Việt kiều về quê mới biết bị truy nã 25 năm

Việt kiều về quê mới biết bị truy nã 25 năm

Nguoi-viet.com

WESTMINSTER (NV) – Ông Bùi Văn Tánh, sinh ngày 4 Tháng Mười Hai, 1954, sống tại Hoa Kỳ, vừa về thăm quê hương thì bị Công an tỉnh Khánh Hòa bắt giữ về hành vi “cướp ghe, vượt biển ra nước ngoài” từ 34 năm trước, theo tin tờ Pháp Luật ở thành phố Sài Gòn.

Ông Bùi Văn Tánh, Việt kiều về nước sau 34 năm mới biết “bị truy nã 25 năm” và bị bắt (Hình: baokhanhhoa.com)

Theo tờ Pháp Luật, “Công an tỉnh Khánh Hòa vừa vận động thành công ông Bùi Văn Tánh (sinh năm 1956, trú tại phường Vĩnh Trường, TP Nha Trang, hiện đang sinh sống và làm việc tại Hoa Kỳ) là đối tượng bị truy nã ra đầu thú.”

Ông Tánh bị truy nã vì tội “Cướp tài sản” và tội “Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài trái phép” theo quyết định truy nã số 121 ngày 24 Tháng Bảy, 1990, của Công an tỉnh Khánh Hòa.

Cũng theo tờ báo này, Tháng Bảy, 1981, ông Tánh cùng một số người khác đến khu vực bãi biển thuộc phường Vĩnh Nguyên (TP Nha Trang) chơi. Thấy có chiếc ghe đang chuẩn bị vượt biển ra nước ngoài, nhóm người này đã nhảy lên cướp ghe và trốn thoát sang Philippines.

Trong khi đó, tờ Khánh Hòa lại đưa tin “Đầu Tháng Bảy, 1990, ông Tánh cùng một số người tham gia vượt biển trốn ra nước ngoài. Tuy nhiên, do lực lượng công an phát hiện và truy bắt, nên số người tham gia đón tàu vượt biển phải bỏ chạy. Riêng ông Tánh lúc đó cùng ba thanh niên khác đã dùng vũ lực cướp tàu, bỏ trốn ra nước ngoài.”

“Sau sáu tháng ở trại tị nạn, ông Tánh được bảo lãnh qua Hoa Kỳ định cư. Từ đó tới nay ông Tánh không hề biết mình bị công an Việt Nam truy nã. Đầu Tháng Tám khi về nước thăm gia đình, được lực lượng công an vận động, ông Tánh đã ra đầu thú.” Tờ Khánh Hòa tường thuật. (Q.D)

Một lời khinh

Một lời khinh

Tuấn Khanh

Hai ông Phạm Quang Nghị và Nguyễn Thế Thảo trong khi vụng về cố vẽ lại mặt mình bằng việc cho trồng cây lát hoa trong đêm thay cho những hàng cây gỗ mỡ đang chết khô vừa trồng tháng trước sau một đợt “ra quân” ào ào chặt phá cây xanh, không hiểu sao lại không biết ngăn cấp dưới đừng bôi lem vào những khuôn mặt vừa đánh phấn sáp ấy bằng các thứ việc “ra quân” tệ hại khác, như bài viết của Nhạc sĩ Tuấn Khanh mà chúng tôi xin đăng lại dưới đây. Ông Tuấn Khanh khinh bỉ những lời bình luận của ai ai đó nhân danh “văn minh đô thị” a dua với loạt việc làm này, nhưng chúng tôi nghiêng về một nỗi băn khoăn khác, có lẽ tê lòng hơn: Có phải cái thói “ra quân” ào ào làm bất kỳ điều gì mà họ muốn đã trở thành căn bệnh vô liêm “danh bất hư truyền” của Hà Nội không sao thay đổi được nữa, “vá” chỗ này lại “bục” ra chỗ nọ? Người Hà Nội tử tế sẽ cúi đầu tủi hổ không để đâu cho hết. 

Bauxite Việt Nam

Không phải lúc nào cũng có, chuyện một truyền thống tốt đẹp từ miền này lại lan được sang miền khác, nếu như truyền thống đó không thuyết phục được lòng người.

Những bình trà đá rất đỗi quen thuộc ở Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung từ cả thế kỷ nay, đột nhiên bỗng trở thành sự kiện lớn ở Hà Nội – cái nôi cao đẹp của văn hoá xã hội chủ nghĩa.

Sự cho đi với tha nhân, không toan tính đột nhiên bị các nhóm trật tự đô thị, dân phòng… ập đến tịch thu không có một mẩu biên lai. Họ nói những bình trà đá nhỏ nhoi đó làm mất trật tự đô thị, điều mà ai cũng phải ngạc nhiên, so với những quán chè nước, cà phê ở trung tâm đô thị vốn đã cống nạp tiền làm ăn cho các khu vực, thì vẫn được hoạt động tràn xuống mặt đường.

Một cô bạn Hà Nội nhắn với tôi, thật ngắn gọn, về câu chuyện những bình trà đá miễn phí bị tịch thu đó: “thật khốn nạn!”.

Không phải lúc nào văn minh và nhân ái cũng được tiếp nhận. Việc tịch thu trà đá miễn phí ở Hà Nội nhắc cho người ta nhớ chuyện những vị linh mục truyền giáo tìm đến những vùng mọi rợ với ước mơ xây dựng điều tốt đẹp, đã bị giết và hò reo ăn thịt ngay tại chỗ. Không khác gì.

Một tác giả nào đó viết rằng những người cho khách qua đường uống nước miễn phí, cần phải bị phạt nặng vì gieo rắc truyền nhiễm cho mọi người, là thiếu ý thức và thiếu văn minh.

Nghe thoạt đầu có vẻ như hợp lý, nhưng soi rọi tận cùng, mới thấy đó là loại lý luận tồi tệ của kẻ chờ gió phất cờ. Loại nguỵ biện xã hội – cơ hội chủ nghĩa.

Để nói về truyền nhiễm, có lẽ chúng ta cũng nên bắt đầu phạt nặng mọi quán ăn vì vẫn dùng chung chén, dĩa, ly… và quy định con người theo thời chiến: đi đâu cũng mang bát, muỗng… theo tư tưởng đôi đũa bác Hồ.

Hãy nên nhớ rằng một bình nước chia sẻ, không có nghĩa là mọi người đều uống vào đấy, mà có cả những người đến để sớt vào bình của mình mang đi, hoặc uống bằng chính ly của mình. Với ý kiến của tác giả ấy (có thể mang sự lo ngại của nền giáo dục miền Bắc XHCN), thì sự vô ý thức của con người có thể dẫn đến bệnh truyền nhiễm. Nhưng ở mặt bằng văn hoá cơ bản của miền Nam từ cả thế kỷ, con người khi dùng chung, đều đã có ý thức của mình. Đó là sự khác biệt lớn mà hôm nay thì mới bị cào bằng.

Người ta không hủy diệt truyền thống với bộ dạng học đòi văn minh hay nguỵ biện. Sự tử tế cần được dắt tay vào những con đường đúng và gìn giữ nó – theo một quy định hỗ tương của cộng đồng. Nếu truyền thống tốt đẹp đó sống trong một yêu cầu, quy định đúng về vệ sinh cộng đồng, thì vẫn tốt hơn sự rầm rập cướp giật ghê tởm được nhìn thấy.

Sự ngụy biện và bao che cho bọn cường hào ác bá cướp tài sản của người khác bằng lý lẽ trật tự đô thị, chỉ vẽ ra sự hỗn mang của một xã hội không còn biết nghĩ, chỉ biết xuẩn động.

Con người cần phải tập ngước nhìn, trước khi tập bước đi vào văn minh. Để biết mình ra sao, con người cũng đơn giản cần biết tập cúi nhìn, trước khi phóng uế vào chính chân mình.

Ngày xưa, khi các phong trào đấu tranh hổn hển cùng uống chung ca nước của các bà mẹ lén lút yểm trợ thì luôn được ca ngợi. Giờ thì những ca nước ấy bị đạp bỏ, bị ghê tởm, có thể bởi các nhân vật đấu tranh ấy đã làm quen với văn minh, uống nước đóng chai. Hoặc việc ca ngợi đó chỉ là giả dối và lợi dụng sự thật thà của nhân dân.

Tôi khinh những bài lý luận trên đất nước này, lúc này, luôn có vẻ dân chủ và khoa học, luôn có vẻ chọn đứng trên mặt trận tuyến đầu, nhưng khi vacccine 3 trong 1 chích trẻ con đến chết hay buộc đóng phí xe máy như thắt cổ dân, thì các tác giả ấy luôn câm miệng.

Tôi khinh những kẻ cơ hội, luồn lách qua các khe hở dân chủ để chứng minh mình tiên phong và tiến bộ, múa may ngòi bút vào chỗ hư không nhưng khi nhìn thấy bọn cẩu quan tham nhũng hay công an đánh chết người vô tội thì tảng lờ như chuyện ở một quốc gia khác.

Một lời khinh không chỉ nhằm đến một ai, mà tôi muốn phát đi tung tẩy trên đất nước này, trúng ai thì nhục nấy chịu. Những kẻ ấy nay đang tràn lan trên đất nước tội nghiệp này.

T.K.

Tham khảo:

http://m.thanhnien.com.vn/story/nen-phat-nang-nhung-nguoi-dat-tra-da-tu-thien-via-he-sid-990530

Nguồn: Nguồn: https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2015/08/02/mot-loi-khinh/

Nam Hàn: Y hệt phim Hàn, cha con nhà Lotte đấu đá giành quyền kiểm soát công ty

Nam Hàn: Y hệt phim Hàn, cha con nhà Lotte đấu đá giành quyền kiểm soát công ty

Nguoi-viet.com

SEOUL, Nam Hàn (AP) Một cuộc đấu đá trong gia đình để giành quyền kiểm soát một đại công ty bán lẻ lớn nhất ở Nam Hàn đã bùng nổ trước công chúng sau khi người sáng lập công ty, năm nay 92 tuổi, bị con trai út dàn xếp đưa vào một vị trí không còn quyền hành gì.


Một khách sạn thuộc hệ thống Lotte. (Hình: Chung Sung-Jun/Getty Images)

Ông Shin Dong-bin, 60 tuổi, trong thời gian qua đã tìm cách củng cố việc kiểm soát đại công ty Lotte, có các dịch vụ làm ăn ở Nam Hàn, Nhật, Trung Quốc và vùng Ðông Nam Á, trong khi phải đối đầu với người anh lớn là Shin Dong-joo, 61 tuổi và người cha của ông là Shin Kyuk-ho.

Ông Shin Dong-bin hôm Thứ Hai nói rằng anh và cha ông tìm cách đưa ông ra khỏi chức vụ chủ tịch công ty Lotte nhưng những điều họ làm không có giá trị pháp lý.

Ðáp lại các hành động này, công ty Lotte đưa ông Shin Kyuk-ho vào chức vụ chủ tịch danh dự từ vai trò của ông là tổng giám đốc điều hành hoạt động của Lotte tại Nhật và Nam Hàn. Công ty cho hay phải làm điều này để ngăn không để ông Shin, năm nay 92 tuổi, bị những người chung quanh chi phối nhằm chiếm quyền kiểm soát công ty.

Các đại công ty do gia đình làm chủ chiếm phần lớn nền kinh tế Nam Hàn. Mỗi khi các tranh chấp nội bộ bùng ra ngoài công chúng mới thấy được một chút cách điều hành đầy thủ thuật và đòn phép bên trong.

Chủ tịch công ty Samsung, ông Lee Kun-hee, từng có cuộc đấu đá dữ dội với người anh về quyền thừa kế và các con trai của người sáng lập công ty Hyundai có cuộc tranh giành kịch liệt để kiểm soát công ty trong những năm cuối đời của người cha.

