Chị và cháu tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 21/04/2025 tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Đinh Hữu Thoại 

Hai mẹ con sản phụ tại thôn Tân Hoá 1, Lộc Nga, Bảo Lộc, Lâm Đồng tử vong: thông tin từ Bệnh viện II Lâm Đồng (link trong bài) và từ người nhà nạn nhân.

“Hiện, các cơ quan chức năng đang điều tra, xác minh làm rõ nguyên nhân tử vong của mẹ con sản phụ H.”

———-

Chị và cháu tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 21/04/2025 tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Không có sự công bằng nào có thể đổi lại hai sinh mạng ấy, nhưng gia đình chúng tôi cần một điều duy nhất: Sự minh bạch! Chúng ta ở 1 thành phố đẹp nhưng cũng cần ở 1 thành phố văn minh, nơi có đội y tế lành nghề và những trái tim nhân đức!

  • Chị tôi – sản phụ Bùi Thị H. – đã đến Bệnh viện II Lâm Đồng vào khoảng 7h sáng, trong tình trạng đau bụng liên tục, sốt cao 38.7°C, kèm ói và chảy máu. Tuy nhiên, theo hồ sơ của bệnh viện, mãi đến 10h sáng chị tôi mới được “nhập viện chính thức”. (thông tin bệnh viện 10h nhập viện theo link báo đính kèm:

https://baolamdong.vn/…/benh-vien-ii-lam-dong-thong…/…)

=> Tại sao lại có khoảng cách tới 3 tiếng đồng hồ như vậy trong khi đây là một bệnh viện tuyến tỉnh, lượng bệnh nhân không đông? Và trong thời gian đó, người nhà chúng tôi nhận thấy không có bác sĩ nào tiếp nhận ca trực, chỉ có sự thờ ơ của một vài nhân viên y tế, cho rằng “thai phụ nào cũng đau như thế cả thôi” ?!!

  • Khoảng trưa ngày hôm đó, khi tình trạng chị tôi đã nguy kịch, chị mới được đưa vào mổ. Sau khi kết thúc ca mổ, gia đình chúng tôi nhận thông tin em bé đã mất. Người mẹ được đưa vào hồi sức trong tình trạng sức khỏe yếu, nhưng ở thời điểm đó chúng tôi vẫn tiếp tục không nhận thấy sự theo dõi, chăm sóc cho chị. Mà đáng lẽ ở thời điểm hậu phẫu sau sinh của 1 thai phụ vừa mất con, chính là thời điểm nguy hiểm nhất và lẽ ra phải được theo dõi đặc biệt?!

Tình trạng của thai phụ ngày càng chuyển biến xấu, nhưng gia đình chúng tôi vẫn nhận được sự từ chối và trấn an rằng bệnh viện vẫn có khả năng cứu sống bệnh nhận.

Tới tận 18h cùng ngày, tức hơn 8 tiếng sau mổ, chị tôi mới được làm thủ tục chuyển viện lên TP.HCM. Nhưng không còn kịp nữa… Trên đường đi, chị tôi qua đời tại Bệnh viện huyện Định Quán.

Chị tôi – và cháu tôi – không chết vì “rủi ro y khoa”. Họ chết vì sự chậm trễ, thờ ơ, thiếu đạo đức, thiếu chuyên môn của đội ngũ được gọi là bác sĩ, y tá tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Chúng tôi quá đau đớn, bàng hoàng, phẫn nộ trước sự mất mát to lớn của 2 sinh mạng quý giá này – vì mọi thứ đáng ra đã có thể được ngăn chặn!

Chúng tôi viết những dòng này để cảnh báo, để thức tỉnh, để đòi lại sự thật cho người đã khuất – và để bảo vệ những thai phụ khác, những đứa trẻ khác. Hãy hành động trước khi con cháu bạn có thể trở thành nạn nhân tiếp theo!

Gia đình chúng tôi đã quá đau lòng về sự ra đi quá sức bàng hoàng của chị và cháu tôi, không muốn nhắc tới và cũng chấp nhận sự thật là chị và cháu đã mất thật rồi, nhưng bên bệnh viện lại có những bài báo viết sai sự thật, khi người nhà chúng tôi lên tiếng thì bị block và không được bình luận, tới mức này rồi chúng tôi không thể im lặng được nữa, xin hãy làm việc đúng lương tâm và đưa ra những thông tin thật đúng đắn!

Nguồn: Loan Kim

 TÁC GIẢ BỨC TƯỢNG THƯƠNG TIẾC: NGUYỄN THANH THU ĐANG PHẢI THỞ DƯỠNG KHÍ…

 NHỮNG BÀI POST HAY – Vũ Phan Anh

   ☆ Tin từ quê nhà ngày 19.4.2025 cho biết:

 Đại úy điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tác giả bức tượng Thương Tiếc, hiện đang phải nằm trong phòng cách ly của nhà thương Hoàn Mỹ, để được chăm sóc đặc biệt, khi ông bị bịnh loét bao tử, suy thận và viêm phổi.

Được biết ông Nguyễn Thanh Thu sanh năm 1934, đến Mỹ theo diện H.O, nhưng sau 10 năm đã từ California trở về Việt Nam, sống với con cái tại Gò Vấp cho tới nay.

Giấc mơ lớn nhứt mà điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu hằng mong ước, là phục dựng lại được bức tượng Thương Tiếc (theo đúng bản cũ) tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Nhưng nay có lẽ ông sẽ phải ngậm ngùi đưa nỗi niềm mơ ước ấy theo mình xuống huyệt mộ!

Yến Ngọc Hải Âu


 

TỔN THẤT NHÂN MẠNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Lê Châu An Thuận

 Chiến tranh Việt Nam là một cuộc xung đột kéo dài và tàn khốc với số người chết cao. Việc ước tính chính xác số người chết là rất khó, nhưng đây là những gì được biết dựa trên các nguồn có sẵn:

–   Thương vong của người Việt Nam:

. Tổng số người Việt Nam tử vong (quân sự và dân sự): Ước tính từ 970.000 đến 3 triệu.

. Dân thường Việt Nam: Chính quyền Việt Nam báo cáo có tới 2 triệu thường dân tử vong ở cả hai bên vào năm 1995.

. Chiến binh Bắc Việt và Việt Cộng: Việt Nam chính thức ước tính khoảng 1,1 triệu người tử vong vào năm 1995.

. Binh lính Nam Việt Nam: Quân đội Hoa Kỳ ước tính rằng có từ 200.000 đến 250.000 binh lính Nam Việt Nam tử vong.

–   Các quốc gia khác:

. Hoa Kỳ: Hơn 58.000 quân nhân Mỹ đã tử trận hoặc mất tích trong khi chiến đấu.

. Các lực lượng đồng minh khác:

– Hàn Quốc mất hơn 4.000 binh lính,

– Thái Lan mất khoảng 350,

– Úc mất hơn 500 và

– New Zealand mất khoảng ba chục.


 

THÁNG TƯ… NGU! – Tạp Ghi Huy Phương

Lê Đông Phương is with Huy Phuong.

THÁNG TƯ… NGU!

(Tạp Ghi Huy Phương)

Trước hết, tôi xin tự kiểm điểm cái ngu của bản thân mình trước, trong hàng nghìn cái ngu của thiên hạ, vì ngu mà phải mất nước, “lỗi tại tôi mọi đàng” hay “tôi làm tôi mất nước.”

Là một cán bộ chiến tranh chính trị trung cấp, hết làm tâm lý chiến, rồi chính huấn, tức là huấn luyện chính trị cho hàng nghìn tân binh tại một trung tâm huấn luyện lớn nhất nước, mà khi nghe Cộng Sản vào đến Sài Gòn, không chịu tìm đường chạy, vì cứ nghĩ mình gốc nhà giáo, hòa bình rồi, đi ‘học” mấy ngày rồi về dạy học lại!

Tôi ngu vì đã suy diễn hay hiểu sai thời gian đi “học tập,” nên chỉ đem theo 10 gói mì ăn liền Vifon, để ăn sáng trong 10 ngày, ngày thứ 11 đã ăn cơm nhà rồi!

Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định ra thông cáo tất cả các quân nhân cấp úy phải trình diện đi “học tập cải tạo,” mang theo tiền ăn trong 10 ngày, cấp tá mang theo tiền ăn cho một tháng. Sau này có người đi tù 17 năm ròng rã, chúng ta “chửi” Cộng Sản lừa dối, nhưng xem kỹ lại các văn bản, không thấy đoạn nào nói, cấp úy chỉ đi tù 10 ngày, cấp tá một tháng, mà chỉ nói “đóng tiền ăn.”

Chẳng qua, vì chúng ta hay suy luận, và ngây thơ, khờ dại nên mắc mưu sự khôn lanh, xảo quyệt của kẻ thù, đó chính là vì chúng ta ngu!

Sau này, ra Bắc, chính tai tôi đã nghe một quản giáo cai tù nói rằng: “Đưa các anh ra biển thì cũng từ từ, trước hết là gần bờ, sau mới dần dần đưa các anh ra xa hơn, nếu không các anh chóng mặt, say sóng, chịu làm sao nổi!”

Tôi đoan chắc anh em chúng ta, nhất là quý vị tướng lãnh, nếu biết được những ngày tù không bản án, mà có người ra đi biền biệt 17 năm trời, chịu bao nhiêu khổ ải, nhọc nhằn, nhục nhã, thì một nửa trong chúng ta đã tự sát tại nhà mà chết, hoặc chạy vào rừng để rồi cũng chết vì súng đạn của Việt Cộng. May hay rủi, vì ngu mà chúng ta mới sống đến ngày hôm nay.

Khi đến các địa điểm trình diện, không ai nghĩ “đi tù” mà chỉ nghĩ “đi học.” Tại trường Trưng Vương, là nơi trình diện từ cấp phó giám đốc trở lên, hai vị, một từng là phó thủ tướng VNCH, dân biểu, một vị đã là thượng nghị sĩ, đi học còn mang theo gối ôm, và khi xếp hàng vào cổng, có vị đã giành đi trước, vì có giấy giới thiệu của Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định. Sau đó, bộ đội Cộng Sản mới ra lệnh: “Ai có giấy giới thiệu thì đứng qua một bên!” Giấy giới thiệu đây là giấy gọi “trình diện” cho các viên chức cấp cao, còn đối với cấp nhỏ thì chỉ có thông cáo chung trên báo chí, đài phát thanh.

Những ai còn đứng lấp ló ngoài cửa chưa chịu vào, còn nghi ngại dò la thì những chiếc xe mang tên nhà hàng Soái Kình Lâm, Đồng Khánh… mang thức ăn vào quý vị dùng bữa tối, hẳn đã đánh tan mối hoài nghi về thiện ý của người thắng trận.

Đến khi lên xe Molotova, phủ bạt kín rồi, chúng tôi vẫn còn lạc quan tin lời Cộng Sản được đưa đến chỗ đầy “đủ tiện nghi,” (chắc là có đủ điện nước, máy lạnh, sân bóng chuyền…) để học tập và khi biết đoàn xe ra đến xa lộ Biên Hòa, thì việc di chuyển lên Đà Lạt như cầm chắc trong tay. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trường Chỉ Huy Tham Mưu, trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị là những nơi lý tưởng nhất để “học tập.”

Khi đến nơi ở tù rồi, Cộng Sản đưa tù vào một cái nhà kho, một trại gia binh hay một cánh rừng thì vẫn tin tưởng vào số ngày trong thông cáo, chờ ngày ra sân vận động Cộng Hòa làm lễ mãn khóa: “Quỳ xuống hỡi những cải tạo viên – Đứng lên hỡi những công dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam!”

Câu chuyện những người trên con tàu Việt Nam Thương Tín, Tháng Năm, 1975, sang đến đảo Guam rồi, lại đốt “barrack,” tuyệt thực để đòi “về với tổ quốc,” là một bài học xót xa cho những người trong cuộc, có người phải trả giá bằng 17 năm tù. Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh kể chuyện, anh em “tù cải tạo” tại trại tù K2, Nghệ Tĩnh, gọi những người này bằng biệt danh “đội q…!”

Tại trại 15 NV. Long Thành, một nhạc sĩ đã hồ hởi sáng tác những bản nhạc được cai tù bắt cả trại hát: “Trồng rau, trồng đậu, trồng tình thương trong tâm hồn người…” Ra tới Bắc Thái lại thêm một bài “Ngày vui đã tới!” nhưng mà “ngày về” thì xa lắc xa lơ!

Thậm chí khi lên con tàu chở súc vật Sông Hương lưu đày ra Việt Bắc rồi, có người vẫn lạc quan “biết đâu nó chở tù miền Nam ra Đệ Thất Hạm Đội Hoa kỳ hay đi thẳng qua Guam để giao cho Mỹ!” Tàu chạy hơn một ngày một đêm rồi mà vẫn nghĩ là cập bến Đà Nẵng chứ không ai nghĩ là lên cảng Hải Phòng.

Ở trong nhà tù vẫn còn người tin tưởng “học tập, lao động” tốt thì được “Cách Mạng” cứu xét cho về với gia đình sớm, nên làm trối chết, kiệt sức, đấu tố anh em… để lấy điểm với cán bộ, cũng như đau xót cho quý bà ở nhà, dắt díu con cái đi vùng “kinh tế mới” cho chồng sớm được tha! Sau 10 “bài học tập,” tới buổi “thu hoạch” thì cứ nghĩ là viết hay thì được tha về, viết dở thì ở lại “học” tiếp.

Trước ngày 29 Tháng Ba, 1975, khi Cộng Quân chưa vào Đà Nẵng, một số người thuộc phe hòa hợp hòa giải tin tưởng thời cơ đã đến nên đã sắp đặt đưa Bác Sĩ Phạm Văn Lương lên làm thị trưởng Đà Nẵng, tin sau đó được đài BBC loan báo. Trong lần phỏng vấn bà quả phụ Phạm Văn Lương tại Nam California, bà xác nhận với chúng tôi Bác Sĩ Phạm Văn Lương chưa bao giờ là thị trưởng Đà Nẵng, nhưng có chuyện là khi có nguồn tin này, một vị trung tá đã đến gặp ông xin làm tài xế cho ông, để nhờ ông che chở, lánh nạn. Sao có người “ngu” đến mức như thế!

