngôn ngữ của chúng mà cho rằng “đệ nhất Cộng hòa lại làm ngược lại, tức là lùa dân vào Khu trù mật. Và khi Khu trù mật thất bại, thì lùa dân vào Ấp chiến lược. Ðệ nhị Cộng hòa cũng lùa dân vào Ấp Ðời Mới hay Ấp Tân Sinh, đại khái là một biến thể của Ấp chiến lược cũ.

Thay vì bắt cá ra khỏi nước, ít tốn kém và không gây thiệt hại cho dân, hai nền Cộng hòa lại làm công việc tát nước. Mà nước là dân. Tát nước tức là di chuyển hàng trăm ngàn nhân dân vào khu trù mật và ấp chiến lược, quá ư tốn kém, quá ư phiền hà, gây vô số thiệt hại cùng xáo trộn đời sống người dân.”

5/. Thật ra, việc tập trung dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền nhân trong lịch sử Việt Nam, lúc có chiến tranh.

Tác giả Nguyễn Đức Cung dẫn chứng kinh nghiệm quản lý người dân tộc thiểu số ở vùng Quảng Ngãi. Theo ông, năm 1863, Nguyễn Tấn cũng đã áp dụng kế sách đó góp phần chận đứng các cuộc tấn công của người Thượng vùng Ðá Vách, Quảng Ngãi.

Ðại Nam Thực Lục có ghi lại như sau:

Mới đặt chức Tiểu phủ sứ ở cơ Tĩnh man tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư.

Lấy người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thự án sát Thái Nguyên, khi ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần cấp hơn, bèn y cho. Ðến đây, chuẩn cho thăng hàm thi độc sung lãnh chức ấy, cấp cho ấn quan phòng bằng ngà.

Tấn dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần với địa phận núi thì, tham chước theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho bền vững. Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thuế cho.

Còn 1, 2 nhà nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà dời về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm nhà để .Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo, thì phái quân đến phòng giữ ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thư sức dân.

Theo người viết, việc so sánh kinh nghiệm ứng xử với người dân tộc thiểu số ở miền Đông Bắc Việt Nam thế kỷ XIX, rồi được vận dụng tại vùng Quảng Ngãi với nhóm dân tộc Đá Vách và việc khai lập làng ấp như ấp chiến lược và khu trù mật có phần khác biệt. Người dân tộc thiểu số bị phân biệt đối xử so với người dân tộc đa số, nên nguyên nhân chính của những cuộc giấy loạn cướp bóc của người dân tộc thiểu số Đá Vách là giành quyền được đối xử như người đa số.

Từ Trại Định Cư Đến Ấp Chiến Lược, hay Khu Trù M ật, Dinh Điền.

Cách đây chung quanh năm 1960, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh cùng với các quốc sách được ban hành chính thức, chủ yếu là ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền tùy theo địa phương và thời gian.

Nguồn gốc đầu tiên phát sinh từ việc thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư theo nghị định số 928-NV do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngày 17/9/1954. Phủ này có tầm quan trọng như một Bộ trong Chính Phủ và ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Úy Trưởng.. Trước ông Nguyễn Ngọc Đối (21/8/1954- 4/12/1954), còn có ông Nguyễn Văn Thoại (từ 10/8/1954 – 21/8/1954), và sau đó là Bs Phạm Văn Huyến (từ 4/12/1954 -17/5/1954), ông Bùi Văn Lương (từ 17.5.1955 về sau) làm Tổng ủy Trưởng.

Thực sự tổng số di dân được phân bố theo tôn giáo như sau: Tin Lành (1.041 người); Phật giáo: (182.817 người); Công giáo: (676.348 người), và khoảng (40.000) người Hoa cũng di cư vào Nam  900.206 người). Vì số di dân Công Giáo chiếm tỷ lệ nhiều đến 70% tổng số di dân từ miền Bắc xuống miền Nam, một Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư được rổ chức bên cạnh Phủ Tổng Ủy Di Cư. Giám Mục Phạm Ngọc Chi được bổ nhiệm điều hành.

Tổng số di dân từ miền Bắc có thể vào miền Nam là 875.478 người. Họ được chuyển đến Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang và nhiều nơi khác tùy ý họ lựa chọn theo cá nhân hay theo các đoàn thể do các linh mục di cư hướng dẫn. Chủ yếu nhiều trại định cư về sau được tổ chức bố trí thành các ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền.

Linh mục Cao Văn Luận chú ý đến ý đồ chiến lược của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lúc đó:

Ông (Ngô Đình Diệm) chú ý đặc biệt đến giá trị chiến lược và kinh tế của vùng cao nguyên và đặt kế hoạch đinh cư đồng bào di cư Nghệ Tĩnh Bình tại các vùng Ban Mê Thuột, Tuyên Đức, Đà Lạt, số người di cư được định cư khá sớm tại các trại như Hà Lan A, Hà Lan B, Đức Lập, Bình Giả, Phan Thiết, Tân Bình (Khánh Hòa), Cam Ranh… Tôi (LM Cao Văn Luận) có nghĩ đến cách hòa đồng dân di cư vào dân địa phương, nhưng không có dịp nói ra, và tôi cũng nhận thấy sự khó khăn quá lớn trong việc đó (t. 200).

Theo ông Trần Vinh, tới ngày 21 tháng 8, mỗi ban ngành đều có đại diện của Phủ Tổng Ủy Di Cư. Phủ Tổng ủy với 3 nhiệm vụ rõ rệt:

– Cứu trợ và di chuyển. 
– Kiểm soát và tiếp cư. 
– Giúp đỡ định cư.

Về phía tư nhân, ngay từ những ngày đầu, có nhiều đoàn thể cách mạng, hội đoàn Công giáo, Dòng Chúa Cứu Thế, Đại Chủng viện, v.v., lo tổ chức việc tiếp cư tại phi trường Tân Sơn Nhất và bến tầu Sài Gòn.

Mãi đến tháng 8 năm 1954, Giáo hội Công giáo thành lập Ủy Ban Hộ Trợ Định Cư do giám mục Phạm Ngọc Chi phụ trách. Văn phòng HTDC đặt cạnh nhà thờ Huyện Sĩ, Sài Gòn. Ủy ban cử các linh mục tới mỗi trại tạm cư và trại định cư làm đại diện.

Ủy ban giúp Phủ Tổng Ủy duy trì trật tự, an ninh; cấp phát, phân phối tiền bạc, thuốc men, vải vóc; phụ trách các hoạt động văn hóa, tinh thần. Ủy ban cũng vận động các tổ chức từ thiện quốc tế ủng hộ tinh thần, vật chất cho đồng bào di cư. Ủy ban còn bênh vực, tố cáo trước dư luận thế giới về những vụ việc Cộng Sản ngăn cản, bách hại những người muốn di cư đi tìm tự do.

Ngoài 2 tổ chức kể trên, còn có các tổ chức khác cũng tích cực tham gia giúp đỡ như:

– Văn Phòng Viện Trợ Công Giáo Hoa Kì do Mgr. Joseph Harnett phụ trách; 
– Văn Phòng Thanh Thương Hội Phi Luật Tân; 
– Rotary Club; 
– Hội Cứu Trợ Pháp; 
– Báo Figaro quyên giúp 35,000,000 quan Pháp (1955).

Tổ Chức Ấp Chiến Lược.

