Bùa ngải trở lại Việt nam

Bùa ngải trở lại Việt nam

Nguyễn thị Cỏ May

Thật vậy vì trong thời gian gần đây, trên nhiều mạng xã hội, bổng xuất hiện thị trường bùa ngải náo nhiệt không thua chợ Trời vùng biên giới . Bùa ngải được quảng cáo rầm rộ là vô cùng linh nghiệm. Tình duyên trắc trở, bị tình phụ, nợ không đòi được, làm ăn thất bại, mua chức, mất tiền mà đợi hoài chưa có kết quả, bệnh tật kéo dài chạy chửa đủ thầy hết thuốc…Còn đợi gì nữa ? Hảy tìm thầy thỉnh bùa, chuộc ngải là mọi chuyện sẽ được giải quyết vô cùng tốt đẹp .

Hìện tượng bùa ngải ở Việt nam ngày nay, không chỉ sôi nổi trên mạng xã hội, chợ thông tin vô thưởng vô phạt, mà cả trên báo Sài gòn Giải phóng, Cơ quan của đảng cộng sản ở Sài gòn (Ngày 29/09/2018) cũng loan tin nhưng không quên thêm câu thiệu «Việc bán bùa ngải và tuyên truyền mê tín dị đoan là hành vi vi phạm pháp luật, gây nhiễu loạn đời sống» .

Trước đây, vào nửa đầu thế kỷ XX, giai đoạn cuối của chế độ thực dân, ở Việt nam, nhứt là ở Nam kỳ, cũng rộ lên những hoạt động bùa, ngải, lên đồng, gồng, …vừa thỏa mản mê tín dân gian, vừa là bình phong cho những hoạt động chống Tây của các các Hội kín .

Cho tới chiến tranh kết thúc, hiện tượng bùa ngải, lên đồng mới tàn lụi .

Loại «khoa học huyền bí» này thật ra không phải chỉ có ở Việt nam vì nước chậm tiến mà ngày nay cũng đầy rẫy ở cả những nước tiên tiến như Pháp và Âu châu . Nó là sản phẩm của con người và xã hội .

Khi nói về bùa ngải ở Việt nam, người ta có nhận xét người Nam giỏi về bùa ngải, người Trung giỏi về thư phù, người Bắc thì giỏi về độc trùng (nuôi thuốc độc). Sự nhận xét này nếu đúng, phải chăng là do hoàn cảnh lịch sử và địa lý ? Người Nam chịu ảnh hưởng của huyền bí Cao Miên và Lào nên sự phát triển về ngãi nghệ cũng do đó mà ra. Người Trung chịu nặng ảnh hưởng của văn hóa và đạo thuật Chiêm Thành nên thịnh về phù thư, ếm đối và người Bắc thì chịu ảnh hưởng nặng của Trung Hoa do gần gủi, nơi xưa kia từ vua quan tới thứ dân chuyên dùng hương mê và thuốc độc để triệt hạ đối thủ .

Nhưng cũng may mắn là số người sử dụng những thứ huyền bí này chỉ là số rất thật ít . Và có sử dụng nhưng sự ứng nghiệm có được như ý mong muốn hay không lại là chuyện khác nữa . Bỡi xưa nay người ta thường nói «Đức trọng quỉ thần kinh» . Hay giử được «Chánh niệm» thì mọi thứ tà đạo đều không thể ảnh hưởng .

Đủ mặt hàng

Cứ lướt một vòng qua các chợ bùa ngải trên mạng, người ta sẽ thấy rất nhiều trang đăng bán bùa ngải, với đủ các loại được giới thiệu quả quyết là có tác dụng thần kỳ không có gì bằng khi muốn nhờ giúp giải quyết thuận lợi tình duyên, kinh doanh . Đặc biệt có nhiều loại có thể sai khiến người khác hành động theo lời mình, hoặc làm cho đối phương tán gia bại sản, hay đem lại may mắn tiền vào như nước… Chưa biết sự lợi hại thật sự như thế nào nhưng thực tế đã có không ít người, đang trong hoàn cảnh bức bách hay vì lòng tham thúc đẩy, đã dám bỏ ra số tiền lớn để mua về sử dụng .

Hể có người bán thì có người mua . Đã bảo là chợ mà !

Cách thức mua bán cũng rất đơn giản . Giá cả hoàn toàn phụ thuộc theo độ linh ứng của bùa . Bùa mắc tiền dĩ nhiên phải mạnh hơn bùa rẻ tiền .

Mua bán tuy nói là chợ nhưng chỉ diển ra trên mạng . Chợ trên mạng . Sau khi giá cả ngã ngũ qua thương lượng bằng điện thoại, hàng sẽ được giao tận nhà bằng đường bưu điện . Cách quảng cáo bán hàng cũng vô cùng hiện đại . Họ đưa ra nhiều người đã xài bùa rồi, nói cho biết kết quả, làm nhân chứng . Chưa đủ thuyết phục những người khó tánh, họ vận dụng cả kỷ thuật livestream giới thiệu khách hàng đã hài lòng và cả thầy bùa đang luyện bùa . Cho sống động hơn . Ai coi mà không tin?

Giá của một đạo bùa ? Từ 5 triệu đồng tới 10 triệu và 20 triệu đồng nữa . Bùa của Việt nam rẻ hơn bùa Thái lan . Hàng nội dĩ nhiên giá rẻ hơn hàng nhập . Qui luật thị trường nước ta mà .

Chế độ cộng sản phủ nhận mọi sanh hoạt tâm linh, cả tôn giáo còn bị lên án là thuốc phiện . Thế mà sau hơn nửa thế kỷ cai trị Miền Bắc và gần 50 năm ở Miền Nam, ngày nay bùa ngải lại xuất hiện trở lại, với mức độ ồ ạc phi thường . Đặc biệt hơn, giới trẻ tin tưởng mạnh ở quyền lực bùa ngải, rất nhiều người mua về xài . Chợ bùa ngải đang phát đạt . Người buôn bán bùa ngải đang ăn nên làm ra.

Tìm hiểu đôi chút về chợ bùa ngải

Nhiều người đều nghe nói về bùa ngải . Công dụng của bùa ngải là đem lại  lợi lạc cho người sử dụng hoặc điều xấu cho người bị ám hại .

Tuy sản phẩm có nhiều nhản hiệu khác nhau, có thứ nội hóa (thứ lô-can), có thứ nhập ngoại nhưng tựu trung đó đều là thứ pháp thuật sai khiến theo ý muốn nhằm đạt mục đích của người sử dụng . Nên có thể nói bùa ngải tự nó không có «tốt» hay «xấu», «lành» hay «dữ» mà hoàn toàn do lòng người thiện hay ác khi sử dụng mà thôi .

Mời bạn đọc theo chơn nhà báo của báo Dòng Đời (Em Đẹp, 26/01/2016, internet) viếng một thầy bùa tại nhà riêng của ông ở Quận Bình Thạnh để có vài ý niệm về người của bùa ngải . Đặc biệt ông thầy bùa này là một người có bằng cấp Cử nhơn Luật, năm nay hơn bốn mươi tuổi, không làm ăn theo sự hiểu biết của mình mà chuyên tâm học hỏi, nghiên cứu bùa ngải . Điều này cho thấy ông khác hơn nhiều thầy bùa khác phần đông đều học ít, thích làm thầy vì sướng hơn làm việc khác . Ông ở đây một mình vì gia đình ở nước ngoài .

Căn nhà của ông khá rộng nhưng thường cửa  đóng then gài . Bên trong, ông để rìêng một căn phòng làm nơi làm việc, đèn nhang nghi ngút . Dụng cụ làm việc của ông trên bàn là giấy, viết và mực . Trên tường treo đầy hình ảnh các Tổ sư bùa ngải của Tàu, Thái, Ấn độ, …Theo ông, ngoài bùa ngải, còn có nhiều pháp thuật khác như thần thông, thôi miên, nham độn, …

Bùa ngải và các pháp thuật liên hệ, theo ông, có lịch sử lâu đời, ít nhứt phải từ 8000 năm . Nó gần gửi với sanh hoạt con người và tôn giáo .

Ở Việt nam có nhiều thứ pháp thuật bản địa hoặc du nhập . Như trường phái xuất phát từ các dòng Nam Tông (Ấn độ, Thái lan, Miến điện, Cao miên, Lèo, …), hoặc dòng Tiên Đạo (Tàu, Tây tạng, …) và bản địa như từ người Thượng ( người Mường) . Mỗi thứ có cái hay, có mặt yếu nhưng đều vận dụng để chửa bệnh cứu người, chớ không để ám hại người cho những mục đích mờ ám như thưòng xảy ra .

Người làm bùa ngải hay pháp thuật với mục đích hại người đã phạm vào đại kỵ và quả báo rất lớn . Như trường hợp một thầy bùa ở Tây Ninh chuyên ếm bùa hại người theo yêu cầu . Ông này sống đến 60 tuổi thì bị điên rồi chết. Con cháu ông không hiểu vì sao đều bị điên cùng lúc. Thầy khẳng định việc trả giá như vậy trong huyền giới không hiếm.

Có những dòng huyền thuật hơn 2.000 năm vẫn báo ứng, nhiều thế hệ “chịu tội” là chuyện bình thường. “Đáng buồn là cuộc sống càng phát triển, dục vọng con người càng lớn. Thầy bùa hoạt động công khai, nhiều người chỉ học lỏm được ít kỹ năng đã xưng thầy và hành nghề”.

Ông kể có người bạn chuyên vẽ bùa ở Sài Gòn, khách đông đến nỗi mỗi ngày ông “vẽ bùa” gần 10 tiếng đồng hồ. Mỗi khách như vậy lại “cúng tổ” ít nhất 100 ngàn đồng. Mỗi ngày ông này thu nhập trên dưới 10 triệu đồng. “Nghề” thầy bùa hấp dẫn đến mức con trai ông đang là sinh viên đại học cũng nghỉ ngang, theo cha học lóm 3 năm và đến nay cũng đang vẽ bùa để làm giàu.

Để minh chứng cho “đẳng cấp” thu nhập thầy bùa, ông «Thầy bùa Cử nhơn Luật» dẫn nhà báo Dòng Đời đi gặp pháp sư N., một thầy có tiếng cao tay nghề ở Sài Gòn . Trước khi đi, ông dặn kỹ không được quay phim hay ghi âm và không được nêu danh ông thầy này vì để tránh phiền phức (làm lén, ổng biết được sẽ ếm bùa làm hại ?). Nhà thầy N. nằm sâu trong một con hẻm ngoằn nghoèo ở Quận Bình Thạnh . Căn nhà được canh gác cẩn mật, vòng trong vòng ngoài cả chục người và thường xuyên đổi địa điểm để tránh bị phát hiện. Phòng khách nhà thầy N. dù còn sớm đã có vài chục người ngồi chờ . Những người đến xin bùa phép đều ăn mặc sang trọng, có cả nhiều cô gái trẻ xinh đẹp.

Theo “giá cả” mà mọi người dặn nhau, vào diện kiến thầy N. thì ít lắm cũng phải “đặt tổ” 500.000 đồng mới xứng với tên tuổi của thầy . Vì vậy, thu nhập của thầy N. mỗi ngày vài chục triệu, thuộc loại «đỉnh» của giới thầy bùa.

Khách xin bùa đều thuộc giới giàu có . Các cô xinh đẹp tới xin bùa yêu để ếm các đại gia. Nghe đâu trong giới đại gia cũng có lắm người là thân chủ trung thành của thầy .

Thầy bùa Cử nhơn Luật cho biết hiện tại có rất nhiều người xưng pháp sư, quảng cáo tràn lan, công khai trên mạng. Nhưng để học được huyền thuật, phải có duyên, người không được chọn thì suốt đời không học được. Tùy vào dòng phái mà thời gian cảm thụ huyền pháp dài hay ngắn. Ít nhất cũng phải mất 5 năm tu luyện khổ cực .

