NÊN CẢM ƠN AI?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 

“Được thừa hưởng một nền giáo dục nhân bản, nên gương mặt rất Chân chất và đôn hậu.”

Trong hình là tiến sĩ Nguyễn Thị Hoàng Dương (Kelly Nguyễn), quê Quảng Ngãi.

Hiện cô làm việc tại MRC-Phòng thí nghiệm về sinh học phân tử tại Cambridge, Anh quốc. Báo chí loan tin cô sẽ được trao huy chương Colworth năm 2024 vì những kết quả nghiên cứu xuất sắc.

Cô là nhà khoa học người Việt đầu tiên nhận huy chương này trong lịch sử 60 năm của giải thưởng.

Con đường của tiến sĩ Hoàng Dương bắt đầu khi học xong lớp 10 ở tỉnh nhà, cô nhận học bổng toàn phần chương trình phổ thông tại Trường nữ sinh Wellington New Zealand.

Khi tốt nghiệp xong, cô có thành tích rất tốt và thi đậu học bổng toàn phần học Hóa học tại đại học danh giá Australian National University (ANU). Ở đây, cô học rất giỏi và tốt nghiệp với hạng đứng đầu khóa học First Class Honours với một huy chương University Medal. Thường 1 năm chỉ có 1 sinh viên của khoa nhận vinh dự này.

Từ kết quả đó, năm 2010 cô được nhận vào học tiến sĩ với học bổng toàn phần tại University of Cambridge (Trinity College).

 Cô tốt nghiệp tiến sĩ khi mới chỉ 26 tuổi và ở lại trường làm công tác nghiên cứu. Cô cũng từng qua nghiên cứu tại Đại học California Berkeley, Mỹ.

Là một nhà nghiên cứu về sinh học phân tử đầy tiềm năng, cô đã từng nhận rất nhiều giải thưởng quốc tế danh giá về chuyên ngành.

Trinity College, nơi cô theo học tiến sĩ và đang làm việc là đại học tốt nhất của Viện đại học Cambridge- trường đại học chất lượng bậc nhất thế giới. Thành lập từ 1546, trường này đã có 34 thành viên nhận giải thưởng Nobel (trong số 121 giải thưởng mà các thành viên của Đại học Cambridge nhận được). Đây là trường mà nhà vật lý Isaac Newton và rất nhiều vĩ nhân từng theo học.

Trường chỉ hiện có tổng số 180 sinh viên tiến sĩ, do đó được vào đây học hành và đỗ đạt là vô cùng vinh dự.

Có một nhà khoa học Việt tại nước Anh, trong 1 trung tâm khoa học lớn của thế giới như tiến sỹ Hoàng Dương thật quý báu. Chúc mừng cô và mong cô đạt nhiều thành tựu khoa học mới.

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

NGUYÊN NHÂN CÔNG AN TỈNH LONG AN TRUY BỨC THIỀN AM

Việt Tân 

– Luật sư Mạnh Đăng-

Tôi đã nhiều lần bắt gặp câu hỏi rằng “Tại sao Thiền Am lại bị công an Long An truy bức đến mức độ như vậy?”. Vì thật khó hiểu khi Thiền Am chỉ là một cơ sở tu tại gia và một số thành viên có hoạt động văn nghệ giải trí cho công chúng mà thôi…

Thật ra, chỉ những ai đã từng quan tâm theo dõi đến các hoạt động của Thiền Am, từ cách họ mưu sinh bằng tài năng văn nghệ của mình, cũng như cách họ vụng về đối phó với những thị phi ập đến… mới có thể có câu trả lời đúng đắn và đầy đủ. Vì lẽ, nguyên nhân của sự việc đã trải dài theo nhiều năm.

Qua đó, theo nhận xét của tôi, có 6 nguyên nhân chính khiến cho Thiền Am bị truy bức:

– Sự nổi tiếng của Thiền Am, một cơ sở tu hành từ chối sự quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tiềm ẩn thách thức an ninh đối với chính quyền địa phương;

– Thiền Am từ chối cộng tác với Thích Nhật Từ và từ chối vào Giáo hội Phật Giáo Việt Nam khiến cho Thích Nhật Từ tố cáo trả đũa;

– Công an trả đũa vụ tai tiếng hối lộ 300 triệu bất thành làm mất uy tín ngành công an tại địa phương;

– Công an che dấu tội phạm trong vụ 50 côn đồ xâm nhập vào Thiền Am để hành hung người, đập phá, trộm cắp tài sản;

– Công an che dấu sự lạm quyền trong việc cưỡngbức đưa cô Bùi Ngọc Trâm đi khám phụ khoa;

– Công an che dấu sự lạm quyền khi bắt cóc cô Diễm My, một phụ nữ đã thành niên trái với ý muốn của cô ấy;

Cụ thể như sau:

  1. Đánh giá an ninh mang tính truyền thống của chế độ vốn không cho phép cá nhân, tổ chức được phép tồn tại nếu nổi tiếng và có khả năng hiệu triệu được công chúng. Cho dù hoạt động của các cá nhân, tổ chức đó không liên quan gì đến chính trị cả.

Sự tiềm ẩn về thách thức an ninh đối với chính quyền phải được triệt tiêu từ trong trứng nước.

Thiền Am đã trở nên rất nổi tiếng ở trong nước và nhất là ở ngoài nước, với những sản phảm video thu hút đến hàng chục vạn, thậm chí hàng triệu lượt xem và theo dõi đã vô tình trở thành mối tiềm ẩn về thách thức an ninh đối với chính quyền địa phương. Để triệt tiêu sự thách thức này, họ truy bức Thiền Am.

  1. Thiền Am đã thẳng thừng từ chối 2 lời mời của Thích Nhật Từ, trụ trì chùa Giác Ngộ và là một chức sắc thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gồm:

– Sau những thành công của Thiền Am qua việc đoạt các giải thưởng cao trong game show truyền hình và trên trang mạng xã hội, Thích Nhật Từ đã mời Thiền Am cộng tác để cùng tham gia vào các hoạt động kinh doanh của chùa Giác Ngộ do Thích Nhật Từ trụ trì. Nhưng Thiền Am đã từ chối.

– Thích Nhật Từ cũng mời Thiền Am tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhưng Thiền Am cũng từ chối. Theo lời ông cụ Lê Tùng Vân: “Vì Giáo hội Phật Giáo Việt Nam không xứng đáng để tôi tham gia”!.

Sĩ diện, “Ăn không được thì đạp đổ”, Thích Nhật Từ đã trả đũa bằng cách trở mặt, liên tục xúc phạm, bôi nhọ, đặt điều gây tổn hại đến thanh danh của Thiền Am trong một thời gian dài. Sau khi Thiền Am khiếu nại, tố cáo không được giải quyết, đã có lời xúc phạm trả đũa liền bị Thích Nhật Từ tố cáo yêu cầu công an xử lý.

Sự tố cáo của Thích Nhật Từ phù hợp với ý đồ của Công an tỉnh Long An, do đó, họ đã truy bức Thiền Am.

  1. Công an địa phương đã đòi hối lộ 300 triệu đồng để làm chứng minh nhân dân cho một số thành viên của Thiền Am. Sự việc bị tố cáo khiến cho công an mất mặt, mất uy tín.

Để trả đũa, họ truy bức Thiền Am.

  1. Như chính Võ Văn Thắng thừa nhận, với sự gợi ý của công an địa phương, Võ Văn Thắng đã huy động 50 tên côn đồ tự tiện xâm nhập vào Thiền Am, hành hung người gây thương tích, trộm cướp, đập phá tài sản… Tất cả đều có clip ghi ảnh, ghi hình đầy đủ.

Dù Thiền Am đã tố cáo, nhưng công an tỉnh Long An đã làm ngơ, không điều tra, không khởi tố vụ án với lý do đã làm mất hồ sơ và chứng cứ vụ án.

Để chạy tội cho 50 tên tội phạm và để che dấu sự bao che tội phạm của chính mình, họ truy bức Thiền Am.

  1. Cô Bùi Ngọc Trâm là một nữ tu tại Thiền Am và chưa từng lập gia đình. Cô ấy tố cáo luật sư Trần Quốc Dũ có phát ngôn trên mạng xã hội xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm.

Đổi lại, công an địa phương cưỡng chế đưa cô ấy đi khám phụ khoa để chứng minh lời luật sư Trần Quốc Dũ xúc phạm cô Trâm là đúng. Như là cách để cứu ông Dũ!

Từ tư cách người tố cáo, cô Bùi Ngọc Trâm bị công an tỉnh Long An ngang nhiên xúc phạm thân thể, danh dự. Cho dù sau đó luật sư Trần Quốc Dũ đã thừa nhận lỗi của mình.

Để che đậy cho sự lạm quyền của mình, họ truy bức Thiền Am.

  1. Cô Diễm My là một thiếu nữ đã thành niên. Cô ấy có toàn quyền quyết định chọn nơi cư trú ở nhà cha mẹ hoặc ở Thiền Am mà cô ấy mong muốn.

Nhưng Công an địa phương đã lừa gạt, dùng xe cứu thương đưa cô ấy về giao cho cha mẹ.

Do Thiền Am không biết sự lừa gạt này nên đã có phát ngôn cho rằng công an bắt cóc Diễm My là có lý do và hoàn toàn bình thường.

Để che đậy hành vi lừa gạt, bắt cóc một thiếu nữ đã thành niên trái với ý muốn của cô ấy và trả đũa phát ngôn “công an bắt cóc người”, họ truy bức Thiền Am.

KẾT LUẬN :

Truy bức Thiền Am là cách công an tỉnh Long An trả đũa và đang tự cứu lấy mình để: Che dấu các hành vi lạm quyền cùng các hành vi che dấu tội phạm của chính công an tỉnh.

Trong một xã hội bất công, lực lượng công an thay vì là giải pháp lại trở thành nguồn gốc gây ra bất công. Nó khiến cho mọi quan hệ xã hội trở nên méo mó. Theo đó, thì ngay cả việc dân lành chọn cách sống lương thiện cũng trở thành khó khăn.

