TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN Ở NƯỚC NAM

TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN Ở NƯỚC NAM

Phạm Quỳnh

 Bàn thờ tổ tiên ngày Tết. Ảnh: Nam Phong.

Nhân loại gồm nhiều người chết hơn là người sống, Auguste Comte đã nói ở đâu đó như thế. Ở nước Nam câu nói ấy của nhà triết học thực chứng Pháp càng đúng hơn ở bất cứ nơi nào khác. Quả vậy, việc thờ cúng tổ tiên có một vị trí quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội của chúng ta. Nó đã trở thành một thứ giáo lý tôn giáo, và, theo một nghĩa nào đó, một tôn giáo quốc gia thực thụ. Nếu tôn giáo, đúng như ý nghĩa từ nguyên của nó đã chỉ rõ *, là mối liên kết tinh thần nối liền con người với những lực lượng siêu cảm, việc thờ cúng hay tôn giáo về những người đã chết là cách biểu hiện những mối quan hệ giữa thế giới những người đang sống với thế giới những người đã chết. Các mối quan hệ ấy rất nhiều và liên tục. Những người chết thường xuyên can dự vào cuộc sống của những người đang sống; họ hướng dẫn, chỉ đạo, che chở cho chúng ta, bảo hộ chúng ta, gợi hứng cho những ý tưởng và hành vi của chúng ta, có thể nói nhìn theo chúng ta, bằng những đôi mắt có thể xuyên suốt bóng tối của sự sống và sự chết và rất có thể chính bằng những đôi mắt ấy mà nhân loại có được một hình dung thoáng chốc nào đấy về tương lai và số phận của mình; tóm lại họ sống trong ký ức của chúng ta, trong mọi công việc của chúng ta, trong mong ước của chúng ta về một cuộc sống còn sống động hơn cả cuộc sống trên trần thế này.

Bản chất của những mối quan hệ làm nên một trong những hình thức sống động nhất trong tôn giáo của người nước Nam đó là gì? Tôn giáo về những người chết ấy dựa trên những nền tảng tín ngưỡng nào? Các biểu hiện nghi thức và thực hành của nó ra sao? Từ đó có thể nhận ra những bài học luân lý và triết học gì?

Khổng Tử, vốn là cả Socrate, Solon hay Lycurge cộng lại của Phương Đông, thường nói về các thần linh và các linh hồn. Quả là trong Luận Ngữ khi nói với các học trò của mình, đôi khi ông đã từ chối giải thích về bản chất của những điều ấy; ta đã biết câu trả lời của ông cho một học trò hỏi ông về vấn đề này: “Phục vụ người sống ngươi còn chưa biết cách, thì ta dạy ngươi cách phục vụ người chết làm gì?” – Nhưng chúng ta cũng lại biết rằng về chuyện này, ông luôn trung thành với các tín ngưỡng của Trung Hoa cổ đại, mà đặc biệt tác phẩm Kinh Lễ còn giữ lại cho chúng ta nhiều dấu vết. Theo các tín ngưỡng đó, con người có một cái phách và một cái hồn. Khi chết, phách tan hủy cùng với thể xác, còn hồn thì tách ra; nó bay lượn trong khoảng không và sống một cuộc sống độc lập, thuần khiết, bay bổng. Đấy là cuộc sống của các linh hồn, của các vong hồn hay các bậc tổ tiên đã quá cố. Như vậy họ không chết đi hoàn toàn: họ tiếp tục sống một đời sống siêu nhiên, tinh thần. Nhưng cuộc sống chừng có thể nhạt nhòa đi, tan biến mất trong cõi vô cùng đó, được làm cho trở nên hiện thực hơn, đầy hiệu lực hơn, có thể nói như vậy, bằng ký ức mà những người còn sống lưu giữ về họ, bằng việc thờ cúng mà những người sống có bổn phận phải làm tròn đối với họ. Như vậy đấy những người đã chết vẫn còn tham dự mãi vào cuộc sống của gia đình mình, con cháu mình. Người ta lại nhắc đến họ trong mọi dịp long trọng, như khi có người mới ra đời, trong dịp cưới xin, v.v…

Kinh Lễ viết: “Ba tháng sau lễ cưới, người vợ trẻ được giới thiệu với tổ tiên trước bàn thờ với lời khấn sau đây: – Đây là cô dâu mới đã bước vào gia đình chúng ta. – Rồi đến ngày đã chọn trước, cô dâng lễ vật lên trước bài vị tổ tiên, và từ nay cô trở thành thành viên trong gia đình chồng”. Lời bình còn nói thêm rằng nếu cô bị chết trước lễ ra mắt và lễ dâng lễ vật ấy, thì dù đã sống chung với chồng, cô vẫn chưa phải là vợ anh ta và thi hài cô được trả về nhà cha mẹ.

Kinh Lễ còn viết thêm: “Trong trường hợp một đứa con dược sinh ra khi người cha đã chết, quan tài người cha còn quàn ở nhà, người làm lễ cúng sau khi đã gọi tên ông ta ba lần sẽ báo với ông ta: – Một thị đã sinh ra một cậu con trai: tôi xin báo cho người được biết… Nếu người chết đã được an táng, thì đứa trẻ sơ sinh sẽ được đưa trình báo trước bài vị của ông ta…”.

Việc thờ cúng các linh hồn và tổ tiên đã quá cố đã tồn tại từ thời rất xa xưa, Khổng Tử trong Luận Ngữ kể rằng vua Vũ, một trong những vị vua đầu tiên nửa truyền thuyết nửa lịch sử của Trung Quốc vốn rất giản dị, đã tỏ ra cực kỳ phóng khoáng khi dâng lễ vật cúng các vong hồn. – Khổng Tử viết trong Trung Dung: “Vào mùa xuân và mùa thu, người xưa trang trí bàn thờ tổ tiên. Họ bày các đồ đồng mà tổ tiên đã sử dụng và các quần áo tổ tiên đã mặc. Họ dâng cúng các thức ăn và hoa trái theo mùa.”

Trên đây tôi đã nói rằng Khổng Tử tôn trọng tôn giáo cổ xưa đó, các tín ngưỡng xưa đó của nước Trung Hoa cổ đại, lại còn vì chúng hoàn toàn phù hợp với học thuyết của ông về sự bảo tồn xã hội cơ sở trên việc thờ phụng quá khứ và truyền thống.

Nhưng tự ông có tin ở sự tồn tại của linh hồn không? Ông có tin ở sự hiện diện thật sự của linh hồn trong các lễ cúng và trong việc khấn vái không?

Qua những lời nói của ông, bao giờ cũng rất thận trọng khi đề cập đến những chuyện siêu hình, ta có thể nghi ngờ.

Chúng ta đã thấy câu trả lời của ông với một người học trò hỏi ông về cái chết. Sau đây là lời ông nói với một người học trò khác hỏi ông về chữ “trí”: “Làm tròn các bổn phận của một con người; tôn kính các thần; ấy là trí”.

Tôn kính các thần, nhưng kính nhi viễn chi, thái độ của bậc hiền triết đối với thần thánh là như vậy.

Có thể các vong hồn và thần thánh là có thật; cũng có thể không có thật. Duy có một điều chắc chắn là ta tôn kính họ; hãy làm điều đó với tất cả sự thành tâm, không mê tín cũng chẳng nên cuồng tín, như là ta thực hiện một nghi thức đạo đức và xã hội rất quan trọng.

Nghi thức ấy, quả vậy, bắt nguồn từ đức hiếu đễ, trong hệ thống chính trị – đạo đức của Khổng Tử, vốn là nền tảng của mọi đức hạnh, cơ sở của tế bào gia đình, và do đó cũng là của xã hội và của đế chế..

Trong những điều kiện đó, cần phải tôn kính những người đã chết như thế nào, và trong tất cả những người đã chết những người gắn liền với ta nhất, tổ tiên của chúng ta?

Theo Kinh Lễ lời nói sau đây là của Khổng Tử: “Coi người chết như là đã chết rồi thì sẽ là vô nhân. Chẳng nên làm thế. Nhưng coi họ như những người đang sống thì sẽ là vô lý. Chẳng nên làm thế”.

Như vậy không nên coi người chết như đã chết rồi, có nghĩa là không chăm nom gì đến họ nữa, quên bẵng luôn đi; cũng chẳng nên coi họ như còn sống, nghĩa là tin là họ còn sống thật. Đúng ra, họ sống bằng ký ức của chúng ta, bằng sự sống động, tính nồng nhiệt của cái tình cảm mà chúng ta gọi là đức hiếu đễ, biết tôn kính những người đã cho ta sự sống và ý thức, khiến cho họ còn tồn tại mãi mãi, nuôi giữ ký ức về họ, truyền nối việc thờ cúng mãi mãi cho con cháu chúng ta, bằng cách đó tạo cho ta cái ảo tưởng, – một thức ảo tưởng tốt lành, – về sự nối tiếp, về tính vĩnh hằng, tóm lại về sự bất tử, trong cuộc tồn sinh thoáng chốc, trong cõi thế gian biến ảo này.

Phải hiểu tình cảm sâu sắc của bậc hiền triết như vậy đấy. Tôn trọng truyền thống và các nghi lễ, ông không muốn bày tỏ rõ ràng ý kiến về vấn đề này. Tư tưởng của ông hẳn là như vậy. Đối với ông, việc thờ cúng người chết là tôn kính ký ức về họ, cơ sở trên đức hiếu đễ và tình cảm về sự vĩnh hằng của gia đình và nòi giống. Chính trong tinh thần đó mà ngày nay nó còn được thực hiện trong phần lớn thế giới Phương Đông ở đấy nó là tôn giáo chính và là tín điều thần khải hay siêu nhiên quan trọng nhất.

 

 

                                                                                                                              Bàn thờ tổ tiên ngày Tết. Ảnh: Lâm Khang.

Việc thờ phụng này có nhiều nghi thức mà mô tả lại ở đây sẽ chẳng có ích gì. Vả chăng ta đều biết mỗi gia đình người nước Nam, dù giàu hay nghèo, đều có bàn thờ ông bà của mình, có thể là một ngôi đền tráng lệ hay một cái kệ đơn giản treo bên trên một chiếc chõng. Trên đó đặt bài vị của tất cả những người thân đã mất cho đến đời thứ năm. Những người này là đối tượng của các lễ cúng đặc biệt vào các ngày giỗ và tất cả các ngày lễ theo nghi thức trong năm. Những người khác, các vị tổ tiên xa hơn, được ghi tên trên một bài vị chung và được cúng chung vào những ngày lễ theo nghi thức vốn rất nhiều trong năm. Có hai ngày được đặc biệt dành cho những người đã mất: ngày 3 tháng 3 (thanh minh), ngày viếng mộ; ngày lễ của những người chết này chẳng có gì là tang tóc và diễn ra vào một trong những lúc thời tiết đẹp nhất trong năm khi:

Cỏ non xanh tận chân trời…

Ngày lễ của những người chết này, gọi là “tẩy mộ”, thường có kèm theo một lễ hội của những người sống, bởi ý tưởng về cái chết – và đây là điều đáng chú ý, – ở xứ sở này chẳng có gì là tang tóc:

Gần xa nô nức yến oanh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Ngổn ngang gò đống kéo lên…

Ngày thứ hai dành cho những người chết, là ngày rằm tháng 7. Đúng ra đây là một ngày lễ Phật giáo cúng các vong hồn, tất cả những người chết mà không có người nối dõi để thờ phụng. Bởi tai họa lớn nhất đối với một con người là biết rằng đến một ngày nào đó không còn ai thờ cúng mình, vì không có hậu duệ, và do vậy trở thành một linh hồn lang thang mà đức từ bi của nhà Phật dành cho một lễ cúng chung và vô danh tính.

Do vậy những người chết mà không có hậu duệ trực tiếp thuộc giới nam để tiếp tục thờ cúng, theo luật nước Nam được phép chọn một người bà con gần gọi là “người thừa tự”. Qua đấy ta thấy ý tưởng về việc thờ phụng trong tâm hồn người nước Nam sâu sắc đến dường nào.

Việc thờ cúng người chết chủ yếu là thờ cúng tổ tiên.

Khổng Tử nói rằng: “Dâng lễ vật cho những vong hồn không phải là người thân của mình là một việc xu nịnh”.

“Mỗi người, mỗi gia đình phải dâng lễ vật cho những người thân của mình, chứ không phải cho những người khác. Nếu có ai đó dâng lễ cúng cho những vong hồn chẳng hề liên quan gì đến mình, thì rõ ràng là để nhận được một ân huệ mà họ chẳng có quyền được hưởng: một sự chiếm đoạt lấy ân huệ đáng chê trách”. (Wieger).

Như vậy, về nguyên tắc, mỗi người chỉ thờ cúng tổ tiên đã mất của mình. Nhưng có những con người trong đời mình đã làm nhiều điều tốt cho đồng bào mình, có công ơn đối với làng xóm của mình, tỉnh mình, đối với cả nước; có những vị vua, những vị quan đã xây dựng nên vinh quang của quốc gia; những vị tướng lĩnh đã cứu nước khỏi ách ngoại xâm; những nhà trí thức lớn đã đem lại vinh dự cho quốc gia do trí thông minh và tài năng của mình; những người đàn ông hay phụ nữ đã hy sinh vì danh dự hay đức hạnh; những người đó được quyền để cho đồng bào mình nhớ ơn và thờ phụng. Vậy nên các làng thờ phụng họ như những vị thành hoàng của làng; các tỉnh quê hương họ, hay cả nước lập đền thờ ở những nơi nổi tiếng để ghi nhớ công ơn họ. Đấy cũng là một hình thức thờ cúng tổ tiên; không phải là những bậc tổ tiên riêng của ai nữa, mà là tổ tiên chung của làng, của tỉnh thành, của quốc gia; đấy là thờ phụng các vị thần bảo hộ của đất nước, và theo một nghĩa nào đó, đó là việc thờ phụng những con người vĩ đại, những người anh hùng, mà Carlyle hết sức ca ngợi.

