Quyết chiến với dân

Quyết chiến với dân

Blog RFA

CanhCo

12-3-2017

Lang thang trên mạng mấy hôm nay lòng tự hỏi, không biết có phải đất nước đang chuyển mình cho một cuộc thay da đổi thịt nữa hay không bởi chưa bao giờ người dân “tự do” đến như thế.

Cứ tạm so sánh với ngày 30 tháng 4 năm 1975, thì sẽ thấy rằng dân bây giờ tự do hơn nhiều mặc dù vẫn còn hàng ngàn vụ bất công thái quá đối với người dân.

Lúc đó người dân Sài Gòn tuy chào đón một đội quân mới vào tiếp quản với thái độ chừng mực vì nỗi lo lắng đối với đạo quân xa lạ vẫn lảng vảng chung quanh hàng xóm láng giềng của họ, nhưng dù sao những người bộ đội xem rất hiền lành, hơi ngố, và nhất là họ tránh tiếp xúc với người dân đã mang lại chút ít tin cậy vào thời gian đầu, rồi mọi sự dần qua.

Qua với người này nhưng không qua với người khác.

Người dân Sài Gòn biết được cái giá của chiến thắng là học tập cải tạo, là đánh tư sản là kinh tế mới.

Nhưng họ cam chịu bị vây khốn với hy vọng một ngày nào đó đất nước sẽ đổi thay vì dân tộc này đã kéo dài sự bất công quá lâu. Họ im lặng và cúi xuống làm việc vì sinh nhai.

Rồi những thay đổi cũng đến, nhưng chỉ thay chứ không đổi được bức tranh ảm đạm, bất công của đất nước.

Đất nước chuyển mình không xuất phát từ ý chí của nhà cầm quyền mà từ khuynh hướng hội nhập của thế giới vào Việt Nam. Những khu kinh tế mới biến mất thay vào đó là các Khu chế xuất, tập trung hãng xưởng nước ngoài thành lập nhà máy của họ tại Việt Nam. Người dân vui mừng vì cơ hội đổi đời hé ra một tương lai sáng sủa hơn. Những khu đất được đền bù khiến hàng ngàn gia đình lột xác, xe cộ máy móc nhà cửa nổi lên như một dòng cuồng lưu kéo theo hàng triệu con người bỏ ruộng, bỏ vườn hòa vào dòng chảy của các đại gia “hai lúa”. Dòng chảy ấy mau chóng cạn kiệt sau một thời gian ngắn, những nông dân may mắn sau khi tiêu tốn tiền đền bù giải tỏa vào những phung phí của cuộc đổi đời, bị đạp trở lại cột mốc zero của chặng đường làm giàu không cần lao động.

Cho tới thập niên 2010 thì mọi chuyện hình như bước vào giai đoạn mới. Bây giờ là thời của đại gia, thời của Bí thư các loại.

Và bây giờ dân cũng đã không còn im lặng.

Người dân bây giờ tự do khai quật những điều bị cho là cấm kỵ trước đây với hai cái tên điển hình sự cho thối nát của thể chế hôm nay: Chủ tịch tập đoàn FLC Trịnh Văn Quyết và Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến.

Với tựa đề “Luật sư kinh doanh”, Tạp chí Forbes phiên bản Việt số tháng 7/2014 đã có bài viết về Trịnh Văn Quyết, một luật sư ra làm nghề kinh doanh, nhân vật gây chú ý với một loạt thương vụ đầu tư, mua bán bất động sản.

Đại gia tỷ phú đô la lên trang nhất của báo Forbes Việt Nam ngày càng đông. Những cái tên Nguyễn Nhật Vượng, Trịnh Văn Quyết không còn xa lạ như cách đây một thập niên. Họ là những tay kinh doanh bất động sản thành công lớn và tài sản của hai “danh nhân” này tuy được nói là cả tỷ đô la nhưng thực tế bên trong còn hơn thế nữa.

Nếu Nguyễn Nhật Vượng lấy sức mạnh của Vingroup dể thanh toán những mảnh đất màu mỡ nằm trong nội ô các thành phố lớn thì Trịnh Văn Quyết lại chỉa mục tiêu vào các khu du lịch tiềm năng, Không phải tự nhiên mà bạc tỷ chạy vào túi nếu họ kinh doanh bất động sản “hiền lành” như cả triệu người khác. Họ có chiêu, tay phải họ cầm gươm đi “mua đất” tay trái họ cầm cái khiên che chắn mọi chống đối của người dân hay những phát hiện gian trá do truyền thông khui ra.

Họ biết ăn và biết chia. Họ thành công vì đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn.

Dĩ nhiên làm ăn ở Việt Nam là phải biết “bôi trơn”. Từ một chị bán hàng rong cũng phải móc ra năm bảy ngàn cho bọn dân phòng, quản lý thị trường rồi bây giờ là trật từ đường phố. Những đồng tiền nhỏ nhoi và tội nghiệp ấy vẫn hàng ngày được “nhẹ nhàng” gửi cho các anh uống café để chúng em kiếm tiền cho con ăn học.

Đối với trọc phú đỏ, họ có cách khác để chi tiền vừa bài bản, thông minh lại được tiếng là giúp cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

Đó là vẽ dự án, những khu đô thị mới cần phải nổi lên để đẹp mặt thành phố. Phải tạo những khu resort làm mát mặt địa phương đồng thời tạo công ăn việc làm cho người dân. Những bài bản ấy báo chí không lạ, người dân không lạ và dĩ nhiên, lãnh đạo các tỉnh cũng hoàn toàn không lạ.

Vài ngày nay người ta công khai mang những tấm ảnh khó tin phát tán trên mạng xã hội trong đó không ít tấm đã miêu tả dược chân dung của các đại gia làm giàu như thế nào và các quan đầu tỉnh kiếm tiền ra sao, do ai cung cấp.

Liên hệ mật thiết môi răng ấy cho thấy toàn cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Tả tơi phía sau những khu đô thị hoành tráng vẫn chưa có người ở.

Tấm ảnh chụp ông Bí thư Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến và đại gia Trịnh Văn Quyết, chủ tịch tập đoàn FLC tươi cười trong một sự kiện khiến cho cả nước cay đắng. Cay đắng vì ông bí thư Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến đang bị dư luận lôi ra ánh sáng vì cung cấp hàng trăm tỷ cho bồ nhí Trần Vũ Quỳnh Anh.

Còn ông Trịnh Văn Quyết, chủ nhân ông với các “siêu” quần thể khu nghỉ dưỡng và sân golf ở 6 tỉnh, thành chiếm quỹ đất lên tới 4.124 ha, 3.600 phòng khách sạn và hàng nghìn căn biệt thự. Trịnh Văn Quyết trở thành “ông trùm” địa ốc giàu nhất nước.

Khu nghỉ dưỡng cao cấp FLC Sầm Sơn thuộc phạm vi do ông Bí thư Trịnh Văn Chiến quản lý trị giá 5.500 tỷ dọc bờ biển Sầm Sơn đã xua đuổi hàng ngàn hộ dân đang sinh họat tại vùng biển này không thể không có sự tiếp tay của ông mà FLC thành công được.

Hai con người ấy kề cận tươi cười chụp hình bên nhau tuy không có giá trị là bằng chứng để truy tố nhưng nó có giá trị của sự liên tưởng, một giá trị tuyệt đối làm cho người dân tỉnh ngộ.

Ông Quyết lấy đâu ra tiền cho gái nếu không kề vai kẹp cổ Trịnh Văn Chiến?

Ông Chiến lấy đâu ra đất để xây resort nếu không cặp cổ ông Quyết dúi những phong bì dười gầm bàn trong những lần gặp gỡ công khai giữa thanh thiên bạch nhật?

Cái tinh thần “quyết chiến” ấy thể hiện trên ánh mắt uất hận của người dân Thanh Hóa. Nó nằm trên các trang mạng xã hội và người dân đã dần biết được câu hỏi “tại sao họ giàu như thế?”

Những đại gia lớn nhất nước Việt luôn là người tin cẩn của hệ thống chính trị Việt Nam. Bất cứ một dự án lớn nào cũng được “nghiên cứu” rất kỹ giữa hai “đối tác”. Từ việc vẽ ra mục đích cho có vẻ hợp với nhu cầu phát triển, cho tới cách tiến hành dự án ấy đều được rà soát kỹ lưỡng cho phù hợp với pháp luật và thủ tục ăn chia với nhau.