Manh Dang

——-///——-

Ảnh: Đại tá Văn Công Minh, Phó Giám đốc công an tỉnh, người chủ trương xóa sổ Thiền Am


 

Ba ‘cô tiên’ gốc Việt cứu người suýt chết trong nhà hàng ở Little Saigon

Ba’o Nguoi-Viet

May 14, 2025

Văn Lan/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV) – Ba cô gái Việt Nam vừa được vinh danh trong một buổi tiệc nhỏ ở nhà hàng Brodard Chateau, Garden Grove, lúc 7 giờ tối 23 Tháng Tư, vì trước đó cứu được một người suýt chết trong một buổi tiệc ở một nhà hàng khác trong vùng Little Saigon.

Cô Michelle Đỗ (bìa trái, đại diện GSV Janet Nguyễn) trao tặng bằng tưởng lục vinh danh ba “cô tiên” cứu người, từ trái, Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Vì hành động anh hùng đó mà ba “cô tiên” Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm được Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn tuyên dương.

Tại buổi tiệc, cô Michelle Đỗ, đại diện vị dân cử gốc Việt, trao tặng bằng tưởng lục đến ba người này, và nói rằng: “Họ đã có hành động anh hùng, phản ứng nhanh chóng và vị tha trong trường hợp khẩn cấp đe dọa tính mạng người khác. Khi sự việc xảy ra, hô hấp nhân tạo (CPR) và sự hỗ trợ cần thiết của họ đã đóng vai trò quan trọng trong việc cứu sống một người. Lòng dũng cảm và lòng trắc ẩn mà bạn thể hiện phản ảnh lý tưởng cao nhất về tinh thần cộng đồng và lòng nhiệt huyết.”

Được biết, sự việc xảy ra tại nhà hàng White Palace, Westminster, hôm 15 Tháng Hai.

Cô Tricia Hoàng, y sĩ của bệnh viện UCI, nhớ lại: “Hôm đó ở nhà hàng rất đông người, rất ồn ào và náo nhiệt. Khi em đang cắt bánh sinh nhật, bỗng nhiên ông xã em chạy lại báo có một phụ nữ không được khỏe. Em chạy lại thấy người phụ nữ lúc đó còn tỉnh nhưng mặt mày phờ phạc y như người thiếu ngủ.”

“Rồi gương mặt cô ấy tái nhợt, cô không còn thở, té ngửa ra bất tỉnh kéo em té theo. Em đỡ cô ấy lên làm CPR (bằng miệng). Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là y sĩ, chạy tới làm phương pháp đập ngực để giúp tim bệnh nhân có nhịp đập trở lại. Khoảng hơn 5 phút sau, cô ấy bắt đầu thở lại được. Tiếp đến, cô Vannessa Nina Rose Phạm chạy tới nâng đầu cô ấy qua một bên, và cô ta nôn mửa lên người Nina. Mấy phút sau, xe cấp cứu tới chở cô ấy đi bệnh viện,” cô Tricia kể tiếp.

Cô Liên Nguyễn (ngồi, thứ hai từ phải), em cô Vân Nguyễn, đại diện chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” đã cứu sống chị cô. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Theo cô Tricia, “có thể cô ấy bị nhồi máu cơ tim, hoặc là gì khác nữa chăng, có nhiều nguyên nhân lắm. Ngay lúc nguy cấp đó em chỉ biết cứu người thôi. Nếu mình biết cách cứu chữa thì nên làm. Là người trong ngành y thấy người sắp chết không thể không cứu.”

Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là một y sĩ lâu năm, cộng tác với Trung Tâm Y Tế Michael Đào tám năm nay, cho biết khi cô chạy đến, bệnh nhân đã bất tỉnh, mặt tái ngắt và không còn hơi thở.

Cô tiếp: “Tricia đỡ cô ấy nằm xuống đất làm hô hấp nhân tạo, và em thăm dò coi mạch máu ở cổ còn đập hay không. Khi không thấy nhịp đập thì Tricia làm CPR, còn em kích thích nhịp tim bằng CPR, ấn lòng ngực nhiều lần để hồi sức tim phổi, kết hợp giữa ép tim trong lồng ngực và thông khí nhân tạo.”

“Sau đó, bệnh nhân có hơi thở trở lại nhưng rất yếu, tụi em ngưng làm CPR, lay cho đến khi cô mở mắt ra thì nạn nhân buồn nôn, phải đặt cô ấy nằm nghiêng một bên đề phòng khi ói không chảy ngược vào cuống phổi. Cô ấy ói rất nhiều, vài phút sau là xe cấp cứu tới đưa nạn nhân đi nhà thương,” cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần kể.

Cô Jacqueline kể thêm: “Trường hợp này cho thấy triệu chứng của người bị nhồi máu cơ tim. Ví dụ như không còn hơi thở, không còn nhịp tim, mặt tái lại, nếu để nạn nhân nằm yên không can thiệp kịp thời thì nguy cơ tử vong rất cao vì não không có oxy. Nếu có cứu được thì não cũng bị tổn thương, tuy sống sót nhưng có thể bị đột quỵ, nếu chúng em không có ở đó, có thể chuyện không hay đã xảy ra.”

Nhóm bạn và đồng nghiệp của ba “cô tiên” cứu người, trong buổi tiệc mừng vinh danh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Cô Vannessa Nina Rose Phạm, Hoa Hậu Nhân Ái California, cũng có mặt trong giây phút cấp cứu người bị nạn.

Cô cho hay cô cũng là y tá ở San Jose, California. Trong phút giây nguy cấp, cứu người là hành động tức khắc, chậm một giây phút nào là nguy đến tính mạng ngay lập tức.

Tại buổi tiệc, cô Vân Nguyễn, người bị ngưng tim trong tiệc sinh nhật hai tháng trước đã được cứu thoát trong gang tấc, vì bận việc không đến dự được, nên cô Liên Nguyễn là em của cô Vân, thay mặt chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” trong đời thường, đã kịp thời cứu chị cô qua cơn nguy hiểm.

Cô Michelle Đỗ cho hay hành động nhanh chóng, phản ứng kịp thời của ba cô này để cứu người đang cơn nguy cấp đến tính mạng rất đáng ca ngợi, vì không phải ai biết CPR cũng có thể làm với phản xạ cấp kỳ như vậy được.

Cô tiếp: “Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn khuyến khích mọi người nên biết đến phương pháp CPR này, ít nhất là trong gia đình để khi gặp trường hợp khẩn cấp có thể hành động nhanh được, cứu sống một mạng người rất quan trọng, mọi người nên để ý đến.” [đ.d.]


 

Nguy cơ vỡ nợ : Liệu Mỹ có lặp lại lịch sử năm 1933 ?

RFI

Ngày 10/05/2025, bộ trưởng Tài Chính Scott Bessent cảnh báo Mỹ có nguy cơ sẽ không còn khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính vào tháng 8 nếu không đình chỉ hoặc nâng trần nợ công. Trong thư ngỏ gởi đến chủ tịch Hạ Viện Mike Johnson, ông kêu gọi Quốc Hội sớm hành động nhằm « duy trì mức độ tin cậy và lòng tin » của cộng đồng quốc tế và các chủ nợ đối với Hoa Kỳ.

Đăng ngày: 14/05/2025 

Ảnh minh họa: Tờ một đô la Mỹ.

Ảnh minh họa: Tờ một đô la Mỹ. AFP – ANDY JACOBSOHN

Minh Anh

Lời kêu gọi này được ông Bessent đưa ra vào lúc Quốc Hội Mỹ đang thảo luận về việc điều chỉnh trần nợ, hiện đã ở mức 36.000 tỷ đô la – một giới hạn đã được Quốc Hội phê duyệt và đã bị vượt quá từ tháng Giêng năm 2025. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Hoa Kỳ thực sự mất khả năng huy động thanh khoản ? Câu chuyện Mỹ bị vỡ nợ và đơn phương tái cấu trúc nợ năm 1933 vẫn còn ám ảnh giới chuyên gia cho đến ngày nay.

Vỡ nợ công là gì ?

Giáo sư Charbel Cordahi, chuyên ngành Tài Chính và Kinh tế, Trường Quản trị Kinh doanh Grenoble, trên trang The Conversation (07/05/2025) trước hết giải thích, vỡ nợ công diễn ra khi một quốc gia không thực hiện được mọi nghĩa vụ tài chính, bao gồm cả việc trả lãi cho các chủ nợ. Một trong nhiều lý do chính yếu khiến một nước vỡ nợ là do tình trạng trì trệ kinh tế kinh niên, được đặc trưng bởi tăng trưởng thấp, thâm hụt ngân sách liên tục và mất cân đối cơ cấu trong tài khoản vãng lai cũng như là mức độ mắc nợ quá mức.  

Việc « phớt lờ » các dấu hiệu cảnh báo là yếu tố « quyết định » dẫn đến việc mất khả năng thanh toán, chẳng hạn như một chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm thúc đẩy mở rộng tiền tệ và giảm nhẹ gánh nặng nợ thông qua lạm phát hay giảm giá đồng nội tệ. Những lập luận ủng hộ cho việc vỡ nợ thường được dựa trên việc giảm bớt gánh nặng nợ nần, giảm dòng chảy vốn ra bên ngoài, bảo toàn dự trữ ngoại hối cũng như là nhu cầu đàm phán lại nợ.

Chuyện gì đã xảy ra giai đoạn 1840-1842 ?

Giai đoạn 1840 – 1842 đánh dấu một trong những sự sụp đổ ấn tượng nhất và bất ngờ nhất trong lịch sử nước Mỹ : 19 trong số 26 bang rơi vào tình trạng vỡ nợ. Nguyên nhân là do chi phí xây dựng kênh đào quá cao dẫn đến việc chồng chất nợ quá mức. Trong những năm 1830, nhiều bang Mỹ ký các khoản vay nợ để tài trợ các dự án hạ tầng và xây dựng kênh đào, thiết yếu cho sự phát triển kinh tế. Các dự án này chủ yếu được tài trợ thông qua việc phát hành trái phiếu Nhà nước. 

Một thế kỷ sau, trong suốt năm 1933, chính phủ Mỹ từ chối trả niên kim vàng nợ cho Panama theo hiệp ước 1903, tiểu bang Arkansas vỡ nợ và chế độ bản vị vàng bị tân tổng thống Franklin Roosevelt đình chỉ.

Sập sàn chứng khoán 1929 : Điểm xuất phát cho cuộc Đại Suy Thoái ?

