Lời cầu nguyện được nhậm lời: Sophia Forchas, người sống sót sau vụ xả súng tại Annunciation, cuối cùng đã trở về nhà

YouTube player

Sophia Forchas, 12 tuổi, cuối cùng đã được về nhà — sau 57 ngày nằm bệnh viện vì những vết thương nghiêm trọng do vụ xả súng chết người tại Nhà thờ Công Giáo Truyền tin ở Minneapolis trong Thánh lễ đầu tiên tại trường trong năm khiến hai học sinh thiệt mạng.

Sophia đã nhận được lời tạm biệt trìu mến bên ngoài bệnh viện vào ngày 23 tháng 10.

Trong một tuyên bố được đăng trên trang GoFundMe của gia đình, cha mẹ của Sophia, Tom và Amy Forchas, đã viết: “Hôm nay đánh dấu một trong những ngày phi thường nhất trong cuộc đời chúng tôi! Con gái yêu quý của chúng tôi, Sophia, sắp trở về nhà!!”

Bày tỏ lòng biết ơn đối với đội ngũ bác sĩ đã tận tụy cứu sống con gái mình, hai vợ chồng viết: “Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bạn. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên sự chăm sóc tận tình của các bạn đã giúp con bé vượt qua. Sự tận tụy của các bạn đã giúp chúng tôi vượt qua.”

Sophia vẫn còn một chặng đường dài phía trước với “liệu pháp ngoại trú”, nhưng cha mẹ cô bé cho biết “trái tim chúng tôi tràn ngập niềm vui khôn tả khi chứng kiến giọng nói của con cải thiện từng ngày, tính cách của con lại tỏa sáng, và khả năng đi lại, bơi lội, thậm chí là rê bóng rổ của con. Mỗi bước đi của con là một minh chứng sống động cho ân sủng vô biên của Chúa và sức mạnh kỳ diệu của lời cầu nguyện.”

Đức Tổng Giám Mục Bernard Hebda của Tổng giáo phận St. Paul và Minneapolis nói với tờ Register:

Tôi cùng cộng đoàn Truyền Tin mừng vui mừng Sophia Forchas trở về nhà. Thật cảm động khi cô ấy có thể cùng chúng tôi tham dự buổi đọc kinh Mân Côi hàng ngày lúc 9:00 tối qua bên ngoài nhà thờ. Cô ấy và cha cô ấy cảm ơn cộng đoàn vì những lời cầu nguyện mà họ đã nhận được trong suốt thời gian Sophia nằm bệnh viện và tại trung tâm phục hồi chức năng. Xin hãy cùng tôi tiếp tục cầu nguyện cho sự hồi phục của tất cả những người bị ảnh hưởng bởi thảm kịch tại Annunciation, và đặc biệt là cho gia đình và người thân của Harper Moyski và Fletcher Merkel.

Trong buổi họp báo ngày 5 tháng 9, bác sĩ phẫu thuật thần kinh Walt Galicich thuộc Trung tâm Y tế Quận Hennepin nói với các phóng viên rằng khi điều trị chấn thương cho Sophia, ông sẽ cố gắng “xuyên qua phần não bình thường để tiếp cận” và có khả năng gây ra nhiều tổn thương hơn. Do áp lực trong não quá lớn, khả năng sống sót của Sophia là cực kỳ thấp.

Bác sĩ phẫu thuật thần kinh đã dẫn đầu một nhóm thực hiện phẫu thuật cắt hộp sọ giải áp, cắt bỏ nửa bên trái hộp sọ của cô để giảm áp lực trong não.

Galicich đã nói với các phóng viên trong nước mắt vào tháng 9 rằng: “Nếu lúc đó bạn nói với tôi rằng, 10 ngày sau, chúng ta sẽ đứng đây với một tia hy vọng, tôi sẽ nói, ‘Phải có phép màu mới làm được’“.

Mẹ của Sophia, y tá nhi khoa làm việc tại khoa chăm sóc đặc biệt của bệnh viện nơi các nạn nhân được đưa đến, không hề biết rằng trường học của con mình đã bị tấn công vào ngày định mệnh đó. Ban đầu, bà không hề biết rằng một trong ba bệnh nhân là con gái mình.

Em trai của Sophia cũng chứng kiến vụ xả súng ở trường học ngày hôm đó; và nhờ ơn Chúa, em trai không hề hấn gì, mặc dù vẫn đang phải chịu đựng nỗi đau do sự kiện kinh hoàng đó gây ra và những vết thương nghiêm trọng của chị gái em.

Sau 57 ngày nằm bệnh viện, bác sĩ Galicich đã ôm chặt bệnh nhân nhỏ của mình khi cô bé bước ra khỏi Trung tâm Y tế Quận Hennepin trong tiếng reo hò và vỗ tay của gia đình và bạn học. Ngay cả cảnh sát trưởng thành phố cũng có mặt, đưa cô bé đi dạo quanh thành phố trên chiếc limousine dài để kỷ niệm sự kiện này.

Phát biểu với tờ The Minneapolis Star Tribune, Cảnh sát trưởng Brian O’Hara gọi sự trở về của Sophia là “một phép màu”.

Cha mẹ Tom và Amy vô cùng xúc động cũng ghi nhận tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong quá trình chữa lành của con gái họ. Họ viết trong tuyên bố: “Những lời cầu nguyện đó đến từ gia đình, bạn bè và vô số tâm hồn trên khắp thế giới; nhiều người trong số họ chưa từng gặp Sophia, nhưng đã nâng đỡ tinh thần con bé bằng tình yêu thương vô điều kiện. Những lời cầu nguyện của quý vị là nguồn an ủi, hy vọng và chữa lành cho cả gia đình chúng tôi. Chúng tôi tin chắc rằng Chúa đã lắng nghe từng lời cầu nguyện của mọi người.”

Gia đình Forchas đã gửi lời chia buồn đến các gia đình có con em thiệt mạng trong vụ xả súng, nói rằng: “Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện cho những người đã mất mạng một cách bi thảm trong ngày đau thương đó. Cầu mong họ được sống mãi trong ký ức.”

“Chúng tôi cũng xin chia buồn cùng những người đã bị thương và mang những vết sẹo vĩnh viễn, và gia đình cùng những người thân yêu đã mãi mãi thay đổi,” vợ chồng Forchas tiếp tục. “Nguyện xin Chúa ban ơn chữa lành, an ủi và bình an cho tất cả những ai đang đau buồn. Với những ai đang chai sạn trong tuyệt vọng, nguyện xin ân sủng của Chúa Thánh Thần làm họ mềm lòng. Chúng tôi cầu xin Chúa Ba Ngôi đổ đầy lòng trắc ẩn và tình yêu thương vào thế giới này.”


 

FAA giảm 10% chuyến bay tại 40 phi trường lớn vì chính phủ đóng cửa

Ba’o Nguoi-Viet

November 5, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Cơ Quan Quản Trị Hàng Không Hoa Kỳ (FAA) cho biết sẽ giảm 10% số chuyến bay tại 40 phi trường lớn trong thời gian chính phủ đóng cửa vì thiếu nhân viên kiểm soát không lưu, theo AP hôm Thứ Tư, 5 Tháng Mười Một.

Sự cắt giảm này, bắt đầu từ Thứ Sáu, 7 Tháng Mười Một, sẽ ảnh hưởng hàng ngàn chuyến bay, bao gồm máy bay chở hành khách, vận tải, và tư nhân, trong tổng số 44,000 chuyến bay mà FAA điều hành hàng ngày.

Ông Bryan Bedford (phải), giám đốc FAA, và Bộ Trưởng Giao Thông Sean Duffy tại cuộc họp báo hôm Thứ Tư, 5 Tháng Mười Một, thông báo giảm 10% các chuyến bay. (Hình: Tasos Katopodis/Getty Images)

FAA không cho biết chính xác phi trường nào sẽ bị ảnh hưởng, nhưng nói rằng biện pháp này sẽ được thực hiện cho tới khi không còn cần thiết nữa.

“Tôi không biết trong 35 năm làm việc trong ngành hàng không của tôi có bao giờ xảy ra tình trạng này hay không, khi mà chúng ta phải đưa ra biện pháp như vậy,” ông Bryan Bedford, giám đốc FAA, nói tại một cuộc họp báo.

Nhân viên kiểm soát không lưu thời gian qua phải làm việc không có lương kể từ ngày 1 Tháng Mười, và hầu hết họ phải làm việc sáu ngày mỗi tuần và bị bắt buộc làm thêm giờ. Một số nhân viên than phiền rằng giống như họ phải làm hai việc mà không có tiền chăm sóc cho con cái hoặc mua xăng. Thiếu nhân viên cũng làm nhiều chuyến bay bị hoãn tại nhiều phi trường của Mỹ.

Ông Bedford cũng nói rằng nhân viên làm việc dưới áp lực như vậy, cộng với các báo cáo về an toàn bay, làm họ ngày càng nản chí. Ông cũng nói ông và Bộ Trưởng Giao Thông Sean Duffy không muốn đợi đến lúc tình hình trở nên trầm trọng đến mức khủng hoảng.

“Chúng tôi không đợi đến lúc các vấn đề an toàn xảy ra trong khi có nhiều điều cho thấy chúng tôi phải hành động ngay để tránh tình trạng xấu xảy ra,” ông Bedford nói. “Hệ thống của chúng ta rất an toàn hôm nay và sẽ rất an toàn ngày mai. Nếu áp lực tiếp tục xảy ra ngay cả khi chúng tôi đưa ra những biện pháp này, chúng tôi sẽ có thêm biện pháp khác.”

Ông Bedford và Bộ Trưởng Duffy nói họ sẽ gặp các lãnh đạo hàng không vào chiều Thứ Tư để quyết định việc giảm các chuyến bay như thế nào trước một danh sách các phi trường đã được chọn, và sẽ được công bố vào Thứ Năm.

Hãng AP có gởi câu hỏi liên quan việc cắt giảm chuyến bay đến các hãng hàng không lớn, bao gồm Delta, United, và American Airlines, nhưng chưa được hồi âm. (Đ.D.)