Ngày 5 Tháng Tư, 1975, Bác Sĩ Phạm Văn Lương cùng nhiều y sĩ khác bị đưa vào nhà tù Kỳ Sơn, và một năm vào ngày 3 Tháng Tư, 1976, Bác Sĩ Lương đã uống thuốc ngủ cùng 10 viên cloroquine để tự tử.

Trong những ngày cuối cùng của miền Nam, Tướng Dương Văn Minh vẫn còn tin tưởng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Nhưng cuối cùng, tiếng than cuối cùng tuyệt vọng của “Tổng Thống” Dương Văn Minh là: “Thầy giết tôi rồi!”

Có những người làm lớn hoặc từng “làm rung rinh nước Mỹ” mà còn ngây thơ như vậy, thì đừng trách chi một thằng lính như tôi tin tưởng vào lời của “cách mạng” đem đủ 10 gói mì ăn liền, là… ngu!

Quân tử, ngay thẳng, ngây thơ mà đối đầu với tiểu nhân, xảo trá, độc ác thì không chết cũng bị thương.

Tôi đâm ra nghi ngờ những lời kêu gọi chúng ta rằng, hãy “đem đại nghĩa để thắng hung tàn,” để rồi từ đó cho đến ngày hôm nay mọi người đều biết và thấy nhan nhản chuyện “cường bạo áp đảo cả chí nhân!” !!!

(Hình: Trại “cải tạo” của CSVN sau năm 1975)


 

Chuyện Đổi Đời: Trình Diện Đi Tù – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng
 
Trước năm 1975, tôi là giáo sư trường Trung học Lương văn Can, quận 8 Sài gòn.

Sau năm 1975, tôi bị đi cải tạo gần 8 năm. Chỉ là một giáo chức, không thuộc diện sĩ quan phải trình diện, vậy mà cũng vô trại Long Thành, Thủ Đức, rồi Lào Cai,Vĩnh Phú và Hà Nam Ninh ngoài Bắc.

Thực sự, thì trước năm 1975, khi giáo sư Nguyễn Ngọc Huy còn làm phó chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, tôi có tham gia đảng Tân Đại Việt của Giáo sư Huy nhưng chỉ với chức vụ phó Bí thư.

Giữa tháng 6 năm 1975, Ủy Ban Quân Quản Thành phố Sài gòn, ra lịnh tất cả quân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa phải trình diện học tập cải tạo. Tôi xin ba tôi mười ba ngàn đồng, bằng nửa tháng lương công chức hạng A của tôi (là hạng có mức lương khá lúc bấy giờ) để đi trình diện tại trường Lê văn Duyệt ở Gia Định.

Theo lời kêu gọi đăng trong báo chí và đài phát thanh lúc bấy giờ, “chính phjủ cách mạng” yêu cầu chúng tôi mang mùng mền, thức ăn và tiền bạc để đóng tiền ăn trong một tháng. Trước đó, hạ sĩ quan quân đội cũ được yêu cầu đi học một tuần rồi về làm ăn. Vậy là mọi người đều đinh ninh rằng vậy là những người chịu trình diện, chịu đầu hàng, sẽ chỉ học tập chính trị trong vòng một tháng để hiểu biết đường lối, chính sách của chế độ mới, rồi chắc chắn sẽ được cho về làm ăn. Vì nếu không thả về sau khi học một tháng thì đóng tiền làm gì. Không lẽ nhà cầm quyền vừa thắng trận lại lường gạt kẻ bại trận sao?

Do đó, khi em tôi chở tôi đến trường nữ Trung học Lê văn Duyệt, thấy hai đầu đường có hai xe tăng chỉa họng súng về hai phía của đầu đường Lê văn Duyệt, tôi có cảm giác không yên, lòng xao xuyến khó tả. Sao kỳ quá vậy. Súng ống, xe tăng sắp hàng như đang chuẩn bị đánh trận.

Cũng ngây thơ như tôi, anh Trương chí Thiện là đoàn viên Phong Trào Quốc gia Cấp Tiến và là Tổng Thơ Ký của Liên Minh các đảng gồm Cấp Tiến, Công Nông… không nằm trong diện phải đi trình diện cải tạo. Từ cấp bậc Phó Chủ Tịch và Chủ Tịch cấp quận trở lên mới phải trình diện mà thôi. Nhưng anh Thiện làm ký giả báo Tàu, sau ngày 30 tháng 04, các báo đều bị đóng cửa, ngưng hoạt động, ở nhà cũng buồn, nên xin đi trình diện cùng với anh Trương Tấn Lộc là Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến là cựu Nghị Viên Hội Đồng Đô Thành Sài gòn. Anh Thiện không thuộc diện này nhưng cũng nhất định xin đóng tiền để được học tập, hy vọng sau khi học xong sẽ có “giấy chứng nhận” đã học tập để dễ làm ăn sau này, không còn “bị làm khó dễ”.

Anh Thiện cũng lầm tưởng chỉ đi trong một tháng mà thôi.Sau đó anh ở tù hơn 7 năm, bị bịnh lao phổi, ho ra máu trong trại và anh được về trong bịnh hoạn, tức tối vì bị lường gạt.

Ở trường Lê văn Duyệt, chúng tôi được nhà hàng Bát Đạt đem cơm tới mỗi ngày, cho nên bữa ăn nào cũng thịnh soạn, ăn uống dư thừa, được cho ăn no và ngon nữa nên cứ nghĩ rằng nhà nước mới tử tế, chiêu đãi “trại viên” bằng thức ăn của nhà hàng sang trọng bậc nhất nhì của thành phố Sài gòn.

Sau vài ngày làm thủ tục ghi tên đóng tiền, nộp giấy căn cước, họ phân chúng tôi thành từng đội, tạm thời ở trong các phòng học của nhà trường.

Giữa đêm, đang ngủ ngon giấc, bỗng nhiều ánh đèn “pin” chiếu sáng vào mùng, gọi chúng tôi thức dậy gấp, thu dọn đồ đạc cho gọn nhẹ để di chuyển. Trong đầu óc anh em chúng tôi hết sức hoang mang, đi về đâu, đem ra biển Vũng Tàu thả xuống biển hay đi đâu mà lại lên xe hơi, kéo cửa xe xuống kín mít để không cho ai nhìn thấy và lại đi nửa đêm. Tới gần sáng, chúng tôi được chở vô làng cô nhi Long Thành. Chúng tôi được phân vào dãy bên trái của làng cô nhi. Khu vực này dành cho anh chị em đảng phái chính trị.

Họ phân ra 4 khối: khối một là khu dành cho các viên chức hành chánh từ cấp Chánh Sự Vụ trở lên, các Dân Biểu, Nghị sĩ của Việt Nam Cộng Hoà. Khối hai dành cho những người hoạt động trong đảng phái chịnh trị chống cộng. Khối ba là khối Tình báo đa số làm trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo. Khối bốn là các viên chức trong ngành Cảnh Sát quốc gia.

Chúng tôi, hoạt động đảng phái được xếp vào khối hai, ở dãy nhà bên tay trái của trại, phân ra nhiều đội. Trong số những viên chức lãnh đạo, tôi nhớ lúc bấy giờ có Luật sư Trần văn Tuyên, Ông Vũ Hồng Khanh, Cựu Nghị Sĩ Trần Trung Dung, Trong đội tôi có Nguyễn Ngọc Minh, anh có 6 người con, là Chủ Tịch đảng Tân Đại Việt quận 5, chủ nhà in. Anh nói với tôi là anh còn 40 triệu ở ngân hàng cho nên anh làm kế hoạch nuôi heo gởi lên cán bộ để hy vọng lấy được số tiền này ra. Đó là hy vọng của anh. Anh đang ở trong tù mà vẫn còn thơ ngây, tin tưởng họ sẽ trả lại cho anh số tiền 40 triệu đồng đó. trong khi ngoài kia, Cộng sản đang chuẩn bị đánh tư sản, cầm tù những người có tài sản mà anh lại còn hy vọng lấy được số tiền này nữa. Nhìn chung, những người quốc gia hoạt động chính trị của phía chúng tôi đa số đều ngây thơ như thế.

Trong tù tôi gặp lại giám đốc Nha Khảo Thí Nguyễn Kim Linh mà trước đây tôi có làm việc hai năm ở nha Khảo Thí. Tôi gặp lại thầy Hà Khải Hoàn, thầy dạy tôi môn Việt văn ở trường trung học Cần Giuộc năm 1957, 1958 nay là phó Giám Đốc Nha học chánh thuộc Bộ Giáo Dục.

Từ Thủ Đức đến trại Lào Cai

Cũng được gọi bất ngờ giữa đêm tối, yêu cầu sắp xếp đồ đạc gọn gàng, hai người chung một cái còng, từ trại Long Thành chúng tôi bị đưa về giam ở nhà tù Thủ Đức. Ở đây không có cuốc đất trồng khoai. Mỗi ngày đọc báo “nhân dân” tờ báo của đảng Cộng Sản. Tuy ở gần Sài gòn nhưng từ ngày trình diện giữa tháng 6 năm 1975 đến nay, đã hơn một năm trời, gia đình không biết chúng tôi còn sống hay đã chết và bị giam giữ ở đâu.?

Tháng 12 năm 1976 chúng tôi được kêu ra sân tập họp cũng hai người cùng chung một còng số 8 lên xe chạy trên xa lộ Biên hoà và đưa xuống bến sông Sài gòn giữa đêm khuya, để lên tàu chuyển ra Bắc.

Lần lượt chúng tôi xuống hầm tàu còn dấu vết than đá trên nền. Khi tàu chạy, họ đóng nắp hầm tàu lại, chúng tôi bị ngộp thở và đã la hét ôm sồm, nấp hầm mới được kéo ra để chúng tôi thở.

Trong chuyến đi này bạn tôi là Lê Như Ninh, người công giáo giới thiệu cho tôi biết Đức Phụ Tá Giám Mục Sài gòn, sau này là Hồng Y Nguyễn văn Thuận, cùng ra Bắc một chuyến với chúng tôi. Anh em đi vệ sinh bằng “sô” xách nước. Khi cái sô đầy phân và nước tiểu thì xách lên trên “boong” tàu để đổ xuống biển. Nhiều khi đang lên cầu thang bị sóng đánh, tàu nghiêng sô nước tiểu và phân người đổ vào đầu, vào cổ, vào áo quần anh em đang ngồi ở phía dưới. Anh em nào bị dính phân, nước tiểu vào người cũng phải chịu trận như vậy trong suốt mấy ngày tàu chạy lênh đên trên biển chứ đâu có được tắm rửa gì đâu?

Con tàu chở tù miền Nam đến cảng Hải phòng vào buổi sáng mùa đông năm 1976. Trời lạnh buốt. Vài chiếc tàu nhỏ đậu ở cảng giống như ở bến đò quê nào đó, chứ không thấy gì to lớn cả. Trời thì lạnh mà đa số anh em tù không có đủ áo quần ấm để mặc hầu có thể chống lại cái lạnh, cái rét của mùa đông miền Bắc. Năm đó có lúc lạnh tới 6 độ C lạnh gần đông đá.

Mùa đông năm 1976, trời quá lạnh, có khi nửa tháng tôi mới dám tắm một lần. Mỗi lần xối nước lên mình, nước bốc thành hơi, khói bay lên mù mịt. Khi nói chuyện, thấy hơi nước bay ra khỏi miệng. May mắn thay tôi có mang theo cái áo mưa lớn bằng “nylon”  rộng thùng thình quá đầu gối. Nhờ nó, tôi chịu đựng được cái lạnh mùa đông năm 1976 và những mùa đông kế tiếp. Cái áo mưa này tôi vá đùm, vá chụp hơn chục miếng vá, đến nỗi “cán bộ quản giáo” tức cai tù nói: “Anh không còn cái áo nào khác sao mà anh cứ mặc cái áo này vậy”. Cái áo này vá tứ tung làm xấu hổ cán bộ cai tù chăng? thấy sự nghèo khổ tột cùng của tôi, không có cái áo lành lặn mà mặc?. Có những anh em khác còn may bao bố để mặc khi gia đình chưa có gởi áo quần vào, trông còn tệ hơn là cái áo vá đùm vá chụp của tôi nữa.

Xuống xe tại cổng trại trung ương số 1 Lào Cai, chúng tôi được dẫn vào khu nhà khá sạch sẽ. Được cho ăn bữa chè nóng hổi. Mấy ngày sau, ngày nào cũng ăn cơm trắng, thịt cá đầy đủ. Chúng tôi có cảm tưởng ở miền Bắc, công an tử tế hơn trong nam. Nhưng chỉ được vài ngày rồi thôi. Mỗi bửa ăn chỉ là một miếng bánh mì mỏng dính, xẹp lép chưa được nửa nắm tay. Ăn hết rồi vẫn còn thấy đói. Có khi trại phát bắp luộc, được vài ba trái. Ăn bắp trái, càng thấy đói hơn nữa vì ba trái bắp thì ăn được mấy hột. Có hôm, chúng tôi được phát bánh mì, nhưng trộn lẫn với than đá. Ăn vào đụng răng, nghe lộp cộp, không thể nhai được. Nhà bếp thu hồi lại, nấu thành cháo, phát cho một ít nước bánh mì để cầm hơi. Đói quá, không ngủ được, nhưng chúng tôi cũng phải chịu chớ có kêu ca được với ai bây giờ.