Giới kinh tế gia thường coi vụ sập sàn chứng khoán Thứ Năm Đen Tối, xảy ra ngày 24/10/1929 như là điểm xuất phát cho cuộc Đại Suy Thoái Mỹ. Vào lúc đỉnh điểm, năm 1933, một phần tư dân số Mỹ trong độ tuổi lao động, tức khoảng 12,83 triệu người, bị thất nghiệp. Thu nhập của những lao động may mắn giữ được việc làm sụt giảm đến 42,5% trong giai đoạn 1929 – 1933. Tình trạng « đình lạm » đã xẩy ra, một hiện tượng hiếm gặp mà ở đó, đình trệ kinh tế diễn ra vào lúc lạm phát tăng cao.

Từ bỏ chế độ bản vị vàng

Trang mạng Le Temps (16/08/2018) nhắc lại rằng khi chính thức nhậm chức ngày 04/03/1933, tổng thống Franklin D. Roosevelt còn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng ngân hàng gay gắt đến mức ông phải ra lệnh đóng cửa các ngân hàng nhiều ngày. Nguyên nhân : đồng đô la được bảo đảm bằng vàng. Do đô la mất giá, người dân chuyển đổi đô la thành vàng, dự trữ vàng của ngân hàng sụt giảm mạnh.

Vào thời điểm đó, vàng còn có một vai trò chủ chốt khác. Hầu hết các hợp đồng nợ, tư nhân và nhà nước, đều có điều khoản vàng, quy định trả nợ bằng vàng để bảo vệ nhà đầu tư trước nguy cơ đồng đô la trượt giá. Điều khoản này có liên quan đến một khoản nợ đáng kể, 120 tỷ đô la, tức chiếm đến 180% GDP nước Mỹ.

Để ngăn chặn tình trạng thất thoát kim loại quý này và bình ổn nền kinh tế quốc gia, tháng 4/1933, chính phủ Mỹ đã đình chỉ khả năng chuyển đổi của đồng đô la, đồng thời cấm những người nắm giữ đô la, bất kể là Mỹ hay nước ngoài, đổi tiền thành vàng. Biện pháp này đặt dấu chấm hết cho chế độ bản vị vàng, một hệ thống tiền tệ có hiệu lực từ năm 1879, theo đó, tiền tệ được bảo đảm bằng vàng.

Cùng lúc, tổng thống Roosevelt ra lệnh đổi tất cả các đồng tiền vàng và chứng chỉ vàng có giá trị hơn 100 đô la sang các loại tiền tệ khác. Ông bắt buộc tất cả những ai trữ đồng tiền vàng, thỏi vàng và chứng chỉ vàng phải « bán » cho Cục Dự trữ Liên bang trước ngày 01/05, với mức giá ấn định là 20,67 đô la/ounce. Đến ngày 10/05/1933, chính phủ Mỹ thu được 300 triệu đô la tiền vàng và 470 triệu đô la chứng chỉ vàng.

Trang Le Temps cho biết thêm, đến ngày 05/06/1933, Quốc Hội Mỹ hủy tất cả các điều khoản vàng của các hợp đồng có hiệu lực hồi tố, bao gồm cả những hợp đồng có liên quan đến chủ nợ nước ngoài. Một đòn sét đánh tại một nước được biết đến vì sự tôn trọng các cam kết của mình. Ngày 31/01/1934, tổng thống Roosevelt cho giảm giá đồng đô la đến 69% khi định giá vàng ở mức 35 đô la.

Những quyết định trên đã dẫn đến một cuộc chiến pháp lý giữa các nhà đầu tư với chính quyền Roosevelt, và làm dấy lên những chỉ trích cho đấy là « một hành vi vi phạm hợp đồng và chuyển giao tài sản từ chủ nợ sang con nợ », một quyết định « vi hiến »…

Mỹ « phủi » một phần nợ đối với Panama

Theo Charbel Cordahi, chính sách tái cấu trúc nợ đơn phương bằng vàng của Mỹ năm 1933, tuy phần nào đã làm giảm mạnh gánh nặng nợ của Mỹ, cho phép phục hồi nền kinh tế, nhưng cũng đã dẫn đến tình trạng vỡ nợ đối với Panama.

Quyết định của Mỹ hủy các điều khoản trả nợ bằng vàng đã làm cho những khoản nợ vay với Panama bị mất giá đến 41%. Chính phủ Mỹ từ chối thanh toán vào ngày đáo hạn bằng đồng vàng balboa, loại tiền tệ được định giá theo vàng và được sử dụng làm biểu tượng cho tiền tệ quốc gia Panama.

Việc bác bỏ một phần nợ đối với Panama đã gây ra những căng thẳng chính trị chưa từng có giữa hai nước. Phải đợi đến năm 1936, chính quyền Mỹ mới thực sự trả số tiền đã thỏa thuận bằng đồng vàng balboa.

Bang Arkansas mất khả năng thanh khoản

Trong cùng năm 1933, ngoài hai vụ vỡ nợ trên, còn xảy ra việc bang Arkansas mất khả năng thanh toán. Bang này, bị tác động mạnh bởi cuộc Đại Suy Thoái, đã không thể thanh toán các trái phiếu hạ tầng mà chính quyền bang Arkansas phát hành trong những năm 1920 để tài trợ cho các dự án xây đường cao tốc, được bảo đảm bằng nguồn thu thuế đất.

Tuy nhiên, nguồn thu thuế sụt giảm mạnh, kết hợp với khoản nợ ngày càng lớn đối với các ngân hàng của phố Wall khiến việc trả nợ trở nên bất khả thi. Ngay từ năm 1932, chính quyền bang không còn khả năng thanh toán khoản nợ gồm cả gốc lẫn lãi là 11 triệu đô la. Các nỗ lực của chính quyền bang như tái cấu trúc nợ, hay hợp nhất trái phiếu thành một đợt phát hành mới duy nhất đều bị phản bác.

Trong tình thế này, chính quyền Arkansas phải đình chỉ trả tiền nợ gốc và lãi đối với hàng triệu đô la trái phiếu. Và Arkansas trở thành bang duy nhất ở Mỹ bị vỡ nợ trong suốt cuộc khủng hoảng kinh tế của những năm 1930. Chỉ đến cuối thập niên 1930, bang này mới có thể quay trở lại thị trường tín dụng nhưng phải chịu các điều kiện ràng buộc hơn nhiều như phải tăng thuế và từ bỏ một phần quyền kiểm soát các nguồn thu từ đường cao tốc được dùng để trả nợ.

Liệu lịch sử có tái diễn ?

Dự phóng tương lai là một việc làm tế nhị và việc để vỡ nợ luôn phải trả giá. Trong trường hợp của Mỹ, việc mất khả năng thanh toán có thể làm dấy lên nghi ngờ về vị thế trụ cột của đồng đô la trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Nhiều nước đã bắt đầu nghĩ đến nguy cơ vỡ nợ có chọn lọc đối với nợ của Mỹ. Hiện tượng này sẽ xảy ra khi một Nhà nước quyết định chọn không thanh toán một số khoản nợ trong khi vẫn tiếp tục trả các khoản nợ khác. Chiến lược này cho phép giảm nợ mà vẫn duy trì được niềm tin đối với các nhà đầu tư.

Giáo sư Charbel Cordahi kết luận : Chỉ có thời gian mới có thể trả lời…

(Nguồn The Conversation, Le Temps)


 

CÁI NƯỚC MÌNH NÓ THẾ ..

Hắn đưa ông bố viêm túi mật đi cấp cứu nhà thương. Bệnh cụ căng quá. Bác sỹ bảo phải mổ ngay.

“Gia đình mình cho cụ mổ CÔNG NGHỆ CAO nhé ?!”

“Ngoài công nghệ cao còn có mổ gì, thưa bác sỹ ?!” – Hắn hỏi một cách cầu thị.

Tay bác sỹ nhìn hắn như nhìn một thằng ngố lạc loài, đáp: “Mổ thường chứ còn mổ gì !”.

Vì lơ mơ không hiểu nên hắn định hỏi thêm về “Mổ Công nghệ cao” và “Mổ thường” khác nhau thế nào nhưng rồi kinh nghiệm đi viện khiến hắn ngậm miệng.

Hắn gọi điện nhờ tư vấn. Ông bạn thân quát lên trong máy: “Lăn tăn gì nữa! Công nghệ cao! Nhanh và luôn !”.

Ca mổ thành công rực rỡ. Tất nhiên chi phí “công nghệ cao” cũng… cao hơn vài chục triệu đồng. Mổ xong ắt phải nằm hồi sức.

“Gia đình cho cụ nằm hồi sức TÍCH CỰC hay hồi sức thường ?!”

Kinh nghiệm của “công nghệ cao” cho hắn quyết định nhanh gọn: “Vâng! Xin theo hồi sức tích cực”.

Quyết định của hắn thật sáng suốt. Phòng “Hồi sức tích cực” nằm ngay gần cầu thang chứ không xa xôi heo hắt như “hồi sức thường”. Phòng có cả… dép tổ ong đỏ thắm, cắt cụt mũi cho người nhà bệnh nhân. Ở đây đủ loại máy móc, thầy thuốc ra vào chăm sóc tận tình. Vì “tích cực” nên mấy cô osin cũng có vẻ sang chảnh hơn, móng chân, móng tay, điện thoại đều đời mới. Các cô đi lại chộn rộn và thường nhìn mấy cô osin “hồi sức thường” với con mắt rất… thường.

Chưa hết, ngày đầu ở phòng “tích cực” hắn bối rối khi bác sỹ hỏi:

“Gia đình mình cho cụ dùng THUỐC TỐT nhé ?!”;

Hắn giật mình: “Sao nhỉ! Đã tích cực thì thuốc phải tốt chứ ?!”. Dù thắc mắc vậy, trước mặt anh chị em, họ hàng, bạn bè, hắn vẫn dõng dạc tuyên bố: “Thuốc tốt tất nhiên !”

Tiếc rằng, dù mổ công nghệ cao, hồi sức tích cực và dùng thuốc tốt, bố hắn vẫn qua đời không lâu sau khi nhập viện.

Tưởng chết là hết ai ngờ khi gọi điện tìm nhà tang lễ, đầu dây bên kia có người hỏi:

“Gia đình mình dùng DỊCH VỤ TRỌN GÓI hay dịch vụ thường ?”.