Thời gian từ đó đến nay đủ những nhiều đàm tiếu và nhận định khác nhau để có thể phê phán được các vấn đề của lịch sử. Theo Tiến sĩ Lâm Thanh Liêm, nguyên giáo sư kiêm trưởng ban Ðịa lý trường Ðại Học Văn khoa Sài gòn, giảng dậy tại các viện đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh, Ðà Lạt, Huế, Cần Thơ, Minh Ðức trước năm 1975, “Chính Sách Cải Cách Ruộng Đất Việt Nam (1954-1994)”, đã tổng hợp rõ về cơ cấu tổ chức và lợi thế của kế sách Khu trù mật như sau:

Khu Trù Mật là một cộng đồng nông nghiệp được chính quyền thành lập và tập trung thôn dân vào đấy sinh sống ở những địa phương nào chưa an toàn. Các thôn dân sinh sống trong những vùng hẻo lánh, xa cách các giao lộ, khó kiểm soát.

Trước mưu toan Miền Bắc dùng chiến tranh xâm lược Miền Nam, Tổng Thống Diệm quyết định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện tổ chức xây dựng và nâng cao, phát triển đời sống của họ, đồng thời bảo vệ họ, cô lập họ với Việt Cộng, giống như bắt cá khỏi nước mà du kích Cộng Sản vẫn thường bám vào dân để sinh sống. Thiếu dân và các nguồn lợi, quân dân cán chính có thể nhận diện được du kích mà loại trừ.

Mỗi KTM có khoảng 3.000 đến 3.500 dân, có hạ tầng cơ sở và các tiện ích giống như một thành phố.

Vì thế các KTM dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn, để tạo một vành đai an ninh. Ðồng thời Khu Trù Mật cũng là đơn vị kinh tế, thị trường tiêu thụ các nông sản và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ cấp phát cho mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000m2, để xây cất một ngôi nhà (với vật liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng gà. Mỗi gia đình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc mưu sinh.

Về quân sự, bố phòng, KTM là những địa điểm chiến lược để bảo vệ dân chúng chống lại chiến tranh du kích xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài việc quản lý dân chúng, chính quyền địa phương còn được trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến KTM thành một tiền đồn, ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam.

Về kỹ thuật, KTM có vị trí được được chọn lựa kỹ lưỡng, có đủ các điều kiện phát triển thuận lợi, như đất đai phì nhiêu, gần các giao lộ và điện khí hóa.

Về hành chánh và xã hội, KTM có một chi nhánh bưu điện, cơ sở xã hội, (như một bảo sanh viện, một nhà trẻ) và văn hóa như các trường tiểu học và trung học đệ nhất cấp, một phòng thông tin, nhà thờ và chùa chiền.

Chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: Việc tập trung dân cư cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít đòi hỏi nhiều tư bản đầu tư hơn hình thức cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh, v.v…).

Về kinh tế, KTM có các tiện ích thương nghiệp và dịch vụ (có chợ xây bằng gạch với các tiệm buôn bán); công nghiệp có các tiểu thủ công nghệ liên hệ với nền nông nghiệp địa phương; nông nghiệp, với diện tích đất trồng có thể mở rộng nhờ khẩn hoang thêm đất đai giúp các thế hệ trẻ tương lai tiền lên thành điền chủ:

Có Bao Nhiêu Ấp Chiến Lược Trên Lãnh Thổ VNCH

Ngoài các làng xã thôn ấp chiến lược địa phương, tổng số các địa điềm định cư có thể biến thành khu trù mật, hay ấp chiến lược, dinh diền hình dung như sau:

“Tính đến ngày 30 tháng 10 năm 1955 đã thành lập được 255 trại định cư (sau này còn thành lập thêm): 156 trại tại Nam phần, 65 trại tại Trung phần và 34 trại trên cao nguyên. Tổng số dân đi định cư là 596.031 người; số đồng bào di cư sống rải rắc các nơi là 140.039 người; gia đình binh sĩ là 125.393 người (những con số này có sai biệt chút ít giữa các bản thống kê, một phần cũng do số sinh tử mỗi ngày).

Ngân khoản dành cho chương trình di cư là 1.058.000.000$. Trong số đó 480 triệu dành để làm nhà sẵn cho đồng bào và 300 triệu cấp cho nơi nào đồng bào tự làm nhà lấy. Tại các trại có đợt phát tiền mặt cho mỗi đầu người 700$. Ngoài ra đồng bào còn được 124.813 dụng cụ canh nông; 681.585 kiện vải; 393.994 kg chỉ và 3.471 kg chì để làm chài lưới”.

Robert Scigliano 
[Robert Scigliano: Vietnam: Politics and Religion. Asian Survey, Vol. 4, No. 1, A Survey of Asia in 1963: Part I (Jan., 1964), pp. 666-673. This article consists of 8 page(s)],
Robert Scigliano là giáo sư tại trường Ðại Học Michigan, cho biết Cộng Sản Hà Nội chống lại chính sách khu trù mật. Thể chế này có tác dụng hữu hiệu là ngăn chận Cộng Sản xâm nhập vào nông thôn, vì được xây dựng ở các vùng chiến lược, như dọc theo một trục đường chính, một giao lộ trên bộ hay trên sông rạch gây trở ngại rất nhiều cho việc di chuyển của Cộng Sản.

Tác Giả Nguyễn Văn Châu, cựu Trung Tá, nguyên Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm lý, Bộ Quốc Phòng Trong cuốn “Ngô Ðình Diệm En 1963: Une Autre Paix Manquée” (Bản dịch Nguyễn Vy Khanh từ nguyên tác Pháp văn, Luận Án Sử Học, Trường Đại Học Paris VII, 1982. Bản tiếng Việt do nxb Xuân Thu, Nam Cali, 1989) cho rằng Khu Trù Mật do chính quyền sáng kiến bị chỉ trích vì chỉ nhắm vào những chuyện tiêu cực về nhân sự. Những dư luận chống lại quốc sách ấp chiến lược còn đi xa hơn nữa cho rằng chính quyền ép buộc dân bỏ làng mạc nhà cửa.

Ngày nay đọc Suzanne Labin, người ta rút ra được bài học lịch sử về chính sách ấp chiến lược. Bà là một nhà văn kiêm phân tích gia đã nhiều lần tới thăm Miền Nam Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I. Bà từng được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tiếp kiến, và đã thuyết trình về chính trị tại Sài gòn. Trong cuốn “Vietnam: An Eye-Witness Account – Việt Nam: Tường Thuật Của Một Nhân Chứng Thấy Tận Mắt”, Suzanne Labin đã viết:

“Khi nhà Ngô bị lật đổ, có tám ngàn ấp chiến lược đã được thành lập xong và đang vận hành, với dự trù khoảng bốn ngàn ấp nữa cần thiết để bảo vệ cả nước. Nông dân sống rải rác dọc theo các con kênh, được yêu cầu dời chuyển để qui tụ lại thành nhiều làng, tập trung theo kiểu Âu châu. Mỗi làng được rào vững chắc bằng hàng rào kẽm gai hoặc hàng rào tre vót nhọn đàng sau có tăng cường hệ thống hào rộng, gài mìn để chận đứng Việt Cộng mò vào ban đêm. Trong ấp, mỗi gia đình đều được khuyến khích đào một hầm trú ấn ngay trước nhà họ.