Càng giàu thì người ta càng ác. Chính bản thân họ dù sao cũng là con người họ không thế ác như thế nếu phía sau không có những cái đầu điều hành đất nước “ác” hơn.

Đó là định luật phát triển của mafia và dĩ nhiên mafia đỏ vẫn nguy hiểm hơn mafia tư bản nhiều bởi chúng có điều 4 trong hiến pháp.

Ngày hôm qua, có thêm một tấm ảnh khác: người dân Đông Yên lặn lội dưới bầu trời tím tái vì mưa gió để biểu tình chống Formosa vào sáng ngày 11 tháng 3.

Trong cuộc biểu tình ấy người ta mang lên trang mạng xã hội những video clip cho thấy một việc rất mới vừa xảy ra: người dân hô vang dội “đả đảo cộng sản”.

Cái thời người dân lẳng lặng lên xe đi kinh tế mới đã qua, bây giờ họ đã không còn biết sợ. Hình ảnh quan lại cấu kết với các tập đoàn “quyết chiến” với dân đã kích thích sự nổi dậy.

Bắt đầu cuộc nổi dậy nào cũng có khẩu hiệu rất quen thuộc: “đả đảo”.

Chế độ cũ sụp đổ vì những tiếng “đả đảo” giữa lòng Sài Gòn. Chế độ cộng sản Việt Nam cũng sẽ không thể thoát khỏi sụp đổ từ những tiếng hô đả đảo của người dân bị áp bức giữa miền Trung tang thương ấy.

Khi con người giữ lại

Khi con người giữ lại

Tuấn Khanh

14-3-2017

Tháng 1/1995, khi ông Võ Văn Kiệt ký văn bản số 406-Ttg, ra lệnh không được đốt pháo trên cả nước. Không những pháo trong hiện thực bị săn lùng và hủy diệt, mà ngay cả pháo trong trí tưởng cũng bị ngăn chận. Ít lâu sau đó, trong một lần đưa ca khúc Bài Ca Tết Cho Em (sáng tác: nhạc sĩ Quốc Dũng) vào chương trình sản xuất CD mùa xuân, một biên tập viên đã than thở rằng Sở Văn hóa Thông tin ở Sài Gòn nói phải sửa lại lời, vì có chữ “pháo”, nghe nhạy cảm với một loại hình sản phẩm đã bị cấm.

Những chuyện hài hước như vậy, không bao giờ thiếu trong một nền văn hóa bị kiểm duyệt theo chỉ đạo, và cũng theo tính trung thành đến bại hoại của những nhân viên kiểm duyệt tại Việt Nam, kể từ sau 1975.

Một buổi sáng, khi đọc bản tin về chuyện 5 ca khúc có từ nửa thế kỷ trước bị lại cấm lưu hành, nhiều người dân đã tỏ ý bất bình. Nhưng với giới văn nghệ đã tận mặt sống và quay quắt trong các sợi xích kiểm duyệt từ suốt nhiều năm thì lại khác. Phản ứng thường là một nụ cười mỉa, và gật gù như của một anh bạn “đến giờ này mà vẫn còn bệnh hoạn như vậy à?”

Năm ca khúc đó, bao gồm Cánh thiệp đầu xuân (tác giả Lê Dinh – Minh Kỳ), Rừng xưa, Chuyện buồn ngày xuân (Lam Phương), Đừng gọi anh bằng chú (Diên An), Con đường xưa em đi (Châu Kỳ – Hồ Đình Phương). Như bao lần, những người “làm” văn hóa của Nhà nước vẫn giải thích mơ hồ, thậm chí ngớ ngẩn như dừng lưu hành để tìm tên tác giả chính xác. Một quan chức nhà nước, được báo Tuổi Trẻ dẫn lời, nói rằng ông băn khoăn vì không biết ý nghĩa lời hát “cuộc chiến” nằm trong Con đường xưa em đi, là cuộc chiến nào.

Như một đứa trẻ to lớn nhưng gồng gánh tâm hồn tự kỷ, hệ thống văn hóa xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay loay hoay với một nỗi ám ảnh mơ hồ, và không thể hội nhập cùng cuộc sống bình thường. Đứa trẻ đó lo sợ mọi thứ – từ quá khứ đến tương lai. Đứa trẻ cố vươn vai đứng thẳng oai vệ trong đời sống, nhưng nhột nhạt thầm kín vì đêm đêm còn mắc tật đái trộm trên giường. Đứa trẻ tự cáu gắt vì chứng không thể trưởng thành của mình.

Nhạc sĩ Thanh Sơn, lúc còn sinh thời, từng ngồi buồn hiu, kể rằng một nhân viên kiểm duyệt của Sở, trẻ bằng tuổi con út của ông, ra lệnh cho ông về phải bỏ chữ “phu quân” trong một ca khúc tình yêu đồng quê của ông, chỉ vì chữ “quân” có thể ám chỉ đến quân nhân Việt Nam Cộng Hòa.

Năm ngoái, một đôi bạn trẻ viết tạp bút về Sài Gòn, chạy xin giấy phép in với một nhà xuất bản. Khi bản thảo đưa lên duyệt, một đoạn văn liên quan đến bài hát Chiếc lá cuối cùng (tác giả Tuấn Khanh sinh năm 1933) bị lưu ý là phải bỏ đi vì liên quan văn hóa trước 1975. Khi các bạn trẻ này kêu nài rằng bài hát đã được duyệt, tác giả được lưu hành… thì biên tập viên – kiểm duyệt viên bối rối, chuyển sang ý khác là “cũng phải bỏ, vì gợi ý đến nhạc sĩ Tuấn Khanh hiện nay, người đang có vấn đề”.

Trãi qua rất nhiều năm. Kể từ lúc những bánh xích xe tăng chiến thắng của những người Cộng sản lăn trên các đường phố ở miền Nam. Có không ít những khung thước văn hóa thật mới mẻ được kẻ ra cho người dân. Từ chiếc quần ống loe bị chận cắt giữa đường, mái tóc dài nam giới bị giữ lại và buộc xén đi vô tội vạ… cho đến hôm nay, quả là một chặng đường rất dài để con người Việt Nam thấy rằng mình đang phải chạy hồng hộc trên một vòng tròn thật lớn, để cố về điểm xuất phát văn minh ban đầu của mình.

Đầu năm 2017, có tin bài hát Ly rượu mừng được trả tự do. Rất nhiều người vui mừng vì nghĩ rằng “rồi cuối cùng những điều tốt đẹp nhất cũng đã trở lại”. Có không ít những bài viết, sự hân hoan xuất hiện trên các trang mạng. Có bóp, thì phải có mở chứ!

Cảm giác này có thể so sánh với năm 1977, khi nạn đói tràn lan ở Việt Nam, bệnh ghẻ ngứa rừng hành hạ mọi gia đình. Rồi đến năm 1990, khi nhiều người bắt đầu được ăn cơm có thịt và sử dụng xà bông Hoa Kỳ gửi về từ các thùng đồ của kiều bào –  thì người Việt nam cũng đã hân hoan và hạnh phúc như vậy. Quả là có bóp, rồi phải có mở!

Và rồi, khi một ca khúc được trả tự do, thì cũng không lâu sau, có đến 5 ca khúc khác bị giam lại. Cái được và mất có vẻ đã rõ trong đời sống văn hóa bình thường của con người. Mở và bóp!

Cấm và cho / Bóp và mở trong kiểm duyệt văn hóa tại Việt Nam chưa bao giờ có một câu trả lời quang minh, hay có một thái độ chính đáng. Năm 2012, khi được hỏi về cách thức cho phép lưu hành những bài hát trước năm 1975, ông Lê Ngọc Cường – nguyên cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn từng xác nhận rằng thay vì lên danh sách những bài cần cấm, thì Cục chỉ có danh sách những bài được cho phép (khoảng hơn 1500 bài, trong số hàng chục ngàn bài hát trước 1975). Và việc bóp xiết các bài hát cũ, được khoán lớn cho Sở ở thành phố Hồ Chí Minh, vì nơi này được coi là có khả năng “biết rõ nội tình”.

Nội tình ấy, Trịnh Công Sơn, đến khi qua đời nhiều năm, vẫn chưa bao giờ được phép ấn hành chính thức và đầy đủ bộ Ca khúc Da Vàng, tập tác phẩm được coi là làm nên tên tuổi của ông.

