Sử gia Nguyễn Đình Đầu buồn vì sách Petrus Ký bị thu hồi

Sử gia Nguyễn Đình Đầu buồn vì sách Petrus Ký bị thu hồi

BBC

Gs Nguyễn Đình Đầu buồn vì cuốn “Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ” do ông chủ biên bị cấm.

Cuốn “Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ” do nhà nghiên cứu lão thành Nguyễn Đình Đầu chủ biên, một công trình tập hợp các bài viết của nhiều tác giả xưa và nay, nói về học giả Trương Vĩnh Ký (1837-1898), hiện đang bị thu hồi khỏi các hiệu sách và bị cấm phát hành ở Việt Nam

Sách vốn được Cục Xuất bản cấp giấy phép với đầy đủ các thủ tục giấy tờ và đã qua thời hạn lưu chiểu theo luật định đủ một tháng rưỡi, tức được phép lưu hành, được dự trù ra mắt tại Đường Sách Sài Gòn vào sáng Chủ nhật 8/1/2017.

Thế nhưng buổi ra mắt sách này đã bị hủy theo “một chỉ thị miệng” và báo chí được tin nhận cảnh báo không đưa tin về cuốn sách này.

BBC Tiếng Việt đã hỏi nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, chủ biên cuốn sách, về phản ứng của ông trước việc này.

Trước hết ông cho biết ông không biết l‎ý do của việc thu hồi và ngưng phát hành này và cho tới nay cũng không hề có một văn bản hay giải thích chính thức nào.

Ông nói: “Tôi nghĩ có lẽ do một hiểu lầm nào đó, cho là cuốn sách cần phải có một sự điều chỉnh nào đó mà tôi cũng không biết.”

Được biết cuốn sách đã được giới thiệu rộng rãi tại thành phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản cũng cho biết đã làm đầy đủ các thủ tục nhưng ông Nguyễn Đình Đầu nói thêm “có lẽ chính Nhà xuất bản cũng không rõ nội dung cuốn sách có gì không hợp ý cho nên mới có chỉ thị ra miệng là tạm không cho phát hành” như vậy.

Được biết Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh cho tới phút cuối còn nói với nhà nguyên cứu rằng sẵn sàng giúp đỡ ông trong ngày ra mắt sách nếu cần giúp đỡ gì.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cho biết ông rất buồn trước việc này vì ông là người bắt đầu nghiên cứu về ông Petrus Ký, tức Trương Vĩnh Ký, từ năm 1960 khi là Hội viên Hội nghiên cứu Đông Dương (nay là Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh).

Phần lớn các nhà nghiên cứu Việt Nam hay nước ngoài thường dựa vào cuốn Tiểu sử Trương Vĩnh Ký, xuất bản vào các năm 1925-27, của Jean Bouchot, Giám đốc lưu trữ của Nam Kỳ, một người rất có cảm tình với Trương Vĩnh Ký nên đã viết khá đầy đủ “về cuộc đời con người có rất nhiều cống hiến cho Việt Nam, chứng tỏ ông Trương Vĩnh Ký là một người yêu nước Nam Kỳ, một nhà bác học”, ông Đầu nói.

Phát hiện thêm về Trương Vĩnh Ký

Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cho biết cuốn sách về Petrus Ký có những phát hiện mới về học giả này.

Nhưng sau này ông Nguyễn Đình Đầu cho biết ông đã phát hiện được một tư liệu nói về sự hợp tác của ông Trương Vĩnh Ký với người Pháp không có suôn sẻ từ đầu đến cuối như là người ta tưởng, như ông Bouchot đã trình bày.

“Trong những lời đối đáp khi chính quyền Pháp yêu cầu Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn, có những văn thơ chứng tỏ là Trương Vĩnh Ký rất bất mãn trong chuyện người Pháp cư xử với người Việt Nam, cho nên ông không muốn hợp tác. Tôi viết ra sau khi xin được những tài liệu mà Trương Vĩnh Ký còn chưa xuất bản mà mới chỉ là nháp”.

Ông cũng nói đang chuẩn bị thêm để chứng minh đã viết dựa trên những tư liệu ông khám phá được trong lần sang Pháp năm 1991 ba tháng khi nghiên cứu tại một bảo tàng ở Pháp.

“Nói tóm lại đây là một công trình mà đối với tôi, đến tuổi đã cao như thế này, không có thể kiếm tìm thêm hơn được nữa, nhưng với những hiểu biết của tôi, với những tài liệu mà tôi có cho đến bây giờ thì tôi nghĩ là tôi đã có phần đóng góp không những về cá nhân một nhân vật như ông Trương Vĩnh Ký, nó thuộc về lịch sử, mà cả giai đoạn lịch sử biến chuyển khi ông Trương Vĩnh Ký còn sống, làm việc với xã hội và cho đến khi qua đời”, ông Nguyễn Đình Đầu chia sẻ.

Hy vọng sách được phát hành

Là một người tự cho rằng đã có đóng góp trong vấn đề chủ quyền của Việt Nam tại Trường Sa, Hoàng Sa trong một thời gian dài và còn tiếp tục trong thời gian tới ông hy vọng cuốn sách sẽ được chính quyền nghiên cứu kỹ, làm sáng tỏ và được phát hành trở lại.

Có thể người đó đọc không kỹ. Đó chính là điều cần thiết nhất để đánh giá lại Trương Vĩnh Ký thì lại thắc mắc. Cho nên tuy rất là buồn nhưng tôi yên tâm là sẽ được giải quyết

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu

Ông Đầu cũng cho biết có lẽ đang có những điều đình giữa công ty Nhã Nam chịu trách nhiệm xuất bản cuốn sách này “với những người tạm gọi là có ý kiến ngưng phát hành cuốn sách” liên quan tới khoảng hai chục trang của cuốn sách nhưng nhà nghiên cứu nói rằng đó chính là những điều mới mẻ có giá trị về phương diện sử học của cuốn sách.

“Có thể người đó đọc không kỹ. Đó chính là điều cần thiết nhất để đánh giá lại Trương Vĩnh Ký thì lại thắc mắc. Tôi cho là đọc không có kỹ. Cho nên tuy rất là buồn nhưng tôi yên tâm là sẽ được giải quyết,” ông Nguyễn Đình Đầu nói.

Trong lời giới thiệu cuốn sách, giáo sư Phan Huy Lê viết: “Học giả Nguyễn Đình Đầu là người đã dày công nghiên cứu về Petrus Ký, đã thu thập được nhiều tư liệu về Trương Vĩnh Ký trong Thư viện Hội Nghiên cứu Đông Dương (Société des Études indochinoises), Trung tâm lưu trữ Hội Thừa sai Paris (Société des Missionsétrangères de Paris) và đã dịch, chú thích, xuất bản một số tác phẩm của Trương Vĩnh Ký.

“Trên cơ sở chuẩn bị nhiều năm, học giả Nguyễn Đình Đầu đã hoàn thành một công trình như một hồ sơ Trương Vĩnh Ký mang tên Petrus Ký – Nỗi oan thế kỷ.

“Cuốn sách của học giả Nguyễn Đình Đầu không chỉ là một công trình khảo cứu về Trương Vĩnh Ký mà còn là một công trình tổng hợp bao gồm các trước tác tuyển chọn của Trương Vĩnh Ký và hệ thống theo thời gian các sách, báo nghiên cứu, phê bình Trương Vĩnh Ký kể cả khen và chê.

“Trong sách, tác giả còn sưu tập và công bố một số tư liệu mới về Trương Vĩnh Ký, đóng góp thêm cơ sở tư liệu về nhân vật lịch sử này.”

Việt Nam đã “hết cửa” rồi

Việt Nam đã “hết cửa” rồi

Trần Nhật Phong (Danlambao) – Một vài bạn trẻ ở Sài Gòn lại inbox cho tôi, nói rằng kể từ ngày có mạng xã hội, họ được tiếp cận khá nhiều thông tin, và trở nên hoang mang trước hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam, từ chuyện chính quyền CSVN nhu nhược với chủ quyền biển đảo cho đến sự phát triển kinh tế èo uột, khác hẳn với những gì họ được học hỏi từ mái trường xã hội chủ nghĩa, câu hỏi của những người bạn trẻ là Việt Nam sẽ đi về đâu trước nhũng vấn nạn xã hội, công quyền không thể giải quyết.

Tôi không phải là một kinh tế gia, có thể giải đáp được thắc mắc của các bạn, tuy nhiên tôi rất mừng là các bạn đã bắt đầu biết hoang mang, tức là các bạn đã nhìn ra được sự “bất ổn” trong hệ thống tư duy của đảng cộng sản, ở đây tôi chỉ nói với các bạn trên quan điểm của một người sống qua nhiều quốc gia, đi nhiều nơi, và từ những ghi nhận trong cuộc sống, chia sẻ lại với các bạn góc nhìn của tôi mà thôi.

Tôi sinh hoạt lâu năm với các anh chị em trong giới nghệ sĩ, đặc biệt là những nghệ sĩ trình diễn văn hóa cổ truyền như Cải Lương, Hồ Quảng, trong số này có một nam nghệ sĩ là đàn em của bà xã tôi, chuyên môn thủ “vai ác” trong các tuồng cải lương từ xã hội cho đến tuồng cổ.

Có một lần ngồi ăn nhậu với nhau, tôi hỏi anh rằng, sao chuyên môn chọn những “vai phản diện” mà không tranh thủ những vai chánh, anh cười đáp “Anh biết rồi, trong ngành của mình hiện nay, có 2 ông thần đã ôm trọn vai chánh trên hàng ngàn cuốn video là Vũ Linh và Kim Tử Long, nếu em chọn vai chánh đó nữa thì cạnh tranh… mệt lắm, còn đóng vai “kép nhì” thì làm sao khán giả nhớ đến em là ai? Trong một vở tuồng, khán giả chỉ luôn nhớ đến ông kép chánh và ông kép ác thôi, nên thay vì chọn vai chánh để cạnh tranh với 2 ông thần kia, em chọn vai “phản diện” cho chắc ăn”.

Lúc đó tôi khá ngỡ ngàng, nhưng rồi hiểu ngay, đây chính là nguyên tắc mà ngạn ngữ Trung Hoa đã từng có “tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng”, biết rõ bản thân của mình, biết rõ sở trường của mình, biết rõ đối phương thì sẽ thành công.

Tôi kể câu chuyện này cho các bạn nghe, là muốn nói đến Việt Nam, đất nước có truyền thống văn hóa “lúa nước” kể từ ngày lập quốc đến nay, so với Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan, rõ ràng về địa lý Việt Nam hơn hẳn những quốc gia hay vùng lãnh thổ này, một bên là biển, một bên là rừng và cao nguyên bao la bát ngát, có thể nói lá một thế mạnh và sở trường về nông, hải sản.

Theo các bản báo cáo của Liên Hiệp Quốc, kể từ cuối thập niên 90 (bắt đầu từ 1999) đến nay, hầu như năm nào cơ quan này cũng báo động về tình trạng thiếu thực phẩm trên thế giới, nhất là đối với những quốc gia đông dân như Ấn Độ, Trung Quốc thì nạn thiếu thực phẩm càng trầm trọng, và năm nào họ cũng nhập cảng hàng trăm tỷ Mỹ kim các mặt hàng nông sản và hải sản, để cung ứng cho nhu cầu của dân chúng.