Tại sao vậy? Khi Việt Cộng tấn công, trước đây người dân thường quá sợ nên nên chạy tứ tung gây trở ngại cho lực lượng bảo vệ nhiều khi bắn cả vào người nhà mình. Từ khi có hầm trú, người già và trẻ con cứ việc núp dưới hầm để xạ trường quang đãng cho lực lượng chiến đấu hành sự”.

“Người dân làng được đoàn ngũ hóa theo tuổi tác, giới tính, và tùy theo khả năng mà được giao cho một phần vụ đặc biệt: Lực lượng tự vệ và thanh niên cộng hòa là những đơn vị chiến đấu; những dân làng khỏe mạnh khác thì tham gia công tác phòng vệ, thanh thiếu niên thì vót chông. Người có nhiệm vụ chiến đấu được cấp vũ khí cá nhân mang luôn bên mình ngay cả khi ở nhà. Nhiều làng được trang bị thêm xe thiết giáp hoặc súng liên thanh. Máy truyền tin (hoặc điện thoại hữu tuyến) được cung cấp giúp cho các người bảo vệ ấp chiến lược có thể gọi ngay lực lượng chính quy đến một khi bị tấn công. Nhiệm vụ chính của làng là cầm chân kẻ thù, vô hiệu hóa chúng ngoài các vành đai của ấp, cố ngăn chúng không lủi mất vào rừng trong khi lực lượng chính quy kéo tới. Bấy giờ, Việt Cộng thấy quá khó khăn khi xâm nhập một vùng dân cư có phòng thủ và ngay cả rút lui cũng thấy nhiều trở ngại”.

Bà còn nhắc lại câu nói cô đọng của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm: Muốn nghiền nát quân thù cần chiếc búa có sức mạnh năng động dập trên đe ấp chiến lược. Ấp chiến lược tồn tại vì đã đưa lại nền tảng đa hiệu vững chắc cho tiến bộ kinh tế xã hội. Ấp chiến lược chính là tâm điểm cuộc cách mạng chính trị và xã hội.

Chính sách ấp chiến lược được thực hiện từ năm 1961 là một kế hoạch táo bạo nhất của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Kế hoạch ấy được Sir Robert Thompson cố vấn. Ông là chuyên viên về chiến thuật phản nổi dậy người Anh cùng với hai người bạn là Desmond Palmer và Dennis Duncanson.

Nhận định tổng quát về kết quả của chính sách ấp chiến lược, tác giả Nguyễn Văn Châu đã khẳng định trong luận án của ông:

– Quốc sách Ấp chiến lược sau hai năm đã ngăn chặn thành công. Việt Cộng không còn sống bám lén lút trong nhân dân.

– Vấn đề an ninh làng ấp được vững vàng hơn, quân đội chính quy quốc gia trở thành lực lượng hành quân chủ động.

– Du kích cộng sản chịu nhiều thất bại đáng kể, khiến cho chúng phải rơi vào thế bị động và chao đảo sau khi đã mất hạ tầng cơ sở.

– Tinh thần quân đội quốc gia lên cao, dân chúng được bảo vệ tốt hơn và du kích Việt Cộng càng ngày càng hồi chánh về đầu thú với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Trong một bài báo mới đây nhan đề “Bốn Mươi Năm Ngày Đảo Chính Chế Độ Ngô Ðình Ðiệm: Cái Nhìn Từ Hà Nội, Tạp chí Thông Luận số 174, tháng 10-2003.”, Bùi Tín, nguyên Phó chủ nhiệm Nhật báo Nhân Dân Chủ Nhật, cựu đại tá của Bộ Đội Bắc Việt đã phải xác nhận ưu thế của quốc sách ấp chiến lược đã gây cho lực lượng xâm lăng Cộng Sản nhiều khó khăn và thất bại trước đây, đã thẳng thắn bày tỏ rằng:

“Cùng với thời gian và sự tìm hiểu những tư liệu lịch sử, tôi thấy cần phải trả lại lẽ công bằng cho nhân vật lịch sử này… Tôi cho rằng ông Diệm là một nhân vật chính trị đặc sắc, có lòng yêu nước sâu sắc, có tính cương trực thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị”. (Bùi Tín).

Bởi thế, những nhận xét của tác giả Nguyễn Bá Cẩn về khu trù mật, rồi ấp chiến lược như đã trích dẫn ở trên có phải là những quan điểm nông nổi chăng, hay là do một tư duy thiên kiến nào đó thúc đẩy ông viết nên những câu đáng lẽ cần được cân nhắc hơn, từ một người làm chính trị ở vào một trong những vị thế lãnh đạo Miền Nam trước đâỵ. Thực tế chính trị Miền Nam Việt Nam cho thấy sự lợi hại của quốc sách Khu trù mật qua sự chứng kiến không chỉ của dân Miền Nam mà cả rất nhiều giới ngoại quốc.

Trong cuốn “Nation That Refused to Starve: The Challenge of the New Vietnam , Tướng John W. O’Daniel, chỉ huy phái bộ Quân sự Mỹ đầu tiên, đã ca tụng chính sách tiếp cư chu đáo của Ông Ngô Ðình Diệm, thành công của các khu trù mật mà tiêu biểu là Cái Sắn, chương trình dinh điền ở Quảng Ðức, Ban Mê Thuột…

Chương trình cải cách điền địa thực hiện dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I cho người nông dân cuộc sống bảo đảm tương lai với các con số sau đây:

Từ tháng 7 năm 1954 tới tháng 7 năm 1961 có tất cả 648.294 mẫu tây được phân phối lại cho nông dân, 301.923 mẫu tây đất nhà nước mua lại để phát cho nông dân. Một tổng cộng 950.217 mẫu tây mà chính quyền trưng mua lại của các đại điền chủ với giá 1.260.559.427 đồng. Trong khi đó các nông dân chủ điền mới chỉ phải trả 1.822.116 đồng vào năm 1961.

Nhiều tư liệu lịch sử khác xác nhận thành quả quốc sách ấp chiến lược, khu trù mật, dinh điền, và chương trình cải cách điền địa nói trên.

Tóm lại, Ấp chiến lược là một “quốc sách” của chính quyền Việt Nam Cộng hòa I sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam từ năm 1960 do chính quyền Ngô Đình Diệm đề xuất, đối phó hữu hiệu với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.

Quan điểm của Việt Nam Cộng hòa I về Ấp chiến lược là nhằm mục đích tách rời du kích Cộng Sản Việt Nam dưới chiêu bài Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Việt Nam ra khỏi dân thường ở nông thôn. Dân chúng không phải sống trong vùng oanh kích tự do, hay “vùng xôi đậu”, loại trừ đối phương có cơ sở hoạt động “tam cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) trong dân chúng, dần dần cô lập hoàn toàn lực lượng du kích khỏi nông thôn.

Nhưng để chống lại chính sách đó, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tuyên truyền đây là hình thức gom dân, nhốt dân, kìm kẹp dân hòng “tát nước bắt cá”. Kế hoạch ấp chiến lược khi được thực hiện tốt sẽ cô lập lực lượng vũ trang cộng sản không thể dựa vào dân, và dần dần Việt cộng bị tiêu diệt.

