Vừa ly dị, hai vợ chồng cùng chết vì tai nạn giao thông

Vừa ly dị, hai vợ chồng cùng chết vì tai nạn giao thông
August 07, 2014

Nguoi-viet.com

HẬU GIANG (NV)Tai nạn giao thông thảm khốc xảy ra tại quốc lộ 1 A, làm đôi vợ chồng thiệt mạng, có thể vì bi kịch gia đình.

Báo mạng Zing cho biết, tai nạn xảy ra vào chiều ngày 6 tháng 8, năm 2014, trên đoạn đường đoạn băng ngang thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Giấy tờ để lại cho biết, đôi vợ chồng này là ông Mai Thanh Hải, 36 tuổi và bà Võ Thị Chính, 35 tuổi, ngụ tại huyện Châu Thành A. Nhân viên điều tra tìm thấy trong túi xách của hai người bạc mệnh có một lá đơn ly dị còn chưa ráo mực, vừa được hai người cùng ký tên.



Nơi xảy ra tai nạn làm chết cả hai vợ chồng. (Hình: Zing)

Báo mạng Zing News dẫn lời một số nhân chứng cho biết, đôi vợ chồng trên cùng ngồi tại một quán nước trước khi tai nạn xảy ra. Cả hai cãi nhau kịch liệt, có vẻ như vừa cùng ký tên vào tờ giấy ly dị, chuẩn bị đưa nhau ra tòa, vì mâu thuẫn trong cuộc sống khiến họ không thể nào tiếp tục chung sống với nhau.

Hai người cùng lên chiếc xe gắn máy do ông Mai Thanh Hải cầm lái, rời khỏi quán nước. Bà Chính ngồi yên sau không đội nón an toàn. Chiếc xe rời quán nước chưa đầy một cây số, vừa băng lên cầu Ðất Sét thì tông phải một chiếc xe hơi chạy cùng chiều phía trước mặt. Ông Hải và bà Chính cùng té xuống đường, bị xe vận tải từ đàng sau chạy trờ tới cán chết tại chỗ.

Dư luận cho rằng, có thể vì đang trong trạng thái giận dữ, bất an, ông Hải rồ ga phóng xe như bay trên đường, theo hướng từ Hậu Giang đến thành phố Cần Thơ, bất chấp nguy hiểm. Cuối cùng thì tai nạn hiểm nghèo xảy ra tước đoạt sinh mệnh của cả hai người.

Hai vợ chồng ông Hải và bà Chính chết đi để lại hai đứa con, một 15 tuổi và một mới lên 5. (PL)

 

Dịch Ebola : Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố tình trạng ‘‘khẩn cấp’’

Dịch Ebola : Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố tình trạng ‘‘khẩn cấp’’

RFI

Tổng giám đốc WHO, bà Margaret Chan và Phó TGĐ Keiji Fukuda trong cuộc họp báo về dịch Ebola tại Genève, 08/08/2014.

Tổng giám đốc WHO, bà Margaret Chan và Phó TGĐ Keiji Fukuda trong cuộc họp báo về dịch Ebola tại Genève, 08/08/2014.

REUTERS/Pierre Albouy

Trọng Thành

Hôm nay 08/08/2014, sau hai ngày làm việc tại Genève, Ủy ban khẩn cấp của Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố công nhận dịch bệnh Ebola, đang hoành hành tại miền tây Châu Phi, là « vấn đề y tế khẩn cấp toàn cầu ».

Phát biểu trước báo giới, bác sĩ Margaret Chan, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cho biết Ủy ban khẩn cấp « thống nhất nhận định các điều kiện của một vấn đề y tế toàn cầu hiện đã hội đủ », và để đối mặt với tình hình đang trở nên nghiêm trọng hiện nay, cần một « phản ứng quốc tế có phối hợp » để « ngăn chặn và đẩy lùi dịch bệnh Ebola trên thế giới ».

Dịch Ebola, còn gọi là dịch sốt xuất huyết Ebola, khiến gần 1.000 người thiệt mạng kể từ đầu năm nay, trên tổng số 1.700 trường hợp mắc bệnh. Theo Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, đây là dịch bệnh « nghiêm trọng nhất » trong vòng bốn thập niên. Đây là lần thứ ba WHO huy động một can thiệp khẩn cấp ở mức độ này. Lần đầu tiên là vào năm 2009 để đối phó với dịch cúm gia cầm Châu Á, và lần thứ hai là vào tháng 5/2014, để ngăn chặn dịch sốt bại liệt tại Cận Đông.

Ủy ban khẩn cấp của Tổ chức Y tế Thế giới không giới hạn giao thông hay thương mại quốc tế, nhưng kêu gọi nguyên thủ các nước bị dịch bệnh hoành hành « tuyên bố tình trạng khẩn cấp » « thông báo trực tiếp với toàn thể dân cư » về tình trạng dịch bệnh. Theo Phó tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới phụ trách dịch bệnh, bác sĩ Keiji Fukuda, thời gian cách ly 31 ngày là cần thiết đối với tất cả những ai nhiễm virus.

WHO cũng không yêu cầu cô lập bốn nước đang bị dịch (Guinea, Liberia, Sierra Leone và Nigeria), để không làm trầm trọng thêm tình trạng kinh tế của các nước này, nhưng yêu cầu kiểm soát chặt các cửa khẩu. Những ai có tiếp xúc với người bệnh, ngoài nhân viên y tế mang đồ bảo hộ, sẽ không được phép đi xa. Những người phục vụ trên các chuyến bay thương mại đến các quốc gia bị dịch bệnh phải trải qua một khóa đào tạo và nhận các thiết bị y tế để tự bảo vệ và bảo vệ hành khách của mình.

Hôm qua, Châu Âu nhận về một người đầu tiên nhiễm Ebola, một nhà truyền giáo người Tây Ban Nha làm việc tại Liberia, ít giờ sau khi hai bệnh nhân trở về Hoa Kỳ. Mỹ tuyên bố nâng báo động y tế lên mức tối đa trước nguy cơ Ebola.

Nhiều chuyên gia khuyến nghị WHO nhanh chóng cho phép điều trị thực nghiệm

Hiện tại, y tế thế giới hoàn toàn không có biện pháp điều trị nào đối với căn bệnh Ebola gây chết người hàng loạt. Trước nguy cơ đại dịch Ebola, nhiều tiếng nói trong giới chuyên gia đòi hỏi phải cho phép điều trị thực nghiệm với ZMapp (của hãng bào chế Hoa Kỳ Mapp Biopharmaceutical) trên các bệnh nhân nhiễm virus Ebola. Đề nghị này được giáo sư người Bỉ Peter Piot, đồng phát hiện virus này vào năm 1976, khuyến nghị với Tổ chức Y tế Thế giới. Hôm thứ Tư, WHO tuyên bố sẽ tham khảo một nhóm chuyên gia về khả năng sử dụng điều trị thực nghiệm và những rào cản đạo lý y học.

Giáo sư Peter Piot cảnh báo « dịch bệnh sẽ kéo dài trong nhiều tháng… cần tiếp thu bài học từ quá khứ… Một khi bệnh dịch qua đi, sẽ không còn các nỗ lực đầu tư cho việc nghiên cứu về các điều trị và vắc xin ». Giáo sư Peter Piot, vốn đứng đầu cơ quan Sida của Liên Hiệp Quốc, nhắc lại kinh nghiệm năm 1976, khi Tổ chức Y tế Thế giới khẳng định muốn xây dựng một nhóm can thiệp quốc tế để ngăn chặn dịch bệnh này, nhưng rút cuộc dự định đã không được thực hiện. Vẫn theo bác sĩ Peter Piot, không thể trông đợi kiếm lời từ thuốc trị Ebola, « các dược phẩm phải được miễn phí, vì trong những lần tới dịch bệnh Ebola vẫn sẽ chỉ xảy ra tại các nước nghèo ».

Hôm qua, Cơ quan kiểm dược Hoa Kỳ đã dỡ bỏ một phần các hạn chế đối với điều trị thực nghiệm của hãng Canada Tekmira, mang tên TKM-Ebola. Trị liệu với TKM-Ebola là mục tiêu của một hợp đồng 140 triệu đô la, mà hãng ký kết với Bộ Quốc phòng Mỹ.