 

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

13/11/2010

  • Nguyễn Hoàng

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

Trong Thay Lời Tựa cho cuốn Hơn Nửa Đời Hư, in năm 1992, ông Vương Hồng Sển cho biết ông có tánh ham mê đọc sách từ nhỏ. Ông gọi “sách là bạn cố tri trung thành”, ông coi cuốn sách là của riêng, “y như vợ nhà, và nếu thuở nay không đời nào ai cho mượn vợ, thì xin các bạn hiểu giùm vì sao tôi ít cho mượn sách.” Bởi vì chính ông, ông cũng không bao giờ mượn sách của ai, lý do theo ông, sách mượn phải đọc hối hả để mau trả, mà đọc hối hả thì mất thú. Khi nào lựa được một cuốn sách hay thì giá nào ông cũng phải mua cho bằng được. Ông viết: “Khi đọc và lúc cao hứng, tôi thường ghi lại bên lề trang sách những cảm tưởng nhứt thời, không khác được tỉ tê tâm sự với một bạn cố giao bằng xương bằng thịt.”

Về cách đọc sách, ông cho biết ông đọc chậm rãi, không tiếc thì giờ bỏ ra cho việc đọc sách. Nhưng cũng có khi ông đọc “ngấu nghiến còn hơn bồ câu ra ràng nuốt mồi không kịp đút,… y như chó gặm xương, như mèo mới sanh được mẹ nhường mồi dạy ăn, vừa ngừ nghè sợ mất mồi, vừa gầm gừ tiếng rên nho nhỏ vì khoái trá và vì sợ miếng ngon chóng hết hoặc anh chị nào đồng lứa sắp giựt phỏng trong mồm.” Ông viết “cũng vì tật ham đọc sách hay, đọc quên ăn, quên ngủ, thậm chí có khi quên cả phận sự buồng the, cho nên chỉ tồn đã hai phen bị giựt vợ, bị cắm sừng mà không tởn.” [Sđd. Tr 7]

Ông Vương Hồng Sển có thú chơi sách đặc biệt. Mỗi khi có một cuốn sách mới xuất bản mà ông quan tâm, ông luôn luôn mua 2 cuốn. Ông đánh số và ghi vào sổ bộ hẳn hoi, theo cách thức của thư viện, để dễ tra cứu. Một cuốn để lưu trữ, trưng bày trong hàng chục tủ sách đặc biệt có cửa kính, để giữ cho cuốn sách luôn mới. Còn cuốn thứ hai thì ông dùng để đọc. Mọi người thường ngồi ghế hoặc nằm trên giường, trên ghế trường kỷ, ghế sô-pha để đọc sách. Riêng ông Vương có thói quen nằm võng đọc sách. Ông nói, vừa đu đưa chiếc võng, vừa đọc sách, vừa nghiền ngẫm, ông cảm thấy là rất thú vị.

Ông Vương lưu trữ gần đủ các ấn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du, in ở trong nước và ở nước ngoài, kể cả các bản dịch ra tiếng ngoại quốc. Cuốn Thú Chơi Sách của ông xuất bản năm 1962 liệt kê có tất cả 26 ấn bản Truyện Kiều đang được lưu trữ tại “thư viện” của ông vào năm đó.

Ông có thói quen đánh máy các bản thảo với cái máy chữ cũ kỹ sắm hồi thời Tây. Ông ít khi viết nháp bằng tay.

*****

Có thể nói, ngoài việc mê sách, chơi sách, ông Vương Hồng Sển còn là người chịu khó sưu tập những bài báo và các tài liệu liên quan đến những nhân vật đã nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà ông quan tâm. Ông mở một hồ sơ cá nhân cho mỗi người. Khi cần tiểu sử, thành tích và sự nghiệp của một người nào đó thì ông có tài liệu ngay tại nhà. Từ nhiều năm, ông sưu tầm và thâu thập những phương ngữ Miền Nam, mỗi từ ghi chép vào một phiếu cứng, xếp theo thứ tự ABC. Nhờ vậy mà khi ông qu‎yết định biên soạn cuốn Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam thì công trình của ông xem gần như hoàn tất.

Trong cuốn Hơn Nửa Đời Hư, ông Vương thổ lộ đời của ông, cái gì cũng cũ, cũng vá víu, cũng tạm bợ: nhà, thì mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, nhưng ở cho đến nay; vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp. Về sách vở, đĩa hát và đồ cổ, … thì càng đúng hơn. Ông viết:

“Đồ cổ, xem lại hết sức chung tình với tôi. …. Mua tháng này một cái dĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười họa, gặp, mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ: dầm, bàn, tống, tốt. Dầm: dĩa nhỏ; bàn: dĩa lớn; tống: chén lớn để dầm trà; tốt hay quân: chén để uống trà. Duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu…

Còn sách, những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng “liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ “cho phép để trong nhà”, xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thế thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.

Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp củm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quí, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gã chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm mùi tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ…”* [sđd, tr. 655-656]

Tôi thích sự thành thật của ông Vương. Nó cho thấy đời ông gắn liền với những gì xưa, cũ và «bất hợp lệ…”.

Trong cuốn Sài Gòn Tạp Pín Lù, ông Vương viết: “…Sài Gòn Năm Xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt ‘khảo cứu’ chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài Gòn Năm Xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm.” (Biểu viết lại, nhưng biết sống bao lâu mà làm?) – (Sđd tr. 95).

Thật ra, ai đọc những trang sách của ông Vương – bất cứ cuốn nào, chứ chẳng riêng gì cuốn Sài Gòn Năm Xưa – đều thấy ông Vương đúng là người viết “không khoa học, không trật tự, và thường lập đi lập lại”,…. Trong mục Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình (sđd tr. 94), ông Vương biện minh rằng bản tánh ông xưa nay “không gò gẫm, không ‘hành văn’ và chỉ viết như nói thôi. »

Nói là tự nhận lỗi, nhưng thật ra là ông Vương tự biện minh. Và rõ ràng, càng biện minh ông càng cho thấy ông coi thường người đọc khi ông viết: «Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe, và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng ‘cố tình không muốn tránh’.”

Sự khiêm tốn của ông Vương có một, nhưng lòng kiêu căng của ông có tới mười. Trước 1975, tôi có đôi lần gặp ông Vương. Và mặc dù không thích cách viết của ông, tôi vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng ông. Tôi không thích cách viết của ông: dài dòng, lê thê, đầy tĩnh từ và lập lời lập ý như một bà già khó tính khi dạy dỗ la rầy con cháu! Tôi thường bỏ giữa chừng những trang sách của ông. Tôi nghĩ, – và có lúc đã nói với anh Trần Phong Giao là nếu ông Vương cho phép tôi biên tập những cuốn sách của ông – ví dụ cuốn Sài Gòn Năm Xưa, 330 tr., tôi có thể viết gọn lại chừng 200 tr. mà không sợ phản bội tác giả. Trần Phong Giao đồng ý, nhưng anh nói, cậu không nên đụng vào ông ấy, đến như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bảo hãy đứng xa ông Vương ra một bước! Liệu cái thần hồn cậu! Tôi kể lại chuyện này chỉ muốn nói một điều, người đọc sách Sài Gòn dù trân trọng kiến thức [về hiểu biết của một “người chơi cổ ngoạn”] của họ Vương, vẫn nhận ra tính chất thiếu khoa học, vô trật tự và sự lập đi lập lại nhiều lời với chỉ một ý… của ông, chứ không cần phải chờ đến sau tháng Tư 1975, “Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng…” mới nhận ra điều ấy nơi ông.

Ông không thể coi thường những người đọc sách ông trong nửa miền Nam của đất nước trước đây. Người đọc yêu mến tài năng “khảo cổ” của ông, quý phục kinh nghiệm trường đời của ông, kính trọng tuổi tác của một bậc lão thành trong làng văn trận bút của ông… nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không nhìn ra sự lê thê, luôm thuộm, rề rà, không trong sáng trong bút pháp của ông. Dù sao, tôi nghĩ, nên đọc những trang sách của ông Vương với một nụ cười.

Hy vọng được nghe nhiều tiếng nói khác của người đọc chúng ta. [NXH]

* Ông Vương Hồng Sển là hậu duệ người Trung Hoa, lưu dân Triều Châu, đến định cư tại Miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 17. Ông sanh tại Sốc Trăng [chữ Sốc Trăng, ông Vương luôn viết có dấu ^] ngày 27 tháng 9 âm lịch, Nhâm Dần (1902), nhưng trên giấy thế vì khai sanh được ghi ngày 4-11-1904. Tên của ông theo tiếng Hán-Việt là Vương Hồng Thịnh. Người Hoa đọc Thịnh là Sển. Trong đơn xin thi thiết lập giấy thế vì khai sanh, gia đình ghi là Vương Hồng Sển.

Năm 1923, ông Vương tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Ra trường, ông làm công chức tại nhiều nơi, Sài Gòn, Sốc Trăng, Cần Thơ. Chức vụ cuối cùng trong đời công chức của ông là quản thủ bảo tàng viện Blanchard de la Brosse (trong khuôn viên Thảo cầm viên Sài Gòn) từ năm 1948 đến 1964.

Ông Vương Hồng Sển từ trần ngày 9-12-1996 tại Sài Gòn, hưởng thọ 92 tuổi, được an táng tại Sốc Trăng.

Ông đã sống gần trọn chiều dài của thế kỷ 20 và là tác giả của một số tác phẩm tiêu biểu:

– Sài Gòn Năm Xưa, in lần đầu 1960 [226 tr.], tái bản năm 1969 [328tr.]
– Thú Chơi Sách, 1960 [167tr.]
– Hồi Ký 50 Năm Mê Hát, 1968 [254tr.]
– Phong Lưu Cũ Mới, 1970 [310 tr.]
– Chuyện Cười Cổ Nhân, 1971 [253 tr.]
– Hiếu Cổ Đặc San, gồm 9 cuốn về đồ sứ men lam Huế, 1970-1972, nhưng chỉ in được có 6 cuốn.
– Hơn Nửa Đời Hư, 1992 [684 tr.]
– Sài gòn Tạp Pín Lù, 1992 [160 tr.]
– Nửa Đời Còn Lại, 1996 [434 tr.]
– Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam, 1994.

https://www.voatiengviet.com/a/sach-cua-vuong-hong-sen-11-13-2010-107813559/916917.html


 

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ cuộc đời và tác phẩm

– Nguyễn & Bạn Hữu

July 10th, 2020

Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long, là một nhà văn miền Nam. Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận định: Trong 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam thời kỳ trước 1975, có ba người gốc Huế: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Người thứ tư gốc Bắc di cư: Trùng Dương. Chỉ có Nguyễn Thị Thụy Vũ là dân Nam bộ rặt. Văn chương của bà cũng đặc sệt chất Nam bộ, từ ngôn phong, từ ngữ sử dụng cho tới lời ăn tiếng nói, tính cách, hành vi của các nhân vật.