Ấp chiến lược tổ chức theo hình thức “tự quản, tự phòng và tự phát triển“. Quản lý ấp là một Ban Trị Sự, phòng thủ bảo vệ ấp là lực lượng Phòng Vệ Dân Sự, phối hợp với các đơn vị Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa của ấp đó phụ trách.

Khi ấy, tất cả các ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố, mỗi ấp đều có một hoặc nhiều chòi canh tầm nhìn xa, các cổng ra vào được canh gác cẩn mật.

Ban ngày, người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào được đóng kín lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải quyết. Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động.

Ban đầu, Quốc sách Ấp chiến lược thực hiện hiệu quả, hoạt động của quân du kích cộng sản bị ngưng trệ. Tuy nhiên, trong khi thi hành thì nhiều viên chức lấy ngân sách Ấp chiến lược rồi bắt dân phải gánh chịu khoản này như phải nộp tiền, công sức và tre để làm hàng rào cho ấp. Vì thế, dân cảm thấy bị gom vào một chỗ sẽ làm xáo trộn một phần nào nếp sống cổ truyền nông thôn của họ. Vì thế, phía Cộng sản đã phát động phong trào “phá ấp chiến lược”.

Nguồn: Lm. Lê Ngọc Thanh
https://www.facebook.com/lengocthanh…/posts/328746787598948…

TƯƠNG TÁC – CỘI NGUỒN CỦA MỌI PHÁT TRIỂN

TƯƠNG TÁC – CỘI NGUỒN CỦA MỌI PHÁT TRIỂN

Tương tác là nguồn gốc của phát triển. Group nào có sự tương tác tốt bao giờ cũng hơn group rời rạc tương tác kém. Thương mại toàn cầu là một bức tranh về sự tương tác giữa các quốc gia, nhờ vậy mà thế giới phát triển vượt bậc. Bắc Hàn đóng cửa không tương tác với thế giới, kết quả là đói nghèo. Việt Nam mở cửa để tương tác kinh tế nhưng đóng cửa chính trị, kết quả thua xa Hàn Quốc, vì Hàn mở cửa cả kinh tế lẫn chính trị.

Tương tự vậy, hệ thống chính trị nào tương tác tốt với nhân dân, nơi đó có phát triển, ngược lại lại là lụn bại. Mô hình nghị viện tồn tại song hành và tương tác thường xuyên với phía nhà vua – phía nắm quyền hành pháp, đã hình thành ở Âu Châu từ thời Trung Cổ. Từ rất sớm, vào năm 1215 ở Anh Quốc, nghị viện (gồm những lãnh chúa tăng lữ) đã đấu tranh buộc vua Anh John nhân nhượng chấp nhận bị tước bỏ một số quyền hành để tránh độc tài chuyên chế. Và thế là hiệp ước Magna Carta ra đời. Và 427 năm sau tức vào 1653 một lần nữa nghị viện Anh chiến thắng phe bảo hoàng và lập nên chế độ quân chủ lập hiến cho đến ngày nay. Khi chế độ quân chủ lập hiến hình thành, nghị viện Anh có đủ 2 viện gồm Viện quý tộc (tức thượng viện) và Viện thứ dân (tức hạ viện) mở rộng tương tác giữa chính phủ và nhân dân. Đó là một nền chính trị mở, bản chất của nó là chấp sự nhận sự tương tác giữa nhân dân và chính phủ thông qua nghị viện dân cử. Từ khi hình thành loại mô hình chính trị này thế giới ngày một tiến bộ.

Từ ngày lập quốc, nước Mỹ không theo mô hình quân chủ lập hiến kiểu Anh Quốc mà họ theo mô hình cộng hoà. Dù không vua, nhưng vẫn là quốc hội dân cử, và cũng có 2 viện như Anh Quốc. Tức cái hồn của một nhà nước có sự tương tác mạnh với nhân dân vẫn giữ nguyên. Chính với cái hồn ấy mà Mỹ, Anh Quốc, Tây Âu, Canada, Úc, Nhật mới là những quốc gia phát triển hơn những quốc gia độc tài. Nơi nào nhà nước và nhân dân tương tác tốt thì nơi đó có phát triển đó là một thực tế không thể chối cãi.

XHCN thực chất là một chế độ phong kiến trá hình. Bên trong quốc hội chỉ rặc một màu đảng, 96% là đảng viên ĐCS, 4% còn lại là người được ĐCS chỉ thị để dựng màn kịch dân chủ. Chính vì thế, sự tương tác giữa nhà nước và nhân dân bị vô hiệu hoá, đất nước vận hành một chiều theo kiểu áp đặt. Như ta thấy, hiện nay đằng sau những màn kịch họp quốc hội là sự phân công phát biểu, là sự ngã giá để mua những đại biểu cò mồi đứng lên ca tụng hoặc bảo vệ lãnh đạo. Màn kịch phát biểu thay cho sự tương tác thực sự giữa nhà nước và nhân dân nên mọi chính sách, những đạo luật được viết ra chỉ là sự áp đặt chứ không phải là sự hiệu chỉnh sao cho có lợi nhất với nhân dân với đất nước. Kết quả đất nước lụn bại.

Có thể nói kiểu hình chính trị XHCN của người CS hôm nay còn thua cả một số triều đại phong kiến trong quá khứ. Lấy ví dụ, trước sự đe dọa xâm lược quân Nguyên lần thứ hai, vua Trần cho họp bô lão tại điện Diên Hồng và lấy ý kiến. Kết quả là cả đều đồng lòng đánh. Nhờ đó mà quân Đại Việt đẩy lùi quân địch ra khỏi bờ cõi. Hội nghị Diên Hồng, tuy có chỉ có 1 lần họp duy nhất, nhưng nó cho thấy tính hiệu quả của sự tương tác giữa nhà nước và nhân dân, nó giống như một cuộc họp Hạ Viện. Còn Hội Nghị Bình Than thì tựa như cuộc họp thượng viện ngày nay, đấy là sự tương tác giữa nhà vua và bá quan văn võ, mục đích là tìm kiếm sự đồng lòng trong thượng tầng lãnh đạo.

Nhìn lại chính quyền hôm nay ta thấy gì? Đó là họ vẫn không chịu tương tác với dân trong vấn đề giải quyết những khó khăn đất nước. Quốc hội là một nhóm bù nhìn chỉ nhóm họp cho có vẻ mà thôi. Nó chỉ là một group họp để đưa chỉ thị đảng thành luật. Như vậy thì đất nước này làm sao phát triển được?

ANH CHÀNG HOANG TƯỞNG

ANH CHÀNG HOANG TƯỞNG

Khi máy bay cất cánh nó sẽ đi lên rất nhanh, và khi đạt độ cao nhất định nó sẽ ổn định. Đối với người hiểu biết, nhìn máy bay đang nâng độ cao họ sẽ nghĩ tới độ cao quy định nó sẽ không lên nữa. Nhưng kẻ kém hiểu biết thì lại nghĩ “với đà như đang cất cánh, máy bay có thể lên cao hàng trăm cây số hoặc hơn nữa á”.

