Người tù thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu

Phạm Thanh Nghiên

 Hôm nay 19/12/2025, tròn 3 năm “người tù thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu về với Chúa.

Trong 75 năm hành trình dương thế, ông đã trải qua 37 năm bị đoạ đày sau song sắt, trở thành người bị cầm tù lâu nhất tại Việt Nam. Với kỷ lục bất đắc dĩ này, ông đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, như một bằng chứng không thể chối cãi về tội ác của ch.ế đ.ộ c.ộ.n.g sả.n đối với đồng bào mình.

Xin cầu cho linh hồn ông Gio-an Bao-ti-xi-ta được hưởng nước Thiên đàng.


 

XỨ THIÊN ĐƯỜNG

Lê Ngọc Công

XỨ THIÊN ĐƯỜNG .

Cụ Bà đi nhặt ve chai mất bên vệ đường.

Một cái chết lặng lẽ và khoảng trống mang tên an sinh xã hội

Một cụ bà gục xuống bên vệ đường, bên cạnh là chiếc bao ve chai cũ kỹ.

Không còi hú, không bệnh viện kịp thời, không người thân bên cạnh.

Chỉ có một cuộc đời khép lại trong im lặng.

Cái chết ấy không phải là tai nạn hiếm hoi. Nó là hệ quả của một hệ thống an sinh xã hội thiếu vắng, nơi người già không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục lao động cho đến khi kiệt sức.

Ở những quốc gia phát triển, tuổi già là giai đoạn được chăm sóc. Người cao tuổi có lương hưu tối thiểu, có bảo hiểm y tế, có dịch vụ chăm sóc tại nhà, có nhà dưỡng lão, có những cơ chế bảo vệ để không ai phải chết trên vỉa hè vì mưu sinh. Xã hội coi việc bảo đảm phẩm giá cho người già là một nghĩa vụ căn bản.

Còn ở Việt Nam, quá nhiều người già không có lương hưu. Họ từng lao động cả đời trong khu vực phi chính thức: bán hàng rong, làm thuê, làm ruộng nhỏ lẻ. Khi sức khỏe cạn dần, họ không có điểm tựa. Không lương hưu. Không trợ cấp đủ sống. Không hệ thống chăm sóc dài hạn. Cuối cùng, họ ra đường—nhặt ve chai, bán vé số, bốc vác—đổi từng đồng lẻ lấy một bữa ăn.

Một xã hội được đo bằng cách nó đối xử với những người yếu thế nhất.

Và người già là thước đo không thể chối cãi.

Khi một cụ bà phải kéo lê tấm lưng còng trên đường phố để nhặt từng chai nhựa, đó không phải là “ý chí vượt khó”. Đó là sự thất bại của chính sách. Khi cụ chết bên vệ đường, đó không phải là “số phận”. Đó là khoảng trống của an sinh xã hội.

Người ta thường nói về tăng trưởng, về chỉ số, về thành tích. Nhưng tăng trưởng nào có ý nghĩa nếu nó không đủ để bảo vệ những người đã cống hiến cả đời? Thành tích nào có giá trị nếu cái kết của tuổi già là một cái chết lặng lẽ giữa phố?

Một bà cụ lớn tuổi đáng lẽ phải được chăm lo—được nghỉ ngơi, được chữa bệnh, được sống những năm cuối đời trong an toàn và tôn trọng. Thay vào đó, bà phải mưu sinh đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là lựa chọn của bà. Đó là lựa chọn mà xã hội đã không làm.

Cụ bà đã ra đi. Nhưng câu hỏi còn ở lại:

Bao nhiêu người già nữa sẽ phải đi nhặt ve chai cho đến khi không còn đứng dậy được?

Và bao lâu nữa, an sinh xã hội mới thôi là khẩu hiệu để trở thành điểm tựa thực sự cho những phận người yếu thế?

Im lặng trước những cái chết như vậy cũng là một hình thức chấp nhận.

Còn lên tiếng, ít nhất, là cách để nhắc nhau rằng: tuổi già không nên là một cuộc mưu sinh đến chết.

Nhật Ký Yêu Nước.

Từ Fb Van Nguyen


 

NHỮNG NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN SAU 1975…- Nguyễn Văn Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Nguyễn Văn Tuấn

Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là “Thời Bao Cấp”. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v…

Tem phiếu:

Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là “chế độ tem phiếu”. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.

Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành). Nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tùy theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.

Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dân bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.

Danh từ “ăn độn” có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70 % để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quý hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quý, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.

Đổi tiền:

Screenshot

Ngày 22 Tháng Chín 1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.

Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”

Đốt sách:

Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu hủy. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.

Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh “lạc hậu” về “tình yêu ủy mị” và “tìm kiếm niềm vui thể xác” đã bị đốt bỏ.

Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80.000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt “văn hóa tư sản”.

Đánh tư sản:

Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.

Đợt X1 khởi động sáng 09 Tháng Chín 1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.

Đợt X2 bắt đầu từ Tháng Ba 1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hỗ trợ.

Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TPHCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.

Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.

Nhà báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10 Tháng Tư 1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.”

“Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. ”

Kinh tế mới:

Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ “Kinh tế mới”, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19 Tháng Năm 1976):

  • Người thất nghiệp
  • Người cư ngụ bất hợp pháp
  • Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa
  • Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
  • Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.

Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc Việt Nam Cộng Hòa tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.

Tù cải tạo:

Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.

Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ tù khoảng hơn 1.000.000 người trên tổng dân số Nam Việt Nam lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500.000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200.000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250.000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60.000 người bị giữ lại.

Theo một bài báo: “Trong số trên 1.000.000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165.000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.

“Thuyền nhân”:

Screenshot

Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.

Chế độ mới áp dụng “chủ nghĩa lý lịch”, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong quy chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lý lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của “gia đình cách mạng” và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của “những sĩ quan cao cấp, hay là người công giáo”.

Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: Vượt biển.

Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưng theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800.000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100.000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là “cao trào” của làn sóng vượt biển.

Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50 %) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10 % người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, “vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa”. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100.000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.