Việc thờ cúng người chết được hiểu và được thực hiện ở nước Nam là như vậy đấy. Do tầm quan trọng to lớn của nó về phương diện thiết chế gia đình và xã hội nước Nam, cùng những nghi thức tỉ mỉ kèm theo, nó đã thật sự trở thành một tôn giáo, tôn giáo của gia đình và nòi giống, tôn giáo của ký ức và lòng biết ơn. Quả thật đây là một tôn giáo hợp lý, logic, phù hợp với lý trí và tình cảm, ít mang tính chất thần bí nhất để thỏa mãn những tâm hồn sùng tín, và nhiều lý tính nhất để làm vừa lòng những đầu óc duy lý. Đấy là một thứ tôn giáo đầy tính triết học và người nước Nam lấy làm vinh dự đã thực hiện nó suốt bao thế kỷ dài.

(1930)

Xã hội làm ‘nô lệ’ cho thánh thần và dấu hiệu ‘mạt vận’ của văn hoá

Xã hội làm ‘nô lệ’ cho thánh thần và dấu hiệu ‘mạt vận’ của văn hoá

Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần là con đường tắt dẫn văn hóa đến ngày “mạt”.

Người đi lễ chùa Bái Đính (Ninh Bình) ném tiền lẻ xuống trống đồng đề cầu may mắn khiến trống đồng như một nơi chứa rác

Hãy thử mường tượng đến tâm trạng của Thánh Gióng, công chúa Thiều Hoa hay Đức Thánh Trần hiển linh, nhìn thấy đám hậu sinh chen nhau giẫm đạp, cướp giật, hối lộ công khai ở các lễ hội tôn vinh mình…

Sẵn sàng thực hiện hành vi “vào luồn, ra cúi” như lách qua khe cửa hẹp và bò dưới gầm ban thờ tại đền Bảo Lộc (Nam Định) để được thăng quan phát tài 

Andy

Một xã hội khói hương

Nói ra thì bảo báng bổ, nhưng cứ thử nhìn mà xem, tháng Giêng năm nào, người ta cũng thấy rõ ràng nhất, đầy đủ nhất cái sự mê tín đến khủng khiếp của người Việt.

Một xã hội “khói hương”, với hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người chen chân mang vác thủ lợn, gà luộc, vàng mã, đủ thứ lễ lạt cồng kềnh và cầu kỳ khắp các chùa chiền, miếu, phủ; từ nơi xa xôi hẻo lánh đến thị thành nhộn nhịp; từ đầu tuần tới cuối tuần, dai dẳng hết cả tháng Giêng, tháng Hai, có nơi còn vắt sang tháng Ba. 

Đâu đâu cũng thấy những người là người, nghi ngút khói hương, sì sụp khấn vái, cầu ước.

Xa xôi gì đâu, mới cách đây mấy ngày, dư luận khiếp đảm chứng kiến một cuộc hỗn chiến dã man bằng nắm đấm, gây gộc, hung hăng và máu để cướp cho bằng được quả “phết”, tại Phú Thọ. Vì tương truyền, có quả ấy trong nhà, cả năm sẽ may mắn, ăn nên làm ra, rồi cả …đẻ con trai. 

Tối hôm sau, hàng chục nghìn người xếp hàng dài cả cây số, tràn khắp các con đường, ngay trục giao thông trung tâm của Thủ đô, vái vọng xa tít tắp vào ngôi chùa Phúc Khánh vì đặt niềm tin vào sự linh thiêng của nơi này.

Biển người chen chân đi lễ đầu năm ở chùa Phúc Khánh.

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính.

Cũng đêm đó, ở đền Trần Nam Định, hơn vạn người chen lấn, giẫm đạp, nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà. Lộc ấy, dù được cướp theo cách báng bổ nhất, cũng được nâng niu như thứ bùa hộ mệnh cho lòng tin mãnh liệt vào đường công danh, thăng quan tiến chức.

Rồi các phủ, các đền, chùa, miếu mạo…cứ sau Tết là tấp nập người ra kẻ vào, khổ sở chen lấn, sớ cầu xin nào cũng dài dằng dặc ti tỉ ước mong.

Thôi thì, cầu mong những điều may mắn, tốt đẹp, an vui trong ngày đầu xuân năm mới vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt bao đời. Những địa danh tâm linh ấy, cũng được dựng lên từ ý nghĩa văn hóa và lịch sử đầy nhân văn của cha ông. 

Nhưng thử hỏi, bao nhiêu người trong số các khách thập phương xa gần kia, mang cái tâm hướng thiện và cầu bình an thực sự đến với những nơi linh thiêng. Hay nhiều hơn thế, những kẻ đang hùng hổ cướp lộc và len lén mua khói bán nhang, mua thần bán thánh đến cầu khấn những điều biểu lộ sự tham lam vô độ của lòng người.

Nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà tại đền Trần (Ảnh: Zing)

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính. 

Từ bao giờ, niềm tin của con người được “gá” vào thánh thần chứ không phải giữa con người với con người, giữa con người với ngay chính xã hội mà chúng ta đang sống, đang tồn tại hiển nhiên như vậy?

Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần.

Văn hóa, chắc rồi cũng đến hồi “mạt vận”, khó mà ngóc đầu lên được, khi thay vì ngẩng cao đầu mà dũng khí, thì cả biển người lại sống bằng quỳ lạy dập đầu và đi “xin” giàu có, vinh hiển, con cái, công danh sự nghiệp… từ các vị thánh thần. Quỳ lạy xong nhảy bổ lên đầu người khác, lên cả bàn thờ để cướp hương hoa vàng lộc, “mạt” ở đấy chứ đâu.

Không “mạt vận” sao được, khi sự mê tín cực đoan đã đẩy con người vào sự ngu muội và làm trỗi dậy tính dã man nhất, ác độc nhất, hình thành cả một thế hệ hung bạo.

Vung gậy đánh gục cái người đang là anh, em, chú, bác gần gũi đó để mang bằng được cái may, cái lộc về nhà là cầu an hay là biểu hiện của sự phi nhân tính đến lạnh sống lưng?

Sự hung hăng dã man tại lễ hội cướp phết Hiền Quan (Ảnh: Việt Linh)

Rồi từ sự hung hăng bạo ngược được “tôi rèn” ở nơi làng xã ấy, sẽ chẳng còn lạ khi người ta ra ngoài kia, lạnh lùng chém chết cả một gia đình vì mấy đồng bạc lẻ, xuống tay đâm chết một mạng người ngay trên bàn nhậu dễ dàng đến kinh sợ.

Xã hội khói hương dẫn văn hóa đi tắt đến ngày “mạt”, ngắn ngủi lắm. 

An Yên

Việt Nam thoát nghèo hay không phụ thuộc vào giáo dục tốt và dân chủ

Việt Nam thoát nghèo hay không phụ thuộc vào giáo dục tốt và dân chủ

Kính Hòa RFA
2019-02-07
Cửa hàng bán điện thoại thông minh Samsung và những người bán hàng rong trên vỉa hè. Hà Nội 2003.

Cửa hàng bán điện thoại thông minh Samsung và những người bán hàng rong trên vỉa hè. Hà Nội 2003.

 AFP

Theo một số thông tin được công bố thì mức thu nhập trung bình đầu người của Việt Nam vào năm 2008 đạt xấp xỉ 1000 đô la Mỹ.

Mức thu nhập này được xem như là mức thu nhập trung bình, và bắt đầu từ lúc đó nhiều nhà quan sát kinh tế chính trị đã cảnh báo rằng Việt Nam sẽ bị rơi vào một cái bẫy gọi là bẫy thu nhập trung bình, trong đó nền kinh tế chủ yếu dựa vào việc khai thác sức lao động rẻ và giản đơn.

Đầu năm 2019, một viên chức cao cấp của Việt Nam là ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch- Đầu tư lặp lại lời cảnh báo đó với tình trạng Việt Nam hiện nay nằm trong bốn cái bẫy: chi phí lao động thấp, sản xuất có giá trị thấp, có công nghệ thấp, và thu nhập trung bình.

Thực ra trong bốn điều vừa nêu thì điều thứ tư bao gồm ba điều còn lại gắn chặt với nhau, vì với lao động rẻ, giản đơn, chỉ có thể thao tác máy móc công nghệ thấp, hoặc không có máy móc, và vì thế tạo ra những sản phẩm không có giá trị cao.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội, nhận xét về tình trạng thu nhập trung bình của Việt Nam hiện nay:

Chúng ta đã đạt được cái mức trung bình trong một thời gian khá dài rồi. (Năm nay) là xấp xỉ 2500, nhưng để đạt được mức 12000 đô la một đầu người, lại là một quá trình rất dài và khó khăn.”

Mức 12000 đô la một người một năm được xem như thu nhập của một quốc gia đã trở nên giàu có.

Theo một chuyên gia kinh tế khác là Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ, từ Na Uy, để cho một quốc gia thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình, không còn nghèo nữa thì cần ba điều sau đây:

Thứ nhất là trình độ khoa học kỹ thuật của dân chúng phải cao, các công ty phải có sự sáng tạo, và thứ ba là thể chế của nhà nước phải tạo điều kiện cho sự sáng tạo đó.”

Ông dẫn ra ví dụ là Malaysia, một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, láng giềng với Việt Nam đang được dự báo là sẽ thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình để trở thành một nước giàu có sắp tới đây.

Khi được hỏi là nếu so sánh với Malaysia thì Việt Nam có một dân số quá đông đúc cần phải giải quyết việc làm ngay lập tức cho số lao động giản đơn, thì liệu chuyện thoát bẫy trung bình đó có khó khăn hơn hay không?

Ông Nguyễn Huy Vũ cho rằng trong bất cứ quốc gia nào cũng có hai lĩnh vực công nghiệp song song, một lĩnh vực chiếm dụng công lao động nhiều, một lĩnh vực khác cần kỹ thuật và kiến thức nhiều hơn. Theo ông Vũ, sự đầu tư vào lĩnh vực thứ hai sẽ làm cho nền kinh tế từ từ dịch chuyển ra khỏi khu vực chỉ sử dụng sức lao động giản đơn.

Các nước bị mắc bẫy thu nhập trung bình thì có nhiều lý do, trong đó có thể chế với các nhóm tư lợi, tham nhũng.
-Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng đề cập đến việc phải thay đổi thể chế để thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình. Ông nhấn mạnh rằng trong tình hình Việt Nam hiện nay sự hình thành các nhóm lợi ích có quyền lực chính trị kinh tế lớn sẽ ngăn cản sự thay đổi thể chế đó:

Các nước bị mắc bẫy thu nhập trung bình thì có nhiều lý do, trong đó có thể chế với các nhóm tư lợi, tham nhũng. Ví dụ như những nhóm này khống chế việc khai thác tài nguyên, xuất nhập khẩu, họ không cần quan tâm gì cả đến việc đầu tư phát triển công nghệ để đưa đất nước đi lên.”

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói thêm là sự thay đổi chính sách, thể chế có thể khuyến khích sự đầu tư tư nhân, tạo nên một chuỗi sản xuất thoát khỏi tình trạng một sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam nhưng có rất ít giá trị là được tạo tại Việt Nam. Ông lấy ví dụ như ngành công nghiệp dệt may tại Việt Nam hiện nay, giá trị của một chiếc áo có khi chỉ có 50% là được tạo ra tại Việt Nam.

Một số ngành thoạt nhìn thì có thể nghĩ là có nhiều giá trị được tạo ra thay vì chỉ là lao động giản đơn, như sản xuất điện thoại thông minh tại Việt Nam, nhưng theo ông Nguyễn Huy Vũ, thực tế có thể không phải như vậy.

Cuối cùng phải cải cách về dân chủ, vì khi người dân có được sự suy nghĩ dân chủ, khác biệt, thì họ mới sức sáng tạo, mới đổi mới được.
-Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ.

Hiện nay Việt Nam trở thành quốc gia sản xuất điện thoại thông minh Samsung lớn nhất thế giới, và xuất khẩu điện thoại của hãng này chiếm đến ¼ xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2018, theo hãng Reuters.

Tuy nhiên ông Vũ cho rằng những công ty như Samsung có cơ sở nghiên cứu, thiết kế ở các quốc gia phát triển như Châu Âu, Bắc Mỹ, còn tại Việt Nam là nơi được đầu tư để sử dụng sức lao động lắp ráp giá rẻ mà thôi.

Song song với việc thay đổi thể chế, để nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của dân chúng, còn một điều quan trọng nữa để thoát bẫy thu nhập trung bình, là ông Nguyễn Huy Vũ nhấn mạnh việc phải có tự do dân chủ hơn:

Cuối cùng phải cải cách về dân chủ, vì khi người dân có được sự suy nghĩ dân chủ, khác biệt, thì họ mới sức sáng tạo, mới đổi mới được.”