 

Tư Bản Đỏ VN Đầu Tư Vào Mỹ Để Định Cư; Trong Năm 2013 Có 60 Đại Gia Đầu Tư Diện EB-5

Bản Đỏ VN Đầu Tư Vào Mỹ Để Định Cư; Trong Năm 2013 Có 60 Đại Gia Đầu Tư Diện EB-5

Vietbao.com

SAIGON (VB) — Nhiều đại gia tư bản đỏ đã và đang lên kế hoạch đầu tư vào Mỹ và sẽ đưa toàn gia sang định cư ở Mỹ.

Bản tin Báo Dân Việt ghi theo VnExpress có tựa đề “Nhiều đại gia Việt quan tâm đầu tư định cư Mỹ,” nói rằng đã có “khoảng 60 hồ sơ của Việt Nam được duyệt định cư thông qua đầu tư dự án tại Mỹ năm ngoái, trong khi 6 năm trước gần như không trường hợp nào thành công – ông Trần Văn Tỉnh, Chủ tịch HĐQT IMM Group cho biết.”

Bản tin nói, Luật EB-5 quy định về việc định cư tại Mỹ thông qua các chương trình đầu tư dự án. Đây cũng là cách nước Mỹ thu hút đầu tư nước ngoài. Gần 10 năm trước, chương trình này hầu như không được quan tâm bởi quy định khắt khe của cơ quan Di trú. Nhưng hiện nay, số người có nhu cầu tìm hiểu và muốn định cư ở Mỹ có xu hướng gia tăng.

Nhưng, cần bao nhiêu tiền bơm vaò Mỹ đầu tư mới có thể vào định cư ở Mỹ?

Ông Trần Văn Tỉnh, Chủ tịch HĐQT IMM Group, giải thích về chương trình EB-5:

“Thị trường Mỹ không yêu cầu kinh nghiệm quản lý, không yêu cầu có doanh nghiệp, không giới hạn độ tuổi hay ngoại ngữ…, nhưng phải có khoản tiền 500.000 USD để rót vào một dự án ở Mỹ (vào những vùng đã được chỉ định đầu tư) và chứng minh nó tạo ra 10 việc làm cho người bản xứ.

Chính phủ Mỹ đưa ra hạn mức 10.000 visa một năm dành riêng cho EB-5 nhưng từ trước tới nay chưa có năm nào đạt được. Tuy nhiên, lượng hồ sơ xin thẻ xanh có điều kiện được chấp thuận tăng dần qua các năm (2010: 1.369 hồ sơ, 2012: 1.563; 2013 là 3.677, theo Bộ Di trú Mỹ). Mong muốn chứng kiến con cái lớn lên tại nơi có nền giáo dục và môi trường phát triển, sớm đoàn tụ với người hoặc tận dụng những lợi thế kinh doanh khi có thẻ xanh trong tay là lý do chính mà nhiều người, trong đó có người Việt tìm cách định cư ở nước ngoài.”

Nhưng, mức độ khó của hô sơ EB-5 ra sao?

Ông Tỉnh giải thích:

“Theo thông tin tôi nắm, năm 2013, Việt Nam mới có khoảng 60 hồ sơ đạt yêu cầu nhận thẻ xanh có điều kiện.

Cái khó nhất của nhà đầu tư Việt Nam hiện nay là chứng minh tính minh bạch của số tiền 500.000 USD sẽ dùng để đầu tư vào dự án ở Mỹ. Nhiều trường hợp bỏ hẳn ý định vì không cách nào thu thập đủ thông tin để trình bày cho Chính phủ Mỹ hiểu rõ ngọn nguồn khoản tiền này. Có khách hàng là đại gia ở TP HCM thừa sức chi gấp hàng chục lần số tiền này nhưng ông không cho thấy trên giấy tờ 500.000 USD đó là do nguồn thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà ông làm chủ mang lại. Hay một chị thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi ngày từ cửa hàng điện tử ở quận 5 song không có gì xác minh đây là sự thật. Hóa đơn từ cơ quan thuế cũng vô hiệu bởi không được phía Mỹ chấp thuận. Trường hợp này đòi hỏi sự vào cuộc của phía luật sư, công ty kiểm toán… nên chỉ riêng khâu hoàn tất hồ sơ ban đầu chuyển cho công ty tư vấn đã mất vài tháng.”

Tình hình này cho thấy, các đại gia ở VN có rất nhiều, nhưng sẽ rất ít người chứng minh rằng đông tiền của họ có nguồn gốc “sạch.”

 

Người Mỹ gốc Việt đầu tiên thăng chức Chuẩn Tướng

Người Mỹ gốc Việt đầu tiên thăng chức Chuẩn Tướng

RFA 07.08.2014

Vietonthehorse-600-123.jpg

Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt

Photo courtesy of luongxuanviet.blogspot

Sáng ngày 6 tháng 8 năm 2014, lần đầu tiên trong quân sử Hoa Kỳ, một người Việt tị nạn được vinh thăng Chuẩn tướng.

Ông là Đại tá Lương Xuân Việt, Phó tư lệnh đặc trách hành quân của Sư đoàn I Thiết kỵ. Chức vụ vừa được gắn lên chiếc nón Thiết kỵ đã đưa ông vào danh sách người Việt Nam đầu tiên vinh dự có tên trong hàng tướng lãnh Hoa Kỳ vốn là nơi xét duyệt một cách nghiêm ngặt chức vụ này trong quân đội của họ.

Vinh quang của Chuẩn tướng Lương Xuân Việt cũng là niềm tự hào của người Việt tại Hoa Kỳ. Hàng trăm đồng hương đã lặn lội đến tận Cooper Field, tiểu bang Texas nơi tổ chức gắn lon cho ông để chia sẻ những gì mà một đứa con trong gia đình có đến bảy chị em gái, theo cha mẹ sang Mỹ lúc ông mới 10 tuổi. Cha ông là Thiếu tá Thủy quân lục chiến Quân lực VNCH và do đó ông đã thấm sâu ba chữ Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm.

Trong bài phát biểu bằng tiếng Việt, Chuẩn tướng Lương Xuân Việt nhắc lại truyền thống này một cách tự hào và cũng không quên cám ơn đồng ngũ với cha của ông, người từng mang trên người trọng trách bảo vệ quốc gia như ông đang làm trong vai trò một tướng lãnh:

“Nhìn những bộ quân phục lòng tôi thật bùi ngùi xót xa. Những người đã làm con tim tôi rung động vì ba chữ Danh dự, Trách nhiệm, Tổ quốc và những ý nghĩa của các câu dặn dò do cha ông để lại như. “Nam quốc sơn hà nam đế cư”… Chính là thân phụ tôi, đồng đội của các anh, vì vậy ngọn lửa trong tim tôi lúc nào cũng hướng về đất mẹ dù đã 30 năm xa cách. Không có sự hy sinh xương máu của các anh thì chúng tôi chắc chắn không có ngày hôm nay. Tổ quốc mãi mãi ghi ơn, vì vậy tôi xin các anh nhận cái chào của tôi!”

Chuẩn tướng Lương Xuân Việt gia nhập quân đội Hoa kỳ chức vụ đầu tiên ông nhận được vào năm 1987 là Thiếu úy bộ binh. Từ đó ông lần lượt được thăng tới cấp Đại tá và giữ chức Lữ đoàn trưởng cho chiến trường Afghanistan  năm 2012.

httpv://www.youtube.com/watch?v=Odzo6V45Ti0

Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?

Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-08-06

Hội nghị Thành đô 1990

Hội nghị Thành đô 1990

Files Photos

Hội Nghị Thành Đô là cụm từ nhức nhối đối với người quan tâm tới vận mệnh đất nước có liên quan đến yếu tố Trung Quốc. Hồi gần đây sự đòi hỏi minh bạch hội nghị này ngày một xuất hiện nhiều hơn trong giới sĩ phu cũng như tướng lãnh quân đội Nhân dân Việt Nam.

Bí ẩn vẫn bao trùm Hội nghị Thành Đô

Trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 Hội nghị Thành Đô được tổ chức tại Tứ Xuyên quy tụ lãnh đạo cao cấp của hai nước Việt Nam-Trung Quốc cho đến nay vẫn còn để lại trong lòng người dân nhiều câu hỏi về những gì mà hai bên bàn luận. Những khuôn mặt phía Việt Nam như Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng, cố vấn ban chấp hành Trung ương Đảng. Phía bên kia là Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.