Nguyễn Văn Tuấn


 

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN

Dành cho Bò Đỏ và DLV

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN — GIỜ TÔI ĐÃ GIÀ, ĐÊM NÀO CŨNG SỐNG TRONG ÁC MỘNG†

Năm 1970, giữa cao trào Cách mạng Văn hóa, Trương Hồng Binh mới 16 tuổi nhưng đã là một hồng vệ binh cuồng tín. Với cậu, Mao Trạch Đông là chân lý tuyệt đối, còn mọi nghi ngờ đều là tội ác. Một buổi tối trong gia đình ở An Huy, khi tranh luận về sách vở, mẹ cậu – bà Phương Trung Mưu – buột miệng nói rằng có những câu người ta gán cho Mao thực ra không phải do Mao viết, và việc thần thánh hóa lãnh tụ là không bình thường. Chỉ vài câu nói ấy thôi cũng đủ làm không khí trong nhà nổ tung. Đối với người mẹ, đó có thể chỉ là lời than mệt mỏi; nhưng với cậu con trai đã được giáo dục bằng đấu tranh giai cấp, đó là lời “phản cách mạng” không thể tha thứ.

Cơn phẫn nộ nhanh chóng biến thành hành động. Trương Hồng Binh cùng cha mình viết đơn tố cáo chính người mẹ, người vợ trong gia đình, lên chính quyền địa phương. Không yên tâm, cậu còn tự tay viết thêm một bản tố cáo khác, đeo huy hiệu hồng vệ binh, lén gửi để chắc chắn vụ việc không bị bỏ qua. Chỉ trong một đêm, ranh giới giữa mẹ và “kẻ thù giai cấp” bị xóa sạch. Ngày hôm sau, bà Phương Trung Mưu bị bắt.

Vài tuần sau, tại một buổi “đấu tố” công khai với hàng nghìn người, bà bị trói, treo bảng “phản cách mạng” trước ngực, ép quỳ giữa quảng trường. Bản án được tuyên rất nhanh: tử hình, thi hành ngay. Khi đoàn xe chở bà ra pháp trường, Trương Hồng Binh đứng trong đám đông nhưng không dám tiến lên. Người mẹ bị bắn chết, còn cậu con trai – người đã góp phần đẩy bà đến cái chết – chỉ biết đứng chết lặng, vừa sợ hãi vừa trống rỗng.

Bi kịch không kết thúc ở đó. Gia đình tan nát, cha mẹ ly hôn trên giấy tờ để “cắt đứt quan hệ với kẻ phản cách mạng”, bản thân Trương Hồng Binh và cha cũng bị xã hội xa lánh. Nhiều năm trôi qua, khi Cách mạng Văn hóa kết thúc và sự cuồng tín dần lắng xuống, ông mới bắt đầu hiểu điều mình đã làm. Ông viết đơn, viết hồi ký, cố xin phục hồi danh dự cho mẹ, thú nhận rằng ngày ấy ông đã đặt khẩu hiệu lên trên tình mẫu tử.

Giờ đây, khi đã già, Trương Hồng Binh nói rằng mỗi đêm ông vẫn mơ thấy mẹ. Trong những cơn ác mộng ấy, không có khẩu hiệu, không có quảng trường, chỉ có ánh mắt của người phụ nữ đã sinh ra ông – ánh mắt của một người mẹ trước khi bị chính con mình đẩy ra trước họng súng. Đó là bản án không tòa án nào tuyên, nhưng kéo dài suốt phần đời còn lại.

https://hk.aboluowang.com/2021/0308/1565844.html

BỆNH KHOE CỦA NGƯỜI VIỆT…

Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.

Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.

Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.

Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.

Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”! 

Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…

Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.

Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!

From: Tu-Phung


 

‘Tiền trong dân còn rất nhiều’ và niềm tin trong dân đã cạn-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 13, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Trong nhiều năm qua, các nhà lãnh đạo cao cấp CSVN liên tục nhắc đi nhắc lại một cụm từ, mà thoạt nghe, tưởng như rất “kinh tế học” nhưng thực chất lại rất “chính trị học”: “Tiền trong dân còn rất nhiều”.

Khi còn sinh tiền, Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng CSVN nói “Các đồng chí nói “Tiền trong dân còn nhiều” như thế là không đúng, thậm chí, rất lệch lạc. Dân không mang tiền ra làm ăn là vì họ không yên tâm, không có môi trường thuận lợi chứ đâu phải vì họ không muốn phát triển? Chính cán bộ yếu kém, quản lý chồng chéo, thủ tục nhiêu khê, hết kiểm tra lại thanh tra… mới làm dân sợ rủi ro, đành để tiền nằm một chỗ…”.

Các nhân viên (bên trái) một ngân hàng thương mại tại Hà Nội tiếp khách hàng trong dịch vụ thường lệ từ ký thác, chuyển khoản, đến tín dụng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Sau khi kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư, Tô Lâm cũng đã lập lại câu nói này với lời chê trách nhân dân “…vì nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất, không mở được doanh nghiệp, thì tỉnh làm sao có thuế được, thu được thuế ở đâu được”.

Cho thấy, tuy cùng một câu nói “Tiền trong dân còn rất nhiều”, nhưng ít ra, Nguyễn Phú Trọng còn nói được về nguyên nhân “dân sợ rủi ro”, nên chưa huy động được nguồn tiền trong dân, khác với Tô Lâm chỉ nói về lợi ích của tiền sinh ra tiền một cách đầy thực dụng.

Nhưng nói cách nào đi nữa, hàm ý phía sau câu nói ấy không phải để suy tư về niềm tin xã hội, mà là để ám chỉ một điều khác, rằng dòng tiền đang nằm im trong túi dân, chúng chưa được huy động cho mục tiêu phát triển, và vì thế, chế độ muốn “khai thông”.

Nhưng vấn đề của người dân lại không nằm ở đồng tiền, lại càng không phải ở chỗ khơi thông, mà nằm ở niềm tin. Điều mà chế độ đã sớm “phung phí” đến cạn kiệt từ lâu! Thú vị là chính Nguyễn Phú Trọng, người cứ hay bị công chúng đùa với hỗn danh “Trọng lú” lại công khai thừa nhận nguyên nhân cốt lõi của tình trạng này. Dĩ nhiên, với ông Trọng, đây không phải lời “tự diễn biến”, chúng là lời tự thú chính trị.

Nó cho thấy ông ấy hiểu khá rõ bản chất vấn đề, rằng dân không thiếu tiền, mà là dân sợ hãi, dân thiếu niềm tin. Khiến cho nguồn lực tài chính khổng lồ trong dân phải ngủ yên, chúng chưa được khai thác hiệu quả. Đó là sự lãng phí nguồn lực khi không tạo ra được giá trị gia tăng trong bối cảnh thiếu vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, y tế, giáo dục… làm chậm sự phát triển chung.