Chính ông dù chưa ở ngưỡng giới cao nhứt nhưng để duy trì pháp lực, một năm phải mất một trăm ngày luyện công. Mỗi lần như vậy phải giử trai giới, ở một mình trong phòng, cắt hết liên lạc với thế giới bên ngoài. Phải làm như vậy thì huyền lực mới thẩm thấu, mới lưu giữ được.

Làm pháp sư phải chịu gian khổ . Việt Nam hiện có 200 pháp sư . Nếu nói đạt đến bực cao thủ thì chỉ có 3 người. “Muốn đi đến bực Thầy thật sự, bực chơn sư, thì không thể dùng huyền thuật mưu sinh hay làm giàu”. Hiện nay, chính người cho bùa chú cũng không hiểu mục đích chơn truyền của huyền thuật. Còn người ham mê bùa chú thì tin mù quáng nên chợ bùa nhờ đó mới nở rộ.

Bùa ngải

Theo thói quen, người ta thường nói chung thành một danh từ ghép «bùa ngải» . Thật ra «bùa» và «ngải» là 2 thứ hoàn toàn khác nhau tuy mục đích sử dụng không khác nhau .

Bùa là ký tự viết hay vẽ trên gìấy, trên một mặt phẳng nào đó để «ếm», tạo chuyện lành hay chuyện dữ . Vì là ký tự nên chữ bùa không đọc được . Thầy bùa chỉ nhớ tự dạng mà biết đó là loại bùa xài cho mục đích gì . Khi trẻ con mới tập viết, thường chúng viết chữ nghuệch ngoạc, bị rầy là «viết như vẽ bùa» !

Nhưng nếu bùa chỉ là những chữ lăng quăng thì sẽ không có nghĩa gì hết . Nó phài có một sức mạnh để nó sai khiến . Nên bùa là những ký tự sai khiến nhằm đạt mục đích mong muốn . Như vậy, thầy bùa phải luyện bùa . Bằng nhiều cách . Điều kiện là chổ yên tịnh, sạch sẻ, ngồi tập trung tư tưởng vào chữ bùa vừa hiện trong đầu . Giử như vậy, đầu óc không xao lảng, càng lâu, càng vững, càng tốt, rồi nuốt chữ bùa vào bụng . Giai đoạn kế, người luyện tập tiếp tục với tư thế ngồi nhìn mặt trăng, rồi nhìn mặt trời, hình dung chữa bùa, hít hơi dài và nuốt vào bụng . Sau cùng, nhìn ánh chớp khi Trời chuyển mưa, trong trí vẻ mau chữ bùa và nuốt vào . Tới đây là đạt được nội lực cao rồi, có thể vận dụng bùa theo ý muốn của mình được . Để giử cho bùa linh ứng, thầy bùa phải năng luyện tập . Và giử nhiều kiêng cử . Như thầy tu giử giới luật . Đúng là «Văn ôn, võ luyện» . Nếu không thì bùa chỉ còn là hình vẽ mà thôi .

   Bùa yêu (tặng ai thât tình hoặc muốn có bồ)

Ở Nam kỳ, vào tiền bán thế kỷ trước, bùa Lỗ Bang thịnh hành nhứt . Là bùa của thợ mộc . Lỗ Bang là ông Tổ của thợ mộc . Thợ mộc cất nhà là phải ếm chủ nhà . Tùy theo sự đối sử của chủ nhà mà ếm nặng hay nhẹ . Nặng là gia chủ làm ăn ngày càng suy sụp, bệnh hoạn, có khi mất mạng vì tai nạn . Nhẹ là chỉ gây xáo trộn trong nhà . Như ếm ở cửa giữa nhà trên và nhà sau . Khi con dâu đi qua cửa thì vổ vào cửa và cười mấy tiếng, làm cho bà mẹ chồng nổi giận vì cho rằng con nhỏ này sao cứ giởn hoài, không giử gìn ý tứ của đàn bà con gái .

Xin kể lại trường hợp của chính tác giả . Đúng vậy . Nhà của Cỏ May ở nhà quê trước kia bị thợ mộc ếm bùa lỗ bang trên đầu cây cột cái, tức hàng cột chánh giữa nhà . Tôi còn nhớ nghe ba tôi nói chuyện lại . Hôm sáng dựng đòn vong, vào đúng giờ tốt được chọn lựa, má tôi sửa soạn một mâm cơm cúng đất đai . Thợ chánh leo lên để điều khìển đưa cột kèo, đòn vong, … Gia chủ cũng leo lên đở cây đòn vong, gác lên, một cử chỉ biểu hiện uy quyền chủ nhà . Nhưng đúng vào lúc đó, người thợ chánh không bước lên thang được, và miệng lại ú ớ không ra lệnh được . Thợ phụ làm theo tay chỉ trỏ của thợ chánh . Sườn nhà vẫn được dựng lên đàng hoàng .

Nhà cất xong . Cả nhà sống trong nhà mới .

Cứ đến tối, sau khi tắc đèn, thì ở chưn cột cái liền với vách, phát ra tiếng gỏ cộp… cộp … . Ba tôi ngồi dậy, thắp đèn, thì tiếng động hết . Tắc đèn, nằm trở lại, thì tiếng cộp cộp lại vang trở lại .

Sáng ra, ba tôi tìm kiếm chung quanh gốc cột, xới đất bên ngoài coi có con gì ẩn núp không, thì không thấy có gì hết . Dỉ nhiên ba tôi cũng rước thấy bùa, thầy ngải, ếm, cúng kiến nhưng vẫn không hết .

Một hôm, ba tôi lên Chợ lớn, vùng Phú thọ, thăm Tổ đình, nơi thờ ông thầy bùa mà ba tôi trước đó có theo học tuy ông là y tá học ở nhà thương Chợ Rẩy . Vừa bước vào, người học trò giừ đền, úng khẩu, nói với ba tôi “Hôm lên đòn vong nhà mầy, thằng thợ chánh muốn leo lên ếm trên đầu cột cái, ếm nặng hại mầy . Thấy vậy, tao bóp họng nó, không cho nó leo lên . Nó ếm dưới chưn cột . Nó lấy cây đinh, xỉa răng chảy máu, vẻ bùa ở dưới chưn cột . Cứ để đó, lâu ngày, nó hết . Không hại gì đâu . Nó sợ nên không dám làm ác” .

Thợ mộc ở Cần đước (Quận của tỉnh Chợ lớn thời đó, sau này thuộc tỉnh Long an) có tiếng thợ giỏi . Ghe Cần đước nổi tiếng ghe đẹp . Và ở đây cũng là xứ sở của bùa Lỗ bang .

Thầy bùa Lỗ Bang cao thắp là do công phu luyện tập . Chuyện khá ly kỳ xảy ra ở Cần đước . Một gia đình làm ăn khá giả, cất nhà mới . Rước thợ tới cất nhà . Việc làm phải mất nhiều tháng, có khi cả năm . Gia chủ có trách nhiệm nuôi ăn, nuôi ở cho ê-kiếp thợ . Thường gia chủ rất mực hầu hạ thợ mộc để tránh mích lòng, sanh ra “chuyện không hay” sau này . Thế mà nhà cất xong, gia chủ vẫn bị ếm nặng . Việc làm ăn gặp rủi nhiều hơn may . Ông chủ nhà bị bệnh liên miên . Người xuống sắc, trông phờ phạt . Một hôm đi trên lề đường liên tỉnh (Cần đước đi Gò công), bổng ông băng qua lộ trong lúc xe đò chạy tới . Ông bị xe đụng, té xuống đường nhưng may mà tánh mạng an toàn .

Có lẽ do chuyện ở nhà làm tinh thần của ông bị khủng hoảng trầm trọng mà ông trở thành như người mất trí . Cứ tối, sau khi tắc đèn đi ngủ, chỉ còn để trên bàn thờ ngọn đèn nhỏ, ai còn thức, sẽ thấy thằng nhỏ từ trên đầu cột cái, tuột xuống gần tới đất thì mất .

Cả nhà phải rút vào một phòng cho khỏi sợ .

Nghe tiếng ông Hương thân Lịch ở làng Vỉnh thanh, Cần giuộc, là thầy bùa giỏi . Ông chủ nhà tới rước thầy giải bùa cứu giúp . Nghe chuyện, ông Hương thân Lịch bảo ông về mời ông thợ mộc tới ăn cơm và báo tin để ông cũng tới gặp ông thợ mộc . Tại bửa cơm, ông Hương thân Lịch bảo ông thợ mộc ếm như vậy lá quá nặng trong khi gia chủ ăn ở biết điều với mình . Thôi, tới nay, như vậy cũng đã quá lắm rồi . Hảy giải cho người ta đi .

Ông thợ mộc chối, bảo ông có ếm gì đâu . Ông Hương thân Lịch nghiêm mặt “ Nếu ông không làm, để tôi làm, thì có hại cho ông . Chắc ông biết điều đó mà ?

Ông thợ mộc vẫn chối .

Ông Hương thân Lịch bèn lột cái khăng đỏ đội trên đầu, thắc làm một hình nộm như con chuột, bước tới cây cột, hất tay một cái, con chuột phóng lên đầu cột .

Mọi người đang ngồi đó đều xanh mặt . Dỉ nhiên có cả ông thợ mộc .

Tới lúc này, ông thợ mộc mới chịu giải bùa . Ông mượn thang, leo lên đầu cột, gởi ra đồng tiền có hình người, bỏ túi .

Mọi người, ai cũng thở ra nhẹ nhỏm . Ông Hương thân tỏ ra vui vẻ với ông thợ mộc .

Từ đó, gia đình ông chủ nhà trở lại bình thường .

Ngải là thảo mộc . Nó là loại củ . Ngải trở thành linh nghiệm cũng do người ta đem vào nó sức mạnh tinh thần để sai khiến theo ý của người luyện ngải . Giống như với bùa . Nhưng với Ngải, ngưòi ta nói là «nuôi ngải» . Tức người luyện ngải là sống với ngải . Cho ngải ăn uống, nói chuyện với nó . Nuôi ngải bằng máu tươi của người chủ ngải, và bằng gà, hay một con vật sống, .. . Nghe nói tới ngày cho ngải ăn, người ta đem con gà buộc vào chổ trồng ngải . Chỉ trong một chốc lác, bổng nghe con gà kêu lên . Sau đó, tới coi, chỉ thấy một nhóm lông gà .

                   

  1 giống Ngải mã-lai

Nhưng ông Hương thân Lịch thì cắt nghĩa ngải đơn giản hơn . Ông chỉ mấy chậu kiểng trước nhà và bảo «Đó, ngải của tôi đó» . Bên cạnh, ông có giăng cái vỏng .

Ông nói tiếp «Muốn biết ngải linh hay không, lên năm vỏng, thì biết» .

Có người lên vỏng nằm thử . Vừa nằm gọn trong vỏng, chỉ vài phút sau là buồn ngủ và nhắm mắt lại ngủ . Nhưng chỉ kịp ngủ là bị té xuống đất . Thử vài lần, cũng đều bị như vậy .

Ông Hương thân nói rỏ hơn ngải là bất kỳ cây, cỏ, bông hoa gì cũng đều được . Nó trở thành ngải linh là do mình sai khiến nó làm theo ý của mình (Muốn biết chuyện bùa ngải ở Nam kỳ, coi Sociétés secrètes en Terre d’Annam, luận án Tiến sĩ Văn chương của Georges Coulet, in ở Sài gòn, 1926, Giáo sư dạy ở P. Ký trong những năm 1930) .

Sau này, ông tu theo đạo Cao Đài và nơi ông ở, cất lại, thành Thánh thất Vĩnh thanh . Ngày nay chắc còn .