Tương tự vậy thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có đánh giá hết sức nực cười “Theo đánh giá của Thủ tướng, khoảng cách thu nhập với các nước đã thu hẹp đáng kể. Nếu như vào đầu thập niên 1990, thu nhập đầu người của Singapore cao hơn 125 lần so với Việt Nam, thì nay chỉ còn 24 lần; Thái Lan từ gấp 16 lần nay chỉ còn 2,5 lần; Nhật Bản từ 267 lần nay còn khoảng 16 lần; Hoa Kỳ từ 252 lần xuống còn 25 lần; các nước OECD từ 184 lần xuống còn 16 lần.” (hết trích)

Những năm 1990 Việt Nam cực kì nghèo đói nên buộc mở cửa. Kinh tế XHCN đã làm đất nước kiệt quệ, dân thiếu lương thực. Khi đó thay đổi bằng bất kỳ mô hình kinh tế nào thì nó cũng tốt hơn mô hình cũ. Vì sao? Bởi vì khi nó đã là thứ tệ nhất thì chỉ cần thay đổi là có ngay cái tốt hơn nó, chỉ đơn giản là vậy. Nhưng đến năm 2000, TS Nguyễn Xuân Oánh- kiến trúc sư cho quá trình đổi mới kinh tế của Nguyễn Văn Linh đã nói với Reuters rằng “đổi mới kinh tế đến đây gặp bế tắc”. Vâng, để cất cánh lên tầm cao như Hàn Quốc hoặc Đài Loan thì phải cải tổ chính trị. Với chính trị kiểu CS thì Việt Nam ở tầm con diều không thể ở tầm của phản lực. Và quả thật kể từ năm 2008 đến nay, kinh tế Việt Nam gặp bế tắc không lối thoát.

Tựa mầm cây cổ thụ trồng trong nhà, nó bị giới hạn chiều cao. Nếu không phá trần nhà đang chắn bên trên thì cây không thể phát triển được nữa. Lúc đó, cho dù có chăm sóc cỡ nào thì cây ấy cũng là cây èo uộc không phát triển. Muốn kinh tế Việt phát triển, phải phá bỏ hệ thống chính trị lạc hậu đang kiềm hãm nó.

Bài toán kinh tế bế tắc thấy rõ, tốc độ tăng nợ công gấp 6 lần tốc độ tăng trưởng trưởng GDP. Chính sách thuế bất hợp lý nên chỉ là sự vơ vét làm cản trở doanh nghiệp tư nhân phát triển. Những chỉ số tăng trưởng không đảm bảo cho đất nước phát triển, bởi vì chi phí vô ích quá lớn. Như tham nhũng, thiếu tầm nhìn chiến lược đầu tư gây lãng phí vvv… Hiện này chính phủ đang phải bơm tiền làm trượt giá để bù đắp cho phần bội chi. Vay mượn đã hết đường, tai nguyên cũng cạn chẳng còn bao nhiêu để bán và giờ đang phải hy sinh an ninh quốc gia để mời Trung Cộng vào vv…

Khi mọi con đường đều bị bị kín, chiếc xe sẽ quay đầu và trở về điểm xuất phát. Với chính trị độc tài không chịu cải tổ để khai thông bế tắc, thì Việt Nam sẽ viễn cảnh của Venezuela chứ chẳng thể tới được đích thu nhập 18.000 USD đâu anh Phúc ạ. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc quả là anh chàng hoang tưởng.

CON ĐƯỜNG CHÍNH SỬ

CON ĐƯỜNG CHÍNH SỬ

Cho đến nay, đảng CSVN biện luận lý do họ vẫn còn cai trị và sẽ tiếp tục cai trị đất nước Việt Nam vì chỉ có đảng CSVN mới là đảng duy nhất thật sự mang lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Không đúng. Đó là lý luận của kẻ cướp.

Đừng quên rằng, 71 năm trước khi đảng CSVN thành lập năm 1930, con đường chiến đấu vì độc lập, tự do của toàn dân tộc Việt đã bắt đầu.

Đừng quên rằng, 40 năm trước khi Hồ Chí Minh đặt chân trở lại Việt Nam lần đầu năm 1941, các tư tưởng dân chủ khai phóng đã được các nhà cách mạng của phong trào Duy Tân truyền bá khắp ba miền. Phong trào Đông Du do cụ Phan Bội Châu kêu gọi đã thúc giục hàng trăm người Việt yêu nước lên đường sang Nhật theo học tại các trường đại học quân sự Nhật.

Đừng quên rằng, 21 năm trước khi đảng CSVN ra đời đã có rất nhiều đảng phái chính trị chống thực dân Pháp được thành lập. Các tổ chức cách mạng đó khác nhau về phương pháp thực hiện nhưng đều đặt cơ sở trên nền tảng dân tộc và hướng tới một chế độ Cộng Hòa.

Đừng quên rằng, 90 năm trước khi Tạp chí Cộng Sản ra đời 1955, mấy mươi tờ báo đã được phát hành khắp nước như Gia Định Báo, Tiếng Dân, Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí v.v.. Dù khác nhau lập trường chính trị, lề lối điều hành nhưng tất cả đều nhằm thúc đẩy tiến trình khai dân trí tại Việt Nam.

Đừng quên rằng, năm 1945, theo tài liệu chính thức của đảng CSVN, tổng số đảng viên CS chỉ vào khoảng năm ngàn người trong khi con số người Việt yêu nước bị tù đày trên Côn Đảo qua nhiều thời kỳ, đã lên đến hai trăm ngàn người. Điều đó cho thấy, dù số lượng đảng viên CS có tăng dần, đại đa số những thế hệ Việt Nam chống Pháp là những người không Cộng Sản.

Nhưng tại sao CS thắng?

CS thắng chỉ vì họ không từ chối bất cứ một thủ đoạn nào dù bất nhân đến bao nhiêu, không hề tính toán cân nhắc phải chết hay phải giết chết bao nhiêu người, miễn là đạt được mục đích CS hóa Việt Nam.

Song song đó, đảng CS áp dụng một chính sách tuyên truyền tẩy não, lợi dụng lòng yêu nước, bưng bít thông tin một cách tinh vi và tàn nhẫn nhất trong lịch sử loài người.

Các đảng phái quốc gia Việt Nam không làm được điều đó. Họ nhân ái quá. Họ Việt Nam tính quá. Chính vì lòng nhân ái và Việt Nam tính đó mà phần đông những nhà cách mạng độc lập và dân chủ đã chết, không chỉ chết dưới máy chém thực dân mà còn do CS thủ tiêu.

Và hôm nay, một trăm năm mươi chín năm từ buổi sáng ngày 1 tháng 9, 1858 ở Đà Nẵng những Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Thị Nga v.v.. lại tiếp tục con đường Phạm Hồng Thái, Lương Ngọc Quyến đã đi, để viết nên trang sử độc lập tự do cho mỗi người Việt Nam và cho dân tộc Việt Nam.

Không ai có quyền viết sử Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam đang chịu đựng dưới ách độc tài CS.

Con đường có thể còn xa nhưng là con đường chính sử.

Chuyến xe có thể phải chậm vì chạy bằng máu của chính mình nhưng là chuyến xe tự chủ, không nô lệ cho bất cứ một ngoại bang nào.

Mời nghe toàn bài Ai Có Quyền Viết Sử Việt Nam dài 10 phút qua giọng đọc Kim Loan Thái KimLoan do Vinna Media Production Vinna Media Productiontại Boston thực hiện với kỹ thuật của Lâm Vĩnh Tùng Tung V Lam.