Thế nhưng, thay vì chữa bệnh từ gốc, người kế nhiệm Tổng Bí thư, Tô Lâm, lại nhìn vấn đề theo hướng ngược lại, rằng “Tiền trong dân rất nhiều… nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất…”. Cách tư duy này đánh dấu một sự trượt dài nhận thức, thay vì tự kiểm điểm cấu trúc quyền lực lại quay sang đổ lỗi cho người dân! Đó là vấn đề của chế độ CSVN lúc này.

Nước Anh thế kỷ XVII và giải pháp dân chủ hóa tài chính

Lịch sử thế giới cũng từng có dịp ghi nhận về giải pháp huy động nguồn lực tài chính trong dân rất hiệu quả, đó là Anh quốc vào thế kỷ thứ XVII.

Năm 1689, ngay trong cuộc Chiến tranh Chín Năm (Nine Years’ War) nổ ra giữa Anh và Pháp. Tình thế tài chính của Anh lúc đó vô cùng kiệt quệ, nhà vua không có uy tín để đi vay tiền, ngân khố trơ khốc. Chiến tranh đã gây tiêu hao các nguồn lực của nước Anh một cách khủng khiếp.

Giải pháp mà họ chọn không phải là tịch thu tài sản nhân dân bằng các chiến dịch “Đánh tư sản mại bản”, “Tư sản công thương nghiệp”, quốc hữu hóa, cũng không phải vận động nhân dân đóng góp, mà là một bước đột phá bằng tạo dựng lòng tin thể chế.

Đó là việc thành lập Ngân hàng Anh (Bank of England) vào năm 1694. Đây là ý tưởng của một nhà quý tộc Scotland, ông tên William Paterson, được giao thành lập ngân hàng tư nhân Anh quốc. Theo đó, ông có quyền thành lập Ngân hàng Anh với những đặc quyền ngân hàng của chính phủ bao gồm phát hành giấy bạc.

Sắc lệnh hoàng gia hợp thức các quyền này ngày 27 Tháng Bảy 1694. Thị trường tài chính lúc đó rất nghèo nàn nên khoản vay bị tính lãi suất tới 8% một năm cộng thêm phí quản lý của khoản vay là £4.000 mỗi năm.

Bản chất của ngân hàng này là một công trình của niềm tin. Khi ấy, người dân góp vốn, nhưng đổi lại họ có: Quyền sở hữu rõ ràng, được bảo đảm pháp lý và một thể chế buộc phải tôn trọng cam kết của mình. Kết quả hết sức ngoạn mục, chỉ trong chưa đầy hai tuần, nước Anh huy động được 1,2 triệu bảng Anh, một số tiền khổng lồ ở thế kỷ XVII.

Câu chuyện không nằm ở chỗ người Anh ít hay nhiều tiền hơn người Việt hôm nay, mà điều quan trọng nhất là họ đã đồng ý góp rất nhiều tiền vào ngân hàng khi có lòng tin rằng tài sản của họ được bảo vệ bởi luật pháp.

Bài học từ Anh quốc và sự bất khả thi trong thể chế độc đảng Việt Nam

Chúng ta sẽ tự hỏi, liệu chăng mô hình huy động tài chính thành công tại Anh quốc có thể áp dụng tại Việt Nam hay không? Câu chuyện của Anh quốc là một lý thuyết rất đẹp. Nhưng hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam hiện nay lại đối lập hoàn toàn với những tiền đề căn bản của mô hình này.

Để huy động được tiền trong dân theo cách văn minh như Anh, cần tối thiểu 5 điều kiện nền tảng: Chính quyền có tính chính danh, nếu ở Anh Quốc là sự truyền ngôi chính đáng thì ở Việt Nam cần thông qua bầu cử tự do; Một nền tư pháp độc lập tuyệt đối để có thể ban phát công bằng, công lý mà không bị tác động bởi chính trị, đảng phái; Quyền tài sản được Hiến pháp bảo đảm thực chất; Minh bạch hóa ngân khố và chi tiêu công; Không có nỗi sợ bị tước đoạt tài sản tùy tiện.

Nhưng Việt Nam hiện nay có gì?

Chính quyền không chính danh, do độc tài đảng trị; Tư pháp bị đặt dưới sự “lãnh đạo toàn diện của đảng Cộng Sản”, tác động bởi những cơ chế như Ban An ninh Nội chính và tình trạng hối lộ, tham nhũng; Quyền tài sản không được bảo đảm, như nhà đất bị giải tỏa bất công mà không được bồi thường đầy đủ; Tình trạng công an trị và tham nhũng có hệ thống; Doanh nhân vi phạm pháp luật để có thể tồn tại và trở thành con tin của công an.

Trong môi trường ấy, khuyên người dân mang tiền ra kinh doanh, sản xuất, làm dịch vụ chẳng khác nào bảo người ta bước ra khỏi nhà mà không khóa cửa, không có công an bảo vệ, không có tòa án độc lập, rồi trách họ sao “không dám ra đường!?

Tiền nằm trong dân là phản ứng phòng vệ

Một thực tế cần được thẳng thắn, rằng người dân Việt Nam gửi tiền tiết kiệm vì không phải không biết làm ăn, mà họ gửi tiền tiếp kiệm vì đó là phương thức phòng vệ cuối cùng trước một hệ thống bất định, bất lương và đầy rủi ro.

Họ hiểu rất rõ xã hội, nơi chế độ CSVN tạo ra môi trường, mà: Làm ăn lớn ⇒ dễ bị thanh tra. Mở rộng doanh nghiệp ⇒ dễ “va chạm” lợi ích. Thành công quá ⇒ có thể trở thành mục tiêu chính trị. Trong xã hội như vậy, lựa chọn an toàn nhất không phải là “khởi nghiệp”, mà là trú ẩn tài sản. Đó không phải tâm lý tự ti, đó là phản ứng sinh tồn.

Bài học cốt lõi từ Anh quốc — Niềm tin

Nhiều người nhầm tưởng rằng bài học huy động tài chính trong dân từ giải pháp của nước Anh là “hãy tạo lập một ngân hàng mới”. Điều này sai một cách cơ bản. Vì lẽ, bài học thật sự là: Hãy lập một thể chế mang lại cho dân niềm tin mới.