Bùa ngải và Phan Xích Long Hoàng đế

Bùa ngải ở xứ Nam kỳ vào đầu thế kỷ XX là một thứ quyền lực giúp kẻ yếu chống lại kẻ mạnh . Phan Xích Long và đảng của ông tập luyện bùa ngải làm thứ võ khí vừa hộ thân, vừa chống thực dân pháp bênh vực người dân bị ức hiếp .

Lúc bấy giờ, Thiên Địa Hội theo chơn người Minh Hương qua Việt nam nhưng Thiên Địa Hội đó là tổ chức của người Minh Hương mưu cầu phản Thanh phục Minh . Nhưng cho tới đầu thế kỷ XX, họ vẫn chưa làm được việc gì ngoài việc cướp bốc, bảo vệ những sòng bạc, …

Theo cách tổ chức hội kín, người Việt nam cũng tổ chức Thiên Địa Hội, qui tụ những người Việt nam yêu nước chờ cơ hội đánh Tây, cướp chánh quyền .

Cho tới năm 1912-1913, thanh niên Phan Xíxh Long ở Chợ Lớn, mới 20 tuổi, học hành ít nhưng có chí lớn, tự xưng Đông cung Thái tử, con vua Hàm Nghi, nhà vua yêu nước, rồi xưng Hoàng đế để lãnh đạo phong trào Thiên Địa Hội nổi lên đánh Pháp.

Ông có tên thật là Phan Phát Sanh, tự Lạc, sinh năm Quý Tị (1893), con trai của Phan Núi làm nghề cảnh sát cho Pháp ở Chợ Lớn. Ông làm bồi cho Tây, rồi bỏ việc . Sau khi xưng Hoàng Đế, ông tự sắm áo mão, dây đai vàng, và lập đảng kín, tuyển mộ người, chế tạo súng, bôm, rồi kêu gọi dân chúng cùng nổi dậy chống Pháp. Nhiều người biết chuyện, không ai dám tin việc làm của ông là thiệt. Nhưng ông lại cho mình có số mệnh Thiên Tử, có bùa phép không sợ súng đạn, có thể thắng được Pháp để cứu nước thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp .

Phan Xích Long cũng đưa ra tuyên cáo “Phản Pháp phục Nam” như Nghĩa Hòa Đoàn của người Trung Hoa “Phản Thanh phục Minh”. Từ đây người Việt nam bắt đầu ủng hộ ông .

Thấy lực lượng của mình với 300 người như vậy đã đủ sức đánh Tây, Phan Xích Long đưa ra tuyên cáo đêm 28 tháng 3 năm 1913, toàn dân Việt nam sẽ nổi lên chống Pháp. Vì vậy, đêm 28 tháng 3 hàng trăm người từ Mỹ tho, Tân an, Cần giuộc, Cần đước, Gò công, Chợ lớn, kéo nhau lên Sài Gòn. Họ đều chít khăn trắng, mặc áo trắng không cổ, tay cầm kiếm gổ, gậy, tầm vông, đao, búa… tiến vào trung tâm Sài Gòn. Nhưng vì bọn mật thám biết trước nên cuộc xuất phát mới bắt đầu từ Chợ Lớn đã bị lính Pháp tới bao vây bắt trọn và dẹp tan.

Phan Xích Long bị Pháp bắt tại Phan Thiết trước đó hai ngày. Nhưng nhiều hội viên của Thiên Địa Hội lẩn trốn được nên tiếp tục hoạt động lẻ tẻ ở nhiều tỉnh miền Tây, miền Đông Nam Kỳ.  

                                                                               

 Phan Xích Long bị giải về Sài Gòn, đưa ra Tòa xét xử chung với 111 người khác cùng đảng . Ông và 5 người nữa bị án chung thân.

Trước tòa, Phan Xích Long dám nói: ông chống đối chính sách thuế khóa nặng nề của người Pháp và đặt những trái bom trong thành phố là để hăm dọa người Pháp, để mong người Pháp giảm thuế cho dân. Và cách chế tạo mấy quả bom là học được ở bên Xiêm-la (Thái Lan) . Phan Xích Long vẫn giữ được tinh thần vững chắc, trả lời với tòa rằng ông xem thường cái chết “sẵn sàng chết vì nước và muốn được xử tử”.

 

Phan Xích Long đặt cơ sở đầu tiên trên đất Cao Miên tại Cần Vọt, cất ngôi chùa do tiền lạc quyên để làm nơi tụ họp. Trước đây, vùng Cần Vọt (Kampot) được xem là nơi trú ngụ lý tưởng của những chiến sĩ Cần Vương sau khi phong trào ở làng An Định (núi Tượng) thất bại, dân làng bị tống xuất về quê cũ.

y chém trong Khám

Sau khi xử vụ Phan Xích Long ở phiên tòa Đại hình, người Pháp coi như Thiên Địa Hội là rắn mất đầu, vì một số tay chân của Phan Xích Long đã bị xử tử, còn Phan Xích Long thì bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Song, một số dư đảng của Thiên Địa Hội vẫn còn lẩn trốn, Pháp chưa bắt hết được.

Bốn năm sau, nhơn Pháp bị thua ở Đệ I Thế chiến, dư đảng của Thiên Địa Hội liền qui tụ những đảng viên còn lại chuẩn bị một cuộc nổi loạn tại Sài Gòn, dự trù vào đêm 12 tháng giêng Âm lịch, để giải thoát “Hoàng đế” Phan Xích Long khỏi Khám Lớn . Ngay chiều ngày 11 tháng Giêng, ở dưới chân cầu Móng Khánh Hội đã có nhiều ghe thuyền từ lục tỉnh kéo lên đậu sẵn ở đó. Đúng 3 giờ đêm thì họ khởi sự. Các đảng viên Thiên Địa Hội từ ghe thuyền lên bờ, người nào cổ cũng đeo bùa phù hộ, súng bắn không chết, tay cầm kiếm gổ, dao, rựa, tầm vông… kéo vào trung tâm Sài Gòn, hướng về Khám Lớn .

Khi đoàn người đến gần Khám Lớn để xông vào phá khám, bị lính Pháp bắn chết 2 người. Tuy họ cũng gây thương tích cho một vài lính pháp nhưng sau cùng, tất cả đều thoát chạy về hướng Chợ lớn .

Ngày xưa, dân chúng dùng bùa ngải làm sức mạnh chống lại thực dân đô hộ để giành độc lập . Trong tay không ai có tất sắt làm võ khí . Ngày nay, dân chúng ở Việt nam chạy theo bùa ngải để mưu cầu quyền lợi cho bản thân bỡi họ không thể tin tưỏng ở luật pháp hay sự công bằng xã hội . Bùa ngải vì thế cũng không còn là thần quyền, mà trở thành thứ tà quyền – như đảng cộng sản và Nhà nước hán ngụy ở hà nội – và được rao bán trên thị trường bùa ngải .

Nguyễn thị Cỏ May

Vương Văn Hùng là cháu nội cán bộ công an cấp cao của tỉnh Lai Châu (cũ) đã nghỉ hưu.

Vương Văn Hùng là cháu nội cán bộ công an cấp cao của tỉnh Lai Châu (cũ) đã nghỉ hưu.

Theo thông tin riêng của Dân Viêt , Vương Văn Hùng là con trai lớn của ông N.T.Th (trú tại khối Xuân Thủy, thị trấn Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên). Ông Th là con trai của một cán bộ công an cao cấp của tỉnh Lai Châu (cũ) đã nghỉ hưu. Như vậy Vương Văn Hùng là cháu nội cán bộ công an cấp cao của tỉnh Lai Châu (cũ) đã nghỉ hưu.

DANVIET.VN
Vương Văn Hùng là cháu nội cán bộ công an cấp cao của tỉnh Lai Châu (cũ) đã nghỉ hưu.

600.000 quân Trung Quốc được huy động để thực hiện một cuộc phá hoại rộng lớn trên đất Việt Nam. Mọi chuyện không như ý muốn của kẻ thù

600.000 quân Trung Quốc được huy động để thực hiện một cuộc phá hoại rộng lớn trên đất Việt Nam. Mọi chuyện không như ý muốn của kẻ thù.

***

Nhiều năm sau này, người trong vùng vẫn kể về cái đêm con trai cô Dén chết. Đoàn người sơ tán từ thị xã Cao Bằng, lần rừng về cầu Tài Hồ Sìn, tìm đường xuôi về Bắc Kạn, Thái Nguyên, những vùng chiến sự chưa lan tới. Gặp một trại lính Trung Quốc, đoàn người bấm nhau đi thật khẽ. Đúng lúc, từ phía nhà cô Dén có tiếng ọ ọe của trẻ con. Thằng bé bú no nê và được ủ ấm, đã thức giấc. Cô Dén loay hoay tìm cách để nó thôi khóc.

Ai nấy nín thở, đã có tiếng thì thào gắt gỏng. Dưới áp lực sống của hàng trăm con người, người mẹ đã bịt chặt miệng con để nó không còn phát ra tiếng kêu nữa. Thằng bé càng giãy, mẹ nó càng bịt chặt. Đoàn người vượt qua bản, thằng bé cũng không còn thở nữa. Nó mới hai tháng tuổi.

Người mẹ ôm chặt con không nấc lên được tiếng nào. Một ngôi mộ cỏn con được đắp vội bên đường. Những bước chân nặng nề bước tiếp.

Đó là một khung cảnh biên giới phía Bắc Việt Nam tháng 2 năm 1979, nơi Đặng Tiểu Bình tuyên bố đang tìm kiếm “sự bình yên nơi biên viễn”.

Ngày 2 tháng 2 năm 1979, trên khán đài một buổi đua ngựa ở bang Texas, Mỹ, một người đàn ông châu Á thấp bé mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn tối màu tay giơ chiếc mũ cao bồi, cười tươi. Khoảnh khắc đó, được các hãng thông tấn khắp thế giới truyền tải, trở thành một biểu tượng ngoại giao. Người đàn ông đó là Đặng Tiểu Bình, Phó thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

27 ngày sau khi quan hệ ngoại giao Mỹ-Trung được ký kết, 28 tháng 1 năm 1979, chiếc Boeing 707 từ Bắc Kinh cất cánh, nhắm hướng Washington. Đặng Tiểu Bình bắt đầu chuyến thăm chính thức nước Mỹ.

Trong tiệc chiêu đãi cùng ngày, Đặng yêu cầu một cuộc gặp riêng với Tổng thống Jimmy Carter về vấn đề Việt Nam. Yêu cầu của Đặng được thực hiện ngay hôm sau. Hai mươi vị lãnh đạo đôi bên dành tròn 7 tiếng cho cuộc hội đàm, từ 10 giờ 40 đến 17 giờ 40.

Đặng Tiểu Bình và Jimmy Carter tháng 1/1979. Ảnh: UPI.

Trong sáu tiếng đầu tiên, Đặng nhấn mạnh về “chủ nghĩa bá quyền của Liên Xô”, cảnh báo “nguy cơ chiến tranh bắt đầu từ Liên Xô”, “Mỹ chưa chống trả Liên Xô thỏa đáng”; “Mỹ và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng trong cuộc chiến này”.

Bàn đến Việt Nam, Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đề nghị chuyển địa điểm sang phòng Bầu Dục. Cuộc họp rút xuống chỉ còn 8 người. Đặng Tiểu Bình đề cập đến “Việt Nam xâm lược Campuchia” để tiếp tay cho ý đồ bá chủ của Liên Xô. “Campuchia hy vọng Trung Quốc giúp đỡ, nhưng chúng tôi quá hiền lành”.

Ngày hôm sau, Việt Nam tiếp tục là chủ đề chính của cuộc hội đàm, lần này, của riêng Đặng và Carter. Trong biên bản cuộc họp có trích một phát biểu của Đặng: “Trung Quốc phải dạy Việt Nam một bài học”.