Qua hình ảnh, những cái bắt tay đi kèm những nụ cười cho biết họ vừa bàn thảo những sự kiện quan trọng nhưng không ai được đọc hay nghe những gì mà hai bên thỏa thuận bên trong hội nghị. Từ đó đến nay, sự bí mật, hay nói đúng hơn là bưng bít vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô như một vùng cấm của người cộng sản mặc dù nội dung của nó liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc.

Lịch sử cho thấy bất cứ sự thỏa hiệp mờ ám nào dù tinh vi tới đâu cũng bị lật tẩy. Không ai có thể buộc kẻ thù không được công bố những gì mà trong quá khứ đã trót bằng lòng với chúng. Câu chuyện công hàm Phạm Văn Đồng là một thí dụ lớn nhất mà nhà nước có thể lấy làm bài học vì thời gian dù có bao lâu vẫn không mài mất được chữ ký của một Thủ tướng.

” Qua hình ảnh, những cái bắt tay đi kèm những nụ cười cho biết họ vừa bàn thảo những sự kiện quan trọng nhưng không ai được đọc hay nghe những gì mà hai bên thỏa thuận bên trong hội nghị. Từ đó đến nay, sự bí mật, hay nói đúng hơn là bưng bít vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô”

Công hàm Phạm Văn Đồng do Hà Nội quá lâu không lên tiếng giải bày khiến Trung Quốc có lợi thế như một yếu tố phân hóa quần chúng không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính quyền khi xảy ra vấn đề tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Tương tự như vậy, Trung Quốc đã dùng sự mập mờ của Hội Nghị Thành Đô để bịt miệng lãnh đạo Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử khiến tay họ trót nhúng chàm vì quá tin vào người bạn xã hội chủ nghĩa.

Năm 2004 tập hồi ký của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cho thấy phần nào sự bí ẩn phía sau khi ông bị Trung Quốc gạt ra khỏi Hội Nghị vì quan điểm chống Trung Quốc công khai của ông. Yếu tố này một lần nữa chứng minh sự gượng ép của những người đại diện Việt Nam tham gia hội nghị và mãi một phần tư thế kỷ sau đó bí mật vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô.

Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang là người từng nhiều lần tiếp xúc với nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch cho biết:

Chụp ảnh lưu niệm sau hội đàm Thành Đô

Chụp ảnh lưu niệm sau hội đàm Thành Đô

Trung quốc đưa ra một điều kiện tiên quyết đó là Việt Nam thực tâm muốn bình thường, cải thiện quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì việc đầu tiên là Việt Nam phải loại bỏ Bộ trưởng Thạch, đó là điều anh ấy nói riêng với tôi và sau này tôi được biết anh ấy nói công khai trong Bộ Ngoại giao. Còn nhiều việc anh ấy nói với tôi nữa nhưng tôi chưa dám công bố bởi vì có thể những việc đó anh ấy sẽ viết trong cuốn hồi ký của anh ấy.

Anh ấy là người rất hiểu Trung Quốc và hiểu tận tim gan của họ. Ví dụ như Trung Quốc nói rằng đảo Hoàng Sa có xương của người Trung Quốc thì ảnh đập lại anh ấy nói nếu như thế thì ngay thủ đô Hà Nội cũng sẽ là đất của Trung Quốc bởi vì gò Đống Đa có rất nhiều xương của Trung Quốc vì người Hán bị vua Quang Trung tiêu diệt chất thành cả một cái gò như thế. Nếu nói đâu có xương của người Hán người Trung Quốc thì nơi đó là dất của Trung Quốc thì phi khoa học.

Việt Nam một tỉnh tự trị của Trung Quốc?

Tài liệu về hội nghị này hết sức ít ỏi khiến bao nhiêu học giả muốn nghiên cứu về nó phải chịu thua vì sự trung thành của người trong cuộc. Bí mật càng giữ, sự xuyên tạc sự thật về nó càng khiến người ta tin hơn, đặc biệt nếu sự xuyên tạc ấy đến công khai từ phía Trung Quốc khi hai nước chạm trán với nhau trên vấn đề biên cương lãnh thổ.

” Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên

Tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã”

Tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã vừa cùng nhau công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về “Kỷ Yếu Hội Nghị” trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau:

Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….

Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên , và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.”

Với những từ ngữ tuyên giáo như thế không ai có thể tin rằng lãnh đạo Việt Nam đã mù quáng đến nỗi đi tới quyết định như vậy mặc dù sự xụp đổ của Liên Xô đã khiến đảng Cộng sản Việt Nam phải tìm cách dựa vào Trung Quốc để sống còn.

Dù sao thì Chủ nghĩa Xã hội cũng không thể biến Việt Nam thành một tỉnh tự trị của Trung Quốc vì ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười cộng với Phạm Văn Đồng không đủ chính danh để ký một văn tự vô giá trị như thế.

Tuy nhiên vì Hà Nội tiếp tục im lặng nên câu hỏi đã dần dần biến thành sự thật cho dù chỉ phân nửa sự thật đến từ Hoàn Cầu Thời Báo.

Phản ứng của nhân sĩ trí thức và tướng lãnh Việt Nam rõ ràng là phẫn nộ và họ đòi hỏi nhà nước phải bạch hóa sự kiện Thành Đô. Trước tiên là Thiếu tướng Lê Duy Mật sau đó là Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang cùng nhiều người khác đã công khai kiến nghị lãnh đạo phải giải thích minh bạch những điều mà Trung Quốc đưa ra như đã từng đưa sự việc công hàm Phạm Văn Đồng khiến Hà Nội phải ngậm bù hòn làm ngọt không thể tiến tới một vụ kiện phản đối Trung Quốc.

” Hoàn Cầu Thời báo thì nó không phải là cơ quan chính thức của dảng và nhà nước Trung Hoa cho nên nó đưa như thế ai muốn hiểu thế nào thì hiểu, bản thân cá nhân tôi thì tôi không tin đó là sự thật. Thế nhưng nếu mình im lặng trong chuyện này thì bất lợi cho mình. Phải có một kênh thông tin nào đó để phản bác lại chuyện đó

Đại tá Nguyễn Đăng Quang”

Nói với chúng tôi Thiếu tướng Lê Duy Mật cho biết:

Vấn đề Thành Đô quan hệ như thế nào nó ảnh hưởng ra sao và hậu họa của nó thế nào thì giờ mình cũng chưa thật rõ cho nên tôi nêu ra vấn để để các đồng chí lãnh đạo xem xét và đồng thời có ý kiến với toàn bộ đảng toàn nhân dân thế thôi. Bây giờ thì cứ chờ họ xem quan điểm, thái độ và cách giải quyết như thế nào. Còn bây giờ mình hãy nêu vấn đề, một vài ví dụ thế thôi. Nó là vấn đề bang giao chiến lược và của tập thể chứ không phải của một cá nhân nào.

Đại tá Nguyễn Đăng Quang không tin vào những thông tin này tuy nhiên theo ông nếu nhà nước vẫn chủ trương im lặng thì không khác gì trao vũ khí tuyên truyền cho giặc, ông chia sẻ:

Cái thông tin này thì bản thân tôi nghĩ rằng không phải là thật. Hoàn Cầu Thời báo nó tung ra để gây chia rẽ mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam với nhau thôi và gây phân hóa trong người dân Việt Nam với nhau.

Hoàn Cầu Thời báo thì nó không phải là cơ quan chính thức của dảng và nhà nước Trung Hoa cho nên nó đưa như thế ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. bản thân cá nhân tôi thì tôi không tin đó là sự thật. Thế nhưng nếu mình im lặng trong chuyện này thì bất lợi cho mình. Phải có một kênh thông tin nào đó để phản bác lại chuyện đó.

Còn chuyện có công bố cho dân biết về Hội nghị Thành Đô hay không thì tôi nghĩ rằng không phải là chuyện dễ làm nhưng phần nào ít nhiều gì cũng phải cho người dân biết.

Hội Nghị Thành Đô như một giọt nước tràn ly, đây là cơ hội để nhà nước bạch hóa một sự thật được giữ kín trong suốt 24 năm. Tuy nhiên bí mật khi đã trở thành gai nhọn thì cách hay nhất vẫn phải chịu đau mà lấy gai lể nó.