Người dân tại Việt Nam tới nay vẫn quen dùng tiền mặt trong mọi giao dịch trong khi trị giá đồng bạc CSVN thì rất thấp nên số tiền bỏ vào hay rút ra đều chồng đống như những cục gạch. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Thể chế đó chỉ có thể là: Một chính quyền dân chủ được hình thành từ bầu cử tự do. Một nền tư pháp hoàn toàn độc lập . Một hệ thống quyền lực chính trị có thể kiềm chế, giám sát được. Quyền tài sản, quyền tự do được bảo đảm bởi luật pháp … thì “Tiền trong dân còn nhiều” sẽ được huy động vào nền kinh tế một cách tự nhiên mà không cần đến lời kêu gọi.

Nhưng trong một thể chế độc tài, đảng trị, nơi công an mạnh hơn tòa án, nơi hiến pháp có hiệu lực thấp hơn nghị quyết, nơi luật pháp yếu hơn chỉ thị, nơi tài sản có thể bị “thu hồi” chỉ bằng một quyết định hành chính bất kỳ, nơi tham nhũng tràn lan, thì vĩnh viễn, “Tiền trong dân còn nhiều” đến mức nào đi nữa, sẽ vẫn mãi mãi nằm trong hầu bao của họ.

Nước Anh đã trở thành đế quốc, nơi được xưng danh “Mặt trời không bao giờ lặn”, không phải vì họ giàu hơn dân tộc khác, mà vì họ tạo được một thể chế để dân dám tin.

Còn Việt Nam hôm nay, nơi được hứa hẹn “Kỷ nguyên vươn mình”, không phải vì giàu, vì mạnh, mà vì chế độ nơi ấy rất hào phóng hứa hẹn điều mà họ và dân của họ đều quá hiểu nhau, rằng chẳng có cơ sở gì để kỷ nguyên hão huyền ấy trở thành sự thật.

Vì lẽ, “Tiền trong dân còn rất nhiều” nhưng niềm tin trong dân đã cạn.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 9 Tháng Mười Hai 2025

Đặng Đình Mạnh.


 

Thân bất lao tù , chí bất cao

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Cùng cầu bình an cho các TNLT/VN đang bị đày đọa trong chốn lao tù CS, trong đó có  TNLT cô Phạm Đoan Trang, được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới RSF kêu gọi trả tự do trong chiến dịch ưu tiên năm 2025.

***

“ Đời không cát bụi , đời không sạch

Thân bất lao tù , chí bất cao “ .

Tù không có gì phải sợ , chỉ sợ trong cuộc dạo chơi cõi nhân gian này không làm được gì cống hiến cho nhân thế.

Không ai muốn sống trong tù ( dù chỉ một ngày ) nhưng nếu cần cho một đất nước hồi sinh và thịnh vượng thì tù cả đời cũng không đáng sợ.

(PVT)

Bắt giữ 4 người âm mưu đánh bom khắp Nam California đêm Giao Thừa

Ba’o Nguoi-Viet

December 15, 2025

LOS ANGELES, California (NV) – Bốn người, bị nghi là thành viên nhóm cực đoan, bị bắt với cáo buộc âm mưu đánh bom khắp Nam California đêm Giao Thừa sắp tới, giới chức liên bang loan báo hôm Thứ Hai, 15 Tháng Mười Hai, theo đài ABC7.

Bà Audrey Carroll, ông Zachary Page, ông Dante Gaffield và bà Tina Chen Ting, bị truy tố tội đồng lõa và tàng trữ thiết bị phá hoại. Cả bốn bị nghi là thành viên nhóm chống chính phủ và chống tư bản có tên “Mặt Trận Giải Phóng Turtle Island” (TILF).

Bốn người bị bắt. (Hình: FBI)

Họ bị bắt tuần trước ở Lucerne Valley, gần thành phố sa mạc Twentynine Palms, California, nơi có căn cứ Thủy Quân Lục Chiến. Cả bốn là cư dân vùng Los Angeles.

Theo dự trù, bốn người này sẽ bị truy tố thêm tội khác, ông Bill Essayli, công tố viên liên bang ở California, cho hay. Giới chức cho biết TILF còn nhiều thành viên khác, nhưng họ tin đã bắt hết những người dính líu tới âm mưu này.

Bốn người này dự trù ra tòa chiều Thứ Hai.

Theo đơn truy tố hình sự, hồi Tháng Mười Một, bà Carroll trao cho mật báo viên Cơ Quan Điều Tra Liên Bang (FBI) tài liệu viết tay tựa đề “Chiến Dịch Mặt Trời Nửa Đêm,” trong đó ghi chi tiết kế hoạch gài giỏ xách chứa bom tự chế cho nổ tung cùng lúc tại năm địa điểm nhắm vào hai công ty ở Los Angeles County và Orange County đêm Giao Thừa.

“Những trái bom này sẽ nổ tung cùng lúc vào nửa đêm Giao Thừa,” ông Akil Davis, phụ tá giám đốc văn phòng FBI ở Los Angeles, cho hay. “Kế hoạch này nói đó sẽ bom ống phức tạp và hướng dẫn cách chế tạo bom cũng như cách tránh để lại bằng chứng có thể bị dò ra.”

Hình ảnh bằng chứng trong hồ sơ tòa án cho thấy một khu cắm trại trong sa mạc có những thứ mà điều tra viên cho hay là vật liệu chế tạo bom nằm vương vãi khắp những chiếc bàn nhựa gấp lại được.

Bốn bị cáo này “đều đem vật liệu chế tạo bom tới khu cắm trại đó, gồm ống nhựa đủ kích cỡ” và hóa chất, theo đơn truy tố. Bốn người này bị bắt sau khi bắt đầu chế tạo bom.

Bà Carroll và đồng bọn lập nhóm chat trên ứng dụng Signal có tên “Phái Sen Đen,” mà họ tự nhận là phái “cực đoan” của TILF, rồi sử dụng nhóm chat này để bàn âm mưu đánh bom, theo đơn truy tố.