Lúc nào cán bộ cũng theo dõi chúng tôi xem chúng tôi có nói lời nào chống đối họ không?. Có tìm cách trốn trại không. Vậy mà năm 1976 cũng có mấy anh trốn ra khỏi trại, nhưng đều bị bắt lại ngay hôm đó vì không thể đi xa được. Đa số những người sinh sống ở vùng này là dân tộc thiểu số. Trong trại này, khi chúng tôi đến ở, đã thấy trên các tấm ván trên các hộc đựng đồ lĩnh kỉnh ở đầu chỗ nằm, có khắc tên người Mỹ đã từng bị giam ở đây. Sau này tôi mới biết trại này cũng từng giam tù binh Mỹ. Đó là trại Trung ương số 1 Lào Cai. Đây là trại kiểu mẫu giam tù chính trị.

Trại K3 và K4 Vĩnh Phú

Tôi ở trại K3 Vĩnh Phú ròng rã bốn năm trời. Trại này có nhiều kỹ niệm với tôi hơn hết. Một người tôi không bao giờ quên tên được, đó là đội trưởng đội hai, đội trồng bắp, trồng khoai lang, khoai mì. Sau đó, đương sự nhờ quá tích cực được cất nhắc lên làm thi đua toàn trại K3 Vĩnh Phú. Người đó là Phạm Đình Thanh.

Khi Trung Quốc chuẩn bị tấn công vào các tỉnh tiếp giáp với Việt Nam, Cộng Sản đưa chúng tôi xuôi về miền nam. Hai bạn tù bị còng tay với nhau, đẩy lên xe bít bùng. Trong khi di chuyển, bên ngoài trời mưa to, xe lắc lư dữ dội, khi chạy có lúc tôi cảm thấy chắc là sắp sa xuống thung lũng hay xuống hố sâu. Tôi ở phía trong xe, gần tài xế, khi xe ngả nghiêng, lôi kéo cả mấy chục người tù từ phía sau xe, chúi mũi dồn về phía trước, đè lên chúng tôi, tưởng đâu đã ngộp thở.Tôi nghĩ chắc mình sẽ chết vì ngộp thở, hay có thể chết vì xe lăn xuống hố và rồi gia đình vợ con, chẳng có ai biết được mình chết ở đâu?.

Mùa hè năm 1978, tôi bị đưa về trại K3 Vĩnh Phú, nơi có đền thờ vua Hùng Vương. K3 Vĩnh Phú nằm ở giữa thung lũng, núi đồi vây phủ xung quanh. Ở đây tôi gặp Cha Khoa tự Khải, Hiệu Trưởng trường trung học Đồng Tiến, Cha Thấy ở Mỹ Tho bị bắt vì trong xe có tiền bạc triệu lúc bấy giờ là số tiền lớn. (Lương công chức hạng A khoảng 30,000 hay 40,000 đồng một tháng).Tôi được phân chia vào đội trồng khoai lang, khoai mì. Mỗi sáng sau khi được phát cho một củ khai lang hay khoai mì nho nhỏ, vác cuốc ra rẫy, cuốc đất, lật từ vuông đất lên, rồi bừa cho nhuyễn để khi mưa xuống gieo hột bắp hay đặt các dây khoai lang. Không đủ trâu để cày, nên người tù chúng tôi phải thay trâu kéo cày.

Tôi ở chung với Luật sư Lê Như Ninh, sống ở Nha Trang, ở tù vì tham gia đảng Dân Chủ, và các anh Võ văn Bé, Phùng văn Chấn, Lê Tấn Hà… nhân viên Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo. Những tháng ngày dài lê thê sống ở K3 này công việc thường là cuốc đất, trong khi ngày ba bữa ăn toàn bo bo không xay. Sau khi ăn chừng năm mười phút thì tất cả bo bo đều được tống ra ngoài hết vì bao tử người không thể tiêu hoá bo bo không xay, bo bo còn nguyên vỏ được. Loại này dùng để cho ngựa hay trâu, bò ăn. Cho nên chúng tôi ăn bo bo được vài tháng, mọi người chỉ còn da bọc xương giống như những con khỉ ốm đói biết đi, những con ma đói đang cuốc đất. Mỗi lần phát cơm, phân chia cơm, mỗi người được một nắp bình thủy cơm, còn là bắp trái loại cứng ngắc nhai không được. Tù nhân chỉ được ăn loại bắp cứng dành cho trâu bò.

Đói mờ mắt. Đói triền miên. Đói dữ dội. Đói quá có nhiều anh em ăn bất cứ thứ gì anh em nghĩ là có thể ăn được, nên anh em thường nói: “cái gì nhúc nhích thì ta ních liền”. Ra ngoài đồng gặp rau má, rau tàu bay, bất cứ thứ rau gì tù nhân đều ngắt ăn sống. Có người khi đi ra đồng làm việc, ăn rau trừ bửa, hay gom ba phần của trại phát, sáng trưa và tối, ăn một lần buổi tối cho no. Anh em tù đa số đều bị bịnh phù thũng. Mùa đông năm 1978 là mùa đông khủng khiếp nhất trong đời tù của chúng tôi. Lần đầu tiên tôi mới biết thế nào là mưa phùn, gió bấc. Ở trong Nam chỉ có mưa nắng hai mùa chứ chưa bao giờ gặp cảnh mưa gió mà còn lạnh lẽo liên tục như thế.

Tôi còn nhớ anh Quế là Giáo sư ở Quảng Nam, Đà Nẳng, là Thanh tra của Sở Giáo dục. Anh bị tù vì tham gia đảng Dân Chủ. Vì quá ốm yếu nên làm việc chậm chạp, cuốc đất không đạt “chỉ tiêu trong ngày”, bị đội trưởng cự nự. Anh cố cuốc mạnh tay hơn, nhanh hơn, nhiều hơn. Tối hôm đó vào khoảng hai ba giờ khuya, anh em nằm gần bên anh Quế hô to lên:

“Anh Quế chết rồi ”.

Không ai biết anh Quế chết vì bịnh gì, nhưng chắc chắn anh đã chết vì bị thiếu ăn, bị bỏ đói lâu dài, bị kiệt sức mà thôi.

Mới mấy hôm trước trong đội tù cũng có người chết vì ăn cóc nướng ở lò rèn. Có lẽ vì anh nướng vội vã, không kịp làm sạch sẽ, nên khoảng vài giờ sau khi ăn thịt cóc, chừng nửa đêm, anh kêu đau bụng, không có thuốc và cũng không chở đi cấp cứu kịp và hôm sau thì anh chết.

Trong thời gian này khoảng cuối năm 1978 đầu năm 1979, cứ vài ngày là có vài người ra đi. Anh em liên tục đóng hòm chôn cất bạn tù. Vài người tù khiêng bạn mình ra bìa rừng, chôn vội vàng vùi dập. Không có ai được phép khóc thương. Vợ con ở nhà cũng chẳng hay có một người, một tù nhân đã chết.

Ở K3 Vĩnh Phú tôi có gặp Nguyễn Minh Diệu học cùng lớp trường Trung học Cần Giuộc 1955 – 1959. Gặp Phan tấn Ngưu ở K5, gặp Dương Bồng Quảng con chủ nhà máy xay lúa ở Chợ Trạm, bạn học chung ở trường Tấn Thành, Chợ Trạm 1954-1955.

Những tháng này là thời gian đói khát dữ dội nhất và cũng bị kềm kẹp, khống chế nhiều nhất. Một lời nói than van hay dèm pha nhà nước được báo cáo lên cán bộ là có thể bị cùm chân, cùm tay từ 14 ngày trở lên.

Một lần đang ở trong phòng nghe tiếng la thất thanh ở bên ngoài, tôi dòm qua cửa sổ phòng giam thấy 4 cán bộ đang đá một tù nhân như đá banh. Họ đá anh này từ trái sang phải, từ góc nầy sang góc kia, đá chán thấy mệt, họ mang anh vào phòng giam riêng.

Mùa hè năm 1982, tôi được chuyển sang K4 Vĩnh Phú và được đưa về đội 8, đội làm ruộng. Tôi được biết đây là nơi thường giam giữ những người tội nặng của miền Bắc. Vùng này có tên là Mai Côi, Thác Guồng. Đến Mai Côi, Thác Guồng này mà được trở về đời sống bình thường là chuyện hy hữu. Thông thường đã bị giam ở đây coi như sẽ chết.

Mỗi buổi sáng sớm chúng tôi vác cuốc ra ruộng, lội xuống nước sâu quá đầu gối. Ruộng này là vũng nước ao tù, là vùng tận cùng là chỗ trũng, nước từ các con suối ở thượng nguồn trong vùng rừng núi trên cao gôm về, cho nên chứa đủ tất cả các chất độc nhất do lá rừng, vi trùng, chất thối rửa của súc vật, côn trùng qui tụ về đây. Chúng tôi làm ruộng này chừng một tháng thì rụng hết lông chân và bị sốt vàng da. Loại sốt này rất đặc biệt, ai bị bịnh này không thể đứng được, tay chân rã rời, không ăn uống gì được, nếu ăn chút cháo cũng bị ói ra hết. Mỗi khi bị bịnh, không đi đứng được, phải nhờ bạn bè cõng.

Trong đội 8 của chúng tôi quá nửa đội bị bịnh sốt vàng da. Anh Minh cùng đội đã phải cỏng anh Đề lên trạm xá, vài ngày sau anh Đề lại cõng anh Minh lên trạm xá vì bịnh này. Tôi cũng bị bịnh này không ăn uống được hơn một tuần lễ. Nếu không có bác sĩ Thịnh biết cách điều trị bịnh này, chắc tôi cũng như nhiều anh em tù khác đã được chôn cất ở bìa rừng thuộc thung lũng Mai Côi, Thác Guồng của tỉnh Vĩnh Phú này.

Mai Côi, Thác Guồng là địa danh mà dân miền Bắc, Hà nội rất sợ, đó là nơi “đi dễ, khó về”. Một lần trong dịp Tết ta, anh em trong trại đang nấu nướng vì được nghỉ ngơi trong mấy ngày này. Vợ một anh lính gác, áo quần vá nhiều chỗ, ẩm đứa con, đi vào bên trong trại tìm xin thuốc uống cho con. Chị này đi hỏi anh em nào có thuốc cảm hay thuốc ho để cho cháu dùng. Tôi không hiểu tại sao chị không lên trạm xá của công an. Nhưng tôi thấy chị ăn mặc áo quần vá víu như thế, chứng tỏ chị cũng nghèo quá, khổ như chúng tôi mà thôi. Chúng tôi ở tù trong, thì chị ở tù ngoài.

Tôi còn nhớ có lần đi làm rẩy ở Vĩnh Phú, gặp dân chúng ngoài đường, họ nói: “Tôi tưởng mấy anh sẽ giải phóng chúng tôi chứ, tôi đâu có ngờ ngày hôm nay tôi gặp các anh ở đây”

Sau mấy năm thấy tù nhân chết quá nhiều, trại cho tổ chức nhận quà năm ký từ miền Nam, để cho vợ con của tù nuôi tù, đỡ gánh nặng nhà nước. Sau này, mới hiểu sở dĩ có vụ cho thăm nuôi là vì bắt đầu có thương thuyết vơi phía Mỹ về sô phận tù chính trị của miền Nam. Nếu để bọn tù chết hết, đâu còn thứ gì mang ra đổi chác với Mỹ được. Do vậy, nhiều khi gia đình gởi nhiều hơn năm ký mỗi ba tháng cũng được cho thông qua vì khi có quà cáp anh em cũng có biếu cán bộ như thuốc lá, đường, bánh trái, thuốc uống trị bịnh cảm, thuốc bổ, vitamin, thuốc sốt rét…

Trại Hà Nam Ninh

Cuối năm 1982, chúng tôi được chuyển đến trại Hà nam Ninh gần Hà nội. Đây cũng là lúc diễn ra nhiều thay đổi.

Một lần khám xét đồ đạc của tù, thấy mấy cuốn sách về Lê Nin, một cán bộ coi tù nói “giờ này mà còn đọc cuốn sách này”. Từ câu nói này, tôi thấy văn hóa miền Nam đã tác dụng ngược trở ra miền Bắc.

Khi tôi còn bị giam giữ ở K3 Vĩnh Phú cán bộ cấm chúng tôi hát nhạc vàng, gọi là “nhạc ngụy”, nhạc làm cho mất nước. Nếu có ai hát nhạc vàng bị báo cáo lên thì có thể bị cùm chân bị giam riêng. Cái nón có mũ lưỡi trai ở phía trước cũng bị chê là của Mỹ ngụy yêu cầu cắt bớt. Đội nón từ miền nam đem ra là bị phê bình, chỉ trích. Đi dép râu thì được. Nón cối thì được. Cái gì của miền nam đều là xấu cả.

Nhưng rồi một hôm tôi được phân công nhổ cỏ ở chung quanh khu nhà cán bộ ở vì lúc đó tôi bị bịnh quá không ra ngoài đồng cuốc đất được. Tôi nghe từ trong phòng của cán bộ đang hát nhạc vàng của miền nam. Tôi bắt đầu suy nghĩ, cấm tù nhân hát nhạc vàng mà cán bộ lại hát nhạc vàng. Như vậy văn minh, văn hoá miền nam đã ảnh hưởng ra miền Bắc bằng chứng là nhạc vàng bị cấm hát, nhưng họ lại thích nghe, say mê những bản nhạc vàng đó.

Bắt đầu ở đây anh em hát “nhạc vàng” thoải mái. Ban đêm, bên ngoài buồng giam có lính gác đi tuần kiểm soát, bên trong anh em hát “nhạc vàng” không còn bị phạt nữa. Trong trại lúc bấy giờ tôi nhớ có thầy Hòa là Đại Đức tuyên úy Phật giáo, thuộc hàng trăm bài hát “nhạc vàng”. Thầy Hoà có thể hát liên tục vài giờ cũng không hết nhạc. Đêm nào không hát, cán bộ ở bên ngoài còn yêu cầu anh em hát “nhạc vàng” cho vui. Cán bộ cộng sản đã mê “nhạc vàng” rồi.

Văn minh, văn hóa miền Nam Việt nam đã ảnh hưởng vào tâm tư, tình cảm của người cộng sản miền Bắc.