Năm 1965 bà lên Sài Gòn dấn thân vào nghiệp viết văn, bên cạnh đó còn kiêm việc dạy tiếng Anh cho những cô gái bán bar hoặc lấy Mỹ.

Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, Thụy Vũ đã xuất bản 10 tác phẩm gồm 3 tập truyện ngắn: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông; và 7 tiểu thuyết: Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu (Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1971), Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.

Sau 1975, Nguyễn Thị Thụy Vũ không thể tiếp tục cầm bút do tác phẩm bị quy là đồi trụy, bà phải bươn chải với những công việc khác để nuôi đàn con, trong đó có một người sống đời thực vật. Bà từng buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê… những công việc mà trước đó không ai hình dung nhà văn nữ này có thể kham được.

Hiện nay đời sống của bà tương đối ổn định khi bà về Bình Phước dựng nhà trên mảnh đất cha mẹ để lại. Ðó là sau khi bà nhận được sự giúp đỡ từ những bạn văn cũ qua bài viết của một bạn văn mô tả cuộc sống lây lất khốn khó của mấy mẹ con, vào đầu thập niên 2000. Bà đang sống với gia đình con trai, là một người tu tại gia chuyên việc hộ niệm, và cùng với họ là cô con gái út ngoài bốn mươi tuổi vẫn sống đời thực vật.

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ

Về cha của các con bà, nhà thơ Tô Thuỳ Yên, bà cho biết: Ổng đi học tập cải tạo. 13 năm ổng đi học tập, tôi có đi thăm ông một lần duy nhứt. Sau đó ổng đi Mỹ với gia đình… (theo NT Kim Cúc)

Về chi tiết này, nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong một bài viết nhan đề “Thụy Vũ: Mỉm cười với nghiệt ngã” ghi nhận: Tôi chợt buột miệng hỏi, rồi lại hối hận đáng lẽ không nên hỏi, về nhà thơ tác giả bài Ta Về, Anh Hùng Tận, chị không một thay đổi sắc mặt hay bất bình, trả lời như chuyện của người khác: ‘Ổng gọi về nhiều lắm nhưng mà không có nói chuyện với tôi, nói chuyện cả giờ với con dâu.’ Tôi nghe tiếng ổng liền nhớ đến biết bao nhiều lần trong truyện ngắn như là tự truyện chị dùng thiệt nhiều lần từ tía sắp nhỏ vừa thương mến vừa xót xa vừa cách phân.

Nhà văn Ðoàn Dự cũng cho biết:

Nói chung, về tình trạng của chị Thụy Vũ hiện nay, chị có 3 người con thì cháu Khôi Hạnh lấy chồng ở Long An, đời sống êm ấm, hạnh phúc nhưng vì đông con nên cũng không giúp gì được cho mẹ. Cháu Khôi Hạo đã có gia đình, có một con trai, trước đây làm nghề nuôi cá cảnh để bán và viết văn theo cái “gien” của bố và mẹ, cũng kiếm được đồng tiền nhưng không hiểu sao tự nhiên cháu đi tu (Phật giáo), để vợ con cho mẹ lo. Còn cháu thứ ba, Khôi Thụy, thì vẫn sống đời sống thực vật, u mơ không biết gì hết như cũ. Năm nay chị Thụy Vũ đã 78 tuổi, tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào mấy con cá kiểng do vị “tu sĩ Phật giáo” truyền lại cho mẹ và mỗi tháng 100 đô-la do cháu Ðinh Quỳnh Giao, bác sĩ bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy Yên gửi về giúp đỡ. Cháu Ðinh Quỳnh Giao rất thương xót đứa em cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khôi Thụy đang nằm liệt giường. (Trích theo Phan Nguyên)

Một điều an ủi cho Nguyễn Thị Thụy Vũ là những sách của bà (10 cuốn) đã được nhà Phương Nam tái bản: Tất cả đều là sách đã in tại Sài Gòn trước 1975, đây có thể xem là toàn bộ sự nghiệp văn chương của bà, đã được Công ty Sách Phương Nam mua tác quyền: Lao vào lửa, Khung rêu, Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang, Mèo đêm, Chiều mênh mông, Chiều xuống êm đềm, Như thiên đường lạnh, Ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên…

Ðược hỏi bà cảm thấy thế nào khi tất cả tác phẩm trước năm 75 đều đã được tái bản. Nguyễn Thị Thụy Vũ thành thật trả lời: “Tôi rất vui. Sách in đẹp, tất cả lỗi chính tả đều được sửa rất kỹ. Tôi thấy mình thật may mắn khi nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều bè bạn, cả bạn cũ và bạn mới. Tôi xin cảm ơn cuộc đời và bè bạn…”

Tất nhiên là chúng ta cùng chia sẻ niềm vui với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhân đây cũng xin trình bày rõ thêm về những nỗi vất vả và khổ đau vô cùng tận cùng những may mắn dù có hơi trễ muộn trong đời nhà văn.

Thụy Vũ tâm sự với nhà báo Ngô Thị Kim Cúc:

“Cuộc sống sau ‘giải phóng’ vô cùng khó khăn. Tui một mình nuôi bầy con nheo nhóc, có đứa bị thiểu năng nằm một chỗ. Tui phải để nó cho mấy đứa lớn cho ăn, chăm sóc còn mình thì đi làm thuê bán vé xe bus cho một người bạn.

“Xe chạy tuyến Thủ Ðức – Sài Gòn, từ sáng đến tối mịt mới về nhà. Về đến nhà thấy con cái đứa thì nằm ngủ trên vũng nước đái, đứa lêu lổng đi chơi không cho em ăn… nhìn cái cảnh đó tui muốn chết đi cho rồi. Khó khăn quá, năm 1980 tui bồng bế tụi nhỏ về Bình Phước nương nhờ má cho đến bây giờ,” bà kể.

Xưa tui bỏ nó ở nhà đi làm báo, nó bị té, ảnh hưởng não nên nằm một chỗ đến giờ, vậy mà giờ nó nuôi tui bằng tiền từ thiện bạn bè, các nhà hảo tâm thương tình giúp đỡ…”

Làm nhiều nghề kiếm sống nuôi con, từ chăn dê, buôn bán, trồng tiêu… cây bút nữ dấn thân nhất của văn đàn miền Nam trước 1975 đã không còn viết gì nữa kể từ sau “giải phóng”. Bà kể: “Ổng (tức, Tô Thùy Yên) thì theo gia đình vợ con ổng đi sang Mỹ, có đời sống riêng. Tui làm đủ nghề lo cho con.

“Ba đứa con tui cũng thành nhân, yên bề gia thất. Có một thằng làm thơ, người ta nói nó có chịu ảnh hưởng của cha nó. Nhưng mấy con tui, đứa nào cũng nghèo, chẳng giúp gì được mình. Tui sống nhờ đứa con bị tàn tật.

Người mô tả về xã hội bên lề Sài Gòn khốc liệt một thuở lại cũng chính là người chịu đựng những hệ lụy mà chiến tranh để lại.

Trở lại văn đàn trong nước sau gần nửa thế kỷ, trong bối cảnh sách vở văn chương đang ở vào một giai đoạn hỗn loạn và phân hóa mạnh mẽ, thì tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ minh chứng rằng, những gì là chân giá trị sẽ không bị phủ lấp dưới bụi thời gian và những định kiến.

Xin được cảm thông với bao nỗi đời nghiệt ngã của nhà văn và mừng bà bước vào giai đoạn gọi là yên vui của cuộc đời. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ chắc chắn sẽ còn sáng mãi với thời gian.

NGUYỄN & BẠN HỮU – tổng hợp


 

Nữ ‘đại gia,’ vợ ca sĩ nổi tiếng, lừa đảo 26,000 người, thu hơn $346 triệu

Ba’o Nguoi-Viet

November 4, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Nữ tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam ở Hà Nội, được biết đến là vợ của một nam ca sĩ nổi tiếng, bị cáo buộc lừa gạt hàng chục ngàn người để chiếm đoạt hàng trăm triệu đô la.

Theo báo Tuổi Trẻ hôm 4 Tháng Mười Một, sau tám tháng điều tra bổ sung, Viện Kiểm Sát Thành Phố Hà Nội đã truy tố bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam (Nhật Nam Group), cùng các đồng phạm về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “rửa tiền.”

Bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Công ty bất động sản Nhật Nam. (Hình: VnExpress)

Bị can Vũ Thị Thúy, 44 tuổi, quê Thanh Hóa, được biết đến là vợ của ông Phạm Khánh Phương, tức ca sĩ Khánh Phương.

Theo cáo trạng, Nhật Nam Group thành lập Tháng Bảy, 2019.

Để “lùa gà” (từ ngữ để chỉ hành động dụ dỗ), bị can Thúy đã sử dụng các thủ đoạn gian dối như đưa ra thông tin quảng cáo trên các trang mạng truyền thông, mời những người có uy tín, địa vị xã hội để giới thiệu, quảng bá về việc Nhật Nam Group đầu tư mua nhiều bất động sản, nhà hàng, khách sạn có giá trị lớn trải dài từ Hà Nội, Thanh Hóa, Đắk Lắk đến Tây Ninh, Phú Quốc… “kinh doanh có hiệu quả” và cam kết phân chia lợi nhuận (cả tiền gốc, lãi) theo ngày với mức 7%-8%/tháng, lợi nhuận thu về sau hai năm 168%-192% giá trị hợp đồng.