Khi khám xét nhà bà Carroll, điều tra viên tìm thấy áp phích và tài liệu liên hệ với TILF, gồm một tấm ghi “Đả Đảo ICE” và tấm khác ghi “Đả Đảo Mỹ, Turtle Island và Palestine Trường Tồn.” (Th.Long) [kn]


 

Hội nghị Trung ương 15, cuộc chơi của những kẻ tiếm quyền-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 15, 2025

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng Cộng sản Việt Nam đang diễn ra trong một thời điểm đặc biệt, vì đây là hội nghị trung ương cuối cùng trước kỳ Đại hội đảng Cộng Sản lần thứ XIV, dự kiến tổ chức vào đầu năm 2026.

Theo thông lệ chính trị nhiều thập niên qua, Hội nghị Trung ương 15 không chỉ là một kỳ họp “chuẩn bị”, mà thực chất là nơi hoàn tất việc sắp xếp nhân sự cao cấp nhất của toàn bộ hệ thống chính trị, từ hệ thống trung ương đảng đến hệ thống chính quyền trung ương.

Trung ương đảng họp để “nhất trí” theo những gì mà Bộ Chính trị CSVN và các ban bệ thu hẹp đã quyết định trước. Những kẻ ngồi ở hàng ghế đầu không phải là cùng một đẳng cấp với những kẻ ngồi ở các hàng ghế sau. Ghế càng xa, vai vế càng kém. (Hình: Chinhphu.vn)

Nói cách khác, Hội nghị Trung ương 15 chính là nơi quyết định ai sẽ lãnh đạo đất nước trong 5 năm tới, dù danh nghĩa pháp lý của các quyết định này sẽ được “hoàn thiện” bằng thủ tục hợp thức hóa ở Đại hội XIV và các kỳ họp của Quốc hội sau đó.

Điều đáng bàn không chỉ là kết quả nhân sự, mà là cơ chế quyết định nhân sự – nơi mà ít nhất ba chủ thể chính trị căn bản của một quốc gia, gồm nhân dân, Quốc hội và ngay cả tuyệt đại bộ phận hơn 5 triệu đảng viên Đảng Cộng sản đều bị loại ra ngoài quá trình tấn cử.

Nhân dân, người “chủ đất nước” nhưng hoàn toàn bị “chầu rìa”

Theo nguyên tắc dân chủ của một chính thể cộng hòa và theo chính thể Hiến pháp Việt Nam, thì “Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước”. Tuy nhiên, trong thực tiễn chính trị hiện nay, nhân dân không có bất kỳ vai trò nào trong việc lựa chọn các lãnh đạo cao cấp nhất của quốc gia.

Nhân dân không được đề cử ứng viên mà mình tin cậy. Nhân dân không được tranh luận về các ứng viên lãnh đạo. Nhân dân không được bỏ phiếu bầu lãnh đạo. Nhân dân thậm chí không được biết trước danh sách ứng viên. Họ, nhân dân, chỉ là người cuối cùng nhận thông tin, sau khi mọi thỏa thuận, sắp xếp, cân bằng phe phái đã hoàn tất trong nội bộ một nhóm rất nhỏ các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản.

Điều nghịch lý là, mọi quyết định của những người được “tấn cử” này, sau khi được tấn phong chính thức, đều tác động trực tiếp và sâu sắc đến vận mệnh quốc gia, đến sinh kế, quyền tự do, cơ hội sống, học tập và làm việc của trăm triệu người dân. Nhưng người dân lại hoàn toàn bị gạt ra ngoài tiến trình lựa chọn. Trong bất kỳ nền chính trị nào có chính quyền tự nhận là “của dân”, thì đây là một nghịch lý khó có thể biện minh.

Quốc hội, cơ quan “quyền lực cao nhất” nhưng chỉ đóng vai trò “nghị gật”, hợp thức hóa sự tiếm quyền

Theo Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền bầu và phê chuẩn các chức danh quan trọng như Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và nhiều chức vụ then chốt khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, Quốc hội không hề được tham gia gì vào quá trình lựa chọn nhân sự, mà chỉ thực hiện vai trò bỏ phiếu chuẩn thuận các nhân sự đã được Đảng Cộng sản “quy hoạch, giới thiệu và quyết định trước”.

Nói cách khác, quyền lực hiến định của Quốc hội bị vô hiệu hóa bởi nghị quyết của đảng. Việc bỏ phiếu tại Quốc hội trở thành một thủ tục mang tính nghi lễ, nơi mà kết quả đã được định sẵn, và mọi lá phiếu chỉ có tác dụng hợp thức hóa quyết định đã được đưa ra từ nơi khác. Khi cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia không có quyền lựa chọn, không có quyền bác bỏ thực chất, thì danh xưng “quyền lực cao nhất” chỉ còn tồn tại trên giấy tờ.

Đảng viên cũng bị loại ra ngoài việc chọn lãnh đạo của chính đảng mình

Không chỉ nhân dân và quốc hội, mà ngay cả tuyệt đại bộ phận gồm hơn năm triệu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam cũng không có quyền tham gia vào việc lựa chọn lãnh đạo cao cấp nhất của đảng.

Hội nghị Trung ương 15, với số lượng rất hạn chế các ủy viên trung ương và một nhóm còn hẹp hơn nữa trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã sắp xếp xong toàn bộ nhân sự chủ chốt, từ chức vụ Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm các Ủy ban… cho đến các vị trí chiến lược khác.

Khi Đại hội đảng XIV diễn ra vào đầu năm 2026, việc bỏ phiếu của hàng nghìn đại biểu thực chất chỉ còn là hình thức hợp thức hóa những quyết định đã được định trước. Các phương án khác, nếu có, cũng không tồn tại như những lựa chọn thực sự. Như vậy, đảng viên, lại không có quyền lựa chọn lãnh đạo của chính tổ chức mà họ là thành viên và được yêu cầu “tuyệt đối trung thành với Đảng”.

Một cơ chế tấn cử tiếm quyền quyền lực quốc gia

Khi đặt ba chủ thể chính trị này cạnh nhau, có thể thấy một nghịch lý mang tính hệ thống: Nhân dân không được tham gia; Quốc hội không được quyết định; Đảng viên không được lựa chọn. Quyền lực tấn cử, vì thế không thuộc về bất kỳ chủ thể chính trị chính danh nào, mà tập trung vào một nhóm rất nhỏ những người đang nắm quyền lực cao nhất trong Đảng Cộng sản.