Quan chức Bắc Hàn bạo lực tình dục đối với phụ nữ

Quan chức Bắc Hàn bạo lực tình dục đối với phụ nữ

Human Right Watch

Dịch giả: Mai V. Pham

31-10-2018

LTS: Sinh ra tại các nước độc tài đã là một nỗi bất hạnh. Và nỗi bất hạnh ấy nhân đôi đối với những người phụ nữ. Ở các nước độc tài toàn trị như Bắc Hàn, Trung Quốc và Việt Nam, phụ nữ vừa phải vất vả mưu sinh nuôi chồng con, vừa chịu nhiều thiệt thòi và bất công đến từ văn hóa nho giáo “trọng nam khinh nữ”. Cuộc đời của họ càng khốn khổ và đáng thương hơn khi họ là nạn nhân của các vụ xâm hại tình dục.

***

Các quan chức Bắc Hàn không bị trừng phạt vì tội bạo hành tình dục và cưỡng hiếp

31/10/2018 (HRW) – Tổ chức Theo dõi Nhân quyền cho biết trong một báo cáo rằng các quan chức Bắc Hàn phạm tội bạo lực tình dục thường không bận tâm đến hậu quả. Chính phủ Bắc Hàn không điều tra và khởi tố các khiếu nại, hoặc cung cấp sự bảo vệ và trợ giúp cần thiết cho các nạn nhân và thậm chí khẳng định một cách vô lý là Bắc Hàn không có kỳ thị giới tính hoặc bạo lực tình dục.

Bản báo cáo dài 86 trang, có tựa “Bạn khóc lúc đêm khuya, nhưng không biết vì sao: Bạo lực tình dục đối với phụ nữ ở Bắc Hàn”, ghi lại các vụ xâm hại và bạo hành tình dục, khá phổ biến ở Bắc Hàn đến nỗi được chấp nhận như là một phần của cuộc sống thường ngày. Nhiều người Bắc Hàn nói với Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, rằng khi một quan chức quyền lực “chọn” một người phụ nữ, thì cô ta không có lựa chọn nào khác ngoài tuân thủ mọi yêu cầu của ông ta, cho dù là quan hệ tình dục, tiền bạc hoặc những đòi hỏi khác.

Những phụ nữ được phỏng vấn với HRW cho biết, những kẻ xâm hại tình dục bao gồm các quan chức cấp cao, các bảo vệ nhà tù và trại tạm giam, những người thẩm vấn, công an và an ninh mật vụ, công tố viên và quân nhân. Nỗi sợ hãi vì xấu hổ với xã hội và sợ bị trả thù và một vài trường hợp sợ bị bồi thường, nên phụ nữ Bắc Hàn hiếm khi báo cáo bị xâm hại tình dục.

Kenneth Roth, giám đốc điều hành của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói: “Bạo lực tình dục ở Bắc Hàn là một bí mật mở, không được quan tâm và được chấp nhận rộng rãi. Phụ nữ Bắc Hàn có lẽ sẽ tham gia phong trào ‘Me Too’ nếu họ nghĩ sẽ tìm được công lý, nhưngđáng tiếc họ bị chế độ độc tài Kim Jong-un bịt miệng”.

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phỏng vấn 54 người Bắc Hàn đã trốn chạy khỏi đất nước sau năm 2011, khi nhà lãnh đạo Kim Jong-un lên nắm quyền và 8 cựu quan chức Bắc Hàn chốn chạy khỏi đất nước. Tám cựu tù nhân cho biết, họ đã từng bị bạo lực tình dục, quấy rối bằng lời nói và bị đối xử nhục nhã bởi các điều tra viên, lính gác, công an và an ninh mật. Hai mươi mốt phụ nữ làm nghề buôn bán cho biết, họ cũng trải qua bạo lực tình dục và những đòi hỏi tình dục của công an hoặc các quan chức khác trong lúc làm việc.

Từ cuối thập niên 1990, nhiều phụ nữ đã lập gia đình, nhưng không phải làm việc tại các nơi do chính phủ thành lập, đã trở thành những người buôn bán nhỏ và trụ cột chính cho gia đình họ. Nhưng công việc đã khiến họ phải đối mặt với nguy cơ bạo lực tình dục ở một đất nước mà sự phân biệt giới tính và phục tùng đàn ông là rất phổ biến.

Oh Jung Hee, ở độ tuổi 40 đến từ tỉnh Ryanggang, đã chạy trốn khỏi Bắc Hàn năm 2014 và là nạn nhân thường xuyên của các vụ xâm hại tình dục, nói: “Vào những ngày họ cảm thấy thích, các nhân viên bảo vệ hoặc công an có thể yêu cầu tôi theo họ đến một căn phòng trống bên ngoài chợ, hoặc một nơi khác mà họ sẽ chọnHọ xem chúng tôi là những món đồ chơi tình dục. Phụ nữ chúng tôi nằm ở trong tay của những người đàn ông”. Cô ấy nói, rất thường tình khi những người đàn ông không nghĩ họ đang làm điều sai và phụ nữ phải chấp nhận bị lạm dụng tình dục, nhưng “đôi khi, bỗng nhiên bạn khóc vào đêm khuya và không biết tại sao nữa”.

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói rằng, các yếu tố gây ra bao gồm bất bình đẳng giới và thiếu giáo dục giới tính hoặc nhận thức về bạo lực tình dục. Các yếu tố khác bao gồm lạm dụng quyền lực, tham nhũng trầm trọng bởi những thay đổi về kinh tế xã hội, luật pháp không nghiêm minh, kỳ thị đối với nạn nhân của bạo lực tình dục và thiếu sự hỗ trợ xã hội và các dịch vụ pháp lý.

Yoon Mi Hwa, ở độ tuổi 30 đến từ tỉnh North Hamgyong, cũng chạy thoát khỏi Bắc Hàn vào năm 2014, mô tả những gì đã xảy ra khi bị giam giữ tại trung tâm tạm giam Chongjin jipkyulso trong năm 2009, sau khi cô tìm cách chạy trốn sang Trung Quốc:

Mỗi đêm một số phụ nữ sẽ bị buộc phải phải ra ngoài với một lính gác và bị cưỡng hiếp. Có một tên công an rất kinh khủng và nổi tiếng vì sự tàn ác của hắn. Mỗi ngày, bất cứ khi nào các tù nhân mới đến, hắn ta sẽ tìm một lý do để đánh đập tàn tệ một trong những ngườiđang bị giam giữ, để tất cả mọi người biết rằng phải tuân phục hắn.

Click, click, click là âm thanh khủng khiếp nhất mà tôi từng nghe. Đó là âm thanh chiếc chìa khóa phòng giam của chúng tôi. Mỗi đêm một cai tù sẽ mở cửa phòng giam. Tôi đứng yên lặng, tôi giả vờ như không biết chuyện gì đang xảy ra, hy vọng rằng tôi sẽ không phải đi theo tên bảo vệ, hy vọng tiếng mở khóa phòng giam không phải là tên lính gác”.

Park Young Hee, một nông dân ở độ tuổi 40 cũng đến từ tỉnh Ryanggang, trốn chạy khỏi Triều Tiên lần thứ hai vào năm 2011, đã bị buộc phải trở về Triều Tiên từ Trung Quốc vào mùa xuân 2010, sau lần đầu tiên cô trốn chạy. Sau khi được an ninh mật vụ thả ra và bàn giao cho công an địa phương gần thành phố Musan ở tỉnh North Hamgyong, công an thẩm vấn cô ở một trại tạm giam gần đó đã xâm hại tình dục cô mấy lần. Cô nói tên công an hỏi cô nhiều lần về mối quan hệ tình dục của cô với người đàn ông Trung Quốc mà cô đã được bán cho hắn trong khi ở Trung Quốc.