Đang sẵn đau thương bối rối nên hắn trả lời cho xong: “Bình thường thôi !”. Hắn không ngờ không dùng “trọn gói”, dịch vụ bình thường lại không… bình thường chút nào. Nhưng chuyện đã dài rồi, để lúc khác kể tiếp…

Thực lòng chuyện này viết ra không phải để đau thương căm hận mà để hài hước đồng ý với danh ngôn: “Cái nước mình nó thế !…”

Nguồn: Tào lao kẻ chợ


 

CHÍNH THIÊN CHÚA ĐÃ NÂNG ĐỠ TÔI TRONG CHỐN LAO TÙ- Tu Huynh Anh

Tu Huynh Anh is with Chim Toc Trang

 (Tính không đăng nhưng một số người sau khi nghe lại muốn đọc thêm nên tôi post ở đây.  Bài phát biểu tại Thượng viện Hoa Kỳ hôm 1 Tháng Năm, 2025. Nhan đề tôi vừa đặt).

CHÍNH THIÊN CHÚA ĐÃ NÂNG ĐỠ TÔI TRONG CHỐN LAO TÙ

Kính thưa quý vị!

Trước tiên, tôi xin cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội hiện diện tại đây hôm nay.

Thật khó để truyền tải chặng đường 14 năm tù đày chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Tôi ra tù đã gần 12 năm, có những điều đã phai mờ, nhưng cũng có những ký ức sẽ theo tôi suốt đời.

Tôi và người em trai, Huỳnh Anh Trí, bị bắt vào đêm 29/12/1999. Sau đó, họ đưa anh em tôi đến hai địa điểm khác nhau để tra khảo. Hơn mười viên an ninh thay nhau hỏi cung tôi suốt 72 giờ không ngừng nghỉ. Suốt ba ngày ba đêm, tôi không được ăn, không được ngủ. Nhiều lúc không thể chịu đựng nổi, tôi gục xuống bàn. Mỗi lần như thế, họ lại nắm tóc dựng tôi dậy và hắt nước vào mặt tôi.

Một trong số họ đã đánh tôi, trong khi những viên an ninh khác thì chửi bới, đe dọa: nếu không nhận tội, tôi sẽ đối mặt với bản án 20 năm tù, hoặc chung thân, thậm chí tử hình.

Sang ngày thứ tư, họ đưa tôi vào buồng biệt giam rộng chừng 6 mét vuông, không cửa sổ, ăn uống và tiêu tiểu tại chỗ. Sau 72 giờ bị tra khảo liên tục, tôi tưởng rằng mình sẽ được nghỉ ngơi. Nhưng vừa thiếp đi, lập tức trong đầu tôi vang lên thứ âm thanh rất đáng sợ, lúc thì như là tiếng tru tréo kinh hoàng, khi thì giọng cười ma quái. Tôi cố bịt tai lại, nhưng âm thanh ấy càng lúc càng rợn người. Hơn mươi sáu năm đã trôi qua, đôi khi âm thanh đó vẫn bất ngờ quay lại, khiến tôi hoảng loạn.

Tôi bị biệt giam khoảng một năm rưỡi trước khi ra tòa. Tám tháng đầu, tôi liên tục bị gọi đi cung lúc 1–2 giờ sáng. Gần sáng họ đưa tôi trở lại buồng, và chỉ vài tiếng sau lại có nhóm khác đến tiếp tục lôi tôi đi thẩm vấn. Chúng tôi gọi hình thức này là “xa luân chiến” – một người phải đấu trí với cả chục an ninh.

Tôi từng bị chuyển qua 5 nhà tù khác nhau, chưa kể các lần chuyển buồng, chuyển trại.

Ký ức ám ảnh nhất đối với tôi là ĐÓI, RẤT ĐÓI.

Không ai có thể sống nổi ngần ấy năm tù nếu chỉ dựa vào khẩu phần ăn của nhà tù cung cấp.

Chúng tôi sống được là nhờ sự đùm bọc của các tu sĩ Công giáo – những người bị bắt sau năm 1975 chỉ vì là linh mục. Đói và thèm ăn đến mức, có hôm tỉnh dậy, tôi thấy miệng mình dính thứ gì như chất bột màu trắng. Tôi chợt nhớ, đêm trước mình đã mơ được ăn no, và trong mơ tôi đã nhai thật – điều ấy giải thích vì sao quanh miệng tôi dính chất màu trắng vào sáng hôm sau.

Kính thưa quý vị!

Tôi và em trai bị kết án 14 năm tù. Cùng vụ còn 38 người khác, bị kết án từ 2 đến 20 năm. Gần 10 người đã chết vì đói, vì lao động khổ sai, vì bệnh tật không được chữa trị. Chưa kể những người chết trong các vụ án khác, như ông Nguyễn Minh Tân – hàng ngày vẫn lao động cuốc đất, nuôi cá, gặt lúa… nhưng chết vì đói.

Tù chính trị và cả tù hình sự đều phải lao động khổ sai, làm các việc như khai hoang, cuốc đất, đào ao, trồng rau… nhưng những năm đầu, chúng tôi chưa bao giờ được ăn những gì mình làm ra – dù chỉ là vài cọng rau. Nhiều khi chúng tôi phải hái cỏ non        để ăn thay rau.

Chúng tôi đã  nhiều lần tuyệt thực để phản đối sự ngược đãi, yêu cầu cai tù thực thi đúng chính sách, quy định do chính nhà nước đề ra.

Cuộc tuyệt thực lâu nhất kéo dài 14 ngày tại trại giam Xuân Lộc, năm 2010, với hàng chục tù chính trị tham gia. Sau sự kiện đó, Tôi bị đưa về nhà tù An Phước, tỉnh Bình Dương.

Thưa quý vị!

Mười bốn năm tù không chỉ là sự chịu đựng bi kịch của cá nhân mình , mà tôi đã chứng kiến nỗi đau của biết bao người đồng cảnh ngộ. Tôi chưa từng thấy ai bị đánh đến chết, nhưng có nhiều người chết vì bị ngược đãi, một cách đàn áp tinh vi và có hệ thống”. Ví dụ, người mắc bệnh tim mạch, cao huyết áp bị cấm mang thuốc vào buồng giam – và họ chết, như ông Lê Thân, ông Phan Văn Trước. Nguồn nước bẩn, thực phẩm ôi thiu, bồn cầu hỏng không sửa … ,tất cả đều có chủ đích và sự chịu đựng kéo dài đã hủy hoại sức khoẻ của tù nhân.

Tù đày không chỉ là tra tấn, bệnh tật, chết chóc – mà còn là sự cô lập tinh thần. Chúng tôi bị cách ly khỏi tù hình sự, bị kiểm soát mọi giao tiếp với nhau. Vì không được sử dụng giấy bút, không đuọc nhận sách báo nên chúng tôi không thể viết, không thể đọc, không thể ghi chép lại bất cứ điều gì tai nghe mắt thấy, hoặc chỉ đơn giản là giãi bày những cảm xúc của chính mình.

Không ít lần tôi có ý định tự tử và từng chuẩn bị một cái chết cho mình. Nhưng có một sức mạnh vô hình mà sau này tôi tin đó là Thiên Chúa, đã nâng đỡ tôi. Tôi phải sống để chiến thắng, chí ít là để không thất bại trước thế lực tà ác.

Thưa quý vị!

Chúng tôi kể lại những điều này không chỉ cho bản thân mình, mà còn cho những người đã chết – như em tôi, Huỳnh Anh Trí; ông Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại, Bùi Đăng Thủy, Đinh Đăng Định và nhiều người vô danh khác.

Chúng tôi kể thay cho những người vẫn đang bị giam giữ – những người không có cơ hội cất tiếng nói của chính mình.

Tôi mong rằng quý vị – những tiếng nói mạnh mẽ vì tự do, sẽ không quên những nơi còn trong bóng tối, những con người vẫn đang chịu cảnh tù đày vì tranh đấu cho tự do, dù ở đất nước xa xôi như Việt Nam.

Xin chân thành cảm ơn quý vị.


 

ANH CÒN NỢ EM….- Phan Công Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Phan Công Tuấn

Đó là bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Anh Bằng, phổ thơ Phạm Thành Tài. Nhưng có lẽ không nhiều người biết Phạm Thành Tài không chỉ là nhà giáo, nhà thơ mà còn là lương y tham gia sinh hoạt và viết sách xuất bản ở Câu lạc bộ Châm cứu Sông Bé vang bóng một thời.

Trưa nay, thấy trên mạng xã hội dẫn lại một bài viết có thông tin Thi sĩ Phạm Thành Tài sinh năm 1932 và mất năm 1997. Quê quán ở quận Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa. Ông từng bị tù cải tạo sau năm 1975, đi qua Mỹ qua diện HO và học lấy bằng Đông Y Bác Sĩ (OMD- Oriental Medical Doctor).

Tôi liền vùng dậy, lục tìm cuốn sách “Phối Huyệt Châm Cứu Chữa Bệnh Kinh Đới Trong Phụ Khoa” của lương y Phạm Thành Tài trong tủ sách của mình, và thêm vài cú nhấp chuột tôi mới khẳng định được vị lương y này chính là tác giả lời ca của nhạc phẩm nổi tiếng đó.

Về bối cảnh ra đời bài thơ, có thông tin cho biết có một phụ nữ kể lại câu chuyện tình của cô bạn thân của cô với một thanh niên học cùng trường nhưng hơn mấy lớp ở Ninh Hoà. Chàng và nàng quen nhau từ thủa học trò. Đỗ tú tài, chàng vào Sài Gòn, rồi sau đó du học Mỹ, nàng thì ở lại quê làm cô giáo trường làng. Ra đi, chàng bảo nàng yên tâm đợi chàng về. Nhưng rồi sau đó được tin chàng đã lấy vợ, một người con gái học thức, sang giàu, nàng đau khổ một thời gian rồi cũng lấy chồng.

Sau 1975, một lần họp đồng hương Ninh Hoà ở Mỹ, người phụ nữ kể chuyện gặp lại chàng, biết cô sắp về thăm quê, chàng gửi ít tiền về biếu nàng ngày xưa, vốn là bạn thân của cô. Nàng sống ở quê cùng chồng là thương phế binh chế độ cũ, với năm con, nghèo lắm nhưng từ chối món tiền của chàng.