Đây không còn là “tập trung dân chủ” theo nghĩa lý luận mà đảng Cộng Sản thường rêu rao, mà là sự tập quyền, độc tài thuần túy, nơi dân chủ chỉ còn là mỹ từ bị lợi dụng triệt để, và tính cạnh tranh chính trị công bằng bằng bầu cử tự do gần như bằng không. Thay vào đó, là sự thanh trừng, đấu đá tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong đảng, trên cơ sở ngành nghề, hoặc địa phương cục bộ.

Hệ quả: khủng hoảng tính chính danh và trách nhiệm chính trị

Một cơ chế lựa chọn lãnh đạo như vậy tất yếu dẫn đến những hệ quả dễ nhìn thấy trước, gồm: Khủng hoảng tính chính danh, vì lãnh đạo không do dân chọn, không chịu sự cạnh tranh, không đối diện với khả năng bị thay thế bởi lá phiếu.

Khủng hoảng trách nhiệm chính trị, vì khi quyền lực không được giao từ nhân dân, thì người nắm giữ quyền lực không chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Gia tăng đấu đá phe phái, vì quyền lực không được phân xử bằng lá phiếu công khai, tự do mà bằng thỏa thuận hậu trường.

Quốc hội CSVN ngày 20 Tháng Mười 2025, khai mạc khóa họp cuối năm và cũng là cuối cùng của nhiệm kỳ này. Báo chí tây phương gọi quốc hội CSVN là “con dấu cao su” vì chỉ bấm nút hay giơ tay “nhất trí” theo lệnh đảng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Hội nghị Trung ương 15, trong bối cảnh đó, không chỉ là một sự kiện nội bộ của Đảng Cộng sản, mà là một tấm gương phản chiếu bản chất của cơ chế quyền lực hiện hành, rằng quyền lực được quyết định trong phạm vi hẹp, khép kín, và xa rời các chủ thể chính trị mà lẽ ra phải là trung tâm.

Tóm lại, một quốc gia hiện đại không thể được dẫn dắt lâu dài bằng một cơ chế tấn cử mà người dân đứng ngoài, Quốc hội đứng ngoài, và ngay cả đảng viên cũng đứng ngoài. Khi mọi quyết định then chốt đều được định đoạt trước trong những hội nghị kín, thì các thiết chế còn lại chỉ đóng vai trò sân khấu hóa cho một kịch bản đã hoàn chỉnh.

Hội nghị Trung ương 15, vì thế không chỉ là bước chuẩn bị cho Đại hội XIV của đảng CSVN, mà còn là một sự hình thức tiếm quyền quyền lực chính trị trong một quốc gia. Chúng sẽ không mang lại tính chính danh cho những người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo cao cấp, mà chúng chỉ giúp xác nhận kẻ chiến thắng trong cuộc thỏa hiệp từ việc tranh giành, đấu đá chiếm giữ quyền lực chính trị trong đảng mà thôi.

Viết từ Hoa Thịnh Đốn, ngày 14 Tháng Mười Hai 2025


 

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

Luật sư Nguyễn Văn Đài và FANS 

Nguyễn Minh Cần,  Nguyên phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội viết:

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

1/ Cuộc đấu tranh giành độc lập của dân ta đã theo con đường khác, rất có thể là theo con đường của cụ Phan Châu Trinh, và dân tộc chúng ta sẽ sớm giành được độc lập mà không phải đổ máu, giống như nhiều nước khác trong vùng Đông Nam Á, Nam Á;

2/ Chúng ta tránh được nạn ám hại các người đứng đầu các đảng phái yêu nước – phần đông họ là những thành phần ưu tú của dân tộc – bằng những ban ám sát của ĐCS;

3/ Tránh được cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu, tàn bạo, làm trên 100 nghìn người chết oan uổng và làm đảo lộn đạo lý truyền thống của dân tộc, mà có một cuộc cải cách ruộng đất ôn hòa, hợp tình, hợp lý để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế;

4/ Tránh được những cuộc cải tạo công thương nghiệp và cưỡng bức hợp tác hóa nông nghiệp làm suy sập nền kinh tế của đất nước và triệt tiêu các lực lượng năng động nhất trong nền kinh tế;

5/ Tránh được những trận đàn áp văn nghệ sĩ, trí thức làm cho văn hóa, văn học nghệ thuật nước ta tụt hậu hàng nhiều thập niên, trái lại, nền văn hóa, văn học nghệ thuật nước nhà được tự do chắc chắn đã nảy sinh được nhiều thành tựu rực rỡ;

6/ Dân tộc ta tránh được cuộc chiến tranh Bắc Nam kéo dài hàng chục năm trời làm gần một chục triệu người dân và binh sĩ của cả hai phía phải bỏ mạng, tránh được sự chia rẽ nặng nề của dân tộc đến nay vẫn còn khó khăn hòa giải hòa hợp;

7/ Tránh được hệ thống những trại tù mang danh “trại cải tạo” để đày đọa hàng trăm nghìn con người yêu nước, những trí thức có tinh thần tự do và dân chủ và tránh được cái chết oan uổng của hàng vạn con người;

8/ Tránh được cái “công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng”, không có chuyện dâng đất, dâng biển dễ dàng cho Trung Quốc như vừa qua, không có chuyện bauxit Tây Nguyên, cho thuê rừng đầu nguồn, đưa hàng chục nghìn lao động Trung Quốc vào các vùng xung yếu của nước ta, và đặc biệt là không có nguy cơ mất nước như ngày nay ….

Nói tóm lại, nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì ngày nay đất nước Việt Nam từ lâu rồi đã được tự do, dân chủ và độc lập thật sự, đã đạt được mức tiến bộ về mọi mặt không kém gì các nước tiên tiến trong vùng, như Nam Hàn, Đài Loan.”

Fbk.  Nguyễn Doãn Đôn

Ảnh nguồn mạng


 

LỜI NÓI SAU CÙNG CỦA TRỊNH BÁ PHƯƠNG TRONG PHIÊN TÒA SƠ THẨM

Fb Manh Dang

Cách nay tròn 4 năm, năm 2021, anh Trịnh Bá Phương, một dân oan Dương Nội, phải ra tòa lãnh bản án 10 năm tù giam chỉ vì nói sự thật về vụ đàn áp đẫm máu vào Đồng Tâm. Vụ tấn công do Bộ Công an tổ chức với hơn 3000 công an đủ các lực lượng, vũ khí trang bị tận răng… bắn chết cụ Lê Đình Kình, bắn trọng thương cụ Bùi Viết Hiểu, mở đầu bi kịch Đồng Tâm.