Cô nói với Tổ chức Theo dõi Nhân quyền: “Cuộc sống của tôi nằm trong tay tên công an, vì vậy tôi đã làm tất cả những gì hắn muốn và trả lời mọi thứ hắn hỏi. Làm sao tôi có thể làmgì khác được? … Mọi thứ chúng tôi làm ở Bắc Hàn đều có thể bị coi là bất hợp pháp, nên mọi thứ có thể phụ thuộc vào nhận thức hay thái độ của người đang điều tra cuộc sống của bạn”.

Chính phủ Triều Tiên nên thừa nhận vấn đề bạo lực tình dục, bảo đảm rằng công an, công tố viên và tòa án xem bạo lực tình dục là tội phạm và nhanh chóng điều tra cũng như truy tố các cáo buộc khi thích hợp. Chính phủ nên thiết lập các chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản và tình dục, và cung cấp các dịch vụ cho những nạn nhân bị xâm hại và bạo lực tình dục, bao gồm tư vấn, hỗ trợ y tế và pháp lý, cũng như các chương trình trợ giúp phụ nữ vượt qua sự kỳ thị.

Một Ủy ban Liên Hiệp quốc về vấn đề nhân quyền năm 2014 tại Hàn Quốc cũng kết luận rằng, các hành vi vi phạm nhân quyền có hệ thống, phổ biến và lan tràn do chính phủ Triều Tiên gây ra là tội ác chống nhân loại. Các tội ác bao gồm cưỡng ép phá thai, hãm hiếp, và bạo lực tình dục, cũng như giết người, giam cầm, nô lệ và tra tấn tù nhân trong lúc bị giam giữ. Ủy ban LHQ cho biết, các nhân chứng tiết lộ rằng, “bạo lực đối với phụ nữ không chỉ giới hạn ở nhà và thường thấy phụ nữ bị đánh đập và bị xâm hại tình dục tại nơi công cộng”.

Phụ nữ Triều Tiên không nên chịu rủi ro vì bị hãm hiếp bởi các quan chức chính phủ hoặc viên chức nhà nước khi họ rời khỏi nhà để kiếm tiền nuôi sống gia đìnhKim Jong Un và chính phủ của mình nên thừa nhận vấn đề [xâm hại tình dục đối với phụ nữ] và khẩn cấp tiến hành các biện pháp nhằm bảo vệ phụ nữ và đảm bảo công lý cho những nạn nhân củabạo lực tình dục”.

Mời xem clip do HRW thực hiện:

httpv://www.youtube.com/watch?time_continue=2&v=kBzrIvh_kWE

North Korea: Men with Power Abuse and Rape Women

Tình trạng tiếp tay cho người Trung Quốc thâu tóm đất đai ở Việt Nam

Tình trạng tiếp tay cho người Trung Quốc thâu tóm đất đai ở Việt Nam

Vụ việc mới nhất được cư dân mạng chia xẻ là một chủ đất ở Sài Gòn sau khi phát hiện doanh nghiệp Trung Quốc đứng đằng sau giao dịch liên quan đã xin hoàn trả toàn bộ số tiền cũng như hủy hợp đồng buôn bán tại tòa; thế nhưng bị tòa án xử thua kiện.

Lâu nay dư luận xôn xao về tình trạng Trung Quốc sử dụng người dân hoặc các doanh nghiệp Việt Nam đứng tên sở hữu nhằm né tránh luật pháp Việt Nam để thực hiện các thủ tục theo quy định về quyền sở hữu nhà đất.

Tại phiên trả lời chất vấn hồi 05 tháng 06 năm 2018, ông Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên-Môi trường cho rằng chưa phát hiện trường hợp người nước ngoài mua đất ở Việt Nam

Theo luật sư Nguyễn Văn Hậu từ Sài Gòn thì trong luật quy định về nhà ở của Việt Nam năm 2014 có cho phép người nước ngoài được quyền mua nhà tại nước sở tại nhưng chỉ được một căn thôi và với điều kiện là họ phải chứng minh được đầy đủ có loại thủ tục theo yêu cầu.

Tuy nhiên, luật sư Hậu cho biết: “Họ chỉ được mua nhà thôi chứ không được quyền mua đất nhưng họ lách luật bằng cách họ kêu người khác đứng tên dùm chứ mỗi người chỉ được sở hữu một căn thôi.”

Chị Cẩm Vân một người dân sống tại Đà Nẵng người chuyên về buôn bán bất động sản tại đây cho chúng tôi biết, việc người Trung Quốc mua nhà, đất tại Đà Nẵng diễn ra từ lâu nay rồi. Còn việc người Trung Quốc hiện nay công khai sở hữu đất tại Đà Nẵng bằng việc lợi dụng kẻ hở pháp luật Việt Nam thì chị xin phép không trả lời.

Nhà báo Võ Văn Tạo ở Nha Trang cũng thừa nhận việc người Trung Quốc lách luật để sở hữu bất động sản tại Việt Nam nó diễn ra khá lâu rồi nhưng:

“Khoảng tầm 3-4 năm trở lại đây thì tại Nha Trang sự việc này diễn ra rất phổ biến, họ liên doanh góp vốn với người Việt Nam để mở cái này cái kia để kinh doanh và đứng tên chủ sở hữu là người Viejt Nam nữa. Thậm chí tôi có một người cháu làm kiến trúc sư nó đi làm bất động sản nó thấy người Trung Quốc tên hẳn hoi và đưa cả căn cước ra chính xác là người nước ngoài nhưng vẫn được đăng ký nên tôi rất ngạc nhiên. Sau đó báo chí và ban lãnh đạo địa phương cũng có chất vấn về vấn đề này và nói sẽ kiểm tra lại.”
Kẽ hở luật pháp

Ông Trần Văn Sơn, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng trong một lần trả lời với báo chí cho rằng, bằng việc góp vốn, mua cổ phần rất nhỏ tại các doanh nghiệp hoặc dự án, nhiều người Trung Quốc đã có thể trở thành nhà đầu tư và sử dụng đất tại Việt Nam.

Ông Trần Văn Sơn giải thích khi một người Việt Nam mua đất thì Sở Tài nguyên Môi trường sẽ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ. Sau đó họ sẽ thành lập doanh nghiệp rồi liên doanh với một doanh nghiệp Trung Quốc để cổ phần hóa doanh nghiệp với tỉ lệ 49% – 51%. Phía Việt Nam sẽ góp vốn bằng đất còn toàn bộ những chi phí còn lại do các doanh nghiệp Trung Quốc.

Theo luật Việt Nam, tỉ lệ 49% – 51% là doanh nghiệp đầu tư trong nước, do đó sở Tài nguyên và Môi trường phải cấp quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp. Sau khi hoàn tất, các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ mua lại toàn bộ cổ phần của phía Việt Nam.