Ông Shin Kyuk-ho, một trong nhiều người Hàn Quốc di cư sang Nhật khi bán đảo Triều Tiên dưới quyền cai trị của Nhật, thành lập công ty Lotte chuyên làm kẹo cao su tại Nhật năm 1948.

Các đài truyền hình Nam Hàn hôm Chủ Nhật chiếu đoạn video cho thấy ông Shin Kyuk-ho mệt mỏi đọc chậm rãi một bản tuyên bố soạn sẵn nói rằng ông chưa bao giờ bổ nhiệm con út vào chức vụ lãnh đạo Lotte ở Nam Hàn cũng như ở Nhật.

Công ty Lotte nói ông Shin bị con trai trưởng là Shin Dong-joo lừa dối và đưa các tin tức sai lạc.

Shin Dong-joo từ chức phó chủ tịch Lotte Holdings hồi năm ngoái, nói rằng ông tin chắc là có đủ số phiếu của cổ đông để bổ nhiệm các giám đốc hội đồng quản trị để đưa cha mình trở lại chức vụ chỉ huy. (V.Giang)

Cái mặt Việt Nam!

Cái mặt Việt Nam!

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Đã có lần bạn là người khách quý đến Honolulu, tại phi trường được một thiếu nữ xinh đẹp tươi tắn, choàng cho một vòng hoa sứ với câu chào Aloha cùng một nụ cười thân thiện. Nhưng không phải du khách nào trên thế giới cũng được sự chào đón như thế!

(Hình minh họa: Suhaimi Abdullah/Getty Images)

Tuần trước, báo chí lại loan tin, những người Việt Nam, đồng bào của chúng ta, từ Sài Gòn đến phi trường Changi, Singapore, bị từ chối nhập cảnh, nói rõ ra là bị đuổi về.

Singapore là một trong 48 quốc gia mà người mang visa Việt Nam vào không cần thị thực, nhưng lần này mặc dù có đầy đủ giấy tờ tùy thân, nhiều hành khách Việt Nam, phần lớn là phụ nữ, vẫn bị nhà chức trách Singapore từ chối cho vào xứ của họ. Những người Việt này bị đối xử như tội phạm, bị đưa vào phòng riêng, kiểm soát chặt chẽ giấy tờ, bị phỏng vấn và bắt tự đếm số tiền mang theo trước mặt nhân viên sân bay. Những người khách này buộc phải trở lại Việt Nam trên các chuyến bay đưa họ đến, hay lưu lại những khách sạn gần phi trường mà hãng hàng không Việt Nam phải đài thọ chi phí.

Lối hành xử này của Singapore cũng na ná như lối đối xử của chính quyền Việt Nam đối với những nhà hoạt động chính trị, nghi ngờ có hoạt động chính trị hay bất đồng chính kiến về Việt Nam lâu nay, mà không hề nói lý do.

Chính quyền Singapore cũng không hề nói lý do họ không cho những người Việt này vào nước họ, nhưng cái lý do này thì những người trong cuộc, hay toàn thể “khúc ruột ngàn dặm” trên khắp thế giới đều biết rõ, đều cảm thấy xấu hổ và đau lòng.

Hãng Jetstar Pacific, một trong hai hãng máy bay rẻ tiền có những đường bay ngắn cho biết, khi hành khách bị nhà chức trách từ chối nhập cảnh Singapore, người đó sẽ phải trả tiền ăn ở, tại sân bay. Phía Singapore thường buộc hãng hàng không phải ứng trước chi phí sau đó sẽ tính lại với hành khách. Chi phí cho mỗi khách bị từ chối nhập cảnh là khoảng hơn $200, chưa kể vé máy bay trở lại Việt Nam. Mỗi tháng, hãng này phải trả khoảng $20,000 cho những hành khách bị từ chối nhập cảnh tại Singapore.

Hãng Vietjet Air có hai chuyến bay Sài Gòn đi Singapore mỗi ngày. Trung bình mỗi tháng có 200 nữ hành khách bị Singapore yêu cầu quay về nước. Như vậy mỗi tháng Vietjet Air phải chi ra phí khoảng $750,000 cho những hành khách này mà không bao giờ đòi lại được tiền.

Phía Việt Nam mong phía Singapore cho họ biết danh sách những người Việt không được nhập cảnh vào Singapore để tiện việc ngăn chận, tránh sự tổn thất như trên, nhưng những người này đâu phải như những người làm chính trị có sổ đen của công an Việt Nam, mà chỉ là những cô gái, một ngày đẹp trời nào đó được rủ rê hay móc nối sang đây để… “đứng đường!” Trên các trang net, và ngay cả một phóng sự trên báo Thanh Niên trong nước, cũng công nhận rằng phần đông những cô gái đến với nghề này là hoàn toàn tự nguyện.

Chuyện không phải bây giờ mà cách đây vài năm Singapore đã loan tin cảnh sát tổng càn quét vào khu mại dâm Việt ở Geylang và Joo Chiat, bắt giữ hàng chục gái mại dâm người Việt lẫn bảo kê. Liên tục trong vòng một tuần, chỉ riêng tại khu Joo Chiat, 52 cô gái Việt đã bị bắt giữ. Các cô trang điểm diêm dúa, ăn mặc hở hang đón xe buýt hoặc xe taxi đến quán karaoke, vô từng bàn khách, ăn uống, rượu bia, lả lơi, ôm ấp, bán dâm tại bàn rượu hoặc đi ngủ đêm với khách, cố moi tiền bằng đủ mọi cách. Dân Singapore cho biết gái mại dâm Việt đã câu kéo khách bằng cách không mặc đồ lót và cho phép khách thoải mái sờ soạng. Sang Singapore là một nghề kiên trì, lần này bị đuổi lần sau lại lên máy bay sang nữa. Một cô gái cho biết cô đến rồi về nhiều lần, mỗi lần ở Singapore kiếm vài nghìn đô la.

Lối cấm cửa phụ nữ Việt Nam ở Singapore rõ ràng là nỗi đau đớn, nhục nhã. Rồi liệu, Bộ Ngoại Giao Việt Nam như lời yêu cầu có dám gửi công hàm đến Singapore để xin làm rõ trắng đen chuyện này không, hay nói ra chỉ thêm mất mặt! Làm người khác mất mặt cũng là một thứ làm nhục nhau. Ngày xưa làm nhục nhau thì kẻ sĩ thách nhau đấu súng hay rút gươm ra khỏi vỏ. Ngày nay, bị nhục thì đành ráng ngậm miệng mà đi.

Thể diện cũng có nghĩa là danh dự, ai làm mình mất thể diện là làm mất danh dự mình.

Nếu danh dự phụ nữ Việt Nam bị coi thường hay chà đạp là danh dự của cả dân tộc cũng bị coi thường. Ai có trách nhiệm trong việc đàn bà con gái Việt Nam bị cấm cửa và cái mặt Việt Nam trong thời gian gần đây, có thể nói xa hơn là dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị lấm lem đến mức tồi tệ.

Cái mặt Việt Nam ở Nhật mà đại diện là phi công, tiếp viên hàng không, người mẫu, du học sinh ăn cắp… không kể hết tên.

Cái mặt Việt Nam ở Thụy Điển rồi Anh, mà đại diện là Kiều Trinh, kẻ ăn cắp, đã rao giảng văn hóa trên truyền hình nhà nước, con cán bộ Trung Ương Đảng, đã được Bộ Y Tế Việt Nam chứng nhận là tâm thần và Tòa Đại Sứ Việt Nam can thiệp.

Cái mặt Việt Nam ở Phi Châu mà đại diện là nhân viên ngoại giao Vũ Mộc Anh, bí thư thứ nhất của Đại Sứ Quán Việt Nam tại Nam Phi, buôn lậu sừng tê giác.

Cái mặt Việt Nam ở Thụy Sĩ, ở Thái Lan mà đại diện là du khách ăn cắp.

Cái mặt Việt Nam ở Đài Loan mà đại diện là công nhân “xuất khẩu” ăn trộm chó làm thịt.

Cái mặt Việt Nam ở Nhật mà người Việt trộm dê làm thịt.

Cái mặt Việt Nam ở Malaysia: Khám phá một lần mà tống xuất 150 phụ nữ mại dâm về nước.

Cái mặt Việt Nam ở Nga, Tiệp Khắc, Ba Lan, Đông Đức với những nhóm băng đảng, buôn người có các tòa đại sứ Việt Cộng… chống lưng.

Chuyện mất mặt, bẽ mặt, xấu mặt hay mất thể diện thì cũng một nghĩa.

Hãnh diện thì ngẩng mặt, xấu hổ thì cúi mặt, vuốt mặt, quay mặt, giấu mặt đi.

Cái mặt chai lì, tê cứng, không biết xấu hổ, vô cảm là cái mặt mo, mặt mẹt, mặt trơ.

Những cái mặt… Việt Nam nên che đi là những cái mặt của Đặng Xuân Hợp, Vũ Mộc Anh, Kiều Trinh, vì họ đại diện cho chính quyền Việt Nam. Cái mặt đáng thương những người phụ nữ vì xấu hổ cũng phải che đi, tủi thân vì số kiếp phụ nữ Việt Nam, nhưng quả đáng thương hơn những đảng viên luôn luôn trơ mặt làm liều.

Quá đẹp là cái tên Việt Nam, hôm nay vang lừng khắp bốn biển năm châu.

Cờ đỏ sao vàng được minh họa cho hai chữ “ăn cắp.” (*)

Tiếng Việt được dùng để viết những thông báo răn đe người Việt chớ… ăn cắp.

Ai đã sáng tác ra cái câu nói dối trá, “Tôi mơ ước một buổi sáng thức dậy, thấy mình là người Việt Nam?” sẽ phải ân hận suốt đời.

Phần tôi, mỗi khi soi gương, tôi vẫn nhớ, “Tôi là người Việt Nam!” và cảm thấy thương cho tôi và thù ghét những con người đã làm cho hình ảnh Việt Nam xấu xa đi như hôm nay.

Cám ơn ký giả Xuân Dương ở trong nước với câu viết, “Một người, một gia đình, một dòng họ hay một dân tộc, khi sự xấu hổ bị đánh cắp thì không còn gì để mất!”

(*) Xem bài “Đẹp sao là lá cờ đỏ sao vàng” của Bùi Bảo Trúc.

Bảng chống tiểu bậy ở San Francisco khá hiệu quả

Bảng chống tiểu bậy ở San Francisco khá hiệu quả

Nguoi-viet.com

SAN FRANCISCO, CaliforniaTờ San Francisco Chronicle hôm Thứ Bảy loan tin những bức tường chống tiểu bậy, tuy mới được dựng lên tại một số khu phố ở San Francisco, đã mau lẹ nổi tiếng và đang tỏ ra thật là hữu hiệu.


Một bảng chống tiểu bậy được niêm yết ở một bức tường tại San Francisco. (Hình: San Francisco Public Works)

Vào đêm hôm Thứ Năm tại góc các đường 16th và Mission, nơi dân tiểu bậy vẫn ưa tập trung để tùy tiện hành động, nay thấy vắng vẻ một cách đáng kinh ngạc. Hành khách vẫn thản nhiên túa ra từ nhà ga tàu điện BART gần đó, nói cười chẳng dứt. Xa hơn một chút, sáu, bảy người vô gia cư lặng lẽ tìm những góc khuất êm đềm để ngả lưng vào lúc màn đêm buông xuống. Trong khi đó, bức tường danh tiếng sừng sững nơi đây, từng là địa điểm “xả bầu tâm sự” của dân tiểu bậy từ khắp nơi đổ về, vẫn thấy khô queo.