Dưới đây là nói sau cùng của anh Trịnh Bá Phương tại phiên tòa trước khi hội đồng xét xử vào nghị án:

——-///——-

“Tôi đấu tranh với mong muốn đất nước tôi không còn tình trạng hàng trăm người bị đánh chết trong đồn công an.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng người Việt phải rời bỏ quê hương đi làm thuê ở xứ người qua những tổ chức buôn người với vỏ bọc xuất khẩu lao động.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng ruộng đất với bờ xôi ruộng mật là sinh kế của người nông dân bị Đảng Cộng Sản cướp đoạt.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng Đảng cử, dân bầu và người dân phải được bầu cử tự do và tôi dấu tranh để người dân chúng tôi không còn bị cai trị bởi Đảng Cộng Sản Việt Nam, một tổ chức hèn với giặc, ác với dân.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng áp bức bóc lột  và tôi chống Đảng Cộng Sản Việt Nam là việc làm chính nghĩa.

Tôi không có tội với dân với nước. Chính Đảng Cộng Sản Việt Nam mới là tổ chức phản bội, bán nước, hại dân.

Nhân dân và lịch sử sẽ phán xét tội ác của Đảng Cộng Sản đã gây ra với dân tộc Việt Nam”.

Trịnh Bá Phương


Alice Ball một cô gái trẻ người Mỹ gốc Phi va` bệnh phong

Afro USUK

Ở tuổi 23, cô đã chữa khỏi một căn bệnh đã hành hạ nhân loại suốt nhiều thế kỷ. Rồi cô qua đời. Một người đàn ông da trắng đánh cắp sáng kiến của cô và trở nên nổi tiếng. Suốt 60 năm, thế giới không hề biết đến tên cô.

Một cô gái trẻ người Mỹ gốc Phi bước vào phòng thí nghiệm hóa học tại Đại học Hawaiʻi và bắt đầu làm việc với một vấn đề tưởng như bất khả thi.

Trong nhiều thế kỷ, bệnh phong — nay gọi là bệnh Hansen — là án tử gắn liền với sự cô lập. Bệnh nhân bị đưa vào các khu cách ly, xa gia đình, chờ đợi cơ thể tàn tạ dần. Phương pháp điều trị duy nhất là dầu chaulmoogra, chiết xuất từ hạt của một loài cây nhiệt đới.

Nhưng có một vấn đề nghiêm trọng: dầu quá đặc. Nếu tiêm, nó gây u cục đau đớn dưới da. Nếu uống, nó gây buồn nôn và hầu như không được hấp thụ. Bệnh nhân chịu đựng phương pháp điều trị gần như khổ sở như chính căn bệnh.

Các bác sĩ trên toàn thế giới đã cố gắng suốt nhiều thập kỷ để khiến loại dầu này hiệu quả. Và tất cả đều thất bại.

Cho đến khi Alice Ball xuất hiện.

Sinh ra ở Seattle năm 1892, Alice bộc lộ tài năng từ rất sớm. Cô tốt nghiệp không chỉ một mà hai bằng cử nhân — Hóa dược và Dược học — từ Đại học Washington. Vào thời điểm hầu hết các trường đại học thậm chí còn không nhận sinh viên da đen, đặc biệt là phụ nữ da đen.

Ở tuổi 23, cô lấy bằng thạc sĩ hóa học tại Đại học Hawaiʻi, trở thành một trong những phụ nữ đầu tiên — và là phụ nữ da đen đầu tiên — đạt được điều này tại trường.

Nghiên cứu của cô gây chú ý với bác sĩ Harry Hollmann, người đang điều trị bệnh nhân phong tại Bệnh viện Kalihi. Ông đến gặp Alice với một thử thách: Liệu cô có thể biến dầu chaulmoogra thành dạng có thể tiêm được không?

Những gì Alice làm tiếp theo đã cứu sống hàng ngàn người.

Cô tách được các hợp chất hoạt tính trong dầu — các ethyl ester của acid béo — và phát triển kỹ thuật khiến chúng tan trong nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, dầu chaulmoogra có thể được tiêm vào máu bệnh nhân một cách an toàn và hiệu quả.

Kết quả thật phi thường. Những bệnh nhân bị cách ly suốt nhiều năm bắt đầu hồi phục. Các triệu chứng cải thiện. Một số thậm chí được xuất viện khỏi các khu cách ly và đoàn tụ với gia đình.

Alice Ball đã giải được bài toán mà các nhà khoa học trước đó thất bại suốt nhiều thế hệ.

Cô mới 23 tuổi.

Rồi bi kịch xảy ra.

Tháng 12/1916, chỉ vài tháng sau bước đột phá, Alice Ball đột ngột qua đời. Cô mới 24 tuổi.

Nguyên nhân chính xác vẫn không rõ — một số người cho rằng do phơi nhiễm hóa chất trong phòng thí nghiệm, người khác nghĩ là biến chứng bệnh khác. Tuy nhiên, nguyên nhân cái chết của Ball đến nay vẫn chưa được xác định rõ, vì giấy chứng tử ban đầu của cô đã bị sửa đổi để ghi là tử vong do bệnh lao. Chỉ biết rằng cô vẫn chưa kịp công bố kết quả. Công trình đột phá của cô chỉ tồn tại trong ghi chú.

Và rồi một điều không thể chấp nhận đã xảy ra.

Arthur Dean, chủ tịch Đại học Hawaiʻi, đã lấy nghiên cứu của Alice, tinh chỉnh kỹ thuật đôi chút và công bố — dưới cái tên duy nhất của mình.

Thế giới y học ca ngợi “Phương pháp Dean.”

Trong nhiều thập kỷ, nó được dùng để điều trị bệnh nhân phong trên khắp Thái Bình Dương, tại Philippines, khắp châu Á và châu Phi. Phương pháp đó cứu sống hàng ngàn người và mang lại hy vọng cho vô số gia đình.

Arthur Dean chưa từng nhắc đến tên Alice Ball.

Dù chỉ một lần.

Trong 60 năm, công lao của cô bị xóa bỏ. Một nữ nhà hóa học da đen trẻ tuổi, người đã làm được điều mà không ai làm nổi, đã bị quên lãng. Bị chôn vùi. Bị xóa khỏi lịch sử.