Một vụ án rắc rối về DNA

Một vụ án rắc rối về DNA

Người mẹ trẻ ở bang Washington, Mỹ đã phải đấu tranh với tòa án để giữ đứa bé mà cô mang nặng đẻ đau, vì theo xét nghiệm nó không phải là con ruột cô.

“Cô là ai? Cô đang âm mưu gì với bọn trẻ?”

Lydia Fairchild, 26 tuổi, sinh nở ba lần. Sau khi sinh đứa thứ ba, cô bị thất nghiệp. Do không đủ điều kiện kinh tế nuôi ba con một mình, Lydia phải viết đơn xin trợ cấp hàng tháng của chính phủ tại địa phương cư trú, tiểu bang Washington. Mọi người trong gia đình cô đều được triệu tập tới Sở Dịch vụ xã hội để chứng minh một số thông tin có liên quan.

Ban đầu, Fairchild nghĩ đó đơn giản là một cuộc triệu tập như thường lệ với một nhân viên xã hội. Nhưng cô không ngờ bị thẩm vấn nghiêm khắc giống như một nghi can tội phạm. Cô chết điếng khi toà tuyên bố bạn trai cô là bố bọn trẻ. Còn cô, người đã sinh ra chúng lại không phải là mẹ, vì DNA của cô không trùng hợp với chúng.

Lydia Fairchild sẽ còn nhớ mãi cái ngày hôm ấy. Nhân viên tòa án gọi cô đến hỏi một cách đầy ngờ vực: “Cô là ai? Cô đang âm mưu gì với bọn trẻ?” Ngạc nhiên, Lydia trả lời,: “chúng là con tôi mà, sao lại có chuyện âm mưu gì ở đây?”. Người đó đáp lại lạnh lùng: “Chúng không phải là con cô. Chúng tôi đã xét nghiệm DNA. DNA của cô và bọn trẻ không giống nhau”.

Từ tòa án trở về, Lydia tưởng như sắp phát điên. Rõ ràng cô là mẹ của ba đứa trẻ. Cô đã mang thai và sinh nở bình thường. Tất cả những người thân trong gia đình, hàng xóm và bác sĩ ở nhà hộ sinh đều biết. Thậm chí, mẫu DNA bố của bọn trẻ cũng phù hợp với DNA của cả ba đứa. Nhưng tất cả những cái đó đều vô nghĩa trước tòa. Lý thuyết y học đã khẳng định DNA của mẹ và con phải tương đồng. 100% trường hợp đều như vậy. Ngược lại chỉ có thể là giả mạo.

Nghi ngờ xét nghiệm của tòa có sai sót, Lydia xin thực hiện lại xét nghiệm ở một số phòng thí nghiệm độc lập do chính cô lựa chọn. Kết quả vẫn y nguyên, không có chút sai sót nào. Cô, người sinh ra chúng lại không phải là mẹ. Mặc dù, cả ba đứa trẻ đều khăng khăng khẳng định mẹ chúng chính là Lydia Fairchild – người đang đứng trước mặt chúng.

Tuy nhiên, đó chưa phải là bằng chứng đủ sức thuyết phục. Như vậy, từ chỗ chỉ muốn xin một khoản trợ cấp xã hội hằng tháng để nuôi con, Lydia phải đối mặt với nguy cơ phạm tội: Cô có thể bị buộc tội giả mạo và lạm dụng bọn trẻ, thậm chí là bắt cóc trẻ em. Trong trường hợp đó, lũ trẻ sẽ bị đưa vào trung tâm bảo trợ xã hội và Lydia sẽ không bao giờ gặp lại các con mình. “Cô biết đấy. Chúng tôi có thể đón bọn trẻ đi bất cứ lúc nào”, một nhân viên xã hội nói với Lydia trước khi cô rời khỏi phòng.

Có sự nhầm lẫn?

Sau những giờ “thẩm vấn” xót xa, đầy hoài nghi, Lydia bắt đầu hoảng loạn, cô bước đi loạng choạng. Lydia vội vã trở về nhà tìm những bức ảnh siêu âm trong quá trình cô mang thai của từng đứa con một. Vừa nỗ lực lục tìm, Lydia kể với cha mẹ mình về kết quả xét nghiệm DNA  “quái dị” ấy. Cha mẹ Lydia không tin điều đó.

“Lúc đầu, tôi nghĩ rằng, con bé đang nói đùa. Chắc có sự nhầm lẫn nào đó. Chính tôi là người đưa Lydia đến bệnh viện sinh. Rồi cả ba lần sinh, chính mắt tôi nhìn thấy bọn trẻ do Lydia mang nặng đẻ đau. Tôi còn nhẹ nhàng ẵm chúng lên, khoe với mọi người trong gia đình và một số bạn bè”, bà Carol Fairchild, mẹ của Lydia kể lại trong sự ngỡ ngàng và đau khổ.

Tiến sĩ Leonard Dreisbach, bác sỹ khoa sản, người trực tiếp ba lần đỡ đẻ cho Lydia khẳng định, Lydia là mẹ của cả ba đứa trẻ. Ông còn cho rằng, trường hợp kỳ lạ của Lydia chắc chắn có sự nhầm lẫn nào đó trong kết quả xét nghiệm DNA. Ông cũng rất sẵn lòng làm chứng trong phiên tòa về “sự thật” này.

Xét về tình, các thành viên ban hội thẩm cũng tin rằng, Lydia Fairchild là mẹ của cả ba đứa trẻ. Nhưng về lý, Lydia Fairchild không có bằng chứng chứng minh, cô và các con có cùng dòng máu. Lydia có thuê luật sư biện hộ cho cô nhưng không ai nhận. Vì họ biết chắc, họ không thể thắng, kết quả DNA đã cho biết điều đó. Sau cùng, Luật sư Alan Tindell “dũng cảm” nhận lời, bởi theo linh cảm ông tin, Lydia không phải là kẻ bắt cóc chúng, mà cô chính là mẹ đẻ.

Người có DNA từ nhiều nguồn khác nhau (Genetic Chimerism)

Trong thời điểm u ám ấy, một tia hy vọng chợt lóe lên. Luật sư Alan Tindell tìm thấy một bài viết trên tạp chí New England Journal of Medicine, có nói đến một trường hợp ở Boston tương tự như của Lydia. Ông đệ đơn lên tòa xin hoãn xét xử khi các xét nghiệm này có thể thực hiện.

Đó là trường hợp của bà Karen Keegan, một bà mẹ 52 tuổi có hai con trai ở Boston. Xét nghiệm trước ca ghép thận của Karen cũng cho thấy DNA của bà và bọn trẻ không giống nhau. Bác sĩ ở đó, mặc dù biết chắc chắn rằng không hề có sự giả mạo nào, nhưng cũng không thể giải thích nổi điều gì đã diễn ra. Họ tiến hành những mẫu xét nghiệm ở máu, tóc, mô miệng nhưng tất cả đều không có DNA  của con trai bà.

Các bác sĩ đã tìm hiểu kỹ hơn tuyến giáp của Karen. Lý do khiến các bác sỹ chọn tuyến giáp để xét nghiệm AND vì trong 100 ml máu ở người bình thường, có 2 – 2,5 mmol calcium (100 mg/l) và tồn tại dưới 3 dạng là 40% gắn với protein, 5 – 10% ở dưới dạng muối kết hợp với phosphat, bicarbonat, citrat; và 50% còn lại tồn tại dưới dạng ion hóa, để đảm bảo cho hoạt động điện sinh lý của các tế bào.

Mỗi ngày, cơ thể hấp thu vào 25 mmol canxi và thải trừ 20 mmol ra phân + 5 mmol ra nước tiểu. Hormon tuyến giáp có vai trò huy động canxi từ xương ra máu, và vitamin D giúp hấp thu canxi vào cơ thể, đưa đến xương. Karen Keegan gặp một vấn đề khá hiếm trong y học gọi là chimerism.

Hiện tượng này xảy ra ở người hay động vật khi hai trứng được thụ thai, hoặc phôi thai kết hợp cùng nhau trong thời kỳ đầu của thai kỳ. Mỗi hợp tử mang một bản sao DNA của bố mẹ, vì vậy hợp tử mới có một bộ gene khác biệt. Về cơ bản, đứa trẻ sinh ra là song sinh của chính nó. Chimerism ở người rất hiếm. Trong các thử nghiệm DNA nhằm xác định con ruột của bố mẹ đã phát hiện trường hợp Chimerism khi đứa trẻ không có liên hệ sinh học với người mẹ – nó mang một DNA khác. Lydia Fairchild là trường hợp điển hình sinh ra một chimera. Người mẹ trẻ ở bang Washington đã phải đấu tranh với tòa án để giữ đứa bé mà cô mang nặng đẻ đau.