Nữ phát ngôn viên Sở Tiện Ích San Francisco, là Rachel Gordon, thốt lên: “Cho tới nay thì mọi sự vẫn tốt đẹp. Nhân viên của chúng tôi vẫn chưa ngửi thấy mùi khai của nước tiểu tại một điểm nóng như thế này trong thành phố của chúng ta.”

Tuần trước, nhân viên Sở Tiện Ích đã hoàn tất việc sơn lên một loạt 9 bức tường trong thành phố một loại sơn có khả năng chống hoạt động tiểu bậy.

Lớp sơn này tạo nên một cấu trúc chằng chịt những hình lập thể lồi lõm tinh vi, khiến cho khi có ai dùng nước tưới vào vách tường thì lập tức mớ nước đó sẽ dội ngược trở lại vào giày dép và quần áo của người đó, nhất là khi loại nước kia chẳng sạch sẽ gì và khi kẻ tưới nước cứ ưa ép sát người vào vách tường để mong đạt hiệu quả cao trong hành động tiểu bậy. (V.P.)

Tàu Trung Quốc tràn vào biển Ðông, tàu VN liên tục bị tấn công

Tàu Trung Quốc tràn vào biển Ðông, tàu VN liên tục bị tấn công

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV)Khoảng 9,000 tàu đánh cá với hơn 35,000 ngư dân Trung Quốc vừa tràn vào biển Ðông. Cũng thời điểm này là tin một số tàu đánh cá của Việt Nam tiếp tục bị tấn công.

Theo Tân Hoa Xã, ngay sau lệnh cấm đánh cá mà phạm vi bao gồm cả vịnh Bắc bộ lẫn khu vực quần đảo Hoàng Sa hết hiệu lực, khoảng 9,000 tàu đánh cá với hơn 35,000 ngư dân Trung Quốc đã đồng loạt tiến vào biển Ðông.


Biên Phòng Việt Nam kiểm tra tàu đánh cá mang số hiệu QNg 90127 để lập biên bản, ghi nhận thiệt hại sau khi tàu này bị tàu của Trung Quốc tấn công gần đảo Bạch Quý, quần đảo Hoàng Sa. (Hình: Tuổi Trẻ)

Hồi thượng tuần tháng 5, chính quyền thành phố Hải Khẩu, tỉnh Hải Nam của Trung Quốc thông báo cấm đánh bắt cá ở vịnh Bắc bộ và khu vực quần đảo Hoàng Sa, từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 1 tháng 8.

Tuy lúc đó, Bộ Ngoại Giao Việt Nam phủ nhận giá trị của lệnh cấm vừa kể và cho đó là một hành động “vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển của Việt Nam theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.”

Nhưng Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, thản nhiên cho rằng, lập trường của Trung Quốc về chủ quyền trên biển Ðông là “nhất quán và rõ ràng.” Việc Trung Quốc thực hiện “mùa nghỉ đánh bắt” trên vùng biển do Trung Quốc quản lý là “biện pháp quản lý hành chính bình thường” nhằm bảo vệ tài nguyên biển. Lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc còn là “biện pháp nhằm làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế của Trung Quốc.”

Trung Quốc đã đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá ở biển Ðông từ năm 1999 và lệnh này gây nhiều khó khăn cho cả ngư dân Việt Nam lẫn ngư dân của các quốc gia trong khác trong khu vực Ðông Nam Á.

Trung Quốc không giấu diếm tham vọng thay đổi trọng tâm hoạt động ngư nghiệp: khuyến khích ngư dân đóng tàu lớn, khám phá những vùng biển xa. Mỗi năm, riêng tại Hoàng Sa, ngư dân tỉnh Hải Nam, Trung Quốc đánh bắt khoảng 80,000 tấn cá. Năm ngoái, Trung Quốc đã cử một đội tàu đánh cá lớn đến quần đảo Trường Sa để thăm dò nguồn lợi thủy sản.

Bên cạnh đó, tàu của các lực lượng vũ trang của Trung Quốc (hải giám, hải cảnh, hải quân) liên tục rượt đuổi, tấn công tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam.

Tin mới nhất cho biết, tàu có vũ trang của Trung Quốc (chưa rõ thuộc lực lượng nào) vừa tấn công tàu đánh cá mang số hiệu QNg 90127 của ông Tiêu Viết Bản khi ông Bản đang điều khiển tàu đến cứu một tàu đánh cá khác bị hư máy, đang trôi tự do. Những nhân viên có vũ trang trên tàu mang số hiệu 02 của Trung Quốc đã đánh người lái tàu, đập kính ở cabin, cướp một máy định vị, hai máy tầm ngư, hai tấn hải sản, chặt đứt bảy bành dây dẫn hơi cho thợ lặn.

Ngoài tàu QNg 90127, còn có tàu đánh cá mang số hiệu QNg 96507 của ông Nguyễn Lợi bị ba tàu có vũ trang của Trung Quốc mang số hiệu 37102, 45101, 46102 vây bắt rồi cướp toàn bộ ngư cụ.

Từ tháng 6 đến nay, các vụ tàu có vũ trang của Trung Quốc tấn công tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam xảy ra liên tục. Hồi trung tuần tháng 7, trong cuộc đối thoại với tờ Pháp Luật ở Sài Gòn, về tình trạng, càng ngày, các lực lượng vũ trang của Trung Quốc càng tỏ ra thô bạo, hung hãn với những ngư dân Việt khi họ đánh bắt hải sản trên biển Ðông, ông Lưu Văn Huy, cục trưởng Cục Kiểm Ngư của Bộ Nông Nghiệp-Phát Triển Nông Thôn Việt Nam, nhận định, điều đó có thể vì Trung Quốc muốn ngư dân Việt Nam sợ hãi, nản lòng, không dám tiếp tục ra khơi hành nghề tại các ngư trường truyền thống nữa. (G.Ð)

Nữ trí thức TP.HCM bị Singapore tạm giữ vì tội trộm đồ siêu thị

Nữ trí thức TP.HCM bị Singapore tạm giữ vì tội trộm đồ siêu thị

Hang hieu

Các nghi phạm trộm cắp người Việt bị bắt giữ tại đồn cảnh sát Thái Lan. (Ảnh: The Nation).

Cơ quan chức năng Singapore vừa tạm giữ một nữ trí thức ở TP. HCM vì nghi ngờ trộm cắp trong siêu thị. Bà đi mua sắm tại siêu thị và cầm một món đồ trị giá khoảng 300 SGD nhưng lại không trả tiền. Nhiều khả năng, bà này sẽ bị đưa ra xét xử tại quốc đảo Sư Tử.

Ăn cắp ở nước ngoài về Việt Nam bán

Cơ quan chức năng Singapore vừa tạm giữ một nữ trí thức ở TP. HCM vì nghi ngờ trộm cắp trong siêu thị. Theo VTC News, bà này được TP HCM cử đi học ngoại ngữ ngắn hạn tại Singapore. Khi lớp học sắp kết thúc, bà đi mua sắm tại siêu thị và cầm một món đồ trị giá khoảng 300 SGD nhưng lại không trả tiền. Nhiều khả năng, bà này sẽ bị đưa ra xét xử tại quốc đảo Sư Tử.

Vụ việc 5 người Việt Nam ở Thái Lan bị bắt vì ăn cắp các món đồ hiệu trị giá tới hàng trăm ngàn baht (100.000 baht tương đương 3.000 USD) cũng đang gây xôn xao dư luận. Năm người này bao gồm 3 nữ và 2 nam, độ tuổi từ 24 đến 39.

Báo The Nation dẫn lời cảnh sát Thái cho biết, những người này lấy trộm 64 món đồ xa xỉ trong trung tâm mua sắm ở thành phố Chiang Mai rồi bọc chúng lại bằng giấy bạc để tránh sự phát hiện của cổng từ kiểm tra. Dự định sau khi lấy trộm, họ sẽ đem những món này về Việt Nam bán với giá rẻ hơn.

Trước đó, đã có nhiều người Việt ăn cắp bị phát hiện ở nước ngoài khiến nhiều người cảm thấy xấu hổ. Thậm chí, có trường hợp người Việt có học thức, có vai vế, cũng bị bắt giữ vì ăn cắp trong siêu thị hoặc ăn cắp tài sản của người bản xứ.

Cách đây không lâu, 6 người Việt (gồm cả nam và nữ) ăn cắp quần áo hiệu Uniqlo bị cơ quan chức năng Nhật Bản bắt giữ. Nhóm người này đã hơn 100 lần thực hiện hành vi trộm đồ. Khi điều tra về tài khoản của một phụ nữ trong nhóm, cảnh sát phát hiện nhiều giao dịch hàng hóa trị giá tới 10 triệu yên (tương đương 1,9 tỷ đồng). Họ trộm đồ từ nhiều cửa hàng ở những khu vực khác nhau và bán hàng thông qua các trang mạng xã hội.

Điều đáng nói, đây không phải là vụ đầu tiên người Việt ăn cắp ở Nhật bị phát hiện. Hồi đầu năm 2014, một nữ tiếp viên hàng không của Việt Nam cũng bị phía Nhật bắt giữ vì bị tình nghi buôn lậu hàng mỹ phẩm, quần áo từ một đường dây ăn cắp tại các siêu thị Nhật và có thể đang tìm cách buôn lậu ra khỏi nước Nhật. Năm 2009, một cơ phó của Vietnam Airlines cũng từng bị trục xuất về nước cũng vì liên quan đến đường dây vận chuyển hàng ăn cắp từ Nhật về Việt Nam.

Vào tháng 12/2013, bốn thanh niên người Việt cũng bị phát hiện đang ăn cắp quần áo, mỹ phẩm tại một siêu thị ở Tokyo. Hàng ăn cắp gồm những sản phẩm của các thương hiệu nổi tiếng như mỹ phẩm Shiseido, quần áo hiệu Uniqlo.

An cap hang hieu tu Thai qua Nhat: Xau mat nguoi Viet-hinh-anh-1
Cảnh sát thu giữ số quần áo mà nhóm người Việt đã lấy cắp tại cửa hàng quần áo Uniqlo. (Ảnh: ANN News).

Thống kê từ Cơ quan Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản cho thấy, số các vụ ăn cắp đồ bị bắt liên quan tới người Việt tăng mạnh tại nước này, từ 247 vụ năm 1998 lên 999 vụ năm 2012. Như vậy chỉ trong vòng 4 năm, số người Việt đi chôm chỉa rồi bị bắt giữ tăng gấp 4 lần, chỉ riêng tại Nhật.

Và 6 tháng đầu năm 2013, đã có 401 vụ liên quan tới người Việt, chiếm 40% tổng số vụ chôm đồ liên quan tới người nước ngoài tại Nhật.

Không chỉ ở Nhật, ở các quốc gia khác như Singapore, Đài Loan, Thái Lan… cũng đã có trường hợp người Việt bị bắt giữ vì ăn cắp trong siêu thị hoặc ăn cắp tài sản.

Theo báo Thanh Niên Online, cảnh sát Thái Lan ngày 25/3/2013 đã bắt một người Việt bị tình nghi là ăn cắp hơn 200 mặt hàng thuộc loại hàng hiệu ở trong trung tâm hàng thời trang cao cấp Central World, Bangkok. Những mặt hàng này bao gồm quần, áo, mũ, túi xách, được xác định có giá trị hơn 140 triệu đồng.

Tháng 8/2014, cảnh sát Malaysia đã bắt 3 đàn ông người Việt chuyên đột nhập các cửa hàng để ăn trộm. Ba người này được cho là có liên quan đến 9 vụ đột nhập các cửa hàng làm thất thoát hơn 57.000 USD.

An cap hang hieu tu Thai qua Nhat: Xau mat nguoi Viet-hinh-anh-2
Tấm biển cảnh cáo có thêm tiếng Việt.