Cho đến năm 1977, khi một nhà sử học tên Kathryn Takara bắt đầu nghiên cứu về các nhà khoa học đầu tiên ở Hawaiʻi. Bà tìm được luận văn của Alice. Bà thấy các ghi chép trong phòng thí nghiệm. Bà ghép lại toàn bộ câu chuyện.

Sự thật hé lộ: “Phương pháp Dean” thực chất là “Phương pháp Ball”. Và người ta mới biết rằng Dean thực ra cũng chẳng đóng góp gì nhiều để thay đổi sáng kiến của Alice Ball.

Sự ghi nhận hiếm hoi dành cho công trình của Ball chỉ xuất hiện sáu năm sau khi cô mất. Năm 1922, tên cô được nhắc trong bài báo của bác sĩ Harry T. Hollmann, và phương pháp của cô được gọi là “Phương pháp Ball”.  Sau nhiều năm nghiên cứu này được các học giả tại Đại học Hawai‘i, bao gồm Kathryn Takara và Stanley Ali, công khai cho toàn thế giới biết sự thật.

Năm 2004, học giả Paul Wermager trích dẫn một cuộc phỏng vấn năm 1921, trong đó Arthur Dean nhấn mạnh tầm quan trọng của những người đi trước trong quá trình phát triển chiết xuất chaulmoogra. Tuy vậy, theo Wermager, báo cáo đó lại chỉ nhắc các cộng sự khác của Dean, chứ không hề nhắc đến Ball.

Tháng 3/2016, Hawaiʻi Magazine đưa Alice Ball vào danh sách những người phụ nữ có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Hawaii. Năm 2017, Paul Wermager thành lập học bổng “Alice Augusta Ball Endowed Scholarship” nhằm hỗ trợ sinh viên theo học các ngành hóa học, sinh học, hóa sinh hoặc vi sinh.

Năm 2018, một công viên mới tại khu Greenwood ở Seattle được đặt tên theo cô. Đến năm 2019, Trường Y học Nhiệt đới và Vệ sinh London khắc tên cô lên phù điêu ở mặt tiền tòa nhà chính, cùng với Florence Nightingale và Marie Curie, để ghi nhận những đóng góp của họ cho khoa học và sức khỏe toàn cầu.

Tháng 2/2020, bộ phim ngắn The Ball Method được công chiếu tại Liên hoan phim Pan African. Sinh viên Đại học Hawai‘i sau đó đặt câu hỏi liệu nhà trường có nên làm nhiều hơn để khắc phục sai lầm của cựu hiệu trưởng Dean, trong đó có đề xuất đổi tên tòa nhà Dean Hall thành Ball Hall để vinh danh cô.

Ngày 6/11/2020, một vệ tinh mang tên cô (NuSat 9 hay “Alice”, COSPAR 2020-079A) được phóng vào vũ trụ.

Ngày 28/2/2022, Thống đốc David Ige ký tuyên bố chọn ngày này là “Ngày Alice Augusta Ball” tại Hawaii, trong buổi lễ đặc biệt tổ chức tại khuôn viên Đại học Hawaiʻi ở Mānoa. Buổi lễ diễn ra bên cạnh Bachman Hall, dưới tán cây chaulmoogra được trồng để tưởng nhớ cô, với sự tham dự của hơn 100 người, bao gồm Đệ nhất phu nhân Dawn Ige và Hiệu trưởng UH David Lassner.

Đến tháng 12/2024, sau nghị quyết của Hội đồng Giảng viên UH Mānoa, một bức tượng của Alice Ball được đặt tại Thư viện Hamilton để vinh danh cô.

Năm 2007, cô được truy tặng Huy chương Danh dự — giải thưởng cao quý nhất của trường Đại học Hawaiʻi.

Nhưng điều quan trọng nhất là:

Alice Ball chỉ mới 23 tuổi khi cô giải được một vấn đề đã thách thức nhân loại suốt hàng thế kỷ.

Cô là một phụ nữ da đen vào năm 1915, trong một lĩnh vực luôn loại trừ những người giống cô.

Cô đã cứu hàng ngàn người bằng tài năng của mình.

Và rồi một người đàn ông có quyền lực đã xóa tên cô, chiếm lấy công trình của cô.

Suốt 60 năm, thế giới tin vào một lời nói dối.

Nhưng sự thật luôn có cách trở lại. Câu chuyện của Alice Ball không bị mất — nó chỉ chờ được kể ra.

Ngày nay, phương pháp của cô được ghi nhận trong lịch sử y khoa. Sinh viên học kỹ thuật của cô trong lớp hóa học. Các nhà khoa học trẻ — đặc biệt là phụ nữ da màu — biết tên cô và nhìn thấy khả năng cho chính mình.

Di sản của Alice Ball không chỉ là khoa học. Nó nhắc chúng ta rằng:

Tài năng tồn tại ở khắp nơi, không chỉ trong những người ta “mong đợi.”

Lịch sử thường xóa bỏ công lao của phụ nữ và người da màu — nhưng công trình của họ vẫn còn đó.

Một con người, với sự cống hiến và thiên tài, có thể thay đổi cuộc sống của hàng ngàn người.

Alice Ball chưa bao giờ thấy phát minh của mình được tôn vinh. Cô không bao giờ biết mình đã cứu bao nhiêu người. Cô không được ghi nhận đúng lúc.

Nhưng công trình của cô vẫn sống. Bệnh nhân được chữa lành. Gia đình được đoàn tụ. Những cuộc đời được cứu.

Và hơn một thế kỷ sau, chúng ta nhớ đến tên cô.

Alice Augusta Ball. Nhà hóa học. Người tiên phong. Người cứu sống hàng ngàn người.

Hai mươi ba tuổi khi cô thay đổi lịch sử y học.

Ra đi ở tuổi hai mươi bốn — nhưng không bao giờ bị xóa bỏ thật sự.

Tài năng của cô không thể bị chôn vùi. Chỉ là thế giới mất sáu mươi năm để thừa nhận nó.

Hãy nhớ đến cô ấy. Hãy kể câu chuyện của cô ấy. Hãy tôn vinh sự thật.

Vì Alice Ball đã chứng minh rằng khoa học không có giới hạn về giới tính, chủng tộc hay thời gian.

*Sưu tầm dịch