Nội tình ấy, Nhạc sĩ Phạm Duy, từ khi giao cho công ty Phương Nam quản lý và xin phép các ca khúc của ông từ năm 2005 đến nay, chỉ khoảng 200 bài hát được cho phép. Thậm chí có những bài cấp phép rồi, lại cấm như Trường ca Con đường Cái quan và Còn chút gì để nhớ.

Không biết dựa vào luật nào, Cục chỉ cho phép một năm làm đơn xin từ 2 đến 3 lần, mỗi lần từ 7 đến 13 bài. Và nếu chiếu theo trình tự đó, di sản hơn 1000 bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy có thể phải đến năm 2050 mới được cấp phép hoàn toàn. Dĩ nhiên, đó là trong tình trạng các nhà “làm” văn hóa không trở chứng tự kỷ kinh niên.

Cũng có ý kiến cho rằng Nhà nước đang lo lắng vì không cản nổi tình trạng văn hóa trước 1975 bùng phát lại ở miền Nam và nhiều nơi khác. Khởi đầu là âm nhạc, sau đến là sách vở, lịch sử… nên đang tìm cách kìm hãm bằng cách cắt nhanh nguồn cảm hứng của dân chúng. Khởi đầu là không ít nghệ sĩ của Nhà nước được hậu thuẫn lên tiếng bài bác bolero, rồi kế đến kêu đòi một nền văn minh gameshow không có bolero… Hôm nay là thả một và nhốt năm, như tín hiệu của một mùa xuân không còn nghe tiếng pháo.

Nếu lưu ý, sẽ không ít người ngạc nhiên rằng năm 2017, khi bài hát Ly rượu mừng được trả tự do một cách hữu ý trước Tết Nguyên Đán, nhưng lại không vang lên rộn rã bằng những năm mà người dân phải tự vượt rào để hát, để nghe nó. Có lẽ người dân đã bằng lòng với sự bình thường và giá trị được trả lại, nên không ra sức níu kéo như nhiều thập niên qua.

Nhưng ngay khi danh sách 5 bài hát bị cấm được tung ra, lạ thay, đâu đâu cũng nghe người dân hát, mở lại những ca khúc này. Chuyện “cấm”, trở thành một thái độ vô vọng trước đời sống tự nhiên trong phút chốc.

Và như thế, những bài hát cấm đó, chắc chắn lại sẽ vang lên – không khác gì những ngày tháng Ly rượu mừng bị giam nhốt. Kẻ có quyền có thể phất tay phế bỏ, nhưng nhân dân sẽ mãi mãi âm thầm giữ lại trong trí nhớ và từng lời hát khe khẽ của mình, bởi lẽ năm bài hát ấy – hay hàng chục ngàn bài hát khác – không có tội tình gì.

Vì họ biết, cuối cùng tài sản lớn nhất của con người là văn hóa chứ không là cường quyền. Âm nhạc hay sách vở – tri thức và cảm xúc… sẽ còn lại mãi mãi, bền bỉ thách đố mọi thời đại mê muội của quyền hành.

Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979: Quá khứ không thể nào quên

Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979: Quá khứ không thể nào quên

Xuan Loc Doan

Thụy My dịch

clip_image001

Quân xâm lược Trung Quốc tiến vào trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979.

(Asia Times/CourrierInternational 9-15/03/2017) Báo chí chính thức Việt Nam rốt cuộc cũng nhắc đến cuộc chiến tranh năm 1979 giữa Trung Quốc và Việt Nam. Theo một nhà nghiên cứu, để tránh gây thêm căng thẳng, hai nước cần phải dỡ bỏ bức màn che về cuộc xung đột bị che giấu này.

Nhiều tờ báo Việt Nam do Nhà nước kiểm soát mới đây đã đề cập đến một chủ đề cấm kỵ: cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1979. Liệu đây có phải là dấu hiệu cho thấy đảng Cộng sản cầm quyền rốt cuộc đã quyết định bãi bỏ kiểm duyệt đối với việc nêu ra cuộc chiến Việt-Trung ngắn ngủi nhưng đẫm máu?

clip_image002

Quân Trung Quốc tham gia cuộc chiến phòng vệ chống Việt Nam.

Cuộc xung đột giữa hai nước láng giềng cộng sản đã xảy ra vào sáng sớm ngày 17/02/1979, với việc quân đội Trung Quốc xâm lăng các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Chỉ trong 27 ngày, các trận đánh đã diễn ra tàn khốc, nhưng không có con số tổng kết chắc chắn vì cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều không muốn công bố. Theo ước tính, cuộc chiến tranh chỉ diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam này đã khiến cho mấy chục ngàn người chết và bị thương về phía Việt Nam, chủ yếu là thường dân, và từ 21.000 đến 63.000 người chết phía Trung Quốc.

Cuộc chiến tranh chớp nhoáng đã đánh dấu sự khởi đầu một thập niên dài thù địch giữa hai nước anh em. Ngoài vô số cuộc đụng độ ở vùng biên giới chung trên đất liền, năm 1988 Trung Quốc còn chiếm lấy nhiều đảo nhỏ và rạn san hô ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông, đè bẹp Hải quân Việt Nam, tàn sát 64 lính hải quân Việt.

clip_image003

Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh.

Sau khi Việt Nam rút quân khỏi Cam Bốt (mà quân đội Việt đã trú đóng từ 1979 đến 1989 trước sự thất vọng của ngoại giao Trung Quốc), và sự kiện Liên Xô sụp đổ, Hà Nội và Bắc Kinh đã tìm cách xoa dịu quan hệ. Năm 1990, trong hội nghị thượng đỉnh ở Thành Đô, Trung Quốc, hai nước đã quyết định tái lập ngoại giao vào năm sau đó.

Từ đó đến nay, cuộc chiến tranh biên giới 1979 – cũng như trận hải chiến đẫm máu năm 1988 – đều không được đưa vào giảng dạy ở trường học, được nhắc đến trong các phát biểu hay nêu ra trên các phương tiện truyền thông Việt Nam vốn bị Nhà nước kiểm soát bằng bàn tay sắt (toàn bộ báo chí đều trực thuộc các định chế liên quan đến đảng Cộng sản Việt Nam). Chính quyền đã gạt sang một bên những thù địch cũ để tập trung cho hợp tác kinh tế và chính trị.

clip_image004

Quân Trung Quốc tải thương.

Bắc Kinh thì lại càng kín đáo hơn, vì theo một số nhà quan sát, Trung Quốc có lý do để quên đi cuộc chiến tranh này. Cuộc xung đột nổ ra sau khi quân đội Việt Nam tiến vào Cam Bốt lật đổ chế độ Khmer Đỏ của Pôn Pốt, đồng minh của Bắc Kinh, đã kết thúc với tổn thất nặng nề cho quân đội Trung Quốc.

Cho đến bây giờ, Hà Nội và Bắc Kinh đều che giấu cuộc chiến biên giới, với ý định chung là xóa đi chương sử đau thương này.

clip_image005

Hôm 17/2 vừa qua, những người Việt cố gắng tập hợp lại ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 38 năm chiến tranh Việt-Trung đã bị công an giải tán không thương tiếc (tuy vậy một cuộc tưởng niệm nho nhỏ đã được cho phép tại thủ đô). Nhưng, trái với thông lệ, nhiều tờ báo lớn của Nhà nước trong đó có Thanh Niên, VietNamNet VnExpress, đã đề cập đến cuộc chiến này. Cho dù những tờ báo tên tuổi nhất tiếp tục giữ im lặng, đặc biệt là tờ Nhân Dân, cơ quan báo chí của Đảng, rõ ràng là một số báo đã có thể vượt qua cấm kỵ.

Sự đảo ngược ấy chỉ có thể diễn ra với sự đồng ý của các quan chức Đảng cao cấp nhất. Thái độ khoan dung gần đây chứng tỏ đã có sự thay đổi, tuy chỉ dần dà nhưng rất đáng kể trong quan điểm của Hà Nội về cuộc chiến trong quá khứ, và trong quan hệ hiện tại với Trung Quốc.

clip_image006

Tưởng niệm 64 liệt sĩ Gạc Ma.

Cũng như cuộc chiến biên giới chớp nhoáng trên, việc đề cập đến trận hải chiến năm 1988 cũng bị kiểm duyệt gắt gao. Tuy vậy tháng 3/2016, nhân kỷ niệm 28 năm sự kiện này, các cuộc tưởng niệm 64 thủy thủ tử trận đã được tổ chức trên khắp cả nước. Nhiều phương tiện truyền thông Nhà nước trong đó có báo Nhân Dân đã nhắc lại sự kiện, nêu ra trận đánh chống lại “quân xâm lược Trung Quốc”, mà các nạn nhân là những “anh hùng hay liệt sĩ.