Đối với giáo sư Ngô Vĩnh Long, từ Đại học Maine, vấn đề giáo dục là vấn đề sẽ cản trở Việt Nam phát triển:

Vấn đề là có chính sách tốt hay là không. Có chính sách tốt thì không lọt vào cái bẫy thu nhập trung bình đó. Mà chính sách tốt là vấn đề giáo dục. Việt Nam không có giáo dục tốt nên không thể đầu tư cái gì cả. Thành ra chỉ có thể làm công cho Samsung thôi, chứ còn hơn nữa thì không đủ trình độ cũng như kỹ năng để theo kịp.”

Giáo sư Ngô Vĩnh Long cho biết từ những năm 1980 ông đề nghị các giới chức Việt Nam chú ý đến việc giáo dục, nhất là các cấp tiểu học và trung học, nhưng không được lắng nghe, vì Việt Nam mong muốn có cái gọi là đi tắt đón đầu, chú ý vào việc phát triển đại học.

Việt Nam không có giáo dục tốt nên không thể đầu tư cái gì cả. Thành ra chỉ có thể làm công cho Samsung thôi.
-Giáo sư Ngô Vĩnh Long.

Đào tạo đại học để có thầy giỏi thì cũng tốt, nhưng cứ chú ý vào cái đó thì không đúng. Ông Nguyễn Thiện Nhân lên lại đưa ra chuyện trong bao nhiêu năm đào tạo 20 ngàn tiến sĩ. 20 ngàn tiến sĩ làm việc như thế nào được trong khi lẽ ra nên đào tạo vài triệu em cấp ba có trình độ để học tiếp để phát triển thêm.”

Giáo sư Ngô Vĩnh Long đưa ra ví dụ về Hàn Quốc, ngay cả dưới thời chế độ độc tài trước đây, họ đã bắt đầu chú ý đến giáo dục, bắt đầu trước tiên ở những cấp thấp nhất.

Hàn Quốc là quốc gia được xem là đã tăng tốc thành công vượt qua khỏi tình trạng thu nhập trung bình để trở thành một nước công nghiệp phát triển giàu có, nơi sản sinh ra tập đoàn Samsung hùng mạnh đầu tư vào Việt Nam để sử dụng sức lao động rẻ tại đây.

Thông điệp liên bang của TT trong ngày 5 tháng 2, 2019

Thông điệp liên bang của TT trong ngày 5 tháng 2, 2019

https://m.youtube.com/watch?v=CjbdMU2shPE&noapp=1&client=mv-google 

Xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người, bà Chủ tịch Hạ nghị viện,  Phó Tổng thống, qúy  Nghị sĩ Quốc hội, Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, và tất cả các công dân Hoa Kỳ.

Chúng ta đang có mặt tại một thời điểm có tiềm năng vô hạn, khi Quốc hội mới bắt đầu đi vào hoạt động, còn tôi thì đã sẵn sàng cùng các bạn nỗ lực để đạt được những thành qủa lịch sử cho tất cả các công dân của nước Mỹ.

Hàng triệu công dân công dân Mỹ đang dõi theo chúng ta, trong nghị trường tuyệt vời này, và hy vọng rằng chúng ta sẽ không phân chia thành hai đảng phái, mà sẽ lãnh đạo họ như một quốc gia thống nhất.

Do đó, nghị trình mà tôi nêu ra trong tối nay sẽ không phải là nghị trình của phe Cộng hòa hay Dân chủ, mà sẽ là nghị trình dành cho người dân Mỹ.

Rất nhiều người trong số chúng ta cũng đã từng tranh cử với những lời cam kết cốt lõi giống nhau, trong đó bao gồm đảm bảo việc làm cho người dân Mỹ, đòi công bằng thương mại cho những người lao động Mỹ, xây dựng và khôi phục lại cơ sở hạ tầng của quốc gia, giảm thiểu chi phí dịch vụ y tế và tiền thuốc kê đơn, tạo ra một hệ thống nhập cư an toàn, hợp pháp, hiện đại và vững chắc, và theo đuổi một chính sách đối ngoại mà trong đó lợi ích của nước Mỹ được đặt lên hàng đầu.

Chính trị Mỹ đang đứng trước một cơ hội mới, nếu chúng ta có đủ can đảm để cùng nhau nắm bắt lấy nó.

Thắng lợi không phải là giành chiến thắng cho phe phái của mình. Thắng lợi phải là giành chiến thắng cho đất nước mình..

Năm nay, nước Mỹ sẽ đánh dấu hai mốc kỷ niệm quan trọng, chứng minh rằng tầm nhìn của nước Mỹ và sức mạnh của lòng tự trọng của nước Mỹ vĩ đại đến thế nào. Tháng 6 năm nay, chúng ta sẽ kỷ niệm 75 năm ngày bắt đầu “cuộc thập tự chinh” – theo cách gọi của Tướng Dwight D Eisenhower – chiến dịch giải phóng đồng minh châu Âu của Mỹ trong Thế chiến II.

Ngày 6/6/1944, quân Anh, Mỹ đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp, 15.000 binh sĩ Mỹ trẻ tuổi đã đổ bộ từ trên không, cùng 60.000 binh sĩ khác đổ bộ từ phía biển để chiến đấu bảo vệ nền văn minh của chúng ta.

Ngày hôm nay, ba trong số những vị anh hùng ấy đang có mặt với chúng ta trong căn phòng này: Binh nhất Joseph Riley, thượng sĩ Erving Walker và trung sĩ Sartman Zeitcheck. Xin được chào mừng các vị.

Trong năm 2019, chúng ta cũng sẽ kỷ niệm 50 năm ngày các phi hành gia trẻ tuổi dũng cảm đã thực hiện chuyến hành trình bay 1 triệu dặm trong không gian để cắm lá quốc kỳ Mỹ trên mặt trăng. Ông Buzz Aldrin, một trong những phi hành gia trên tàu Apollo 11 đã cắm lá cờ ấy, cũng có mặt tại đây với chúng ta ngày hôm nay.

Xin cảm ơn ông, ông Buzz. Năm nay, các phi hành gia của Mỹ sẽ tiếp tục du hành không gian bằng các phi thuyền của Mỹ.

Trong thế kỷ 20, nước Mỹ đã chiến đấu vì tự do, đem lại nhiều thành qủa trong khoa học, tái định  tầng lớp trung lưu, và rõ ràng là không có điều gì ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới có thể cạnh tranh được với Mỹ.

Bởi vậy, nên bây giờ chúng ta phải mạnh dạn và dũng cảm bước sang chương mới của cuộc phiêu lưu vĩ đại của nước Mỹ. Chúng ta phải tạo ra một tiêu chuẩn sống mới cho thế kỷ 21.

Chất lượng cuộc sống tuyệt vời cho tất cả các công dân của nước Mỹ đang ở trong tầm tay ta. Chúng ta có thể giúp cho các cộng đồng của nước Mỹ trở nên an toàn hơn, gia đình mạnh mẽ hơn, văn hóa phong phú hơn, đức tin sâu sắc hơn, và tầng lớp trung lưu của nước Mỹ lớn hơn, giàu có hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, chúng ta phải bác bỏ những động thái chính trị có tính chất thù hằn, chống đối và trừng phạt, đồng thời nắm lấy những tiềm năng hợp tác, thỏa hiệp và đem lại lợi ích chung.

Cùng nhau, chúng ta có thể phá vỡ hàng thập kỷ chìm trong bế tắc chính trị. Chúng ta có thể nối liền tất cả những sự bất hòa, chữa lành những vết thương cũ, xây dựng các liên minh mới, tạo ra các giải pháp mới và mở ra những triển vọng phi thường cho tương lai của nước Mỹ.

Quyết định đang nằm trong tay chúng ta. Chúng ta phải lựa chọn giữa vĩ đại hoặc bế tắc, đạt được kết quả hay chống đối, tầm nhìn xa hay sự thù hằn thiển cận, sự tiến bộ đáng kinh ngạc hay sự hủy diệt vô nghĩa. Tối nay, tôi xin được yêu cầu các bạn lựa chọn sự vĩ đại.

Trong vòng 2 năm qua, chính quyền của tôi đã hành động với sự khẩn trương và tốc độ lịch sử để đối mặt với những vấn đề bị chính các lãnh đạo lưỡng đảng xao lãng trong rất nhiều thập kỷ.. Chỉ trong vòng hơn 2 năm kể từ sau cuộc bầu cử Tổng thống, chúng tôi đã đem tới sự tiến triển kinh tế chưa từng có tiền lệ, một sự tiến triển hiếm thấy trước đây.

Chưa từng có chuyện như vậy xảy ra. Chúng tôi đã tạo ra 5,2 triệu việc làm mới, và quan trọng hơn cả là thêm 600.000 công việc mới trong ngành sản xuất; hầu hết mọi người đều cho rằng điều này là bất khả thi, nhưng thực tế là chúng tôi chỉ vừa mới bắt đầu.

Mức lương của người lao động đang gia tăng với tốc độ nhanh nhất trong nhiều thập kỷ, đặc biệt là đối với tầng lớp công nhân – đúng như lời hứa của tôi. Mức lương của họ tăng nhanh hơn tất cả những đối tượng khác. Gần 5 triệu công dân Mỹ đã thoát khỏi cảnh ” phiếu thực phẩm”

Kinh tế Mỹ ngày nay đang tăng trưởng với tốc độ nhanh gấp đôi so với thời điểm tôi nhậm chức, lúc đó không ai có thể gọi kinh tế Mỹ là “nền kinh tế nóng” được.

Tỉ lệ thất nghiệp đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn nửa thế kỷ qua. Thậm chí tỉ lệ thất nghiệp trong các nhóm người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Tây Ban Nha – Mỹ-Latinh, và người Mỹ gốc Á cũng đều giảm xuống mức thấp nhất từng được ghi nhận.

Tỉ lệ thất nghiệp của những người khuyết tật tại Mỹ cũng đã giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Hiện nay nước Mỹ đang có nhiều người có việc làm hơn bất cứ thời điểm nào trong lịch sử. Cụ thể là 157 triệu người đang làm việc.

Chúng tôi cũng đã thông qua một dự luật cắt giảm thuế lớn cho các gia đình lao động, và tăng gấp đôi khoản tín thuế dành cho người nuôi con.

Thực tế, chúng tôi hầu như đã xóa bỏ các loại thuế tài sản  cho các doanh nghiệp nhỏ, nông trại và trang trại gia đình.

Chúng tôi cũng đã loại bỏ mức phạt cá nhân bắt buộc như trong điều  lệ chương trình bảo hiểm Obamacare, sau khi nhận được lời than phiền của rất nhiều người. Và chúng tôi cũng đã thông qua dự luật giúp cho những người mắc bệnh nặng được tiếp cận và thử nghiệm các phương pháp chữa trị phù hợp.

Chỉ trong một thời gian ngắn, chính quyền của tôi đã loại bỏ nhiều điều lệ hơn bất kỳ chính quyền nào khác trong toàn bộ nhiệm kỳ của họ. Nhiều công ty của Mỹ đã quyết định trở về nước nhờ các quyết định mang tính lịch sử như cắt giảm thuế và điều chỉnh quy định.

Chúng tôi cũng đã mở ra một cuộc cách mạng trong ngành năng lượng của Mỹ – hiện nay nước Mỹ là nhà sản xuất dầu mỏ và khí tự nhiên số một trên thế giới. Và lần đầu tiên sau 65 năm, chúng ta lại là nước xuất khẩu năng lượng ròng.

Sau 24 tháng phát triển thần tốc, nền kinh tế của nước Mỹ đã trở thành thứ khiến cho cả thế giới ghen tị, quân đội của chúng ta là lực lượng hùng mạnh nhất trên Trái đất cho đến lúc này, và nước Mỹ một lần nữa đang thắng lợi từng ngày.

Liên bang Hoa kỳ của chúng ta rất vững chắc. Đất nước của chúng ta rất sôi động, và nền kinh tế của chúng ta đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Theo số liệu mới được công bố hôm thứ 6 tuần trước (1/2), chúng ta đã tạo ra thêm 304.000 việc làm trong tháng trước – gần gấp đôi so với con số được kỳ vọng. Phép màu kinh tế đang diễn ra tại Mỹ – và nó chỉ có thể bị ngăn chặn bởi những cuộc chiến tranh, các nhà làm chính trị ngu ngốc, hay những cuộc điều tra đảng phái lố bịch.

Nếu muốn hòa bình và luật pháp được thực thi, thì chiến tranh hay điều tra không thể tồn tại.. Mọi chuyện không hoạt động theo cách đó.

Chúng ta phải đoàn kết trong nội bộ để đánh bại các đối thủ của nước Mỹ ở bên ngoài.

Kỷ nguyên hợp tác mới có thể bắt đầu ngay bằng việc xét duyệt hơn 300 ứng cử viên trình độ cao được đề nghị nhưng vẫn chưa được Thượng viện thông qua – nhiều người thậm chí đã phải chờ đợi đến vài năm. Việc Thượng viện không phê duyệt các hồ sơ này là rất không công bằng đối với các ứng cử viên và đất nước của chúng ta.

Đã đến lúc lưỡng đảng phải hành động. Dù các bạn tin hay không, thì chúng tôi cũng đã chứng minh rằng đó là điều hoàn toàn khả thi.