Nếu là một cơ chế lãnh đạo quản lý đất nước tốt, có tầm nhìn và hiểu rõ đất nước mình có lợi thế gì, thì tôi nói với các bạn Việt Nam hôm nay đã trở thành một cường quốc về kinh tế dựa trên nông, hải sản xuất cảng, nhưng đáng tiếc, Việt Nam hôm nay đã sắp sửa thua cả Lào và Cam Bốt chỉ vì những kẻ cai trị “ngu dốt, ích kỷ và tham lam”.

“Ngu dốt” là không hiểu rõ đất nước mình có thế mạnh gì? sở trường gì? Chỉ nhìn thấy Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore hay Nhật Bản giàu có nhờ công nghiệp thì vội vã chạy theo và “đòi” biến Việt Nam thành quốc gia công nghiệp. Các quốc gia và vùng lãnh thổ trên chỉ là những đảo quốc, hoặc hàng năm phải đương đầu với động đất, sóng thần, nên họ không còn lựa chọn nào khác là chọn công nghiệp để phát triển, ngay cả Nhật Bản còn phải tạo ra những đảo nhân tạo để trồng lúa, thì các bạn đủ hiểu thực phẩm chính là nguồn gốc cho sự an toàn đời sống của người dân, và ở những nơi này, nếu các bạn có dịp đi qua sẽ thấy rằng giá cả thức ăn luôn mắc mỏ hơn những thứ khác.

Thay vì dùng nguồn vốn ODA hay FDI để phát triển hạ tầng cơ sở cho nông nghiệp, thay vì “thua lỗ ngàn tỷ” cho các dự án thép, Boxite, ngân hàng, tốn cả ngàn tỷ cho những tượng đài vô bổ, số tiền đó hàng năm đầu tư vào máy móc hiện đại cho ngành nông sản và hải sản của Việt Nam, giúp nông dân và ngư dân có phương tiện thay cho sức người, sức trâu, khai thác gổ và trồng thêm rừng, thì có phải Việt Nam ít nhất đã trở thành một quốc gia cung cấp thực phẩm trong khu vực quan trọng, và hôm nay Việt Nam đâu có bị tan hoang vì phá rừng, vì ô nhiễm môi sinh, vì nước sông ở đồng bằng sông Cữu Long đâu có tình trạng bị “ngập mặn”. Cái “ngu dốt” của những kẻ cầm quyền chính là điểm này.

“Tham lam” là vì những kẻ mang thẻ đảng từ trung ương đến địa phương, nếu phát triển đúng hướng thì làm sao họ có tiền sắm xe hiệu cho bản thân và gia đình, làm sao có đất đai bán “quyền sử dụng” cho “nhà đầu tư”, và biến tài sản của dân tộc thành tài sản riêng của từng đảng viên. Việt Nam hiện nay nằm trong tình trạng “cha chung không ai khóc”, mỗi một kẻ lên nhiệm đều vơ vét cho đủ “sở hụi” trước khi “thuyên chuyển” qua nơi khác, có tên đảng viên nào chịu nhận trách nhiệm đâu, từ bộ công thương, bộ công an, bộ quốc phòng cho đến cái gọi là mặt trận tổ quốc, cứ lấy đất đai xây resort, xây sân goft xây nhà máy thép và xây… tượng đài để dục khoét, thu tiền bỏ túi riêng, “ai chết mặc bay”, tao thu tiền bỏ túi, đây chính là hiện trạng của Việt Nam, cai trị đất nước chỉ là những kẻ “tham lam”.

“Ích kỷ” là biết bản thân ngu dốt, không có khả năng quản lý và lãnh đạo đất nước, nhưng vẫn bám vào cái “hiến pháp thổ tả” để độc quyền cai trị đất nước, độc quyền dành những món lợi cho gia đình của đảng viên, còn mọi thứ nợ công, nghèo đói thì đạp cho… dân đen lãnh. Chỉ vì “ích kỷ” cho nên Việt Nam hôm nay, những người có khả năng đều bỏ chạy ra khỏi đất nước, khi họ không có cơ hội đóng góp trong các vị trí lãnh đạo chỉ vì họ không có thẻ đảng, thì họ đem cái học và khả năng của họ đóng góp cho quốc gia khác, để bản thân và gia đình của họ được thăng tiến, được hãnh phúc vì họ đóng góp đúng khả năng của họ và họ được quyền hưởng thụ cuộc sống tốt đẹp hơn.

Nếu các bạn hỏi tôi với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, do độc đảng nên “quota” xuất cảng bị hạn chế, ô nhiễm môi trường khiến cho các mặc hàng nông, hải sản bị trả về, dệt may cạnh tranh không nổi với Indonesia, Miến Điện và Trung Quốc, từ nam chí bắc môi trường bị ô nhiễm nặng nề ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân vì rừng bị tàn phá, vì biển bị nhiễm kim loại vì nước sông bị “ngập mạn”, thì chừng nào Việt Nam mới khắc phục được tình trạng này, tôi có thể nói với các bạn rằng, ngay cả bây giờ cộng sản sụp đổ, thì cứu vãn lại môi trường của Việt Nam, cũng phải mất từ 70 năm đến cả trăm năm chứ không phải chỉ vài năm là có thể làm được.

Ngay cả nơi tôi đang sinh sống là tiểu bang California, từ thập niên 70, chính phủ tiểu bang đã dự đoán mức ô nhiễm sẽ tăng cao với mực độ dân số ngày càng tăng và xe cộ nhiều, đã ra nhiều đạo luật và chính sách để gìn giữ môi trường, mà đến hôm nay so với Việt Nam đương nhiên chúng tôi sống trong bầu không khí sạch sẽ hơn, nhưng nếu so với Hawaii hay một số tiểu bang nông nghiệp khác, thì chỉ số ô nhiễm của California vẫn cao hơn, chúng tôi mất hơn 40 năm mà chỉ giữ được vậy, huống hồ chi Việt Nam chính sách bảo vệ môi trường không có, không rõ ràng, thiếu dụng cụ, thiết bị bảo vệ môi trường, thiếu cả “người lãnh đạo có tầm nhìn” thì các bạn nghĩ Việt Nam sẽ mất bao nhiêu năm để phục hồi?

Đừng để những kẻ cầm quyền “bịp bợm” các bạn về những ngôn ngữ tô hồng, “nổ” và “lấp liếm” nữa, cứu được các bạn và gia đình của các bạn, chỉ có bản thân các bạn thôi, còn nếu không đủ khả năng, bản lãnh để đứng lên thay đổi xã hội nơi các bạn ở, thì cách tốt nhất là tìm đường… chạy, nghèo chạy theo kiểu nhà nghèo, có tiền chạy theo kiểu có tiền, vì với cơ chế lãnh đạo hiện nay, Việt Nam đã không còn lối thoát nào khác, chỉ cho người dân có bầu không khí trong sạch và ăn no thôi cũng chưa được, đừng nói chi đến cái gọi là “cường quốc công nghiệp”, suy nghĩ gẩm cho thật kỷ rồi quyết định cho chính bản thân các bạn nhé, chúc các bạn một năm mới “rung chuông” ăn tết một cách “hạnh phúc với đảng và nhà nước” nhé.

Trần Nhật Phong

danlambaovn.blogspot.com

Làm sao thu hút nhân tài về nước?

Làm sao thu hút nhân tài về nước?

Thanh Trúc, phóng viên RFA

Tiến sĩ Nguyễn Thượng Vũ (trái) và Chương trình Đào tạo Liên tục tại Đại học Y Dược TPHCM.

Tiến sĩ Nguyễn Thượng Vũ (trái) và Chương trình Đào tạo Liên tục tại Đại học Y Dược TPHCM.

Photo: Tiến sĩ Nguyễn Thượng Vũ

Hội nghị do các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức, thảo luận vấn đề thu hút trí thức người Việt ở nước ngoài về nước để làm việc trong các lãnh vực giáo dục đào tạo và phát triển công nghệ.

Thủ tục hành chánh rườm rà

Tại hội nghị, các đại biểu tham dự, điển hình như đại biểu của Bộ Khoa Học Công Nghệ, nêu lên những bất cập, những trở ngại  trong việc thực thi các chính sách thu hút mời gọi trí thức từ nước ngoài về tham gia làm việc trong nước.

Còn khi đưa tin về hội nghị này, báo Tuổi Trẻ Online đã chạy tựa bài là “ Môi Trường Sạch Mới Thu Hút Trí Thức Người Việt Nước Ngoài”

Anh Nguyễn Giang, đang là nghiên cứu sinh ngành Vật Lý tại một đại học ở California, nhận định:

Đồng ý, nói chung đấy là một vấn đề. Nhìn trong tổng thể thì có nhiều yếu tố để gọi là môi trường sạch. Tạo điều kiện cho mọi người làm việc tốt, mọi người làm nghiên cứu mà được hỗ trợ công bằng, phù hợp. Thế mà môi trường Việt Nam bây giờ có đạt được mong muốn đấy không? Em vẫn nhìn thấy những người bạn em về Việt Nam họ cũng làm nghiên cứu tương đối tốt, cũng có nhiều người về mà không tìm được vị trí tốt. Em tin là kể cả nhiều nơi trên thế giới cũng thế, không phải nơi nào cũng có hướng nghiên cứu phù hợp, Việt Nam mà không làm được là chuyện hiển nhiên.

Một trong những ý kiến điển hình được mổ xẻ là việc thu hút không đúng đối tương, không sử dụng hiệu quả nên không giữ chân được trí thức.

Nhiều đại biểu còn khẳng định về mặt chính sách thì Việt Nam không thiếu nhưng cái mà Việt Nam thiếu là công cụ và môi trường làm việc tốt, thiếu các biện pháp cụ thể nên chính sách không đi vào cuộc sống.

Làm công việc y tế thì đưa bằng chuyên môn đã đành, nhưng làm hội thảo thí dụ ở thành phố Hồ Chí Minh thì càng phải xin phép nhiều tầng lớp,đòi hỏi nhiều  thời gian.
– Bác sĩ Quỳnh Kiều

Một người ở Mỹ, thường cùng những phái đoàn y tế về Việt Nam, bác sĩ Quỳnh Kiều, nhận xét rằng công tác y tế thiện nguyện ở Việt Nam mà còn gặp khó khăn huống chi là về ở luôn để làm việc:

Mỗi lần về rất khó khăn, thủ tục càng ngày càng khó càng ngày càng rườm rà. Chuyện đó làm những người đi với chúng tôi kêu ca lắm. Làm công việc y tế thì đưa bằng chuyên môn đã đành, nhưng làm hội thảo thí dụ ở thành phố Hồ Chí Minh thì càng phải xin phép nhiều tầng lớp,đòi hỏi nhiều  thời gian. Tất nhiên khó khăn và thủ tục rườm rà để làm những công việc đóng góp chuyên môn thì nhiều chuyên gia họ rất là ngại.

Việt Nam đã ban hành và phổ biến Nghị Định 87, có hiệu lực từ tháng Mười Một 2014, bao gồm  những qui định thu hút người Việt nước ngoài là những cá nhân chuyên môn hoặc là những chuyên gia trong hai lãnh vực khoa học và công nghệ. Nghị Định 87 cũng nói rõ về chính sách ưu đãi cho trí thức Việt kiều như nhà cửa, lương hướng, điều kiện làm việc vân vân….