Xấu hổ khi dùng hàng hiệu xách tay ăn cắp

Tại nước ngoài, không khó để bắt gặp những tấm biển cảnh báo hành vi ăn cắp bằng tiếng Việt tại những nơi công cộng như siêu thị, nhà hàng,…

Hồi tháng 6/2013, bức ảnh chụp biển cảnh báo hành vi ăn cắp vặt được viết bằng tiếng Việt, ở dưới là dòng chữ dịch sang tiếng Nhật, đã gây xôn xao cộng đồng mạng. Những lời cảnh cáo được viết bằng tiếng Việt cụ thể là: “Ăn cắp vặt là phạm tội. Nếu ăn cắp vặt thì bị phạt tù dưới 10 năm. Ngay khi phát hiện ăn cắp vặt thì chúng tôi sẽ thông báo cho cảnh sát ngay lập tức. Camera phòng chống tội phạm đang hoạt động. Tăng cường điều tra”. Bên dưới là phần dịch sang tiếng Nhật được viết nhỏ hơn.

An cap hang hieu tu Thai qua Nhat: Xau mat nguoi Viet-hinh-anh-3

 

An cap hang hieu tu Thai qua Nhat: Xau mat nguoi Viet-hinh-anh-4
Cảnh báo ăn cắp bằng tiếng Việt ở Đài Loan.

Sau đó, vào tháng 7/2014, trên mạng xã hội cũng đăng tải bức ảnh chụp biển cảnh báo ăn cắp trong một shop thời trang tại Nhật khiến nhiều người Việt xấu hổ. Bức ảnh được chụp tại một cửa hàng thời trang tại Wako-shi, tỉnh Saitama, Nhật Bản. Trên tờ cảnh báo có ghi dòng chữ: “Hệ thống camera giám sát đang hoạt động” bằng tiếng Việt.

Không chỉ ở Nhật Bản, mà các nước và vùng lãnh thổ khác như Thái Lan, Đài Loan cũng đều có biển cảnh báo về thói trộm cắp vặt của một số người Việt.

Những lời cảnh cáo được viết bằng tiếng Việt như trên, tại nhiều quốc gia đã khiến không ít người cảm thấy buồn và xấu hổ khi hình ảnh, đất nước mình đang trở nên xấu xí trong mắt người nước ngoài, bởi lòng tham của một số cá nhân.

Trước tình trạng này, nhiều người đã kêu gọi cộng đồng người Việt trong nước không dùng những hàng xách tay mà không rõ nguồn gốc. Việc làm này sẽ bớt được tình trạng ăn trộm, ăn cắp bởi không có người mua, thì việc trộm cắp để bán chui sẽ bị hạn chế dần và biến mất hẳn.

Theo VietnamNet

Những chuyện vui nho nhỏ dọc đường.

Những  chuyện  vui  nho  nhỏ  dọc  đường.

Bài ghi ngắn của Đoàn Thanh Liêm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong vòng 15 năm nay, tôi đã đi đến mấy chục vòng xung quanh nước Mỹ và 3 lần đến Canada nữa. Thường thường  tôi đi bằng máy bay từ California ở phía bờ biển miền Tây (West Coast) qua phía bờ biền miền Đông (East Coast), rồi thì dùng xe lửa hay xe bus hoặc nhờ bà con chở bằng xe riêng để di chuyển đến các thành phố lân cận trong vùng.

Mùa Xuân năm 2015 này, cũng như mọi năm tôi lại từ West Coast đi qua East Coast và kể từ giữa tháng Ba đến nay là giữa tháng Tư, tôi đã lần lượt đi qua 4 thành phố, đó là Philadelphia, New York, Boston ở Mỹ và hiện nay đang ở thành phố Toronto thuộc Canada. Trong bài viết này, tôi xin kể lại hầu quí bạn đọc một số chuyện vui vui nho nhỏ gặp bất ngờ ở dọc đường, lần lượt theo thứ tự thời gian như sau đây.

1 – Trên máy bay từ Denver đến Philadelphia vào ngày 18 tháng Ba 2015.

Bữa đó, máy bay tôi đi từ Santa Ana thì đỗ lại ở phi trường Denver để cho một số hành khách xuống và lại rước thêm số hành khách mới để đi tiếp tới Philadelphia. Trên đọan đường Denver đi Philadelphia này, người ngồi bên cạnh tôi là một phụ nữ Mỹ vào độ trên 30 tuổi. Sau khi chuyện trò xã giao ít lâu, tôi đã tự giới thiệu tên, tuổi của mình cho cô và được cô cho biết tên của cô là Catherine (Katie). Cô làm việc ở Portland Oregon và đang trên đường về thăm gia đình với mẹ cô hiện sinh sống tại một thành phố ở tiểu bang New Jersey gần kề với Philadelphia.

Tôi cho Katie biết là tôi là một luật sư ở Việt nam, tôi đã sống sót qua cuộc chiến tranh dài đằng đẵng mấy chục năm trời, rồi lại đến 6 năm trời trong nhà tù cộng sản nữa. Và cuối cùng, tôi cùng gia đình đã đến định cư tại California từ gần 20 năm nay. Tôi mở laptop cho Katie xem vài bài bằng tiếng Anh tôi mới viết gần đây, cô đọc xong rồi tò mò hỏi : “Bác thật may mắn là đã sống sót trải qua bao nhiêu gian truân nguy hiểm của chiến tranh, của chế độ độc tài và của bao nhiêu năm bị giam giữ tù đày khốn khổ như thế. Cháu xin có lời chức mừng bác, thật vậy đó. Bác viết là có được một nền giáo dục rất tốt, xin bác cho biết rõ hơn làm sao mà bác lại có được điều đó, trong khi chiến tranh kéo dài hàng mấy chục năm ở Việt nam? ”

Trả lời cho Katie, tôi nói : “Có đến mấy năm, tôi không thể đến trường học vì phải tản cư chạy lọan. Nhưng khi được đi học lại, thì tôi phải miệt mài ngày đêm với chuyện bài vở học tập để mà bù lại những năm tháng phải bỏ học như thế. Cô biết không, trong thời gian chạy lọan lúc 14 – 16 tuổi, tôi còn được học cả tiếng La tinh nữa đó. Điều may mắn này giúp tôi sau này khi lên Đại học, thì tôi phải học nhiều về môn Triết học và các môn Luật nữa v.v…” Nghe vậy, Katie cười và nói : “Mẹ cháu xưa kia cũng là một cô giáo dậy tiếng La tinh cho các học sinh bậc trung học đấy. Nếu mà bác gặp mẹ cháu, thì chắc hai người sẽ chuyện trò tâm đắc lắm đấy nhỉ?” Tôi cười xòa và nói : “Đã trên 60 năm, vì ít có dịp đọc sách viết bằng tiếng La tinh, nên tôi cũng quên đi mất nhiều lắm rồi …”

Đại khái chuyện trò trao đổi thật là hồn nhiên cởi mở giữa Katie với tôi kéo dài trong suốt chuyến bay từ Denver đến Philadelphia dễ mất đến gần 3 giờ đồng hồ. Thật cũng là một kỉ niệm vui vui ngộ nghĩnh vậy đó.

2 – Trên chuyến xe bus từ New York đến Boston vào ngày 1 tháng Tư 2015.

Xe bus Greyhound từ New York đến Boston kéo dài đến 4 tiếng đồng hồ. Dọc đường, tôi thấy tuyết còn đọng trắng xóa và khá dày trên các vạt rừng cây, nơi ven các sông hồ. Số hành khách khá đông, chiếm hầu hết 50 chỗ ngồi trên xe. Người ngồi bên cạnh tôi là một phụ nữ ở tuổi ngòai 50. Sau hồi chuyện trò ít lâu, tôi trao cho chị danh thiếp trong đó có ghi số điện thọai, email và tổ chức mà tôi tham gia sinh họat. Đó là Vietnam Human Rights Network (Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam). Chị cũng trao danh thiếp cho tôi, với tên gọi là Susan Stanley và số điện thọai, địa chỉ email v.v…

Vì đường dài, nên chúng tôi có bao nhiêu chuyện để cùng trao đổi về đủ mọi thứ đề tài với nhau. Từ chuyện riêng tư trong gia đình đến chuyện họat động ngòai xã hội. Tôi còn mở laptop để Susan đọc một số bài viết gần đây của tôi. Chị hỏi rất kỹ về hòan cảnh tù đày của tôi ở Việt nam vào những năm 1990. Qua đó mà câu chuyện giữa chúng tôi mỗi lúc lại càng thêm thân mật đặm đà hơn. Nhất là khi tôi nói đến chuyện văn chương thi phú, thì Susan càng chú ‎tâm nghe và hăng hái góp phần trao đổi nhận xét của riêng mình.

Điển hình như khi tôi nhắc đến câu thơ của Walt Whitman ở thế kỷ XIX : “ Behold, I don’t give lectures or a little charity, When I give, I give myself”. Hay cả một đọan thơ của Robert Frost hồi đầu thế kỷ XX : “ The woods are lovely, dark and deep, But I have promises to keep, And miles to go before I sleep, And miles to go before I sleep” – thì Susan phải thốt lên : “Sao mà anh lại thuộc kỹ thơ văn của các tác giả Mỹ đến thế nhỉ!”

Nhân tiện, tôi cũng cho Susan biết là hồi ở trong tù, tôi có làm được nhiều bài thơ, mà vì không có giấy bút để ghi lại, nên đã quên đi khá nhiều. Tuy vậy, sau khi qua Mỹ, tôi đã cố gắng nhớ lại và ghi ra được vài chục bài thơ ngắn. Cụ thể như bài thơ chỉ gồm 4 câu cảm đề từ thơ của Robert Frost ghi ở trên – mà hai câu cuối được dịch ra tiếng Anh thế này : “The long march is indeed exhausting, But still I am adamant and firmly committed to this earthly life” (Nguyên văn tiếng Việt như sau : “Đường xa vạn lý mỏi mòn, Vẫn nòi quân tử sắt son với đời”.

Đại khái như thế, chuyện trò giữa Susan và tôi cứ miên man dàn trải suốt cuộc hành trình, không lúc nào mà cạn đề tài cả. Cuối cùng, trước khi chia tay ở bến xe South Station của Boston, Susan mới mở túi lấy ra cuốn sách và nói với tôi : “Tôi đem cuốn sách này để mà đọc cho khuây khỏa dọc đường. Ấy thế mà gặp anh bữa nay chuyện trò vui quá, nên cũng chẳng cần phải mở sách này ra đọc nữa. Xin cảm ơn anh nhiều. Và hẹn sẽ tiếp tục trao đổi qua email hay phone nha…” Tôi nói : ” Susan Stanley = SS bây giờ là “Soul Sister” của tôi đấy (Tâm hồn đồng điệu). Susan cười thật dòn đáp lại : “Anh nói đúng quá, tôi thật tâm đắc với hai chữ Soul Sister này….”

3 – Trên chuyến xe bus từ Buffalo đến Toronto Canada vào chiều ngày 7 tháng Tư 2015.

Buffalo là thành phố thuộc tiểu bang New York nằm kề sát với thác Niagara nơi biên giới giữa Mỹ và Canada. Hành khách đi xe bus từ phía Mỹ, khi đến trạm kiểm sóat của Canada, thì tất cả đều phải xuống xe mang theo hành lí và xuất trình passport cho cảnh sát. Bữa đó, việc kiểm sóat giấy tờ cho 50 hành khách chỉ hết chừng 30 phút; tôi không thấy có người nào bị giữ lại và mấy nhân viên cảnh sát cửa khẩu đều tỏ ra lịch sự, vui vẻ thân thiện đối với mọi người.