Tại Quốc hội cũ, hai bên đã cùng nhau thông qua một đạo luật chưa từng có để giải quyết cuộc khủng hoảng opioid (thuốc gây nghiện), luật Nông trại (Farm Bill), cải thiện việc chăm sóc y tế cựu chiến binh, và sau hơn 4 thập kỷ bị bác bỏ, cuối cùng thì đạo luật Trách nhiệm với cựu chiến binh cũng đã được thông qua, khiến những người có hành động ngược đãi các cựu chiến binh phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Và chỉ vài tuần trước thôi, cả hai đảng đã cùng thống nhất khi ban hành một đạo luật cải cách nhanh trong lĩnh vực tư pháp – hình sự.

Năm ngoái, tôi đã nghe một số người bạn kể câu chuyện về Alice Johnson và vô cùng xúc động. Năm 1997, Alice bị kết án tù chung thân với cáo buộc là tội phạm ma túy phi bạo lực lần đầu tiên. Trong vòng 2 thập kỷ sau đó, Alice đã trở thành một nhà “lãnh đạo” trong tù, cô ấy đã truyền cảm hứng cho các bạn tù của mình, giúp họ lựa chọn một con đường tốt đẹp hơn. Alice đã có tác động lớn đối với những tù nhân ở đó – và còn hơn thế nữa.

Câu chuyện của Alice là minh chứng cho sự bất bình đẳng và bất công tồn tại trong các bản án hình sự – và cho thấy rằng sự bất công ấy cần được khắc phục. Cô ấy đã thụ án gần 22 năm rồi, và sẽ còn phải thụ án cho đến hết đời.

Tháng 6 năm ngoái, tôi đã thay đổi bản án của Alice, và tối nay cô ấy cũng có mặt tại đây cùng với chúng ta. Alice, cảm ơn bạn đã nhắc nhở chúng tôi rằng con người ta luôn luôn có sức mạnh để thay đổi vận mệnh của chính mình.

Khi tôi chứng kiến gia đình tuyệt đẹp của Alice chào đón cô ấy ở bên ngoài cổng nhà tù, chứng kiến họ ôm hôn, khóc và cười, tôi biết mình đã làm điều đúng .

Lấy cảm hứng từ câu chuyện của Alice, chính quyền của tôi sẽ hợp tác chặt chẽ với thành viên của cả hai đảng để đưa Đạo luật FIRST STEP ( dành cho những cựu tù nhân tái hòa nhập cộng đồng) vào áp dụng. Đạo luật này sẽ thay đổi các bản án bất công đối với các đối tượng trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi.

Đạo luật FIRST STEP được kỳ vọng sẽ cho những người từng là tội phạm phi bạo lực một cơ hội tái hòa nhập cộng đồng trong tư cách một công dân biết tuân thủ pháp luật. Hiện nay các Tiểu bang trên toàn nước Mỹ đang đồng loạt thực hiện điều này. Nước Mỹ là một quốc gia tin tưởng vào sự hoàn lương.

Tham dự cùng chúng ta tối nay còn có Matthew Charles từ Tiểu bang Tennessee. Năm 1996, ở tuổi 30, Matthew đã bị kết án 35 năm tù giam vì hành vi buôn bán ma túy và các tội liên quan. Trong vòng 2 thập kỷ sau đó, Matthew đã đọc hết hơn 30 nghiên cứu về Kinh Thánh, trở thành một thư ký trong văn phòng luật, và cố vấn cho các bạn tù của mình.

Matthew là người đầu tiên được trả tự do theo Đạo luật FIRST STEP. Matthew, thay mặt cho mọi người dân Mỹ, tôi xin chào mừng bạn trở về nhà.

Như các bạn đã thấy, khi chúng ta đoàn kết, thì chúng ta có thể đạt được những bước tiến đáng kinh ngạc cho nước Mỹ. Do đó, hai đảng Cộng hòa và Dân chủ cần phải hợp lực một lần nữa để đối mặt với cuộc khủng hoảng quốc gia đang rất cấp bách hiện nay.

Quốc hội còn 10 ngày nữa để thông qua dự luật cấp ngân sách cho chính phủ, bảo vệ đất nước ta, và gìn giữ vùng biên giới phía Nam đang rất nguy hiểm.

Đã đến lúc Quốc hội Mỹ phải chứng tỏ cho thế giới rằng nước Mỹ cam kết thực hiện việc chấm dứt tình trạng nhập cư trái phép, và đuổi những kẻ lừa đảo, các băng đảng, nhưng tay buôn ma túy và buôn người khỏi đất nước.

Vào thời điểm tôi đang nói, các đoàn người di cư lớn và có tổ chức đang tiến về phía nước Mỹ. Chúng tôi vừa nhận được thông tin là các thành phố của Mexico đã dùng xe tải và xe buýt để đưa những đối tượng nhập cư trái phép này ra khỏi khu vực của họ, và đưa các đối tượng đó đến những nơi có an ninh biên giới lỏng lẻo của nước Mỹ.

Tôi đã ra lệnh điều thêm 3.750 binh lính tới khu vực biên giới phía Nam để chuẩn bị đối mặt với các cuộc công kích dữ dội của những đối tượng ấy.

Đây là vấn đề thuộc phạm vi đạo đức. Tình trạng vô luật pháp ở vùng biên giới phía Nam của chúng ta là mối đe dọa đối với an toàn, an ninh và tài chính của mọi người dân Mỹ. Chúng ta có nghĩa vụ đạo đức là phải tạo ra một hệ thống nhập cư có khả năng bảo vệ cuộc sống và việc làm của công dân Mỹ.

Điều đó bao gồm nghĩa vụ của chúng tôi đối với hàng triệu người nhập cư đang sống trên đất Mỹ hợp pháp, họ tuân thủ các quy tắc và tôn trọng luật pháp của nước Mỹ. Các công dân nhập cư hợp pháp sẽ làm giàu cho đất nước và củng cố xã hội theo vô vàn cách thức khác nhau. Tôi muốn người ta tới Mỹ, nhưng với điều kiện là họ phải tới Mỹ một cách hợp pháp.

Tôi yêu cầu các vị  bảo vệ biên giới phía Nam đang rất nguy hiểm của chúng ta, với tình yêu và sự tận tụy đối với các công dân và đối với nước Mỹ.

Không vấn đề nào có thể minh họa rõ ràng sự phân chia giữa tầng lớp công nhân và tầng lớp chính trị bằng vấn đề nhập cư trái phép.Các chính trị gia và nhà tài trợ giàu có luôn kêu gọi mở cửa biên giới, trong khi họ sống đằng sau những bức tường, cổng rào và bảo vệ canh gác.

Trong khi đó, những người Mỹ thuộc tầng lớp lao động lại phải trả giá cho vấn nạn di cư trái phép hàng loạt: ít việc làm hơn, lương thấp hơn, trường học và bệnh viện quá tải, tỉ lệ tội phạm gia tăng, và mạng lưới an toàn xã hội cạn kiệt.

Sự khoan dung đối với hành động nhập cư trái phép không phải là lòng trắc ẩn, mà là sự tàn nhẫn. 1/3 số phụ nữ bị xâm hại tình dục trong cuộc hành trình dài tới nước Mỹ. Những tay buôn lậu lợi dụng trẻ em nhập cư để lách qua hàng rào an ninh và tiếp cận đất nước của chúng ta.

Những kẻ buôn người và buôn bán tình dục cũng lợi dụng các khu vực mở giữa các cảng nhập cảnh của Mỹ để đưa hàng ngàn các cô gái trẻ và phụ nữ vào đất Mỹ, sau đó bán họ vào nhà thổ hoặc biến họ thành nô lệ kiểu mới.

Hàng vạn người Mỹ vô tội đã thiệt mạng do sử dụng các loại thuốc gây nghiện chết người được đưa qua biên giới và tràn vào các thành phố của chúng ta, trong đó bao gồm ma túy đá, heroin, cocaine và fentanyl.

Băng đảng man rợ MS-13 hiện đang hoành hành tại hơn 20 bang của Mỹ, và hầu như tất cả thành viên trong băng đảng này đều tới Mỹ qua đường biên giới phía Nam. Chỉ mới hôm qua thôi, một thành viên thuộc băng đảng MS-13 đã bị bắt giam vì một vụ nổ súng chết người trên ga tàu điện ngầm của thành phố New York.

Chúng tôi đang nỗ lực bắt giữ và loại bỏ hàng ngàn thành viên của băng đảng này, nhưng chúng sẽ tiếp tục tràn vào Mỹ nếu chúng ta không thắt chặt an ninh biên giới.

Trong những năm qua, vô số người Mỹ đã bị chính những kẻ nhập cư trái phép ấy sát hại.

Tôi được biết rất nhiều người cha, người mẹ thiên thần và gia đình tuyệt vời – họ đã chịu đựng những nỗi đau thật khủng khiếp mà không ai đáng phải chịu đựng điều đó..

Debra Bissell là một trong số những người đó. Ba tuần trước, cha mẹ của Debra, ông bà Gerald và Sharon, đã bị kẻ trộm đột nhập vào căn nhà tại Reno, Nevada và bị bắn chết. Kẻ trộm đó là một người nhập cư trái phép. Hai người họ năm nay đã ngoài 80 và có 4 người con, 11 cháu và 20 chắt. Tối nay, cháu và chắt của hai ông bà Gerald và Sharon, Heather và Madison, cũng có mặt tại đây..

Debra, Heather, và Madison: Hãy cố lên . Chỉ có ít người thấu hiểu được nỗi đau của các cháu. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên, và tôi sẽ chiến đấu vì Gerald và Sharon. Tôi sẽ không cho phép chuyện này lặp lại nữa.

Người dân Mỹ không thể mất đi tính mạng chỉ vì chúng ta không thể kiểm soát được vùng biên giới rất nguy hiểm của mình.

Trong hai năm qua, các sĩ quan ICE quả cảm của chúng ta đã bắt giữ 266.000 người nhập cư trái phép, trong đó bao gồm cả những cá nhân bị buộc tội hoặc đã có hành vi phạm tội trong gần 100.000 vụ tấn công, 30.000 vụ tấn công tình dục, và 4.000 vụ giết người.

Tối nay, một trong những anh hùng thực thi pháp luật ấy cũng có mặt ở đây: Đặc vụ ICE Agent Elvin Hernandez.

Khi Elvin còn nhỏ, anh ấy đã cùng gia đình nhập cư theo diện hợp pháp vào Mỹ từ Cộng hòa Dominica. Đến năm 8 tuổi, Elvin đã nói với cha mình rằng anh ấy muốn trở thành một đặc vụ khi lớn lên. Hiện tại, anh ấy là trưởng nhóm điều tra các đường dây buôn bán tình dục quốc tế.

Elvin thường nói rằng: “Nếu tôi có thể đảm bảo rằng những cô gái trẻ này có được công lý của mình, thì tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”. Nhờ có Elvin và các đồng nghiệp của anh ấy, hơn 300 phụ nữ và trẻ em gái đã được giải cứu khỏi cảnh kinh hoàng, và hơn 1.500 kẻ buôn người dã man đã bị đưa vào sau song sắt trong năm ngoái.

Đặc vụ Hernandez, xin mời anh đứng lên: Chúng tôi sẽ luôn luôn ủng hộ những những đặc nhiệm quả cảm như bạn, và tối nay tôi xin cam kết với các bạn rằng chúng tôi sẽ không bao giờ khai trừ những vị anh hùng của mình khỏi hàng ngũ của ICE.

Chính quyền của tôi đã gửi tới Quốc hội một đề nghị hợp lý nhằm chấm dứt cuộc khủng hoảng ở biên giới phía Nam của nước Mỹ.

Thỏa thuận đó bao gồm hỗ trợ nhân đạo, tăng cường thực thi pháp luật, kiểm tra ma túy tại các cảng nhập cảnh, bịt các lỗ hổng cho phép việc buôn lậu trẻ em, và lên kế hoạch xây dựng một hàng rào hoặc một bức tường vật lý mới để đảm bảo an toàn cho các khu vực rộng lớn giữa các cảng nhập cảnh. Trước đây, hầu hết những người có mặt trong căn phòng này từng bỏ phiếu xây dựng một bức tường, nhưng bức tường ấy chưa từng được dựng lên. Tôi sẽ làm điều đó.

Đây là một hàng rào thép thông minh, chiến lược và có thể nhìn xuyên thấu. Nó không chỉ là một bức tường bê tông đơn giản. Nó sẽ được triển khai tại các khu vực mà lực lượng an ninh cho là cần thiết nhất. Họ sẽ nói rằng khi tường được dựng lên, người ngoài đừng mơ tưởng đến chuyện vượt biên.

San Diego từng là nơi có tình trạng vượt biên trái phép nhiều nhất trên toàn nước Mỹ. Trước yêu cầu của lãnh đạo và người dân ở khu vực này, một bức tường an ninh đã được xây dựng. Và hàng rào mạnh mẽ này gần như đã chấm dứt hoàn toàn tình trạng vượt biên trái phép trong khu vực.

Thành phố El Paso của bang Texas nằm sát biên giới từng có tỉ lệ tội phạm vô cùng cao – một trong những thành phố có tỉ lệ tội phạm cao nhất nước, và được coi là một trong những thành phố nguy hiểm nhất nước Mỹ. Tuy nhiên, sau khi hàng rào được xây dựng, thì El Paso đã trở thành một trong những thành phố an toàn nhất nước Mỹ.