Trên thế giới có khoảng 30 trường hợp như vậy được ghi nhận. Thực chất đó là trường hợp hai cá thể song sinh tồn tại trong một cơ thể. Nguyên nhân là do có hai trứng cùng được thụ tinh, nhưng khi trong tử cung, đáng lẽ phải phát triển thành hai trẻ song sinh thì chúng lại “hòa lẫn” vào nhau, và trở thành một bào thai hoàn hảo duy nhất, nhưng có hai mã di truyền khác nhau – hai chuỗi DNA khác nhau.

Nói một cách khác, Karen là hai người trong một cơ thể và điều đó không thể quan sát bằng mắt thường, mà chỉ có thể phát hiện nếu xét nghiệm vật chất di truyền. Đó là lý do DNA trên khắp cơ thể bà lại khác với DNA của các con, nhưng DNA ở tuyến giáp lại giống.

Câu chuyện của Karen khiến Lydia có cơ sở thuyết phục quan tòa cho cô thêm thời gian. Cuối cùng, sau hàng loạt xét nghiệm, bác sĩ kết luận rằng Lydia cũng là một trường hợp chimerism. Hồ sơ vụ án được khép lại với một kết thúc có hậu: Lydia được công nhận là mẹ đẻ của các con cô và được nhận trợ cấp hàng tháng. Mỗi lần nhớ lại chuyện đã qua, Lydia vẫn thầm cảm ơn Karen: “Nếu không có bà ấy, tôi đã mất con”.

Câu chuyện của Lydia được lưu kỹ lưỡng trong hồ sơ xử án của tòa án tiểu bang Washington. Họ xem đây là “một vụ án y khoa” hiếm gặp. Còn phía y học và các nhà khoa học, đặc biệt là những nhà chuyên môn nghiên cứu về DNA cả về con người và động vật, họ xem đó là một bước tiến mới.

Thủy điện ở Việt Nam: ‘Bên nào cũng khóc’

Thủy điện ở Việt Nam: ‘Bên nào cũng khóc’
August 05, 2014

Nguoi-viet.com


VIỆT NAM (NV)
Bộ Công Thương Việt Nam vừa tuyên bố sẽ tổ chức một hội nghị với chính quyền các tỉnh có công trình thủy điện để bàn bạc cách thức quản lý thủy điện tốt hơn.

Tuyên bố vừa kể được đưa ra sau khi đập tạm để chặn nước làm đập chính của thủy điện Ia Krel 2 tại huyện Ðức Cơ, tỉnh Gia Lai bị vỡ lần thứ hai vào ngày 1 tháng 8.


Thủy điện Ia Krel 2. (Hình: Tuổi Trẻ)

Ðập tạm này từng bị vỡ hồi tháng 6 năm ngoái, gây thiệt hại khoảng ba tỉ đồng. Theo chủ tịch huyện Ðức Cơ, thiệt hại của lần vỡ thứ hai chắc chắn sẽ gấp vài lần thiệt hại hồi năm ngoái.

Vụ đập tạm để chặn nước làm đập chính của thủy điện Ia Krel 2 bị vỡ khiến chủ đầu tư bàng hoàng. Ðến bây giờ, ông Nguyễn Ngọc Ẩn, phó giám đốc công ty Bảo Long Gia Lai – doanh nghiệp chuyên kinh doanh vật liệu xây dựng và phụ tùng xe vận tải nhưng không hiểu sao vẫn được chính quyền tỉnh Gia Lai cấp giấy phép đầu tư ba công trình thủy điện tại Gia Lai, trong đó có thủy điện Ia Krel 2 – chính thức thú nhận: “Chúng tôi không thể ngờ! Chúng tôi không lường hết được sự việc! Chúng tôi chưa có kinh nghiệm!”

May mắn là thủy điện Ia Krel 2 đang xây dựng, chưa tích nước, nếu đập chính vỡ khi hồ chứa nước đã tích đủ nước, hậu quả sẽ rất thảm khốc.

Vụ đập tạm của thủy điện Ia Krel 2 vỡ lần thứ hai khiến dân chúng Tây Nguyên và miền Trung thêm lo âu. Từ cuối năm 2012 đến nay đã xảy ra bốn vụ đập chặn nước của các công trình thủy điện ở Tây Nguyên và miền Trung bị vỡ. Ngoài đập tạm của thủy điện Ia Krel 2 bị vỡ hai lần, trong vòng chưa đầy hai năm, còn có đập chặn nước của thủy điện Ðak Mek 3 ở Kon Tum và đập chặn nước của thủy điện Ðakrong 3 ở Quảng Trị bị vỡ.

Ðến nay, việc cho phép thực hiện ồ ạt hàng ngàn dự án thủy điện đã tạo ra một thảm họa mới cả về kinh tế, môi trường lẫn dân sinh, đặc biệt là tại khu vực Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam.

Các dự án thủy điện đã làm Tây Nguyên mất 80,000 héc ta đất, gây xáo trộn sinh hoạt, sinh kế của 26,000 gia đình, phần lớn là người thiểu số.

Những dự án thủy điện được cấp giấy phép để thực hiện tại Tây Nguyên và miền Trung được xem là nguyên nhân tăng thêm đói nghèo, đẩy dân chúng tới tột đỉnh của sự bần cùng, vì gây ra hạn hán nghiêm trọng vào mùa khô, lũ lụt thường xuyên vào mùa mưa.

Chưa kể chuyện xả lũ vô tội vạ sau các trận bão hồi năm ngoái đã làm 41 người chết, 5 người mất tích, 74 người bị thương, 410 ngôi nhà bị nước cuốn, 425,573 ngôi nhà bị ngập. Chưa kể thiệt hại do ruộng vườn mất trắng vì lũ. Hậu quả thiên tai thêm trầm trọng.

Cũng năm ngoái, sau khi thẩm tra các dự án thủy điện, Ủy Ban Khoa Học-Công Nghệ-Môi Trường của Quốc Hội Việt Nam cho biết, việc quản lý chất lượng, an toàn tại các công trình thủy điện tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường. Khoảng 30% đập chắn nước của các công trình thủy điện chưa được kiểm định. Khoảng 66% đập chắn nước chưa được duyệt phương án bảo vệ. Khoảng 55% chủ đập chưa có phương án phòng chống lụt bão.

Sau khi Quốc Hội Việt Nam yêu cầu chính phủ Việt Nam báo cáo về “Quy hoạch tổng thể cho thủy điện,” đại diện chính phủ Việt Nam loan báo đã loại bỏ 424 dự án thủy điện. Trừ đi các dự án bị loại bỏ, tại Việt Nam vẫn còn 815 dự án, công trình thủy điện, trong đó có 205 dự án đang thi công hoặc dự kiến sẽ khai thác cho đến 2017.

Dù vậy những thảm họa đi kèm các dự án thủy điện vẫn lơ lửng trên đầu hàng chục triệu người cư trú ở Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam.

Các hồ chứa nước của một số công trình thủy điện như Sông Tranh 2, Ðăk Ðrinh, Ðakrong nay là gốc rễ của vài chục trận động đất xảy ra liên tục ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam; huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum; huyện Ðakrong, tỉnh Quảng Trị.

Các dự án thủy điện còn là nguyên nhân gây ra xung đột giữa chính quyền thành phố Ðà Nẵng, chính quyền tỉnh Quảng Nam, chính quyền tỉnh Phú Yên với Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, Bộ Công Thương do bất đồng về qui trình tích nước trong mùa khô và xả nước trong mùa lũ. Từ năm ngoái đến nay, những viên chức lãnh đạo ngành nông nghiệp-phát triển nông thôn của các tỉnh vừa kể, liên tục lên án hai Bộ Tài Nguyên-Môi Trường và Công Thương là vô trách nhiệm khi đặt lợi ích của thủy điện lên hàng đầu và bỏ qua lợi ích của hàng ngàn gia đình vùng hạ du. (G.Ð)

 

Nhân quyền tại Miến Điện được mổ xẻ trong hội nghị ASEAN

Nhân quyền tại Miến Điện được mổ xẻ trong hội nghị ASEAN

RFI

Miến Điện : số phận cộng đồng hồi giáo Rohingya vẫn làm quốc tế quan ngại.