Người ngồi bên tôi trong chuyến xe này là một cô gái cỡ tuổi 25. Cô cho biết mình là người Canada sinh trưởng ở Montréal, tên là Mélanie. Thế là tôi có dịp chuyện trò với cô bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Dĩ nhiên là Mélanie nói thông thạo cả 2 thứ tiếng này, mà thường được gọi là lọai người bi-lingual. Cô cho biết từ vài năm nay thì qua dậy tiếng Anh cho các học sinh trung học tại Nam Hàn. Cô được cung cấp nơi ăn chốn ở tươm tất tại thành phố Quanjou ở phía cực nam của bán đảo Triều Tiên với dân số khỏang 1 triệu người. Ban trưa thì ăn ở nhà trường, các thầy cô giáo đều cùng ăn theo thực đơn như các học sinh. Cô rất thích các món ăn này mà cô gọi đó là thứ healthy food (thức ăn lành mạnh, tốt cho sức khỏe). Nói chung là cô có thiện cảm với người dân Đại Hàn vì trình độ văn hóa tương đối cao và lối sống đày tình người tại xứ sở này. Mélanie cũng học được tiếng Đại Hàn, đọc báo chí sách vở và nói chuyện được với người địa phương bản xứ. Nhưng cô lại sử dụng tiếng Anh nhiều hơn vì tại nhà trường các học sinh cũng như giáo chức thì đều nói thông thạo tiếng Anh.

Được hỏi về tình trạng liên hệ với Trung quốc, thì cô cho biết người Đại Hàn rất bực bội khó chịu vì phải chịu đựng nạn ô nhiễm bàu khí quyển do phía bên Trung quốc thổi qua eo biển từ phía Tây qua, nhiều khi ngột ngạt rất khó chịu. Mà tình trạng này đã kéo dài từ lâu, mà phía Trung quốc rõ ràng là bất lực không làm sao mà cải thiện tình hình tồi tệ của nạn ô nhiễm nặng nề như thế được.

Đến lượt Mélanie tò mò hỏi về chuyện của tôi ở Việt nam như thế nào mà bây giờ lại phải đến tỵ nạn trên đất Mỹ.Tôi cho cô biết là năm nay tôi đã bước vào tuổi 80, ngang tuổi với ông bà của cô đấy, phải không. Mélanie gật đầu “ Quả đúng vậy, ông ngọai của cháu năm nay 81 tuổi.” Tôi nói tiếp : “Chuyện tù đày của tôi nguyên do là vào năm 1990, lúc cộng sản ở Đông Âu sụp đổ, thì người cộng sản ở Việt nam rất hốt hỏang (panicked), họ mở chiến dịch bắt giữ những người có chính kiến bất đồng như tôi (dissident).

Tôi liền mở laptop cho cô đọc bài tôi viết “How I became a political prisoner in Vietnam”. Xem xong, Mélanie nói ngay : “Cháu thật không thể ngờ được là người cộng sản họ lại có thể độc tài tàn bạo như vậy được!” Tiếp theo tôi cho Mélanie coi Chứng chỉ của Amnesty International tuyên dương tôi là một Human Rights Hero trong Đại Hội mới đây ở New York. Tôi giải thích thêm : “Vì Amnesty đã góp phần cứu thóat tôi ra khỏi nhà tù ở Việt nam năm 1996, nên từ nhiều năm nay tôi tích cực tham gia họat động với Amnesty – do đó mà bây giờ họ mới tuyên dương tôi như vậy.” Mélanie gật gù và nói : “Thật là sự may mắn cho cháu được gặp một nhà Anh hùng về Nhân quyền như bác đấy.” Cả hai chúng tôi đều cười thật là vui vẻ, hồn nhiên, sảng khóai.

Đại khái câu chuyện dọc đường của tôi trao đổi với các bạn đồng hành trên máy bay, trên xe lửa hay xe bus từ nhiều năm nay, thì thật có nhiều chi tiết ngô nghĩnh lý thú tương tự như mấy trường hơp mới đây nhất được ghi vắn tắt lại trên đây. Tôi nghĩ mình có thể viết thành cả một cuốn sách về bao nhiêu chuyên đại lọai mà tôi đã gặp trong hơn 10 năm rong ruổi khắp nơi trên đất Mỹ, Canada, Âu châu, Úc châu.

Nhưng bài viết đến đây, kể đã dài rồi, tôi xin được tạm ngưng ở đây. Và xin hẹn sẽ viết tiếp thêm chi tiết nữa trong những dịp khác vậy.