Tuy nhiên, thực tế Nhật Nam Group đầu tư bất động sản nhưng không có lãi, hoạt động nhà hàng, khách sạn… thì thua lỗ dẫn đến đóng cửa.

Cơ quan điều tra cáo buộc, từ Tháng Bảy, 2019 đến Tháng Sáu, 2023, bị cáo Thúy đã lừa gạt 25,925 người, ký 43,314 hợp đồng hợp tác kinh doanh với Nhật Nam Group, thu hơn 9,113 tỷ đồng ($346.2 triệu).

Bị can Thúy sử dụng gần 4,300 tỷ đồng ($163.4 triệu) để trả tiền gốc, lãi cho chính các nhà đầu tư. Số tiền còn lại hơn 4,800 tỷ đồng ($182.4 triệu) đã bị bà ta chiếm đoạt sử dụng cá nhân, đến nay không còn khả năng chi trả.

Nhiều nhà đầu tư sau đó thấy dấu hiệu bị lừa đảo nên đòi tiền, đòi chất vấn. Một số người đã làm đơn tố cáo bà giám đốc với cơ quan công an.

Trước đó, bị can Thúy cũng đã từng có một tiền án về tội lừa đảo.

Sau khi điều tra, hôm 31 Tháng Tám, 2023, Phòng Cảnh Sát Kinh Tế Công An Hà Nội đã bắt giữ bị can Vũ Thị Thúy với cáo buộc “cung cấp thông tin đầu tư sai sự thật về bất động sản để lừa đảo chiếm đoạt số tiền “đặc biệt lớn.”

Ca sĩ Khánh Phương và vợ – bị can Vũ Thị Thúy. (Hình: Dân Trí)

Ngoài ra, bị can Thúy bị xác định đã chỉ đạo các nhân viên kế toán thực hiện việc rút tiền, chuyển tiền ra khỏi tài khoản của Nhật Nam Group rồi chuyển tiền vào các tài khoản cá nhân để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp do phạm tội mà có.

Từ đó, bị can Thúy sử dụng 120 tỷ đồng ($4.5 triệu) và nhờ người khác ký hợp đồng mua bất động sản, đầu tư mua cổ phiếu. Đây là hành vi khiến bà này bị Viện Kiểm Sát truy tố thêm tội “rửa tiền.”

Liên quan vụ án, trả lời công luận sau khi vợ bị bắt, ca sĩ Khánh Phương nói mình cũng là một nhà đầu tư tại Nhật Nam Group và “cũng thiệt thòi, mất mát giống như nhiều nhà đầu tư khác, thậm chí… mất nhiều hơn.” (Tr.N) [kn]


 

Nó vừa chính thức đóng cửa quán ….

Chuyện tuổi Xế Chiều

Tối qua, tôi với thằng bạn ngồi lì trong quán, nhìn nó cúi mặt mà thấy nghẹn.

Nó vừa chính thức đóng cửa quán, sau hơn hai năm cố gắng gồng gánh. Không phải vì hết vốn, mà là hết sức, hết niềm tin, hết chịu nổi.

  1. KHÔNG CÒN KHÁCH.

Cái đau đầu tiên và rõ nhất. Ngày xưa, quán lúc nào cũng có tiếng cười, mùi cà phê thơm, khách quen ghé chuyện trò.

Giờ mở cửa ra, là cảnh bàn ghế trống, ly cà phê nguội ngắt, mà đồng hồ điện thì vẫn quay, hóa đơn vẫn tới.

Mỗi đêm, nhìn ánh đèn quán hắt ra con đường vắng, nó bảo: “Tao thấy như tiền mình đang chảy theo nước cống vậy đó bro.”

Mấy tháng đầu nó còn cười, còn tự trấn an “rồi sẽ khá hơn”. Nhưng lâu dần, tiếng cười cũng tắt. Không phải vì hết tiền, mà vì hết động lực.

  1. THUẾ – CÁI ÁP LỰC KHÔNG NHÌN THẤY.

Nó nói, “thuế giống như cái dây thòng lọng, siết từ từ, không đau liền nhưng nghẹt thở.” Làm thì phải đóng, không ai trốn được. Nhưng vấn đề là, mấy cái chi phí phát sinh, thuế nọ thuế kia, cứ tăng dần mà không ai báo trước. Làm hoài, làm mãi, cuối cùng thấy mình chỉ là cái công cụ để nộp thuế.

Mệt mỏi nhất là cái cảm giác, dù có cố gắng cỡ nào, vẫn không thoát nổi.

  1. TIỀN THUÊ MẶT BẰNG – CÁI DÂY CÓ GAI.

Giá thuê giờ cao hơn cả lợi nhuận. Chủ nhà thì cứ nghĩ người thuê giàu lắm, có tiền mở quán là có tiền trả. Nhưng họ đâu biết, bên trong đó là cả đống nợ, là nước mắt, là áp lực gia đình. Nó nói, mỗi lần chủ nhà nhắn “tới hạn rồi nha”, là tim nó đập loạn, người run. Bán không đủ, vẫn phải trả, mà nếu không trả – bị khóa cửa, mất luôn cả vốn liếng, uy tín.

“Tao làm, không phải để sống, mà để tồn tại. Mà tồn tại kiểu này thì khác gì bị bóp cổ từng ngày.”

  1. NỖI ĐAU KHÔNG AI NHÌN THẤY.

Không ai thấy những đêm nó thức đến 2–3 giờ sáng, ngồi cộng sổ, gạch chi phí, vừa tính vừa rớt nước mắt.

Không ai thấy cảnh nó giấu vợ, giấu con, nói “ổn lắm”, trong khi ví không còn nổi 100 ngàn

Không ai thấy cảnh nó ngồi ngoài hiên, nhìn bảng hiệu quán mình dựng bằng cả giấc mơ bây giờ phải tháo xuống, từng chữ, từng ký ức…


 

Cựu Phó Tổng Thống Mỹ Dick Cheney Qua Đời Ở Tuổi 84

Ba’o Dat Viet

November 4, 2025

Cựu Phó Tổng thống Mỹ Dick Cheney – nhân vật từng giữ vai trò trung tâm trong chính sách đối ngoại và quân sự của Hoa Kỳ suốt gần nửa thế kỷ – đã qua đời vào tối 4 Tháng Mười Một, hưởng thọ 84 tuổi. Gia đình cho biết nguyên nhân là các biến chứng liên quan đến bệnh viêm phổi và tim mạch.

Thông báo từ gia đình nhấn mạnh, người vợ Lynne Cheney – người bạn đời 61 năm – cùng hai con gái Liz và Mary đã ở bên ông trong những giờ phút cuối. Bản tin còn nói rõ: “Dick Cheney là một người đàn ông đáng kính. Ông dạy con cháu mình sống yêu nước, quả cảm, tử tế và đầy yêu thương… Chúng tôi vô cùng biết ơn những đóng góp của ông đối với đất nước.”

Dick Cheney là một chính trị gia tiêu biểu của Đảng Cộng hòa, bắt đầu sự nghiệp trong những năm 1970, đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền liên bang, bao gồm Chánh Văn phòng Nhà Trắng dưới thời Tổng thống Gerald Ford, nghị sĩ Hạ viện đại diện bang Wyoming, rồi Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Tổng thống George H.W. Bush. Tuy nhiên, sự nghiệp của ông bước sang trang mới khi trở thành Phó Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ từ 2001 đến 2009 dưới quyền Tổng thống George W. Bush.

Trong giai đoạn này, Cheney được coi là một trong những phó tổng thống quyền lực nhất lịch sử nước Mỹ. Sau vụ khủng bố 11 Tháng Chín 2001, ông trở thành kiến trúc sư chính trong chiến lược “chống khủng bố toàn cầu”, thúc đẩy việc Mỹ phát động chiến tranh tại Afghanistan và sau đó là Iraq. Quyết định đưa quân vào Iraq năm 2003 đến nay vẫn gây nhiều tranh cãi, nhưng Cheney chưa từng công khai tỏ ra hối tiếc. Năm 2015, trong buổi phỏng vấn với CNN, ông nhấn mạnh: “Tôi không ân hận về quyết định đó. Lịch sử sẽ đứng về phía chúng ta.”

Trái Tim Bằng Sắt – Theo Nghĩa Đen

Sức khỏe của Dick Cheney từ lâu không còn là điều bí mật. Ông từng bị nhiều cơn đau tim, phải sống chung với bệnh tim mạch gần như suốt cuộc đời chính trị. Đến năm 2012, Cheney trải qua ca ghép tim thành công – sau đó ông gọi đó là “món quà của sự sống”. Điều này cho phép ông tiếp tục viết hồi ký, tham gia thảo luận chính trị, và ít nhiều giữ ảnh hưởng trong giới an ninh quốc phòng cho đến khi tuổi già.

Một Di Sản Gây Tranh Cãi Trong Đảng Cộng Hòa

Là người theo đường lối bảo thủ cứng rắn, Cheney nhiều năm liền được xem là gương mặt tiêu biểu của “diều hâu” chính trị Mỹ. Tuy nhiên, những năm cuối đời, ông gần như bị cô lập trong chính nội bộ Đảng Cộng hòa. Nguyên do: Cheney thẳng thừng chỉ trích cựu Tổng thống Donald Trump, người mà ông cho là “mối đe dọa lớn nhất từng có đối với nền cộng hòa”.

Quan điểm thẳng thắn ấy càng khiến ông tách xa dòng chảy chính trị bảo thủ đương đại. Trong kỳ bầu cử tổng thống gần nhất, năm 2024, Cheney tuyên bố bỏ phiếu cho ứng viên đảng Dân chủ Kamala Harris – một động thái gần như chưa từng có với một đảng viên Cộng hòa thâm niên.

Dick Cheney qua đời để lại một di sản chính trị phức tạp – được nhiều người ca ngợi vì lòng yêu nước và sự kiên định, nhưng cũng không thiếu những chỉ trích về vai trò trong các cuộc chiến kéo dài ở Trung Đông. Với nhiều thế hệ, ông vẫn là biểu tượng của nước Mỹ thời kỳ hậu 11/9, khi quốc gia này bước vào một thời đại mới với những quyết sách vừa mang tính quyết đoán, vừa chất chứa nhiều tranh luận kéo dài đến tận hôm nay.