Qua Mỹ, đến thăm chàng trong ngôi nhà cao đẹp, nhưng một mình vì đã li di vợ, có đứa con trai cũng sống với mẹ. Người phụ nữ kể lại câu chuyện, chàng ngậm ngùi nói “anh còn nợ em”.

Nhạc sĩ Anh Bằng kể rằng đọc tập thơ nhỏ của Phạm Thành Tài, có mấy bài thơ ngắn, rồi thích thú phổ thành bản Anh Còn Nợ Em.

“Anh còn nợ em, công viên ghế đá, công viên ghế đá, lá đổ chiều êm. Anh còn nợ em, giòng xưa bến cũ, giòng xưa bến cũ, con sông êm đềm. Anh còn nợ em, chim về núi nhạn, trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm. Anh còn nợ em, nụ hôn vội vàng, nụ hôn vội vàng, nắng chói qua rèm. Anh còn nợ em, con tim bối rối, con tim bối rối, anh còn nợ em. Và còn nợ em, cuộc tình đã lỡ, cuộc tình đã lỡ, anh còn nợ em.”

Trong mỗi đoạn nhạc, có 4 câu thơ mà có câu lập lại hai lần, toàn bài câu “anh còn nợ em” lập lại 8 lần; đó là nét riêng của ca khúc và lập lại mà nghe không chán.

Khi bài hát phổ biến, nhạc sĩ Anh Bằng nhờ người tìm tác giả bài thơ và khi tìm được thì thi sĩ Phạm Thành Tài đã qua đời hơn mười năm. Ông chép tay bài nhạc Anh Còn Nợ Em và tặng cho người vợ của thi sĩ làm kỷ niệm.

Phan Công Tuấn


 

SỤP ĐỔ VÌ CÁI SIÊU THỊ

Nếu Boris Yeltsin, thành viên Xô Viết Tối cao Liên Xô, không đến thăm Hoa Kỳ vào năm 1989, lịch sử thế giới có thể đã đi theo một con đường khác.

Nếu Yeltsin không dừng lại ở một siêu thị Mỹ trên đường tới sân bay, ông có thể đã không bao giờ trở thành Tổng thống Nga và không bao giờ khởi xướng việc giải thể Liên Xô.

Chuyến đi tới Mỹ đó, và lần dừng chân định mệnh tại Randall’s, đã gây ấn tượng mạnh với Yeltsin đến mức ông vỡ mộng với chính ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản.

Vào tháng 9 năm 1989, Boris Yeltsin đến thăm Hoa Kỳ trong chuyến thăm không chính thức đầu tiên. Ông không phải là tổng thống Nga, mà chỉ là một trong những quan chức hàng đầu của Đảng Cộng sản trong Hội đồng Tối cao Liên Xô, một trong hơn 500 người trong số họ.

Vì vậy, ông ta giống như một thành viên bình thường của Duma Quốc gia hiện nay. Trong thời gian ngắn ở Mỹ, Yeltsin chưa từng đến bất kỳ cửa hàng tạp hóa nào. Vì vậy, ông ta quyết định tìm xem một cửa hàng trên đường đến sân bay trước khi bay về nhà.

Xe buýt dừng lại ở một siêu thị bình thường của Mỹ ở Houston, TX. Cửa hàng khiến Yeltsin bị sốc. Ông ta đã rất sửng sốt. Ở tuổi 58, ông chưa bao giờ chứng kiến ​​điều gì như thế này trong đời.

Và Yeltsin không phải là thường dân. Ông đã lãnh đạo một trong những khu vực liên bang chiến lược trong một thập kỷ, trước khi trở thành người đứng đầu thành phố Moscow. Ông thậm chí còn được đưa vào danh sách trở thành một trong những thành viên của Bộ Chính trị toàn năng. Ông là thành viên chân chính của giới tinh hoa Cộng sản Liên Xô. Nhưng lượng thực phẩm và hàng hóa dồi dào như vậy trong một cửa hàng bình thường ở Mỹ lúc đó đã thực sự khiến ông ta bị sốc.

Yeltsin liên tục giơ tay lên vì ngạc nhiên. Ông cho rằng ngay cả các thành viên Bộ Chính trị cũng không có dư giả như vậy. “Ngay cả Gorbachev cũng không được vậy!”, Yeltsin nói.

Sau đó, trên máy bay, Yeltsin im lặng một lúc lâu. Ông ngồi ôm đầu, trên mặt hiện rõ sự giằng xé cảm xúc.

Một số người dân Liên Xô sau khi từ các nước phương Tây trở về Liên Xô đã rơi vào tình trạng trầm cảm nặng. Vì có một xung đột tâm lý không thể giải quyết được giữa cách một người sống cả đời – và việc anh ta có thể sống như thế nào nếu anh ta sinh ra ở một đất nước khác.

Khi Yeltsin tỉnh lại, ông nói một cách cay đắng: “Những người dân tội nghiệp của chúng ta đã bị đưa đến đâu?”.

“Cả đời tôi đã kể những câu chuyện cổ tích, cả đời tôi đã cố gắng bịa ra mọi thứ. Nhưng mọi thứ trên thế giới đều đã được phát minh rồi”, Yeltsin than thở.

Phụ tá của Yeltsin đã mô tả:

“Khi chúng tôi vừa quay lại sân bay, ma quỷ đã thúc giục chúng tôi đi xem một siêu thị điển hình của Mỹ”.   

Nó được gọi là Siêu thị Randall. Trong nhóm của chúng tôi, chỉ có Boris Nikolaevich và tôi chưa bao giờ đến những cơ sở buôn bán kiểu này.

Hơn nữa, đây không phải là một đô thị, càng không phải là một cửa hàng ở New York và theo tiêu chuẩn, một cửa hàng tỉnh lẻ rất “bình thường”. Tất nhiên, nếu Houston có thể được coi là một tỉnh.

Xuống xe, tôi bắt đầu tìm kiếm một đám đông người và thứ gì đó tương tự như hàng dài chờ đợi của chúng tôi. Tuy nhiên, không có xếp hàng chờ đợi – xung quanh cũng như trong chính cửa hàng.

Đó là một tòa nhà một tầng làm bằng kết cấu kim loại nhẹ. Đương nhiên, không ai trong số các nhân viên phục vụ biết về việc chúng tôi đến và do đó không thể có chuyện “khoe khoang” được. Một ngày bình thường, một loại hàng “bình thường”, những vị khách “bình thường”…

Chuyến đi tới Mỹ đó – và lần dừng chân định mệnh tại Randall’s, đã gây ấn tượng mạnh với Yeltsin đến mức ông vỡ mộng với chính ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản.

Tôi ngay lập tức bị ấn tượng bởi sự dồi dào của ánh sáng. Và nhìn chung, cách phối màu của mọi thứ đều tươi sáng và ấn tượng đến mức khiến chúng ta có cảm giác như đang đi xuống vực sâu của kính vạn hoa.

Sự phong phú của các loài hoa cũng đầy mê hoặc – mọng nước, rực rỡ, như thể vừa được cắt ra từ bồn hoa. Hơn nữa, những bông hoa không phải để bán mà như một vật trang trí.

Ngay khi chúng tôi bước vào siêu thị, họ đã gọi cho ai đó từ ban quản lý. Từ đâu đó trong phòng tiện ích xuất hiện một chàng trai trẻ rất đẹp trai trong chiếc áo sơ mi trắng như tuyết, chải chuốt gọn gàng và tất nhiên là đang mỉm cười. Đó là quản trị viên trưởng.

Chúng tôi tự giới thiệu và nói muốn tìm hiểu về công việc của cửa hàng.

Không vấn đề gì: người quản lý đã mời một cô bán hàng trẻ đến hỗ trợ chúng tôi và cô ấy dẫn chúng tôi qua các lối đi.

Điều chính khiến chúng tôi quan tâm là sự đa dạng. Và về vấn đề này, Yeltsin đã đặt câu hỏi cho nhân viên cửa hàng.

Những câu trả lời chân thực của họ đã khiến chúng tôi bị sốc, và Boris Nikolayevich thậm chí còn hỏi lại: – Anh có dịch đúng không đấy ?! Và người quản lý nhắc lại một lần nữa rằng phạm vi sản phẩm thực phẩm của siêu thị vào thời điểm đó đúng là có số chủng loại lên tới khoảng 30 nghìn mặt hàng.

Khi chúng tôi đi dọc theo dãy hàng, mắt chúng tôi không biết dừng lại ở đâu. Tôi có thể đoán được nhiều điều khác nhau, nhưng những gì tôi nhìn thấy trong siêu thị này cũng không kém phần kinh ngạc so với chính nước Mỹ.

Một số người trong chúng tôi bắt đầu đếm các loại dăm bông. Chúng tôi đã mất số đếm.

Tôi nhớ đến cửa hàng xúc xích của chúng tôi ở Krasnaya Presnya, nơi vào năm 1963 bạn có thể mua “Brunswick”, “Stolichnaya”, “Tambov”, “Uglich”, “Krakov” và một số loại xúc xích khác. Lúc đó, tôi nghĩ đây là đỉnh cao trong giấc mơ của con người và những dấu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản đã nở rộ. Công bằng mà nói, theo năm tháng, các kệ hàng của cửa hàng bắt đầu trống rỗng và giờ chỉ còn lại những ký ức về quá khứ tươi sáng của nó. Tôi nhớ đến cửa hàng Liên Xô đó và so sánh nó với cửa hàng này ở Houston, và nhận ra rằng sự phong phú mà Khrushchev hứa sẽ dẫn dắt chúng tôi đã vượt qua chúng tôi.

Vào thời điểm đó ở Liên xô tất cả 300 viện và phòng nghiên cứu có nhiệm vụ chỉ ra những lợi thế của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản có thể đang tiếp tục cố gắng thuyết phục tôi, nhưng từ bây giờ những nỗ lực của họ sẽ là vô nghĩa.

Thực tế của Mỹ, trên ví dụ về siêu thị này, có vẻ thuyết phục hơn 100 lần so với bất kỳ lý thuyết nào của Liên Xô. Chắc chắn, con người sống không chỉ nhờ bánh mì… Không chỉ nhờ xúc xích, không chỉ nhờ pho mát…

Nhân tiện, bạn đã thấy phô mai màu đỏ, nâu, cam chanh chưa? Bạn nghĩ chúng tôi đã thấy bao nhiêu loại phô mai ở Houston? Còn giăm bông thì sao? Tất cả món ngon không thể tưởng tượng được này mà mọi người đều có thể thử ngay tại cửa hàng và quyết định – liệu nó có đáng để chi tiền không?