Sau ba mươi năm tất cả những điều gì trước đây họ chỉ trích, họ cấm đoán, họ bỏ tù ngày hôm nay họ cho thực hiện lại hết như buôn bán tự do, không còn ngăn sông cấm chợ nữa. Nhưng họ áp dụng chế độ tư bản theo luật rừng rú vì tất cả luật pháp cũ họ đều hủy bỏ mà luật lệ mới chưa thành hình. Khi chiếm miền nam xong, họ đóng cửa trường Luật, đóng cửa trường Đại học Văn khoa Sài gòn.

Sau khi thắng trận họ tưởng làm kinh tế như đánh đấm ngoài mặt trận. Bán cà phê vĩa hè, hớt tóc vĩa hè cũng phải vô hợp tác xã. Do đó mà toàn dân phải ăn độn bo bo, ăn gạo có nhiều bông cỏ, trước khi nấu phải mất rất nhiều thì giờ lượm bông cỏ ra.

Sự dối trá đã ăn sâu vào nhà cầm quyền lẫn dân chúng, phải lường gạt nhau để sống. Nhà cầm quyền lường gạt dân. Dân lường gạt nhà cầm quyền và lường gạt lẫn nhau. Lương tâm của con người đem dấu vào sọt rác.

Nếu sống đàng hoàng, mua bán đàng hoàng thì không sống nổi. Nên dân chúng phải lươn lẹo. Trong giai đoạn ngăn sông cấm chợ, muốn sống còn, phải dối trá, phải lươn lẹo, đi mua thịt lậu từ dưới quê lên để bán, mua đường, mua áo quần cũ, mua bán đồ phế thải. Chở ít gạo từ tỉnh này sang tỉnh kia để kiếm lời. Khi đi buôn bán nếu qua mặt được công an kinh tế thì sống, nếu bị bắt thì mất vốn. Nhưng không buôn bán thì lấy gì mà sống.

Hôm nay nhà cầm quyền thông báo nói không đổi tiền, sáng hôm sau, giới nghiêm, đổi tiền làm cho nhiều người sạt nghiệp. Thông cáo kêu gọi quân nhân, công chức, sĩ quan trình diện học tập trong một tháng, nhưng giam mãi không biết ngày về, không ra tòa kêu án, ngồi bốc lịch dài dài. Mỗi ba năm anh em gọi là một “cây gậy”. Không ai biết mình sẽ phải ở mấy “cây gậy” đây? Ba năm, sáu năm, chín năm, mười hai năm … Ở tù không biết ngày nào về với gia đình hay vĩnh viễn sống trong miền rừng núi Thanh Hóa, Nghệ An, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh …Trung Quốc có Tân Cương. Nga sô có Tây Bá Lợi Á dành cho tù nhân vĩnh viễn định cư ở đó.

“Tù cải tạo” dành cho người miền Nam thua trận thực sự không hy vọng có ngày trở về với gia đình, nếu những lãnh tụ cộng sản không thình lình thấy là mạng sống của đám tù này bỗng là thứ có thể thương thuyết đổi chác với phía Mỹ. Nhờ vậy mà trình trạng nhà tù bỗng thấy dễ thở hơn.

Thời gian sống tại trại Nam Hà là thời gian thoải mái nhất trong cuộc đời ở tù. Lúc này quà cáp thường xuyên gởi ra từ vợ con ở trong nam. Cán bộ đã cởi mở hơn. Họ đã nhìn thấy sĩ quan, công chức miền Nam không phải là những người ăn gan, uống máu. Họ đã hiểu phần nào về người bại trận.

Thân nhân của các tù nhân từ trong Nam gởi tiền ra cho chúng tôi, để chúng tôi mua thịt cá, trái cây. Nhiều khi cán bộ dễ dãi để chúng tôi nấu chè, nấu cơm, nấu canh chua trong phòng giam. Họ dễ dãi cho nấu nướng là để họ bán được hàng, để họ kiếm thêm tiền. Với cái lon Guigoz chúng tôi kho thịt, nấu cơm, nấu canh v.v…thật là tiện dụng. Cần giẻ rách, một ít dầu là chúng tôi có thể đun một nồi chè ở trong phòng giam.

Mỗi sáng chúng tôi đi ra đồng làm cỏ để cấy lúa. Tôi thấy nhiều người ra đồng quá trễ. Hơn 11 giờ mới cầm cuốc, lếch thếch kéo ra đồng làm việc.

Tôi hỏi họ: “Sao các anh đi làm trễ quá vậy?”

Họ trả lời: “Đi ra sớm mà làm gì, làm cho hợp tác xã chứ có phải cho mình đâu. Làm nhiều, làm ít cũng chia chác như vậy mà thôi.”

Khi cuốc đất, họ khều khều vài lát cuốc như phủi bụi; một lát, họ đã kéo nhau về nghỉ. Tôi suy nghĩ dân miền Bắc làm việc như vậy hỏi rằng khá giả làm sao được. Vậy mà họ đã thắng miền nam. Thế mới lạ chứ.

Nếu “Trương Chi đẹp trai” đó là tựa bài viết của Dương Hùng Cường để mô tả dân miền nam nghe tiếng hát Trương Chi thì những người nhẹ dạ rất mê, rất thích nhưng trong thực tế thấy gương mặt của Trương Chi thì không còn có thể mê được nữa. Nghe Cộng Sản tuyên truyền thì đa số đều rất thích nhưng thực tế, họ làm ngược lại những điều họ nói, nên sau khi chiếm miền nam rồi thì “Nếu cái cột đèn biết đi nó cũng bỏ xứ mà đi”. Cho nên dân miền Nam không bao giờ quên được câu nói để đời của Cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”

Ba tôi có cảm tình với Việt Minh, Cộng sản vì bạn của ba tôi là ông tư Lê đã theo kháng chiến từ những năm 1945. Khoảng năm 1948, 1949 Việt Minh đánh đồn Chợ Núi, quận Cần Giuộc, Tư Lê có vào nhà ba tôi để trò chuyện. Ba tôi cho mượn ống quẹt để châm hút thuốc lá. Sau trận đánh đồn đó ba tôi bị ông Tổng Nhì và Pháp bắt, đánh để khai thác về Việt Minh (Cộng sản) và ba tôi đã bị bịnh nhiều, nằm điều trị ở nhà gần một năm.Từ đó ba tôi rất hận và ghét Pháp và có cảm tình với Việt Minh. Sau này, dĩ nhiên ba tôi cũng không có cảm tình với người Mỹ và quân đội quốc gia. Khi tôi ra ứng cử Nghị viên Hội đồng đô thành Sài gòn, để chuẩn bị ứng cử Dân Biểu, Nghị sĩ sau này, ba tôi đã nói: “Ẩm tao ngồi chức đó tao cũng nhảy xuống” có ý nói với tôi là “bỏ tiền ra ứng cử chi cho tốn kém, mất thì giờ” mà ba tôi cũng không ưa chức vụ đó nữa.

Khi di chuyển từ K4 Vĩnh Phú qua trại Hà nam Ninh, tôi được đưa về phân trại A. Tôi gặp đủ hết các anh em cùng bị giam chung với tôi ở Long Thành như Mai Kim Đỉnh cùng học chung ban Cao Học trường Chính Trị Kinh Doanh ở thương xá Tax, Sài gòn những năm 1972-1974, Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa chủ nhiệm của Ban Tuyên Huấn của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến và của đảng Tân Đại Việt. Gặp lại một số học trò cũ bị giam ở đây vì theo nhóm kháng chiến “phục quốc”, chống Cộng sau năm 1975.

Nhóm này cũng ở tù khá lâu, bảy, tám năm hay hơn nữa nhưng khi có chương trình HO để đi định cư tại Hoa Kỳ thì những người này không được xếp vào diện HO vì họ được xem là những thành phần chống đối sau năm 1975.

Sống ở phân trại A một thời gian ngắn, họ lại tách một số chúng tôi ra, di chuyển về phân trại C của trại Hà Nam Ninh.

Không khí tù đày đã dễ thở hơn so với những thời gian trước. Khi chúng tôi có quà cáp thăm nuôi đã đút lót cán bộ thuốc lá, bánh kẹo, thuốc uống từ trong Nam gởi ra. Chúng tôi được mua thức ăn do cán bộ tổ chức bán như thịt heo, thuốc lá. Ngay cả rượu chúng tôi cũng có thể mua được bằng cách liên hệ với người dân sống chung quanh trại.

Tôi đã ở tù lâu quá rồi, gần tám năm. Mang trong người đủ thứ bịnh, không chết là may mắn lắm rồi.

Sau khi ăn Tết trong trại Hà Nam Ninh chừng vài tháng, cán bộ gọi anh em tập họp lại, ngồi ngoài sân, gọi tên từng người sang ngồi một bên và yêu cầu đứng lên vào phòng thu dọn đồ đạt. Lúc đó, anh em mới biết mình sẽ được thả cho về.

Khi ra khỏi trại, tôi không muốn nhìn trở lại chỗ mà tôi đã bị giam cầm trong thời gian dài ở đó.

Xe hơi chở chúng tôi bỏ vào khu nhà ga xe lửa chờ có chuyến đi vào trong nam. Vài người trong chúng tôi đi tìm cà phê để uống. Phố xá tiêu điều. Thành phố Hà Nội lúc bấy giờ (đầu năm 1983) là thành phố chết, không có buôn bán gì. Uống cà phê cũng phải uống chui. Đi ra nhà sau của tiệm cà phê không có bảng hiệu gì cả, mua cà phê đen uống với đường đã là quí lắm rồi. Họ không có bán cà phê sửa vì đó là một xa xỉ phẩm.

Ngồi trên xe lửa xuôi về miền Nam, đến Quảng Ngãi chúng tôi còn mấy bộ áo quần cũ trên bảy năm, mùng mền mang theo lúc đi trình diện vậy mà tôi bán cũng được mấy chục đồng bạc lúc đó. Với số tiền này tôi mua được tô hủ tiếu để ăn uống dọc đường.

Khi đến ga Hàng Xanh trời vừa sáng. Tôi chỉ còn đủ tiền để kêu chiếc xe xích lô chở về bến xe Phạm thế Hiển. Leo lên xe Lam chạy dọc đường Phạm thế Hiển, tôi nhìn không ra được con đường cũ mà tôi đã đi qua lại thường xuyên trước năm 1975. Bây giờ, sau gần tám năm, cảnh vật thay đổi nhiều quá. Nhà cửa xây cất thêm lấn ra lề đường. Có những nhà mới cất tôi nhìn không ra. Về tới nhà lúc nào tôi cũng không hay.

Bước vào nhà của mình mà thấy quá xa lạ. Có mấy đứa trẻ con ngồi học ở trong nhà mà tôi đâu có biết đứa nào là con tôi đâu. Khi tôi đi “học tập cải tạo” con út tôi mới vừa tám tháng, khi về đứa út cũng đã 8 tuổi rồi, làm sao tôi biết nó cho được. Đứa con trai 9 tuổi chạy xuống nhà sau, lúc đó bà xã tôi đang nấu cơm. Nó nói: “Má ơi có ông nào vô nhà kìa.”

Tôi vừa bước vô nhà mình, đi thẳng ra phía sau nhà, gặp bà xã đang nấu cơm, gặp cậu bảy Bích, tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi đã khóc, không thể nào cầm giữ nước mắt cho được. Người ta khóc vì buồn rầu, đau khổ. Tôi khóc vì tưởng chừng như đã chết rồi mà được sống lại. Tôi đâu có ngờ tôi còn sống để được về với gia đình sau gần 8 năm trong các trại tù khắc nghiệt ở các miền thượng du, núi rừng âm u miền bắc.

Giấy ra trại ký ngày 28 tháng 02 năm 1983, ngày tôi về tới nhà trình diện công an phường là 9 tháng 3 năm 1983 ngót nghét còn ba tháng nữa là đủ 8 năm tù, vì cái tội duy nhất là tội tham gia đảng phái quốc gia.

Ngẫm lại, tôi thấy mình còn được ông trời thương, được sống sót về với gia đình, để cho các con của tôi có cha, cho tôi có cơ hội phụ giúp phần nào sinh kế cho gia đình vợ con. Và rồi sau cùng, có cơ hội đưa gia đình tới được nước Mỹ tự do để làm lại cuộc đời.

Xin tạ ơn trời, tạ ơn người, và biết ơn nước Mỹ.

Ngày 26 tháng 04 năm 2015

Phùng Văn Phụng

Vietbao.com đăng ngày 28 May 2015 trong trang “Viết Về Nước Mỹ”


 

Hơn 3.000 thuyền nhân bị giết ở đảo Kokra Thailand – -Lapson Luu

 Việt Nam xưa và nay – Khoa Phan

-Lapson Luu

Nỗi ám ảnh kinh hoàng mà nhiều người không biết là đã có ít nhất 3.000 Thuyền Nhân bị Hải Tặc Thái thảm sát ở đảo KoKra.

Trong giai điểm từ 1977-1982 Hải Tặc bắt nhiều thuyền nhân đưa vào hoang đảo KoKra. Chỉ nội trong năm 1981 thống kê cho thấy có 452 chiếc thuyền tị nạn bị tấn công và con số thuyền nhân bị hải tặc thái thảm sát gần 900 người trong cùng năm 1981 – Số thuyền nhân đến được đất Thái mỗi năm khoảng hơn 15.000 người và tổng số thuyền nhân chết ngoài biển do sóng gió, thiếu thức ăn, hải tặc với thống kê cao nhất là 400.000 người bỏ xác ngoài biển khơi.

Liên tục vào những năm 1977-1982 là thời gian cao điểm Thuyền Nhân tị nạn từ Việt Nam đi qua vịnh Thailand để đến Thái, Indonesia và Malaysia – Hải Tặc Thái bắt nhiều thuyền đưa vào KoKra để cướp, hảm hiếp phụ nữ và giết chết ngay sau đó.