Những vấn đề vừa nói chẳng có gì mới, là nhận xét của giáo sư Việt kiều Hà Tôn Vinh, tổng giám đốc Tổ Hợp Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Lực Stella Management ở Sài Gòn, cũng là người giảng dạy những chương trình chuyên đề tại các đại học trong nước 20 năm nay:

Đó là những vấn đề được đề cập nhiều lần giữa các hội nghị và qua những buổi hội thảo của Bộ Chính Trị cũng như của chính phủ. Đưa nhân tài về nước hay mời nhân tài về nước là nhu cầu cần thiết, nhưng mời thế nào để họ ở lại cũng như mời thế nào để họ có thể đóng góp được thì đó là vấn đề còn bỏ ngỏ.

Trí thức, chuyên gia cũng như nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài thì rất là nhiều. Để cho họ có thể đóng góp được ở Việt Nam thì họ phải thấy rằng có một cơ hội thực mà họ có thể về được, họ có thể làm việc được lâu dài và sự đóng góp của họ có ý nghĩa thì họ mới về. Chứ còn nếu chỉ về chơi hoặc về để tìm hiểu tình hình thì rất nhiều người về. Tôi nghĩ số lượng trí thức Việt kiều cũng như những người nghiên cứu chuyên môn mà đất nước cần có về hay không thì cái đó rất hạn chế.

Nhiều khó khăn

Untitled-1-400.jpg
Một lớp Đào tạo Liên tục tại Đại học Y Dược do chuyên gia nước ngoài hướng dẫn. Photo: TS Nguyễn Thượng Vũ

Tại buổi hội nghị  ngày 28 vừa qua, tiến sĩ Tạ Bá Hưng thuộc ban quản lý dự án của Bộ Khoa Học Công Nghệ  nhìn nhận một thực tế là hơn hai năm từ lúc có Nghị Định 87 đến nay vẫn chưa một chuyên gia nào được chính thức mời về làm việc. Giáo sư Hà Tôn Vin phân tích:

Không phải trong 2 năm vừa qua mà trong 10 năm trong 15 năm vừa qua số lượng trí thức Việt kiều cũng như nhà khoa học ở nước ngoài về Việt Nam rất là khiêm tốn, sự thật như vậy. Có 3 vấn đề, vấn đề của các chuyên gia hay những nhà trí thức, vấn đề của các tổ chức mời và vấn đề của chính phủ.

Các chuyên gia hay các trí thức bận nhiều thứ ở nước mà họ đang sống, cho họ về tìm hiểu cơ hội thì họ rất ít thời giờ, mà khi về thì chắc chắn họ gặp những khó khăn ở Việt Nam. Thứ nhất là cách làm việc và những cơ hội để hợp tác. Có thể có nhiều nhưng không một tổ chức nào dám đứng ra mời là vì trí thức cũng như nhà khoa học đều có lập trường riêng, có những tư duy rất thoáng mà nhiều khi không phù hợp với các tổ chức của Việt Nam  hay không phù hợp với nhu cầu chính trị của Việt Nam thì có thể họ không được mời hay không ai dám mời. Chỉ có một vài đại học, một vài tổ chức mời một số rất ít chuyên gia về giảng dạy. Chính vì thế số lượng Việt kiều chính thức được mời làm việc ở Việt Nam lâu dài rất là ít.

Tôi nghĩ nếu chính phủ có tầm nhìn sâu hơn rộng hơn chính xác hơn thì họ phải có phương pháp tốt hơn để thực sự mời  trí thức về chứ không phải chỉ nói suông.
– Tiến sĩ Nguyễn Thượng Vũ

Điều giáo sư Hà Tôn Vinh vừa trình bày có thể được coi là trường hợp tiêu biểu gần đây nhất của một khoa học gia ở Hoa Kỳ, tiến sĩ y khoa bệnh học Nguyễn Thượng Vũ, được một số y bác sĩ mời về giảng dạy tại Đại Học Y Dược Sài Gòn:

Tháng Sáu năm nay thực sự trong một chuyến đi  về thăm nhà thì sẵn dịp như vậy trường Đại Học Y Dược mời tôi tới nói chuyện . Đây là chương trình đào tạo cao cấp  Continued Medical Education , bên Việt Nam gọi là Chương Trình Đào Tạo Liên Tục Những vị giáo sư thấy cái nhu cầu rất cần thiết  nên nhân tiện họ mời mình. Những  người tới là những bác sĩ đã ra hành nghề lâu năm, khoảng vài trăm bác sĩ. Tôi có một nhận định là các bác sĩ rất thích những đề tài mà chúng tôi nói tại đó là những nghiên cứu rất cập nhật. Tôi làm nghiên cứu về ngành da khá lâu nên tôi lựa  những đề tài tôi nghĩ rất quan trọng về y khoa, thí dụ vấn đề “Tế Bào Gốc”. Đó là một trong những đề tài mà tôi nói chuyện ở Việt Nam.

Thú thật là tôi không thấy cái gì để mà nói rằng có một chính sách rõ ràng là mời chuyên gia  nước ngoài về để mà nói chuyện. Điểm thứ hai, có những vấn đề khoa học kỹ thuật rất cần thiết nhưng người ta không chú tâm lắm, trong khi đó những gì có tính cách tạo được nguồn lợi về tài chánh thì có lẽ người ta chú tâm nhiều hơn.

Chỉ có những vị giáo sư trong các trường đại học thấy được điều đó nhưng vì họ  không có điều kiện để chiêu dụ thành ra họ mời những người quen biết mà họ thấy có khả năng. Thành ra khi nói về vấn đề mời người có khả năng có kiến thức từ nước ngoài về thì phải có một chính sách thành thật, thực tế.

Đôi khi những kiến thức chưa đem lại cái lợi tức kinh tế ngay tức thì. Tôi nghĩ nếu chính phủ có tầm nhìn sâu hơn rộng hơn chính xác hơn thì họ phải có phương pháp tốt hơn để thực sự mời  trí thức về chứ không phải chỉ nói suông.

Hiện có trên dưới 200 chuyên gia người Việt nước ngoài đang tham gia giảng dạy tại Việt Nam. Theo tiến sĩ Tạ Bá Hưng của Bộ Khoa Học Và Công Nghệ, so với chừng 400.000 trí thức người Việt đang sinh sống ở nước ngoài thì con số 200 người về làm việc trong nước thật quá ít ỏi và quá lãng phí.

Và nếu không khai thác được nguồn lực đáng quí này là một điều thiệt thòi cho Việt Nam, ông Tạ Bá Hưng kết luận.

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

 Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Bình Lâm/Người Việt

Nguoi-viet.com

“Ngôi nhà” số 9 Lê Thạch (màu xanh lá cây) chiều ngang 80 cm, nằm giữa khe hở của 2 nhà hàng xóm cao tầng. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

SÀI GÒN (NV) – Đất chật người đông, Sài Gòn xuất hiện rất nhiều ngôi nhà nhỏ đến kỳ dị trong lòng thành phố, mà người ta gọi là “nhà siêu nhỏ.”

Những căn nhà này có thể mọc lên trên lề đường, một phần hẻm, trên khoảng không của hẻm, thậm chí là tận dụng khoảng hở rất hẹp giữa 2 ngôi nhà cạnh nhau. Đây hầu hết là nhà lấn chiếm do người nghèo xây dựng trong khoảng thập niên 90 đến nay. Người dân phải nghĩ ra rất nhiều cách để phù hợp với điều kiện sống quá chật chội.

Có thể nói, những ngôi “nhà siêu nhỏ” ở Sài Gòn là ví dụ gần nhất và đầy hình ảnh cho câu nói “tấc đất tấc vàng.” Một trong những ngôi nhà kỳ nhất Sài Gòn nằm tại số 9, đường Lê Thạch, quận 4. Bề ngang của căn nhà chỉ chừng 80 cm nhưng nó cao đến 3 tầng. “Bất động sản” này được hình thành giữa khe hở của 2 ngôi nhà cao tầng kề nhau. Dù vậy, trông nó khá khang trang với vẻ kiên cố, nhiều cửa sổ và lại còn có cả cửa cuốn bấm điện.

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Ngôi nhà (bên phải) của ông Huỳnh Quang Trung trên đường Nguyễn Thị Minh Khai. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

Lụp xụp hơn nhưng cũng cao đến 3 tầng, ngôi nhà của ông Trương Minh Tuấn ở hẻm số 178, đường Đoàn Văn Bơ, quận 4, chỉ đủ đi lọt 1 người đi vào. Phần tầng trệt có mỗi nhà vệ sinh, cái bếp và diện tích còn lại dành cho chiếc thang gỗ bắc lên phòng trên.

“Tui đi bán vé số cả ngày bên ngoài, tối về đây chỉ để ngả lưng ngủ. Chật quá, vô nhà là hết đụng cái này sang cái kia. Ngủ thì chỉ nằm dọc, xoay đi xoay lại cũng có một chỗ một,” ông Tuấn kể.

Nơi tập trung hàng loạt ngôi “nhà siêu nhỏ” san sát nhau là đường Nguyễn Thượng Hiền, quận 3. Dọc theo vị trí của đường rầy xe lửa nội ô cũ, từ hàng chục năm qua đã xuất hiện một dãy nhà có kiến trúc kiểu như… chùa một cột hay là hình cây!

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Dãy nhà có kiến trúc kiểu “chùa một cột” trên đường Nguyễn Thượng Hiền. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

Do khoảng đất trống quá hẹp, chiều sâu của nền nhà chỉ chừng 1 mét. Và khi xây lầu trên, chủ nhà cho nó phình to ra gấp đôi để có thể làm cái phòng ngủ.

Tuy vậy, phần lớn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán thì phải diễn ra ở bên dưới, trên một diện tích bé tí. Đi ngang con đường này, chúng ta có thể thấy cảnh một người nằm trong nhà nhưng chân thì duỗi ra tận… mặt đường. Võng, xe gắn máy, xe đạp và nhiều vật dụng khác cũng phải nằm nửa trong nửa ngoài như vậy.

Người dân ở đây đa số không có nghề nghiệp, họ phải tận dụng lợi thế “mặt tiền” để mưu sinh bằng buôn bán đồ ăn, quán cóc. Nhà dù rất nhỏ, nhưng vừa là nơi ở, vừa là nơi kinh doanh nên cuộc sống đã chật chội lại càng chật chội hơn. Có cảm giác như phần lớn gia sản, vật dụng của họ đều được đưa ra để trên lề đường. Phần dành cho người đi bộ bị chiếm trọn, và lòng đường cũng bị chiếm một phần. Đặc biệt là vào buổi tối, khi nơi này biến thành phố ăn nhậu bình dân, thì thật khó khăn cho những ai qua lại đây bằng xe hơi hay xe gắn máy.

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Rất nhiều con đường hẻm chỉ đủ đi lọt 1 chiếc xe 2 bánh. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

Nằm rất gần với nơi này, phía bên kia đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, cũng có hàng loạt ngôi nhà tương tự. Gia đình ông Huỳnh Quang Trung có 4 người trưởng thành sống trong diện tích vỏn vẹn 5 mét vuông. Ngôi nhà được cất lên trên một con hẻm, nép vào hông nhà người khác. Ban ngày, các thành viên trong gia đình luôn tìm cách đi ra khỏi nhà cho bớt chật, chỉ có mỗi ông Trung ở nhà trông coi và làm việc vặt.

“Đồ dùng như ti vi, tủ lạnh, thau chậu, rá rổ… thì mình luôn chọn sắm cái loại nhỏ nhất. Ban ngày tui bỏ giường ra đặt bàn làm việc. Ban đêm thì ưu tiên chỗ ngủ và cất chiếc xe gắn máy. Hai đứa con trai đã đến tuổi lập gia đình, nhưng tui không biết làm sao. Thêm người là không thể ở đủ,” ông Trung nói.