Thành phố Toronto Canada, ngày 14 tháng Tư năm 2015

Đoàn Thanh Liêm

HOA THƠM ANH ĐÁNH CẢ CỤM

HOA THƠM ANH ĐÁNH CẢ CỤM

PT Nguyễn Mạnh San

Polyamore

Trong đời sống thường nhật, nhất là trong một xã hội được coi là văn minh nhất thế giới, đã có nhiều sự việc éo le ngang trái xẩy ra thật qúa bất ngờ, hoàn toàn vượt trên sự dự đoán và điều ước muốn tốt đẹp của mọi người, tạo nên nhiều hoàn cảnh bi thương đầy nước mắt mà đôi khi những người ở trong cuộc phải âm thầm, chịu đựng nỗi đau khổ pha lẫn mối uất hận hoặc đau khổ pha lẫn với niềm ân hận triền miên trong suốt cả cuộc đời còn lại của mình. Nhưng không phải tất cả những trường hợp éo le ngang trái bất ngờ đó xẩy ra đều vượt trên sự dự đoán và điều ước muốn tốt đẹp của mọi người đâu. Xét cho cùng trong nhiều trường hợp, chẳng qua cũng tại một phần lớn vì người ta qúa tự tin vững chắc vào khả năng hiểu biết và sự suy luận chủ quan của lòng mình để thực thi một công việc gì hay để giúp đỡ một người nào đó, nhưng kết qủa lại bị người ta hiểu lầm mình hoặc chính mình lại là nạn nhân của sự việc, đúng như câu nói: Làm ơn nên oán hay Làm phúc phải tội. Nhân dịp mùa Phục Sinh lại đến mỗi năm, những người Thiên Chúa Giáo trên khắp hoàn cầu hân hoan đón mừng những hồng ân đang được ban phát cho mọi người, qua sự phục sinh của Chúa Cứu Thế trở lại với nhân loại. Chúng tôi xin cống hiến đến qúy độc giả một câu chuyện khá éo le, thương tâm với đầy nước mắt của một nhân vật chính trong câu chuyện, chỉ vì muốn thể hiện lòng thương người như thể thương thân, nhưng có lẽ vì một phần thiếu sự suy tính kỹ càng và không chịu tham khảo ý kiến với bạn bè thân thuộc trước khi thực thi ý định của mình, nên tự mình chuốc lấy đau khổ vì đã lỡ dại đi vẽ đường cho hiêu chạy như câu chuyện dưới đây.
Chị Thu Cúc đến văn phòng nhờ tôi góp ý kiến để giúp chị giải quyết một vấn đề rắc rối trong gia đình chị như sau: Cách đây hơn một năm chị có cô em gái cùng Cha khác Mẹ kém chị 5 tuổi, còn kẹt ở Việt Nam trong khi Cha Mẹ của chị và Mẹ kế của chị cũng đã qua đời cả rồi tại quê nhà và thấy em gái mình vẫn sống đơn độc, tối ngày than khóc với chị trong điện thoại để nhờ cậy chị giới thiệu cho bất cứ ai, trẻ đáng tuổi em út hay già đáng tuổi chú bác, người Việt hay Mỹ ở đây bằng lòng lấy cô ta làm vợ, để bảo trợ cho cô ta được sang Hoa Kỳ theo diện hứa hôn (Fiancée) hay theo diện vợ chồng (Spouse) vừa nhanh chóng và chắc chắn hơn, thay vì phải chờ đợi từ 8 đến 10 năm nữa mới có thể sang đây đoàn tụ với chị theo diện anh chị em ruột bảo trợ cho nhau. Nhận thấy sáng kiến của em mình đưa ra rất hữu lý nên chị quyết tâm giúp đỡ em mình sang đây sớm chừng nào tốt chừng ấy theo đúng như sáng kiến của em mình. Nhưng liên tục gần 2 năm trời, chị kiếm mỏi mòn con mắt cũng chẳng tìm ra một ai, kể cả người Mỹ da mầu và đã có lần chị hớn hở tìm ra được 2 nhân vật người Mỹ gốc Việt, bằng lòng với điều kiện chỉ gỉa vờ lấy em chị làm vợ, chứ không chịu lấy thiệt, một phần cả 2 vị này tuổi đã cao niên và một phần tối quan trọng khác là biết rõ ngọc thể của mình đang trong tình trạng hôn mê đã lâu năm, không có một thứ thuốc men nào có thể giúp hồi sinh được, ngoại trừ có một thứ thuốc có thể giúp được nhưng bác sỹ khuyên chớ có dùng loại thuốc này, uống vào là có thể đi tầu suốt luôn vì cả hai đương sự đang bị bệnh tim mạch. Biết tình trạng mình có thể về chầu Chúa không bao xa mà 2 nhân vật này vẫn làm cao, tỏ vẻ ta đây vẫn còn qúy giá hơn món đồ cổ nhiều, đòi hỏi phải có của hồi môn ứng trước toàn phần; phải chi nếu họ chấp nhận ứng trước nửa phần của hồi môn, phần còn lại xin được trả góp hàng tháng sau khi cô em gái của chị đã sang tới đây, thì chị đã bằng lòng ngay rồi. Nhưng khổ một nỗi họ vẫn nằng nặc đòi phải ứng trước toàn phần trong khi của hồi môn lại qúa cao, cho dù chị có phải vét sạch trương mục checking và trương mục saving đã để dành được 5 năm qua của cả 2 vợ chồng chị trong ngân hàng đi chăng nữa, thì cũng không đủ để trang trải toàn phần của hồi môn này. Thế rồi vì qúa thương yêu em mình, chị đã nghĩ ra được một phương kế tựu kế mà chị cho là thượng sách nhất, vừa hợp pháp đúng theo luật di trú Hoa Kỳ quy định mà lại vừa đưa được em gái mình qua đây một cách nhanh chóng không phải tốn một đồng xu cắc bạc nào. Thực thi vấn đề này không có gì khó khăn cả, chỉ làm sao thuyết phục được chồng chị bằng lòng làm theo lời yêu cầu của chị là xong hết mọi chuyện như đã dự tính.
Vào một buổi tối cuối tuần, sau khi chị đã lo săn sóc cho 3 đứa con còn nhỏ tuổi, đứa lớn nhất 12 tuổi, đứa thứ nhì 8 tuổi, đứa út 4 tuổi ăn uống xong đâu đó và đưa chúng vô phòng ngủ của chúng, chị mới tâm sự những sự việc diễn tiến vừa kể trên cho chồng chị nghe về tình trạng cô em gái của chị và tiếp theo chị mạnh dạn bầy tỏ ý định của chị với chồng, là xin anh hãy thương em bằng lòng để cho em nhờ luật sư làm đơn xin ly dị anh ở tòa án và chúng mình chỉ gỉa vờ ly dị nhau trên giấy tờ mà thôi, vẫn sống chung với nhau một nhà, không có gì thay đổi hết, để tình trạng anh trở thành độc thân, rồi sau khi bản án ly dị ban hành đã được đủ 6 tháng, anh có quyền nạp giấy tờ bảo trợ cho cô em gái của em sang đây theo diện hứa hôn, khi em gái của em sang tới đây, anh sẽ lập hôn thú với nó để trên giấy tờ nó là vợ của anh, như thế nó sẽ được ở lại đây hợp pháp để chờ có thẻ thường trú, sau khi nó có thẻ thường trú và ở đây đủ 2 năm rồi, anh sẽ nạp giấy ở tòa án xin ly dị nó, tới lúc đó anh và em lại tái lập hôn thú với nhau có sao đâu. Nếu anh bằng lòng chiều theo ý em làm công việc bác ái này, tức là anh sẽ để phúc đức lại cho con chúng ta sau này. Mới thoạt nghe xong vợ mình đưa ra ý kiến như vậy, lòng anh rất sửng sốt và anh từ chối ngay ý kiến của vợ. Anh giải thích cho vợ hiểu rằng làm như thế là gian dối với pháp luật Hoa Kỳ, vi phạm tội hình sự, nếu cơ quan chính quyền biết được sự thật gian dối này, cả 2 chúng ta sẽ bị truy tố ra tòa và sẽ bị ngồi tù nhiều năm, suốt thời gian ngồi tù, 3 đứa con của chúng ta sẽ bị Bộ An Sinh Xã Hội mang giao cho cha mẹ nuôi nuôi dưỡng chúng nó, thế là em và anh đã trực tiếp làm cho các con của chúng ta trở thành mồ côi cả cha lẫn mẹ. Vậy em có điên khùng không mà đi xúi giục anh làm chuyện gian dối này? Em hãy nên nhớ rằng ở đời có nhiều cách để giúp đỡ tha nhân, có nhiều cách để làm công việc bác ái, cách này không được thì phải đi tìm cách khác, chứ cách của em đưa ra không thực tế và còn nguy hiểm cho bản thân chúng ta nữa, anh nghĩ có lẽ em đang hay sắp bị bệnh tâm thần rồi, anh sẵn sàng đưa em đi khám bệnh với bác sỹ tâm thần nếu em muốn. Như em cho biết đã gần 2 năm em cố gắng tìm mọi cách để giúp cho em gái em sang đây cho mau mà không được, thì bây giờ em nên nạp giấy bảo trợ cho nó đi, dù nó có phải chờ đợi thêm 8 hay 10 năm nữa mới sang được là ngoài ý muốn và khả năng của em, nó đâu có lý do gì để trách móc chị của mình được. Nhưng vài ngày sau, vì qúa thương yêu em gái mình, chị lại tỉ tê cố gắng thuyết phục chồng mình làm theo ý chị, bằng cách viện ra lý lẽ cho rằng chuyện gian dối này chỉ có 3 người trong cuộc biết mà thôi, đó là anh, em và cô em gái và cả 3 người không nói ra chuyện này cho bất cứ ai nghe, thì em hỏi anh làm sao cơ quan chính quyền có thể biết được sự gian dối này và tất cả chúng ta đều hiểu rõ sự nguy hiểm đến tính mạng của mỗi người, nếu nói ra là cả 3 người đều bị ở tù nên điên khùng gì mà đem chuyện bí mật của gia đình mình kể cho người khác nghe để hại vào thân. Lần này nghe vợ mình giải thích một cách hữu lý như vậy, làm anh siêu lòng và anh bằng lòng để vợ xúc tiến mọi chuyện như nàng muốn. Thế là chỉ vài tháng sau cả 2 vợ chồng đều nhận được bản án ly dị của tòa án gửi tới. Giai đoạn kế tiếp là chị phải ở nhà một mình trông nom săn sóc 3 đứa con để chồng đi về Việt Nam, trước là giúp cho cô em vợ lo liệu các thủ tục giấy tờ tại địa phương, sau là phải chụp hình chung với cô em vợ để làm bằng chứng 2 người là tình nhân với nhau, để khi anh trở về lại Hoa Kỳ, sẽ kèm theo những tấm hình trông thơ mộng này với mẫu đơn bảo trợ diện fiancée tại Sở Di Trú. Không đầy 8 tháng sau cô em gái điện thoại từ Việt Nam báo tin vui cho chị biết là em đã được gọi đi phỏng vấn và đã được cấp giấy chiếu khán vào Hoa Kỳ, bây giờ em chỉ còn thu dọn nhà cửa, chờ đi khám sức khỏe và mua vé máy bay nữa là xong hết mọi sự, để lên đường qua Hoa Kỳ sum họp với chị. Chị Thu Cúc rất mừng rỡ khi nghe được em gái của mình báo cho chị tin vui này, nhưng đồng thời chị lại cảm thấy lo lắng cho cô em thân gái một mình, đường xá xa xôi hàng ngàn dặm, không biết nói tới một câu tiếng Mỹ nào, có thể đi lạc cổng lên máy bay mỗi khi phải chuyển máy bay tại phi trường quốc ngoại 1 lần và 2 lần phải chuyển máy bay ở phi trường quốc nội mới đến được đây. Nghĩ tới đó, để đề phòng trường hợp như vậy có thể xẩy ra cho cô em gái, chị lại đưa ý kiến với chồng là nếu anh đã hết phép thường niên rồi thì anh hãy xin sở cho anh nghỉ một tuần lễ không ăn lương để về Việt Nam lo chuyện khẩn cấp gia đình của anh. Như đã có ma đưa lối qủy đưa đường, cứ tìm những lối dặm trường mà đi nên anh chấp nhận ngay lời đề nghị này của chị. Một lần nữa chị lại phải hy sinh ở nhà một mình trông nom săn sóc 3 đứa con thơ trong một tuần lễ. Tới đúng ngày đúng giờ quay về của chồng cùng cô em gái như đã ghi trong 2 vé máy bay, chị vui sướng dẫn 3 đứa con thơ theo chị lên phi trường, chờ đợi sớm hơn 2 tiếng đồng hồ trước khi máy bay tới, để mừng đón chồng và để chào đón cô em gái cùng cha khác mẹ với chị mà lòng chị đã ấp ủ tình thương yêu, lo lắng, săn sóc gửi tiền về giúp đỡ em mình hàng tháng trong những năm qua như một người mẹ thương con. Nhưng hỡi ôi, có ai học được chữ ngờ bao giờ, máy bay đã tới, tất cả các hành khách trên chuyến bay đã bước ra khỏi máy bay, đôi mắt chị nhìn về tứ phía mà vẫn chẳng thấy bóng dáng người chồng yêu quý của mình đâu cả, cũng chẳng thấy bóng dáng cô em gái thân thương của chị đâu hết. 3 đứa con thơ cầm tay nối đuôi nhau chạy nhanh theo chân mẹ đến quầy hàng bán vé máy bay, để chị hỏi thăm tin tức. Tại đây chị được một nhân viên của hãng máy bay cho biết là có tên của 2 người này trong danh sách, nhưng không hiểu tại sao không thấy 2 người này đến trình diện để lên máy bay, có thể là 2 người này trình diện trễ sau khi máy bay đã cất cánh chăng? Vậy muốn biết chắc 2 người này sẽ đổi vé đến vào ngày mai không, thì sáng sớm mai hãy điện thoại cho họ để được xác nhận, vì giờ này đã khuya, không còn chuyến bay nào khác tới nữa. Như linh tính báo cho chị biết một điều bất hạnh đang xẩy đến cho chị, vì nếu trễ chuyến máy bay, chồng chị đã phải điện thoại cầm tay cho chị biết và chị đã điện thoại cầm tay nhiều lần cho chồng từ trước khi ra phi trường cho đến lúc này, nhưng vẫn không thấy anh kêu lại, mặc dù mỗi lần chị gọi, chị đều có để lại lời nhắn tin gọi lại chị khẩn cấp. Rồi niềm đau đớn trộn lẫn trong uất ức từ từ dâng lan tràn trong tâm hồn chị, nước mắt chị cứ tuôn trào ra như thác nước, cố lau đi cho khô bao nhiêu thì nước mắt lại tuôn trào ra bấy nhiêu, cuối cùng không thể kìm hãm nỗi xúc động rung chuyển trên toàn thân thể, từ trên đầu lan xuống dưới đôi chân, làm đôi chân chị lạnh run lên, gần như bước đi không nổi, chị đã phải bật òa lên tiếng khóc nức nở như con nít tại phi trường là nơi công cộng, hòa đồng với tiếng khóc thút thít của đứa con út thấy mẹ khóc, nó cũng khóc theo. Cả đêm hôm đó, chị đã khóc cạn nước mắt cho đến sáng sớm cố gắng ngồi dậy, chị soi gương thấy đôi mắt mình đỏ ngầu như 2 hòn máu, không thấy lòng trắng đâu hết, hai mí mắt sưng húp lên như 2 trái banh, không còn nhìn thấy rõ những cảnh vật ở chung quanh, Ðến giờ phút này chị mới nhận ra là vì chị qúa tự tin vào sự suy nghĩ của mình không chịu bàn thảo hay hỏi ý kiến với một ai trước khi yêu cầu chồng mình làm chuyện này, nên chị đã vấp phạm một điều sai lầm khủng khiếp, trong niềm đau xót tận cõi lòng, hối tiếc cho việc làm hết sức ngu xuẩn của mình thì đã qúa muộn, không còn cách nào để cứu vãn được tình thế nữa; rồi có những phút cảm xúc, buồn tủi nghẹn ngào trong nước mắt, và mối tức giận căm thù dâng lên tới cuống họng làm chị gần như bị nghẹt thở đứng tim như người mất hồn, cũng tại vì cô em gái yêu tinh, tàn nhẫn đã cướp đi mất người chồng yêu quý của chị, đã cướp đi người cha yêu dấu của 3 đứa con còn thơ dại, đang sống dưới sự đùm bọc của một người mẹ qúa đau khổ, mà giờ đây, người mẹ đó chính là chị, đang phải trả một cái gía qúa đắt, đắt hơn gấp trăm ngàn lần so với cái gía của hồi môn của 2 vị cao niên đòi hỏi chị trước đây, rồi chị lại tự an ủi thân phận mình, cho rằng đây là Thánh Ý Chúa định và đối với những người không thuộc cùng tôn giáo với chị, thì có lẽ cho rằng đây là Ý Trời, Ðịnh Mệnh an bài hay còn gọi là Nghiệp Chướng. Chị vẫn còn ghi nhớ rõ trong tâm trí của chị những câu mà chồng chị đã nói với chị ngay lúc ban đầu khi chị yêu cầu chồng chị hãy làm công việc này cho chị: Em hãy nên nhớ ở đời có nhiều cách để giúp đỡ tha nhân, có nhiều cách để làm công việc bác ái, cách này không được thì phải đi tìm cách khác, chứ cách của em đưa ra không thực tế và còn nguy hiểm cho bản thân chúng ta nữa, anh nghĩ có lẽ em đang hay sắp bị bệnh tâm thần rồi, anh sẵn sàng đưa em đi khám bệnh với bác sĩ tâm thần nếu em muốn. Bây giờ chị mới hiểu được chồng chị nói rất đúng, vì qúa thương yêu em gái mình mà trở nên mù quáng trong tư tưởng lẫn việc làm, vô tình chính chị là người đã vẽ đường cho hiêu chạy, để ngày nay chị mất chồng, các con mất cha, chị tự hỏi lòng mình thế thì lỗi về ai đây, lỗi mình chứ còn lỗi ai vào đây nữa.