Tờ báo Hồn Việt của ký giả Nguyễn Hoàng Ðoan trong năm 1978 đã ghi lại câu chuyện của những người tị nạn bị bắt lên đảo KoKra vượt thoát ra và kể lại nhiều câu chuyện rùng rợn xảy ra tại nơi đây. KoKra có một bia đá nằm ở hướng Bắc của hòn đảo là nơi có diện tích rộng nhất. Đây là nơi bọn Hải Tặc Thái thường đưa phụ nữ VN bắt được ra hảm hiếp tập thể cho tới khi họ ngất đi thì sẽ bị đẩy xuống biển.

Một chiếc thuyền tị nạn trôi dạt vào KoKra cuối năm 1977 kể lại thuyền của họ có 8 người – 3 phụ nữ, một đứa bé và 4 đàn ông khi bị sóng đánh trôi dạt vào đảo , mọi người mừng rỡ vì nghĩ rằng đã có nơi trú ẩn khi gió lớn – Vào được khu vực bia đá thì họ nhìn thấy hàng chữ bằng tiếng Việt được viết nguệch ngoạc – “Đảo này là đảo Hải Tặc hãy rời đi vì họ sẽ giết đàn ông và hảm hiếp phụ nữ!”

Nhanh như chớp, 8 người trở lại chiếc thuyền tìm cách chèo chậm chậm ra khỏi khu vực – vừa rời khỏi đảo KoKra chừng hơn 200 mét thì họ gặp phải một chiếc thuyền lớn hơn của Hải Tặc Thailand từ xa tiến lại gần.

Các thuyền nhân trên tàu 8 người kể lại họ nhìn thấy trên chiếc thuyền Thái có một tay cầm súng carbin và 7 tên khác cầm dao rựa với ánh mắt đẫm máu dữ tợn đang đưa thuyền tiến gần hơn chiếc 8 người.

Trên chiếc thuyền 8 người có 4 thuyền nhân đàn ông, họ là người cùng gia đình – một lính Biệt Cách Dù VNCH, một Biệt Đông Quân VNCH và 2 thanh niên trẻ hơn là Bộ Đội vừa trốn khỏi chiến trường Tây Nam.

Thuyền 8 người Tị Nạn trang bị một súng AK47 còn 4 viên đạn, một khẩu B40 còn một quả và một súng máy không có đạn.

Khi chiếc thuyền hải tặc tới gần thì cây súng máy (không đạn) được người lính Bộ Đội đưa lên để hù và anh Biệt Cách Dù đưa Ak lên bắn một viên bắn sượt ngang mông tên hải tặc đang cầm súng carbin và quả B40 cũng chuẩn bị khai hỏa … Tiếng súng AK đơn độc nổ dòn trong buổi chiều trời gần sẩm tối kéo theo tiếng la hét trên con tàu Hải Tặc nhanh chóng rời bỏ vị trí.

Bỗng chợt từ trên đảo KoKra vọng lên nhiều tiếng phụ nữ khóc thét nghe rợn người. Anh Bộ Đội trẻ bơi rất giỏi vác trên lưng cây AK47 còn 3 viên đạn bơi nhanh về hướng tiếng phụ nữ khóc.

Hai người lính VNCH tìm cách chèo thuyền gần đảo hơn để hỗ trợ cho người em trai Bộ Đội – Họ đã đuổi 5 tên Hải Tặc trên đảo và cứu được 2 phụ nữ còn sống cùng một em bé 4 tuổi – Tất cả 42 người khác trên chiếc thuyền trước đó của nạn nhân đã bị Hải Tặc Thái giết chết sạch…

Lapson Luu

(Đảo KoKra là một hoang đảo, nơi trú ẩn của ngư dân Thailand – Đảo có chiều dài hơn 250 mét và chiều ngang chỗ rộng nhất khoảng 100 mét.


 

Nói lời phải chăng (Phần cuối)

Ba’o Tieng Dan

21-4-2025

Tiếp theo phần 1phần 2phần 3phần 4phần 5phần 6

Chu Sơn: Hơn 35 năm sau cái ngày lịch sử (30–4) mà gần như tình cờ anh Tòng tham dự, có bao giờ anh tự nhìn lại mình, nhìn lại đất nước khi nhớ nghĩ lại những gì mình đã làm, những gì mình đã nói tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh Sài Gòn?

Huỳnh Văn Tòng: Không phải chỉ “có bao giờ” mà rất nhiều và gần như thường trực tôi cứ hỏi tại sao? Tại sao? Tại sao cái cơ hội ngàn năm một thuở ấy bị bỏ lỡ, bị phí phạm một cách đáng tiếc? Không phải chỉ với cá nhân tôi, kẻ muốn làm một Việt Cộng tép riu (thuộc lực lượng Thứ Hai) hơn làm một “nhân vật” đứng giữa (thuộc lực lượng Thứ Ba), cũng không phải những người đứng giữa (thuộc lực lượng Thứ Ba) mà cả một số không ít những người phía bên kia (thuộc lực lượng Thứ Nhất – Việt Nam Cộng Hòa) cũng tiếc một cách quay quắt không được tham dự vào vận hội hòa giải hòa hợp dân tộc, xây dựng đất nước trong hòa bình độc lập và thống nhất sau biến cố 30-4-1975.

Tôi trở về nước đầu năm 1972 sau một thời gian khá dài (9 năm) tiếp cận với nền học thuật Pháp – Tây phương. Sự tiếp cận đó cho phép tôi nhận ra rằng, trí thức, quần chúng Pháp và Tây phương có điều kiện thời gian và nền tảng học thuật để nhận biết chủ nghĩa Marx, phong trào Cộng sản quốc tế và cách mạng tháng 10 Nga sớm và chính xác hơn trí thức và quần chúng Việt Nam. Đảng Cộng sản Pháp và các đảng Cộng sản Tây phương thành lập sớm hơn đảng Cộng sản Việt Nam hàng chục năm, nhưng rồi nhân dân Pháp và phương Tây đã không chọn mô hình Xã hội Chủ nghĩa để đổi mới đất nước họ như khẳng định của các lý thuyết gia Cộng sản là sự phát triển kinh tế của phương Tây đã chín mùi và sự trưởng thành của giai cấp công nhân và quần chúng lao động ở các nước này đã sẵn sàng để cách mạng Xã hội chủ nghĩa nổ ra và thắng lợi.

Sự chọn lựa này chủ yếu do nền tảng văn hóa truyền thống của họ sâu dày và trình độ học thuật của họ cao. Họ thừa nhận Marx – Angel và các nhà hoạt động cách mạng theo ý thức hệ Cộng sản ôm ấp lý tưởng và khát vọng trong sáng và cao đẹp. Nhưng đồng thời họ nghi ngờ khả năng hiện thực của học thuyết Marx và chủ nghĩa Lenin. Cuối cùng đảng Cộng sản Pháp và các đảng Cộng sản Tây phương đành chấp nhận làm lực lượng đối trọng chính trị và phản biện xã hội đóng vai trò thúc đẩy sự đổi mới, sự tiến bộ trong các nước Tư bản chủ nghĩa, và ủng hộ công cuộc giải trừ các thế lực thực dân đế quốc tại các thuộc địa.

Trong khi đó lý tưởng cộng sản, cách mạng tháng 10 Nga, chủ nghĩa Lenin lại nhanh chóng chiếm lĩnh tâm trí đa số người Việt ở trong nước cũng như Việt kiều tại Pháp. Lý do của sự quy hướng này là khát vọng độc lập tự do, công bằng xã hội vô cùng mãnh liệt nơi một số bộ phận không nhỏ trí thức, và ước mơ đổi đời một cách cấp thiết của toàn thể đồng bào cùng khổ (90% là nông dân) trước tình cảnh đói nghèo và nô lệ cùng cực do chế độ thực dân. Còn một lý do nữa của sự quy hướng này là mặt bằng nhận thức chung của dân tộc chưa đủ để vượt qua tình trạng mê tín dị đoan đã biến học thuyết Marx thành những tín điều tôn giáo và đảng Cộng sản thành một giáo hội không sai lầm, một guồng máy bạo lưc có quyền lực tuyệt đối trong mọi lãnh vực của đời sống đất nước.

Tôi đã từng nhận định như thế về đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án ở trường đại học, đặc biệt là sau chuyến viếng thăm, quan sát, học hỏi dài ngày (6 tháng) tại những cơ quan thông tấn báo chí danh tiếng trên thế giới, tôi đã hiểu vì sao Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng tìm thấy con đường giải phóng đất nước dân tộc sau khi đọc luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Lòng yêu nước sâu nặng và sự phẫn nộ mãnh liệt trước tội ác của bọn đế quốc thực dân đã lấn lướt khả năng suy luận lạnh lùng và khách quan của những người ngoài cuộc, hay của những người đã tìm thấy nơi học thuyết Tư sản Dân quyền những giá trị cách mạng triệt để như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và đặc biệt Nguyễn An Ninh vào thời điểm thập niên thứ hai của thế kỷ trước.

Tôi trở về nước với ý định tìm đường tham gia kháng chiến để giải tỏa ray rức là kẻ thờ ơ vô trách nhiệm trước tình hình đất nước ngày một lún sâu vào thảm cảnh chiến tranh xâu xé vô vọng. Hòa bình, độc lập, thống nhất đối với tôi vào thời điểm đó vẫn là mục tiêu hàng đầu. Vấn đề thể chế sẽ là sự đồng thuận của cả dân tộc sau khi đạt được các mục tiêu ấy. Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ rút kinh nghiệm từ những sai lầm tai hại trong các cuộc cải cách, cải tạo mà họ đã thực hiện trên miền Bắc trước và sau 1954. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không thể không biết tới những tội ác kinh khủng: Giết chết và đày đọa hàng trăm triệu con người trong các cuộc thanh trừng, đấu tranh giai cấp đẫm máu và sự điêu tàn suy sụp toàn diện tại Liên xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Tôi đã sai lầm khủng khiếp.

Do suy nghĩ đơn giản như vậy, tôi chấp nhận đề nghị của ông Chu Sơn cùng với Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Trực, Bùi Minh (những người thân cận của thượng tọa Trí Quang) tiếp sức cho phong trào đô thị Huế bằng hành động cụ thể là thúc đẩy Lực lượng Hòa giải Dân tộc sớm thành lập, liên kết nó với các tổ chức, phong trào đô thị Sài Gòn, Huế và cả miền Nam, góp phần hình thành lực lượng Thứ Ba tại Sài Gòn, tạo điều kiện mở rộng hoạt động của nó ra các tỉnh miền Trung, kết nối tất cả thành lực lượng Thứ Ba thống nhất cho cả Miền Nam.

Ông Chu Sơn cần chú ý: Sáu nhân vật hàng đầu của chính phủ Dương Văn Minh, trừ luật sư Nguyễn Văn Huyền là người Công giáo, năm người còn lại là Phật giáo đồ, là Phật tử thuần thành. Hai trong số đó là luật sư Vũ Văn Mẫu, giáo sư Bùi Tường Huân là nhân vật lãnh đạo của Lực lượng Hòa giải do thượng tọa Trí Quang bàn thảo cùng đại tướng Dương Văn Minh sắp xếp đề cử vào chức vụ Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Việc giáo sư Bùi Tường Huân giữ chức bộ trưởng quốc phòng là chủ ý của thượng tọa Trí Quang thể hiện ý chí và khát vọng hòa bình theo tinh thần của đạo Phật và đường lối chủ trương của giáo hội Phật giáo. Việc Dương Văn Minh đề cử các nhân vật khác từ Phó Tổng thống trở xuống đêu có sự đồng thuận của thượng tọa Trí Quang.

Không phải chuyện tình cờ khi sáng sớm ngày 30 tháng 4 Nguyễn Hữu Thái tới chùa Ấn Quang và sau đó thượng tọa Trí Quang điện thoại đề nghị các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu nhanh chóng chấp nhận đầu hàng. Nguyễn Hữu Thái và tôi tới dinh Độc Lập và đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30 tháng 4 có manh mối từ những cơ duyên như thế, chứ không phải tình cờ như ông Chu Sơn đã nhận xét. Những việc chúng tôi làm, những điều chúng tôi nói tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh đơn giản nhằm thực hiện câu châm ngôn mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã hành xử suốt đời ông: Dĩ bất biến ứng vạn biến. Cái bất biến đối với chúng tôi vào thời điểm đó là Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc, toàn dân chung sức chung lòng xây dựng đất nước sau 117 năm bị xâm lược, chiến tranh tàn phá và xâu xé, tương tàn.

Lời kêu gọi ấy sau hơn một phần ba thế kỷ chắc chắn câu chữ có thay đổi do ký ức hao mòn nhưng nội dung vẫn trước sau như một. Làm sao quên được khi tôi biết chắc chắn rằng nhiều người trong số học trò, bạn bè, bà con thân thuộc và cả một số quen biết tôi gián tiếp vì lời kêu gọi ấy mà tin tưởng, mà ở lại để rồi phải chịu đọa đày, sĩ nhục, đói khổ, tù đày, tuyệt vọng, chết chóc. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản tiến hành sau 1975 đã biến tôi thành kẻ lừa dối. Thậm chí có một cô học trò đã nói thẳng vào mặt tôi rằng: “Ông đích thực là một tên cò mồi. Gia đình tôi vì ông mà bị sập bẫy”.

Ông Chu Sơn biết không, cô học trò ấy là một trong những sinh viên thân thiết nhất của tôi, đã cộng tác hết mình với nhóm chúng tôi trong suốt hai năm “tôi nghĩ rằng mình là một Việt Cộng”, là đồng chí, đồng sự của ông Chu Sơn trong nhiệm vụ hỗ trợ cho phong trào đô thị Huế. Suốt hai năm ấy tôi nhận được từ cô sự tin tưởng và quý trọng. Cô vận động cha cô – một trung tá trong quân đội Việt Nam Cộng hòa – cùng gia đình (mẹ và bốn em) “ở lại để cùng với đất nước làm lại cuộc đời”. Nhưng rồi họ đã bị sập bẫy – chính xác như lời cô nói – Cha cô đã bị đưa đi cải tạo dài ngày, nhà bị lấy. Đứa em trai kế thi đậu nhưng không được vào đại học vì là con ngụy quân. Cô tiếp tục học hai năm cuối, tốt nghiệp cử nhân nhưng không xin được việc làm cũng vì là con ngụy. Mẹ và cô phải lăn ra chợ trời để lo cái ăn cho cả nhà và thăm nuôi cho chồng, cho cha.