Jimmy Carter gọi ý định của Đặng là một “serious mistake”- sai lầm nghiêm trọng và từ chối giúp đỡ. Tổng thống Mỹ đích thân đọc một lá thư tay, nêu 8 lý do tại sao Trung Quốc không nên tấn công Việt Nam tại thời điểm này. Trong đó có “ảnh hưởng đến hình ảnh về một Cộng hòa nhân dân Trung Hoa yêu chuộng hòa bình”.

Đặng trả lời: “Cuộc chiến sẽ giới hạn trong quy mô nhỏ. Chúng tôi chỉ tìm kiếm một sự bình yên nơi biên viễn”.

2019: Việt Nam sẽ đưa 120.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài     

Thay vì tạo công việc làm cho nhân dân trong nước, đồng thời xuất khẩu hàng hóa để mang ngoại tệ về cho quốc gia.

Nhưng chế độ chỉ biết buôn người, mang con dân Việt bán ra thế giới để làm thân nô lệ lấy tiền nuôi báo cô “bộ máy kềm kẹp” bất nhân, tàn độc!!!
************

2019: Việt Nam sẽ đưa 120.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài

Năm 2019, Việt Nam đặt mục tiêu đưa 120.000 người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, nhắm vào các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Romania và Bulgaria.

Trang tin Novinite hôm 12/2 dẫn thông tin vừa nói từ TTXVN.

Theo lời của ông Nguyễn Gia Liêm, Phó Cục trưởng Quản lý Lao động Ngoài nước thuộc Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, nhiều nước Đông Âu quan tâm đến lao động Việt Nam. Cùng với các thị trường truyền thống, hàng trăm ngàn việc làm có sẵn cho người Việt Nam ở Châu Âu nhờ các thỏa thuận hợp tác lao động được ký kết vào cuối năm 2018.

Cũng theo ông Liêm, Bulgaria cần 50.000 công nhân Việt Nam trong ngành xây dựng, quần áo và dệt may, nông nghiệp công nghệ cao và dịch vụ y tế.

Số lượng lao động Việt Nam ở nước ngoài đã tăng lên tới 142.860 trong năm 2018, cao hơn khoảng 30% so với mục tiêu hàng năm. Theo dữ liệu từ Cục quản lý lao động ngoài nước, năm 2018 là năm thứ 5 liên tiếp khi số lượng lao động Việt Nam gửi ra nước ngoài vượt hơn100.000 người.

Nhật Bản vẫn là thị trường lao động nước ngoài lớn nhất đối với người Việt Nam với 68.737 lao động, tiếp theo là Đài Loan 60.369 lao động và Hàn Quốc là 6.538 lao động.

Một trong những động lực chính giúp Việt Nam phát triển như một trong những nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới là sự phát triển của ngành sản xuất. Hiện ngành này đóng góp vào GDP của Việt Nam rất lớn, ngoài ra lĩnh vực này tiếp tục đạt mức tăng trưởng đáng kể khi Việt Nam giữ vững vị thế là một trung tâm sản xuất chi phí thấp trên toàn cầu.

Chết vào tay Trung Quốc?

Chết vào tay Trung Quốc?

From: lucie1937

Tác giả:Nguyễn Văn Lục Nguồn:Đàn Chim Việt Ngày đăng: 2019-02-11

Gần đây sôi nổi vụ tình báo gián điệp Trung Quốc của công ty Huawei với bà Mạnh Vãn Chu phải ra hầu tòa. Bộ tư pháp Mỹ đã đưa ra hơn 10 chứng cớ buộc tội bà Mạnh Vãn Chu và công ty của bà. Xem ra nó có vẻ mới mẻ như một vụ xi căng đan lớn?

Tập Cận Bình lãnh tụ của Trung Cộng.

Thật ra, người hiểu chuyện xứ Tầu trong việc làm ăn, giao thiệp cho dù tầm cỡ quốc tế đi nữa thì có bao giờ nước Tầu tôn trọng luật lệ và làm ăn sòng phẳng đâu! Chủ nghĩa thực dụng với tích lũy kinh nghiệm buôn bán kế thừa từ đời nọ sang đời kia cho phép các nhà buôn Tầu làm ăn phát đạt. Phi thương bất phú. Đúng như thế. Nhưng làm giàu bằng cách nào là một chuyện khác.

Chỉ biết rằng ngày nay nước Tầu đang phát triển vào bậc nhất. Nhưng nạn nhân cũng chính là họ. Nạn nhân ấy là Môi trường. 20 thành phố ô nhiễm nhất thế giới thì riêng nước Tầu chiếm đến 16 thành phố. Giàu bất chính nên 2/3 những thương gia giàu có ở nước này đều co giấy xuất cảnh đi nước ngoài. Cho nên, chỉ cần một biến cố nhỏ đụng chạm đến quyền lợi, họ rụng như lá.

Thế giới nay kinh ngạc, hoảng sợ trước sức mạnh kinh tế của Tầu. Cũng đúng. Nhưng người ta quên rằng hơn ai hết người Tầu sợ chính họ. Có thể chỉ các doanh nhân và các công ty lớn của Mỹ đụng chạm với thực tế họ hiểu rõ điều này hơn ai hết.

 *    *    *     *

Nguyên nhân nào đã giúp nước Tầu vươn lên hàng cường quốc

Điểm quan trọng mà người viết muốn lưu ý bạn đọc là: Hầu như các tác giả Mỹ cũng như Tây Âu ít chú trọng đến biến cố “bắt tay” giữa Mao Trạch Đông và TT Nixon.

[DCVOnline: Truy cập bằng Google search người đọc sẽ có khoảng hơn 2 triệu kết quả từ những bài báo, luận văn nghiên cứu cho đến sách bằng Anh ngữ viết về “Mao và Nixon”; ví dụ “Sino-American Relations and Détente: Nixon, Kissinger, Mao and the One-China Policy, with special reference to Taiwan” (Luận án 2008) của Chun Yen Hsu (Chris); “Seize the Hour – When Nixon Met Mao” của Margaret MacMillan, “Ping-Pong Diplomacy: The Secret History Behind the Game that Changed the World” của Nicholas Griffin, “Nixon’s” Women: Gender Politics and Cultural Representation in Act 2 of “Nixon in China”, của Matthew Daines đăng trên The Musical Quarterly Vol. 79, No. 1 (Spring, 1995), pp. 6-34, và vô số những tác phẩm khác.]

Cho đến năm 1970, ai muốn có chiếu khán vào nước Tầu thì phải xin chiếu khán ấy qua tòa đại sứ Canada ở Ottawa. Nước Tầu lúc đó bị cô lập, không có chân trong LHQ cũng như Việt Nam.

Nếu không có cú bắt tay này liệu Trung Quốc có thể dễ dàng ra vào nước Mỹ, lợi dụng xuất cảng ồ ạt, ăn cắp kỹ thuật, gửi sinh viên đi du học, ngay cả chi phối cuộc bầu cử của TT. Clinton.

Đây là một trong những bằng chứng xâm nhập.

Trong bài “Chinese denies seeking White House Visit” do Steven Mufson đăng trên tờ Washington Post Foreign Service, ngày chủ nhật 13 tháng 6 năm 1997, Trang A0I, trong đó một thương gia Trung Quốc có thế lực tên Wang muốn đóng góp vào quỹ tranh cử của Clinton qua trung gian một chủ nhà hàng tên Charles Yah Lin Trie, bạn lâu năm của TT Clinton. Việc này được phát ngôn viên chính phủ chính thức cho biết Trung Quốc đóng góp 2 triệu đô la cho Clinton. Về điều này thủ tướng Li Peng thời bấy giờ của Trung Quốc tại Bắc Kinh cũng lên tiếng phủ nhận.

Tôi chỉ tóm tắt sơ lược, không đưa ra kết luận, nhưng chủ ý nhấn mạnh vào những mánh khóe mua chuộc mà Trung Quốc rất có thể làm.

Nguồn: Henry A. Kissinger’

Cho đến nay thì có thể gọi đó là điểm sai lầm chiến lược của Mỹ và hậu quả của nó thì ngày hôm nay mới thấy rõ. Trong khi đó, người dân miền Nam hơn ai – là nạn nhân của chính sách của Mỹ – nên hiểu rõ cú bắt tay của đôi bên đưa đến chỗ Người Mỹ đã “hy sinh” miền Nam như thế nào.

Người được TT. Nixon giao trọng trách nối lại mối liên hệ đứt đoạn giữa Mỹ và Trung Quốc từ hơn 20 năm nay, kể từ sau chiến tranh Triều Tiên, không ai khác là tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn an ninh Quốc Gia của Nixon.

Trong Hồi ký của Kissinger ông cho hay ông đã qua lại Trung Quốc như con thoi cả thẩy 50 lần để tiếp xúc với các lãnh đạo Trung Quốc như Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai.

Ông đủ khôn ngoan và láu cá khi cho rằng mục đích của các chuyến đi ấy chỉ vì muốn đi tìm hòa bình. ông viết:

“At the same time, all my life I have reflected on the building of peace, largely from an American perspective. I have had the good luck of being able to pursue these two stands of thinking simultaneously as senior official, as a carrier of messages, and as scholar.”(Henry Kissinger, “On China”, (2011) with a new afterword)

[DCVOnline: Ngay đoạn đầu tiên trong “Lời nói đầu” của cuốn “On China” (The Penguin Press, New York, 2011), tác giả Kissinger viết,

“Forty years ago almost to the day, President Richard Nixon did me the honor of sending me to Beijing to reestablish contact with a country central to the history of Asia with which America had had no high-level contact for over twenty years. The Ameri can motive for the opening was to put before our people a vision of peace transcending the travail of the Vietnam War and the ominous vistas of the Cold War.”

“Gần như đúng bốn mươi năm trước, Tổng thống Richard Nixon đã cho tôi vinh dự được gửi đến Bắc Kinh để tái thiết bang giao với một quốc gia là trung tâm trong lịch sử Châu Á mà nước Mỹ đã không có liên hệ cao cấp trong hơn hai mươi năm. Động cơ thúc đẩy Mỹ mở cửa với Trung Quốc là để trình bầy với nhân dân Mỹ một viễn tượng hòa bình vượt xa hơn cả những gì người Mỹ đang cố gắng trong Chiến tranh Việt Nam và những viễn cảnh đáng ngại của Chiến tranh Lạnh.”]

Người viết rất tiếc là không biết ông đã viết “Lời nói đầu” như thế nào của lần đầu tiên.

Nhưng Kissinger hơn ai hết đều hiểu rằng có một mối căng thẳng giữa Liên Xô- Stalin và sau này tiếp theo với Khruschev với Trung Quốc thời Mao Trạch Đông ngay từ Đại Hội Đảng của các nhà lãnh đạo Đông Âu ở Moskva vào năm 1957. Năm 1958, Khruschev đã phải thân hành sang Bắc Kinh để làm hòa dịu mối bất hòa giữa đôi bên.

Và đến tháng giêng năm 1972, TT Nixon sang Bắc Kinh. Cú bắt tay ấy tạo sự hòa dịu giữa đôi bên, đồng thời làm gẫy đổ một liên minh Sino-Soviet vốn đã mong manh từ thời Stalin.

Phải chăng, đấy là mục đích chính của Kissinger và TT Nixon, cô lập hóa sự liên minh giữa khối cộng sản với nhau? Và con đường tiếp cận với Mỹ mở ra cho Trung Quốc một tương lai đầy hứa hẹn như ngày nay?

Có phải đây là chuyện nuôi ong tay áo hay chuyện tò vò mà nuôi con nhện? Nixon đã không nhìn thấy mối hiểm nguy từ nước Tầu nên mua chuộc Tầu để làm giảm thế lực của khối cộng sản.