Miến Điện : số phận cộng đồng hồi giáo Rohingya vẫn làm quốc tế quan ngại.

Reuters

Thụy My

Miến Điện, nước chủ nhà hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN diễn ra trong tuần này có nguy cơ bị lên án, khi bạo động tôn giáo và vi phạm tự do báo chí đã làm mờ nhạt đi các cải cách thực hiện từ ba năm qua.

Những cải cách chính trị và kinh tế do một chính phủ hầu như dân sự đưa ra từ khi tập đoàn quân sự cầm quyền tự giải tán năm 2011 đã được phương Tây rất hoan nghênh, do đó đã dỡ bỏ hầu hết các biện pháp cấm vận. Nhưng cộng đồng quốc tế gần đây lo ngại trước các vụ bắt bớ nhà báo, và xu hướng dân tộc chủ nghĩa Phật giáo đang lên kèm theo các vụ xung đột đẫm máu giữa người Phật giáo và Hồi giáo.

Các Ngoại trưởng 10 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ họp lại vào thứ Sáu 8/8 tới tại Naypyidaw, trước khi họp riêng vào thứ Bảy 9/8 với Trung Quốc, Hoa Kỳ và các đối tác quan trọng khác của khối ; rồi đến một hội nghị với toàn thể các quốc gia khách mời vào Chủ nhật 10/8. Các cuộc thảo luận chủ yếu tập trung vào vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển giữa Bắc Kinh và nhiều thành viên ASEAN tại Biển Đông.

Nhưng một số thành viên cũng sẽ nêu ra những câu hỏi về vấn đề nhân quyền đối với nước chủ nhà, nhất là Ngoại trưởng Mỹ John Kerry. Ông sẽ kêu gọi chính phủ Miến Điện bảo vệ tất cả mọi công dân và « thiết lập những bảo đảm tốt nhất về nhân quyền và các quyền tự do căn bản ». Danny Russel, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương cho biết như trên.

Sean Turnell, trường đại học Macquarie của Úc nhấn mạnh : « Nhiều cường quốc phương Tây đã nỗ lực rất nhiều cho một sự chuyển đổi thành công của Miến Điện. Các vấn đề như bạo động tôn giáo và vi phạm tự do báo chí đã gây khó khăn cho cố gắng này ».

Các chỉ trích đối với chính phủ Miến Điện có thể được đưa ra trong cuộc họp kín. Tuy nhiên Trung Quốc, vốn đã bị mất đi vị trí một đồng minh không thể thay thế trong thời kỳ tập đoàn quân sự cầm quyền, nhờ đó sẽ có được cơ hội lại đóng vai trò lá chắn cho nước láng giềng.

Từ khi chính quyền quân sự giải thể, hàng trăm tù chính trị đã được phóng thích, kiểm duyệt được bãi bỏ và nhà đối lập Aung San Suu Kyi từng bị quản thúc suốt 15 năm, đã trở thành dân biểu. Nhà nước bị cô lập trước đây nay thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư quốc tế, với nguồn lợi thiên nhiên dồi dào và dân số 60 triệu người.

Nhưng Miến Điện luôn bị ảnh hưởng bởi những trận đánh lẻ tẻ ở miền cực bắc giữa quân đội và phe nổi dậy người thiểu số Kachin, đã ngăn trở kế hoạch ngưng bắn trên toàn quốc với tất cả các phe sắc tộc. Bạo động giữa người Phật giáo và Hồi giáo đã làm trên 250 người chết tại nhiều vùng kể từ năm 2012 cũng gây quan ngại cho cộng đồng quốc tế.

Bên cạnh đó là bản án 10 năm tù khổ sai dành cho năm nhà báo hồi tháng Bảy vì một bài báo lên án một nhà máy quân sự sản xuất ra vũ khí hóa học. Và theo một nhà ngoại giao phương Tây, gần đến kỳ bầu cử quan trọng năm 2015 mà đảng của bà Aung San Suu Kyi chiếm ưu thế, truyền thông Miến Điện có nguy cơ phải chịu đựng áp lực ngày càng cao.

Ông David Mathieson của Human Rights Watch bình luận : « Tôi nghĩ rằng ông Kerry nhận ra ông đến không phải để ca ngợi vì sẽ khó nói ». Về phía Soe Thein, Bộ trưởng phụ trách Văn phòng Tổng thống mới đây đã yêu cầu « thông cảm » trước một số cải cách đã không tiến hành như dự kiến. Ông hứa hẹn : « Chúng tôi tiến bước trên con đường dân chủ, và sẽ không quay trở lại ».

Xác nạn nhân Ebola chất đống trong lúc số tử vong gia tăng

Xác nạn nhân Ebola chất đống trong lúc số tử vong gia tăng

Nhân viên y tế khiêng thi thể nạn nhân tử vong vì Ebola tại Kenema, Sierra Leone.

Nhân viên y tế khiêng thi thể nạn nhân tử vong vì Ebola tại Kenema, Sierra Leone.

05.08.2014

Các giới chức Liberia đang chật vật ứng phó với số người chết vì dịch Ebola ngày càng nhiều nhưng chưa được chôn cất tại những cộng đồng có dịch.

Truyền thông địa phương cho biết hệ thống y tế bị quá tải khiến cho nhiều thi thể bị mang vất ở một số cộng đồng và không được mai táng trong vòng nhiều ngày. Một bản tin cho biết có đến 37 xác được phát giác hôm chủ nhật tại một khu vực của thủ đô Monrovia.

Bộ trưởng Thông tin Liberia, ông Lewis Brown, cho đài VOA biết rằng chính quyền cảm thấy bất ngờ trước việc một số cộng đồng không muốn xác nạn nhân Ebola được chôn cất tại cộng đồng của họ.

Ông Brown cho biết Tổng thống Ellen Johnson Sirleaf đã ra lệnh hỏa thiêu xác những người thiệt mạng vì Ebola.

Tổ chức Y tế Thế giới cho biết số tử vong của trận dịch Ebola hiện nay là 887 người, trong đó có 255 người ở Liberia.

Trong khi đó, một chiếc máy bay được thiết kế đặc biệt đã chở một nhà truyền giáo Mỹ nhiễm Ebola ra khỏi Liberia sáng sớm hôm nay.

Bà Nancy Writebol dự kiến sẽ về tới Mỹ xế ngày hôm nay và sẽ được chữa trị tại Bệnh viện Đại học Emory ở thành phố Atlanta cùng với một Bác sĩ Mỹ khác bị nhiễm vi rút nguy hiểm này trong lúc chữa trị bệnh nhân ở Liberia.

Hôm qua, các giới chức của một bệnh viện ở New York cho biết một người đàn ông bị sốt cao và đau bụng đã vào phòng cấp cứu và đã được cách ly ngay.

Họ cho biết bệnh nhân này hồi gần đây đã du hành tới một nước ở Tây Phi đang có dịch và đang được xét nghiệm. Chưa có chi tiết nào khác về người này được công bố.

Phạm Chí Dũng : Nhà nước cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của xã hội dân sự

Phạm Chí Dũng : Nhà nước cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của xã hội dân sự

RFI

Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.

Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.

DR

Thụy My

Nhà báo Phạm Chí Dũng – Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (Hội NBĐLVN) – vừa nhận hai giấy triệu tập liên tiếp của Cơ quan an ninh điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu anh phải đến trụ sở cơ quan này vào 8h sáng các ngày 4/8 và 5/8 để “trả lời các bài viết trên Internet”.

Được biết ngày 4/8 cũng là thời điểm một cuộc sinh hoạt định kỳ của Hội NBĐLVN được tổ chức tại Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Ngày 5/8 là ngày họp mặt các nhóm xã hội dân sự tại Saigon.

Với giấy triệu tập lần 1, nhà báo Phạm Chí Dũng đã từ chối không đến, nhưng đành vắng mặt trong buổi họp vì bị ngăn chặn. Còn hôm nay 05/08/2014, anh đã chấp nhận đến trụ sở công an để làm việc. Sau khi kết thúc buổi làm việc này, anh cho đài RFI biết:

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Một chi tiết thú vị là tôi lại gặp chính ông Lê Đình Thịnh – điều tra viên mà vào năm 2012 đã tham gia bắt và hỏi cung tôi. Lần này, điều tra viên hỏi khá nhiều về Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nội dung xoay quanh mục đích tôn chỉ của Hội và một số vấn đề khác. Có vẻ họ rất quan tâm đến tiêu chí “hoạt động ôn hòa” của Hội và cố gắng dò tìm xem hội này thực sự ôn hòa hay có định xách động dân chúng không.