Sự hung hăng ngày càng tăng của Bắc Kinh trên Biển Đông và áp lực của công luận Việt Nam nhằm khuyến khích khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên biển, đã đóng góp lớn lao vào sự thay đổi này. Nhiều người Việt đã hoan nghênh việc nới lỏng kiểm duyệt, dù một số vẫn cho rằng động thái này còn quá dè dặt và quá trễ để hàn gắn vết thương chiến tranh.

clip_image007

Sẵn sàng chống lại quân xâm lược.

Khi cho đăng những bức ảnh, bài phóng sự và phỏng vấn các cựu chiến binh, các nhân chứng và chuyên gia về cuộc chiến biên giới Việt-Trung, các tờ Thanh Niên, VietNamNet VnExpress không chỉ nhắc nhở đến sự kiện, và còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khắc ghi vào tâm khảm cuộc chiến này.

Dưới sự lãnh đạo độc tài của đảng Cộng sản, dân tộc Việt Nam đã chiến đấu chống lại quân Nhật (1945), Pháp (chiến tranh Đông Dương 1946-1955) và Hoa Kỳ (chiến tranh Đông Dương lần hai, 1955-1975). Tuy luôn ca ngợi các chiến thắng chống ngoại xâm này, Hà Nội lại im lặng về cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba, tức chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979.

clip_image008

Cuộc chiến đấu của người Việt chống lại Nhật, Pháp, Mỹ chiếm một chỗ quan trọng trong những câu chuyện kể; trái hẳn so với những bất đồng với Trung Quốc: sách giáo khoa về lịch sử cho học sinh trung học chỉ dành vỏn vẹn 11 dòng cho cuộc chiến 1979.

Vị trí khiêm tốn đến thế trong những dịp kỷ niệm và các tác phẩm chính thức, như VnExpress ghi nhận, là do nhiều người Việt Nam không hề biết đến cuộc chiến tranh Việt-Trung, đặc biệt là thế hệ trẻ. Một trong những bài báo đăng trên tờ báo mạng về chủ đề trên hôm 21/2 đã thu hút đến trên 500 lời bình. Nhiều độc giả nhờ đó mới biết về cuộc chiến đã cảm ơn các tác giả vì bài báo và các tấm hình đăng kèm, những người khác đòi hỏi phải đưa vào sách giáo khoa lịch sử. Cư dân mạng thường xuyên bày tỏ lòng biết ơn những người đã chiến đấu chống lại Trung Quốc.

clip_image009

Lính xe tăng Trung Quốc bị bắt làm tù binh.

Nếu Nhà nước Việt Nam từ chối tổ chức kỷ niệm (và để cho nhân dân tự tiến hành), thì người ta cho rằng nhằm tránh chọc giận Trung Quốc và không làm phương hại đến quan hệ giữa Việt Nam và người láng giềng khổng lồ. Tuy nhiên, các lễ kỷ niệm chiến thắng trước Nhật, Pháp, Mỹ vốn mang tính dân tộc cao độ, không hề gây tổn hại cho quan hệ giữa Hà Nội và ba cường quốc trên. Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ hiện nay là các đối tác chính của Việt Nam.

Sự im lặng do Đảng áp đặt về cuộc chiến đẫm máu với Trung Quốc đã khiến một số người Việt cho rằng các lãnh đạo Hà Nội thần phục Bắc Kinh. Điều này nuôi dưỡng lòng căm ghét đối với chế độ lẫn Trung Quốc, và ngăn trở hàn gắn vết thương cuộc chiến.

clip_image010

Ảnh bìa báo Time về cuộc chiến biên giới Việt-Trung.

Cuộc chiến Việt-Trung 1979 gây nhiều tổn thất nhân mạng, nhưng vẫn không thể so sánh với những thiệt hại về người và của trong cuộc chiến giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (1,5 đến 3 triệu người chết), và chính quyền Mỹ cũng không hề tránh né.

Hoa Kỳ và Việt Nam chủ yếu đã vượt qua cuộc chiến ngày xưa, nhờ những trao đổi thường xuyên, mang đầy tính biểu tượng giữa các cựu chiến binh. Như một bài báo trên The New York Times năm 2015 đã nhấn mạnh, những cựu binh đã đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc hòa giải giữa hai cựu thù. Về phía Mỹ, cựu ngoại trưởng John Kerry và thượng nghị sĩ John McCain (cựu chiến binh và tù binh) đã hành động rất nhiều để tái lập và cải thiện quan hệ song phương.

clip_image011

Cựu binh Trung Quốc biểu tình phản đối chính quyền Bắc Kinh.

Ngược lại, không hề có trao đổi chính thức nào giữa các cựu binh Trung Quốc và Việt Nam. Trong bài trả lời phỏng vấn báoThanh Niên, một giảng viên đại học Việt Nam cho biết các nhà nghiên cứu hai nước dự kiến đồng tổ chức một hội nghị về cuộc chiến tranh biên giới. Đối với ông, trao đổi giữa các giảng viên đại học và một cuộc tranh luận mở có thể giúp đôi bên thấu hiểu hơn nguyên nhân, và tránh được những cuộc xung đột khác.

Nhiều nghiên cứu đã được viết ra về cuộc chiến này, nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi đặt ra. Làm thế nào hai nước láng giềng anh em mà cách đó vài năm vẫn nói là như những ngón tay của cùng một bàn tay, lại có thể đối đầu với nhau, trong một cuộc chiến tranh được coi là thuộc loại đẫm máu nhất trong thế giới cộng sản?

clip_image012

Trong bối cảnh căng thẳng hiện nay tại Biển Đông, một cuộc đối thoại mang tính xây dựng về các nguyên nhân và hậu quả của cuộc chiến Việt-Trung có thể giúp cả hai bên hiểu rằng, một cuộc chiến đối đầu hiếm khi dẫn đến giải pháp lâu bền cho xung đột.

Nếu Việt Nam và Trung Quốc muốn thực sự xây dựng một quan hệ tốt đẹp và hòa dịu hơn, như nhiều lãnh đạo đôi bên vẫn khẳng định, trước sau gì họ cũng phải đối mặt với quá khứ đau thương. Và nếu sớm hòa giải được với lịch sử, thì quan hệ sẽ bền vững hơn.

(Bài viết của tác giả Xuan Loc Doan đăng trên Asia Times Online ngày 23/02/2017, được Courrier International tuần lễ 9 – 15/03/2017 dịch ra tiếng Pháp. Các ảnh trong bài lấy từ wikipedia và sưu tầm trên internet).

X. L. D.

Nguồn: http://thuymyrfi.blogspot.fr/2017/03/chien-tranh-bien-gioi-viet-trung-1979.html

Nơi nào có “lãnh tụ vĩ đại”, nơi đó nhân dân khổ nạn trùng trùng!

Nơi nào có “lãnh tụ vĩ đại”, nơi đó nhân dân khổ nạn trùng trùng!

Cái gọi là “lãnh tụ vĩ đại” chính là một loại uy quyền tuyệt đối trong cộng đồng nhằm kiểm soát toàn bộ đời sống xã hội: từ văn hóa, kinh tế, quân sự, chính trị đến đời sống dân sinh và tư duy của cá nhân đều bị kiểm soát chặt chẽ, mọi người chỉ có cách duy nhất là phục tùng tuyệt đối, trung thành tuyệt đối người lãnh đạo.

clip_image001

“Lãnh tụ vĩ đại” có thực hiện bốn quyền tự do nền tảng theo cựu tổng thống Mỹ Roosevelt?

Bốn quyền tự do nền tảng theo Roosevelt   

Ông Mao Trạch Đông, cựu lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) từng hứa thực hiện 4 quyền tự do nền tảng theo quan điểm cố Tổng thống Mỹ Roosevelt:

1. Tự do tôn giáo tín ngưỡng (Freedom of Religious Belief)

Một người có thể lựa chọn theo một tôn giáo tín ngưỡng nào hoặc không theo tôn giáo tín ngưỡng. Bất cứ tôn giáo tín ngưỡng nào cũng không thể vì niềm tin của mình mà cấm cản quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng của người khác.