Vậy mà trong cả cuốn sách của ông Kissinger, dày 604 trang, xuất bản năm 2011, người viết không tìm thấy “một cái nhìn lại” chính sách sai lầm của Nixon như thế nào ?

Nhưng trong một cuốn sách khác cũng của ông, “Henry Kissinger. À la Maison Blanche 1968-1973”, ông lại dành 98 trang để nói về cái mà ông gọi là “Les affaires du Viêt Nam” (Vấn đề Việt Nam). Ông viết:

“Cho mãi đến tận bây giờ, tôi không thể nói về Việt Nam mà không cảm thấy một nỗi phiền muộn, một nỗi buồn sâu xa nhất.” (H. Kissinger. À la maison Blanche 1968-1973).

Đọc suốt gần trăm trang tài liệu này, người viết thấy ông không tin tưởng chiến thắng cuối cùng nào của VNCH. Vì thế, ông đã ngỏ ý riêng với TT Nixon là mời Sainteny sang hội kiến với Nixon. Đó là ngày 15-7 năm 1969. Và yêu cầu Sainteny – một nhà ngoại giao Pháp thân thiện với HCM – làm trung gian giao thiệp với Xuân Thủy một cách hoàn toàn bí mật. Nhưng Xuân Thủy chỉ là thứ công chức không có quyền quyết định gì. Người có quyền hành chính trị chính là Lê Đức Thọ.

Muốn hiểu cuộc thương thuyết và kết quả là Hiệp Định Ba Lê như thế nào, bạn đọc có thể tìm đọc một cuốn sách khá đầy đủ của phe cộng sản hai biên tập viên là: Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ nhan đề “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ-Kissinger tại París”.

Một tài liệu khác của bà Han Suyn đưa ra một số chi tiết mà Kissinger đã bỏ trong Hồi ký của ông. Tác giả Han Suyn cho rằng vào tháng 8, năm 1969, TT Nixon và ông H. Kissinger đã sang Romania. Tại nơi đây, họ đã bàn thảo về mối liên hệ Đông-Tây, trong đó đề cập đến Liên Xô và Trung Quốc.

Đối với vấn đề Á Châu thì Nixon khẳng định rõ ràng, dứt khoát: Máu của người Mỹ phải ngừng chảy ở đây. Chiến tranh Việt Nam phải được Việt Nam hóa.

Đối với Trung Quốc, lần đầu tiên, Nixon dùng chữ: Cộng Hòa nhân dân Trung Quốc. Đó chứng tỏ một hảo ý từ phía Nixon. Tiếp theo đó là những nhượng bộ nhỏ như công dân Mỹ đến nước Trung Hoa nay có quyền mua 100 đô la hàng hóa của Tầu mang về Mỹ. Các công ty Mỹ bắt đầu liên hệ thương mại với nước Tầu.

Nhưng quan trọng hơn là qua trung gian nhà báo Edgar Snow, Han Suyn viết:

“Ngày 1 tháng 10, Mao đã yêu cầu nhà báo Edgar Snow và bà vợ ông đứng bên cạnh ông trong buổi lễ tại khán đài La Paix céleste; Đó là một dấu hiệu tốt. Đến tháng 12-1970, Mao Trạch Đông cũng đã dành cho Snow một buổi phỏng vấn và Mao Trạch Đông đã trả lời công khai điều mà người ta trông đợi ở ông: “ông rất vui mừng được tiếp chuyện với TT Nixon, bởi vì ông Nixon là TT được nhân dân Mỹ bầu lên, ông Nixon có thể đến nước Tầu với tư cách một khách du lịch hay một tổng thống, Nixon sẽ được đón tiếp ở đây.” (Han Suyn. Le premier jour du monde, trang 432-433)

Trở về Mỹ, Snow cho đăng bài phỏng vấn của Mao Trạch Đông trên tờ Life, 30-4-1971.

Cũng vào tháng tư, một phái đoàn thể thao Ping-pong của Mỹ đến Bắc Kinh. Cho đến năm 1971, Kissinger từ Pakistan sang Bắc Kinh gặp Thủ tướng Chu Ân Lai để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm chính thức của TT Nixon vào tháng 2-1972. Tháng 10, nước Tầu chính thức vào Liên Hiệp Quốc và công việc bình thường hóa giữa Mỹ với Trung Quốc, có nghĩa loại bỏ Đài Loan.

Một quá trình đối đầu căng thẳng và Mao Trạch Đông đánh giá công việc của Nixon đã làm là vô giá. Việc Nixon sang nước Tầu là một trong những biến cố lơn lao nhất được trình chiếu trên Vô Tuyến truyền hình và truyền thanh tại Trung Quốc cũng như trên toàn thế giới. Đây có thể ví như một bước nhảy vĩ đại về chính trị giữa hai nước chẳng khác gì việc đặt chân lên mặt trăng của Mỹ.

Mao tuyên bố, “Thời gian và lịch sử đứng về phía chúng ta.

Thật đúng vậy, nước Tầu được tất cả và Mỹ được gì? Mao nay có thể làm ăn buôn bán chẳng những với Mỹ và tất cả các nước Tây Âu khác theo chân Mỹ. Mối lo ngại tranh chắp biên giới với Nga cũng sẹp xuống cũng như với Ấn Độ. Tham vọng làm thay đổi thế giới, thay đổi con người dần dần lộ diện!

Phần Nixon đã gửi riêng cho Hồ Chí Minh một lá thư. Và cảnh ngoại giao đi đêm bắt đầu với đầy vẻ bí mật và mánh khóe che đậy như sang Paris là để gặp Tổng thống Pompidou lúc bấy giờ; chính ở Paris, ông Kisinger đi găp Sainteny.

Sự tiết lộ này của Kissinger cho thấy, chính quyền Nixon đã bán đứng Việt Nam cho cộng sản Hà Nội. Và Việt Nam hoàn toàn không biết gì cái giai đoạn khởi điểm này.

Xin trích lại nguyên văn:

“Nous optames pour la première suggestion. Une lettre personnelle de Nixon à Ho Chi Minh fut rédigée. Nous demandames à Sainteny de la remettre en mains propres. La lettre insistait sur notre volonté de paix, proposait de discuter des plans de Hanoi en même temps que des nôtres, et concluait en ces termes:

“L’heure est venue de s’acheminer, à la table de conférence, vers une résolution rapide de cette guerre tragique. Vous nous trouvenez disponibles, prêts à apporter avec vous, dans un effort commun, les bienfaits de la paix au courageux peuple du Vietnam. Que plus tard l’on puisse dire qu’en cet ínstant critique les deux parties ont choisi la paix plutôt que le conflit et la guerre.” (Henry Kissinger, À la Maison Blanhce 1968-1973, Fayard, 1979, trang 290-291.

Chúng tôi đã chọn giải pháp đầu tiên. Một lá thư riêng của TT. Nixon được thảo ra và được gửi cho Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã yêu cầu Sainteny đưa tận tay cho Hồ Chí Minh. Lá thư nhấn mạnh đến ý muốn của chúng tôi là mong muốn hòa bình và đề nghị thảo luận những kế hoạch từ phía Hà Nội và cả từ phía chúng tôi và lá thư đã được kết thúc bằng những dòng sau đây.

“Đã đến thời điểm phải đi đến bàn Hội Nghị để tìm ra một giải pháp nhanh chóng về cuộc chiến bi đát này. Các quý ông sẽ thấy chúng tôi đã sẵn sàng trong một nỗ lực chung để đem lại những điều tốt đẹp cho hòa bình cho người dân Việt Nam can đảm. Và để sau này người ta có thể nói rằng ngay trong những giờ phút khó khăn này hai bên đã chọn hòa bình thay vì những xung đột và chiến tranh.”

Lá thư gửi đi ngày 15-7 thì hơn tháng sau, HCM trả lời Nixon vào ngày 30-8-1969. Chỉ ba ngày sau thì HCM chết bằng một giọng điệu cứng rắn và sắt máu không thưa gửi Tổng thống như Nixon đã làm. Đại khái chúng tôi sẽ chiến đấu tới cùng không ngại những hy sinh và khó khăn gặp phải. Rồi yêu cầu này nọ đủ thứ.

Tôi thiết nghĩ cũng cần đưa ra lá thư trả lời của Hồ Chí Minh mà tôi đã không tìm thấy trong các tài liệu bằng tiếng Việt. Lá thư có một phần nội dung như sau:

“Dân tộc Việt Nam chúng tôi rất tha thiết vào hòa bình, một hòa bình thực sự với sự dành được độc lập và tự do. Dân tộc Việt Nam cũng quyết tâm chiến đấu đến cùng, không ngaị hy sinh hay những khó khăn gặp phải, để bảo vệ sự sống của mình và bảo vệ những quyền lợi thiêng liêng của đất nước. Chương trình tổng quát 10 điểm, do Mặt trận thống nhất dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và của chính quyền Cách Mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là cơ sở căn bản hợp lý để giải quyết vấn đề Việt Nam. Chương trình ấy được sự hưởng ứng đồng thuận và ủng hộ của các dân tộc trên toàn thế giới.

Ngài đã viết trong lá thư bày tỏ ý muốn đạt tới một nền hòa bình dựa trên sự công bằng. Từ đó, Chúng tôi yêu cầu phía chính quyền Mỹ phải chấm dứt việc xâm lấn và rút quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam và tôn trọng quyền của dân chúng miền Nam cũng như tôn trọng quyền của người dân miền Nam mà không có sự can thiệp của người ngoại quốc. Đó là cách thức đứng đắn để giải quyết vấn đề Việt Nam.” (H. Kissinger À la Maison Blanhche, 1968-1973, trang 295)

Lá thư mà nội dung toàn là những lời lẽ khuôn mẫu thuộc lòng và khô lạnh, không một chút hé lộ bất cứ một sự nhượng bộ dù nhỏ nhoi nào. Đòi Mỹ rút quân, nhưng không đả động gì đến việc đòi quân đội cộng sản rút về Bắc.

[DCVOnline: Văn bản chính thức (bằng tiếng Anh) của lá thư Nixon gởi Hồ Chí Minh (đề ngày 15 tháng 7, 1969, công bố ngày 3 tháng 11, 1969) và thư Hồ Chí Minh gởi Nixon (viết ngày 25 tháng 8, 1969). Nguồn: Richard Nixon: “Letters of the President and President Ho Chi Minh of the Democratic Republic of Vietnam.,” November 3, 1969. Online by Gerhard Peters and John T. Woolley, The American Presidency Project.

Tuy nhiên, theo Cheng Guan Ang viết trong cuốn “Ending the Vietnam War: The Vietnamese Communists’ Perspective” do Routledge xuất bản năm 2004, ở trang 26: 1/ Mỹ nhận được thư của Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 8, 1969; 2/ Hồ không đọc và cũng không trả lời thư của Nixon; 3/ Vũ Kỳ, thư ký của Hồ Chí Minh, cho biết vào cuối tháng 8 Hồ Chí Minh đã không còn sức làm việc, không tiếp phái đoàn Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ra miền Bắc từ 16-20. Tin của Trung Quốc cho biết bệnh tình của Hồ đã nguy kịch vào cuối tháng 8 và bị đã hôn mê, rồi sau đó chết vào ngày 2 tháng 9, 1969. Do đó có thể cho rằng lá thư Nixon nhận được không thể nào do Hồ Chí Minh viết.]

Trong khi quân đội VNCH vẫn xả thân chiến đấu thì trên Bàn Hội Nghị, phía Hà Nội đòi hỏi loại bỏ Thiệu, Kỳ và Hương để lập một chính phủ Liên Hiệp trước khi họ muốn nói chuyện.

Tôi viết lại những dòng này để thế hệ sau đọc cho biết. Còn thế hệ chúng tôi coi như bỏ.