Tù đày, đói khổ, cực nhục và tuyệt vọng là những gì họ nhận được từ ngày “miền Nam được giải phóng”. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với những gì tôi đã đoan chắc với cô ấy trước 30 tháng 4. Quả thực tôi là kẻ nói dối, là một thứ cò mồi… Cô ấy đã hoàn toàn chính xác khi không gọi tôi là Thầy như trước, mà gọi tôi là ông, và xỉ vả tôi như thế…

Chu Sơn: Xin lỗi anh Tòng. Tôi thấy trên trán anh đã lấm tấm mồ hôi. Tôi đã hành anh suốt cả buổi chiều. Tuy vậy tôi vẫn muốn chính anh, chứ không phải tôi, kết thúc cuộc trò chuyện này bằng một vài câu ngắn gọn.

Huỳnh Văn Tòng: Hồi học bên Pháp tôi may mắn làm học trò của ba vị thầy lỗi lạc: Giáo sư Chesneax, giáo sư Jean Lacouture và giáo sư Phillipe Devillieris. Các vị ấy và nền đại học, truyền thông báo chí Pháp và quốc tế dạy cho tôi phương pháp nghiên cứu khoa học và tư duy lịch sử trên cơ sở của nền văn minh phương Tây – Ky tô giáo. Qua các vị ấy và nền tảng văn hóa học thuật ấy, tôi hiểu nhiều hơn về thế giới và đất nước dân tộc mình.

Về dạy đại học Vạn Hạnh và làm “Việt Cộng nội thành”, tôi lại may mắn tiếp cận với ba vị thầy lỗi lạc và thâm trầm hơn: Thầy Thích Minh Châu, thầy Thích Trí Quang, thầy Hồ Hữu Tường. Ba vị này và môi trường đại học Vạn Hạnh dạy cho tôi tình yêu đất nước, lòng bao dung, trách nhiệm nhân loại và chúng sinh theo cốt tũy đạo Phật và tinh hoa Phật giáo Việt Nam.

Qua các cuộc trao đổi, các vị ấy thường nhắc nhở tôi câu châm ngôn: “Tồn tại là tồn tại trong những tương quan”. Câu châm ngôn này với những giải bày của các vị ấy giúp tôi nhìn nhận văn hóa, lịch sử Việt Nam, hiện tình đất nước và các mối quan hệ quốc tế chính xác và công bình hơn.

Chúng ta đang ở trong đất nước. Đất nước đang ở trong thế giới. Tất cả thường trực vận động và đang trên đà chuyển hóa. Kết quả của cuộc vận động chuyển hóa ấy thế nào tùy thuộc vào nhận thức và bản lãnh sống của tất cả mọi chủ thể tham dự.

Khẳng định như thế để thấy rằng, mối chủ thể tồn tại từ cá nhân, gia đình, địa phương, thành phần dân tộc, đảng phái, tôn giáo, quốc gia, cộng đồng khu vực và quốc tế đều chia phần trách nhiệm trước quá khứ và hiện thực cuộc sống.

Không đổ hết trách nhiệm, cái xấu và lỗi lầm lên đầu đối phương, không dùa hết cái tốt, cái đúng, cái ưu việt về phía mình.

Không trông chờ sự tôn trọng của kẻ khác, của quốc gia dân tộc khác khi bản thân mình, cộng đồng mình, dân tộc đất nước mình chìm đắm trong chia rẽ, xâu xé, nô lệ và hủ bại.

Đất nước chưa có độc lập, hòa bình, thống nhất; dân tộc chưa có tự do và hạnh phúc như chúng ta đã mơ tưởng, như đảng Cộng sản đã rêu rao và tiếp tục lảm nhảm.

Hết nô lệ Pháp, Mỹ, chúng ta đang nô lệ Tàu. Hết bị áp bức bóc lột bởi chế độ vua quan chuyên chính, chúng ta đang bị đàn áp bóc lột tồi tệ hơn, triệt để hơn bởi bạo quyền lý Toét, xã Xệ, thị Nỡ và Chí Phèo: Đảng Cộng sản.

Sau hơn một thế kỷ rưỡi chiến tranh, chết chóc, đọa đày và đổ nát để rồi chúng ta có được ngày nay sao?

Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 và hai câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Bùi Giáng.

***

Chu Sơn: Câu hỏi bỏ lửng của anh Tòng kết thúc cuộc trò chuyện của chúng tôi vào khoảng 8 giờ tối một ngày cuối tháng 4 năm 2010, chưa đầy một năm ba tháng trước ngày anh qua đời (tháng 7 năm 2011).

Mấy trang ghi chép này chắc chắn không tránh được những sai sót ngoài ý muốn. Xin anh Tòng rộng lòng tha thứ.


 

“‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’.

Le Thanh Hoang Dan

Copy FB Nguyễn Tuấn

“‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’.

Hôm qua là một ngày lịch sử, vì Amanda Ngọc Nguyễn trở thành nữ phi hành gia gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ.

Amanda (tên tiếng Việt là Ngọc) sanh năm 1991 tại California. Ba của cô là Nguyễn Minh Tú và má là Tăng Ngọc Lan, là ‘thuyền nhân’ tị nạn, gốc Bạc Liêu.

Amanda là một học sinh xuất sắc và có khả năng lãnh đạo. Tốt nghiệp trung học hạng thủ khoa (Valedictorian) và được các đại học lừng danh (như UCLA, Stanford, Barkeley, Harvard, v.v.) sẵn sàng cấp học bổng. Amanda quyết định chọn Harvard, vì đó là mục tiêu cô đặt ra và phấn đấu lúc còn ở bậc trung học. Chuyện kể rằng, trong phòng riêng, cô viết trên bảng trắng những lời tự rèn luyện và tự giữ kỉ luật để sao cho vào được Đại học Harvard.

Ở Harvard, Amanda theo đuổi chương trình cử nhân [tạm dịch] Văn chương và Khoa học (Bachelor of Arts and Science) và tốt nghiệp năm 2013. Trong thời gian theo học ở Harvard, Amanda cũng tiếp tục là một ‘hiện tượng’. Học giỏi, viết văn hay, hoạt động xã hội tích cực là những đặc tính của cô gái trẻ.

Ở tuổi 19, Amanda đi du lịch ở Bangladesh. Ở đó, gặp chuyện bất bình, Amanda giúp truy tố một người đàn ông đã giết cháu gái mình vì đứa cháu bị hiếp. Cô sáng lập ra nhà để nuôi 500 trẻ mồ côi ở Kenya. Điều phi thường là tất cả những việc đó cô làm được trong lúc ở tuổi sinh viên!

Ngay sau khi tốt nghiệp năm 2013, Amanda được nhận vào làm ‘intern’ (thực tập sinh) tại trung tâm không gian NASA và đồng thời làm việc cho trung tâm vật lí thiên văn Harvard–Smithsonian Center for Astrophysics. Amanda có thời gian làm người liên lạc viên tại Toà Bạch Ốc cho Bộ Ngoại giao Mĩ. Thật ra, ngay từ lúc ở Harvard cô đã có ý tưởng nghiên cứu về vũ trụ và làm phi hành gia.

Nhưng giấc mơ phi hành gia bị gián đoạn sau một biến cố quan trọng trong đời xảy ra vào năm 2013. Năm đó, cô bị một tên sinh viên con nhà rất rất giàu hiếp trong kí túc xá ở Massachusetts. Lúc đó Amanda chưa truy tố kẻ tội phạm ra toà vì nghĩ rằng mình chưa đủ tài chánh và tài nguyên để ra toà mà có thể kéo dài nhiều năm.

Cảnh sát cho biết rằng luật pháp Massachusetts cho phép cô có thời gian 15 năm để truy tố kẻ tội phạm. Nhưng trong thời gian đó, nạn nhân phải cứ 6 tháng làm thủ tục để gia hạn bộ ‘rape kit’ (pháp y chứng). Sau 6 tháng mà không có gia hạn thì pháp y chứng sẽ bị huỷ bỏ (và nạn nhân khó truy tố kẻ tội phạm)!

Sau khi nói chuyện với nhiều nạn nhân khác, Amanda nhận ra sự vô lí của luật pháp và quyết định phải thay đổi bộ luật bất công đó.

Năm 2014, Amanda quyết định sáng lập hiệp hội RISE (Đứng Lên) để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của nạn nhân bị hiếp. Năm 2016, qua sự bảo trợ của Thượng nghị sĩ Jeanne Shaheen, Amanda đưa dự luật vào Quốc Hội Mĩ và được Hạ Viện cũng như Thượng Viện thông qua.

Tháng 10/2016 Tổng Thống Barack Obama chánh thức kí đạo luật Sexual Assault Survivors’ Rights Act, và đến nay, đạo luật này đã được thông qua ở 25 tiểu bang, yêu cầu chánh phủ phải minh bạch trong quá trình xét nghiệm nạn nhân bị hiếp.

Năm 2016 Amanda nghỉ việc ở Bộ Ngoại giao để dành toàn thời gian cho việc điều hành tổ chức RISE.

Amanda được trao rất nhiều giải thưởng danh giá ở Mĩ và trên thế giới. Trong danh sách giải thưởng có giải Heinz Award về chánh sách công, “Time 100 Next”, “Forbes 30 under 30”, và Nelson Mandela Changemarker Award. Năm 2019, cô được đề cử giải Nobel Hoà Bình.

Khi nghe tin được tuyển chọn làm phi hành gia bay vào vũ trụ, Amanda viết trên trang truyền thông xã hội rằng ‘Là những thuyền nhân tị nạn, gia đình tôi nhìn lên những vì sao để tìm đường đến tự do’ (‘As boat refugees, my family looked to the stars to guide their way to freedom’) và nói với má cô rằng ‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’ (‘You crossed the ocean so I can touch the sky.’)”

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo


 

CHUYỆN ĐỜI Ở HÀNH LANG BỆNH VIỆN…- Tác giả : Trần Linh

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều 

Tác giả : Trần Linh

Khi mẹ nằm truyền, mình đi ra ngoài và hỏi thăm người đàn bà mà mình thấy đã ngồi đó rất lâu:

– Trễ rồi sao cô chưa về?

– Cô chưa có tiền đóng để mua dây, mua…vì mai tới ngày chạy thận.

– Cô đóng nhiêu ạ?

– 260 đồng. Sáng nay cô lấy 100 tờ vé số, bán được 50 tờ, còn 50 tờ nhờ bà kia bán mà chắc chưa hết nên chưa đưa tiền qua….

…Cô ở một mình, tối trải ghế bố ngủ ngoài kia, cả ngày đi bán vé số kiếm tiền trị bệnh.

– Để con đi đóng cho cô nha.

– Con giỡn chơi hà.

Mình vào phòng tìm y tá hỏi thăm. Bạn í ngạc nhiên:

– Ủa, cô Hường không có người thân mà. Chị quen gì với cô?

– Chị không quen, nhưng chị muốn đóng cho cô ấy. Một tháng cô hết bao nhiêu em hén?

– Dạ, một tháng 2,5 triệu. Chị đóng một tháng luôn hay mấy trăm ngàn thôi?

…..

Mình suy nghĩ, vì mình chỉ đưa mấy triệu để lo cho mẹ, nếu đóng cho cô mà lỡ Bs nói đóng thêm gì cho mẹ thì không đủ. Thế là, mình đi hỏi xem mẹ còn gì phải đóng tiền,  bạn nói không…Mà mình còn thẻ nữa.

– Em ơi, chị đóng luôn cho cô ấy 2 tháng. 5 triệu nha.

Bạn y tá ngạc nhiên nhìn mình, hỏi lại có đúng không. Mình gật đầu. Bạn cho tờ giấy đóng tiền, thế là mình vội chạy đi đóng ở dãy nhà khác – kịp để về chăm mẹ.

Ôi trời, mình không tưởng tượng được khi đưa biên lai cho cô ấy. Cổ đâu tin, đọc đi đọc lại tên mình xem có đúng không, rồi đọc số tiền…Là thiệt rồi, cổ thốt lên vậy…

…Rồi cổ khóc, khóc ngon ơ như có gì chất chứa trong lòng, nay được tuôn ra ngoài – người đàn bà bán vé số mang bệnh mà không có người thân – 2 tháng tới đây, chắc vơi đi khó nhọc nhiều lắm!

Rồi cũng trên dãy hành lang ấy, có cô kia đã níu tay mình:

– Cô ơi, đỡ tui dậy đi vệ sinh được không? Bị mệt và choáng nên tui không ngồi lên được.

– Cô không có ai đi cùng à?

– Con tui nó bận hết rồi, tui đi một mình.

Thế là mình đỡ cô dậy, dìu cô đi. Vào nhà vệ sinh, ngay cả quần cô cũng không kéo nổi. Mình lại loay hoay giúp cô, đứng đó cho cô nắm vào tay vì ngồi không vững.

Cô đi xong, mình chùi rửa sạch sẽ cho cô rồi dìu ra ngoài. Cô nói, sáng giờ chưa ăn gì, muốn đi mua mà không bước được.

Thế rồi mình lại chạy đi, mua 2 hộp sữa Ensure mang về cho cô 1 hộp, cô vé số 1 hộp. Mình nói, cô đưa số điện thoại con của cô, con gọi.

Cô đọc số, mình gọi và nghe giọng con trai.

– Em ơi, mẹ em yếu lắm, em vào lo cho mẹ.

Giọng bên kia gắt lên:

– Đã vào đó là có bác sĩ, y tá, không ai lo hay sao mà đưa số cho chị gọi.

– Ủa em, dù có ai đi nữa thì mẹ em cũng phải có người nhà chứ.