 

Tâm hồn Nga – Tâm hồn đế quốc – Cơ chế của những đau thương

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Trần Gia Huấn

02/11/2025

Trước giữa thế kỷ XIX, không ai nói tới “Tâm hồn Nga”cả. Khoảng 1842, văn hào Gogol, người Ukraine viết cuốn tiểu thuyết lừng danh “Những Linh Hồn Chết” (Dead Souls) bằng tiếng Nga trong đó ông dùng “Linh hồn” ám chỉ số nông nô đã chết, nhưng các chủ nô dùng danh sách ma để mua bán, trao đổi, thế chấp, trốn thuế kiếm lời. Dần dần, Nga tìm kiếm mọi cách định nghĩa “Tâm hồn Nga” như một bằng chứng khẳng định Nga khác phần còn lại của Âu châu: Nga có linh hồn; Âu châu vô hồn. Nga tự hào; Âu châu tự ty. Nga văn minh; Âu châu man rợ. Nga kiêm tốn; Âu châu hãnh tiến. Nga thánh thiện; Âu châu tội lỗi. Nga cao thượng; Âu châu nhỏ nhen. Nga nhân hậu; Âu châu tàn nhẫn… Trong đó, văn hào Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky, và thi hào Alexander Pushkin là những môn đệ toàn tòng cho “Tâm hồn Nga” một cách cuồng nhiệt nhất.

Khoảng 13 tuổi, trên đường tới St Peterburg, Dostoyevsky chứng kiến tại một trạm bưu điện. Một gã đưa thư, mặc đồng phục, nhảy vào cỗ xe ngựa đậu gần đó, không nói không rằng, tung những quả đấm như trời giáng vào mặt vào cổ người đánh xe. Ngay lập tức, người đánh xe, điên cuồng vung roi quất vào mông ngựa. Cỗ xe lao đi trong khói bụi mịt mờ. Dostoyevsky, ngất ngây, tưởng tượng ra cảnh, người đánh xe ngựa trở về làng đêm đó, trong cơn say túy lúy, cũng thụi túi bụi vào mặt vào cổ vợ, như người ta đã thụi mình.

Không ngạc nhiên, Dostoyevsky đã kết hợp những ký ức vào nghệ thuật lãng mạn, với tâm linh, cảm xúc tuyệt vời nuôi dưỡng những hoang tưởng bạo lực và tàn ác của con người trong từng trang viết. Trong tiểu thuyết “Tội ác và Trừng phạt” nhân vật Raskolnikov nằm mơ thấy một nông dân đập chết một con ngựa. Khi tỉnh dậy, gã kết nối giấc mơ với một kế hoạch đập chết người bằng rìu. Gã nhảy ra khỏi giường, thực hiện giấc mơ giết người. Những chuỗi dài bạo lực tiếp nối bạo lực, mà không ai thoát ra khỏi.

Raskolnikov là sinh viên nghèo, giết chủ tiệm cầm đồ, để lấy tiền đi học. Gã bảo Napoleon đã giết hàng ngàn người Ai Cập, cướp kho báu khảo cổ, để thiết lập lên bộ môn Ai Cập học cho nhân loại. Vậy, gã giết người để hoàn thành một lý tưởng, giết người để hiện thực một giấc mơ, giết người để học tập, giết người để tiến bộ, là phi thường, là anh hùng. Lập luận của Raskolnikov là một dạng của “Tâm hồn Nga” tâm hồn đế quốc. Đó là cơn thịnh nộ của độc ác được chắt lọc từ lòng căm thù, đố kị, ganh tị đã dồn nén từ lâu.

Dostoyevsky bị đi đầy ở Siberia chỉ vì đọc cuốn sách cấm. Một người bạn tù gốc Ba Lan đã viết trong hồi ký: Dostoyevsky nguyền rủa đám Estonia, Litvia, Lithuania, và Ba Lan rằng đất đai của chúng mày mãi mãi là đất đai, tài sản của Nga. Nếu không nhờ Nga khai sáng thì bọn mày chỉ biết vùng vẫy trong tối tăm, đói nghèo, cơ cực, mù chữ, và man rợ.

Pushkin, được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga” là người đóng góp quan trọng vào ngôi đền thiêng “Tâm hồn Nga”. Khoảng 1820 Pushkin bị đày đi Kavkaz như một kẻ lưu vong chính trị. Ông đã viết bản trường ca “Người tù Kavkaz, trong đó kể lại câu chuyện người con gái miền sơn cước, ở tuổi dậy thì, duyên dáng nồng nàn, ngây thơ đắm đuối, phải lòng một tù nhân chiến tranh Nga. Nàng liều mình giải thoát cho chàng. Rồi, chàng rủ nàng trốn đến nước Nga. Nàng từ chối, giận hờn bảo anh đi đi, đừng bận tâm đến số phận tàn khốc u sầu của em. Lòng nàng vò xé, nước mắt lưng tròng, nàng đưa chàng tới bờ sông, để chàng xuôi dòng về lại quê hương. Rồi, nàng tự tử.

Nhưng khổ cuối của bản trường ca, Pushkin viết “Hỡi Kaskaz, hãy đầu hàng đi. Ermolov đang tới.” Alexei Ermolov là tướng Nga, tư lệnh cuộc chiến giữa Nga và Thượng Kaskaz ở thế kỷ XIX. Ermolov cực kỳ tàn nhẫn, giết 9/10 dân số Thượng Kaskaz. Ermolov tuyên bố: “Ta khao khát những nỗi kinh hoàng mang tên ta.” Chính Pushkin đã ủng hộ những tư tưởng đế quộc tàn bạo này. Những gì xảy ra ở Bucha, Ukraine, 2022, cho ta thấy “Tâm hồn Nga” man rợ tới cỡ nào.

Năm 1837, Pushkin công bố bài thơ “The Bronze Horseman” – Kỵ sỹ Đồng, hết lòng ca ngợi Peter Đại đế, cưỡi ngựa đi thị sát đầm lầy, những túp lều khốn khổ và hèn mọn của lũ Phần Lan lúp xúp dưới vó ngựa của Ngài. Peter Đại đế xây thành St. Petersburg hướng về Tây âu, lối ra biển Baltic. Ngài tuyên bố: Từ nơi này, ta sẽ uy hiếp Thụy Điển và nuốt cả Âu châu. Những ý tưởng này không thể nào không gợi nhớ tới Putin đang đe dọa Âu châu, và tàn phá phương Tây.

Pushkin đã viết những lời hoa mỹ, vô cảm trong cuộc chiến Nga -Thổ: “Người Circassia căm ghét chúng tôi (lính Nga) vì chúng tôi đã buộc họ phải phải rời khỏi những đồng cỏ mênh mông. Nhiều làng mạc bị tàn phá. Cả bộ lạc bị xóa sổ. Người làng phải từ bỏ tất cả để gia nhập Đế chế Nga.”

Ở tuổi 20, Pushkin bị lưu đày khắp nơi từ Kaskaz, tới Crimea, từ Kamianka tới Bessarabia chỉ vì những bài thơ viết ở tuổi 15. Sau năm tháng sống kiếp lưu vong, Pushkin trở về St. Petersburg, không bao giờ dám chỉ trích Sa hoàng nữa. Ngược lại, Pushkin làm thơ ca ngợi, tôn vinh những hành động đế quốc của Nga với các dân tộc láng giềng. Đó là vì sao Đế chế Nga và sau này là Liên Xô cùng cho dựng tượng Pushkin, công viên Pushkin, đường phố Pushkin, quảng trường Pushkin khắp nơi nơi.

Phong trào “Pushkinopad – Пушкинопад”– nghĩa đen là hạ bệ Pushkin tại Ukraine, sau cuộc xâm lược do Putin phát động. Người Ukraine xác định Pushkin và Dostoyevsky là những kẻ cổ xúy cho chủ nghĩa sô vanh (chauvinism) Nga, không xứng đáng được đặt tượng, đặt tên trên quê hương của họ.

Pushkin qua đời năm 37 tuổi sau cuộc đấu súng do ghen tuông ái tình. Dostoyevsky chết năm 59 tuổi, do nhồi máu phổi, động kinh kinh niên không thuốc chữa, đói nghèo, nghiện ngập, cờ bạc, nợ nần chồng chất.
Ukraine không muốn đọc Dostoyevsky nữa, không muốn ngắm tượng Pushkin nữa vì trong từng trang viết chan chứa tư tưởng bành trướng, đế quốc, bạo lực, man rợ, được Putin tuyên truyền biện minh cho hành vi xâm lược hôm nay.

Nỗi mặc cảm tự ti chỉ là một đế chế thứ cấp, bên rìa Âu châu, Putin nhìn phương Tây là lũ suy đồi, trụy lạc, không thể nào đè bẹp được lòng kiêu hãnh Nga – Tâm hồn Nga đã dẫn dắt nước Nga lao vào những cuộc chiến tranh liên miên, không hồi kết, và luôn gây sự với người khác.

Tiến sỹ Henry Kissinger nhấn mạnh: Để hiểu Putin, phải đọc Dostoyevsky. Putin bước ra từ tiểu thuyết viết cách nay đã hai thế kỷ. Tiến sỹ Timothy Snyder nói: Để hiểu được Putin phải đọc 1984: “Chiến tranh là hòa bình. Tự do là nô lệ. Ngu dốt là sức mạnh.” Cựu tổng thống Mỹ George W. Bush bảo nhìn vào mắt Vladimir Putin và “hiểu được tâm hồn Putin”.

Tâm hồn Putin – tâm hồn điệp viên, tâm hồn sát thủ.
Tâm hồn Nga – tâm hồn đế quốc – cơ chế của những đau thương.

Canada

November 2, 2025


 

GIẤC MƠ MỸ

Xuyên Sơn

Đứa bạn vừa chạy xong suất kết hôn giả để đi Mỹ với giá 50.000 đô,

hoàn thành giấc mơ trở thành công dân của đất nước cờ hoa mà nó ấp ủ bấy lâu nay.

Nó phân bua với tôi, với ngần ấy tiền, ở Việt Nam tao được gọi là tỷ phú, có thể sống phè phởn khi nhà cửa có sẵn, công việc ổn định nhưng tau vẫn phải đi. Mày biết vì sao không?