Từ những quận trung tâm cho đến các vùng lân cận, rất nhiều con hẻm bị lấn chiếm đến mức chỉ còn lại bề ngang tối thiểu cho nhu cầu… đi lọt. Có những con đường xe hơi có thể chạy qua, nhưng đã bị ai đó xây nhà chặn gần hết lối. Mọi người vẫn tặc lưỡi vì đã quen thuộc với những kiểu cản trở giao thông như vậy.

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Một “căn nhà” làm trên khoảng không của con hẻm. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

Không chỉ chiếm mặt hẻm, có những nơi người ta còn chiếm nốt khoảng không. Dân làm nhà kiểu bắc cầu trên cao, và đi qua những con hẻm như vậy sẽ có cảm giác như lọt vào đường hầm!

Nhiều căn “nhà siêu nhỏ” được làm nên bởi những người Sài Gòn sau khi bị bắt ép đi “kinh tế mới” sau đó bỏ về lại thành phố những năm 80-90 của thế kỷ trước. Cũng có một thời gian, loại nhà lấn chiếm hình thành hàng loạt do chính quyền gần như cho phép hợp thức hóa để tồn tại sau khi đóng tiền phạt.

Dân số Sài Gòn nay đã xấp xỉ 10 triệu người cộng làn sóng di cư ồ ạt và thường xuyên từ khắp các tỉnh đổ về khiến thành phố này đã đông lại càng đông thêm. Và trong hoàn cảnh đó, có một chỗ để trú ngụ hay đơn giản là ngả tấm lưng sau một ngày mưu sinh mệt nhoài cũng là niềm hạnh phúc lớn của người nghèo thành thị.

Đài Loan ‘bắt 40 người Việt’

Đài Loan ‘bắt 40 người Việt’

VOA

Tàu của lực lượng tuần duyên Đài Loan.

Tàu của lực lượng tuần duyên Đài Loan.

Một tàu đánh cá của Đài Loan chở “di dân lậu” người Việt đã bị chặn bắt ngoài khơi bờ biển Nghi Lan hôm 6/1.

CNA dẫn lời lực lượng tuần duyên hôm 7/1 nói rằng 40 người trên tàu là các di dân bất hợp pháp từ Việt Nam gồm 25 đàn ông và 15 phụ nữ. Ngoài ra, trên tàu còn có một thuyền trưởng, thuyền viên Đài Loan và Indonesia.

Con tàu đăng ký ở Cao Hùng, miền nam Đài Loan, sau đó đã được giao cho văn phòng công tố Nghi Lan để xử lý và điều tra vì vi phạm luật nhập cư.

Một bức ảnh được truyền thông Đài Loan đăng tải cho thấy những người Việt bị bắt mặc áo có đánh số và đeo khẩu trang, và bên cạnh họ là một người lính vũ trang đứng canh.

Kênh Focus Taiwan dẫn lời quan chức cho biết rằng những người Việt bị bắt tới Trung Quốc rồi lên tàu cá đi Đài Loan trong chuyến hải hành mất khoảng 4 ngày.

Theo lực lượng tuần duyên Đài Loan, các công dân Việt Nam phải trả mỗi người từ 4 nghìn cho tới gần 7 nghìn đôla Mỹ cho chuyến đi này.

Một quan chức của cơ quan này được CNA dẫn lời nói rằng trước đây, những người Việt muốn nhập cư trái phép vào Đài Loan thường hùn tiền mua tàu cá ở Trung Quốc rồi sau đó bỏ tàu đó khi họ đặt chân tới Đài Loan.

Vụ việc mới nhất cho thấy các “di dân lậu” người Việt đã “thay đổi chiến thuật”, theo CNA.

Đài Loan là một trong những thị trường thu hút nhiều lao động người Việt. Theo số liệu thống kê được báo trong nước loan tải, có hàng chục nghìn công nhân Việt Nam đang làm việc ở Đài Loan.

Thủ tướng VN: ‘Đất đai là tâm điểm tham nhũng’

Thủ tướng VN: ‘Đất đai là tâm điểm tham nhũng

BBC

Ông Phúc cảnh báo về "sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia".
CHINHPHU.VN
Ông Phúc cảnh báo về “sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia”.

Thủ tướng Việt Nam nói nguồn lực công trong đó có đất đai chưa được định giá chính xác, gây tham nhũng và lợi ích nhóm.

Thông điệp được đưa ra tại một hội nghị đánh giá kết quả tài chính ngân sách năm 2016 hôm 6/01 tại Hà Nội.

Cải cách thể chế ở VN: Dấu ấn 2016

“Nguồn lực công lớn nhất là nguồn lực từ trụ sở, đất đai có quy mô rất lớn nhưng chưa được định giá chính xác, sử dụng có phần tùy tiện, là tâm điểm của tham nhũng, của lợi ích nhóm và cũng là điểm nghẽn tăng trưởng của nền kinh tế,” ông Nguyễn Xuân Phúc nói.

Hội nghị của Bộ Tài chính cũng được nghe Thủ tướng Phúc yêu cầu công khai, minh bạch, làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể gây thất thoát, lãng phí ngân sách Nhà nước và tài sản công và xử lý nghiêm các sai phạm.

“Chúng ta làm điều này là thể hiện tinh thần trách nhiệm với từng đồng tiền thuế của dân.

“Có chuyên gia cảnh báo, nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia là không thể tránh khỏi”, Thủ tướng Phúc nói.

Bàn về thực trạng chi thường xuyên là gánh nặng lớn nhất cho ngân sách, ông Nguyễn Xuân Phúc nói việc “Chi thường xuyên liên tục tăng lên thì phải hãm phanh lại dứt khoát chứ không phải dự toán rồi cứ chi”.

“Xe công cũng chỉ là một hạt ngọc trong kho châu báu là khối tài sản công khổng lồ đang quản lý rất phân tán, kém hiệu quả của chúng ta”.

Nợ công nếu tính đủ, theo Thủ tướng Phúc, đã “vượt trần” và rằng nợ công trong 5 năm qua tăng trung bình gấp ba lần tốc độ tăng trưởng.

Nói về chiến lược cổ phần hóa, ông Phúc mô tả điều ông gọi là “giảm và bán toàn bộ vốn nhà nước ở các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối”.

“PETRUS KÝ – NỖI OAN THẾ KỶ”, MỘT QUYỂN SÁCH NÊN ĐỌC, NHƯNG VẪN CÒN XA SO VỚI KỲ VỌNG CỦA ĐỘC GIẢ

“PETRUS KÝ – NỖI OAN THẾ KỶ”, MỘT QUYỂN SÁCH NÊN ĐỌC, NHƯNG VẪN CÒN XA SO VỚI KỲ VỌNG CỦA ĐỘC GIẢ

FB Đoàn Lê Giang

7-1-2017

Ảnh: FB Đoàn Lê Giang

h1

Quyển sách “Petrus Ký – nỗi oan thế kỷ” của GS Nguyễn Đình Đầu là quyển sách được nói đến đã lâu, đến nay mới ra mắt. Petrus Ký là nhân vật gây tranh cãi – tranh cãi từ khi ông còn sống đến nay, cứ có một người khen lại có một người chê, thậm chí có người đã từng chê rồi, tự mình lại khen; hay có người từng khen rồi, tự mình lại chê… Người Pháp khen ông đến mây xanh, nhưng cũng có người Pháp chê ông thậm tệ; ở miền Bắc giới sử học từng chê ông thậm tệ, bây giờ nhiều người lại khen; trong Nam trước 1975 bên cạnh rất nhiều người khen, lại có không ít nhà nghiên cứu đứng đắn, nghiêm cẩn chê như: GS Nguyễn Văn Trung, Phạm Long Điền, Nguyễn Sinh Duy… Bây giờ ở hải ngoại nhiều người khen, nhưng cũng không ít nhà nghiên cứu nghiêm túc lại chê. Nói chung khen chê họ Trương không là độc quyền của ai.

Vậy vấn đề đặt ra đối với một công trình nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký là gì? Đó là phải trình bày tư liệu một cách đấy đủ và khách quan để cho độc giả tự mình suy nghĩ.

1) Độc giả cần một tập sách Trương Vĩnh Ký dày dặn in tất cả các tác phẩm, công trình, bài viết, thư tín của ông có dịch chú cẩn thận. Việc này không đơn giản, vì cho đến nay chưa ai cho biết đích xác Trương Vĩnh Ký đã xuất bản bao nhiêu quyển sách: 108 hay 120 hay 130? Và thế nào là sách? Vì gọi là sách nhưng đến khi cầm lấy trên tay chỉ có 4 trang lại là phiên âm một tác phẩm nổi tiếng của quá khứ. Ví dụ như quyển “Học trò khó phú’ của ông thực ra chỉ là bài “Hàn Nho phong vị phú” của Nguyễn Công Trứ mà gần như ai cũng biết. Đọc Trương Vĩnh Ký không dễ. Tôi đã từng đọc 1 luận án TS về Trương Vĩnh mà người viết dù ngợi ca họ Trương đến mây xanh mà cũng không rõ ông viết gì, và có phải tác phẩm của ông không?

2) Độc giả cần một quyển sưu tầm các bài nghiên cứu nghiêm túc về Trương Vĩnh Ký, đủ mọi quan điểm, từ trước đến nay

3) Độc giả cần một sự giới thiệu đánh giá một cách khách quan về tài năng, học vấn, thái độ chính trị, sự tự phán của Trương Vĩnh Ký, trên cơ sở một thái độ làm việc nghiêm cẩn, dựa trên tư liệu thực chứng, với một tinh thần khoa học, khách quan.

Nếu vậy quyển sách của GS Nguyễn Đình Đầu rất đáng đọc, nhưng vẫn còn xa với kỳ vọng của độc giả.

1) Công trình này sưu tập rất ít công trình và tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, các công trình được sưu tập phần nhiều là công trình quen thuộc đã được xuất bản (Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ, Chuyến đi BK năm Ất hợi, Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, Một số bài viết cho tạp chí, thư từ…). Nói chung còn thiếu rất nhiều công trình, tác phẩm quan trọng, thiếu nhiều bức thư thân Pháp, yêu cầu quân Pháp đến để cứu giáo dân…Nói chung là thiếu rất nhiều tư liệu bất lợi cho việc đánh giá TVK. Nhiều tên tác phẩm bị viết sai, không biết do soạn giả hay nhà xuất bản, ví dụ: “Thạnh suy bỉ thời phú” (tr.33), là sai, đúng ra là “Thạnh suy bĩ thới phú” (Bài phú về sự thịnh, suy, bĩ, thái); “Hàn Nho phong vị phú” (tr.33), thực ra không có tác phẩm quốc ngữ nào của TVK tên vậy, mà chỉ có “Học trò khó phú”. “Mắc cúm từ” (tr.33) cũng không đúng, mà là “Mắc bệnh cúm từ”… Nói chung công trình cỡ này mà không cẩn trọng thì di hại rất lớn, vì nhiều người tin, cứ nhắm mắt chép theo.