2. Tự do biểu đạt (Freedom of Expression)

Tín ngưỡng phải nhờ biểu đạt để thực hiện. Tự do biểu đạt bao gồm các quyền tự do: ngôn luận, xuất bản, lập hội, lập đảng, biểu tình thị uy, bãi công, sáng tạo, thảo luận.

3. Tự do khỏi nỗi khiếp sợ (Freedom from Fear)

Tương tự như quyền sống, quốc gia không được để cuộc sống của công dân chìm trong nỗi khiếp sợ. Ở đây hàm nghĩa không được phép xâm phạm bất hợp pháp thân thể và tài sản người khác, không được khám xét vô bằng cớ, không được phỉ báng làm nhục người khác.

4. Tự do khỏi đói nghèo (Freedom from Want)

Tương tự như quyền phát triển đời sống, quyền tự do này liên quan đến các phương diện lao động, đi lại, giáo dục, thương mại, văn hóa, nghỉ ngơi.

“Lãnh tụ vĩ đại” tước đoạt 4 quyền tự do nền tảng

Như vậy, “lãnh tụ vĩ đại” có bảo đảm cho nhân dân được hưởng 4 quyền tự do cơ bản này không?

Dĩ nhiên là không, hơn nữa còn ngược lại, “lãnh tụ vĩ đại” và “4 quyền tự do nền tảng” trái ngược như nước với lửa, không đội trời chung, muốn luyện thành “lãnh tụ vĩ đại” thì phải không từ thủ đoạn, phải tước đoạt hết 4 quyền tự do nền tảng này của nhân dân.

Không thể cho phép tự do tín ngưỡng, vì nếu cho phép tự do tín ngưỡng thì liệu có còn “lãnh tụ vĩ đại” không? Muốn có “lãnh tụ vĩ đại” phải xây dựng lý luận tin vào “lãnh tụ vĩ đại”, tin vào trí tuệ siêu phàm của “lãnh tụ vĩ đại”, mỗi câu nói của “lãnh tụ vĩ đại” đều là chân lý. “Lãnh tụ vĩ đại” không chỉ là vua mà còn vượt xa vua, vua không cần thiết mọi người phải ngưỡng mộ, vua trị nước cần nương nhờ vào đạo trời, vua phong kiến (Trung Quốc và những nước ảnh hưởng) nhờ vào lý luận của Nho giáo, vì thế ngay cả Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông cũng không trị quốc bằng tư tưởng/lý luận/chủ nghĩa của mình, họ chỉ cần phục tùng theo chứ không cần ngưỡng mộ, vì bách tính tin theo Phật, tin theo Đạo. Còn “lãnh tụ vĩ đại” muốn nhân nhân ngưỡng mộ mình vô hạn độ. Tín ngưỡng ở đây chính là bản thân “lãnh tụ vĩ đại”, là ngưỡng mộ “lãnh tụ vĩ đại”, vì thế không được tin theo Thần, Tiên, Đạo.

Theo tín ngưỡng Thiên Chúa và Cơ Đốc giáo, trước Thượng đế mọi người đều là tội nhân, mọi người bình đẳng, “lãnh tụ vĩ đại” cũng là người, cũng là tội nhân, dựa vào đâu mà ông ta được phép sở hữu quyền lực tuyệt đối?

Tín ngưỡng Phật giáo cũng xem “lãnh tụ vĩ đại” là người, là một thể xác người ra đời theo nhân duyên, có gì đáng ngưỡng mộ?

Vì thế nếu cho phép những tín ngưỡng này tồn tại thì không còn chỗ đứng cho “lãnh tụ vĩ đại”. Vì mọi người chỉ được ngưỡng mộ, quỳ lễ và ca ngợi “lãnh tụ vĩ đại” nên tự do tín ngưỡng chỉ còn giảm trừ thành tự do ngưỡng mộ “lãnh tụ vĩ đại”.

Nhưng “lãnh tụ vĩ đại” lại không phải thần thánh, quyền lực của ông ta không có tính chính danh do trời đất ban cho, vì thế “lãnh tụ vĩ đại” phải dựa vào vũ lực để duy trì quyền lực mãi mãi. Nhưng ông ta chỉ là một thân xác phàm do cha mẹ sinh ra, thứ ông ta ăn là ngũ cốc lương thực các loại, răng ông ta cũng đen, hơi thở cũng hôi thối, cũng hay bị ợ nấc, cũng bị cảm nhiễm vì vi trùng, cũng chảy nước miếng, buổi tối cũng phải đi ngủ, cũng thất tình lục dục, cũng khó qua ải mỹ nhân… làm sao ông ta có thể đảm bảo luôn công chính được? Ông ta phải dùng cỗ máy quốc gia tuyên truyền ca ngợi ông ta vĩ đại, quang vinh, công chính, không cho phép ai nghi ngờ địa vị tuyệt đối của ông ta, nếu ông ta tuổi thọ vô biên thì sẽ mãi mãi không bao giờ buông bỏ quyền lực. Vì thế, không bao giờ ông ta cho phép cái gọi là phê bình, giám sát, bầu cử, thị uy, bãi công tồn tại trong từ điển của dân chúng. Quyền tự do lên tiếng chỉ còn lại là tự do ca ngợi “lãnh tụ vĩ đại”.

Nhưng trong nhân dân luôn có những người thông sáng và dũng cảm, dám chất vấn “lãnh tụ vĩ đại”. Với những ai nghi ngờ và phê bình, “lãnh tụ vĩ đại” xem là “ngông cuồng phản động”, là “suy thoái biến chất”, vì thế phải diệt trừ hậu họa, phải làm cho cuộc sống của phần tử này chìm trong khủng bố, hoảng sợ. Những ai không tuân phục có thể bị liên lụy đến người nhà, bạn thân, làm cho đa số mọi người phải sợ hãi, nhiều người đành phải im lặng giữ mình. Như thế, quyền bảo đảm an toàn tài sản và thân thể không được pháp luật bảo vệ, chỉ cần bị quy chụp là kẻ thù giai cấp là trở thành tội nhân. “Lãnh tụ vĩ đại” dùng khủng bố vũ lực để thống trị, quyền tự do khỏi nỗi khiếp sợ chỉ thuộc về bản thân “lãnh tụ vĩ đại”.

Sự thống trị của “lãnh tụ vĩ đại” dĩ nhiên phải chuyên chế, cuộc sống xã hội theo đó bị khống chế toàn diện. Ông ta dùng danh nghĩa “quốc gia” tịch thu toàn bộ đất đai, nhà cửa, gia sản của nhân dân, xây dựng nên chế độ thứ bậc tôn ti chặt chẽ và chế độ hộ khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhu cầu đi lại của mọi người, từng chén cơm của mọi người đều nằm trong kiểm soát của quốc gia, biến chân lý “người không làm không có ăn” thành “người không phục tùng không có ăn”, những ai dám chống đối bị liệt vào “phần tử bất hảo”, không thể tìm được nơi ăn chốn ở, chỉ còn cách nằm chờ chết ngoài đầu đường xó chợ. Để làm nổi bật ân đức của “lãnh tụ vĩ đại” cần làm cho muôn dân luôn sống trong đói nghèo cùng cực, có chén cơm là nhờ công ơn của “lãnh tụ vĩ đại”, tương tự như Bắc Triều Tiên ngày nay. Nếu có “tự do thoát khỏi đói nghèo”, quốc dân có đất đai, nhà cửa, tài sản mà “thần thánh không được xâm phạm”, vậy thì “lãnh tụ vĩ đại” làm sao có thể tùy tiện sai khiến, tùy tiện nô dịch nhân dân? “Tự do thoát khỏi đói nghèo” đã bị “lãnh tụ vĩ đại” và giai cấp đặc quyền đặc lợi độc chiếm, đa số nhân dân theo đó bị bần cùng hóa.

Như vậy, “lãnh tụ vĩ đại” đã độc chiếm toàn bộ 4 quyền tự do cơ bản của nhân dân, mọi người bị lùa vào trong cái lồng nô lệ, đây là căn nguyên của khổ nạn.

Tiêu chí quan trọng hàng đầu của lý thuyết chính trị hiện đại chính là hạn chế quyền lực chính phủ, bảo vệ quyền lợi của công dân. Mấu chốt hạn chế quyền lực Chính phủ chính là hạn chế quyền lực của lãnh đạo cao nhất, không cho phép “lãnh tụ vĩ đại” được xuất hiện. Nhưng “lãnh tụ vĩ đại” thì muốn đi ngược trào lưu thế giới, muốn sở hữu quyền lực vô hạn, thu nhỏ tối đa quyền lợi của nhân dân.