Đồng ý với điều này luật sư Nguyễn Văn Hậu cho biết thêm:

“Luật quy định người nước ngoài góp vốn chỉ được 49% mà thôi bởi vì hơn họ sẽ toàn quyền quyết định mọi thứ nên luật quy định như vậy, mà VN mình thì chưa có kinh nghiệm nhiều về thương trường này nên mình đành phải chấp nhận tạm thời như thế. Có nhiều nhà đầu tư nước ngoài có quá nhiều tiền họ làm cái này cái kia rồi quyết đầu tư lỗ luôn sau đó họ sẽ mua lại cái đầu tư lỗ đó và họ trở thành sở hữu 100%.”
Chưa tìm ra giải pháp

Theo nhà báo Võ Văn Tạo, biện pháp xử lý khắc phục tình trạng này thật sự khó bởi vì họ làm đúng luật, Ông cho biết:

“Tôi nghĩa rất khó xử lý các trường hợp như thế này vì theo luật người nước ngoài không được quyền mua đất nhưng người Việt Nam mình thì thấy ham lợi đứng tên mua dùm cho người ta thì luật cũng khó mà xử lý được. Cho nên tôi thấy nên kết hợp tuyên truyền cho người dân đừng thấy lợi trước mắt mà gây nguy hại cho quốc gia. Chứ bây giờ càng ban bố luật thì người ta lại càng lách luật tiếp thì thật sự là khó đấy.”

Một vị luật sư xin giấu tên từ Đà Nẵng trao đổi với chúng tôi qua tin nhắn rằng xử lý vi phạm kiểu này khó, nhưng không phải là không có cơ sở nếu quản lý chặt từ đầu. Vị luật sư cho rằng cần phải làm nghiêm từ đầu, xác minh và điều tra rõ nguồn gốc số tiền mua đất của chủ sở hữu, như vậy chắc chắn không ai dám nhận tiền mua đất cho người nước ngoài.

Luật sư Nguyễn Văn Hậu cho rằng sắp tới Việt Nam sẽ có điều chỉnh lại luật về nhà ở đất đai. Ông trình bày:

“Trong kinh doanh buôn bán thì họ sẽ dùng mọi cách miễn sao luật cho phép họ thì họ mua cho nên họ mới lách luật. Bây giờ nên đánh thuế mạnh vào người mua bất động sản, càng nhiều bất động sản anh phải đóng thuế càng cao nên tôi nghĩ sắp tới sửa luật theo hướng như vậy. Anh muốn bao nhiêu căn cũng được nhưng phải đóng thuế theo giá trị gia tăng của anh. Vì vậy quá trình về luật nhà ở nó có khe hở như vậy. điều này nó gây mất bình đẳng mà nhà nước thì lại không thu thuế được.”

‘Mất bò mới lo làm chuồng’ là câu nói dân gian có thể áp dụng vào trường hợp doanh nghiệp hay cá nhân người Trung Quốc núp bóng người Việt để thâu tóm nhà- đất tại Việt Nam. Tuy nhiên những qui định như Luật sư Nguyễn Văn Hậu nêu ra chưa biết đến khi nào mới hình thành và mang lại hiệu quả!

About this website

RFA.ORG
Tình trạng người Trung Quốc sang Việt Nam mua nhà đất diễn ra lâu nay. Điều đáng ngại là hoạt động đó lại xảy ra ngày một nhiều diễn tại một số khu vực trọng điểm về an ninh quốc phòng tại những thành phố Đà Nẵng, Nha Trang, Ph….

Thép Việt lại ‘liểng xiểng’ với hai ngày liên tiếp bị áp thuế

Ngày 1/11 bị Canada , ngày 2/11 bị Thổ nhi Kỳ đá thêm cú nữa .!
——-
Ngày 2-11, Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công thương) cho biết Bộ Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ chính thức công bố kết luận cuối cùng vụ việc điều tra, áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với dây hàn làm bằng kim loại cơ bản nhập khẩu từ Việt Nam.

Theo đó, Thổ Nhĩ Kỳ áp thuế chống bán phá giá ở mức 21,15% đối với một doanh nghiệp bị đơn bắt buộc và 29,65% đối với tất cả các công ty xuất khẩu khác (tính % trên giá CIF nhập khẩu) của Việt Nam, cùng cáo buộc “sản phẩm dây hàn làm bằng kim loại của Việt Nam gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa nước này”.

Phát hiện thẩm phán TAND thành phố Thái Nguyên dùng bằng giả

VỤ LÁI XE INOVA ĐI LUI TRÊN CAO TỐC TÔNG VÀO XE CÔNG TAI NƠ ANH HOÀNG, THẨM PHÁP XỬ ANH HOÀNG 6 NĂM TÙ GIAM VÔ LÝ GÂY BỨC XÚC DƯ LUẬN LẠI LÒI RA VỤ BÀ THẨM PHÁN DÙNG BẰNG GIẢ.

“Ông Lê Tiến Châu, Thứ trưởng Bộ Tư pháp kiêm Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội vừa ký quyết định thu hồi bằng tốt nghiệp đại học hệ chính quy của bà Nguyễn Thị Nga – Thẩm phán TAND thành phố Thái Nguyên vì dùng bằng cấp 3 giả.”
(Trích)

Tài xế gây tai nạn chở người bị thương vào đường vắng rồi bỏ đi

Chuyện Doanh nghiệp cho thuê xe mà không có hợp đồng cùng như giấy tờ về người thuê xe… rõ ràng là chuyện vô lý, không thể có. Có biểu hiện thông đồng, bao che cho nhau…. Yêu cầu truy tố chủ doanh nghiệp vì chính họ là thủ phạm chứ chẳng có ai… CA chế độ sao ngu dữ vậy, dám truy tố bà lão tự dâm vào xe lắm?!!!
***********

Tài xế gây tai nạn chở người bị thương vào đường vắng rồi bỏ đi!!!

Sau khi gây tai n ạn khiến bà bán rau bị thương nặng, tài xế xe thuê tự lái vờ chở n ạn nhân đi cấp cứu nhưng đến đoạn đường vắng đã bỏ n ạn nhân xuống xe rồi bỏ đi.

Ngày 3-11, thượng tá Phạm Thế Kim, phó trưởng Công an thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, cho biết đang tập trung lực lượng điều tra việc người dân trình báo bị một tài xế gây tai n.ạ n trên đường đưa đi cấp cứu thì bỏ xuống đường.

Hiện Đội CSGT Công an thành phố Mỹ Tho đã tạm giữ chiếc ôtô 7 chỗ hiệu Innova để làm rõ ai là tài xế đã gây tai n ạn cho cụ bà bán rau ở chợ.

Theo thông tin ban đầu, khoảng 1h ngày 27-10, bà Nguyễn Thị Cúc Anh (62 tuổi, ngụ xã Tân Mỹ Chánh, TP Mỹ Tho) đạp xe đạp lên chợ Cũ phụ bán hàng thì bất ngờ bị một chiếc ôtô 7 chỗ (hiện chưa rõ danh tính tài xế) tông bị thương khá nặng.

Tài xế có biểu hiện say rươ.u định bỏ chạy thì bị người dân vây lại.

Sau đó, tài xế này nói đưa bà Anh lên xe chở vào bệnh viện để cấp cứu.

Tuy nhiên, sau đó tài xế này chở bà Anh đến đoạn đường vắng nằm trên đường Trần Thị Thơm thì bỏ bà Anh xuống đường rồi bỏ đi.

Rất may, bà Cúc Anh được người dân phát hiện đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang và hiện đang nằm điều trị ở Bệnh viện Chợ Rẫy (TPHCM).