2) Công trình còn dùng những nhận định bốc đồng thiếu kiểm chứng. Ví dụ trong Lời giới thiệu của GS.PHL, có viết: TVK “thông thạo nhiều ngôn ngữ từ Hán, Nôm đến tiếng Latin, Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn, Nhật, Khmer, Thái, Lào”. Tôi biết chắc là TVK biết Hán Nôm khá vừa phải, bằng chứng là bản “Kim Vân Kiều truyện” (1875) của ông tôi không dám đưa cho ai coi để bảo vệ uy tín của ông, vì ông phiên âm, chú thích sai nhiều quá! Ông cũng không biết tiếng Nhật, còn các thứ tiếng Lào, Thái, Ấn kia chỉ ở mức nhập môn, vì ở trường truyền giáo hải ngoại Penang người ta dạy nhiều ngôn ngữ phương Đông nhưng với 3 năm học ở đó, họ Trương chỉ đủ thời gian học vỡ lòng vài thứ tiếng (chào hỏi, hỏi đường…), và các sách dạy tiếng của ông chỉ là kết quả từ nhũng bài học ngôn ngữ ở trường đó. Theo Nguyễn Văn Trung và Vũ Ngự Chiêu, thì TVK biết chừng 7-8 ngoại ngữ, trong đó 3-4 ngôn ngữ thành thục chứ không phải 14-15 ngôn ngữ, thậm chí 26 ngôn ngữ như những huyền thoại về ông. Vũ Ngự Chiêu viết: “Petrus Key có thể biết được năm, sáu thứ tiếng. Sau này, Petrus Key nghiên cứu thêm chữ Hán và chữ Nôm, và có thể biết (đọc, viết hoặc nói) được 7, 8 thứ tiếng là cùng. (Nguyễn Văn Trung, 1993, tr. 138) Nhưng nếu nói thông thạo, thì chỉ khoảng 3, 4 thứ tiếng (Pháp, Việt, Việt Hán và chữ Nôm). Chỉ ngần ấy đã đủ là một học giả trong thế kỷ XIX và XX” (Góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký).

3) Công trình này phần sưu tập các nhận định khác nhau về Trương Vĩnh Ký, chiếm quá nửa, đến hơn 300 trang. Bên cạnh các tư liệu quen thuộc có thể thấy dễ dàng trên mạng hay trong các khóa luận, luận văn đại học cao học, công trình có đưa vào nhiều tư liệu mới, nhất là tư liệu tiếng Pháp. Tuy nhiên những tư liệu bất lợi cho sự đánh giá TVK chưa phong phú, đầy đủ.

Nói tóm lại công trình này nghiêm túc và có nhiều tư liệu mới, đáng đọc, nhưng vẫn còn quá xa so với mong đợi của người đọc. Thực ra với một nhà nghiên cứu ở tuổi cửu thập rồi thì không thể đòi hỏi nhiều. Việc nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ về TVK vẫn là một đòi hỏi phía trước.

Tên quyển sách là “Petrus Ký nỗi oan thế kỷ”, có vẻ tiểu thuyết quá, nó đánh vào tình cảm nhiều hơn là thuyết phục về lý trí và bằng tư liệu.

Trương Vĩnh Ký là một người đáng quý, một học giả đáng tự hào về học vấn của nước ta, nhất là trong buổi đầu tiếp xúc với phương Tây. TVK từng bị hiểu lầm, từng bị huyền thoại hóa theo âm mưu của thực dân, từng bị khen chê theo yêu ghét cá nhân, theo xu hướng chính trị và thời cuộc. Đã đến lúc chấm dứt tình trạng ấy. Chúng ta ủng hộ tự do học thuật, nên rất cần những công trình nghiêm cẩn, chứ không muốn thêm những công trình thiên lệch hay những huyền thoại mới về ông.

Bà lão nghèo bị tố ăn cắp, vị thẩm phán nói 1 câu khiến cả phòng xử án nín lặng

Bà lão nghèo bị tố ăn cắp, vị thẩm phán nói 1 câu khiến cả phòng xử án nín lặng

Albert Einstein: “Thế giới không bị hủy diệt bởi những kẻ làm điều ác, mà bởi những người đứng nhìn mà không làm gì cả”. Nguyên văn: “The world will not be destroyed by those who do evil, but by those who watch them without doing anything.”

_____

Đại Kỷ Nguyên

6-1-2017

Ảnh minh họa. Nguồn: ĐKN/ internet

Dưới đây là giai thoại về một nhân vật có thật trong lịch sử – thị trưởng thành phố New York Fiorello LaGuardia – người được ca ngợi là ‘ngài thị trưởng vĩ đại nhất’ trong lịch sử nước Mỹ.

Mùa đông năm 1935 là khoảng thời gian mà nền kinh tế của nước Mỹ tiêu điều nhất. Không khí ảm đạm bao trùm toàn bộ thành phố New York, nơi cư ngụ của những đứa trẻ lang thang, những mảnh đời vất vưởng, và những gia đình túng thiếu không có bữa ăn no…

Vào một đêm lạnh giá giữa tháng 1/1935, một phiên tòa được tổ chức trong khu phố nghèo nhất New York. Đứng ở vị trí thẩm phán là ngài thị trưởng đáng kính của thành phố, ông Fiorello LaGuardia, và bên dưới bục là một bà lão đã gần 60 tuổi, áo quần cũ rách cùng với dáng vẻ sầu não. Gương mặt tiều tụy của bà hiện lên vẻ xấu hổ, bà đã bị buộc tội vì lỡ ăn cắp một ổ bánh mì.

Ngài thị trưởng Fiorello LaGuardia, cũng đồng thời là quan tòa, hỏi: “Bị cáo, bà bị tố là đã lấy trộm bánh mì, có đúng vậy không?”

Bà lão cúi mặt xuống, ấp úng đáp: “Vâng thưa quan tòa, tôi thật sự đã lấy trộm”.

“Vì sao bà lại lấy trộm? Có phải vì bà đói bụng không?” – quan tòa lại hỏi.

“Thưa quan tòa, tôi đã rất đói. Nhưng nếu chỉ vì đói thì tôi đã không làm như vậy”, bà lão trả lời. “Đứa con rể của tôi đã bỏ ra đi, còn con gái tôi thì ốm liệt giường. Tôi cần chiếc bánh mì này để nuôi hai đứa trẻ đang chết đói… Chúng thực sự rất đói…” Nói đến đây bà bật khóc.

Bà lão nói xong, đám đông trong phòng xử án vang lên tiếng xì xào bàn tán.

Ngài thị trưởng thở dài. Ông nhìn khắp gian phòng một lượt, rồi quay sang bà lão và nói: “Bị cáo, tôi sẽ phải xử phạt bà, luật pháp luôn công bằng và không có ngoại lệ đối với bất kỳ cá nhân nào. Bà phải nộp phạt 10 đô-la hoặc bị giam 10 ngày trong tù. Bà chọn cái nào?”

Trong sự bế tắc tột cùng, bà lão đáp: “Thưa quan tòa, tôi xin bằng lòng chịu phạt. Nếu tôi có 10 đô-la thì đã không lấy cắp bánh mì. Vậy tôi xin được giam 10 ngày. Nhưng còn đứa con gái và hai đứa trẻ, ai sẽ chăm sóc chúng đây?”

Ngài thị trưởng khẽ mỉm cười. Ông rút trong túi ra 10 đô-la và bỏ vào chiếc mũ nổi tiếng của mình.

“Đây là 10 đô-la tiền phạt, bà đã được tự do!” Rồi ông lại hướng cặp mắt về phía những người tham dự phiên tòa: “Và bây giờ, mong các vị hãy nộp 50 xu tiền phạt. Tiền phạt để trừng phạt cho sự hờ hững của chúng ta, vì đã để một bà lão khốn khổ phải đi ăn cắp bánh mì nuôi những đứa trẻ đang chết đói. Ngài Baliff, hãy đi thu tiền phạt và đưa tất cả cho bị cáo”.

Tất cả mọi người có mặt tại phiên tòa khi ấy đều không khỏi kinh ngạc. Không khí im lặng đến nỗi một cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe thấy. Trong phút chốc, tất cả mọi người lặng lẽ đứng dậy, lấy ra 50 xu và bỏ vào chiếc mũ của ngài thị trưởng.

Ngày hôm sau, tất cả các tờ báo của thành phố New York đều đồng loạt đưa tin về sự kiện lạ lùng này: 47,5 đô-la tiền phạt đã được trao cho một bà lão nghèo khổ, từng ăn cắp bánh mì để nuôi những đứa cháu đang chết đói của mình. Ngay cả người chủ lò bánh mì, cũng như các quan khách và cảnh sát trong thành phố, đều sẵn lòng nộp phạt 50 xu…

h1Thị trưởng thành phố New York – ông Fiorello LaGuardia (Ảnh: Wikipedia)

Và đó là câu chuyện về ngài thị trưởng Fiorello LaGuardia, người đã đưa New York vượt qua những tháng ngày đen tối nhất của cuộc Đại khủng hoảng. Ông được người dân New York yêu mến gọi bằng cái tên “Bông hoa bé nhỏ” vì chiều cao khiêm tốn 1,57 m và cái tên Fiorello (trong tiếng Ý, “Fiorello” nghĩa là “bông hoa nhỏ”). Ông cũng là người từng lái xe cứu hỏa xông vào các đám cháy lớn, từng đưa trẻ mồ côi ra sân chơi bóng chày, và khi các tờ báo của New York đình công, cũng chính ông bước lên đài phát thanh để đọc ‘truyện cười ngày Chủ Nhật’ cho các em nhi đồng.

Đại Kỷ Nguyên bàn:

Thiên tài Albert Einstein từng nói: “Thế giới không bị hủy diệt bởi những kẻ làm điều ác, mà bởi những người đứng nhìn mà không làm gì cả.” Có lẽ đó là lý do vì sao mà ngài thị trưởng Fiorello LaGuardia đã đứng lên để “trừng phạt” cho sự lãnh đạm và vô tình của những người có mặt trong phiên tòa. Thờ ơ và vô cảm trước nỗi đau khổ của người khác, dù không trực tiếp gây thương tổn, nhưng cũng đủ ngấm ngầm để lại vết thương lòng cho những người trong cuộc.

Và vì sao Phật gia luôn luôn giảng “Thiện”, giảng “Từ bi”, rằng chúng ta phải nghĩ cho người khác trước, phải “lấy thiện đãi người”? Đó là bởi chỉ có tình thương và lòng nhân ái mới đem lại hơi ấm và khiến con người xích lại gần nhau hơn. Tiền bạc, vinh quang, hay danh vọng không thể đem lại hạnh phúc, mà chỉ có hơi ấm tình người mới giúp chúng ta vững bước trên đường đời.

(Hồng Liên sưu tầm và dịch, tham khảo bản dịch của Tinh Hoa)

Lực Lượng C.S.C.Đ & Hội Nhà Văn

Ảnh của tuongnangtien

Dịch giả Phạm Nguyên Trường ví von giới người cầm bút hiện nay “là những anh mù sờ voi,” và chia họ ra làm bốn loại:

1. Đáng trọng là những người sờ được chỗ nào thì mô tả trung thực chỗ đó, to nói là to, dài nói là dài, cứng nói là cứng, mềm nói là mềm… tập hợp mô tả của những người đó có thể cho người ta hình ảnh tương đối trung thực về con voi.
2. Sợ nhất là những người mới sờ được cái chim hay cái bướm voi liền la toáng lên và bắt mọi người tin rằng đấy là cả con voi. Họ là những người thích độc quyền chân lí. Marx, Lenin… thuộc loại những người như thế.
3. Đáng ghét nhất là bọn, ví dụ, sờ được cái tai hay cái vòi, nhưng không chịu mô tả cái mình sờ được mà lại ngoạc mồm ra chửi những người đang mô tả một cách trung thực cái ngà hay cái đuôi voi rằng đấy không phải là voi.
4. Đáng khinh nhất là bọn kí-sinh-trùng-văn-nô-bồi-bút sống bằng mồ hôi nước mắt của các bà nông dân một nắng hai sương, chủ muốn con voi như thế nào thì mô tả như thế ấy.