Đúng một tuần lễ sau ngày chị và 3 con thơ trở về nhà từ phi trường, chị nhận được lá thư của chồng chị, nói những lời tạ lỗi với chị: anh đã phản bội em, xin em hãy rộng lòng tha thứ những lỗi lầm và hành động đáng ghê tởm của anh đối với em như hiện nay, anh không còn xứng đáng làm chồng của em nữa và anh cũng không xứng đáng làm cha của 3 đứa con của chúng ta nữa, xin em hãy can đảm tiếp tục nuôi dưỡng và dậy dỗ các con để sau này chúng nó sẽ trở thành những người có tư cách, gương mẫu trong xã hội, đừng để chúng nó giống tính cha nó sau này. Sở dĩ anh không dám quay trở về với em và với con cái là vì cô em gái của em đã dính bầu tâm sự với anh đã lâu mất rồi, kể từ lần đầu tiên anh đến Việt Nam lo thủ tục giấy tờ cho cô nàng mà anh đã làm theo lời yêu cầu của em. Vì thế anh và em gái em còn mặt mũi nào để quay trở về gặp em và các con của anh nữa, mong em thông cảm cho tình trạng trớ trêu này của anh. Tiện đây anh cũng xin nhắc lại là trong bản án ly dị, có ghi rõ anh phải cấp dưỡng tài chánh cho các con của anh hàng tháng. Ðiều này anh xin hứa danh dự với em, là ngay sau khi anh có việc làm, anh sẽ gửi tiền hàng tháng về cho em. Anh biết chắc trong trương mục tiết kiệm của anh và của em, vẫn còn đủ tiền cho em chi tiêu hàng tháng ít nhất cả một năm nữa mới hết. Vậy em đừng lo lắng về vấn đề tài chánh vì tháng tới là anh đã có việc làm rồi, thì anh sẽ gửi tiền về ngay cho em. Ðọc xong lá thư, lòng chị cảm thấy xót xa, sẵn lòng tha thứ lỗi lầm của chồng mình, nhưng sự tức giận và lòng hận thù cô em gái lại tràn ngập trong lòng chị không thể nào tha thứ cho đứa em gái vô ơn bạc nghĩa, ăn cháo đái bát, nhẫn tâm đã cướp đi người chồng yêu quý của chị, đã cướp đi người cha yêu dấu của 3 đứa con còn thơ dại, nên chị quyết tâm tìm cách trả thù bằng mọi giá để làm sao trục xuất đứa em gái yêu tinh này phải quay trở về mái nhà xưa nghèo đói khổ sở của nó ở Việt Nam, cho hả dạ nỗi lòng đau khổ của chị, để không còn phải ôm mối sầu hận suốt cuộc đời còn lại của chị trên thế gian này.
Sau khi chị Thu Cúc đã kể cho tôi nghe hết tất cả các sự việc diễn tiến từ đầu đến cuối câu chuyện ngang trái thương tâm như tôi vừa mới trình bầy trên đây, chị liền hỏi ý kiến tôi là chị có nên đến sở di trú để khai hết sự thật đầu đuôi câu chuyện của vợ chồng chị với cô em gái yêu tinh này không, để nơi đây thụ lý sự việc và áp dụng luật lệ về di trú để trục xuất đứa em gái yêu tinh này phải trở về Việt Nam, dù 2 vợ chồng chị có đi ở tù cũng được, các con có bị giao cho Cha Mẹ nuôi nuôi dưỡng chúng thì cũng chẳng sao, vì tội ai làm người đó chịu, đó là lẽ công bằng phải trả mà Thiên Chúa đã phán dậy bảo con cái của Ngài và cũng là lẽ công bằng của pháp luật được áp dụng trong một xã hội văn minh đã quy định. Trước khi tôi đi sâu vào chi tiết để trả lời về ý kiến của chị hỏi tôi, mà trong đó có 2 phương diện khác nhau, một phương diện về tâm lý tình cảm và một về phương diện về pháp lý thực dụng, nghĩa là áp dụng vào luật di trú Hoa Kỳ hiện hành, thì việc đầu tiên tôi xin nhắc lại lời nói của chị ở trên: Nào là Thánh Ý Chúa định, nào là Ý Trời, nào là Ðịnh Mệnh an bài hay còn gọi là Nghiệp Chướng. Nếu nói như thế là để an ủi, làm vơi bớt được nỗi buồn khổ trong tâm hồn chị, thì đó là điều tốt; chứ thực ra trường hợp của chị không phải là do Thánh Ý Chúa định mà là do chính chị định. Vì chị đã tự biết và tự thú nhận rằng tại qúa tự tin vào sự suy nghĩ của mình, không chịu bàn thảo hay hỏi ý kiến ai về chuyện này nên chị đã gây ra một lỗi lầm khủng khiếp này. Có rất nhiều người mỗi khi gặp phải sự đau khổ, cũng thường nói những câu y như chị nói để tự an ủi mình; tuy nhiên chị vẫn còn sáng suốt hơn nhiều người, là biết nhận ra lỗi lầm của mình làm. Ðể quay trở lại trả lời về ý kiến của chị đưa ra hỏi tôi, thì trước tiên trên phương diện tâm lý tình cảm, nếu có người đàn bà hay cô gái nào bị người yêu phụ bạc, thì có lẽ hầu hết họ cũng đều có những ý nghĩ và những phản ứng tương tự như của chị. Ai cũng hiểu câu: Giận qúa mất khôn, đúng thế, chị hãy cố gắng bình tâm suy nghĩ lại và thứ tự hỏi lòng mình xem: Ai là người khởi xướng vụ ly dị? Ai là người thuyết phục chồng chị chấp nhận để chị giả vờ ly dị anh ấy? Ai là người thúc đẩy chồng chị đi về Việt Nam lần thứ nhất để giúp đỡ lo thủ tục giấy cho cô em gái của chị bằng cách đóng kịch là tình nhân với cô em gái của chị? Rồi ai là người xúi giục chồng chị qua Việt Nam lần thứ hai để đón cô em gái chị qua đây? Chẳng cần trả lời thì chị cũng biết người đó là ai rồi. Chỉ cần nhìn sơ qua vào tấm hình chồng chị chụp chung với cô em gái của chị mà chị vừa đưa cho tôi xem, thì tôi phải nói thẳng với chị một câu rằng: Vô tình chị đã xúi giục anh ấy đi thám hiểm hai qủa núi Hỏa Diệm Sơn lộ thiên cao vút lên trời như thế, thì không riêng gì chồng chị mà bất cứ ai đã cả gan dám đến đó một mình, nếu không bị chết thiêu thì cũng khó tìm được lối thoát thân trở về nhà an toàn, hoặc gỉa dụ nếu cô em gái của chị đang đóng vai một trong hai vị nữ anh hùng Trưng Trắc hay Trưng Nhị mà đang cưỡi trên lưng voi, thì con voi đó cũng phải toát mồ hôi dù ngoài trời đang lạnh. Chắc chị thường nghe người ta nói: Hoa thơm anh đánh cả cụm, nhưng nếu đem áp dụng câu này vào trường hợp của chồng chị, thì tội nghiệp cho anh ấy, vì các dữ kiện xẩy ra cho thấy chồng chị không phải là người chủ động làm công việc này từ đầu đến cuối, chẳng qua anh ta đã phải chiều lòng theo ý của chị, để thi hành một công tác mà cả chị và anh ấy cũng không tiên liệu được những điều gì sẽ xẩy đến bất lợi cho gia đình mình. Vì lần đầu tiên thân trai dặm trường, xa vợ xa con, từ quốc ngoại trở về quê hương, được đứng trước một pho tượng nữ thần tình ái Venus bằng xương bằng thịt, với một thân hình nẩy lửa tràn đầy nhựa sống của cô em vợ như tôi vừa đề cập ở trên, thì làm sao ông anh rể có thể tránh khỏi hành động trao bầu tâm sự cho cô em vợ của mình được. Theo sự suy luận của riêng tôi, trong câu chuyện éo le này, chị và cô em gái của chị mới là 2 nhân vật đáng trách nhất, vì lòng ngây thơ vô tình của chị đã thúc đẩy anh ấy trở về Việt Nam thân trai một mình, không có chị đi hộ tống bên cạnh, cộng với sự chào đón qúa nồng thắm của người em gái đang độ tuổi thanh xuân, nên rất dễ dàng dẫn đưa 2 người cùng rủ nhau vào vườn địa đàng rong chơi, hóng mát và chồng chị thật sự đã dóng vai ông Adong, còn em chị đã đóng vai bà Evà như sự việc đã xẩy ra. Nói tới đây, chị Thu Cúc gật đầu nhiều lần, tỏ vẻ tán đồng quan điểm với tôi. Chị còn nói câu: Tội ai làm người đó chịu, nhưng chị đã quên đi mất một điều, là trong vấn đề này, 3 đứa con của chị có làm gì đâu mà chúng phải bị chia lìa xa cha mẹ ruột thương yêu của chúng, để đến ở với cha mẹ nuôi nếu vợ chồng chị bị đi ở tù. Tiếp theo tôi xin giải thích vấn đề này trên phương diện pháp lý: Cho dù chị có đến Sở Di Trú khai ra tất cả sự thật, Sở Di Trú không ở trong cương vị có thẩm quyền tài phán nội vụ của chị khai ra vì vấn đề rõ rệt ở đây, là chồng chị đã có nạp chứng từ ly dị với chị do tòa án cấp, đầy đủ các giấy tờ và hình ảnh đòi hỏi bởi đơn xin bảo trợ mà chồng chị đã nạp đầy đủ hồ sơ cho Sở Di Trú, là những bằng chứng hiển nhiên xác nhận em gái chị là tình nhân của người chồng cũ của chị, cho dù người tình này là em gái ruột của chị đi chăng nữa, pháp luật không hề ngăn cấm người chồng ly dị vợ không được quyền bồ bịch hay cưới người em gái ruột của người vợ cũ về làm vợ, miễn sao đương sự không vi phạm tội đa thê là được. Giấy tờ bảo trợ fiancée của người chồng cũ của chị đã được Sở Di Trú duyệt xét và chấp thuận và người fiancée này đã được tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ hay Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Việt Nam phỏng vấn và đã cấp giấy chiếu khán cho phép đương sự được quyền nhập cảnh Hoa Kỳ để được phép cư ngụ tại đây trong vòng 90 ngày, nếu vì lý do gì khác, người đứng tên bảo trợ không chịu làm giấy hôn thú với người fiancée, thì tới lúc đó, người fiancée này mới phải quay trở về nguyên quán của mình mà thôi. Hoặc gỉa thử sau khi cưới nhau rồi trong khoảng thời gian 2 năm, nếu có sự tố giác của người chồng kèm theo những bằng cớ cụ thể, chứng minh là người vợ chỉ gỉa vờ lấy anh vì anh có quốc tịch Hoa Kỳ, để được phép sang đây mau chóng mà khi sang tới đây rồi lại không chịu ăn ở với anh như là vợ, vì cô nàng có những lý do thầm kín riêng tư, thì người vợ này sẽ bị trục xuất về nguyên quán; trái lại người chồng có quốc tịch mà gỉa vờ lấy cô ta về làm vợ qua trực tiếp cá nhân với nhau hay qua trung gian những tổ chức dịch vụ thương mại mua bán tình yêu, nghĩa là cô ta trả tiền trực tiếp cho anh này hoặc trả tiền cho anh qua trung gian cơ quan dịch vụ để được nhập cảnh Hoa Kỳ, nhưng trên thực tế 2 người không hề sống chung với nhau như vợ chồng. Trường hợp như vậy, nếu cơ quan chính quyền biết được có bằng cớ cụ thể, thì cả 2 đương sự bị truy tố ra tòa: Một người bị trục xuất trả về nguyên quán, còn một người có quốc tịch có thể vừa bị phạt vạ bằng hiện kim và vừa bị lãnh án tù ở nhiều năm hay ít năm tùy theo tội trạng của đương sự. Trường hợp của chồng chị và cô em gái của chị sẽ không nằm trong các lý do vi phạm luật lệ vừa kể trên, vì chị đã chính thức ly dị chồng chị trước tòa án nên anh ấy đã trở thành độc thân, có quyền lấy vợ khác, và cô em gái chị độc thân đã được cấp giấy chiếu khán vào Hoa Kỳ để gặp lại người yêu là chồng cũ của chị, và để 2 người sẽ làm hôn thú với nhau khi cô em gái chị sang tới đây. Như thế không có điều gì bị coi là bất hợp pháp cả và câu chuyện của chị theo tôi, có thể điển hình bằng 2 câu ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa mà người ta vẫn thường nói: Cõng Rắn Cắn Gà Nhà hoặc Rước Voi Về Rầy Mồ.
Ðể kết thúc câu chuyện của chị, tôi xin chia sẻ cùng chị một vài ý tưởng thâm thúy mà tôi vẫn còn nhớ những lời chân thành, ân cần nhắn nhủ đến các học trò của một vị linh mục khả kính, cũng là thầy dạy học tôi khi tôi còn ở bậc trung học như sau: Sự thù hận mà cứ ôm ấp lâu ngày trong tâm hồn, sẽ làm nguy hại cho tinh thần lẫn thể xác của con người, trái lại chỉ có sự tha thứ sẽ là một liều thuốc bổ vô gía cho sức khỏe của con người, vì nó sẽ đem lại sự bình an đến trong tâm hồn mỗi người chúng ta và nhờ vào sự bình an này, chúng ta sẽ sống lâu sống khỏe cho tới ngày Chúa gọi về với Ngài.