Có thể nói, lãnh tụ càng vĩ đại thì nhân dân càng nhỏ bé, lãnh tụ càng vĩ đại thì khổ nạn của nhân dân càng thê thảm.

“Lãnh tụ vĩ đại” đi ngược lại trào lưu tiến bộ của thời đại, vì thế chính ông ta mới thích đáng gọi là phản động!

Theo Facebook Đường Hải (Nguyễn Đoàn dịch)

Nguồn: http://trithucvn.net/blog/noi-nao-co-lanh-tu-vi-dai-noi-nhan-dan-kho-nan-trung-trung.html

XỨ SỞ NÀY NỢ ÔNG ẤY LỜI TRI ÂN

XỨ SỞ NÀY NỢ ÔNG ẤY LỜI TRI ÂN

LS Đặng Đình Mạnh

12-3-2017

Khi đọc những dòng chữ Việt ngữ này, là bạn đang chiêm ngưỡng tác phẩm của các linh mục thừa sai Dòng Tên gồm các cha Gaspar De Amaral, cha Antonio Barbosa, cha Francisco De Pina và cha Alexandre De Rhodes, tất cả họ đều là tác giả của quốc ngữ mà người Việt ta đang sử dụng hàng ngày.

Với linh mục Gaspar De Amaral, cha đã soạn cuốn từ điển Việt – Bồ. Với linh mục Antonio Barbosa, cha soạn cuốn từ điển Bồ – Việt. Với linh mục Francisco De Pina, được cho là cha đã dựa vào cách phát âm tiếng Bồ để chuyển tự ghi chép tiếng Việt khi ông vào Đàng Trong (Từ sông Gianh trở vào Nam). Nhưng các cha đều mất khá sớm, tuy vậy, cùng với một số linh mục khác trong giai đoạn tiên khởi này, các cha đã giúp đặt nền móng đầu tiên cho quốc ngữ Việt Nam.

Với linh mục Alexandre De Rhodes, thì cha đã dựa vào hai công trình từ điển nêu trên và bổ sung thêm phần La tinh để hình thành nên cuốn từ điển Việt – Bồ – La.

Thực tế, chính việc bổ sung phần La tinh của cha Alexandre De Rhodes đã trở thành đóng góp quan trọng bậc nhất giúp hình thành nên chữ viết theo lối La tinh mà sau đó nhanh chóng trở thành quốc ngữ Việt Nam.

Đánh giá về vai trò của linh mục Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh nên quốc ngữ Việt Nam, tờ Nguyệt San MISSI do các linh mục Dòng tên người Pháp quản lý đã từng viết nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, đại lược như sau : “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, cha Alexandre De Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”.

Quả vậy, khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách in quyển từ điển và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại nhà in Vatican – Roma, thì cha Alexandre De Rhodes đã giải phóng cho nước Việt Nam về chữ quốc ngữ.

Bởi lẽ trước đó, tương tự như Nhật Bản và Cao Ly (Triều Tiên), thì người Việt Nam sử dụng lối chữ viết tượng hình, biểu ý của người Tàu hoặc chữ nôm do tự sáng chế và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Cao Ly mới chế biến ra chữ viết riêng của họ, nhưng vẫn không theo cách viết La tinh nên bị hạn chế nhiều. Còn người Nhật Bản thì sau nhiều lần thử nghiệm chế biến lối chữ viết khác, nhưng cuối cùng đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình, biểu ý của người Tàu.

Trong khi đó, chính người Tàu dưới chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông cũng đã từng tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Alexandre De Rhodes, đã tiến bộ trước người Tàu đến hơn ba thế kỷ rưỡi (1651 – 1017 – tính từ năm in cuốn từ điển Việt – Bồ – La đến thời điểm hiện nay.

Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Alexandre De Rhodes khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai Dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, chính cha Alexandre De Rhodes là người hệ thống hóa, hoàn tất công trình làm ra chữ quốc ngữ thành công vào năm 1651, tức là năm mà cuốn tự điển Việt – Bồ – La chào đời tại nhà in Vatican – Roma.

Thế nên, chính tại nhà in Vatican ở Roma là nơi mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình, và chính năm 1651 cũng là năm khai sinh chính thức của chữ quốc ngữ Việt Nam.

Theo đó, chữ viết theo lối La tinh ban đầu được các nhà truyền giáo đặt nền móng cho việc sử dụng trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đến khi được người dân Việt Nam chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, thì mặc nhiên nó đã tự mình được nâng cấp thành chữ quốc ngữ.

Ghi nhận công nghiệp của cha Alexandre De Rhodes đối với xứ sở, năm 1941, một tấm bia kỷ niệm nhân ngày sinh nhật thứ 350 của cha đã được dựng ở gần bên bờ Hồ Gươm trước cửa đền bà Kiệu – Hà Nội. Đến năm 1957, khi Hà Nội thuộc sự quản lý của chính quyền Cộng Sản thì bia đã bị gỡ bỏ.

Chính quyền Sài Gòn cũ đặt tên ông cho một con đường tọa lạc trước mặt Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, đối xứng với phía bên kia là đường Hàn Thuyên, tên danh sĩ được ghi nhận có công phát triển và phổ biến lối chữ Nôm. Sau năm 1975, chính quyền cộng sản đổi tên đường thành Thái Văn Lung và bây giờ thì đã trả lại tên cũ là Alexandre De Rhodes cho con đường này.

Về tiểu sử : Nguyên, cha Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) sinh ngày 15/03/1591 (hay 1593 ?) tại vùng Avignon, miền nam nước Pháp. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn ở vùng Avignon là đất của Giáo Hoàng. Ông gia nhập Dòng Tên tại Roma năm 1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển mạnh mẽ.

Đầu năm 1625, cha Alexandre De Rhodes đến Việt Nam bắt đầu từ Hội An. Cha bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của cha. Nhưng cuộc đời truyền giáo của cha ở đây rất gian nan, trong vòng 20 năm, cha bị trục xuất đến sáu lần. Đến năm 1645, cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Cha mất ngày 5/11/1660 ở Iran, thọ 69 tuổi.

Hiện nay, ở Việt Nam đã từng xuất hiện ý kiến phủ nhận công lao đóng góp của cha Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh chữ quốc ngữ, một trong số họ nêu quan điểm : “Alexandre De Rhodes làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ một lợi ích nhỏ nhoi nào của người Đại Việt cả. Người Việt Nam đã tận dụng chữ quốc ngữ, mà một số cố đạo đã đặt ra, với sự góp sức của một số con chiên người Đại Việt, để làm lợi khí cho việc giảng đạo, thành lợi khí của chính mình để phát triển văn hóa dân tộc, để chuyển tải một cách đầy hiệu lực những tư tưởng yêu nước và những phương thức đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây chẳng qua là chuyện “gậy ông đập lưng ông” mà thôi. [1]

Riêng đối với công chúng, thì :

– Lối chữ viết đã trở thành quốc ngữ của xứ sở với chín mươi triệu đồng bào cả trong và ngoài nước cùng sử dụng;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện những dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ thuở hồng hoang đến nay;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện lời ru “Ầu ơ …” ân cần của mẹ từ ngày sinh ra ta làm kiếp người;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện sự yêu thương giữa những thành viên trong gia đình, giữa những đôi tình nhân, giữa những người tri kỷ …

– Lối chữ viết được dùng thể hiện ca từ những nhạc phẩm bất tử như Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng, Trưng Nữ Vương, Lòng mẹ, Tình ca …

– Lối chữ viết mà dân ta có thể tự hào là riêng biệt trong khi rất nhiều quốc gia khác, kể cả nhiều cường quốc vẫn còn phải vay mượn (Úc, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Ấn Độ, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Đại Hàn …);

Thì người khai sinh của lối chữ viết ấy chắc chắn phải là ÂN NHÂN của xứ sở mình, bất kể đến quốc tịch của họ, bất kể đến tôn giáo của họ và bất kể đến động cơ của họ khi khai sinh lối chữ ấy !