Đơn giản là qua Mỹ với giá đó, tao có thể chỉ là một thợ nail bình thường nhưng con cái tao sau này sẽ được thụ hưởng nền giáo dục Mỹ miễn phí, thứ mà mày phải mất gần 20 nghìn đô mỗi năm nếu như muốn con mày có nó ở Việt Nam.

Tao cũng sẽ chỉ mua một chiếc Lexus RX 350 có hơn 50 nghìn đô, thứ mà mày cũng phải mất gấp 3 để nó lăn bánh ở Việt Nam trong khi đường sá thì như shit, xăng, dầu, thuế, phí lại ở trên trời.

Ngoài ra tao và gia đình tao sau này sẽ được hưởng một môi trường trong lành, một bãi biển sạch để tắm, một chế độ an sinh hợp lý, một nguồn thực phẩm sạch đã qua kiểm nghiệm kỹ càng, và quan trọng là tao có thể nói bất cứ gì tau muốn mà không sợ ngồi tù…

Những thứ này thì dù mày có là đại gia ở Việt Nam, mày và gia đình cũng không bao giờ được thụ hưởng.

Bỏ ra 50.000 đô, hơn một tỷ ông cụ để làm được điều đó, tính ra tao lãi lớn chứ có lỗ đâu mày.

Cái đất nước này giờ đã tan hoang, biển thì chết, môi trường lại ô nhiễm nghiêm trọng, ăn uống thì toàn hoá chất độc hại, thuế, phí thì hơn cả thời Pháp thuộc, chất lượng cuộc sống thì ngày càng đi xuống… quy’ báu gì nữa mà lưu luyến mày ơi.

Nghe nó nói xong tôi chỉ biết lặng im cúi đầu.

Cái thằng, nói đúng thế thì lấy gì để bắt bẽ nó đây.

Trước khi đi nó còn bồi thêm câu, mày ở lại xây dựng xã hội chủ nghĩa cho tốt nhé, tao qua xứ giãy chết cho bọn nó bóc lột đây.

Kiếm ra ai đểu hơn thằng này cũng khó.

Thôi mày đi vui vẻ, tao cũng đang gắng để được như mày đây!

Nguồn: Ba Công

Chân Trời Mới Media

 

 


 

Tại sao những người tàn tật xứ người ta luôn cảm thấy hạnh phúc…

Tại sao những người tàn tật xứ người ta luôn cảm thấy hạnh phúc, sung sướng và truyền cảm hứng cho cuộc sống thay vì những con người lành lặn sức khỏe nhưng tìm đến cái chết thương tâm như ở cầu TPHCM hôm qua.

“Có vụ kia ở xứ sở ấy còn sát hại cả nhà, gồm mẹ. Vợ và các con là do vì nhà quá nghèo”  

Là tại vì đất nước của người ta nhà nước luôn chăm lo cho người dân sống hạnh phúc, lãnh đạo của họ biết tôn thờ Thượng Đế, có tâm và biết lo lắng cho dân. Còn xứ sở vô thần này, họ khong tin có trời có đất, có Thượng Đế. Họ chỉ làm vì bản thân nên người dân luôn sống trong bất hạnh. Nghèo đói và túng quẫn. Có nhiều người họ giải thoát bằng cái tìm cái chết. Nên đừng biện hộ bằng bất cứ giá nào.

TB Anh ấy mất hết cả tay và chân nhưng luôn là người rao giảng tin mừng, truyền cảm hứng cho tất cả mọi người. Có vợ đẹp và đàn con khôn.

Hình. Từ Nick Vujicic. American 


 

Elon Musk đánh mất nửa nước Mỹ, bài học nhãn tiền-Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

November 2, 2025

Trúc Phương/Người Việt

Nửa năm sau khi chiếc cưa máy của Elon Musk được xếp xó, hậu quả màn phá phách của đương sự đã được phân tích kỹ lưỡng với công trình dài đến 27 trang của nhóm nghiên cứu Đại Học Yale (“The Musk Partisan Effect on Tesla Sales”) vừa công bố vào Tháng Mười.

Hình ảnh Elon Musk với cái cưa máy hồi Tháng Hai làm rúng động dư luận. (Hình minh họa: Saul Loeb/AFP via Getty Images)

Câu chuyện Elon Musk, dù cá biệt, nhưng rõ ràng là một tiền lệ mà bất kỳ người “siêu thông minh” và “siêu láu cá” nào cũng có thể gặp phải nếu dính vào một cú “dại một giờ” dù trước đó từng “khôn ba năm.”

Cú rơi lịch sử của Tesla

Năm 2020, Tesla là hiện thân của tương lai.

Một hãng xe điện phá vỡ mọi quy tắc, thách thức các tập đoàn xe hơi trăm năm tuổi và biến Elon Musk thành biểu tượng toàn cầu của công nghệ xanh. Với giới trung lưu đô thị Mỹ, đặc biệt là tầng lớp có khuynh hướng chính trị theo đảng Dân Chủ, lái một chiếc Tesla đồng nghĩa với việc tham gia vào một sứ mệnh “cứu lấy hành tinh.”

Chỉ sau vài năm, hình ảnh đó sụp đổ. Đến giữa năm 2025, Tesla đã trải qua hai năm liên tiếp sụt giảm doanh số, ngay cả khi tổng thị trường xe điện Mỹ vẫn tăng trưởng. Nguyên nhân, theo nghiên cứu mới của bốn giáo sư Đại Học Yale (“The Musk Partisan Effect on Tesla Sales”) đề cập ở trên, không nằm ở giá pin, nguồn cung hay cạnh tranh. Thủ phạm là chính Elon Musk chứ chẳng ai khác.

Công trình mang tên The Musk Partisan Effect on Tesla Sales – do Kenneth Gillingham, Matthew Kotchen, James Levinsohn và Barry Nalebuff thực hiện – cho thấy những phát ngôn, hành động và lập trường chính trị của Musk đã khiến Tesla mất từ một đến 1.26 triệu xe bán ra trong vòng 30 tháng, tương đương 67-83% doanh số thực tế. Nếu không có “hiệu ứng đảng phái của Musk,” Tesla sẽ bán được cao hơn 67-83% trong giai đoạn từ Tháng Mười, 2022 đến Tháng Tư, 2025.

Từ giữa năm 2022, sau thương vụ mua lại Twitter (nay là X), Elon Musk bắt đầu thay đổi, không chỉ về phong cách điều hành, mà cả lập trường chính trị. Với phong cách ngổ ngáo lấc cấc, Elon Musk sa thải hàng loạt nhân viên, nới lỏng kiểm duyệt cho các tài khoản cực hữu, quyên góp $300 triệu cho ứng viên Cộng Hòa Donald Trump trong mùa bầu cử 2024, và sau khi Trump tái đắc cử, Musk đảm nhiệm vai trò người lãnh đạo “Bộ Hiệu Quả Chính Phủ” (Department of Government Efficiency – DOGE).

Từ một biểu tượng công nghệ mang tính toàn cầu, Musk trở thành nhân vật chính trị phân cực nhất nước Mỹ. Và thương hiệu Tesla, vốn gắn liền với hình ảnh cá nhân ông, phải chịu đòn phản ứng dây chuyền. Nghiên cứu của nhóm Yale sử dụng dữ liệu đăng bộ xe mới trên toàn nước Mỹ (từ Tháng Ba, 2020 đến Tháng Tư, 2025), kết hợp với tỷ lệ cử tri Dân Chủ-Cộng Hòa trong hai kỳ bầu cử 2020 và 2024.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy trước Tháng Mười, 2022 – thời điểm Musk hoàn tất thương vụ Twitter – các khu vực “xanh” (Dân Chủ) mua Tesla nhiều hơn rõ rệt, và xu hướng đó tăng dần. Nhưng sau mốc đó, đồ thị đảo chiều: doanh số Tesla sụt mạnh ở các khu vực Dân Chủ, trong khi các khu vực “đỏ” (Cộng Hòa) chỉ tăng nhẹ, không đủ bù đắp.

Để tách riêng ảnh hưởng của Musk khỏi các yếu tố khác như cạnh tranh, mẫu xe hay chính sách ưu đãi, nhóm nghiên cứu sử dụng các mô hình Difference-in-Differences (DiD) và Triple Difference (DiDiD) – công cụ kinh tế thường dùng để đánh giá tác động chính sách. Kết quả như sau.

-Không có Musk, doanh số Tesla mỗi tháng cao hơn khoảng 150%.

-Có Musk, Tesla mất trung bình 0.2 xe trên mỗi 10,000 xe đăng bộ  ở các khu vực Dân Chủ mỗi tháng – một con số nhỏ nhưng lũy tiến theo thời gian thành hàng triệu xe.

Hiệu ứng thay thế gần như hoàn toàn: Cứ mỗi chiếc Tesla không bán được, có một chiếc xe điện hoặc hybrid của hãng khác được mua thay thế. Nói cách khác, người Mỹ không rời bỏ xe điện. Họ chỉ rời bỏ Elon Musk.

Các khảo sát song hành với dữ liệu bán hàng minh họa rõ rệt mức độ phản ứng của công chúng. Loạt thăm dò NBC News (2021-2025) cho thấy, tỷ lệ người Dân Chủ có cái nhìn tiêu cực về Musk tăng từ 28% lên 92%. Trong khi đó, tỷ lệ người Cộng Hòa có cái nhìn tích cực về ông tăng từ 30% lên 75%. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, dân Cộng Hòa lâu nay không khoái xe điện. Tin rằng chẳng có chuyện hiệu ứng nhà kính hay trái đất nóng dần gì cả, dân Cộng Hòa chỉ thích dùng xe xăng và còn miệt thị xe điện.

Một khảo sát YouGov (Tháng Ba, 2025) cho thấy: 71% cử tri Dân Chủ nói rằng Musk là lý do khiến họ không muốn mua Tesla. Chỉ 3% cử tri Cộng Hòa nói rằng Musk khiến họ muốn mua Tesla. Vì thế, tổng hiệu ứng là tiêu cực tuyệt đối. Musk mất đi nhiều khách hàng Dân Chủ hơn gấp hàng chục lần số ông có thể thu hút từ phe Cộng Hòa. Kết luận của nhóm nghiên cứu: “Elon Musk là minh chứng sống động cho việc một CEO có thể tự làm giảm doanh số công ty chỉ bằng hành động và phát ngôn chính trị cá nhân.”