– Chiều tối xong việc mới vào được, chị chuyển máy cho mẹ tôi đi.

Mình muốn chửi ghê trời, nghe cái giọng điên hết cả người, nhưng rồi sợ cổ buồn, nên thôi.

– Tui có 2 đứa con, một trai, một gái. Trai có vợ rồi, còn gái thì chưa lập gia đình. Tụi nó bận lắm, muốn nhờ cũng khó.

…Rồi cô lại nói mình dìu nằm xuống ghế, đợi khỏe tí rồi tui ra phòng cấp cứu.

Lòng mình xót xa quá đỗi, chạy vội vào canh chừng mẹ:

– Cha mi, đi đâu nãy chừ để mẹ trông.

…Mình ỏn ẻn, nói con đi nhiều chuyện ở ngoài kia. Mẹ mệt, nhưng mẹ cười rất tươi…Mình nhìn mẹ – rồi lại nghĩ đến những người đàn bà nơi góc hành lang bệnh viện…

     Có vào viện mới hiểu lòng con cái …

Tác giả : Trần Linh


 

ĐỀ TÀI VỀ ĐÀ NẴNG CUỐI THÁNG 3,1975 – BS PHÙNG VĂN HẠNH

 BS PHÙNG VĂN HẠNH

Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975 được nhiều người viết. Tác giả bài viết dưới đây, Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh, một đàn anh thân thương và tài giỏi, từng hướng dẫn các SV Nội Trú năm thứ Sáu của ĐH YKH thực tập môn chỉnh hình tại Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Đà Nẵng. Bs. Phùng Văn Hạnh tốt nghiệp YK Saigon năm 1961, cùng năm với quý thầy Phùng Hữu Chí, Vũ Công Thưởng, Nguyễn Văn Tự, và với Bs. Vĩnh Toàn (anh đầu của Vĩnh Chánh).

Bs. Phùng Văn Hạnh bị CS bắt vào tù 12 năm vì chỉ trích chế độ CS. Sau khi được về nhà năm 1988, Bs. Hạnh vượt biên liền trong cùng năm, và được tàu Pháp của nhóm Médecins Sans Frontières (trên tàu có sẵn Bs. Lê Trang Châu đi cứu người vượt biển) vớt ngoài Biển Đông, định cư tại Montreal năm 1989. Tại cộng đồng này, Bs. Phùng Văn Hạnh là một khuôn mặt hoạt động tốt đẹp trong Văn Bút Hải Ngoại và trong các hội đoàn chống cộng. Dưới văn danh Khánh Giao, Bs, Phùng là tác giả của nhiều sách và thơ, như Tình Yêu Hiện Sinh, Một Kiếp Người, Một Hạt Đậu Hai người Khiêng, Quê Hương, Nhật Ký Một Bạn Tù…

Bs. Phùng Văn Hạnh từng hiện diện 2 lần tại Đại Hội YKH HN. BBT chọn đăng “Đà Nẵng Những Ngày Cuối Tháng 3 1975”, như một tưởng nhớ đến một người Thầy kính mến, một Đàn Anh tận tụy truyền dạy y khoa cho các thế hệ đàn em và một chiến sĩ chống Cộng nặng tình với quê hương. Bs. Phùng Văn Hạnh tạ thế tháng 11, năm 2021, tại Montreal.

                           ***

Đà Nẵng những ngày cuối tháng Ba 1975

 Sau khi thỏa hiệp Paris ký kết, Mỹ xuống thang chiến tranh. Dân sự bị thương cũng giảm. Các bác sĩ AMA giảm dần. Ban mê Thuột rồi Pleiku mất. Cao nguyên di tản. Quảng trị, Thừa thiên mất. Những ngày cuối tháng ba, 1975, Đà- nẵng đầy người chạy giặc. Cộng sản có biết tại sao mà lắm người sợ họ thế? Ông bác tôi đã từng nếm mùi trại giam cộng sản, đã đứng tim chết khi nghe cộng sản trở lại. Cha tôi cũng thế. Lính khắp nơi ùn về đầy đường. Tôi gặp một tiểu đội Địa phương quân. Họ vẫn còn kỷ luật lắm. Anh tiểu đội trưởng đi đầu, súng mang trên vai. Các đội viên đi hàng một, mũi súng chúc xuống đất. Chắc họ từ một đồn nhỏ ở ngoại ô vào thành phố. Mắt họ buồn và sợ sệt. Họ đi mất hút ở cuối đường. Có súng nổ lẻ tẻ. Xe tăng, súng ca-nông bỏ lại trên đường phố. Dân sự di tản từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, ngủ trên lề đường

 Một thiếu phụ gia tài chỉ là đôi thúng gánh trên vai. Trong mỗi thúng là một em bé 2 đến 4 tuổi. Rất nhiều gia đình đã đi bộ vượt đèo Hải vân 20 km đường dốc núi. Bên Sơn Chà xe nhà binh nghẹt đường. Ngoài bờ biển, bến cảng mọi người ùn ra tìm ghe để có thể ra tàu lớn đậu ngoài khơi. Gia đình tôi lên phi trường. Lúc gần đến, gặp cả đoàn xe cộ của một ông tướng sư đoàn cũng chạy giặc, phải tránh ra bên đường, nhường cho họ qua. Ngay cổng phi trường, xe dân sự sắp hàng dài hai bên đường. Chỉ đi bộ vào cổng. Một ký giả ngoại quốc chận tôi lại phỏng vấn. Tôi đã nói gì, bây giờ chẳng nhớ. Song một người bạn ở Thụy sĩ lúc đó có thấy tôi xuất hiện trên truyền hình. Máy bay hàng không dân sự đã ngừng bay. Một nhóm người thiện chí đứng ra liên lạc với Saigon. Họ tổ chức ra máy bay trong trật tự. Có hai chuyến cất cánh suông sẻ. Song Việt cộng bắt đầu pháo kích vào phi trường. Mọi người tìm chỗ núp, rồi ùn ùn rời phi trường vì Saigon cho biết là máy bay không ra nữa. 

Chúng tôi đi bộ về nhà. Nửa đường gặp xe của một nha sĩ bạn. Anh ta chở gia đình tôi về đến nhà. Súng lính vất lại, nghẹt cả đường cống sâu trước nhà. Vào nhà, vợ tôi chia cho mỗi đứa con một xách áo quần và một ít tiền. Tất cả quì xuống trước bàn thờ Chúa. Nhà tôi dặn: “đang loạn lạc như thế nầy, chúng ta có thể bị ly tán. Nếu may ra các con đi chung với nhau, nhớ đứa lớn che chở đứa bé. Anh em nhớ yêu thương nhau”. Thấy cảnh đau lòng, tôi rời nhà lên bệnh viện, định phi tang những bài viết chống cộng mà tôi bỏ lại ở văn phòng, trong ấy có một bài đả kích Hồ chí Minh. Vào hành lang, thấy người ta nằm la liệt. Kẻ thủng bụng, ruột lòng thòng. Người bể đầu, gãy tay chân, băng quấn sơ sài, đẫm máu. Một bạn giáo sư trung học, ôm chầm lấy năn nỉ:

“vợ tôi bị bắn thủng ruột đã 6 giờ rồi, chưa được ai chăm sóc”. Lúc ấy nhà thương không còn một bác sĩ nào cả. Tôi ghé văn phòng làm việc trống trơn, huỷ diệt bức thư điều trần, đưa kế sách cứu miền Nam, và những bài báo chống Cộng do tôi viết. Tôi xé nhỏ, bỏ vào nhà cầu và dội nước. Xong tôi vào khu giải phẫu. May sao nhân viên còn tại chỗ một nửa. Tôi cho mang vợ người bạn vào mổ. Sau đó các ca khác lại tuần tự mang vào. Chiều hôm đó BS Phạm văn Lương vào phòng mổ thăm tôi. Tôi hỏi sao không lo trên BV Duy Tân mà xuống đây. Ông y tá trưởng nói nhỏ vào tai tôi là BS Lương nay làm thị trưởng, đi thị sát BV toàn khoa đó. Sau nầy tôi mới biết là BS Lương được tỉnh hội Phật Giáo đưa lên làm thị trưởng Đà-Nẵng trong những ngày cuối tháng ba, 1975(đài BBC có loan tin).

Một mình mổ đến chiều hôm sau thì ông y tá trưởng gõ cửa phòng mổ và nói: “có ông sĩ quan cách mạng nói bác sĩ hãy ngừng mổ cho dân sự, và mổ cho các chiến sĩ cách mạng bị thương”. Hỡi ôi, thế là cộng sản đã vào thành phố! Tôi nói với ông y tá trưởng là cứ ca nào nặng thì đem vào trước, không phân biệt dân sự, cách mạng. Đó là va chạm đầu tiên mà sau này tôi bị kiểm điểm là có lập trường nhân đạo chung chung, không có quan điểm cách mạng. Chừng 10 ngày sau, thì các bác sĩ cách mạng ở trên núi xuống tiếp thu bệnh viện. Lúc đó các ca cấp cứu đã giải quyết xong. Cả khu giải phẩu nhận giấy khen của Ủy ban quân quản Đà-nẵng là đã có công trong sự ổn định y tế thành phố.

Các bác sĩ bị kẹt lại dần dà đến nhận việc và được gọi là lưu dung. Xưa kia đi làm hơi tùy tiện vì đôi khi phòng mạch tư nhiều khách. Nay ai đến cũng đúng giờ. Bắt đầu là giao ban, toàn thể bác sĩ họp lại với bác sĩ giám đốc để trình bày phiên trực ngày hôm trước, nghe chỉ thị mới và phê bình những thiếu sót nếu có. Cách làm việc nặng phần trình diễn, phí phạm thì giờ. Sau giao ban, đi khám bệnh phòng rồi đi mổ những ca lên chương trình từ cuối tuần trước. Có điều đặc biệt là bác sĩ cách mạng chuồn đâu mất lúc 10 giờ sáng. Tìm không ra. Sau này hỏi ra mới biết đó là thói quen đã có tự ngoài Bắc. Vì sáng không ăn, hoặc ăn ít nên 10 giờ đói, phải tìm chỗ kín nằm nghĩ. Có một bác sĩ thuốc mê đã được đào luyện ở Tiệp khắc, được nhân viên phòng mổ cho ăn xoài. Anh ta trầm trồ khen ngon hết lời vì chưa bao giờ nếm thử trái cây ngon như thế. Một anh khác kể là ngày Tết được chia bồi dưỡng một gói tiêu nhỏ. Về nhà rủi làm đổ. Phải thắp đèn lên kiếm từng hạt. Họ nói ở ngoài Bắc nghe tuyên truyền là trong Nam cực khổ lắm. Bây giờ mới tỉnh ngộ. Vào Saigon chơi về, họ khoe là như ra ngoại quốc. Nói là phồn vinh giả tạo, song toàn là đồ thiệt đẹp và tốt.

Những ngày đầu tháng tư, 1975, các bác sĩ VC trên núi về, tiếp thu TTYTDK Đà-Nẵng và Bệnh viện Đức. Họ chỉ lo về hành chánh, chứ chuyên môn thì đợi các bác sĩ Hà-Nội vào. Về giải phẫu thì họ chỉ đứng xem Vài người tỏ ra hiếu học, vào phụ mổ với các bác sĩ lưu dung. Tôi nhớ có Bác sĩ cấp bực Đại úy, vào phụ tôi để tái tạo một ống chân vỡ nát vì mìn. (Hắn ta là bác sĩ riêng cho thầy cũ Tám Trinh, nay đổi tên Nguyễn xuân Hữu, Phó bí thư đảng bộ Liên khu V. Phải mất ba giờ và nhiều cố gắng mới giữ được cái chân. Cuối ca mổ, đáng lý nói: ca này khó ác liệt, tôi tự nhiên buông câu nói theo thói quen: ca này khó ác ôn côn đồ Việt Cộng. Anh ta nhìn tôi không nói gì. Các y tá quanh tôi đều sửng sốt. Không biết anh ta có báo cáo gì không. Song sau này không thấy ai nhắc đến chuyện đó.

Trong suốt hơn một năm làm việc với CS, tháng ngày cũng qua nhanh, vì rất bận rộn. Những ngày đầu, mổ liên miên để giải quyết xong nhiều ca cấp cứu, Những tháng kế tiếp là mổ cho dân quê trở về làng khai khẩn nhưng đồng ruộng bỏ hoang trong chiến tranh, vướng phải mìn hay đạn ca- nông chôn dưới đất. Giải phẫu tái tạo tiếp theo cho những tật nguyền do vết thương chiến tranh gây ra. Ngoài ra nào giao ban, nào học chính trị mỗ tuần vài lần. Làm việc trong không khí u uất, vì nghe lắm lời phi lý, ngu xuẩn của bọn cán bộ, lắm chế độ hà khắc, kiểm soát tư tưởng, việc làm, những tranh cải lý thuyết v.v..

Bất hạnh thường không đến một mình. Đã buồn bực vì phải kẹt ở lại với CS, lại càng buồn thêm vì sự ra đi của người cha thân yêu. Ngày tôi chở vợ con lên phi trường để di tản, tôi đã năn nỉ cha mẹ tôi cùng đi, nhưng cha tôi một mực từ chối vì ông đã bị bại hai chân từ ba năm nay, hậu chứng xuất huyết não, và phải di chuyển trên xe lăn. Ông không muốn là gánh nặng cho tôi. Mẹ tôi thì chỉ chịu đi khi cha tôi cùng đi, vì bà phải săn sóc cha tôi tật nguyền. Khi chúng tôi không di tản được, từ phi trường trở về, hai ông bà đã khóc sướt, và lo cho tương lai chúng tôi. Hai ngày sau cha tôi chết êm thắm. Ông đã bị đứng tim trong giấc ngủ. Buổi sáng mẹ tôi mang sửa lại cho ông uống, thì thấy ông nằm bất động, tay chân lạnh ngắt. Cũng như bác tôi, cha tôi vì sợ quá, tim già đã ngưng đập khi nghĩ đến những hình phạt khủng khiếp trong tù CS. Mặc dù mới trải qua một cuộc đổi đời chưa hết bàng hoàng, tôi vẫn tổ chức ma tang thật chu đáo, với rất nhiều bà con thân thuộc theo linh cữu ra nghĩa địa. Tôi phải mướn nhiều xe ca, trong khó khăn hiện tại. Cha ơi, xin yên nghỉ bằng an trong nước Chúa.