Hồi Ký của một người kẹt lại Hà-Nội sau 1954

Hồi Ký của một người kẹt lại Hà-Nội sau 1954

(tựdo Nguyễn Văn Luận)

Với bút hiệu tựdo ‒ chữ thường, viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài “Người tìm tự do và tượng thần tự do” đã được bình chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ.

Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts.

Sau đây là bài viết mới nhất của ông.


TỰ DO

Tượng đài Thuyền nhân VN tìm Tự Do Westminster, California

Tác phẩm bằng đồng của Vi Vi Võ Hùng Kiệt dựng ở Tượng đài Thuyền nhân, Westminster, California, khánh thành năm 2009
(nguồn:http://vi.wikipedia.org/wiki/)

Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.

Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi, “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à…?”

Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười, “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, …nữa là bác!”

Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.

Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt .

Thời gian rồi cũng hiểu nhau.

Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.

Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.

Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là …Vẹm!

Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư.

vietminhtiepquanhanoi

Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại.

Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất.

Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!

Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.

Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn …

Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi :

“Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!”

xeluahanoi1954

Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”:đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và …” tiêu diệt giai cấp”! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép.)

Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành.

“Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”.

Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.

Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”.

Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”

Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là … “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo…cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học.

Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!

Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, …đi tù!

Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư.

Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.

Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội.

Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.

Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.

“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”.

Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.

Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.

Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”!

Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.

“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”

Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu …! Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ.

Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân …” là vậy!

“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.

“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là… nói dối!

Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.

Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you.”

Ở miền Bắc VN thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “Công tác” thế nào?” Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “…rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng… các nước anh em!”

Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.

Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”!

Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”.

Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy sụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!

Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.

Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”

Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.

Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này.

Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.

Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về…! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ!

Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng … nói dối!

Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển.

Hải Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.

Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.

Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”

“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ…!.”

Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”

Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi….”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.

Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”.

Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!

Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.

Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi”“đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”.

Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.

Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ…!

11,000 người bị rắc rối vì liên quan đến ‘tín dụng đen’

11,000 người bị rắc rối vì liên quan đến ‘tín dụng đen’

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Tội phạm liên quan đến “tín dụng đen” ở Việt Nam xảy ra liên tiếp nhiều năm qua, từ thành thị đến nông thôn, thậm chí cả những vùng quê hẻo lánh, khiến nhiều gia đình tan nát.

Với giấy nhận nợ đơn sơ này, nhiều người vẫn giao tiền cho người huy động
vốn do lãi suất quá hấp dẫn. (Hình: Người Lao Động)

Đó là đánh giá được đưa ra tại hội thảo “Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động ‘tín dụng đen’” do Bộ Công An tổ chức ngày 30 Tháng Bảy tại Hà Nội.

Người Lao Động dẫn phúc trình tại hội thảo, mặc dù thống kê chưa đầy đủ nhưng từ năm 2010 đến 2014, Việt Nam liên tiếp xảy ra hàng trăm vụ vỡ nợ lớn với thiệt hại lên đến hàng ngàn tỷ đồng, làm ảnh hưởng đến nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức.

Tin cho hay, có 10,885 bị can liên quan đến “tín dụng đen.” Cụ thể, vụ án liên quan đến “tín dụng đen” là 6,367 vụ, trong đó có 41 vụ giết người; 318 vụ cố ý gây thương tích; 588 vụ cướp tài sản; 1,089 vụ cưỡng đoạt tài sản; 1,707 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản; 2,496 vụ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; 104 vụ hủy hoại tài sản.

Ngoài ra, “tín dụng đen” còn mang lại những hệ lụy khác như bắt giữ người trái pháp luật, hủy hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng, làm nhục người khác, các vi phạm pháp luật về cầm cố, thế chấp tài sản.

Tại hội thảo, ông Lê Quý Vương, thứ trưởng Bộ Công An, cho biết, theo đánh giá, các loại tội phạm, vi phạm pháp luật có liên quan đến “tín dụng đen” xảy ra liên tiếp ở nhiều nơi tại Việt Nam, từ thành thị đến nông thôn, thậm chí cả những vùng quê hẻo lánh, miền núi làm cho nhân dân hoang mang, bất bình, giảm niềm tin vào các tổ chức tín dụng, các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan.

Trong khi đó, hoạt động phòng ngừa còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc vì những kẽ hở pháp luật trong quy định đối với loại tội phạm này. (Tr.N)

Đẹp sao là lá cờ đỏ sao vàng – Bùi Bảo Trúc

Đẹp sao là lá cờ đỏ sao vàng – Bùi Bảo Trúc

Đẹp sao là lá cờ đỏ sao vàng – Bùi Bảo Trúc

Phải nói ngay người vẽ cái poster đó vẽ rất khéo. Những ai không phải là người Nhật hay người Việt, không đọc được chữ Nhật và chữ Việt mà nhìn tấm poster ấy thì chỉ thấy lá cờ đỏ sao vàng quang vinh (?) của nước ta để rồi nghĩ ngay rằng (nội dung của tấm poster là) nước ta đang oai hùng tiến lên cùng năm châu thế giới.

Manbiki wa hanzai desu 万引き わ 犯罪 です
“ăn cắp là phạm tội”

Tấm poster này được một sinh viên Việt Nam học tại Đại Học Matsuyama Matsudo, Chiba tìm thấy ở trong khuôn viên của đại học. Nửa trên của poster là lá cờ đỏ sao vàng với ngôi sao phinh phính beo béo của nước ta, không thể lầm với bất cứ một ngôi sao nào trong các lá cờ của thế giới. Thực ra trong tấm poster đó cũng không hẳn là một lá cờ, mà là một khoảng mầu đỏ chẩy loang xuống nửa dưới của tấm poster. Khoảng mầu đỏ loang che gần hết hai chữ “Trộm cắp”. Một hình vẽ bàn tay, biểu tượng quốc tế cho chữ “STOP!”. Ngay phía dưới là hàng chữ Nhật mà kiến thức rất hạn hẹp về chữ Hán của tôi chỉ đọc được lõm bõm ba bốn chữ, nhưng chắc ý nghĩa của hàng chữ Nhật ấy chắc cũng không ngoài một lời nhắn là đừng ăn cắp. Ở cuối của tấm poster là hàng chữ Việt nguyên văn: “LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.

Chuyện ăn cắp thì ở đâu mà lại không có. Ăn cắp không chỉ thấy ở những người thuộc riêng một quốc tịch nào nghĩa là những người ăn cắp thì nước nào cũng có. Nhưng theo một bản tin của đài BBC mới đây, thì người Việt ở Nhật dính vào hơn 40% những vụ ăn cắp vặt. Các vụ này thường diễn ra tại các siêu thị, luôn cả các cửa tiệm bán quần áo, mỹ phẩm sang trọng. Thủ phạm là những thành phần lao động, du sinh, và luôn cả các phi công và tiếp viên hàng không. Tình trạng này diễn ra nhiều đến nỗi cảnh sát của một thành phố (Nhật) nọ phải đưa người sang Việt Nam để học tiếng Việt ngõ hầu giải quyết những trường hợp ngôn ngữ bất đồng giữa cảnh sát và những người Việt phạm tội ăn cắp. Ở một số nơi đã xuất hiện những poster có nội dung cảnh cáo những người trộm cắp viết bằng tiếng Việt hăm là hình phạt sẽ rất nặng. Điều an ủi duy nhất là, vẫn theo bản tin của đài BBC, thành tích ăn cắp của người Việt ở Nhật vẫn còn thua Trung Quốc.

Nhưng người ta phải đồng ý là không có một tấm poster cảnh cáo nào có nội dung độc địa (nhắm vào Việt Nam) như tấm ở Đại Học Matsuyama. Có thể nó cũng xuất hiện ở những nơi khác nữa chứ chẳng lẽ chỉ in ra vài tấm treo trong khuôn viên đại học thôi.

Người designer vẽ tấm poster đó rất khéo nhưng cũng rất đểu. Thay vì chỉ là mấy dòng chữ Việt cũng đủ để răn đe những người có toan tính bất lương, phạm pháp thì designer dùng ngay lá cờ và những hàng chữ Việt để đích danh nói thẳng với các công dân của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chứ không hề nhắm vào các lao động đến từ Phi Luật Tân, Nam Dương, Đại Hàn…

Lá cờ được ghép vào tấm poster nhưng không phải là môt lá cờ tung bay ngạo nghễ trong gió, mà là một khoảng mầu đỏ loang lổ.

Sau hết, cái đểu của người vẽ tấm poster đó ghép vào tấm poster đó là câu mà nhà nước vẫn đem ra để bảo ban, dậy dỗ những người dân cùng khổ của Việt Nam: “LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.

Người design tấm poster rất đểu khi đem câu này ra để mỉa mai, rỉa rói, xỏ xiên nhà nước Việt Nam… Này mấy anh kia, cứ hô hào, cổ vũ cho chuyện lao động là vinh quang thì hãy cứ nhìn lại coi người dân của các anh có làm đúng theo lời cổ vũ của mấy anh không. Họ có thực tâm tin rằng lao động là vinh quang không? Hay những công dân khốn khổ của nước Việt Nam mà các anh xuất cảng đi làm nô lệ ở khắp mọi nơi (nhưng không thấm nhuần đạo đức Hồ Chí Minh và những lời kêu gọi của các anh) chỉ là thứ hàng xuất cảng trây lười, chỉ biết trộm cắp sang nước Nhật của chúng tôi và làm bẩn, làm ô nhiễm đất nước của chúng tôi.

Tấm poster xuất hiện từ hồi cuối năm 2014 nhưng tới nay, đại sứ quán của nước ta vẫn chưa có bất cứ một phản ứng nào. Không có một công hàm phản đối gửi cho chính phủ Nhật đòi tháo gỡ những tấm biểu ngữ có nội dung lăng mạ người dân và đất nước Việt Nam.

Hay là chúng nó cũng đồng tình với những lời chửi cha chúng nó lên như vậy?

NhatAnCap

Đáng lẽ ra Bộ Ngoại Giao phải gọi đại sứ Nhật tới than phiền, đòi chính phủ Nhật phải ra lệnh cho thành phố Chiba dẹp bỏ, thu hồi những tấm poster đó và xin lỗi người Việt Nam và lá cờ đỏ sao vàng. Nhưng Bộ Ngoại Giao, Sứ Quán Việt Nam ở Tokyo không hề mở mồm, mặc cho người Việt và lá cờ (dơ dáy ấy) bị mặc tình bôi bẩn thêm.

Nhưng làm thế nào được, khi mà cả nước chúng nó toàn là một bầy trộm cướp, đạo tặc với nhau. Cứ tìm chữ kleptocracy (chế độ ăn cắp) trong internet là lại thấy có tên Việt Nam ngay lập tức.

Cái danh dự của Việt Nam sau năm 1975 bị bọn chó dại ném xuống đất đen biết đến bao giờ mới gột rửa cho sạch đây!

Bùi Bảo Trúc