Tôi trả lời thẳng là Hội NBĐLVN là tổ chức nghề nghiệp về báo chí, đã tuyên bố hoạt động ôn hòa tức sẽ luôn ôn hòa về quan điểm, trong đó có quan điểm chính trị. Nhà nước Việt Nam luôn đa nghi, nhưng sẽ hoài công vì Hội NBĐLVN chẳng bao giờ có ý định “lật đổ chế độ”.

Tuy nhiên, mục tiêu chính của Hội là phản biện, và Hội chấp nhận các luồng quan điểm và ý kiến đa chiều, kể cả trái chiều giữa các hội viên để tạo nên một môi trường đa nguyên tư tưởng theo đúng nghĩa.

Về ngày thành lập 4/7 của Hội NBĐLVN trùng với ngày Quốc khánh Mỹ, ngay từ đầu chúng tôi đã xác định đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên nhưng rất ý nghĩa, vì điểm thời gian này tương hợp với Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hơn hai trăm năm trước – năm 1776. Nhưng không thể lấy sự trùng hợp về thời điểm như thế để quy cho Hội NBĐLVN là “theo đuôi Mỹ”.

Họ cũng cho rằng có thể tôi bị “cuốn theo đô la và ảo vọng”, tức “khen Mỹ” nhiều quá. Tôi trả lời thẳng là: “Các anh có chứng minh được chúng tôi dùng nguồn tiền bất hợp pháp cho hoạt động của Hội NBĐLVN không? Các anh có bao giờ thấy tôi hoang tưởng chính trị không? Vừa qua sau vụ giàn khoan HD 981 của Trung Quốc, nếu không có sự lên tiếng mạnh mẽ của Hoa Kỳ và phương Tây thì liệu Trung Quốc có nhượng bộ Việt Nam không? Như vậy cần thấy rằng phải cố mà xây cho được mối quan hệ đồng minh với Mỹ chứ. Quan hệ này không chỉ bảo toàn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam mà còn có lợi cho cả đảng của các anh đấy”.

Nội dung hỏi và trả lời chỉ có thế. Sau đó họ đề nghị tôi ký xác nhận vào những bài viết của tôi trên mạng Internet, nhưng tôi yêu cầu họ về nhà tôi để tôi tự in các bài viết từ trên mạng rồi mới có thể ký được.

Điều đọng lại cuối cùng nhưng ấn tượng nhất đối với tôi sau buổi làm việc hôm nay là Cơ quan ANĐT không hề đề cập đến việc hình thành Hội NBĐLVN là đúng hay sai luật pháp, cũng không đả động gì đến việc “xử lý vi phạm” hay bắt bớ nào đối với các hội viên của Hội NBĐLVN.

Họ cũng không đề cập đến cụm từ “đối lập chính trị” mà giới dư luận viên đã luôn dùng để công kích và quy chụp Hội NBĐLVN trong gần ba chục bài viết trên mạng trong một tháng qua, hay truy tìm nguồn tài chính của Hội mà có thể họ luôn cho rằng không minh bạch. Và Cơ quan ANĐT cũng chỉ hỏi về hoạt động của cá nhân tôi chứ không đề cập đến bất cứ người nào khác trong Hội NBĐLVN.

Tôi cho rằng đã đến lúc Nhà nước Việt Nam cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của các hội đoàn dân sự độc lập, và thay vì điều tra xét hỏi và triệu tập liên miên mà có thể phạm vào việc lạm dụng quyền lực, họ nên đối thoại với chúng tôi về những giải pháp cho đất nước.

Nhà báo Phạm Chí Dũng – Saigon

 

05/08/2014
by Thụy My

 

Nghe (03:04)

 

 

 

 

Sài Gòn là điểm trung chuyển nạn nhân buôn người

Sài Gòn là điểm trung chuyển nạn nhân buôn người
August 04, 2014

Nguoi-viet.com
SÀI GÒN (NV) – Ðó là lời thừa nhận của chính quyền thành phố Sài Gòn khi sơ kết tình hình an ninh trật tự ở thành phố này trong sáu tháng đầu năm 2014.


Chùa Bồ Ðề ở Hà Nội, một nơi chuyên nuôi trẻ mồ côi và người già. Công an Việt Nam đang điều tra hoạt động mua bán trẻ em tại ngôi chùa này. Ðã có hai bảo mẫu bị bắt hôm 3 tháng 8. (Hình: xahoi.com.vn)

Ðại diện nhà cầm quyền thành phố cho biết là đã và đang là nơi được các nhóm buôn người dùng làm điểm “tập kết” để trung chuyển nạn nhân từ các tỉnh khác ra ngoại quốc.

Các nhóm buôn người thường dụ dỗ thiếu nữ bằng cách hứa giúp họ tìm việc làm có thu nhập cao ở ngoại quốc, khi đã đưa họ ra ngoại quốc thì bán họ cho những nhóm buôn người khác, cưỡng ép họ làm gái mại dâm, bóc lột tình dục. Ða số nạn nhân cư trú tại các tỉnh hoặc từ các tỉnh tìm về Sài Gòn kiếm sống.

Giới chức này nói thêm rằng họ vẫn chưa dẹp được tệ nạn môi giới hôn nhân trái phép với đàn ông ngoại quốc vì các hoạt động của các nhóm này càng ngày càng tinh vi và liên tục thay đổi phương thức hoạt động.

Sài Gòn hiện cũng là nơi mà các nhóm chuyên mua bán trẻ em hoạt động. Những nhóm này thường đến những nơi chăm sóc, nuôi dạy trẻ mồ côi, bệnh viện phụ sản, móc nối với nhân viên làm việc tại các cơ sở này gạ gẫm những phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, mang thai ngoài ý muốn bán trẻ sơ sinh cho chúng.

Trong sáu tháng đầu năm 2014, công an Sài Gòn đã tiếp nhận để điều tra bảy vụ bán phụ nữ sang Trung Quốc, ba vụ môi giới hôn nhân trái phép, bốn vụ mua bán trẻ em – giải cứu sáu đứa trẻ.

Cho đến nay, Việt Nam vẫn bị xem là một trong những điểm nóng về tệ nạn buôn người. Nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế liên tục cảnh báo về sự phát triển của tệ nạn này tại Việt Nam song chính quyền Việt Nam bất lực trong việc giải quyết thực trạng nhức nhối này.

Kết qủa điều tra về thực trạng buôn người 2014 do chính phủ Hoa Kỳ thực hiện và công bố cách nay vài tháng, ghi nhận Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể nhưng hiện tượng phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán sang các nước ở Châu Á để làm nô lệ tình dục vẫn rất đáng ngại. Nơi các nạn nhân này thường bị đưa đến là Trung Quốc, Campuchia, Malaysia và Nga.

Nạn nhân của tệ nạn buôn người tại Việt Nam không chỉ có phụ nữ và trẻ em. Thanh niên và đàn ông Việt Nam cũng bị biến thành hàng hóa để mua bán.

Hồi đầu năm nay, Walk Free – một tổ chức quốc tế chuyên tranh đấu cho nhân quyền, công bố kết quả một cuộc khảo sát-phân tích, xếp hạng về “chỉ số tình trạng nô lệ 2013.” Theo đó, Việt Nam bị xếp thứ 64/162 trên bình diện toàn cầu. Còn xét riêng khu vực Châu Á, Việt Nam xếp thứ 9. Nếu xếp theo tổng số nô lệ, Việt Nam đứng thứ 15 trên thế giới.

Con số nô lệ tại Việt Nam được Walk Free ước đoán nằm trong khoảng từ 240 ngàn đến 260 ngàn. Walk Free nhận định, tình trạng người Việt bị cưỡng ép lao động phổ biến cả ở bên ngoài lẫn bên trong Việt Nam.

Trước đây, chuyện lừa gạt, cưỡng ép làm việc và dùng nhiều biện pháp khác nhau để cầm giữ người lao động, cột chặt họ với giới chủ chỉ xảy ra với những người Việt đi làm thuê ở nước ngoài và những người Việt là nạn nhân của nạn buôn người. Nay, điều đó đang xảy ra trên khắp Việt Nam.