Và với chế độ :

– Lối chữ viết được Ông Hồ Chí Minh dùng để viết lời Tuyên ngôn độc lập khai sinh chế độ;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện Hiến pháp quy định sự độc tôn chính trị của Đảng Cộng Sản;

– Lối chữ viết được dùng trong tất cả mọi sinh hoạt chính trị, hành chính, xã hội, kinh tế, giáo dục, văn hóa …

– Lối chữ viết mà hơn 700 tờ báo của chế độ đang dùng;

– Lối chữ viết mà hơn 24.000 vị tiến sĩ khoa bảng quốc gia đang dùng;

– Lối chữ viết mà hơn 400 trường Đại học, cao đẳng các loại và hàng vạn trường học các cấp đang dùng;

Nhưng lại không mấy ai trong số họ nhắc đến ngày sinh nhật của cha Alexandre De Rhodes, người có công khai sinh lối chữ viết mà nghiễm nhiên đã là quốc ngữ của xứ sở, như là một trong những ân nhân của dân tộc này thì thật là đáng thất vọng !

Tôi tin rằng, xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân !

——————

[1] http://antg.cand.com.vn/vi-VN/ktvhkh/2010/9/73427.cand

Đất & Người Hà Nội- S.T.T.D Tưởng Năng Tiến –

Đất & Người Hà Nội- S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

tuongnangtien's picture

Nếu buộc chỉ được giữ riêng cho mình một bản nhạc Việt thôi, có lẽ, tôi sẽ chọn “Giấc Mơ Hồi Hương” của Vũ Thành (Lìa xa thành đô yêu dấu/một sớm khi heo may về/lòng khách tha hương vương sầu thương/nhìn “em” mờ trong mây khói/ bước đi nhưng chưa nỡ rời/ lệ sầu tràn mi/ đượm men cay đắng biệt ly) dù chưa bao giờ được đặt chân đến “thành đô yêu dấu”!

Có lúc, tôi còn chợt nghĩ thêm rằng: “Nếu sáng mai mở mắt và chợt thấy mình đang đứng giữa Ba Mươi Sáu Phố Phường thì chắc chắn (sau một thoáng ngỡ ngàng) tôi sẽ hớn hở dạo quanh khắp Hà Thành, cứ như một chú cá hồi đang hăm hở tìm về sông xưa, bến cũ vậy.

Và nếu trong số bạn đồng hành có ai vui miệng, chỉ trỏ, liếng thoắng, giới thiệu chỗ này, nơi nọ (Tháp Rùa, Hồ Gươm, Văn Miếu, Chùa Một Cột, Đền Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc, Ô Quan Chưởng, Thành Cổ Loa …) dám tôi sẽ gắt: “biết rồi nói mãi!”

Mà sự thực thì đúng thế. Tui  biết hết trơn từ lâu. Mọi danh lam thắng cảnh ở đất Thăng Long nào có lạ gì. Tôi đều đã xem qua hình ảnh, ít nhất, cũng cả ngàn lần rồi chớ bộ.

Món ngon Hà Hội, tôi cũng đã được thưởng thức (đều đều) qua sách báo, chả thiếu thứ chi: chả cá Lã Vọng, bún chả Thăng Long, bánh tôm Cổ Ngư, bánh cuốn Thanh Trì, phở ghánh Hàng Trống, kem dừa hồ Gươm …

Cho mãi đến hôm nay, khi tóc đã đổi mầu, Hà Thành vẫn là nơi mà tôi ước ao được sống qua những ngày thơ ấu. Đối với một đứa bé sinh trưởng ở Á Châu thì có  nơi nào (và lúc nào) mà cuộc đời rộn rã, tưng bừng và hào hứng hơn ở  Hà Nội – vào một chiều mưa?

Đó là những buổi chiều vàng. Chỉ hình dung ra thôi cũng thấy sung sướng và thích thú đến run người. Coi: già, trẻ, lớn, bé đều hăm hở (và hớn hở) đổ túa hết ra đường với thau chậu, rổ rá, lưới vợt … cầm sẵn trong tay. Vui còn hơn Tết nữa!

Có vụng về lắm thì cũng vồ được một hai ký chớ. Ít nhất thì cũng phải đủ cho một ơ cá rô kho tộ, một tô canh chua cá lóc, và vài con cá chép chiên dòn. Ăn rồi (dám) nhớ cho tới chết!

Ảnh: vnexpress

Ngoài hương vị của thức ăn thanh khiết, phong cảnh hữu tình, và văn hóa nền nã, Hà Nội còn ghi đậm trong trí nhớ của tôi cả trang sách viết về những ngày tháng hào hùng (“ngoài sức tưởng tượng”) nữa. Đọc mà cứ thấy thương mãi những đứa con người dũng cảm của mảnh đất ngàn năm văn vật:

“Ba phát đại bác cách nhau một phút một, ba hỏa pháo xanh tím xanh, tám giờ mười chín phút tối 19-12, tất cả tự vệ chiến đấu bỏ chạy hết, lũ chúng tôi, Tự Vệ Thành mà người ta gọi là Tự Vệ Công Tử, lũ chúng tôi đã khởi đầu cuộc kháng chiến toàn quốc…

Người ta vẫn cho Tự Vệ Thành là chỉ biết ăn diện, mèo chuột, vì đã có tự vệ chiến đấu giữ thủ đô. Nhiều tiếng xì xào bi thử: Tiểu tư sản! Và dư luận khinh miệt chúng tôi đến nỗi chính chúng tôi cũng tưởng rằng chỉ cần nghe tiếng súng nổ, ấy là anh em tự vệ Thành đã kịp chạy lên đến trung tâm an toàn khu ‘lánh nạn’ rồi!

Thế mà khi nghe tiếng súng nổ lại chỉ thấy mặt toàn những thứ tự vệ tóc chải bóng, giầy còn bóng hơn tóc, và nếp quần thẳng tắp như xe chỉ…

Súng rộn lên hơn pháo tết. Cái tết oanh liệt nhất của thành Thăng Long, kể từ tết của vua Quang Trung năm Kỷ Dậu. Chúng tôi giữ thành được hơn 1 tháng, người biến thành chuột, chui rúc, leo trèo, hầm hố, cống rãnh, kẽ ngạch, gầm thang, vừa cố sống vừa chiến đấu.

Chiến đấu! Tiếng hét thất thanh đêm 19-12.

Chiến đấu, tiếng tự nhiên của những tâm hồn can trường, nhưng chiến đấu lại cũng là tiếng ngại ngùng, hỗn hợp, hay có khi sợ hãi, trong những kẽ không ngờ đã biến thành chiến sĩ vào 1 đêm lịch sử. Này cụ Ký già sở Địa ốc, này ông bác sĩ Th trắng, béo tròn, này em học sinh niên thiếu, giữa buổi họp tối 20, dưới hầm rạp ciné hàng Bạc, trong tia mắt mỗi người đều có cả 1 cơn sốt rét. Thế nhưng, nhưng đến lúc phải giơ tay xung phong vào những tiểu tổ liên lạc – liên lạc, trên một chiến trường chưa có giới tuyến rõ rệt có là gì khác sự dấn thân vào chỗ chết?

Những cử chỉ đẹp, xưa nay chỉ đọc thấy trong sách – mà chúng ta vẫn coi là những câu chuyện bịa đặt, nhằm mục đích tuyên truyền giáo lý, những cử chỉ đẹp, đẹp hơn trong sách nữa … đã khiến cho 2 giọt lệ chân thành cảm phục phải đọng trên khóe mắt của một bạn Hoa kiều:

– Dì oai ti! Dì oai ti!

Dì oai ti! Ý ngoại địa, ngoài sức tưởng tượng, người Hoa kiều thốt lên câu nói ấy là phải lắm!” (Nguyễn Kiên Trung. Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử . Sài Gòn: NXB Nguyễn Đình Vượng, 1958)

Nguyễn Kiên Trung là bút hiệu của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Ông sinh năm 1920 và đã mất năm 1979 trong lao tù cộng sản. Những người dân Hà Thành can trường (“ngoài sức tưởng tượng”) như thế hệ của ông, nay,  cũng không còn:

Nhưng người Hà Nội đến lạ! Họ biết Xã Hội Chủ Nghĩa là cái bánh vẽ cực kỳ thối tha mà cứ hớn hở ngồi vào lột lá bóc ăn và xơn xớt khen ngon khen ngọt đến nỗi người ngoài nhìn vào phát thèm.

Họ biết Hồ Chí Minh gian manh xảo trá mà cứ ngoác miệng ngợi ca lúc ông ta còn sống và khóc khô nước mắt khi ông chết. Họ biết bè lũ kế thừa đang đi tiếp con đường của ác quỉ mà vẫn tranh nhau làm tôi mọi, cúc cung tận tụy.