Ảnh từ FB Phạm Nguyên Trường

Cái “bọn đáng khinh nhất, kí-sinh-trùng-văn-nô-bồi-bút sống bằng mồ hôi nước mắt của các bà nông dân một nắng hai sương” (ngó bộ) hơi đông, và sắp sửa “tan rã” tới nơi rồi – theo như nguyên văn lời than van của ông Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, vào hôm 16 tháng 12 năm 2016:

“… thông thường mỗi nhiệm kỳ năm năm các hội văn học nghệ thuật được nhận khoảng 400 tỉ đồng tiền hỗ trợ sáng tác từ ngân sách nhà nước, trong đó riêng Hội Nhà văn Việt Nam mỗi năm được nhận 4,8 tỉ đồng.

Nhưng năm nay Hội Nhà văn chỉ nhận được một nửa số tiền là 2,4 tỉ đồng và đã phải chi ra 2/3 số tiền đó để trả nợ cho báo Văn Nghệ, tạp chí Thơ, Hồn Việt… (mỗi số ra của mỗi đầu báo, Hội Nhà văn đặt mua 1.000 tờ cho khoảng 1.000 hội viên của mình).

Vì chưa đủ tiền nên hiện Hội Nhà văn vẫn còn nợ lại một số đơn vị tiền mua báo từ đầu năm đến nay.

“Nếu kỳ họp vừa rồi mà Quốc hội nhấn nút thông qua Luật về hội thì không biết chúng ta sẽ khốn đốn thế nào bởi khi đó Hội Nhà văn cũng như các hội khác sẽ không có trụ sở, không biên chế, không được cấp kinh phí. Vậy thì còn gì để hoạt động nữa?

Nếu chúng ta không được cấp kinh phí, không có trụ sở, tự đóng góp hội phí mà nuôi nhau thì Hội Nhà văn sẽ chỉ còn con đường tan rã mà thôi.

Trước viễn tượng đen tối này, ông Hữu Thỉnh bèn có một “đề xuất đột phá” như sau:

Sắp tới Hội Nhà văn sẽ xin ý kiến để tổ chức hội nghị hòa hợp văn học dân tộc với sự tham gia của các nhà văn trong nước và sự trở về của các nhà văn Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài. Cho đến nay, việc hòa hợp dân tộc trong lĩnh vực văn nghệ vẫn dè dặt và lạc hậu nhất so với các lĩnh vực khác”.

Nói các khác là nếu được tiếp tục tài trợ hào phóng như cũ thì Hội Nhà Văn sẽ “tình nguyện” đảm nhận thêm một nhiệm vụ mới nữa: “hòa hợp dân tộc trong lĩnh vực văn nghệ.” Đây là lãnh vực mà N.Q 36 của Bộ Chính Trị (về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài) đã quên lãng hơn chục năm nay.

Ông Hữu Thỉnh quả là một người biến báo, và có tài xoay trở. Tuy thế, “đề xuất” của ông có được chấp nhận hay không thì vẫn còn phải chờ. Trong khi chờ đợi, thử nghe xem giới cầm bút (trong cũng như ngoài nước) nói ra sao về Hội Nhà Văn Việt Nam:

Nguyễn Đức Tùng: Nếu Hội Nhà văn không thể tự mình thay đổi, cứ mãi già nua , bảo thủ, cũ kỹ, trở thành gánh nặng cho xã hội, trở thành lực cản của các nhà văn, thì nên giải tán nó đi và thành lập các hội khác.

Tạ Duy Anh: “Chưa khi nào nhà văn xứng đáng coi thường như hiện nay.”

Thận Nhiên: “Ăn bám, mua vui bằng tiền của nhân dân.”

Hoàng Xuân Sơn: Không có “đảng”, đố mầy làm văn!

Đỗ Trung Quân: “Nói thật nhá! Hội Nhà văn Việt Nam và báo Văn Nghệ đã thành cái ao làng lâu rồi. Tôi ước: Lấp đi cái ao làng. Cái ao làng phải thật sự bị lấp để thách thức chính những kẻ quen sống trong ao.”

Nguyễn Viện: “Tôi chỉ ước một điều thôi: Cái hội ấy (cũng như một số hội khác) biến cho nhanh. Uổng tiền nhân dân quá.”

Võ Thị Hảo: “Hội Nhà văn Việt Nam ngày càng có thêm nhiều hành động tỏ ra thù địch với quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác và nhân quyền của nhà văn.”

Nguyễn Duy: “Ở đây nó có những gương mặt rất là lộn xộn. Cái thứ hai là trong cương lĩnh của nó có cái là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nên tôi thấy nó thế nào ấy!”

Trần Mạnh Hảo: “Về mặt tinh thần những nhà văn bị bắt thì Hội có bao giờ đứng ra nói một lời nào đâu. Gần một chục ông trong Hội Nhà văn bị giam cầm, tù tội mà Ban lãnh đạo hội đâu có nói gì chỉ có điều là họ vỗ tay tán thành bắt thằng đó là đúng thôi chứ họ có nói một lời nào bênh vực cho hội viên của họ bao giờ đâu.

Phạm Thành: “Hội nhà văn Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hội là người đã sử dụng tác phẩm dự thi của tôi là cuốn ‘Cò hồn xã nghĩa’ để giao nộp cho cơ quan công an thành phố Hà Nội”

Sống dưới thể chế công an trị thì việc không ai dám lên tiếng bênh vực cho ai (vốn) là chuyện tất nhiên, và đã trở thành truyền thống nên cũng không có gì đáng để phàn nàn hay trách móc nhưng “giao nộp” tác phẩm của hội viên cho công an thì e là ông Hữu Thỉnh đã đi quá xa phần vụ của mình. Với thành tích (bất hảo) này thì việc “tổ chức hội nghị hòa hợp văn học dân tộc với sự tham gia của các nhà văn trong nước và sự trở về của các nhà văn Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài” e hơi bị khó.

Khối cán bộ chiến sĩ thuộc Trung đoàn cảnh sát cơ động, Công an Hà Nội được trang bị súng tiểu liên AK đảm nhận nhiệm vụ triển khai phương án bảo vệ các sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao…và bắt kẻ khủng bố, giải cứu con tin, phòng chống bạo loạn, tụ tập trái pháp luật. Ảnh & chú thích: news.zing

Điều khó khăn hơn nữa là chế độ hiện hành đang “chuyển đổi” chính sách để đáp ứng với tình thế mới. Giữa Thời Đại Thông Tin, và ở giai đoạn số đông quần chúng đã có điều kiện tiếp cận với internet, mặt trận truyền thông (kể như) đã vỡ. Việc viết lách tuyên truyền trí trá chỉ mang lại tác dụng ngược thôi nên Đảng và Nhà Nước đã chuẩn bị chuyển sang “khâu” trấn áp – theo như tin của Báo Dân Trí, số ra ngày 8 tháng 9 năm 2016:

Trong buổi triển khai mô hình tổ chức bộ máy mới sáng nay, 8/9, Trung đoàn Cảnh sát cơ động (CATP Hà Nội) đã diễu binh, diễu hành, phô diễn sức mạnh. Tổ chức bộ máy của Trung đoàn Cảnh sát cơ động (CSCĐ – Công an TP Hà Nội) gồm 10 đầu mối trực thuộc, trong đó có 5 Tiểu đoàn CSCĐ (Ban Tham mưu, Ban Chính trị, Ban Hậu cần, Ban Huấn luyện, Đội Nghi Lễ Công an Thủ đô, Tiểu đoàn Cảnh sát đặc nhiệm và 4 Tiểu đoàn CSCĐ). Đặc biệt, Tiểu đoàn Cảnh sát đặc nhiệm (CSĐN) được tập trung đầu tư trang thiết bị, phương tiện, vũ khí… đủ mạnh để chủ động ngăn chặn, trấn áp các vụ gây rối.

Các loại xe vũ khí, phương tiện hiện đại cũng được phô diễn. Ảnh & chú thích: news.zing

Cái thời trị an bằng cách huy động bộ đội đến Quỳnh Lưu, và xe tăng vào Budapest hay Thiên An Môn (nay) đã qua. Bây giờ chỉ riêng Hà Nội mà phải cần đến “5 Tiểu đoàn CSCĐ … được tập trung đầu tư trang thiết bị, phương tiện, vũ khí đủ mạnh để chủ động ngăn chặn, trấn áp các vụ gây rối” thì kể như là sắp tàn cuộc đến nơi.

Hơn nữa, quốc khố cũng cạn kiệt rồi. Dành để mua sắm dùi cui, cho nó chắc ăn, chứ bút viết giờ đã hết thời. Chả còn sơ múi gì nữa đâu, ông Hữu Thỉnh ạ. Thôi về đi, cứ nấn ná làm chi, cho chúng nó khi!

Made in China sắp kết thúc.

From facebook:  Kimtrong Lam
Made in China sắp kết thúc.

i Today News – Ngót nghét bốn mươi năm qua kể từ khi Đặng Tiểu Bình chính thức đổi mới nền kinh tế của Trung Cộng bằng cách chấp nhận “mở cửa” để đón nhận nền kinh tế thị trường vào nước này qua chính sách Bốn Hiện Đại Hóa đưa Trung Cộng đã thăng tiến nhanh.
Tuy nhiên nền kinh tế Trung Cộng vươn lên được nhờ vào những yếu tính sau:
– Sức lao động nhiều và rẻ
– Sự ma mãnh trong hối đoái
– Hỗ trợ (trợ giá) của nhà nước tuy đã vào WTO
– Chấp nhận làm đại công xưởng chế tạo cho thế giới Tây phương (great manufacturing) để hấp thụ đầu tư và thu hút việc làm về với Tàu
Cán cân thuơng mãi của Mỹ bị thâm hụt đối với Trung Cộng tăng quá cao nhất là sau khi Tàu vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO.
Từ cuối thập niên 1990 đến nay số thâm thủng càng về sau càng tăng cao không kéo xuống được. Cho đến nay hàng triệu công ăn việc làm ở Mỹ bị mất do hàng chục ngàn hãng xưởng trong khu vực chế xuất (manufacturing sectors) của Mỹ bị đóng cửa.