Memoirs của Andrei Gromyko tiết lộ nhiều chi tiết liên quan đến chủ nghĩa Bá quyền Trung Quốc.

Cuốn Hồi ký của ngoại trưởng Gromyko giúp người đọc hiểu biết được nhiều truyện bí mật trong khối cộng sản Quốc Tế. Do là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, làm việc dưới nhiều đời Tổng Bí Thư cộng sản, giao thiệp nhiều, khôn ngoan và lịch thiệp nên quen biết hầu hết các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới ở cả hai phía.

Hồi ký của Andrei Gromyko. Nguoodn: Amazon UK

Cuốn Hồi ký không dầy lắm, 353 trang, nhưng hầu như điểm mặt và đưa ra những nhận xét khá khách qua`n về các sự kiện lịch sử của một nhà nhà giao chuyên nghiệp. Tôi nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa ngoại trưởng Gromyko và Thủ tướng Chu Ân Lai.

Trong hồi ký của Gromyko, phần dành cho vấn đề bang giao giữa Liên Xô-Trung Quốc là một trong những tài liệu quý hiếm. Đọc phần tài liệu này, mặc dầu không nhiều, nhưng cũng giúp người đọc nắm được phần nào mối liên hệ tay đôi của hai nước cộng sản anh em, và giúp hiểu rõ hơn, tại sao Hoa Kỳ đã bắt tay với Mao Trạch Đông.

Mối liên hệ Stalin-Mao Trạch Đông lạnh nhạt và đi đến đối đầu

Cho đến nay thì người ta thấy rằng trong khoảng 70 năm trước đây – kể từ khi Mao Trạch Đông thống nhất toàn bộ nước Tầu, mối liên hệ Nga-Hoa bên không bình thường.

Bỏ qua những vấn đề nội bộ của hai bên, người ta thấy có thể có một xung đột về cá tính giữa Mao-Stalin. Mao Trạch Đông luôn giữ tính cách độc lập trong mọi chính sách nội bộ cũng như sự giao thiệp với các nước khác. Không hề bàn thảo hay thông báo cho nước cộng sản anh em Liên Xô những gì mà Trung Quốc làm.

Lần đầu tiên khi lên nắm chính quyền vào năm 1949, Mao Trạch Đông có sang Liên Xô từ tháng 12-1949 đến tháng 2-1950.

Mặc dầu chính quyền Liên Xô tổ chức một buổi đón tiếp rất trân trọng, tỉ mỉ từng chi tiết một biểu lộ tình bạn bè giữa đôi bên. Hai bên cũng đã có thỏa thuận với nhau trong mối quan hệ giữa hai đồng minh để ký vào ngày 14-2-1950 trước khi Mao Trạch Đông về nước.

Thế nhưng đó có thể chỉ là việc trên giấy tờ mà nội dung cụ thể vẫn là phải tiến hành trên bình diện con người.

Một bữa tiệc đã được tổ chức tại khách sạn Metropolitain do Stalin và các ban lãnh đạo Sô Viết chủ trì. Gần như hai vị lãnh đạo hai nước hầu như không nói với nhau. Gromyko nhận xét:

“Even so, I was not the only one to notice that conversation between the two leaders, who sat side by side at dinner, was sporadic, to say the least. They would exchange a few phrases, through an interpreter of course, and then a seemingly endless pause would ensue. I sat sitting opposite and did my best to help them out, but without much success. My chief impression was that they did not have enough in common of a personal nature to make the necessary minimum of contact.”(Andrei Gromyko “Memoirs”, Lời tựa của Henry Kissinger, Bản dịch của Harold Shukman. 1989, trang 248-249)

Vài ngày sau, tình trạng lạnh nhạt ấy cũng không thay đổi gì.

Sang đến 1957, tình trạng lạnh nhạt giữa đôi bên nay không còn là giữa hai nhân vật mà là giữa hai nước càng ngày càng trở nên tồi tệ hơn.

Mao Trạch Đông lại sang Moskva lần thứ hai. Và lần này gặp riêng Gromyko. Mao hứa không làm cho tình trạng đôi bên căng thẳng hơn và cần phải sát cánh bên nhau để tranh đấu cho hòa bình.

Cũng theo sự nhận xét riêng của ông Gromyko thì Mao mong muốn Trung Quốc trở nên một siêu cường, nhất là trong lãnh vực kinh tế. Và ông cứ nhắc đi nhắc lại: Mỹ chỉ là một con hổ giấy. Ông trù liệu là Mỹ có thể dùng bom nguyên tử tấn công nước Tầu. Và ông chờ đợi điều đó xảy ra và để cho quân đội Mỹ lấn sâu vào trong đất liền, lúc đó Mao mới ra tay. Gromyko sững sờ khi nghe Mao trình bày như vậy về cách thí quân.

Tháng 10, năm 1959, một phái đoàn Liên Xô một lần nữa sang Bắc Kinh. Dẫn đầu là Khrushchev cùng với các Suslov, Nikolaev và Gromyko.

Một lần nữa, nhiều bất đồng nữa nổi lên giữa đôi bên. Trong đó có tranh cãi về việc khai thác nguồn lợi thiên nhiên tại sông Amurn và việc thiết lập một đường xe lửa qua các vùng Xinjiang-Uyghur-Kazakhstan.

Với một biên giới rộng và trải dài như vậy, cộng thêm rất nhiều tài nguyên thiên nhiên, cộng thêm vốn liếng văn hóa cổ truyền bắt buộc hai bên phải ngồi lại thảo luận để nhìn nhận nhu cầu quan trọng của láng giềng và tình bạn. Phải củng cố tình bạn giữa các nước XHCN.

Cuốn Hồi ký của một nhà ngoại giao như Gromyko là nên đọc và phải đọc.

Ông đề cập đến mọi vấn đề tranh chấp Quốc tế cũng như những nhà lãnh đạo cả hai phía.Vậy mà rà soát đi soát lại, người viết đã không tìm thấy dù chỉ một vài dòng nói về chiến tranh Việt Nam cũng như các nhà lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, v.v.. Theo thói quen, đọc phần Index vẫn không tìm ra tên một nhân vật cộng sản Việt Nam nào.

Điều đó cho thấy Stalin và cả Gromyko có vẻ coi thường và không cần che dấu sự đánh giá thấp lãnh đạo miền Bắc như những kẻ án bám.

Đây hẳn là một nỗi nhục của đám lãnh đạo miền Bắc, mỗi lần sang chầu chực nhờ vả Liên Xô. Việc Hồ Chí Minh sang Liên Xô mà mới đầu Stalin không muốn tiếp ai cũng biết cả.

Sự coi thường ấy hiểu được vì họ chỉ là thứ ăn mày đi nhờ vả kẻ mạnh. Việt Nam là con số không đối với Gromyko và nhất là đối với Stalin.

Khám phá này đối với người viết là một điều nhục nhã cho tập đoàn cộng sản Hà Nội.

Trong cái dở có cái may Sự tranh chấp đối đầu giữa Stalin và Mao Trạch Đông là một sự kiện hiển nhiên. Stalin còn tìm cách đỡ đầu Lâm Bưu để tìm cách lật đổ và ngay cả ám sát Mao Trạch Đông. Nhưng công việc bất thành. Moskva còn tấn công Trung Quốc bằng ngoại giao ve vãn các nước tư bản như qua các tòa đại sứ Mỹ tại Washington, tại Paris, tại Bonn và Londres về thảm họa Péril jaune (Hiểm họa da vàng, tiếng Anh: Yellow Peril). Người viết thắc mắc không biết cụm từ này có phải do Liên Xô đưa ra hay không?

[DCVOnline: Hiểm họa da vàng (tiếng Anh: Yellow Peril) là thuật ngữ xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 ám chỉ việc những công nhân và phu phen người Trung Quốc nhập cư đến các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ; sau đó vào giữa thế kỷ 20, thuật ngữ này còn liên quan đến người Nhật với việc Nhật Bản bành trướng quân sự. Có nhiều nguồn cho rằng Kaiser Wilhelm II là người đã tạo ra cụm từ “hiểm họa da vàng” (tiếng Đức: gelbe Gefahr) vào tháng 9 năm 1895. Wilhelm II đã cho vẽ một bức chân dung với tiêu đề này. Bức tranh mô tả cảnh tổng lãnh thiên thần Michael biểu trưng cho nước Đức, ra lệnh chống lại mối đe dọa từ châu Á, đại diện là bức tượng một vị Phật bằng vàng, thường được treo trên tất cả cá tàu trên con đường biển Hamburg – Hoa Kỳ. Dường như bức họa do chính Kaiser Wilhelm II vẽ. Nguồn: Daniel C. Kane, introduction to A.B. de Guerville, “Au Japon, Memoirs of a Foreign Correspondent in Japan, Korea, and China, 1892-1894” (West Lafayette, IN: Parlor Press, 2009), p. xxix]

Trong cuộc tranh chấp giữa đôi bên về hòn đảo Chen Pao. Người Trung Hoa đã vận dụng các cuộc biểu tình lên đến 300 triệu người với biểu ngữ: “Đả đảo bọn Nga Hoàng mới.”

Thời Brezhnev, tháng giêng 1967. Ông ra lệnh cho điều 13 sư đoàn lính Nga dàn quân ra biên giới trước hiểm họa Cuộc Cách mạng văn hóa của Tầu..

Ở vào thế kẹt trong vụ tranh chấp giữa hai quan thầy, vì thế, trong chúc thư để lại trước khi chết vào đầu tháng 9, họ Hồ mong mỏi hai nươc đàn anh tìm được sự hòa giải.

Đại diện trong đám tang Hồ Chí Minh, có Chu Ân Lai về phía Tầu, Kosygin phía Nga hẳn là cả hai đều đã nhận được chúc thư của Hồ Chí Minh.

Trên đường trở lại Nga, Kosygin đã ghé qua Bắc Kinh gặp Chu Ân Lai và họ Chu đã đưa ra ba đề nghị: Giữ tình trạng status quo về tranh chấp biên giới; giải giới quân đội hai bên ở một khoảng cách chiến lược, ở những điểm nhạy cảm để tránh các cuộc nổ súng; chấm dứt các vụ tuyên truyền đả phá trên báo chí, đài phát thanh trong thời gian hai bên thương thuyết, v.v..

Cuối cùng chẳng biết việc ám sát Mao có thật hay giả, con “gà nòi” Lâm Bưu cùng với vợ là Yeh Chun, người con trai là Lin Likuo và 6 đồng chí khác đã tẩu thoát trên một chiếc máy bay Trident. Nhưng chẳng may máy bay bị rớt ở Nội Mông, tại vùng Oundour Khan. (Han Suyn. “Le premier jour du monde”, Stankes/Stock các trang từ 417- 423)

Chính sự tranh chấp giữa hai nước XHCN Tầu và Liên Xô đã mở đường cho nước Tầu có một địa vị trong thế giới tự do mà trước đây họ không thể có. Trước đây, nước Tầu trù tính có thể phải phải đối đầu cùng một lúc với bốn kẻ thù là: Mỹ, Liên Xô, Ấn Độ theo Liên Xô, Nhật ngả về phía Mỹ.

Han Suyn đã phỏng vấn Chu Ân Lai vào năm 1971. Chu Ân Lai trả lời là:

“Nước Tầu phải sẵn sàng, trong mọi trường hợp đẩy lui sự xâm chiếm của một trong hai siêu cường, hoặc hai siêu cường cùng một lúc. Và trong một tình huống tệ hơn, nước Tầu phải đối đầu với 4 nước cùng một lúc.” (Han Suyn, Ibidm trang 425)

Tình huống ấy đã không xảy ra vì cú bắt tay với Nixon! Phải nói là trong cái rủi có cái may cho nước Tầu, nhờ đó có cơ hội trở thành cường quốc trên thế giới.