Chúng tôi không thể đếm được tên các loại kẹo, bánh ngọt, không thể nhận biết được sự đa dạng về màu sắc cũng như sức hấp dẫn ngon miệng của chúng bằng mắt.

Và mặc dù tôi đang cố gắng truyền đạt ấn tượng của mình, nhưng tôi hiểu rằng đây chỉ là một nỗ lực thảm hại, bởi vì lời nói bất lực trước thực tế những gì cửa hàng Mỹ đó có thể cung cấp.

Thỉnh thoảng, tôi liếc nhìn Yeltsin và nhận thấy đây là một bài kiểm tra khó khăn đối với ông. Và khi một người phụ nữ đi trên xe đẩy đuổi kịp ông ta, trên đó có một cậu bé đang ngồi, Boris Nikolaevich, xin lỗi và bắt đầu tra hỏi cô ấy:

  – Cô ấy có thường xuyên đến cửa hàng này không? Hóa ra, chỉ vào thứ bảy.

  – Gia đình bạn có lớn không?

3 người: cô, chồng và con.

  – Thu nhập của gia đình bạn là bao nhiêu?

Người phụ nữ giải thích rằng cô tạm thời không làm việc và sống bằng tiền lương của chồng, 3.600 USD một tháng.

   Yeltsin hỏi cô thường chi bao nhiêu cho thực phẩm? Hóa ra gia đình này đã chi khoảng 170 USD cho thực phẩm trong một tuần. Từ thứ bảy đến thứ bảy. Cô vẫn phải trả tiền thuê nhà, bảo hiểm…

Ở khu vực rau quả, chúng tôi thực sự bị sốc bởi chất lượng của sản phẩm.

Một củ cải có kích thước bằng một củ khoai tây lớn được chiếu sáng bằng ánh sáng rực rỡ và nước được rải lên nó từ những “linh hồn” nhỏ.

Củ cải thực sự rực rỡ, và bên cạnh chúng là hành, tỏi, cà tím, súp lơ, cà chua, dưa chuột.

Bạn muốn lươn hun khói – đây.

Bạn có muốn cá mút đá không? Hay gan của bạn đã quen với cá tầm và hàu? Dứa, chuối…

Và ở khu vực bánh kẹo, người ta có thể đứng hàng giờ: nó có thể vượt qua cả Hollywood về mặt giải trí. Một chiếc bánh khổng lồ tượng trưng cho một đấu trường khúc côn cầu đang chờ khách hàng trên khán đài. Các hình tượng người chơi được làm bằng sô cô la. Một tác phẩm nghệ thuật thực sự và quan trọng nhất – dễ tiếp cận, khá dễ tiếp cận.

Nói chung, đây là một chủ đề tăng huyết áp. Đối với Boris Nikolaevich và tôi, việc đi siêu thị là một cú sốc thực sự.

Khi tôi đang viết cuốn sách này, vợ tôi hôm nay (tháng 9 năm 1991) đến cửa hàng mua sữa lúc 7 giờ sáng nhưng vẫn có hàng dài người xếp hàng. Xếp hàng khắp nơi: bạn phải đứng 2 ngày để mua đường. Và đây là ở đây – ở Moscow, vào nửa sau thế kỷ 20, 73 năm sau Cách mạng vĩ đại. Vào thời điểm đó, theo tính toán của Khrushchev, tất cả chúng ta lẽ ra đã sống dưới chủ nghĩa cộng sản rồi. Hoặc có thể những gì chúng ta đã xây dựng ở Liên Xô là chủ nghĩa cộng sản thực sự?

Ở lối ra khỏi siêu thị Mỹ, cô gái ngồi ở quầy tính tiền không cần phải đếm gì cả. Trên tay cô cầm một thiết bị nhỏ giống như máy sấy tóc, cô nhanh chóng xem qua mã giá trên bao bì. Sau thao tác này, giá xuất hiện trên màn hình máy tính tiền, khách hàng thanh toán và có thể tự do đi qua cửa quay điện tử. Chà, còn gì có thể đơn giản và thông minh hơn một hệ thống như vậy?

Khi chúng tôi rời siêu thị, người quản lý đã tặng chúng tôi một món quà: một chiếc túi nhựa lớn đựng những gói thực phẩm từ cửa hàng này.

Tôi hoàn toàn tin rằng chỉ sau khi đi siêu thị Randall, lúc ở trên máy bay, niềm tin cuối cùng của Yeltsin vào lối suy nghĩ Bolshevik của ông cuối cùng đã sụp đổ.

Có lẽ, trong những giây phút rối loạn tinh thần đó, quyết định rời bỏ Đảng Cộng sản và tham gia cuộc tranh giành quyền lực tối cao ở Nga đã chín muồi trong ông ta”.

Sau đó, Yeltsin nhận ra rằng tất cả những câu chuyện của các “nhà báo quốc tế” về những công nhân Mỹ được cho là đang chết trong cảnh nghèo đói khủng khiếp và chỉ mơ được chuyển đến Liên Xô, tất cả những câu chuyện này chẳng qua chỉ là tuyên truyền. Ngay cả những người “tinh hoa” trong đảng cũng không biết điều đó (Báo chí liên xô thuốc luôn cả lãnh đạo – Dựa trên cuốn sách của Lev Sukhanov – trợ lý của Boris Yeltsin: “3 năm với Boris Yeltsin”)

Sau chuyến thăm Mỹ, Yeltsin đã trở thành Tổng thống đầu tiên của Nga.

Với tư cách là tổng thống Nga, Yeltsin đã đàm phán và ký thỏa thuận giải tán Liên Xô cùng với các tổng thống mới đắc cử của Ukraine và Belarus. Chỉ 3 người trong số họ đã phá hủy nhà nước mà hàng triệu người cộng sản đã xây dựng trong hơn 70 năm.

(cop từ fb Đặng Văn Dũng)

‘Giấc Mơ Mỹ’ đang hấp hối – Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi- Viet

May 11, 2025 

Trúc Phương/Người Việt

Nếu có thuật từ nào xứng đáng được chọn là một trong những đại diện cho xã hội văn minh hiện đại được nhắc nhiều nhất, từ đó chắc chắn là “Giấc Mơ Mỹ” (American Dream).

Người nhập cư vào Mỹ từ nhiều quốc gia trên khắp thế giới qua lao động nặng nhọc để tìm kiếm “Giấc Mơ Mỹ.” (Hình minh họa: Brent Stirton/Getty Images)

Tác giả thuật từ, James Truslow Adams, trong quyển The Epic of America (1931), đã định nghĩa: “‘Giấc Mơ Mỹ’ là niềm mơ ước về một vùng đất, nơi mà cuộc sống trở nên tốt hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho tất cả, với cơ hội cho mỗi người đều có thể có được chỉ bằng tài năng.”

“Giấc Mơ Mỹ” trở thành khái niệm quen thuộc tượng trưng cho sự thành đạt được đền bù xứng đáng từ nỗ lực bền bỉ. “Giấc Mơ Mỹ” đưa nước Mỹ trở thành cường quốc thịnh vượng. Bây giờ, sự thịnh vượng đó đang tan hoang…

Lý tưởng của “Giấc Mơ Mỹ”

Nhắc đến “Giấc Mơ Mỹ,” người ta thường liên tưởng đến hình ảnh cơn sốt đào vàng thế kỷ 19, đến sự thành đạt từ bàn tay trắng cần cù và nghị lực phi thường, đến sự khát vọng làm giàu, đến hình thái chính trị-xã hội tự do dân chủ đích thực mang lại sự phóng khoáng trong tư duy, đến mô hình kinh tế thị trường tự do và còn nhiều điều tốt đẹp khác.

Khi Franklin Delano Roosevelt nhậm chức tổng thống năm 1933 với chương trình cải tổ toàn diện New Deal đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc Đại Suy Thoái, “Giấc Mơ Mỹ” bắt đầu đâm hoa thật sự. Dân Mỹ được chăm lo tốt hơn bằng những chính sách cụ thể. “Giấc Mơ Mỹ” chưa dừng lại ở đó.

“Giấc Mơ Mỹ,” được hiểu đơn giản là những câu chuyện đổi đời ngoạn mục trên đất Mỹ, bắt đầu hình thành khi nhiều gia đình bồng bế nhau trực chỉ hướng Tây ngọn Rocky để mua hàng hecta đất với giá rẻ trong cơn sốt tìm vàng. Ðổi đời từ vàng là làn sóng ban đầu của khái niệm “Giấc Mơ Mỹ.”

Làn sóng thứ hai bắt đầu từ những người di cư. Mong muốn thoát cảnh quanh năm ruộng vườn, đặc biệt bởi nhiều yếu tố trực tiếp chẳng hạn hậu quả nạn đói kinh khủng từ trận thất mùa khoai tây lịch sử tại Ireland;tình trạng hậu chiến sau thời Napoleon, nhiều gia đình Châu Âu bắt đầu lên đường sang Mỹ. Tính năng động và thoáng mở của xã hội Mỹ là sức hút đầu tiên. Sau Châu Âu, đến lượt nhiều gia đình Châu Á cũng đến Mỹ (tạo ra những khu phố Tàu như thấy hiện nay). Như trong ý nghĩa phổ biến về “Giấc Mơ Mỹ,” bất kỳ ai cần cù, quyết chí học và có gan làm giàu gần như chắc chắn sẽ được toại nguyện ước mơ đổi đời.

Có rất nhiều ví dụ về “Giấc Mơ Mỹ.” Andrew Carnegie là một trong số đó. Sinh tại Scotland trong gia đình với bố làm nghề dệt tay, Carnegie lớn lên trong cảnh gia đình giật gấu vá vai và đong gạo từng bữa. Sự xuất hiện của máy dệt khiến gia đình Carnegie thêm lận đận. Cuối cùng, bố Carnegie quyết định đến Mỹ, sau khi bán tất cả tài sản khiêm tốn và vay thêm 20 bảng Anh. Tháng Năm, 1848, gia đình Carnegie đến New York và bố Carnegie xin làm việc tại một nhà máy bông vải.