Khi thương hiệu bị định danh bằng tên tuổi một người

Trong suốt hơn một thập niên, hình ảnh Tesla gắn chặt với Elon Musk. Ông là “nhà sáng lập thiên tài,” “người của những giấc mơ điên rồ nhưng vĩ đại”…; tuy nhiên, chính sự đồng nhất đó khiến công ty dễ tổn thương. Chỉ cần một cú trượt trong hình ảnh cá nhân, thương hiệu sụp đổ cùng ông. Giáo Sư James Levinsohn, đồng tác giả nghiên cứu, nhận xét: “Thương hiệu của Musk từng là ‘người dẫn đường cho tương lai.’ Giờ nó là ‘biểu tượng của một phe.’ Và thị trường ghét điều đó.”

Ở cấp độ xã hội học, nghiên cứu cho thấy Tesla không còn là sản phẩm tiêu dùng thuần túy mà trở thành biểu tượng chính trị: lái Tesla bây giờ đồng nghĩa với việc thể hiện lập trường; và điều từng là lợi thế, nay trở thành gánh nặng. Hệ quả của “hiệu ứng Musk” không chỉ dừng lại ở Tesla. Nó ảnh hưởng đến thị trường xe điện nói chung và chính sách khí hậu của Mỹ.

Nghiên cứu cho thấy: doanh số các hãng khác (Ford, Hyundai, Toyota, Rivian, Kia,…) tăng 17-22% kể từ khi Musk mua Twitter – nhờ làn sóng khách hàng rời bỏ Tesla. Riêng tại California, nếu không có “hiệu ứng tiêu cực Elon Musk,” tiểu bang này đã đạt được mục tiêu 35% xe không phát thải vào năm 2026. Thực tế, doanh số xe điện giảm khiến California hụt 139,700 xe trong quý I/2025, kéo lùi tiến trình chuyển đổi xanh.

Tác giả Matthew Kotchen nhận định: “Một cá nhân có thể vô tình làm chệch hướng chính sách công bằng hành vi ngôn ngữ và chính trị – điều mà trước đây chúng ta chưa từng chứng kiến trong quy mô thị trường lớn như vậy.”

Khái niệm “CEO activism” – khi lãnh đạo doanh nghiệp công khai lập trường chính trị – thật ra không mới. Nhiều người từng thể hiện tương tự, từ Tim Cook (Apple) đến Howard Schultz (Starbucks). Nhưng họ thường chọn các vấn đề mang tính giá trị phổ quát: quyền con người, môi trường sống, bình đẳng xã hội. Elon Musk đi theo hướng ngược lại: biến chính trị thành sân chơi cá nhân, gắn thương hiệu với một phe, một chiến tuyến. Trong lĩnh vực marketing, đây là điều tối kỵ. Michael Jordan từng nói: “Người Cộng Hòa cũng mua giày thể thao.” Câu nói ấy giờ được trích ngay trong nghiên cứu Yale như một lời cảnh tỉnh: khi thương hiệu chọn phe, nó đánh mất nửa thị trường.

Các nhà nghiên cứu ước tính rằng đến quý I/2025, nếu không có “hiệu ứng tiêu cực Musk,” doanh số Tesla hàng tháng sẽ cao hơn 150%. Ngược lại, doanh số xe điện và hybrid khác sẽ thấp hơn khoảng 25%. Tính tổng cộng, Tesla mất 1.26 triệu xe, trong khi các đối thủ thu về gần tương đương – một “hiệu ứng chuyển dịch hoàn hảo.”

Dù vậy, nhóm tác giả cho rằng đây mới chỉ là khởi đầu. Khi hình ảnh của Musk ngày càng gắn với chính quyền Trump, xu hướng sụt giảm ở các khu vực Dân Chủ tiếp tục tăng tốc – và có thể lan sang các thị trường ngoài Mỹ, nơi “phong cách chính trị” của ông không được ưa chuộng, thậm chí bị khinh ghét.

Bài học lớn cho thời đại thương hiệu cá nhân

Trong nền kinh tế truyền thông xã hội, ranh giới giữa con người và thương hiệu ngày càng mong manh. Elon Musk là hình mẫu thành công nhờ thương hiệu cá nhân nhưng cũng là minh chứng cho nguy cơ khi cá nhân đó bị chính trị hóa.

Tesla trở thành nạn nhân của chính chiến lược mà nó từng hưởng lợi: xây dựng “thần thoại” quanh người sáng lập. Như nhóm tác giả kết luận: “Khi hình ảnh cá nhân trở thành thương hiệu, rủi ro của con người trở thành rủi ro của công ty. Và khi con người sa vào chính trị, công ty sẽ phải trả giá.”

Câu chuyện “hiệu ứng đảng phái” của Musk vượt ra ngoài khuôn khổ kinh tế học. Nó phơi bày cách tiêu dùng và chính trị đang hòa làm một trong xã hội Mỹ phân cực: chọn một sản phẩm cũng là chọn một bản sắc. Elon Musk, trong nỗ lực khẳng định bản ngã, đã chia đôi chính khách hàng của mình. Từ một biểu tượng đổi mới, ông trở thành phép thử trung thành chính trị.

Và Tesla – thương hiệu từng đại diện cho tương lai – giờ bị kẹt trong hiện tại đầy chia rẽ. Trong một thế giới mà niềm tin quan trọng không kém công nghệ, câu chuyện của Musk là lời nhắc lạnh lùng: thương hiệu không thể là chiến tuyến.

Elon Musk ít nhiều đã “né” chính trị từ sau cú ngã đau thấu trời khi lăng xăng “tham chính” nhưng đến nay, những hoen ố gây ra vẫn còn in đậm trên thương hiệu Tesla. Uy tín cá nhân Elon Musk vẫn chưa được khôi phục. Và một thực tế phũ phàng nữa là dân Cộng Hòa nói chung và MAGA nói riêng vẫn chưa bao giờ là nhóm khách hàng ưa thích Tesla, cho dù họ từng khoái chiếc cưa máy của Elon Musk. [kn]


 

Nguyễn Ánh hay Hồ Chí Minh: Ai là người “bán nước”, ai là người “cõng rắn cắn gà nhà”?

Ba’o Tieng Dan

31/10/2025

Trương Nhân Tuấn

31-10-2025

Sử gia CSVN lên án Nguyễn Ánh “bán nước”, bằng chứng là Hiệp ước Versailles 1787 và vụ cắt đất Trấn Ninh. Hiệp ước Versailles Nguyễn Ánh hứa nhượng Đà Nẵng và đảo Côn sơn cho Pháp. Đất Trấn Ninh, sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh cắt Trấn Ninh để ban thưởng cho vua Ai Lao đã có công giúp Nguyễn Ánh trong chuyện dẹp Tây Sơn.

Thực tế là gì?

Hiệp ước Versailles 1787 không được thi hành. Quan chức Pháp thấy là “không có lợi Pháp”, do đó khước từ. Tức là hiệp ước đơn thuần “vô giá trị”. Nguyễn Ánh không có nhượng “cục đất” nào cho Pháp cả.

Còn đất Trấn Ninh bị Pháp sáp nhập vào Ai Lao để dựng lên nước Lào. Điều không thấy ai nói là sau đó Pháp tách ra từ Lào (và Cambodge) vùng đất rộng lớn, gồm cao nguyên trung phần (bao gồm Darlac, Đà Lạt, Kon Tum v.v..) để sáp nhập vô Việt Nam, để “đền bù” cho Việt Nam vụ Trấn Ninh. Vụ này tôi có viết hôm trước.

Sử gia CSVN phê phán Nguyễn Ánh dựa trên “ý định nhượng đất cho Pháp”.

Vấn đề là việc phê phán của họ không dựa trên tinh thần khách quan, khoa học, mà lại dựa theo ý kiến của ông Hồ Chí Minh trong một “bài vè”, tựa đề “Lịch sử nước ta”. Trong bài có các câu:

“Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi giầy mả, thiệt là ngu si…”

Đâu phải cái gì ông Hồ nói, hay làm cái gì thì những cái đó đều đúng hết đâu!

Ông Hồ bị sử gia Tây phương xếp chung “một giỏ” với những “đồ tể cộng sản” như Mao Trạch Đông, Pol Pot… Họ Mao trách nhiệm về cái chết của hàng trăm triệu người Hoa. Pol Pot trách nhiệm “diệt chủng” 1/4 dân Cambodge. Ông Hồ chỉ giết sơ sơ có 4 triệu người Việt mà thôi.

Thực tế cho thấy những gì mà ông Hồ nói về Gia Long đều là “vu khống”, vì không có bằng chứng.

Nguyễn Ánh có “rước Tây vào nhà không?”

Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, sau đó chiếm Bắc kỳ, vì nhiều lý do mà không có lý do nào cho thấy có yếu tố “Nhà Nguyễn rước Tây vô nhà” hết cả.

Pháp chiếm Việt Nam “bằng vũ lực”. Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ bằng vũ lực. Pháp chiếm Hà nội bằng vũ lực. Pháp đánh quân Thanh để “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước An Nam” bằng vũ lực. Cuộc chiến tranh với nhà Thanh khiến Pháp thiệt hại nặng nề. Chuyện này tôi cũng nói rồi.

Tôi có thể kết luận rằng ông tổ ngành “sử phịa” của Việt Nam là ông Hồ!

Giả sử rằng nhà Tây Sơn không bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Liệu nhà Tây Sơn có giúp Việt Nam giữ được “độc lập” hay không?

Theo tôi là không! Càng “cương” thì càng chết nhiều.

Cùng thời kỳ, những đế quốc sừng sỏ nhứt, từ Ấn Độ cho tới Trung Hoa, tất cả đều bị thực dân chiếm đóng làm thuộc địa. Trung Hoa bị các đại cường “phân liệt” thê thảm hơn hết. Vì đế quốc này giàu quá. Đây là thời kỳ “trăm năm nhục nhã” của đất nước Trung Hoa. Tất cả các nước trong khu vực, không ngoại lệ, từ Ấn Độ trải dài qua tới Trung Hoa, đều trở thành thuộc địa của nước ngoài.