Bởi vì dưới mắt Mao Trạch Đông, Á Châu phải do người Á Châu tự giải quyết. Vì thế, để chuẩn bị cho tình huống có thể xảy ra. Mao Trạch Đông đã kêu gọi dân Tầu: Hãy đào sâu các đường hầm, hãy tích trữ ở khắp nơi lúa gạo,, v.v.” Vì thế, mọi thành phố đều đào những đô thị ngầm dưới đất có tích trữ lương thực đầy đủ. Cho dù chiến tranh không xảy ra đi nữa thì tốt hơn hết cứ đề phòng những tình huống xấu nhất có thể xảy ra.

Vậy mà có một chiều hướng chính trị thuận lợi đã làm thay đổi tất cả.

Một nước Tầu ngày hôm nay, một tham vọng bá chủ toàn cầu theo đúng tham vọng của Mao Trạch Đông đề ra ngay từ khi làm chủ nước Tầu năm 1949. Nhưng lời căn dặn của Đặng Tiểu Bình dặn các thế hệ sau:Hãy kiên nhẫn, ẩn mình. Phải chăng lời căn dặn ấy vẫn còn có giá trị. Phải chăng cái tội lớn nhất của Tập Cẩn Bình là phô trương quá lộ liễu sức mạnh kinh tế lẫn quân sự làm mất niềm tin nơi nhiều quốc gia chậm tiến?

Cái sai lầm về chính sách của Nixon bắt tay Tầu, chia rẽ hai đại cường cộng sản nay còn có chút hy vọng Mỹ tìm lại được sức mạnh vốn có của mình nhờ sụ liên minh với phần đông các nước kỹ nghệ cả trên đất liền và cả trên biển, nhất là trên biển với liên minh với Ấn Độ? Hơn một tỷ người Trung hoa được thay thế bằng một tỉ người Ấn Độ ?

Đó là một chọn lựa khôn ngoan nhất hiện nay với chính sách xoay trục này để thấy ai xử dụng được sức mạnh mềm thì kẻ đó thắng.

Nguyễn văn Lục 
© 2019 DCVOnline

CƯỚP HIẾP GIẾT CÔ GÁI SHIPPER KẺ SÁT NHÂN VÀ ĐỒNG BỌN ĐỐI MẶT ÁN TỬ

Hoa Do shared a post
Image may contain: 1 person, smiling, plant, flower, closeup and outdoor
Image may contain: 1 person, closeup

Phan Vân BáchFollow

CƯỚP HIẾP GIẾT CÔ GÁI SHIPPER
KẺ SÁT NHÂN VÀ ĐỒNG BỌN ĐỐI MẶT ÁN TỬ

Thấy cô gái xinh đẹp phụ mẹ bán gà ngoài chợ, yêu râu xanh nổi lòng và nảy sinh ý định chiếm đoạt, hắn đã dùng thủ đoạn đặt mua gà và yêu cầu giao tận nhà với số lượng lớn, khi gặp cô gái hắn và đồng bọn đã tấn công và thay nhau cưỡng hiếp nhiều lần. Để che dấu hành vi của mình chúng đã giết và ném xác nạn nhân vào chuồng lợn trong một ngôi nhà hoang.

Dư luận không khởi bàng hoàng khi biết tin cô gái xinh đẹp 20 tuổi Cao Thi Mỹ Duyên là sinh viên của một trường Đại học ở Thái Nguyên, trong lúc nghỉ tết phụ mẹ bán gà ngoài chợ lại là nạn nhân của một vụ Cướp hiếp giết dã man xảy ra ở Điện Biên chiều 30 tết.

Trong lúc mọi người đang hối hả lo tết thì Vương Văn Hùng ra chợ và trông thấy cô gái bán gà xinh đẹp, hắn đã nổi máu dê và nảy sinh ý định chiếm đoạt cô gái, hắn đặt mua 10 con gà và yêu cầu cô gái giao tận nhà. Khi tới nhà, hắn đã đề nghị giao tại một địa điểm khác và tại đó, hắn cùng đồng bọn đã có hành vi Hiếp dâm, cướp tài sản và Giết chết cô gái.

Sau khi thấy con gái không về nhà, gia đình đã trình báo công an, ngay chiều 30 tết, các lực lượng chức năng của công an thành phố và công an tỉnh Điện Biên đã nỗ lực tìm kiếm và đến ngày mùng 3 tết thì phát hiện thi thể của nạn nhân trong chuồng lợn ngôi nhà hoang cách nhà 7km, trước đó công an cũng tìm thấy chiếc xe máy của nạn nhân.

Sau khi khám nghiệm tử thi, nạn nhân bị xâm hại tình dục, có dấu hiệu đây là vụ giết người. Công an tỉnh Điện Biên đã tổ chức sàng lọc hơn 1000 đối tượng, và đã bắt tạm giam nghi can Vương Văn Hùng ở Tuần Giáo, Điện Biên. Tiến hành lấy lời khai, ban đầu hắn đã thừa nhận hành vi phạm tội và còn có 5 đồng bọn khác cùng hắn thực hiện hành vi phạm tội.

Thật khó để có bất kỳ lời bào chữa nào cho những kẻ bất lương đã có hành vi cướp hiếp giết rồi vứt xác phi tang cô gái nhằm che dấu hành vi phạm tội ghê rợn mà chúng đã thực hiện. Hành vi của chúng cùng lúc đã phạm nhiều tội được quy định tại Bộ luật hình sự 2015.

Cụ thể như tội

1 Bắt giữ người trái pháp luật theo điều 157,

2 tội Hiếp dâm điều 141,

3 tội Cướp tài sản điều 168,

4 tội Giết người điều 123.

Hành vi của Vương Văn Hùng cùng năm tên đồng bọn được thực hiện từng bước như sau: Ban đầu chúng khống chế và bắt nạn nhân, sau đó chúng thay nhau thực hiện hành vi Hiếp dâm. Sau khi thỏa mãn thú tính, chúng ăn hết 10 con gà để bồi bổ sức khỏe và lấy đi 1 điện thoại di động của nạn nhân. Tiếp đó cả 6 tên bỏ ra ngoài chơi tết khi cô gái vẫn bị nhốt trong nhà. Khi quay lại chúng tiếp tục thực hiện hành vi hiếp dâm thêm lần nữa và giết cô gái vứt vào chuồng lợn ngôi nhà hoang để vứt xác phi tang.

Tôi sẽ không bao giờ nhận bào chữa cho những kẻ cướp giết hiếp bất lương này, bởi lẽ những gì chúng đã thực hiện thật là ghê tởm, và có áp dụng những hình phạt thời trung cổ như ngũ mã phanh thây hay ném vào vạc dầu cũng không hết tội. Trong vụ án này, chỉ có nỗi đau của gia đình nạn nhân và cái chết của cô gái là không gì bù đắp được. Qua vụ án này cũng cho thấy nghề shipper là một nghề rất nguy hiểm nhât là đối với những cô gái trẻ đẹp, hãy cẩn thận với những đơn hàng bất bình thường như trường hợp này (kẻ sát nhân đã đặt mua và giao hàng tận nhà 10 con gà làm sẵn)

Xin thắp một nén tâm hương và mong nạn nhân sớm siêu thoát bên kia thế giới.

Nguồn: Ls Nguyễn Hưng

https://www.facebook.com/100001149567271/posts/2125403600841271?sfns=mo

MỘT XÃ HỘI KÌ LẠ!

Image may contain: 8 people, people smiling, crowd
Image may contain: one or more people and crowd
Image may contain: 4 people, people standing and outdoor
Image may contain: 9 people, people sitting
Image may contain: 4 people, outdoor
Mạc Van Trang is with Chú Tễu and Anh Le.

MỘT XÃ HỘI KÌ LẠ!

Xã hội ta đang diễn ra nhiều hiện tượng kì lạ.
1. Đảng Cộng sản chính thức đưa chủ nghĩa Mac- Lê nin vào Việt Nam từ 1930 và hơn nửa thế kỷ nay đã được giảng dạy trong các nhà trường, từ bậc phổ thông trở lên, thành hệ tư tưởng chính thống, chủ đạo, bao trùm toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội; mà chủ nghĩa Mac- Lê nin được giới thiệu là học thuyết Khoa học tiên tiến nhất (vô địch) – Biện chứng – Duy vật – Vô thần…
Thế nhưng ai cũng thấy: Chưa bao giờ Việt Nam xây lắm chùa, có nhiều sư như ngày nay; chưa bao giờ lắm thầy tâm linh (ngoại cảm, tử vi, tướng số, bói toán, phong thủy, thầy mo, thầy cúng…) như ngày nay; chưa bao giờ xã hội Việt Nam từ quan chức, trí thức, sinh viên, doanh nhân đến dân thường lại có lắm người mê tín, cúng lễ tùm lum như ngày nay. Tất cả những hiện tượng đó đều phản lại chủ nghĩa Mac- Lênin! Karl Marx cho rằng “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, nhưng chưa bao giờ, Phật giáo ở Việt Nam được khuyến khích đầu tư phát triển số lượng ào ạt như thời nay. Khắp đất nước đâu cũng thấy chùa mới xây; kinh kệ, đồ nghề phụ vụ cho tăng ni phật tử bán la liệt; các học viện, trường lớp đào tạo sư thành hệ thống từ trung ương đến các địa phương. Tóm lại, chưa bao giờ Việt Nam nhiều chùa, nhiều sư, nhiều người đi chùa, đi lễ, đi cầu cũng, bói toán… như dưới chính thể nhà nước cộng sản. Kì lạ chưa!? Xin nhờ GS Nguyễn Phú Trọng, Hội đồng Lý luận Trung ương và Ban tuyên giáo lý giải cho nghịch lý này, để bà con được tỏ tường!
Ví dụ thực tế chứng minh cho nhận định trên thì nhiều vô kể.
– Mấy đời Chủ tịch nước và biết bao nhiêu quan chức trung ương, các địa phương, các đại gia về Khai ấn đền Trần và dẫn đến cảnh chen lấn, xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để cướp Ấn, cướp lộc. Rồi Ấn được in ra bán khắp nơi, như bùa phép, khiến chính quyền Nam Định vớ bẫm…

– Các quan chức nhà nước từ Chủ tịch, Thủ tướng trở xuống hầu hết đều đầu tư khá lớn để xây Đền thờ cho họ mình, nhà mình, lo lăng mộ cho mình thật hoành tráng; nhiều người âm thầm “công đức”, “cung tiến” vào đền, chùa.. khá nhiều tiền của. Rồi họ tổ chức cúng lễ linh đình, cầu khẩn thần, phật khắp nơi … Có những quan chức có cả thầy tướng số, phong thủy thân cận để thường xuyên “tham vấn” mọi việc từ lớn đến nhỏ…

– Hiện tượng sĩ tử trước mùa thi kéo nhau đến các đền chùa cầu cúng, nhất là đến Văn Miếu- Quốc tử giám khấn vái, sờ đầu rùa đá lấy may, ngày càng rầm rộ…

– Việt Nam một năm có hơn 8000 lễ hội, hầu hết các lễ hội đều có yếu tố tâm linh. Các tầng lớp nhân dân ngày càng nhiều người mê tín, cầu cúng tùm lum, chen lấn, tranh cướp trong các lễ hội thật khủng khiếp. Có đến hàng vạn người ngồi thâu đêm, chen lấn, bệ rạc để nộp tiền “dâng sao, giải hạn”; người ta bế cả trẻ con, trèo hàng rào, giẫm lên đầu nhau, chen lấn, tranh giành bằng được để mình vào cúng lễ trước; hàng trăm người xô đẩy nhau để nhúng những đồng tiền vào máu lợn tóe ra khi đao phủ vừa chém lợn, để lấy may; ở khắp các nơi thờ cúng thường thấy cảnh người ta nhét tiền vào tay thần, phật… Việc đốt vàng mã càng khủng khiếp, theo báo Nghệ An, “Mỗi năm dân ta đốt 5.000 tỷ đồng vàng mã”…Còn nhiều dẫn chứng sinh động, không sao kể hết!