Andrew Carnegie cũng phải đi làm, với lương $1.2/tuần. Năm 1851, Carnegie làm người phát điện tín cho Ohio Telegraph Co với mức lương $2.5/tuần. Tự học kỹ thuật điện tín, Carnegie sau đó được công ty hỏa xa Pennsylvania Railroad Co thuê với lương $4/tuần (lúc này Carnegie 18 tuổi). Lần lần, Carnegie được bổ nhiệm giám sát khu vực Pittsburgh. Dành dụm từng xu, năm 1864, Carnegie bắt đầu đầu tư số tiền tiết kiệm $40,000 vào nông trại Storey (Pennsylvania).

Khi Nội Chiến Mỹ bùng nổ, Carnegie được ông chủ công ty Pennsylvania Railroad Co (Thomas A. Scott, lúc đó là thứ trưởng Bộ Chiến Tranh phụ trách vận chuyển quân sự) đưa lên Washington, DC với vai trò giám sát hệ thống hỏa xa quân đội và hệ thống điện tín chính phủ. Cuộc Nội Chiến Mỹ giúp nhiều ngành công nghiệp phát triển nhanh, trong đó có công nghiệp sắt thép.

Triển vọng công nghiệp thép không lọt khỏi quan tâm Carnegie. Dùng tất cả vốn liếng, Carnegie đầu tư vào ngành thép. Và đến cuối thập niên 1880, công ty Carnegie Steel đã trở thành nhà sản xuất gang, than cốc và thanh ray hỏa xa lớn nhất thế giới! Ở giai đoạn đỉnh cao sự nghiệp, Carnegie là người thứ hai giàu nhất thế giới, chỉ xếp sau vua dầu lửa John D. Rockefeller (cũng thuộc thành phần di cư từ Pháp – hoặc Ðức, như một số tài liệu ghi). Nước Mỹ đem lại cơ hội và mở cửa đón những người như Andrew Carnegie và cũng chính những điển hình Andrew Carnegie đã đem lại thịnh vượng cho nước Mỹ ngày nay. Tuy nhiên, như nhiều phóng sự gần đây, “Giấc Mơ Mỹ” thời nay dường như khó đạt được…

Ai đang phá nát “Giấc Mơ Mỹ”

Tính ổn định trong nghề nghiệp trong xã hội Mỹ, theo Griff Witte (Washington Post), trở nên ngày càng bất an. Bi kịch lên voi xuống chó xảy ra như cơm bữa. Không ít người lao động Mỹ không biết chắc đời sống mình an toàn đến chừng nào. Trình độ và bằng cấp đại học cũng không hứa hẹn.

Theo David R. Francis (Christian Science Monitor), gần 1/5 gia đình Mỹ hiện có giá trị tài sản là zero và vài trường hợp thậm chí còn nợ nhiều hơn những gì mình sở hữu. “Tính ổn định trong thu nhập đã giảm trong 20 năm qua,” theo Bhashkar Mazumder, nhà kinh tế thuộc Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Chicago (Federal Reserve Bank of Chicago).

Từ 1950-1980, thế hệ Mỹ sau thường thành công hơn thế hệ trước. Bố mẹ thường thấy con cái họ thành đạt hơn. Bây giờ, cần đến 5-6 thế hệ để xóa bớt khoảng cách giữa thành phần nghèo và lớp trung lưu. Ảnh hưởng từ chính sách là một phần nguyên nhân cho thái độ bi quan về “Giấc Mơ Mỹ.”

Donald Trump luôn hứa hẹn về một sự bùng nổ kinh tế ngay sau khi ông trở lại Tòa Bạch Ốc, hồi sinh “Giấc Mơ Mỹ” và sẽ tạo ra bốn năm thịnh vượng “chưa từng có.” “Tiền lương của các bạn sẽ cao hơn, đường phố của các bạn sẽ an toàn và sạch sẽ hơn, cộng đồng của các bạn sẽ giàu có hơn và tương lai của các bạn với tư cách là người Mỹ sẽ tốt hơn nhiều so với trước khi tôi nhậm chức,” Trump phát biểu trong cuộc vận động tranh cử cuối cùng tại Grand Rapids, Michigan. “Bởi vì đây sẽ là thời kỳ hoàng kim của nước Mỹ.”

Tuy nhiên, giọng điệu của Trump đã thay đổi đáng kể gần đây, khi đề cập đến sự “hy sinh” và “giai đoạn quá độ” cho đến khi chính sách thuế quan của ông mở đường cho “một sự bùng nổ.”

Trump đã nói về “nhu cầu” nước Mỹ phải “uống thuốc” trước khi có thể “khỏe” trở lại. “Đây là giai đoạn chuyển tiếp,” Trump nói trong chương trình “Meet the Press” của NBC ngày 4 Tháng Năm. “Tôi nghĩ chúng ta sẽ làm rất tốt… Tôi chỉ muốn nói rằng họ (người dân Mỹ) không cần phải có 30 con búp bê. Họ có thể chỉ có ba con. Họ không cần phải có 250 cây bút chì. Họ có thể chỉ có năm cây.”

Toàn cảnh, người Mỹ ngày càng hoài nghi về khái niệm “Giấc Mơ Mỹ.” Theo khảo sát của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew năm 2024, 41% người Mỹ cho biết giấc mơ không còn khả thi nữa và 6% nói rằng giấc mơ không bao giờ khả thi. Bất bình đẳng thu nhập ở Mỹ đã tăng đáng kể. Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội cho biết 10% người giàu nhất nước Mỹ đang kiểm soát gần 60% tài sản quốc gia, trong khi “một nửa dưới” chỉ nắm 6% (Newsweek ngày 9 Tháng Năm).

Một phóng sự của Vanity Fair thuật vài câu chuyện điển hình cho thấy giấc mơ Mỹ đang vỡ vụn như thế nào. Ông Greg Dillon, 49 tuổi, sống tại Marietta thuộc bang Georgia, là nhà tư vấn nghề nghiệp. Ông từng tình nguyện làm việc tại những trung tâm giới thiệu việc làm thuộc giáo hội để giúp người xin việc điền tờ khai và tư vấn chiến lược tìm việc. Bây giờ, chẳng ai có thể tư vấn để giúp ông không thất nghiệp! Vào ngày trước sinh nhật lần thứ 49, Dillon bị sa thải khỏi Forum Co., lần mất việc thứ hai trong 18 tháng…

Trả lời một cuộc phỏng vấn (“What Has Happened to the American Dream?” The New York Times ngày 3 Tháng Năm, 2025), Malinda Burke, 40 tuổi, ở Raleigh (North Carolina) nói, “Tôi có cảm giác như nó đang tuột khỏi tầm tay.”

Vài ngày trước Lễ Tạ Ơn, Malinda Burke “mất job.” Trong nhiều tháng tìm việc làm, đặc biệt trong một thị trường đột nhiên tràn ngập nhân viên liên bang thất nghiệp, Burke phải dùng tiền tiết kiệm hưu trí để trả tiền nhà và khoản nợ sinh viên. Lần đầu tiên trong đời, Burke bắt đầu hoang mang về cái gọi là “Giấc Mơ Mỹ.”

“Tôi luôn nghĩ rằng nếu làm việc đủ chăm chỉ, tôi có thể đạt được ‘Giấc Mơ Mỹ.’ Tôi đã có thể tự mua được nhà… Và rồi trong chớp mắt, tôi nghĩ, ‘Ôi trời, nếu tôi mất nhà thì sao?’… Tôi thuộc tầng lớp trung lưu vốn ngày càng bị thu hẹp. Tôi nghĩ hầu hết chúng ta đều muốn có một cuộc sống thoải mái, nhưng điều đó thực sự khó khăn trong thời buổi ngày nay…”

Năm 1941, Henry Luce (người sáng lập tờ Time) tung ra bài bình luận nổi tiếng The American Century trên tạp chí Life với nội dung rằng nước Mỹ không nên đứng ngoài lề Thế Chiến Thứ II mà nên dùng sức mạnh mình để hoằng dương “lòng yêu tự do, sự công bằng trong tận dụng cơ hội, truyền thống độc lập tự chủ và thái độ hợp tác.” Luce cũng đề nghị “Giấc Mơ Mỹ” cần được sử dụng như một cách để quảng bá lối sống Mỹ, thứ mà những quốc gia phi dân chủ nên noi theo.

Gần như trong cùng thời gian, trong diễn văn Thông Điệp Liên Bang năm 1941, Tổng Thống Roosevelt cũng gián tiếp mở rộng khái niệm “Giấc Mơ Mỹ” với việc đưa ra “bốn sự tự do tối cần thiết cho con người” mà nước Mỹ thề sẽ chiến đấu giành cho được đến cùng, gồm: Tự do ngôn luận; Tự do tôn giáo; Tự do yêu thích và Tự do sợ hãi. Bây giờ, nước Mỹ chỉ còn lại “Tự do sợ hãi,” sợ đủ thứ, và nỗi sợ đến từ chính những kẻ luôn mồm nói nước Mỹ sẽ lại thịnh vượng và “Giấc Mơ Mỹ sẽ hồi sinh.” [kn]


 

BIỂU HIỆN CỦA NÔ LỆ HIỆN ĐẠI TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI – Nguyen Anh Tuan

 Đặng Huệ Như  

Bài viết hay của  Nguyen Anh Tuan

1. Thờ ơ với thời cuộc:

“Chính trị không liên quan đến tôi”, “Miễn tôi sống yên là được”. Đó là suy nghĩ phổ biến trong xã hội độc tài, nơi người dân bị tước quyền can thiệp vào các vấn đề công cộng, và dần đánh mất nhu cầu lên tiếng. Họ sống trong im lặng, coi bất công là chuyện “bình thường”, và không còn đặt câu hỏi vì sao đất nước mãi trì trệ.

  1. Vô cảm với đồng loại:

Khi thấy người khác bị oan sai, bị đàn áp, họ chỉ nói: “Tránh xa ra cho an toàn”. Sự vô cảm này không bắt nguồn từ sự ác, mà từ nỗi sợ hãi và tâm lý sinh tồn trong môi trường không an toàn. Nhưng chính sự vô cảm đó đã làm tê liệt sức mạnh cộng đồng.