Nói một cách đơn giản, là “bức tường” có tác dụng, và bức tường có thể cứu lấy tính mạng của con người. Bởi vậy, hay hợp tác cùng nhau, thỏa hiệp và đạt được một thỏa thuận có thể thực sự giúp nước Mỹ trở nên an toàn hơn.

Và trong khi chúng ta nỗ lực bảo vệ an nguy của người dân Mỹ, thì chúng ta cũng phải đảm bảo rằng nền kinh tế của nước Mỹ tiếp tục hồi sinh và phát triển nhanh chóng.

Phụ nữ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất từ nền kinh tế phát triển mạnh, bởi họ đã lấp đầy 58% số công việc mới được tạo ra vào năm ngoái. Và tất cả mọi người có thể tự hào rằng hiện nay ở Mỹ có nhiều phụ nữ tham gia lao động hơn bao giờ hết – và đặc biệt là điều này diễn ra đúng mộ thế kỷ sau khi Quốc hội thông qua việc sửa đối Hiến pháp, trao quyền bầu cử cho phụ nữ. Và hiện nay chúng ta cũng có nhiều nghị sĩ trong Quốc hội là nữ hơn bao giờ hết.

Là một phần trong cam kết của chúng tôi nhằm nâng cao cơ hội cho phụ nữ trên toàn thế giới, vào thứ 5 tuần này, chúng tôi sẽ chính thức đưa ra sáng kiến Chính phủ đầu tiên về việc trao quyền cho phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế ở các quốc gia đang phát triển.

Và để tiếp tục phát triển thành công đáng kinh ngạc trong lĩnh vực kinh tế của chúng ta, thì ưu tiên này là điều tối quan trọng: đó là đảo ngược hàng thập kỷ áp dụng các chính sách thương mại gây nhiều thiệt hại tới nước Mỹ.

Chúng ta đang khiến Trung Quốc hiểu rõ rằng, sau bao nhiêu năm nhằm vào nền công nghiệp của ta, ăn trộm sở hữu trí tuệ của ta, thì việc đánh cắp công ăn việc làm và của cải Mỹ đã đi đến hồi kết.

Do đó, gần đây chúng ta đã áp dụng mức thuế quan nhập khẩu đối với 250 tỉ USD hàng hóa Trung Quốc, và giờ đây Kho bạc của Mỹ đang nhận được hàng tỉ USD mỗi tháng từ một quốc gia không bao giờ cho chúng ta nổi một xu lẻ.

Thế nhưng tôi không đổ lỗi cho Trung Quốc vì đã lợi dụng Mỹ, mà tôi đổ lỗi cho các nhà lãnh đạo và các đại diện của chúng ta đã khiến cho điều này xảy ra.

Với  chủ tịch Tập Cận Bình,  chúng tôi hiện đang thảo luận cho một thỏa thuận thương mại mới với Trung Quốc. Nhưng thỏa thuận này phải bao gồm những thay đổi thực sự và thay đổi về cấu trúc để chấm dứt các hoạt động thương mại bất công, giảm tình trạng thâm hụt thương mại kinh niên và đảm bảo công ăn việc làm cho người Mỹ.

Một trong những sai lầm thương mại lịch sử khác là thảm họa mang tên NAFTA.

Tôi đã gặp gỡ những ngời đàn ông và phụ nữ của Tiểu bang Michigan, Ohio, Pennsylvania, Indiana, New Hampshire, và nhiều Tiểu  bang khác nói rằng giấc mơ của họ đã bị hủy hoại vì NAFTA. Trong nhiều năm qua, các chính trị gia đã hứa hẹn với họ là sẽ đàm phán để tìm kiếm một thỏa thuận tốt hơn. Nhưng chưa ai từng thử làm điều đó – mãi đến tận bây giờ.

Thỏa thuận Mỹ-Mexico-Canada mới của chúng tôi – hay USMCA – sẽ thay thế thỏa thuận NAFTA và đem đến những lợi ích sau đây cho người lao động Mỹ: đem công việc sản xuất trở lại, mở rộng lĩnh vực nông nghiệp, bảo vệ sở hữu trí tuệ và đảm bảo rằng sẽ có nhiều chiếc xe hơi được sản xuất và được đóng lên dòng chữ đẹp đẽ: “made in USA” – một cách đầy tự hào.

Tối nay, tôi cùng yêu cầu các vị  thông qua Đạo luật Thương mại đối ứng của Mỹ, để nếu một quốc gia áp đặt mức thuế bất công đối với một sản phẩm của Mỹ, thì chúng ta có thể áp dụng ngay mức thuế tương tự đối với sản phẩm mà họ bán cho chúng ta.

Cả hai đảng cần đoàn kết để tái thiết cơ sở hạ tầng đã sụp đổ của nước Mỹ.

Tôi biết rằng Quốc hội rất sẵn lòng thông qua dự luật cơ sở hạ tầng, và tôi cũng sẵn sàng thảo luận cùng các vị về dự luật ấy nhằm cung cấp các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng mới và quan trọng, trong đó bao gồm đầu tư vào các ngành công nghệ – kỹ thuật trong tương lai. Đây không phải là lựa chọn, mà là một điều cần thiết.

Một ưu tiên chủ yếu nữa của tôi và tất cả chúng ta là việc giảm thiểu chi phí cho dịch vụ y tế và thuốc kê đơn – và bảo vệ các bệnh nhân từng có bảo hiểm.

Trong năm 2018, với sự nỗ lực của chính quyền của tôi, giá thuốc đã giảm mạnh nhất trong vòng 46 năm.

Nhưng chúng ta phải làm nhiều hơn thế. Không thể chấp nhận rằng người Mỹ phải trả nhiều tiền hơn người dân các nước khác cho cùng một loại thuốc, và thường là các loại thuốc ấy đều được sản xuất ở cùng một nơi. Đây là chuyện rất sai trái và bất công, và cùng nhau, chúng ta có thể ngăn chặn điều đó.

Tôi đang yêu cầu Quốc hội thông qua một dự luật có khả năng giải quyết vấn đề tiền chênh lệch toàn cầu, nhằm mang đến sự công bằng và minh bạch về giá cả cho các bệnh nhân người Mỹ. Chúng tôi cũng yêu cầu các công ty dược phẩm, công ty bảo hiểm và bệnh viện tiết lộ giá thực tế nhằm thúc đẩy cạnh tranh và giảm giá thành.

Trong những năm gần đây, chúng tôi đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong cuộc chiến chống lại HIV-AIDS. Những đột phá trong khoa học đã khiến giấc mơ tưởng chừng như xa vời ngày càng gần tầm tay ta. Tôi sẽ đề nghị đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa thực hiện những cam kết cần thiết về ngân sách nhằm triệt tiêu HIV ở Mỹ trong vòng 10 năm tới. Và cùng nhau, chúng ta cũng sẽ đánh bại AIDS ở nước Mỹ.

Tối nay, tôi cũng đề nghị các vị tham gia cùng tôi trong một cuộc chiến khác, mà tất cả những công dân của nước Mỹ cùng có nguy cơ liên lụy: đó là cuộc chiến chống lại ung thư ở trẻ em.

Có mặt tại đây cùng Melania tối nay là một cô bé 10 tuổi vô cùng dũng cảm, Grace Eline.. Kể từ năm 4 tuổi, vào mỗi dịp sinh nhật, Grace đều kêu gọi các bạn bè của mình quyên góp cho bệnh viện nhi St. Jude. Cô bé không hề biết rằng một ngày nào đó, cô bé cũng có thể là một bệnh nhân ung thư.

Năm ngoái, Grace đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư não. Cô bé đã được trị xạ ngay lập tức. Cùng lúc đó, Grace vẫn tiếp tục kêu gọi cộng đồng quyên góp ủng hộ, và thu được hơn 40.000 USD cho cuộc chiến chống ung thư. Khi Grace kết thúc đợt điều trị vào mùa thu năm ngoái, các bác sĩ và y tá của cô bé đã rất xúc động khi thấy tấm poster của cô bé: “Ngày hóa trị cuối cùng”. Grace – cháu chính là nguồn cảm hứng của tất cả chúng ta.

Nhiều bệnh nhân ung thư nhí đã không được tiếp cận với các liệu pháp chữa trị ung thư mới trong nhiều thập kỷ qua. Do đó, tôi yêu cầu Quốc hội thông qua khoản ngân sách 500 triệu USD trong vòng 10 năm tới để tài trợ cho việc nghiên cứu rất đỗi quan trọng với tình mạng con người này.

Nhằm giúp đỡ các bậc cha mẹ yên tâm công tác, đã đến lúc thông qua việc lựa chọn trường học cho trẻ em Mỹ. Tôi cũng rất tự hào là Tổng thống đầu tiên chi ngân sách quốc gia cho việc nghỉ phép có lương để giúp các phụ huynh mới sinh con có cơ hội săn sóc nhiều hơn với trẻ nhỏ.

Tuy nhiên, hình ảnh đẹp đẽ của tình mẫu tử lại hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta được chứng kiến trong những ngày gần đây trên những màn hình quảng cáo ớn lạnh. Các nghị sĩ New York đã vui mừng khi luật cho phép phá thai trước khi sinh được thông qua. Những đứa trẻ xinh đẹp đó sẽ không bao giờ có cơ hội được chia sẻ tình yêu và ước mơ với thế giới.

Để bảo vệ phẩm giá của mỗi người, tôi yêu cầu Quốc hội thông qua luật cấm phá thai muộn, khi đứa trẻ có thể cảm thấy đau đớn trong bụng mẹ.

Chúng ta hay cùng nhau xây dựng một nền văn hóa biết trân trọng những sinh mạng vô tội.

Phần cuối cùng trong chương trình nghị sự của tôi là về vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia của nước Mỹ.

Trong vòng 2 năm qua, chúng ta đã bắt đầu xây dựng lại hoàn toàn lực lượng quân đội Mỹ – với 700 tỉ USD trong năm ngoái và 716 tỉ USD trong năm nay. Chúng ta cũng đã yêu cầu các quốc gia khác phải đóng góp phần của họ một cách công bằng.

Trong nhiều năm qua, Mỹ đã bị NATO đối xử rất bất công, nhưng giờ đây chúng tôi đã có thêm 100 tỉ USD trong khoản chi tiêu quốc phòng từ các đồng minh NATO.

Một trong số những động thái góp phần xây dựng quân đội của Mỹ là việc phát triển hệ thống tên lửa phòng thủ tối tân.

Dưới thời chính quyền của tôi, chúng ta sẽ không bao giờ xin lỗi vì đã thúc đẩy những lợi ích của nước Mỹ.

Ví dụ, trong nhiều thập kỷ trước, Mỹ đã tham gia một hiệp ước với Nga, trong đó chúng tôi đã đồng ý hạn chế và giảm thiểu khả năng của các tên lửa Mỹ. Trong khi chúng tôi tuân theo từng chữ một trong thỏa thuận, thì Nga lại liên tục vi phạm các điều khoản trong đó. Bởi vậy, tôi đã tuyên bố rằng Mỹ chính thức khỏi Hiệp ước các Lực lượng Hạt nhân Tầm trung, hay còn gọi là INF.

Có thể Nga và Mỹ có thể đàm phán về một thỏa thuận khác, với sự tham gia của Trung Quốc và các nước khác, hoặc cũng có thể không. Dù là trường hợp nào, thì chúng ta [Mỹ] cũng vẫn có nhiều tiền hơn, và có những loại vũ khí tân tiến hơn tất cả các nước khác.

[Vấn đề Triều Tiên] là một phần trong chính sách ngoại giao táo bạo mới của Mỹ. Chúng tôi sẽ tiếp tục thúc đẩy tiến trình hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên. Con tin của Mỹ tại Triều Tiên đã trở về nước, việc thử nghiệm hạt nhân cũng đã ngừng lại, và trong 15 tháng qua chưa có vụ phóng tên lửa nào.

Nếu tôi không được bầu làm Tổng thống Mỹ, thì tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ bị cuốn vào một cuộc chiến lớn với Triều Tiên, và hàng triệu người sẽ có nguy cơ thiệt mạng. Vẫn còn nhiều công tác phải làm, nhưng quan hệ của tôi với ông Kim Jong Un là tốt, và Chủ tịch Kim cùng tôi sẽ gặp lại nhau tại Việt Nam vào ngày 27-28/2 tới.

Hai tuần trước, Mỹ đã chính thức công nhận chính phủ và Tổng thống lâm thời Juan Guaidó của Venezuela. Chúng tôi sát cánh cùng người dân Venezuela trong hành trình tìm kiếm tự do cao quý của họ. 

Một trong số những thách thức phức tạp nhất mà nước Mỹ đang phải đối mặt hiện nay là ở Trung Đông.

Cách tiếp cận của chúng tôi dựa trên nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực – không phải là những thứ lý thuyết mất uy tín đã thất bại trong nhiều thập kỷ qua để mang lại tiến bộ. Vì lí do đó, chính quyền của tôi đã công nhận thủ đô thực sự của Israel – và tự hào mở Đại sứ quán Mỹ tại Jerusalem.

Lực lượng quân đội dũng cảm của Mỹ đã chiến đấu ở Trung Đông trong gần 19 năm qua.. Tại Afghanistan và Iraq, gần 7.000 anh hùng Mỹ đã hy sinh tính mạng. Hơn 52.000 binh lính đã bị thương nặng. Và chúng ta đã chi hơn 7.000 tỉ USD ở Trung Đông

Khi tôi nhậm chức, IS còn kiểm soát hơn 51.500 km2 tại Iraq và Syria. Đến nay, chúng ta đã giải phóng được gần như toàn bộ vùng lãnh thổ đó khỏi sự chiếm đóng của những kẻ giết người khát máu này.