Thỉnh thoảng các tờ báo ở Việt Nam lại đưa tin, vừa có hàng chục, hàng trăm người, đa số là thành viên các sắc tộc thiểu số, bị gạt, bị đưa đến đâu đó ở Việt Nam, bị cưỡng ép làm việc như nô lệ. Chính quyền Việt Nam gần như làm ngơ, không can thiệp vào những vụ này. (G.Ð)

 

Nạn bức cung, nhục hình vẫn phổ biến

Nạn bức cung, nhục hình vẫn phổ biến

Nghe (13:21)

RFI

 

Ảnh minh họa. Đã có ít nhất 9 người chết trong đồn công an trong sáu tháng đầu năm nay ở Việt Nam.

Ảnh minh họa. Đã có ít nhất 9 người chết trong đồn công an trong sáu tháng đầu năm nay ở Việt Nam.

Thanh Phương

Trong những năm gần đây nạn bức cung, nhục hình ở Việt Nam trở nên phổ biến một cách đáng ngại. Thỉnh thoảng báo chí trong nước lại loan tin có người chết tại đồn công an, mà vẫn được mô tả là do “tự tử”, do “đột tử”…, nhưng trên thực tế ai cũng biết đó là do bạo lực của công an đối với các bị can hay người bị câu lưu, tạm giữ.

Chẳng hạn như vụ anh Nguyễn Công Nhựt ở Bình Dương, bị cho là đã “tự tử” tại đồn Công an Bến Cát vào năm 2011, vì đã chết trong tư thế treo cổ. Cho tới nay, gia đình của anh Nhựt vẫn không chấp nhận kết luận điều tra cho rằng anh đã “tự nguyện” ở lại đồn công an, rồi sau đó tự tử, để lại một “lá thư tuyệt mệnh”, với nét chữ không giống với nét chữ bình thường của anh.

Một trong những vụ được dư luận chú ý nhất là vụ anh Ngô Thanh Kiều bị 5 công an đánh chết tại đồn Công an Phú Yên năm 2012. Dư luận càng phẫn nộ khi thấy là trong phiên xử sơ thẩm vào tháng 4 năm nay, 5 công an này chỉ bị tuyên án từ 12 tháng tù treo đến 5 năm tù giam. Trước sự phản đối mạnh mẽ của dư luận, vào đầu tháng 7 vừa qua, tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã hủy án sơ thẩm để điều tra lại vụ này.

Nạn nhân thậm chí là những người chỉ phạm tội vặt vãnh, như trường hợp của anh Cao Văn Tuyên (thôn Suối Lách, xã Khánh Trung, huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hoà), đã bị công an xã dùng dùi cui đánh chết khi bị bắt về đồn để thẩm vấn vào đầu tháng 7 năm 2013. Nguyên nhân vụ bắt giữ chỉ là anh Tuyên thèm thịt gà mà không có tiền mua, nên ăn trộm gà hàng xóm.

Riêng trong năm 2014, chỉ tính đến tháng 6, đã có ít nhất 9 người dân chết trong đồn công an khi bị hỏi cung, căn cứ theo thông tin trên báo chí chính thức. Gần đây nhất, ngày 11/06, ông Trần Đình Toàn đã chết chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi bị đưa về trụ sở công an phường Hạ Long, Nam Định, vì bị nghi tàng trữ ma túy.

Khi đưa xác ông Toàn về để mai táng, gia đình phát hiện trên ngực ông có nhiều vết thâm bất thường, nên nghi là ông đã bị đánh chết. Còn theo Công an Nam Định, các bác sĩ tham gia cấp cứu cho ông Toàn khẳng định, những dấu vết trên là do trong quá trình cấp cứu, các bác sĩ đã ép lồng ngực ông này.

Trong số những nạn nhân chết trong đồn công an từ đầu năm 2014 đến nay, ngoài ông Toàn, có một số người khác cũng được cho là « tự tử », như trường hợp của anh Đỗ Văn Bình tại trụ sở công an huyện Hòa Vang, Đà Nẳng vào tháng 4 hay, của cô Bùi Thị Hương ở trụ sở công an ở tỉnh Bình Phước vào tháng 3.

Trong số còn lại có một người « bò » về đến nhà thì chết, đó là ông Huỳnh N. , ở xã Đạo Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Vào tháng 2, ông đã bị bắt về trụ sở công an về hành vi trộm cắp. Theo gia đình, lúc đi thì ông khoẻ, nhưng lúc công an xã cho về nhà để hôm sau lên « làm việc » tiếp với công an, thì trên người ông có hơn 30 vết thương, vết bầm tím và sáng hôm sau, nạn nhân đã tử vong.

Có người thì chết bị cho là do « đột tử » như trường hợp của ông Đỗ Duy Việt, bị mời lên trụ công an huyện Thường Xuân để điều tra về vụ xâm hại tình dục trẻ vị thành viên. Gia đình nghi nạn nhân đã bị công an đánh chết vì sức khoẻ của ông rất tốt, nhưng không thể nào biết được chuyện gì xảy ra sau khi ông bị bắt giữ.

Vấn đề là ở chỗ đó. Những người bị bắt lên đồn công an chỉ có một mình đối đầu với những đại diện cơ quan công quyền, thường là cấp xã, huyện. Những gì xảy ra ở đó rốt cuộc chỉ do các công an tham gia thẩm vấn, hỏi cung khai báo, chứ không có lời chứng của một bên thứ ba như gia đình, bạn bè, luật sư.

Cách đây vài ngày, bộ Công an Việt Nam vừa ban hành một thông tư “về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân”. Thông tư này, sẽ có hiệu lực kể từ ngày 25/08/2014, “nghiêm cấm bức cung, mớm cung hoặc dùng nhục hình dưới bất kỳ hình thức nào.”

Thông tin này đã mặc nhiên thừa nhận là tệ nạn này vẫn diễn ra phổ biến mà gần như không có công an nào bị trừng trị đích đáng, mặc dù Hiến pháp cũng như Luật hình sự nghiêm cấm bức cung, nhục hình, cũng như quy định những hình phạt rất rõ ràng đối với người vi phạm.

Mặt khác, như đã nói ở trên, một số vụ người chết là xảy ra ở trụ sở công an xã do bị công an xã hỏi cung « quá trớn », trong khi theo pháp lệnh công an xã (do Chủ tịch nước ban hành ngày 02/12/2008), công an ở cấp này chỉ có quyền « lấy lời khai ban đầu các vụ việc, nhưng không được tạm giữ hình sự, hỏi cung các nghi can, nghi phạm ». Nếu vụ việc có dấu hiệu tội phạm phải chuyển nghi can lên cơ quan công an cấp trên…

Thế nhưng, Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự – hiện đang được thảo luận – lại dự trù là công an xã sẽ có quyền « tiến hành kiểm tra, xác minh ban đầu », tức là có thể tiến trành một số hoạt động điều tra ban đầu. Việc « tản quyền » cho công an cấp cơ sở khiến nhiều người sợ rằng nạn bức cung, nhục hình gây chết người ở trụ sở công an xã sẽ xảy ra nhiều hơn nữa, nhất là tại nhiều xã, công an gần như nắm quyền sinh sát trong tay đối với người dân. Như thế chẳng khác gì tăng thêm « quyền nhục hình » cho công an xã.

Theo tờ Người Lao Động ngày 13/07 vừa qua, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Đình Quyền, cho biết lả trong tháng 8, cơ quan này sẽ tổ chức điều trần về trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến việc truy bức, nhục hình trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong thời gian qua.

Nhưng theo ý kiến của luật sư Hà Huy Sơn ở Hà Nội, trả lời phỏng vấn RFI ngày 28/07 vừa qua, một trong những giải pháp đầu tiên để ngăn chận nạn nhục hình, đó là phải tôn trọng quyền của người bị bắt được mời luật sư đến chứng kiến việc thẩm vấn tại trụ sở công an. Nhìn xa hơn, theo luật sư Hà Huy Sơn, chỉ có một Nhà nước pháp trị thật sự mới có thể ngăn chận nạn nhục hình tại trụ sở công an. Sau đây mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với luật sư Hà Huy Sơn.

LS Hà Huy Sơn, Hà Nội

 

31/07/2014

 

Nghe (07:03)