  1. Không quan tâm chính trị:

Họ không biết ai là người nắm quyền, ai chịu trách nhiệm cho sự yếu kém của quốc gia. Họ không bầu chọn thật sự, không dám phản biện. Họ tin rằng “chuyện đó để nhà nước lo”, và vô tình trao toàn bộ vận mệnh vào tay kẻ khác.

  1. Khôn vặt, khôn lỏi để tồn tại:

Thay vì đòi hỏi một xã hội công bằng, họ học cách “luồn lách”, “biết điều”, “né rắc rối”, “chắc nó trừ mình ra”…. Đó là kỹ năng sinh tồn trong hệ thống bất công, nhưng đồng thời cũng làm lệch chuẩn đạo đức và suy giảm nhân cách xã hội.

  1. Sống trong sợ hãi thường trực:

Họ sợ bị theo dõi, sợ bị ghi nhận phát ngôn, sợ bị mất việc, sợ bị “xử lý hành chính”, sợ bị gán nhãn “phản động”. Sự sợ hãi khiến họ tự kiểm duyệt bản thân, không còn khả năng phản kháng, và dần chấp nhận kiếp sống lệ thuộc như điều tự nhiên. Nô lệ hiện đại không cần kẻ canh gác, bởi con người đã trở thành người canh giữ chính tư tưởng của mình. Và một khi con người không còn biết mình đang bị trói buộc, thì chính họ sẽ tiếp tục truyền lại sự nô lệ ấy cho thế hệ mai sau.

  1. 6. Nguy hiểm nhất của nô lệ hiện đại là khi người dân không chỉ bị kiểm soát bằng bạo lực, mà còn bị dẫn dắt trong vô thức. Họ tin rằng đất nước đang ổn định và phát triển dù thực tế đầy rẫy bất công; tin lãnh đạo là thiên tài bất chấp sai lầm hiển hiện; tin phản biện là nguy hiểm, tự do là gây loạn, “lên đồng tập thể” có khi chỉ một trận bóng đá hay một thú vui bị định hướng dẫn dắt nho nhỏ…. Mọi tiếng nói khác biệt bị gán nhãn “phản động”. Họ tự hào vì “biết chịu đựng”, vì “không cần dân chủ kiểu phương Tây”, mà không nhận ra mình đang bảo vệ chính cái hệ thống khiến họ sống trong nghèo đói, sợ hãi và bất lực. Khi người bị áp bức quay sang tôn vinh kẻ áp bức, khi xiềng xích trở thành niềm tin thì đó không còn là sự phục tùng đơn thuần, mà là tâm trí đã bị chiếm đóng.

Không ai sinh ra để làm nô lệ. Một dân tộc chỉ thật sự phát triển khi từng người dân hiểu rằng tự do không phải là đặc ân mà là quyền bất khả xâm phạm. Độc tài có thể bành trướng, nhưng lịch sử chưa từng dung thứ cho nó mãi mãi. Hãy sống như một con người đúng nghĩa chứ không chỉ tồn tại như một công cụ thoi thóp thở.


 

Người Nga và nước Nga – Tiến sĩ vật lý Nguyễn Đình Đăng

Nguyễn Hoành

Người Nga và nước Nga dưới ngòi bút của Tiến sĩ vật lý Nguyễn Đình Đăng con rể bà Nguyễn Thị Bình nguyên Phó chủ tịch nước:

“Tôi đã từng học và nghiên cứu ở Nga (Liên Xô) cũ tổng cộng 11 năm, từ năm 18 tuổi tới năm 31 tuổi (1976 – 1989) (Hai năm 1985 – 1987 làm việc ở Việt Nam). Tiếng Nga đối với tôi cũng trôi chảy gần như tiếng mẹ đẻ. Khi còn ở Nga, các bạn Nga từng nói với tôi: “Nếu chỉ nghe tiếng mày nói ngoài hành lang, không nhìn thấy mặt, thì bọn tao tưởng đó là người Nga nói.”

Nước Nga không chỉ mở cho tôi cánh cửa bước vào khoa học mà còn cả nghệ thuật. Chính tại đây lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với nghệ thuật lớn: nghệ thuật của các bậc thày cổ điển châu Âu, như Leonardo da Vinci, Botticelli, Titian, Rembrandt, trong nguyên bản, với âm nhạc của các nhà soạn nhạc vĩ đại, qua tiếng đàn của các bậc thày trứ danh biểu diễn sống, như Leonid Kogan, Danill Shafran, Shura Cherkasky, v.v., với văn học và thi ca của Toltstoy, Turgheniev, Tshekhov, Leskov, Dostoevsky, Pushkin, Lermontov, Esenin, Pasternak, Blok, Svetaeva,v.v. qua bản gốc tiếng Nga.

Tôi có nhiều bạn bè và đồng nghiệp là người Nga cũng như người Ukraine. Thày của tôi, cố GS Vadim Soloviev là người Nga. Phản biện luận án tiến sỹ năm 1985 của tôi, GS Anatoly Ignatyuk, là người Ukraine. Hai phản biện luận án tiến sỹ khoa học của tôi năm 1989, là GS A. Ignatyuk và GS. Grigory Yakovlevich Korenman, người Nga gốc Do Thái.

Ông Konstantin Gavrilovich, hoạ sỹ và kiến trúc sư, là người Nga đầu tiên phát hiện ra tài vẽ của tôi và đã không tiếc thời gian cũng như sức lực đưa tôi tới gặp các giáo sư tại các trường đại học mỹ thuật Surikov, Stroganov, và đại học kiến trúc.

Bạn gái đầu tiên của tôi là người Nga.

Tất cả họ đều là những con người chính trực, cao thượng, hào hiệp, tốt bụng, trí tuệ, có văn hóa học vấn cao và đáng ngưỡng mộ.

Nói vậy là để các bạn thấy nước Nga từng rất gắn bó với tôi.

Tuy nhiên đừng lẫn lộn người dân Nga với chế độ của những người cai trị họ.

Khoảng thời gian hơn một thập niên đó cũng đã cho tôi thấy rõ người Nga cũng như người dân các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, trong đó có Ukraine, đã bị o ép khổ sở về tinh thần và vật chất như thế nào dưới một chế độ quan liêu hách dịch điều khiển một nền kinh tế trì trệ. Nước Nga là một quốc gia rộng lớn, nhưng chưa bao giờ thoát khỏi mặc cảm của một nước nông dân, trong đó thủ đô Moskva được ví như cái làng của châu Âu. Người Nga trong lịch sử chưa bao giờ thoát khỏi ách áp bức từ chế độ Tsar Hoàng, tới chế độ cộng sản thời Lenin, Stalin, toàn trị thời Brezhnev, và cuối cùng là chế độ độc tài của Putin.

Sự yếu kém về kinh tế và hành chính của Ukraine là hậu quả của một thời kỳ dài dặc phụ thuộc vào Nga ở Liên Xô cũ. Cho tới năm 2006, tức 15 năm sau khi Liên Xô sụp đổ, tới Kiev dự hội thảo vật lý hạt nhân, tôi vẫn thấy sự trì trệ và phong thái làm việc trịch thượng hống hách kiểu Nga ở đó, bắt đầu từ khâu nhập cảnh tại sân bay, sinh hoạt dịch vụ công cộng, tới cách điều hành hội thảo.

Lẽ dĩ nhiên, nhìn sang châu Âu, trước hết là người dân nước hàng xóm Ba Lan, người Ukraine cũng muốn một cuộc sống độc lập, tự do, dân chủ và hạnh phúc như vậy. Việc Ukraine lựa chọn gia nhập EU hay NATO là quyền tự do của một quốc gia độc lập.

Vì thế đừng vội vàng đổ lỗi cho tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky hay nguyên tổng thống Petro Poroshenko về tình trạng này. Trên thực tế công cuộc “thoát Nga” của Ukraine mới chỉ thực sự bắt đầu từ cuộc nổi dậy ở Maidan từ tháng 11 năm 2013 tới tháng 2 năm 2014, tức cách đây tám năm về trước, quá ngắn để có thể tẩy rửa những căn bệnh do 74 năm chế độ cộng sản để lại, nhất là trong sự hà hiếp của chính quyền Putin.

Cá nhân tôi chưa bao giờ có thiện cảm với Putin, ngay từ những ngày đầu, khi Putin được tổng thống Nga Boris Yeltsin tiến cử. Lý do của tôi rất đơn giản: Putin nguyên là sĩ quan KGB, gia nhập KGB ngay sau khi tốt nghiệp đại học năm 1975. Vào thời perestroika của Gorbachev cho tới khi Liên Xô bắt đầu tan rã (1985 – 1990), Putin làm gián điệp của KGB tại Dresden. KGB khét tiếng tàn ác trong toàn bộ lịch sử của nó. Bố của Putin cũng là một sĩ quan của NKVD, tiền thân của KGB. Mẹ của Putin là công nhân. Ông của Putin nấu bếp cho Lenin và Stalin.

Tham vọng của Putin là khôi phục lại hào quang của đế quốc Nga đã mất trong đó y là độc tài bạo chúa. Nước Nga dưới chế độ Putin là một nước bị cô lập với toàn thế giới. Người dân Nga chưa bao giờ có tự do dân chủ. Các đảng đối lập bị chèn ép, các nhà đấu tranh dân chủ bị bắt bớ, đầu độc, ám sát. Cuộc xâm lược Ukraine đang diễn ra do Putin ra lệnh là khởi đầu của chiến dịch nhằm thực hiện mưu đồ bành trướng của Putin sang phương Tây, kéo lại đêm đen của chế độ độc tài cộng sản trong đó Nga là bá chủ. Vì thế Ukraine, từ một đất nước đứng lên chiến đấu chống ngoại xâm, nay đã trở thành biểu tượng của đại nghĩa chống lại hung tàn.

Bất kể Putin có thôn tính được Ukraine hay không, cuộc chiến tranh này do Putin khởi xướng đã, đang và sẽ khiến y muôn đời bị nguyền rủa như một tên Hitler t.k. XXI. Hay nói như đại sứ Ukraine tại Liên hiệp quốc, hắn sẽ đi thẳng xuống địa ngục vì không có luyện ngục (purgatory, nơi thanh tẩy tội lỗi sau khi chết) nào cho hắn cả.

*** Copy từ Fb Trần Quốc Quân