Bây giờ, khi Mỹ cùng các đồng minh hợp lực tiêu diệt những tàn dư còn sót lại của IS, đã đến lúc chào đón các chiến binh dũng cảm của chúng ta ở Syria về nhà.

Bên cạnh đó, tôi cũng đã thúc đẩy nhanh tiến trình đàm phán để đạt được thỏa thuận chính trị tại Afghanistan. Quân đội của chúng ta đã chiến đấu vô cùng quả cảm – và chính nhờ sự dũng cảm của họ nên bây giờ chúng ta mới có thể theo đuổi giải pháp chính trị cho cuộc xung đột kéo dài và đẫm máu ấy.

Tại Afghanistan, chính quyền của tôi đang tiến hành các cuộc đàm phán mang tính xây dựng với một số nhóm người, trong đó có Taliban. Khi đạt được tiến bộ trong các cuộc đàm phán này, chúng ta sẽ có thể giảm sự hiện diện của quân đội Mỹ và tập trung vào mục tiêu chống khủng bố. Chúng tôi không biết liệu mình có thể đạt được thỏa thuận hay không, nhưng chúng tôi biết rằng sau hai thập kỷ chiến tranh, đã đến lúc chúng ta nỗ lực vì hòa bình.

Trên hết, các đồng minh hay kể cả đối thủ của nước Mỹ đừng bao giờ hoài nghi về sức mạnh và ý chí bảo vệ người dân của chúng tôi. 18 tháng trước, những kẻ khủng bố đã tấn công tàu USS Cole, và tháng trước các lực lượng của chúng ta đã tiêu diệt thành công một trong những tên thủ lĩnh đã chỉ đạo cuộc tấn công ấy.

Chúng tôi rất vinh dự khi ông Tom Wibberley, cha của thủy thủ Craig Wibberley – một trong 17 thủy thủ đã thiệt mạng trong vụ việc trên – có mặt tại đây tối nay.  Tom, chúng tôi xin hứa sẽ luôn luôn nhớ đến những vị anh hùng của tàu USS Cole.

Chính quyền của tôi cũng đã hành động dứt khoát để đối đầu với nhà tài trợ khủng bố hàng đầu thế giới: chế độ cực đoạn ở Iran.

Nhằm đảm bảo [Iran] không bao giờ có được vũ khi hạt nhân, tôi đã rút Mỹ khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran khủng khiếp. Và mùa thu năm ngoái, chúng tôi cũng đã đưa ra các biện pháp trừng phạt cứng rắn nhất từng được áp dụng đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Chúng tôi sẽ không làm ngơ trước một quốc gia muốn Mỹ phải chết, và đe dọa tiêu diệt toàn bộ người Do Thái. Chúng ta sẽ không bỏ qua cho chất độc của chủ nghĩa bài Do Thái, hay những người truyền bá tín ngưỡng độc hại của nó. Với một tiếng nói chung, chúng ta cần phải đối đầu với sự thù hằn này ở bất cứ nơi nào.

Chỉ vài tháng trước, 11 công dân Mỹ gốc Do Thái đã bị sát hại dã man trong một cuộc tấn công bài Do Thái tại giáo đường Tree of Life ở Pittsburgh. Sĩ quan Timothy Matson của lực lượng SWAT đã dũng cảm lao vào làn đạn, và bị trúng 7 phát đạn khi đuổi theo hung thủ…

Timothy vừa trải qua ca phẫu thuật lần thứ 12 – nhưng anh ấy đã cố gắng đến đây với chúng ta tối nay. Ông Matson: chúng tôi mãi mãi biết ơn sự can đảm của bạn khi đương đầu với cái ác.

Tối nay, chúng ta cũng được đón một người sống sót tại Pittsburgh là Judah Samet. Ông ấy tới giáo đường ngay khi vụ xả súng diễn ra. Nhưng Judah không chỉ sống sót qua vụ việc hồi mùa thu năm ngoái, mà hơn 7 thập kỷ trước, ông ấy cũng đã sống sót trong các trại tập trung của Đức Quốc xã. Hôm nay là sinh nhật lần thứ 81 của Judah.

Ông ấy nói rằng mình vẫn nhớ khoảnh khắc gần 75 năm trước, sau 10 tháng trời ở trong trại tập trung, khi ông và gia đình bị đưa lên một  tàu lữa để chuyển tới một khu trại khác. Đột nhiên, con tàu ấy rít lên rồi dừng lại. Sau đó, một binh sĩ xuất hiện, và gia đình của Judah đã chuẩn bị cho điều tệ nhất. Nhưng rồi cha ông ấy đã bật khóc vì quá vui mừng, khi nhận ra “đó là người Mỹ”.

Một người sống sót sau vụ diệt chủng nữa có mặt tại đây hôm nay là Joshua Kaufman, ông từng là tù nhân trong trại tập trung Dachau. Ông nhớ lại rằng mình đã nhìn qua một chiếc lỗ trên chiếc xe chở gia súc khi xe tăng của quân đội Mỹ tiến vào. “Đối với tôi”, Joshua nói, “những người lính Mỹ là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa tồn tại, và họ là những người được Ngài cử xuống”.

Trong phần đầu bài phát biểu tối nay, tôi đã vinh danh 3 người lính chiến đấu trong trận đánh đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp trong Thế chiến II. Một trong số đó là Herman Zeitchik. Nhưng câu chuyện của Herman chưa kết thúc. Một năm sau, ông ấy đã đổ bộ bãi biển Normandy, và Herman là một trong số những người lính Mỹ đã tham gia giải phóng Dachau.

Herman chính là một trong số những người lính Mỹ đã tham gia giải cứu Joshua từ nơi địa ngục trần gian đó. Và hơn 75 năm sau, Herman và Joshua đang hội ngộ tại căn phòng này với chúng ta, tại nước Mỹ tự do. Herman và Joshua: Sự có mặt của các ông tại đây tối nay chính là niềm vinh dự và tự hào của cả nước Mỹ.

Khi những người lính Mỹ đổ bộ từ trên không xuống eo biển Manche vào sớm ngày 6/6/1944, họ chỉ là những người lính trẻ, chỉ mới 18-19 tuổi, nhưng đã tham gia vào trận chiến quan trọng nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới.

Hộ không biết liệu mình có sống sót sau trận chiến hay không. Họ không biết liệu họ có được già đi không. Nhưng họ biết rằng nước Mỹ phải giành chiến thắng. Họ đã chiến đấu vì đất nước, và vì những thế hệ chưa ra đời.

Vì sao họ làm điều đó? Họ đã chiến đấu vì nước Mỹ, họ chiến đấu vì chúng ta.

Và với chiến thắng của họ, chúng ta đã đạt được tất cả những gì ta hiện có: bước nhảy vọt trong khoa học, và những tiến bộ vô song của chúng ta với sự bình đẳng và công bằng – tất cả đều trở thành khả thi nhờ vào xương máu, nước mắt, sự can đảm và tầm nhìn của những thế hệ đi trước.

Hãy nghĩ về Điện Capitol, hãy nghĩ về chính căn phòng này, nơi những nghị sĩ tiền nhiệm của các bạn từng bỏ phiếu chấm dứt chế độ nô lệ, xây dựng đường sắt và đường cao tốc, đánh bại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ các quyền lợi của người dân, hay đối mặt với một đế chế xấu xa….

Tại đây tối nay, chúng ta có các nhà lập pháp tề tựu từ khắp nơi trên nước Mỹ tuyệt vời. Các bạn đã đến từ những bờ đã của Maine, hay những đỉnh núi lửa của Hawaii; từ những khu rừng tuyết ở Winconsin và sa mạc đỏ của Arizona; từ những trang trại xanh mướt của Kentucky và bãi biển vàng của California. 

Cùng nhau, chúng ta đại diện cho quốc gia phi thường nhất trong toàn bộ lịch sử thế giới. 

Chúng ta sẽ làm gì trong thời điểm này? Chúng ta sẽ muốn được nhớ đến ra sao?

Tôi xin đề nghị các quý ông và quý bà trong Quốc hội: Hãy nhìn vào cơ hội phía trước! Những thành tựu rúng động nhất vẫn còn ở phía trước. Những hành trình ly kỳ nhất vẫn chờ đợi. Những thắng lợi to lớn nhất còn chưa tới. Chúng ta vẫn còn chưa bắt đầu giấc mơ.

Chúng ta phải lựa chọn giữa việc được định hình bởi chính những khác biệt của mình, hay dám vượt qua những khác biệt ấy hay không.

Chúng ta phải lựa chọn giữa việc phung phí những tài sản mình được kế thừa – hay tự hào tuyên bố rằng chúng ta là người Mỹ. Chúng ta làm những điều bất khả. Chúng ta thách thức những điều bất khả. Chúng ta chinh phục những điều ta còn chưa biết tới. 

Đã đến lúc khơi lại trí tưởng tượng của người Mỹ. Đã đến lúc kiếm tìm đỉnh núi cao nhất, phấn đấu vì ngôi sao sáng nhất. Đã đến lúc thắp lại mối liên kết của tình yêu và lòng trung thành, và những ký ức liên kết chúng ta trong vai trò người công dân, người láng giềng, những người đồng bào yêu nước.

Đây là tương lai, là số mệnh, và lựa chọn đang chờ chúng ta quyết định.. Và tôi yêu cầu các bạn hãy lựa chọn sự vĩ đại.

Bất kể chúng ta phải đối mặt với thách thức nào, gian nan nào, thì chúng ta cũng phải cùng nhau tiến bước. 

Chúng ta phải đặt nước Mỹ lên hàng đầu trong trái tim mình..Chúng ta phải giữ cho sự tự do sống mãi trong tâm hồn mình. Và chúng ta phải luôn giữ vững niềm tin vào vận mệnh của nước Mỹ – rằng một quốc gia, dưới sự chỉ dẫn của Thiên Chúa, phải là niềm hy vọng, là lời hứa, là ánh sáng và vinh quang giữa tất cả những quốc gia khác trên thế giới.

Xin cảm ơn qúy vị. Xin Thiên Chúa phù hộ cho qúy vị, Xin Thiên Chúa phù hộ cho nước Mỹ….

From: ntchaudl & NguyenNThu

Việt Nam tiếp tục bị xếp hạng quốc gia không có tự do

Việt Nam tiếp tục bị xếp hạng quốc gia không có tự do

2019-02-06

Hình ảnh tại buổi báo cáo thường niên của Freedom House 2019, hôm 5/2 tại thủ đo Washington D.C.

Hình ảnh tại buổi báo cáo thường niên của Freedom House 2019, hôm 5/2 tại thủ đo Washington D.C.

 RFA

Việt Nam vẫn không phải là một quốc gia có tự do. Đó là đánh giá của Tổ chức theo dõi tự do và dân chủ Freedom House có trụ sở tại Hoa Kỳ, công bố trong báo cáo thường niên 2019 vào ngày 5/2.

Cụ thể theo thang điểm từ 0 đến 100, với điểm 0 là ít tự do nhất đến 100 là tự do nhất, thì Việt Nam được 20 điểm, thuộc diện không có tự do.

Đối với thang điểm 1 là tự do nhất và 7 là không có tự do nhất, thì về đánh giá tự do Việt Nam ở mức 6/7, về các quyền chính trị, Việt Nam ở mức 7/7 và về các quyền tự do dân sự Việt Nam ở mức 5/7.

Theo báo cáo của Freedom House, năm 2018 là năm thứ 13 mà nền dân chủ gặp khủng hoảng và liên tiếp suy giảm trên toàn thế giới. Ngay cả Hoa Kỳ một quốc gia được xem là chuẩn mực của dân chủ nhưng đã bị xếp hạng ngang tầm với Hy Lạp, Croatia và Mông Cổ thấp hơn cả những quốc gia có nền dân chủ lâu đời như Đức và Anh.

Theo bảng báo cáo của Freedom House, sau 13 năm kể từ năm 2006 tổng cộng có 116 quốc gia có suy giảm ở mức báo động về tình trạng mất tự do và chỉ có 63 quốc gia có cải thiện đáng kể.

Các quốc gia được xếp hạng tệ nhất về tự do vẫn là Syria, Bắc Hàn và một số nước khác vùng Trung Đông, Trung Á và Châu Phi.

Tại khu vực Châu Á, được Freedom House đánh giá là nơi tình trạng mất tự do dân chủ ở mức báo động với sự tăng cường kiểm soát đối với truyền thông và an ninh mạng của Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác trong khu vực.

Sáu ngày Tết, 112 người chết, 150 bị thương vì tai nạn giao thông

Sáu ngày Tết, 112 người chết, 150 bị thương vì tai nạn giao thông

Một tai nạn giao thông trong ngày Mùng Ba Tết Kỷ Hợi làm 16 người chết, 40 người bị thương. (Hình: Người Lao Động)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Chỉ mới có 6 ngày đầu của kỳ nghỉ Tết Kỷ Hợi 2019, Việt Nam đã xảy ra 177 vụ tai nạn giao thông làm chết 112 người, bị thương 150 người.