Ngoại trừ Nhật, nước này thấy coi bộ “chống không lại” nên “thua trước cho cao cờ”. Bèn mở cửa cho nước ngoài (Mỹ) vào buôn bán. Mục đích của Mỹ, cũng như các đế quốc khác, là tìm một chỗ trú chân, trước để buôn bán, sau là nơi dưỡng quân. Mục đích của các đế quốc là “xẻ thịt” con heo mâp ú là Trung Hoa.

Việt Nam đã có thể trở thành một nước Nhật, nếu Hiệp ước Versailles 1787 được Pháp thi hành. Việt Nam được một đại cường hải quân bảo vệ, qua một hiệp ước “an ninh hỗ tương”, không khác gì các hiệp ước an ninh giữa Mỹ và các đồng minh NATO hay Nhật, Hàn, Phi… Nước nào lại không cắt đất cho Mỹ đóng quân? Nước nào không trả tiền để được Mỹ bảo vệ? Vụ này tôi cũng đã nói rồi.

***

Không có một bằng chứng nào cho thấy nhà Nguyễn “cõng rắn cắn gà nhà”. Nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy ông Hồ và các hậu duệ cộng sản của ông đích thị là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy ông Hồ và hậu duệ đã “bán nước có văn bản”.

Biết bao nhiêu tài liệu từ nguồn Trung quốc, từ Mỹ, trong các thư viện các nước Tây phương… từ nhiều thập niên trước, đã cho ta thấy vai trò của Trung quốc trong cuộc kháng chiến gọi là “đánh Pháp giành độc lập”.

Khởi đầu phải tính từ cột mốc tháng 8 năm 1945: Thời điểm Nhật đầu hàng Đồng minh. Sử sách CSVN khoe khoang là “Việt Minh đã thành công đánh pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh để cướp chính quyền“.

Sự thật là sau khi quân Đồng minh vào Việt Nam để giải giới quân Nhật, miền Bắc được ủy nhiệm cho quân Trung Hoa Dân quốc và miền Nam cho quân Anh. Quân Trung Hoa vô tới đâu là tước vũ khí của Việt Minh tới đó, rồi giao chính quyền địa phương cho quân Việt Quốc. Miền Nam thì Anh “trả chủ quyền của An Nam” lại cho Pháp. Tức là không có vụ “đánh Pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh” mà chỉ có vụ Việt Minh “chạy có cờ”.

Nhờ thuật “bôi trơn” (truyền lại cho tới ngày nay) ông Hồ được Trung Hoa ủng hộ, ép Pháp ký Hiệp ước sơ bộ. Vấn đề là khi ký nhận, ông Hồ nhìn nhận “nước của ông Hồ” thực tế chỉ là một “tiểu bang tự do” trong “liên bang Đông dương thuộc Pháp”. Tức là cái “chính danh” của ngày 2-9-1945 rốt cục chỉ là “làm tay sai” lại cho Pháp mà thôi!!! Vụ này ông Bảo Đại có phê bình như vầy: “Để sửa sai ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu“.

Rõ ràng y chang như vậy: Ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu.

Sau năm 1949, nhờ sự trợ giúp về quân sự lẫn nhân sự từ cộng sản Tàu, lực lượng ông Hồ ngày càng mạnh, trên vùng biên giới. Trận Điện Biên Phủ năm 1954, quân ông Hồ thắng quân Pháp hay là quân Tàu thắng quân Pháp?

Bàn cãi vụ này tới chiều chưa hết. Để biết ai thắng, ta nên quy chiếu về Hiệp định Genève 1954. Bên nào chủ động trong bàn Hội nghị Genève? Xin thưa một bên là Pháp (dĩ nhiên), bên kia là Trung Cộng. Châu Ân Lai đóng vai chánh, Phạm Văn Đồng ngồi cho có. Kết quả phân chia Việt Nam ở vĩ tuyến 17, là quyết định của họ Châu.

Tới đây tạm đặt một dấu chấm để nói về “quyền dân tộc tự quyết”, là nền tảng của tính “chính danh” trong cuộc “đánh Pháp giành độc lập” của phe Cộng sản Việt Nam.

Làm gì có chuyện “tự quyết”, bởi vì sau lưng ông Hồ có Trung Cộng ủng hộ, từ cây súng, viên đạn, hột gạo… Trên mặt trận thì cố vấn Tàu Cộng chỉ vẽ đánh thế nào, đánh ở đâu v.v… Trên bàn hội nghị thì có Châu Ân Lai thương nghị với Pháp. Tức là Trung Cộng thủ vai chánh, “quyết” mọi thứ với địch thủ là Pháp.

Trong khi Việt Nam đã được Pháp trả độc lập trước đó 5 năm rồi, qua Hiệp ước Elysée 1949.

Việt Nam đã độc lập rồi, năm 1951 nước Việt Nam này tham dự Hội nghị San Francisco 1951, với tư cách là “quốc gia độc lập có chủ quyền, có tuyên bố chiến tranh với Nhật“. Việt Nam là khách mời của Mỹ.

Chuyện “đánh Pháp giành độc lập” của ông Hồ thực tế chỉ là chuyện “thọc gậy bánh xe” của Trung Cộng. Mao Trạch Đông không muốn có một Việt Nam thân tư bản ở sát nách nước mình.

Cho đến năm 1958, ông Hồ và chính phủ ký công hàm 1958, trong đó tôn trọng và thực thi mọi yêu sách về lãnh hải 12 hải lý, trên những vùng lãnh thổ của Trung quốc. Vấn đề là yêu sách của Trung Quốc bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Công hàm Phạm Văn Đồng ký năm 1958. Ảnh trên mạng

Quan điểm của nhà nước CSVN đối với công hàm này là gì?

Đó là nhà nước CSVN chỉ nhìn nhận lãnh hai 12 hải lý mà thôi. Không có chuyện gì khác nữa.

Theo tôi đây là lập luận ngu xuẩn nhứt trong những lập luận ngu xuẩn khác của CSVN về chủ quyền biển đảo.

Khi công nhận hiệu lực 12 hải lý thì nhà nước CSVN đã mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực của công hàm 1958.

Mọi bàn luận khác của học giả CSVN chung quanh chuyện này để phủ nhận công hàm 1958 trở thành chuyện hài.

Vấn đề là khi nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958 rồi, thì công hàm này phải được rọi dưới luật pháp quốc tế.

Chiếu luật quốc tế về “hiệu lực các tuyên bố đơn phương”. Không cần giải thích dông dài. Khi Việt Nam đã nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958. Việt Nam đã mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Chiếu Luật quốc tế về Biển 1982, Việt Nam nhìn nhận hiệu lực công hàm thì Trung Quốc có quyền yêu sách hải phận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa lên tới 200 hải lý.

Ngưng chuyện Hoàng Sa và Trường Sa ở đây.

Là gì? Là đích thị ông Hồ và hậu duệ ông Hồ đã chủ trương “bán nước”. Bán nước có văn tự hẳn hoi.

Học giả CSVN nghe ông Hồ dựng chuyện về Nguyễn Ánh rồi cả đàn hùa nhau “lật sử”, buộc Nguyễn Ánh về tội “bán nước”.

Ai bán nước có văn tự, Gia Long hay ông Hồ?

Cho tới cuộc chiến 54-75, có tới trên 300 ngàn quân Trung Cộng có mặt tại Việt Nam, giúp CSVN trong suốt cuộc chiến tranh “đánh Mỹ cứu nước”.

Theo luật quốc tế về việc thực thi quyền “dân tộc tự quyết”, khi một dân tộc gọi là “bị áp bức” nhờ tay một thế lực ngoại bang giúp đỡ để chống lại thế lực áp bức, quyền tự quyết của dân tộc này đã tiêu vong. Ta thấy quân Palestine khi chống Do thái, với danh nghĩa là sử dụng “quyền dân tộc tự quyết”, ta thấy có người ngoài nào trong hàng ngũ của họ hay không?

Tức là khi CSVN vịn vào quyền “dân tộc tự quyết” để “đánh Mỹ, giải phóng miền nam” mà trong hàng ngũ của họ lại có mặt 30 sư đoàn quân Tàu Cộng, thì CSVN không còn chánh nghĩa nào nữa cả.

Ngay cả khi quân Tàu chỉ đóng ở ngoài Bắc, thì theo luật và tập quán quốc tế, Trung Cộng vẫn là “một bên” can dự vào chiến tranh Việt Nam. Đây là lý do mà các nước EU không gởi quân giúp Ukraine tự vệ đánh lại Nga, ngay cả khi đạo quân này chỉ ở hậu phương không chạm súng với Nga.

Tức là gì?

Là không có chuyện “giải phóng miền Nam” mà chỉ có chuyện “xâm lược miền Nam”. Khi quyền tự quyết đã tiêu vong thì danh nghĩa “giải phóng” cũng thành mây khói.

Rốt cục lại, Gia Long hay Hồ Chí Minh, ai là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”?

Rắn Trung Cộng, rắn Liên Xô, rắn Bắc Hàn… có mặt cả đàn theo lời kêu gọi của ông Hồ và đảng CSVN.

Phê phán Gia Long thì phải lập luận theo “hệ quy chiếu thiên mạng”.

Phê phán ông Hồ thì phải quy chiếu theo luật lệ và tập quán quốc tế hiện hành.

Không phải ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN “cõng rắn cắn gà nhà” thì còn ai vô đây?

Có người dân miền Nam nào muốn được mấy ông cộng sản giải phóng? Không có ai hết. Việt Cộng vô tới đâu dân chạy “chết mẹ” tới đó, biết chết trong bụng cá họ vẫn chạy. Ngay cả bây giờ, thà chết trong thùng đông lạnh người Việt Nam vẫn bỏ nước ra đi. Không có bấy nhiêu người muốn ở lại Việt Nam để “xây dựng đất nước” với đảng CSVN hết cả.

Không ai tin vào cộng sản bất cứ một chuyện gì hết cả, huống chi là chuyện lịch sử.