Sự kiện thâm thủng ngoại thuơng của Mỹ đối với Trung Cộng đẩy con số thặng dư ngoại tệ của Bắc Kinh riêng tại Mỹ lên đến 3 trillions. Chính đây là lý do tại sao Trung Cộng là chủ nợ lớn đối với công phiếu Hoa Kỳ.
Hàng hóa xuất cảng của Trung Cộng chủ yếu là hàng hóa tiêu dùng giá rẻ, sản xuất bằng công lao động tại các khu vực chế xuất đang chiếm lĩnh dần thị trường thế giới với cái ‘mác’ Made in China.
Dấu hiệu thời đại huy hoàng của hàng hoá chế xuất của Trung Cộng sắp kết thúc

Hiện nay chính phủ Hoa Kỳ liên tục chỉ đích danh Trung Cộng là thủ phạm về vấn đề xâm nhập và đánh cắp sở hữu trí tuệ của Hoa kỳ, mức độ xâm phạm về phía Trung Cộng từ tỷ lệ 50% đến con số không ngờ là 80%. Trị giá mất mát về việc đánh cắp cùng xâm nhập vùng – miền Internet Protocol làm thiệt hại cho Mỹ lên ngót 300 tỷ đô la hàng năm!
Vấn đề này đang làm cho các công ty trọng yếu của Mỹ như Dow Chemicals, Caterpillar, GE, và Ford đang rục rịch chuyển các cơ xưởng về lại Hoa kỳ

Ngay Google cũng loan báo rằng kỹ thuật công nghệ giải trí Nexus Q phải sản xuất tại Hoa Kỳ và chuyện này bắt buộc Apple phải rục rịch đi theo.
Sự mất cắp an toàn thông tin kỹ thuật làm thiệt hại kinh tế cho Mỹ khiến các đại công ty Mỹ phải “hồi hương” chưa hẳn là vấn đề chính cho NGÀY TÀN CỦA NỀN KINH TẾ HÀNG RẺ CỦA TÀU.

Sức ép chính trị, sự đòi hỏi lấy lại cân bằng công ăn việc làm cho dân từ quốc hội Mỹ, không phải là nguyên nhân chính cho NGÀY TÀN của thời đại hoàng kim “hàng rẻ dỗm” của Trung Cộng mà sự khai sinh những phát minh kỹ thuật tân kỳ sẽ là cái dao “sát thủ” nền kinh tế Đại Sản Xuất của một nứơc Trung Hoa ma đạo về thương mãi.

BA PHÁT KIẾN VỀ KỸ THUẬT TÂN KỲ làm hồi sinh khu vực kinh tế chế xuất của Mỹ

Thời gian qua hàng triệu việc làm đã mất ở nước Mỹ nhưng thứ công việc này lại xuất hiện ở Trung Cộng (hay một số nước khác), xong đem ngược lại Mỹ. Quy trình này sẽ không còn nữa.

Chậm nhất là đầu thập niên tới (1920) Kỹ thuật cao của Mỹ sẽ ứng dụng 3 công nghệ vượt trội
1- Robotics / người máy để hạ giá thành phẩm,
2- thông minh nhân tạo /Artificial Intelligence-AI
3- kỹ thuật ba chiều /3D Printing.
Những phát triển kỹ thuật này sẽ làm nhu cầu xử dụng nhân công và xí nghiệp tại Trung Hoa không cần nữa vì ở Mỹ không cần xí nghiệp và nhân công loại này.

1- ROBOTICS- NGƯỜI MÁY
Vào năm 2011 chính phủ TT Obama đã tài trợ thành công chương trình Phát Kiến Người máy Quốc gia (National Robotics Initiative), một nỗ lực to lớn nhằm đưa người máy giúp nhiều cho công nhân tại Mỹ giúp gia tăng năng suất, an toàn, và tránh nguy hiểm ngộ độc cho công nhân.

Ngay trong lĩnh vực nông nghiệp thế hệ robotics này sẽ giúp nông dân Hoa Kỳ tăng nông phẩm, tránh bệnh cây, tránh độc tố và ô nhiễm môi sinh nhất là gia tăng năng suất cho nông nghiệp Mỹ Hiện tại và trong vài năm nữa vai trò người máy lãnh nhiệm vụ thay thế con người rất nhiều.
Người máy thật đa năng. Vắt sữa bò cũng người máy, giải phẫu trong y học cũng người máy, chiến đấu trong quân sự và ngay cả lái máy bay phản lực…

Chúng ta đừng cho rằng giá thành nguòi máy làm ra sản phẩm trong thế hệ robotics này là cao hơn giá thành người thợ hiện nay đang quần quật làm tại các xí nghiệp chế xuất tại Trung Cộng.

Đối với người máy, thành phẩm người thợ của CS Tàu làm ra chỉ là “trò chơi trẻ nít”. Đối với thế hệ người máy mới này, nó sẽ làm dễ hơn, nhanh hơn và giá thành rẻ hơn người làm.
Ngay tổ hợp Foxconn Technology Group Đài Loan sẽ cho ra đời một triệu người máy trong 3 năm để làm một khối lượng công việc mà cả toàn khối nhân công tại Trung Cộng làm hiện tại

Sự thay thế như thế làm người ta so sánh giá nhân công tại của Trung Hoa lục địa trở nên đắt hơn. Ngay cả những đời xe hiện đại nhất hiện nay ví dụ Tesla Model S, được chế tạo tại Silicon Valley một nơi ở đắt địa nhất tại Hoa kỳ, thì robots sẽ đảm nhiệm việc lắp ráp sẽ hạ giá thành.

2. SỰ THÔNG MINH NHÂN TẠO (ARTIFICIAL INTELLIGENCE-AI)
Giả sử, bạn đang ngồi trước computer, phác họa ra một mốt quần áo hợp thời trang nào đó, hay họa ra một kiến trúc bắt mắt hợp với thị trường vân vân, tuy có dùng computer nhưng đây là sự thông minh của bạn, của con người vì bạn dùng trí óc phán xét- quyết định -chọn lựa trên computer để phác họa. Giờ đây trí thông minh nhân tạo là những software sẽ thế trí óc của bạn làm chuyện này; có nghĩa là những bộ óc nhân tạo này sẽ thế bộ não bạn điều khiển computer.

Phát minh này thật ra bị lãng quên trong thập niên 1980s. Những công ty khổng lồ điện toán như IBM ứng dụng nó và thấy rõ hiệu năng đáng kinh ngạc của “trí thông minh nhân tạo” như vừa nói ở trên

Chúng ta thấy ứng dụng hiện nay của AI nằm ở khả năng những chiếc xe tự lái, ngay cả khả năng nhận ra giọng nói hay nhận ra khuôn mặt đang ứng dụng hiện nay trên facebook. Làm việc tại nhà sẽ có sự giúp đỡ về những bộ não nhân tạo thế con người trong tạo thành sản phẩm.
Khi Mỹ sở hữu được những thế hệ những “bộ não nhân tạo AI ” này thì họ không cần đưa các hãng điện toán qua tận Trung Cộng để thuê mướn các kỹ sư Trung Hoa với giá lương thấp. AI sẽ giúp Mỹ có nhiều sản phẩm giá thành hạ và tinh xảo hơn cùng ít hư hao hơn.

3- SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KỸ THUẬT IN 3 CHIỀU- 3D Printing
Định nghĩa ban sơ của 3D Printing là kỹ thuật ứng dụng trong chế tạo, sự xử lý một thành phẩm qua 3 chiều của vật thể thông qua những thông số từ máy điện toán. Tiến trình xử lý 3D là một tiến trình đồ họa điện toán khối vật thể nay được chia ra nhiều lớp phẳng kế tiếp rất mỏng chồng nhau cho đến khi thành hình dạng của vật thể.

Kỹ thuật 3D printing rất phong phú, nó có khả năng kiến tạo bất cứ thứ gì, từ nghệ thuật tới đồ chơi ngay chuyện nó phác hoạ ra các bộ phận cơ thể giả cho con người như tai, mũi, da, gân… cho con người
Trong quá trình làm ra thành phẩm hiện nay, thật ra còn nhiều vấn đề khá bất hợp lý, uổng phí vật chất, thời gian trong chờ đợi.

Chúng ta lấy ví dụ thô thiển nhất- nào gọt một thanh gỗ, nào đẽo một khối sắt, nào xay nào chà để có vật liệu trước khi bị uốn nắn thành một sản phẩm dùng được.

Chuyện này là nguyên nhân tạo ra sự tăng giá thành do hao phí thời gian cùng nguyên vật liệu mà ra. Nói theo cách khác, càng nhiều phức tạp thì càng nhiều công lao động và nỗ lực đầu tư vào trong một sản phẩm
Hiện nay kỹ nghệ 3D Printing có thể tạo ra các dụng cụ cơ khí, trang bị y khoa, trang sức và ngay cả áo quần, thậm chí còn tạo kiểu cho nhiều robot mới khác.
Khoảng cuối thập niên này, nền kinh tế Hoa kỳ sẽ có thừa kỹ thuật 3D tân tiến sản xuất những mặt hàng trước đây từng đầu tư nhiều công lao động trong nghề nghiệp.

Không còn là chuyện viễn tưởng, vào thập niên tới kỹ thuật 3D Printing sẽ nắm phần chủ động trong xây dựng hàng loạt nhà cửa, thiết bị điện tử v v… với giá thành hạ hơn nếu so làm tại Trung Cộng mang về lại Mỹ.
Trong thập niên tới Hoa kỳ sẽ thấy sự xuất hiện của nhiều vật liệu làm từ kỹ nghệ cao cấp như carbon nanotubes,(sợi carbon siêu nhỏ), ceramic-matrix nanocomposites, (sợi carbon thế hệ mới) . Tựu trung, chúng sẽ cho ra đời những sản phẩm mới có tính chịu đựng lâu dài, bền với năng suất rất cao so với hiện nay.

Dù cho Trung Cộng có được kỹ thuật tự hành từ robotics, Trí Thông Minh Nhân AI và kỹ thuật 3D chăng nữa, quan niệm tải nguyên liệu tới Trung Hoa làm xong chở lại qua Mỹ sẽ không còn hiện hữu

Kết Luận

Trung Cộng hiện nay có nhiều lý do để lo âu cho nền kinh tế với vô số công xưởng chế xuất đại công xửong xử dụng nhân công đại loạt như hiện nay. Nền kinh tế quá nóng của dạng này hiện nay đã có đáp số. Khi nền kinh tế Mỹ đang ý thức “về ngưồn” cộng với những phát minh kỹ thuật cao cấp nhất trong đó có 3 kỹ thuật Robotics, AI và 3D như vừa nói ở trên là một trong những nguyên do làm nguyên do làm kinh tế của Bắc Kinh đang khựng lại

Trung Hoa đang lo ngại các khu vực chế xuất sẽ trở lại Mỹ chậm lắm là trong thời gian tới sau bầu cử 2016 này.

Chúng ta tiên liệu sẽ có những công việc ra đi từ Mỹ nhưng không trở lại vì những công việc đó không còn tồn tại nữa do nền sản xuất mới Hoa Kỳ đang lên lại với sự phát triển 3 ngành kỹ thuật hiện đại vừa trình bày ở trên.
Kỹ thuật mới đang tạo ra hàng loạt công việc mới, mức lương cao hơn tại Mỹ.Thời gian này chúng ta sẽ chứng kiến ngày tàn của nền kinh tế HÀNG “DỔM” của Bắc Kinh.

Đinh hoa Lư

Lệnh miệng

Lệnh miệng

FB Nguyễn Thông

7-1-2017

Ảnh cụ Trương Vĩnh Ký. Nguồn: internet

Mấy bữa ni, thiên hạ đồn rầm chuyện cuốn “Trương Vĩnh Ký – nỗi oan thế kỷ” của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu bị cấm lưu hành trên đường sách Sài Gòn, xuất phát từ một cái lệnh miệng.

Tôi chưa rõ đầu đuôi việc này (có bị cấm hay không) nhưng thiên hạ đồn ran như thế mà chả thấy nhà chức việc có trách nhiệm nào lên tiếng, chứng tỏ các bố chỉ ăn ngủ là giỏi, khi có việc cần đến thì lẩn như trạch, mất hút con mẹ hàng lươn.