Theo phúc trình của Văn phòng Bộ Công An, riêng ngày 7 Tháng Hai, 2019 (Mùng Ba Tết) ở Việt Nam xảy ra 32 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 15 người, bị thương 40 người và một vụ tai nạn giao thông đường sắt, làm chết 1 người.

Dân tộc không biết tự cứu

Dân tộc không biết tự cứu

7-2-2019

Dân tộc Việt Nam đang bị nhốt trong cái lồng cai trị của ĐCS. Với số lượng lên đến 100 triệu người, lẽ ra dân tộc Việt Nam có sức mạnh vô biên, nhưng cuối cùng chỉ là bầy cừu ngoan ngoãn. Với sức mạnh đó, họ dư khả năng tự phá bỏ xiềng xích để giải thoát cho mình thay vì cầu thánh thần đến mở cho.

ĐCS như là cái lồng nhốt cả dân tộc này vào đấy. Nhân dân đói nghèo cũng bởi sự cai trị của ĐCS; doanh nghiệp chân chính bị o ép, bị làm khó bởi luật, bị vòi vĩnh tiền do hối lộ cũng bởi sự cai trị của ĐCS; cuộc sống người dân phải chịu vô số những rủi ro như tai nạn giao thông cao, chết vì ung thư nhiều, thuế má nặng nề vv.. Tất cả đều bởi sự cai trị của ĐCS mà ra cả. Đứng trước những khó khăn như thế, dân tộc nào sáng suốt họ đã chọn cách bày tỏ thái độ chính trị để đi đến giải quyết rốt ráo nguyên nhân làm cho 100 triệu người phải cơ cực, cuộc sống bất ổn. Nhưng dân tộc Việt Nam lại cầu thánh thần.

Cái tử huyệt của dân tộc Việt Nam là tính cá nhân đến cực đoan, nhưng tính tập thể thì gần như không có. Với người Việt, khi bị bế tắc, đa phần là họ cầu thánh thần chỉ ban riêng cho họ sự giàu có mà quên rằng, nếu đất nước thịnh vượng thì tất cả mọi người, trong đó có họ con cháu của họ sau này cũng được hưởng. Khi người Việt đứng vào tổ chức, họ nghĩ ngay đến cách đấu người này, đè người kia để họ ngoi lên, cho nên hầu hết các tổ chức hoặc không thể lớn mạnh, hoặc bị mục rữa và giải tán. Sức mạnh của một dân tộc không chỉ nằm ở sự thông minh mà con phụ thuộc vào tính hy sinh vì cộng đồng và tinh thần trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng đó, với tổ chức đó. Theo tôi, tính tổ chức cao quyết định thành công nhiều hơn sự thông minh tính toán lợi hại cho riêng mình. Thông minh kiểu như thế, nếu gộp lại thì chỉ là một cộng đồng yêu, chắc chắn là vậy.

Trăm triệu dân, nếu biết sức mạnh của mình và sử dụng đúng, thì đủ để bẻ gãy xiềng xích CS như bẻ củi mục. Nhưng cuối cùng thì hoàn toàn thất vọng, cả dân tộc chỉ biết quỳ lạy khóc lóc van xin thánh thần cởi xiềng xích cho mình. Với một dân tộc như thế, thánh thần nào cởi xích cho? Lúc đó thánh thần sẽ nói “các ngươi dư sức bẻ gãy xiềng xích sao lại cầu đến ta?”. Và chắc chắn, thánh thần sẽ để cho dân tộc ấy chết trong cái xiềng xích đó mà thôi.

Chuyện kể rằng, một anh chàng bị ngã xuống nước. Hoảng quá anh ta vẫy vùng la hét kiêu cứu, nhưng chẳng ai nghe thấy. Và cuối cùng anh ta chết chìm. Khi vớt anh ta lên, người ta lội xuống ao kéo anh ta vào bờ một cách dễ dàng, vì đơn giản, cái ao chỉ sâu đến vai. Vâng! Anh ta chết vì anh ta không hề biết, chính anh ta có thể tự cứu được mình. Dân tộc Việt Nam réo gọi thánh thần cầu cứu cho mình trong khi chính mình không biết tự cứu trong tường hợp như thế. Muốn được cứu, phải thay đổi nhận thức và tìm cách tự cứu, đó là bài toán cho dân tộc Việt Nam, không có cách giải khác.

“NÔ LỆ” CHO THÁNH THẦN – DẤU HIỆU “MẠT VẬN” CỦA VĂN HÓA VIỆT:

“NÔ LỆ” CHO THÁNH THẦN – DẤU HIỆU “MẠT VẬN” CỦA VĂN HÓA VIỆT:

Sau gần một thế kỷ bị ép buộc, giáo dục vô thần, đến nay người dân lại quay sang cuồng tín, u mê hơn bao giờ hết.

BÀI BÁO:

Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần là con đường tắt dẫn văn hóa đến ngày “mạt”.

1-Một xã hội khói hương:

Nói ra thì bảo báng bổ, nhưng cứ thử nhìn mà xem, tháng Giêng năm nào, người ta cũng thấy rõ ràng nhất, đầy đủ nhất cái sự mê tín đến khủng khiếp của người Việt.

Một xã hội “khói hương”, với hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người chen chân mang vác thủ lợn, gà luộc, vàng mã, đủ thứ lễ lạt cồng kềnh và cầu kỳ khắp các chùa chiền, miếu, phủ; từ nơi xa xôi hẻo lánh đến thị thành nhộn nhịp; từ đầu tuần tới cuối tuần, dai dẳng hết cả tháng Giêng, tháng Hai, có nơi còn vắt sang tháng Ba.

Đâu đâu cũng thấy những người là người, nghi ngút khói hương, sì sụp khấn vái, cầu ước.

Xa xôi gì đâu, mới cách đây mấy ngày, dư luận khiếp đảm chứng kiến một cuộc hỗn chiến dã man bằng nắm đấm, gây gộc, hung hăng và máu để cướp cho bằng được quả “phết”, tại Phú Thọ. Vì tương truyền, có quả ấy trong nhà, cả năm sẽ may mắn, ăn nên làm ra, rồi cả …đẻ con trai.

Tối hôm sau, hàng chục nghìn người xếp hàng dài cả cây số, tràn khắp các con đường, ngay trục giao thông trung tâm của Thủ đô, vái vọng xa tít tắp vào ngôi chùa Phúc Khánh vì đặt niềm tin vào sự linh thiêng của nơi này.

Cũng đêm đó, ở đền Trần Nam Định, hơn vạn người chen lấn, giẫm đạp, nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà. Lộc ấy, dù được cướp theo cách báng bổ nhất, cũng được nâng niu như thứ bùa hộ mệnh cho lòng tin mãnh liệt vào đường công danh, thăng quan tiến chức.

Rồi các phủ, các đền, chùa, miếu mạo…cứ sau Tết là tấp nập người ra kẻ vào, khổ sở chen lấn, sớ cầu xin nào cũng dài dằng dặc ti tỉ ước mong.

Thôi thì, cầu mong những điều may mắn, tốt đẹp, an vui trong ngày đầu xuân năm mới vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt bao đời. Những địa danh tâm linh ấy, cũng được dựng lên từ ý nghĩa văn hóa và lịch sử đầy nhân văn của cha ông.

Nhưng thử hỏi, bao nhiêu người trong số các khách thập phương xa gần kia, mang cái tâm hướng thiện và cầu bình an thực sự đến với những nơi linh thiêng. Hay nhiều hơn thế, những kẻ đang hùng hổ cướp lộc và len lén mua khói bán nhang, mua thần bán thánh đến cầu khấn những điều biểu lộ sự tham lam vô độ của lòng người.

Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính.

Từ bao giờ, niềm tin của con người được “gá” vào thánh thần chứ không phải giữa con người với con người, giữa con người với ngay chính xã hội mà chúng ta đang sống, đang tồn tại hiển nhiên như vậy?

Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần.

2-Dấu hiệu “mạt vận” của văn hóa:

Văn hóa, chắc rồi cũng đến hồi “mạt vận”, khó mà ngóc đầu lên được, khi thay vì ngẩng cao đầu mà dũng khí, thì cả biển người lại sống bằng quỳ lạy dập đầu và đi “xin” giàu có, vinh hiển, con cái, công danh sự nghiệp… từ các vị thánh thần. Quỳ lạy xong nhảy bổ lên đầu người khác, lên cả bàn thờ để cướp hương hoa vàng lộc, “mạt” ở đấy chứ đâu.

Không “mạt vận” sao được, khi sự mê tín cực đoan đã đẩy con người vào sự ngu muội và làm trỗi dậy tính dã man nhất, ác độc nhất, hình thành cả một thế hệ hung bạo.

Vung gậy đánh gục cái người đang là anh, em, chú, bác gần gũi đó để mang bằng được cái may, cái lộc về nhà là cầu an hay là biểu hiện của sự phi nhân tính đến lạnh sống lưng?

Rồi từ sự hung hăng bạo ngược được “tôi rèn” ở nơi làng xã ấy, sẽ chẳng còn lạ khi người ta ra ngoài kia, lạnh lùng chém chết cả một gia đình vì mấy đồng bạc lẻ, xuống tay đâm chết một mạng người ngay trên bàn nhậu dễ dàng đến kinh sợ.

Xã hội khói hương dẫn văn hóa đi tắt đến ngày “mạt”, ngắn ngủi lắm.

(Theo An Yên trên VTC News)

NHỮNG AI ĐÃ PHẢN BỘI ÔNG CHA

NHỮNG AI ĐÃ PHẢN BỘI ÔNG CHA
– Nguyễn Đình Cống

“Ông cha của phần đông chúng ta đã theo Đảng Cộng sản , tôn sùng Chủ nghĩa Mác Lênin ( CNML ), làm CM để giành độc lập, mang tự do, dân chủ, hạnh phúc cho nhân dân. Nhiều người đã hy sinh xương máu. Thế mà giờ đây có một số người phê phán và đòi từ bỏ CNML, đòi xóa hoặc đổi tên đảng Cộng sản. Những người như vậy liệu có phản bội lại sự hy sinh của thế hệ ông cha, liệu có vi phạm vào đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”. Đó là vấn đề được nhiều bạn trẻ đặt ra yêu cầu giải đáp. Tôi viết để trả lời câu hỏi đó.

Tôi đọc sách “ Chủ nghĩa Lê nin” vào khoảng đầu năm 1945, lúc 9 tuổi, khi cán bộ Việt Minh Nguyễn Văn Đồng ( nay là trung tướng Đồng Sỹ Nguyên) đến vận động và giác ngộ cha tôi làm CM. Anh Đồng đã đem quyển sách đó cho cha tôi nghiên cứu, tôi vì tò mò mà đọc trộm và chỉ hiểu lơ mơ. Lớn lên tôi được học tập CNML khá nhiều, không những ở trong nước mà còn ở Liên xô. Quá trình nhận thức về CNML của tôi được chia thành 4 giai đoạn.

1- Từ 10 đến khoảng 30 tuổi là lúc chỉ biết tuyệt đối tin tưởng vào Đảng và Bác Hồ, cho rằng CNML là hoàn toàn đúng.
2- Từ khoảng 30 đến 50 tuổi ( 1966-1986) là giai đoạn có những nghi ngờ và suy nghĩ trước thực trạng có sự sai khác nhiều giữa lý thuyết và thực tế.
3-Từ khoảng 50 đến 70 tuổi ( 1986-2006 ) tôi để tâm nghiên cứu, tìm cách giải thích thực trạng của xã hội. Qua nghiên cứu tôi nhận ra sự sai lầm từ gốc của CNML, thấy rằng nó là tai họa cho cho nhân loại nói chung và cho dân tộc VN. Vì sợ bị quy kết, bị đàn áp mà tôi không dám công khai các ý kiến, chỉ thỉnh thoảng thì thầm trao đổi giữa những người bạn thân tín.
4- Từ trên 70 tuổi (từ năm 2006 trở đi ) tôi bớt dần và từ năm 2013 trở đi đã vượt qua được sự sợ hãi nên mới công khai viết một số bài phê phán và vận động từ bỏ CNML. Cũng là nhờ vào Internet.( tóm tắt 4 giai đoạn là : tin, nghi, sợ, vượt ).

Tiêu chuẩn để đánh giá một học thuyết chính trị là thực tế thu được khi áp dụng nó vào cuộc sống chứ không phải do suy luận. Giá trị thực của học thuyết nằm ở bản chất của nó, được xây dựng nên từ những luận cứ và luận chứng đầy đủ, minh bạch, chính xác, trung thực chứ không phải nó đúng vì đã có bao nhiêu người hy sinh xương máu cho nó, không phải dựa vào sự tuyên truyền dối trá, ngụy biện. Trong lịch sử có nhiều dẫn chứng về việc hàng triệu, hàng chục triệu người hy sinh để bảo vệ sự độc tài tàn bạo mà kẻ thống trị đưa ra sự vinh quang hão huyền để lừa bịp, thí dụ Tần Thủy Hoàng, Napôlêông, phát xít Hitle, Muxôlini ….

Đã có đầy đủ các chứng minh rằng CNML là sai lầm, chứa nhiều độc hại. Nó tồn tại được, mê hoặc được một số khá đông người trong một thời gian là dựa vào sự tuyên truyền dối trá, sự ngụy biện, sự hứa hẹn hão huyền. Và khi các đảng theo CNML đã nắm được chính quyền thì còn dùng thủ đoạn đàn áp của nền thống trị độc tài với lực lượng công an hùng hậu. Sự khủng bố, đàn áp nhân dân ở Campuchia, ở Trung quốc dưới chế độ cộng sản, sự sụp đổ của Liên xô và các nước XHCN Đông Âu là bằng chứng hùng hồn về sai lầm và tác hại của CNML.