Lúc say sưa làm việc những năm chiến tranh, theo lời khuyên của một bác sĩ Mỹ, tôi gom góp hồ sơ các ca chữa thương với đầy đủ phim, ảnh, ghi chú theo dõi. Ông cho tôi một máy ảnh, và tôi thuê một thợ chụp ảnh phụ tá cho tôi chụp hình bệnh nhân trước và sau khi mổ, diễn tiến bệnh khi nằm tại nhà thương và tái khám. Hồ sơ được lưu trữ trong một căn phòng lớn của bệnh viện. Tôi định khi nào rảnh rổi sẽ viết bài, dựa trên nhận xét lâm sàng để rút ra những kết luận hữu ích. Hai tháng sau khi cộng sản vào, thấy rảnh, tôi xuống phòng lưu trữ hồ sơ thì thấy các hộc trống trơn. Hỏi ra mới biết là tổ nhà bếp trên núi xuống nấu cơm cho bệnh nhân, vì thiếu củi đun, nên lấy hồ sơ nhóm lửa. Bao nhiêu tâm huyết đổ sông. Xưa kia nhà thầu cung cấp cơm nước cho bệnh nhân. Họ đâu có nấu nướng trong bệnh viện.

Tôi có nhiều giấc mơ đơn giản. Song đều thất bại. Lúc còn hoạt động trong đoàn Sinh viên công giáo, có đọc thuyết “Kinh tế và nhân bản” ( economie et humanisme) của cha Lebret, có dự định cùng các bạn đồng chí hướng lập những đoàn thiện chí gồm nhiều chuyên viên về thôn quê chia sẻ đời sống của nông dân. Bác sĩ lo chữa bệnh, truyền bá vệ sinh. Kỹ sư nông nghiệp, cơ khí, chăn nuôi, tìm cách nâng cao sản xuất. Tổ chức hợp tác xã, tiếp xúc với công ty ngoại quốc, tìm thị trường, vốn đầu tư..mong cho dân giàu, nước mạnh. Song khi ra trường, thì chiến tranh tràn lan, thôn quê không còn an ninh. 

Cuối năm 1974, thấy tình hình miền Nam sắp có nguy cơ rơi vào tay Việt cộng, mà trí thức thì chơi mạt chược và trùm chăn quá nhiều, định đi khắp các tỉnh, diễn thuyết, kết hợp những người thiện chí, cố nổ lực tối đa để trong sạch hoá bộ máy chính quyền, tất cả mọi người có thể cầm súng được phải chia phiên nhau ra trận. Không có nạn con ông cháu cha. Trí thức phải xuống xã ấp, phá vòng vây nông thôn bao vây thành thị. Chính phủ tuyên bố tình trạng quốc gia lâm nguy, đóng cửa Trung học và Đại học. Đưa người qua Mỹ diễn thuyết hầu giành hậu thuẫn dân Mỹ. Nếu cần cầu viện Tây âu. Sắp xếp các ý tưởng, trình bày trong một bức thư điều trần gửi quốc hội và tổng thống với đề tài “Tổ Quốc lâm nguy, đề nghị biện pháp giải cứu”. Giáng sinh 1974, tôi vào Sài-gòn, đưa thư điều trần cho bạn bè xem, song không ai hưởng ứng, vì họ đoan chắc với tôi là Mỹ sẽ không bỏ miền Nam. Sau đó tình hình Miền Nam suy sụp quá nhanh. Tuy thế lúc Việt cộng vào, đã có người muốn lập công, đưa cho chúng tài liệu, nên bị hạch hỏi. Phải làm kiểm điểm vài lần, nhận có nêu lên vấn đề, song chưa phổ biến sâu rộng. Cuối cùng muốn viết vài bài về chuyên môn mình cũng không được, vì tài liệu đã bị đốt cháy ra tro.

Khi sang Canada, đi Mỹ chơi gặp một đồng nghiệp cũ ở Bệnh viện Đà-nẵng, nay hành nghề ở Westminster, Cali. Anh ta nói với tôi: “người chống cộng có hệ thống như anh, thì lại kẹt ở lại. Còn lè phè như chúng tôi, thì lại thoát. Oái ăm thiệt!”

Kể ra cũng tại số mình long đong, chạy trời không khỏi nắng. Tôi đã bỏ lỡ nhiều dịp may: năm 1973, cộng đồng người Hoa ở Đà-Nẵng muốn có một nhà thương riêng cho họ, nên dạm hỏi tôi có muốn bán dưỡng đường của tôi với giá 20 triệu. Vì đang làm ăn phát đạt tôi từ chối. Nếu tôi chịu bán, tôi sẽ trích ra độ một triệu, mua thông hành cho cả gia đình, lấy cớ đi Mỹ học rồi ở lại luôn. Một bác sĩ bạn tôi đã ra đi như thế.

Cuối 1974, nhân có người cháu, Đại uý lái phi cơ trực thăng, đóng ở Cần thơ, chuyển về không đoàn I. Anh ta nhờ tôi xin về xưởng sửa chữa trực thăng, vì thấy đi bay, có nhiều hiểm nguy. Nhờ quen biết tôi đã thoả mãn cho anh ta. Nhận thấy miền Nam sắp mất, tôi bảo anh ta sửa chữa thật tốt một trực thăng, đổ đầy nhiên liệu, sẵn sàng chở gia đình anh ta với gia đình tôi đi Sài gòn hoặc Thái Lan, khi Đà- Nẵng có nguy cơ mất. Hôm 27-03-75, vì quen biết với gia đình Giám đốc Hàng không Việt Nam Đà-Nẵng, chúng tôi được họ mời chia xẻ một chuyến bay chót đặc biệt dành riêng cho gia đình họ. Trong khi chờ đợi máy bay từ Sài-gòn ra, tôi đến thăm người cháu gần đó, để xin ít nước uống cho các con tôi, vì đêm qua ra đi vội vã quên mang nước theo. Vào nhà tôi thấy gia đình nó chuẩn bị lên trực thăng mà tôi đã dặn để dành cho việc tẩu thoát, nếu Đà-Nẵng mất. Nó nói: “con có điện thoại lại nhà dượng, kêu dượng lên đi, nhưng không ai trả lời. Thế bây giờ dượng đi với chúng con?”. Tôi từ chối vì cho rằng đi máy bay tiện lợi hơn là trực thăng. Tôi trở lại với gia đình và ra sân bay, vì máy bay đã đáp xuống ở một chỗ hẹn trước. Nhưng chuyến bay ấy bị quân nhân phi trường tước đoạt. Cảnh súng bắn đì đoàng, người đạp lên người, chen lấn lên máy bay, làm cả hai gia đình chúng tôi đứng xa mà ngó. Cuối cùng máy bay cất cánh có cả người đeo tòn teng vào bánh xe, rụng rơi dần. Cùng lúc ấy, đạn pháo Việt cộng nổ gần phi đạo chúng tôi hoảng hốt dắt díu nhau chạy. Sau này gặp lại ở Mỹ, nó tiếc hùi hụi là hôm đó trực thăng nó trực chỉ Sài-gòn mà không có gia đình ông dượng ân nhân, có sáng kiến hay.

Cơ hội chót là ngày 29-03-75 vẫn còn một bác sĩ Mỹ, môn đồ Quaker, sang Đà-Nẵng làm từ lâu, với tư cách cá nhân, và anh ta không chịu di tản, chỉ ưng ở lại làm việc truyền đạo, chia ngọt bùi với bệnh nhân khu bài lao. Máy bay từ hạm đội Mỹ không ngại hiểm nguy đáp xuống trên nóc bệnh viện Việt Đức. Hai lính Mỹ vào mời bác sĩ ấy ra đi, nhưng anh ta một mực từ chối. Khi thấy tôi đi ngang qua, anh ta kéo tôi vào và năn nỉ tôi đi theo trực thăng ra tàu hạm đội Mỹ. Nhưng lúc ấy gia đình tôi không có mặt ở đó và tôi không muốn ra đi một mình, nên cũng từ chối. Nếu ngày ấy tôi ra đi. Sang Mỹ trở lại nghề và phát đạt, sẽ có phương tiện bảo lãnh cho gia đình qua sau, chậm lắm là vài năm sau và thoát đi tù cải tạo 12 năm. Nhưng đó chỉ là nếu, thực tế thì bi thảm vô kể.

 Bác sĩ Phùng Văn Hạnh


 

Chính quyền Trump cắt $2 tỷ tài trợ đại học Harvard vì bất tuân các yêu cầu

Ba’o Nguoi-Viet

April 15, 2025

CAMBRIDGE, Massachusetts (NV) – Tối Thứ Hai, 14 Tháng Tư, chính quyền liên bang loan báo quyết định đóng băng hơn $2 tỷ ngân sách tài trợ cho đại học Harvard University sau khi nhà trường tuyên bố không chấp nhận các yêu cầu do chính quyền Tổng Thống Donald Trump đưa ra, kể cả việc kiểm tra quan điểm của sinh viên, NBC đưa tin.

Lực Lượng Đặc Nhiệm Hỗn Hợp Chống Chủ Nghĩa Bài Do Thái thuộc chính quyền Trump công bố các quyết định cắt ngân sách trong một tuyên bố nêu rõ “các trường đại học danh giá nhất Hoa Kỳ đang có những suy nghĩ quyền hành độc lập đáng lo ngại.”

Trường đại học thuộc khối Ivy League sẽ bị chính quyền Trump cắt nguồn tài trợ $2.2 tỷ cũng như “hợp đồng trị giá $60 triệu kéo dài nhiều năm.”

Bức tượng John Harvard trong sân trường đại học Harvard University ngày 17 Tháng Ba, 2025 ở Cambridge, Massachusetts. (Hình: Scott Eisen/Getty Images)

Cũng trong Thứ Hai, Harvard University bác bỏ các yêu cầu do chính quyền Trump đưa ra.

“Harvard University sẽ không từ bỏ quyền độc lập hoặc các quyền hiến định,” nhà trường cho biết trong một tuyên bố trên X hôm Thứ Hai. “Harvard, cũng như các trường đại học tư thục, sẽ không để chính quyền liên bang thao túng.”

Tòa Bạch Ốc gửi cho các viên chức nhà trường một “danh sách gồm có các yêu cầu đã cập nhật và mở rộng,” cảnh cáo nhà trường phải tuân thủ nếu muốn “chính quyền liên bang tiếp tục tài trợ,” Viện Trưởng Alan M. Garber cho biết trong một bức điện thư gửi cho cộng đồng Harvard.

Chính quyền Trump đề ra 10 yêu cầu nhằm giải quyết tình trạng bài Do Thái trong nhà trường, trong đó không cho sinh viên quốc tế nhập học nếu có tư tưởng “thù địch với các giá trị và thể chế tại Hoa Kỳ.” Chính quyền cũng muốn một đơn vị thứ ba thanh tra các chương trình liên quan tới “vấn nạn bài Do Thái hoặc thể hiện hành động thao túng ý thức hệ.”

Chính quyền cũng yêu cầu lập tức dẹp bỏ tất cả các chương trình và sáng kiến dính dáng tới đa dạng, công bằng và hòa nhập DEI, kể cả trong chính sách tuyển mộ và chiêu sinh. Chính quyền còn yêu cầu Harvard thực hiện các chính sách “dựa trên năng lực” nhằm thế chỗ DEI.

Garber cho biết đây là các yêu cầu “chưa từng xảy ra,” đồng thời lên án dã tâm “kiểm soát cộng đồng Harvard” bằng cách dò xét quan điểm của sinh viên, giáo sư và viên chức.

Trong một bức thư gửi cho chính quyền Trump, các luật sư cho biết Harvard University “cam kết chống lại chủ nghĩa bài Do Thái và các hành động cố chấp trong cộng đồng nhà trường” nhưng cũng nói rằng các yêu cầu do chính quyền đưa ra “là hành vi xâm phạm quyền tự do của trường đại học vốn được Tối Cao Pháp Viện công nhận từ lâu.”

Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Harrison Fields công kích Harvard trong một tuyên bố và không có dấu hiệu cho thấy chính quyền sẽ nhân nhượng.

“Tổng Thống Trump đang nỗ lực Gầy Dựng Giáo Dục Đại Học Vĩ Đại Trở Lại bằng cách chấm dứt tình trạng bài Do Thái tràn lan và bảo đảm tiền thuế của người đóng thuế liên bang không góp phần tiếp tay cho nạn kỳ thị chủng tộc nguy hiểm hoặc bạo lực dính dáng tới kỳ thị chủng tộc tại Harvard,” Fields cho biết.

Chính quyền Trump cũng đưa ra những yêu cầu tương tự dành cho các trường đại học khác theo kế hoạch chống vấn nạn bài Do Thái cũng như các lối suy nghĩ mà chính quyền không đồng tình.

Tháng Ba vừa qua, đại học Columbia University đồng thuận với một danh sách có chín yêu cầu từ chính quyền Trump, gồm có lệnh cấm sinh viên đeo khẩu trang tại các cuộc biểu tình, tuyển mộ 36 viên chức an ninh mới cho nhà trường có năng lực bắt giữ sinh viên và bổ nhiệm một viên chức cao cấp đứng đầu lãnh vực học thuật (provost) mới nhằm giám sát khoa Nghiên Cứu Trung Đông, Nam Á và Phi Châu.

Chính quyền Trump còn cắt $400 triệu nguồn tài trợ liên bang dành cho nhà trường, cáo buộc Columbia University “dửng dưng trước tình trạng quấy rối dai dẳng nhắm vào sinh viên Do Thái.” (TTHN)