Nếu thực sự có cấm, thì ai ra lệnh cấm, vì sao cấm. Một cuốn sách nói chung, một công trình của nhà nghiên cứu có uy tín nói riêng, để được ra đời thường phải trải qua rất nhiều khâu thẩm định, xét duyệt, cho phép, cấp phép, vậy khi nó đã thành sản phẩm hoàn chình rồi, lại cấm là cớ làm sao. Làm gì cũng phải có pháp luật, chứ muốn cho xuất bản thì xuất bản, muốn cấm thì cấm, thứ đâu có thứ lạ đời, nhố nhăng thế.

Phải làm rõ thứ lệnh miệng ấy xuất phát từ kẻ nào. Tất cả phải được rõ ràng theo pháp luật. Chấm dứt ngay cái thói lệnh miệng ba vạ, tào lao; đến khi cần truy ra lại không biết là ai, cứ đổ qua đổ lại, lờ tít tìn tịt, không biết con ma nào.

Vụ cấm sách của cụ giáo sư Đầu làm tôi nhớ đến vụ Z30 hồi năm 1983. Tự dưng có một thứ chỉ thị, bảo là tối mật, chỉ đạo bí thư các thành phố lớn phải đánh tư sản, tịch thu nhà cửa, tài sản của những gia đình có nhà 2 tầng trở lên (2 tầng ở miền Bắc, tức là 1 trệt 1 lầu ở miền Nam). Sau này rất nhiều bài viết, kể cả sách của ông Đoàn Duy Thành, lời kể của ông Nguyễn Văn An… đều tường thuật vụ này, nhưng đều nói đó là lệnh miệng. Lệnh miệng là thế đéo nào, lời nói gió bay, phải có chỉ thị cụ thể từ ai đó thì các bố mới dám làm chứ. Mà giả dụ lệnh miệng có thực, thì phải của kẻ rất có thế lực, nó nói mà không làm là nó giết, thì mới sợ thế chứ. Các bố biết tỏng tòng tong đó là kẻ nào, lại còn dập dờn như lúa xuân trước gió, nửa kín nửa hở. Sao không nói toẹt ra. Phải chỉ mặt đặt tên những kẻ làm hại đất nước cho dân chúng lên án, cho nó chừa cái thói tùy tiện làm khổ dân chứ không thể nhân nhượng, bao che cho chúng mãi được.

Đề nghị các nhà nghiên cứu, nhà báo tìm hiểu cặn kẽ, phanh phui kẻ cụ thể nào đã ra cái lệnh miệng khốn nạn Z30 cướp đoạt trắng trợn tài sản mồ hôi nước mắt của nhân dân. Ai chưa rõ chuyện này, cứ đến hỏi gia đình ông vua lốp Nguyễn Văn Chẩn, gia đình ông Núi Điện ở Hà Nội, hoặc hỏi nhà văn Trần Huy Quang, cùng rất nhiều người còn sống là rõ ngay.

Tôi không bao giờ tin chuyện có lệnh miệng. Kẻ nắm quyền khi biết mình tà đạo thì mới sợ sự công khai chứ thực ra nó cũng biết không có văn bản chỉ thị cụ thể thì cấp dưới nó không thi hành. Bọn chúng bao che, giấu cho nhau thôi.

Theo tôi, mọi thứ lệnh miệng đều không có giá trị. Người dân cần dứt khoát với mọi thứ lệnh miệng, không có gì phải sợ nó cả.

Chảy máu chất xám – bao giờ chấm dứt?

Lan Hương, phóng viên RFA

Sinh viên cầm bằng cử nhân mới nhận tại Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 2014.

Sinh viên cầm bằng cử nhân mới nhận tại Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 2014.

AFP photo
 Nhiều bạn trẻ Việt Nam không muốn công tác trong nước mà tìm cách định cư ở nước ngoài để sinh sống, làm việc.

Số liệu thống kê mới nhất của bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy hiện có khoảng 60.000 du học sinh Việt Nam trên khắp thế giới. Trong số này có đến khoảng 70% không trở lại Việt Nam để làm việc mà quyết định phát triển sự nghiệp của bản thân nơi xứ người.

Về tình trạng này, chuyên gia kinh tế- tiến sĩ Lê Đăng Doanh, lý giải nguyên nhân:

Tình hình chảy máu chất xám và những học sinh giỏi ở Việt Nam khi đi học ở nước ngoài thì tỷ lệ quay trở lại Việt Nam là thấp. Lý do thì có thể có nhiều, có thể nêu vài lý do như sau: thứ nhất là tiền lương cho người trí thức quá thấp, tiền lương cho một ông tiến sĩ ở nước ngoài học về thì cũng chỉ khoảng 3,5 – 4 triệu, không thể đủ sống ở những thành phố như Hồ Chí Minh và ở Hà Nội. Đấy là một lý do.

Việc quản lý tiền lương không thể áp dụng được cho tất cả mọi nơi bởi vì nguồn nhân sách không cho phép.
– Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

Cũng có những người thì sẵn sàng chấp nhận tiền lương thấp, họ vẫn sẵn sàng làm việc, nhưng lý do thứ hai có thể nghiêm trọng hơn, đó là khả năng phát triển và phát huy kiến thức và tài năng của họ là thấp. Có những trường hợp những người tiến sỹ đó về không được phân công, không được tận dụng, không được cho phát huy năng lực để giảng dạy. Có người thì được phân công làm thư ký khoa, tức là một chức hành chính chỉ nhận công văn giấy tờ, thế rồi những người đó sau đó cũng bỏ đi. Thứ ba, là điều kiện vật chất cũng như điều kiện nghiên cứu chưa đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu của họ. Phòng thí nghiệm thì chưa được trang bị đáp ứng nhu cầu, còn tài liệu và cách tiếp cận thông tin, khả năng đi dự các hội thảo nước ngoài, tiếp xúc các hội nghị quốc tế cũng hạn chế.

Nhà hoạt động xã hội, tiến sĩ Nguyễn Quang A bổ sung thêm rằng Việt Nam cũng như các nước chậm phát triển khác ở châu Á đều bị nạn chảy máu chất xám gây ảnh hưởng rất nhiều. Nguyên nhân một phần còn là do những người có tài không được trọng dụng.

Thực tế ở các nước phát triển, chính phủ luôn khuyến khích những người tài giỏi và tạo điều kiện cho họ phát triển thêm kỹ năng, thậm chí là khuyến khích những người như vậy nhập cư vào đất nước của họ.

Chủ trương chưa thành công

000_HW88V-400.jpg
Sinh viên Việt Nam đi ngang một tấm áp phích trong đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội ngày 09 tháng 11 năm 2016. AFP photo

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh ghi nhận chính phủ Việt Nam đã nhận rõ được tình trạng chảy máu chất xám và đưa ra nhiều chủ trương, chính sách để thu hút nhân tài, đưa ra những đặc cách hấp dẫn hơn chẳng hạn như mức lương cao vượt hơn hẳn mức bình thường, sẵn sàng trả lương ngàn đô cho những nhân tố tài năng, hay những người từng du học nước ngoài. Tuy nhiên việc thực hiện những biện pháp như thế đến nay có thể nói là chưa thực sự hiệu quả bởi nguồn ngân quỹ của Nhà nước hạn hẹp; trong khi đó thì quá trình để phát triển hệ thống phục vụ nghiên cứu cho nhân tài đòi hỏi nhiều thời gian:

Việc quản lý tiền lương không thể áp dụng được cho tất cả mọi nơi bởi vì nguồn nhân sách không cho phép. Điều quan trọng là khả năng phát triển, tức là những người đó phải được sử dụng vào đúng vị trí, tạo điều kiện có phòng thí nghiệm, có cơ sở nghiên cứu, có cộng tác viên, có một môi trường nghiên cứu khoa học dân chủ, cầu thị, tôn trọng ý kiến khác nhau, không quy chụp, thành kiến với những người có ý kiến khác mình. Tất cả những cái đó cần phải có thời gian, và quan trọng nhất là cần phải có người đứng đầu đơn vị khoa học đó có trình độ, thái độ cầu thị, ủng hộ tranh luận dân chủ, ủng hộ ý kiến đa chiều. Đó là điều quan trọng hơn rất nhiều.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng có nhận định về các chủ trương, chính sách khuyến khích nhân tài của chính phủ Việt Nam:

Việt Nam nói thì nhiều nhưng mà họ làm thì không được mấy cả. Chúng ta nhìn thấy từ thời Hồ Chí Minh, những người tài như Trần Đại Minh, Lý Đức Thảo, theo phục vụ cho chính quyền thì hoạt động cũng luôn cầm chừng. Những người có tư tưởng độc lập, nhất là về vấn đề xã hội. Đấy là sáu, bảy chục năm trước cũng như thế. Cho đến thời gian vừa rồi họ cũng hô hào nhiều nhưng mà bản thân nhà nước về cơ bản không làm được cái gì cả. Cải thiện môi trường là một việc, họa chăng ra thời gian vừa qua hoặc trong thời gian tới thì khu vực tư nhân là khu vực có thể thu hút nhân tài. Chứ còn bản thân khu vực nhà nước với một chính quyền như thế này thì tôi nghĩ không thể thu hút được nhân tài bởi vì những nhà khoa học người ta không quen với kiểu của các quan chức nhà nước là, thường ăn bổng lộc là chính chứ không phải bằng thù lao hay lương.

Mong mỏi gì trong tương lai

Trước vấn nạn chảy máu chất xám của Việt Nam, các chuyên gia chỉ ra rằng rằng cần phải có những chuyển biến, đổi mới trong chính sách đãi ngộ nhân tài của Chính phủ, và những thay đổi trong hệ thống doanh nghiệp trong nước để biến Việt Nam thành một môi trường thực sự hấp dẫn, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho những con người tài năng. Ông Lê Đăng Doanh đề ra một số gợi ý:

Nhà nước và doanh nghiệp phải vận dụng khoa học công nghệ nhiều hơn, vận dụng các chất xám của các chuyên gia, nhà trí thức nhiều hơn, do đó có thể sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa.
– Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

Hiện nay đã có một số nhà khoa học về nước và thành lập một số doanh nghiệp tư nhân như các công phần mềm hay các công ty về khoa học. Ví dụ như tiến sĩ Nguyễn Thành Mỹ đã thành lập công ty Mỹ Lan hoạt động rất có kết quả ở Trà Vinh, rồi ở Hà Nội thì có công ty cổ phần phích nước Rạng Đông đã thiết lập một trung tâm nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ và đã thu hút được nhiều giáo sư, các chuyên gia trong nước và đã mời các giáo sư Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc sang làm việc.

Tôi nghĩ rằng trong thời gian tới đây, yêu cầu phải phát triển một cách bền vững, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động sẽ đòi hỏi nhà nước và doanh nghiệp phải vận dụng khoa học công nghệ nhiều hơn, vận dụng các chất xám của các chuyên gia, nhà trí thức nhiều hơn, do đó có thể sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa.

Môi trường làm việc là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc quyết định nơi sinh sống, công tác của đội ngũ nhân tài. Nhận thấy môi trường làm việc ở Việt Nam chưa thực sự thân thiện, cởi mở để thu hút nguồn chất xám, chuyên gia Lê Đăng Doanh đã cho đó là một điểm yếu mà chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam cần xem xét để thay đổi tình hình trong tương lai.