Đảng CSVN được Nguyễn Ái Quốc thành lập năm 1930, tuy có liên quan đến CNML nhưng thực sự là dựa trên lòng yêu nước của nhân dân mà chủ yếu là của những người ưu tú để đánh đuổi thực dân, giành độc lập, chống áp bức chứ không phải để thực thi CNML bằng đấu tranh giai cấp và làm chuyên chính vô sản, càng không phải để xây dựng chế độ độc tài . Tiêu đề Việt nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập Tự do Hạnh phúc do Hồ Chí Minh nêu ra là một minh chứng.

Ông bà, cha mẹ, anh chị chúng ta hy sinh xương máu là vì lòng yêu nước, vì độc lập, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân, chứ không phải vì CNML, không phải để bảo vệ CNML. Kể cả nhiều đảng viên cộng sản, họ hy sinh, họ bất khuất cũng chính vì lòng yêu nước chứ không phải vì CNML. Khác với một số nước cộng sản khác, ở Việt nam CNML tồn tại được , ban đầu là nhờ bám vào lòng yêu nước của các thành phần ưu tú của dân tộc. Đảng CSVN phát triển được là dựa vào lòng yêu nước của phần đông nhân dân. Nhưng đến khi đã nắm được chính quyền thì ĐCS lại vì bảo vệ và thực thi ý thức hệ cộng sản mà đề cao chuyên chính vô sản, thâu tóm quyền lực, hình thành nên giai cấp thống trị mới với các nhóm lợi ích, với tệ tham nhũng, mua quan bán tước. ĐCSVN quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất, tạo điều kiện cho quan chức chiếm đoạt để làm giàu, tạo nên vô số dân oan, đàn áp các phong trào dân chủ, vu cáo để bỏ tù hàng ngàn, hàng vạn người bất đồng chính kiến, vay nợ nước ngoài, sử dụng tiền thuế của dân và tài sản quốc gia, chỉ dùng một phần để phát triển kinh tế và quản lý xã hội , còn phần lớn để làm những công trình xa hoa, lãng phí (có một số đắt nhất và mau hỏng nhất thế giới), tổ chức liên hoan tiệc tùng và tiêu xài lãng phí, một phần không nhỏ được chia nhau bỏ túi, tạo nên những nhà tư bản đỏ. Quan chức của Đảng to mồm rao giảng “ Nhà nước của dân, do dân, vì dân, xây dựng đời sống dân chủ, tự do, hạnh phúc…”, nhưng đó chỉ là khẩu hiệu, là lời nói suông, còn thực tế như thế nào thì mọi người đã biết rõ.

Như vậy có thể kết luận một cách chắc chắn : Những kẻ tham nhũng đang cầm quyền, đang mua quan bán chức, đang đàn áp dân chủ và tạo nên những oan trái cho dân, những kẻ đang thần phục, chịu lệ thuộc vào Trung Cộng, dâng đất đai, biển đảo cho chúng chính là bọn phản lại sự hy sinh xương máu của ông cha, phản lại mục tiêu cao đẹp của CM là tự do , hạnh phúc của toàn dân. Chúng nó luôn mồm cao giọng tuyên bố là kế tục sự nghiệp CM cứu nước của các bậc tiền bối, nhưng thực tế chúng nó đã phản bội lại lý tưởng ban đầu của các chiến sĩ cộng sản , chúng nó chiếm đoạt thành quả của dân tộc để làm giàu riêng. ĐCSVN hiện nay và ĐCSVN lúc thành lập là cùng tên nhưng bản chất không giống nhau, là hai đảng khác nhau xa. Ông cha chúng ta theo ĐCS là theo đảng trước đây chứ không theo đảng bây giờ.

Ông cha chúng ta vì lòng yêu nước, khi biết ĐCS được thành lập để làm CM giành độc lập, lại có lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thì vội tin, đi theo và sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa. Khi đã đi cùng ĐCS, họ bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, bị lừa dối nên tin theo một chiều mà không thể biết được những độc hại của CNML, không biết được mặt trái và sự thâm độc của ĐCS. Nếu họ biết rõ , khi ĐCS nắm được chính quyền sẽ trở thành độc tài chuyên chính vô sản, rồi toàn bộ ruộng đất của tổ tiên để lại sẽ bị sung công, rồi con cháu của họ sẽ bị đảng khép vào vòng ý thức hệ thì chưa chắc họ đã tin và theo như thế. Như vậy phần đông trong số họ đã bị lừa dối, bị nhầm lẫn, phạm vào sai lầm “ đuổi hổ cửa trước, rước sói cửa sau”.

Khi biết ông cha đã nhầm đường, không lẽ chúng ta lại tiếp tục đi theo một cách mù quáng. Xin đừng ngộ nhận là ông cha đã hy sinh xương máu là nhằm tạo nên một chế độ độc tài như hiện nay. Làm con cháu mà không sửa được cái sai, cái nhầm của ông cha là loại ngu đần, tưởng là có hiếu nhưng thật ra là bất hiếu. Không sớm thì muộn, cách gì rồi dân tộc VN cũng giác ngộ ra chân lý và từ bỏ CNML, cách gì rồi chế độ cộng sản cũng sụp đổ hoàn toàn, càng kéo dài nó ngày nào là có tội với dân tộc, có tội với ông cha ngày đó. Như vậy những người phê phán và vận động từ bỏ CNML mới là người yêu nước, yêu dân thật sự, họ chống lại những giáo điều lạc hậu, chống lại sự toàn trị chuyên chính vô sản, chống lại bất công, tàn bạo và áp bức do ĐCS gây ra, họ thật sự vì tự do và hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy họ mới chính là những người tiếp bước sự nghiệp và nguyện vọng của ông cha. Còn về việc uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây thì đó là lòng chúng ta biết ơn, tưởng nhớ, kính cẩn thờ phụng ông cha và các liệt sĩ chứ không phải là việc nối tiếp và phát triển những sai lầm, không thể là việc tôn thờ những điều dối trá, những tội ác của những kẻ đã lừa dối họ và đang tiếp tục lừa dối chúng ta. Mong các bạn trẻ tỉnh táo, tự suy nghĩ bằng đầu óc của mình, dùng thực tế để kiểm chứng, đừng bị mắc vào vòng tuyên truyền lừa dối.”

Image may contain: 1 person, text

Kẻ độc tài bao giờ cũng ngu ngốc và tàn nhẫn

Trung Minh Le shared a post.
Image may contain: 1 person

Trần Bang

FB Chu Vĩnh Hải:

Ngày hôm nay, theo giờ Việt Nam, tổng thống gian lận bầu cử ở Venezuela, ông Maduro đã không cho Mỹ, Canada và một số quốc gia khác đưa hàng cứu trợ thiết yếu vào Venezuela thông qua ngã Colombia bất chấp các cảnh báo từ Hội chữ thập đỏ quốc tế rằng, nếu không được viện trợ thực phẩm và thuốc men, có khả năng 300.000 người dân Venezuela sẽ chết đói và chết vì bệnh tật trong thời gian 01 tháng tới.

Ông Maduro cho rằng, viện trợ nhân đạo của Mỹ và đồng minh chỉ là cái cớ để che đậy một cuộc chiến tranh lật đổ ông ta. Kẻ độc tài bao giờ cũng ngu ngốc và tàn nhẫn. Nó chỉ biết bảo vệ ngai vàng được dát bằng máu và nước mắt của nhân dân, coi thường cuộc sống và sinh mệnh của nhân dân.

Sự từ chối viện trợ nhân đạo của Maduro làm tôi liên tưởng đến một sự kiện tương tự cách đây khoảng gần 60 năm. Vào cuối những năm 1950 đầu những năm 1960, Trung Quốc của đồ tể Mao Trạch Đông lao đầu vào cuộc cách mạng điên rồ đại nhảy vọt. Nhà nhà làm sắt thép, ngành ngành làm sắt thép. Và nạn đói đã diễn ra khiến hàng chục triệu người Trung Quốc đã chết đói.

Thảm họa nhân đạo ở Trung Quốc đã lọt ra thế giới bên ngoài. Qua kênh ngoại giao, chính phủ Hoa Kỳ đề nghị được viện trợ(không hoàn lại) cho nhân dân trung quốc hàng chục triệu tấn lương thực và nhu yếu phẩm khác. Chi phí vận chuyển và chi phí phân phát do Hoa Kỳ gánh chịu.

Thế nhưng, với sự ngạo mạn của một bạo chúa, Mao Trạch Đông đã từ chối khoản viện trợ từ Hoa Kỳ và nhiều quốc gia dân chủ khác. Ông ta nói với những người thân tín rằng: “Chúng ta không cần bơ thừa sữa cặn của đế quốc Mỹ và những bọn đạo đức giả khác. Nếu bọn Mỹ cần, chúng ta có thể viện trợ ngược lại cho họ”.

Thế đó, bọn độc tài ở đâu cũng tàn bạo và ngu dốt. Chúng chỉ biết đến quyền lực và quyền lợi của chúng. Thân phận của nhân dân đối với chúng chỉ là những xác chết biết đi.

ĐIỀM

ĐIỀM

Đầu năm 2019 đánh dấu XHCN Venezuela đi đến những ngày cuối cùng của nó. Nhân dân đang dõi theo tình hình bên tận nửa vòng trái đất để tận mắt nhìn thấy cơn hấp hối của một mô hình chính trị gần giống với Việt Nam. Từ cái chết của XHCN nước này, người dân cũng hiểu rằng thế nào cái thể chế được gọi bằng cái tên dài ngoằn CHXHCNVN cũng sẽ đi đến thời điểm như vậy.

Nhìn cơn hấp hối của XHCN Venezuela, CSVN cũng sợ cho cái kết của của mình. ĐCSVN thừa biết, CHXHCNVN của họ cũng đang mang cùng một loại virus của kẻ sắp chết – XHCN Venezuela nên họ phát hoảng. Trên hàng loạt trang báo, Ban Tuyên Giáo cho đăng bài “Cảnh giác lợi dụng bất ổn ở Venezuela để xuyên tạc tình hình Việt Nam”, điều đó cho thấy CSVN họ sợ điềm báo cho chế độ.

Người CS ngày nay họ không không phải vô thần như cha ông họ, mà đã tin hơn tâm linh. Họ có lòng tham vô độ nhưng họ cũng muốn chính họ không phải gánh sự trừng phạt của trời đất. Chính vì thế, họ hay tìm đến đền chùa linh thiêng cầu khấn. Trước thềm Đại Hội 12, Nguyễn Tấn Dũng và Trần Bắc Hà sang tận Ấn Độ cầu phật. 6 tháng trước khi chết, Trần Đại Quang cũng đến chính ngôi chùa đó gục đầu vào bức tường cầu khấn. Và cuối cùng Trần Bắc Hà và Trần Đại Quang không thoát được quả báo, còn Nguyễn Tấn Dũng thì đang như ngồi trên đống lửa khi lò Nguyễn Phú Trọng dí sát vào mặt.

Pháp Quyền XHCN của CSVN là thứ luật mà ai có tiền cũng đều có thể hối lộ để CS bẻ cong luật. Nhưng luật trời không thế, ai đã gieo nhân nào thì kẻ ấy phải nhận ngay cái quả từ nhân mà chính họ đã gieo. Tưởng luật trời giống luật CS nên họ hối lộ, cầu khẩn, và kết quả là đã thất bại.

Ông Nguyễn Phú Trọng là người cuồng chủ thuyết CS và trung thành tuyệt đối với chủ tuyết ấy, nhưng ông ta không phải vô thần mà cũng tin vào tâm linh. Đã 75 tuổi, ông ta thừa trí tuệ và thừa kinh nghiệm để chiêm nghiệm lại quy luật của trời. Trước khi đi đến một biến cố lớn, trời thường có mang đến những dấu hiệu báo trước hoặc qua lời một con người nào đó tiên đoán đúng thời điểm xảy ra biến cố. Ở trời Tây người ta gọi đó là “tiên tri”, trời Đông người ta gọi đó là ” điềm”. Nếu tin ở tâm linh ắt hẳn ông Trọng cũng tin vào điềm.

Không biết cơn hấp hối của XHCN Venezuela có phải là điềm cho Việt Nam hay không, nhưng sao thấy cách hành động của Ban Tuyên Giáo dường như CSVN đang rất sợ những điềm báo cho họ.

Giờ phút giao thừa, Nguyễn Phú Trọng đọc lời chúc tết với thần thái nhìn rất vô hồn. Không biết đó có phải là điềm cho một cuộc sóng gió ĐCS không? Nếu đúng thì nhân dân vui sướng lắm.

— Đỗ Ngà —

DONGA.BLOG
Do Nga, Đỗ Ngà, Đỗ Văn Ngà, Facebooker Do Nga, Facebooker Do Van Nga, Do Van Nga, freedom, Vietnam

Nghĩ gì về những con số này?

Nghĩ gì về những con số này?

Một du khách người Anh có mặt ở Hà Nội nói rằng người Việt Nam uống quá nhiều rượu trong dịp Tết mà không hề nghĩ đến hậu quả tai hại.
NGUOI-VIET.COM