2. Đến đây lại nảy ra một nghịch lý lạ kì khác. Tại sao một xã hội “sùng bái” thần phật, sợ ma quỷ, cầu cúng nhiều như vậy, mà đạo đức lại băng hoại suy đồi, nhân cách con người lại tha hóa? Tại sao xã hội lại lan tràn hành động bạo hành, độc ác, lắm mưu hèn kế bẩn, nhiều gian dối, lừa đảo như vậy?

– Có thời nào “thiên hạ thái bình” mà bộ máy chính quyền lại cướp đất, cưỡng chế phá nhà dân tàn khốc như dưới chính thể này? Có thời nào lắm dân oan lê lết từ Nam ra Bắc, nằm đầu đường, xó chợ khiếu kiện triền miên mà vô vọng như thời nay? Có thời nào mà câu “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan” đúng như ngày nay? Quan chức ăn cắp, ăn cướp triền miên, đến mức bà Phó Chủ tịch nước phải thốt lên: “Bọn nó ăn của dân không chừa thứ gì”!

– Sự gian dối trong “toàn hệ thống chính trị” thì không ai kiểm soát được, biết, nhưng không làm gì được nhau: từ thành tích thi đua, báo cáo láo, gian lận bằng cấp, “chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy tội…” đến khai báo thu nhập, kê khai tài sản, đều chẳng ai tin. Với lương quan chức trung bình 10 triệu đồng, cao nhất 20 triệu đồng một tháng, lấy đâu ra mà nhà lầu, xe hơi, ăn chơi xa hoa như vua chúa, cho con du học, mua nhà ở nước ngoài?…Mới đây ông Thủ tướng Phúc phải hò hét “phải khắc phục bệnh dối trá, đạo đức giả, nói không đi đôi với làm”…

– Có thời nào mà Công an lại dùng bạo lực, cưỡng chế, xô xát với dân tàn bạo như thời nay?

– Có thời nào mà dân lại sản xuất và buôn bán lắm thứ hàng nhái, hàng giả, hàng độc hại như thời nay; nhất là biết là hàng độc hại, mình không dám dùng nhưng cứ bán ra để đầu độc người khác, làm nguy hại cho xã hội, cho nòi giống? Mỗi ngày hơn 300 người chết vì ung thư, nhưng dường như cũng chẳng rúng động xã hội!

– Có bao giờ tệ nạn trộm cướp, cờ bạc, mại dâm, lừa đảo rộng khắp và nguy hiểm như ngày nay không? Người ta có thể đâm chém nhau chỉ vì “nhìn đểu”, “cười đểu” hay xích mích nhỏ. Mỗi dịp Tết lại mấy ngàn người nhập bện viện cấp cứu vì đánh nhau!…

– Có thời nào ngành giáo dục lại thi cử gian dối, học hành tốn kém, bằng dởm, bằng giả nhiều và bạo lực học đường, quan hệ thầy trò tồi tệ như ngày nay?

– Có bao giờ gia đình đổ vỡ, trẻ em bị bạo hành, bị xâm hại nhiều như ngày nay?

Tóm lại, xã hội ta, đang chứa đựng đầy những nghịch lý: càng tuyên truyền giáo dục học thuyết Mac- Lênin duy vật, vô thần, con người càng duy tâm, mê tín, dị đoan, càng mất niềm tin vào khoa học, mất niềm tin vào chân lý, vào công lý… Mặt khác, đáng lẽ nhiều người đi chùa, giác ngộ Phật pháp thì con người càng bớt Tham, Sân, Si, bớt Sát, Đạo, Dâm, bớt lừa lọc, gian dối, hung bạo; con người sẽ giàu lòng Tư bi, Hỉ xả, sống lương thiện, chạy tịnh, xã hội an lạc, hòa vui…

Nhưng tất cả dường như đều ngược lại! Con người có quá nhiều hành động vô minh tăm tối, bất lương; cái ác được kích thích và “lan tỏa”; xã hội ngày càng xuống cấp về đạo đức, lối sống. Mới hôm qua, trên VTV1 có cuộc thảo luận “làm sao kinh tế thời nay, đạo đức được như ngày xưa”!?

Những vấn đề nêu trên, Hội đồng Lý luận trung ương và Ban Tuyên giáo GIẢI THÍCH thì tài lắm, nhưng bao năm nay, càng GIẢI QUYẾT thì càng trở nên tồi tệ hơn! Vậy là sao?
12/2/2019

MVT

XÃ HỘI VIỆT NAM KHỦNG KHIẾP

Van Pham and Cat Bui shared a link.

XÃ HỘI VIỆT NAM KHỦNG KHIẾP….

183,000 bệnh nhân vào bệnh viện trong 7 ngày Tết

Tin Việt Nam – Báo Vietnamplus loan tin, báo cáo của Bộ Y tế CSVN cho biết, tính từ ngày 28 Tết đến 7 giờ giờ sáng ngày mùng Năm Tết Kỷ Hợi, cả nước có 182,700 bệnh nhân phải đến bệnh viện để khám, và cấp cứu. Trong đó, có 114,200 bệnh nhân phải điều trị nội trú, 11,600 bệnh nhân phải phẫu thuật; số bệnh nhân tử vong cả trong lúc nằm viện và trước khi đến được bệnh viện là 600 người.

Thông tin trên báo Dân trí cho biết thêm, tại bệnh viện Bạch Mai, số bệnh nhân nhập viện ngày Tết tăng 30% so với ngày thường. Các trường hợp vào bệnh viện chủ yếu do tim mạch, huyết háp, hô hấp, đột quỵ, sốc nhiễm khuẩn, xuất huyết tiêu hóa do liên quan đến rượu, suy gan, suy thận cấp.

Trung tâm chống độc của bệnh viện Bạch Mai cho biết, người Việt vẫn uống rượu quá nhiều, mỗi ngày Trung tâm phải tiếp nhận 2 đến 3 bệnh nhân vào cấp cứu do ngộ độc rượu. Các bệnh nhân ngộ độc rượu đều xảy ra ở cả nam và nữ trong mọi lứa tuổi. Có những nữ bệnh nhân ngộ độc rượu chỉ mới ở tuổi 19.

Trong một bối cảnh khác, tính đến 7 giờ sáng ngày mùng Bốn Tết, cả nước có 35,366 người vào bệnh viện khám, cấp cứu do tai nạn giao thông, chiếm 19.4% số lượng bệnh nhân đến bệnh viện. Ngoài các bệnh nhân nhập viện, thì mỗi ngày cả nước có 20 người chết vì tai nạn giao thông trong dịp Tết.

Các nhóm ‘tín dụng đen’ giết 84 người trong năm 2018

Các nhóm ‘tín dụng đen’ giết 84 người trong năm 2018

Một bảng quảng cáo cho vay nặng lãi dán trên cột điện đường phố Sài Gòn. (Hình: Báo Thanh Niên)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Đây là con số mà ông phó cục trưởng Cục Cảnh Sát Hình Sự, Bộ Công An loan báo về tội ác của các nhóm “tín dụng đen” đang hoành hành khắp nơi tại Việt Nam.

Báo Lao Động dẫn tin từ ông Phạm Văn Tám, phó cục trưởng Cục Cảnh Sát Hình Sự, Bộ Công An, cho biết tính riêng năm 2018, có 84 vụ giết người, 855 vụ cố ý thương tích, 105 vụ cướp tài sản, 35 vụ cưỡng đoạt tài sản, 1,309 vụ lừa đảo tài sản liên quan đến các nhóm “tín dụng đen,” một hình thức cho vay và đi vay, với lãi suất quá cao so với lãi suất quy định của luật pháp, gắn liền với đó là tội phạm, vi phạm pháp luật.

Ngoài ra, còn có hình thức chơi hụi họ, phường, kinh doanh đa cấp, sử dụng ứng dụng di động, cho vay trực tuyến, cho vay P2P (Peer to Peer – P2P Lending)…

Không có tiền trả, hoặc trả không đúng hẹn, người vay sẽ bị các nhóm “tín dụng đen” khủng bố nhà cửa, tính mạng. (Hình: Dân Trí)

Một hình thức nữa là vay nặng lãi, tập trung hầu hết tại các sòng bạc, đối tượng chuyên chơi bóng đá, số đề, đánh bài…thua nợ cần tiền gấp, và tiền cho vay thường lớn, với mức lãi suất cao có thể lên đến 50% một tháng.

“Không phải bây giờ mới nổi lên mà đã có từ lâu rồi. Giờ đây ‘tín dụng đen’ như cướp ngày, càn quét vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, các khu công nghiệp, chế xuất… mọi ngõ ngách đều có thể bắt gặp quảng cáo tờ rơi về ‘tín dụng đen’. Các đối tượng sử dụng sim rác để giao dịch, phát dán tờ rơi quảng cáo mạng điện thoại, Internet…,” ông Tám nói.

Nói về nguyên nhân hoạt động “tín dụng đen” ngày càng bành trướng, ông Tám cho rằng do nhu cầu vay vốn trong dân và các doanh nghiệp để phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, khi các sản phẩm tài chính ngân hàng bị “chặn cửa.” Trong khi các nhóm hoạt động “tín dụng đen” đáp ứng việc giải ngân tiền nhanh trong 15-20 phút với thủ tục đơn giản, kín đáo không cần xác định mục đích người vay tiền.

Thứ hai, nguồn tiền không sử dụng đến trong dân còn lớn, nhiều người do hám lợi cho vay dưới dạng “tín dụng đen” hoặc cho vay trung gian dưới hình thức lãi nặng gây rủi ro cho người đi vay và người cho vay.

Thứ ba, bộ phận nhỏ thanh thiếu niên xuống cấp về đạo đức, lười lao động sớm bỏ học do không vay nguồn vốn hợp pháp phải đi vay tín dụng đen.

Cuối cùng, quy định pháp luật về xử lý tội phạm, chưa có chế tài, hình phạt nhẹ chưa đủ sức răn đe, luật hiện hành quy định mức phạt cao nhất chỉ 3 năm tù. Còn lại chỉ xử phạt hành chính, phạt tiền cảnh cáo. Mức phạt đối với công ty tài chính cao nhất là 1 tỷ đồng, trong khi đó lợi nhuận thu được của “tín dụng đen” cao gấp nhiều lần. (Tr.N)

Tội tôn vinh cái ác trong xã hội là ở nhà chức trách

Lễ hội Đâm trâu và Chém lợn vẫn tiếp diễn hàng năm và quy mô năm sau lớn hơn năm trước! Thật kinh hoàng!

Muốn bảo vệ mình trước sự độc ác và hèn hạ trong xã hội, muốn bình an, con người phải chống lại những quan niệm và lễ hội, hành vi tôn vinh sự độc ác, hèn hạ kiểu này. Hàng trăm, ngàn người vũ khí trong tay, xúm lại hành hạ đâm chém dã man một vài con trâu con lợn – vật nuôi trong nhà mình thì đó là nỗi nhục nhã.

Con trâu vốn đã bị hành hạ và trói buộc từ khi chúng ra đời đến lúc chết bằng một sợi thừng xuyên thủng lỗ mũi, bị đánh đập, không có cách gì để tự vệ, thì đó chỉ có thể gọi là hành động dã man hèn hạ, bất kể ai đó có cổ tình bảo vệ và gán cho nó mọi ý nghĩa về văn hóa truyền thống hay cổ truyền.

Đề nghị nhà chức trách chấm dứt ngay những lễ hội kiểu này và nếu nó còn tiếp diễn thì tội tôn vinh cái ác trong xã hội là ở nhà chức trách