Họ biết lịch sử đang rao giảng là thứ cực kỳ giả dối nhưng học thuộc vanh vách, nếu có ai mạnh dạn đính chính thì phồng mang trợn mắt, cãi cối cãi chầy như sợ mất đi độc quyền làm thân sáo vẹt. Họ nhận quá nhiều đau khổ do độc tài đảng trị nhưng không dám đối mặt với kẻ thù cứ ươn hèn đổ vạ cho phong kiến, cho tư sản, cho địa chủ, cho Mỹ Ngụy, xua con em vào chết ở miền Nam mà không biết đang hiến máu cho hung thần và đang hy sinh cho một thiên đường mù.

 Ngoại trừ một số rất ít sớm thức tỉnh như Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Dương Thu Hương, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc … tôi chưa thấy một tổ chức nào bi phẫn, chưa thấy một đoàn thể nào muốn nắm tay nhau liên kết xuông đường biểu tình, họp mít-tinh  vạch mặt chỉ tên bè lũ tay sai Nga – Hoa, tập đoàn phi nhân bản, phản nhân quyền, bọn bán nước cầu vinh(Vũ Điện Biền. Phiên Bản Tình Yêu. Fall Church, VA: Tiếng Quê Hương, 2013).

Ảnh: Dân Làm Báo

Cái nhìn thượng dẫn của một người cầm bút, xem ra, lại hoàn toàn trùng hợp với nhận định của một người cầm lái – theo như lời kể của Tiến Sĩ Mạc Văn Trang, vào hôm 23 tháng 2 năm 2017 vừa qua:

“Mỗi lần mình đi taxi hay gợi chuyện để anh tài nói cho nghe nhiều chuyện thực tế thú vị. Lần này, anh tài toàn nói lý lẽ…

– Cơ chế này tạo ra cho người lãnh đạo như vua, chức bé thì vua bé, chức to thì vua to; từ HT, chủ tịch phường, xã trở lên, ‘vua’ tất! Chủ trương, quyết định thì từ trên xuống, nhưng tiền bao giờ cũng chảy ngược từ dưới lên, bác biết không? Trên không cho chủ trương, không duyệt sao dưới dám làm? Bác nhìn 2 bên đường xem, nhà mấy chục tầng xây liền nhau san sát thế kia, có quy hoạch thành phố nào như vậy không? Nhưng trên vẫn ký cho dưới làm liều, và tiền chảy ngược lên. Bây giờ xử bắn mấy anh ở Vinashine, Vinaline hay kỷ luật mấy anh liên quan Formosa… chỉ là cái ngọn, để an dân thôi. Cái gốc là người ký chủ trương từ trên cao chứ. Và tiền cũng chảy ngược lên, càng cao càng chảy mạnh chứ… Cho nên nó dột từ nóc dột xuống…

          – Cậu phân tích hay thật. Nhưng liệu dân ta có nhiều người biết được như cậu không?

– Biết hết chứ bác! Dân ta ai chẳng biết chế độ này thối nát thế nào, nhưng không muốn nói ra. Nhất là dân Hà Nội, hèn lắm bác ạ. Cái gì họ cũng biết, nhưng họ sợ, họ ngại không dám thể hiện. Họ muốn thay đổi nhưng chờ ai đó làm giúp, chứ bản thân lại hãi! Dân miền Trung hay miền Nam họ bộc trực hơn, dũng cảm hơn và cũng đoàn kết, có tổ chức hơn.”

Câu nói của ông tài xế taxi khiến mặt tôi đỏ lên vì ngượng. Tất nhiên, tôi không dám ngượng thay cho dân Hà Nội. Cái thứ đàn ông bỏ chạy trong cơn quốc biến, như tôi, và chạy mất dép (luôn) cho mãi đến cuối đời thì còn dám ngượng “thay” cho ai nữa!

Lời nói thiện

Lời nói thiện

Cổ nhân có câu : “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đôi khi, chỉ một câu nói thiện ý có thể giúp người khác đứng dậy đi tiếp, nhưng một câu nói “không thiện ý” lại đẩy người khác đến đường cùng…

Dựa vào cảm nhận, chúng ta sẽ thấy rằng, bất cứ một lời nói nào đều sẽ đem lại những kết quả khác nhauLời tốt đẹp khích lệ người khác sẽ giúp họ làm những việc thiện lành, còn lời nói ác đả thương người lại có thể gây ra những hậu quả khôn lường. Kẻ xấu tạo tin đồn làm hại người khác vẫn tự cho mình là nghĩ được kế hay, nhưng họ đâu biết rằng những gì chờ đợi họ ở phía trước lại là hận thù hay báo ứng.

Ngôn ngữ là cây cầu kết nối giữa người với người, cũng là phương tiện quan trọng để chúng ta nhận thức thế giới bên ngoài. Vậy nên, nếu muốn nói rõ ràng, nói thú vị, làm người nghe vui vẻ hài lòng, dễ nghe lọt tai, thì tâm phải luôn từ bi, nói lời thiện. Như thế chúng ta mới có thể tạo phúc cho mọi người và kết được nhiều thiện.

Miệng người lợi hại tựa như đao kiếm sắc bén. Nhưng miệng thông thường lại chính là thứ dễ tạo nghiệp nhất. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta sẽ gặp không ít người có tài ăn nói, biết cách chuyện trò. Nhưng tiếc là khả năng nếu bị đặt nhầm chỗ, họ lại nói lời chanh chua cay nghiệt, không cho người khác có chút cơ hội để biểu đạt ý kiến.

Trong cuộc sống thường ngày, nếu như ai đắc tội với họ, họ sẽ dùng hết khả năng miệng lưỡi, nghiến răng chửi bới, không ngừng cười nhạo châm biếm, dùng lời ác độc tấn công người khác. Họ sẵn sàng tiết lộ bí mật mười mấy năm hoặc chuyện riêng tư của người khác, làm người ta không còn thể diện, lòng tự trọng bị tổn thương nặng nề, họ sẽ trở nên vô cùng đáng thương…

Tôn Tử cũng từng nói : “Tặng người lời nói, quý như châu báu, hại người bằng lời, hơn cả kiếm giáo”.. Người chân chính sẽ không nói dối, không nói lời ác độc. “Ngồi tĩnh suy nghĩ lỗi của mình, khi rảnh rỗi trò chuyện cũng không nói xấu người khác” – đó không chỉ là việc tu tâm mà còn là của mỗi người trong chúng ta.

Anh chị Thụ & Mai gởi

NỖI ĐAU SẼ KHÔNG DỨT NẾU KHÔNG BIẾT TẠI SAO ĐAU.

From facebook:   Hằng Lê‘s post.
Image may contain: one or more people, people sitting and text

Hằng Lê

NỖI ĐAU SẼ KHÔNG DỨT NẾU KHÔNG BIẾT TẠI SAO ĐAU.

Em học sinh Việt Nam nằm gối đầu lên cặp sách, im lìm như đang ngủ trưa trong một bức hình đăng trên một tờ báo Mỹ. Các nhân viên y tế cứu thương chỉ vì quá thương xót mà tưởng như em còn biết đau nên đặt đầu em cao trên chiếc cặp vậy thôi. Không, em không ngủ trưa, em chết rồi. Em là một trong 32 học sinh trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường, bị VC pháo kích chết lúc 2 giờ 55 chiều ngày 9 tháng 3, 1974. Em bị giết chỉ hơn một năm trước ngày chấm dứt chiến tranh để từ đó dân tộc Việt Nam chịu đựng trong độc tài đảng trị đến hôm nay.

Ai giết 32 em học sinh trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường?

Các em chết vì đạn pháo kích của Việt Cộng. Vâng. Nhưng đa số tuổi trẻ VN sinh ra và lớn lên sau 1975 không biết sự thật đó. Các em chỉ được nhồi sọ về cái chết của “10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc”.

Ngã ba Đồng Lộc thuộc xã Đồng Lộc, Hà Tĩnh, nằm trên con đường chiến lược nối vào dãy Trường Sơn nên trong thời chiến thường bị Mỹ ném bom. Ngã ba Đồng Lộc gắn liền với chuyện 10 nữ thanh niên xung phong bị bom của Không lực Hoa Kỳ ném trúng ngay miệng hầm. Tiểu đội gồm 10 cô gái trẻ. Tất cả đều cùng quê hương Hà Tĩnh và đều chết tức khắc. Người nhỏ nhất là Vũ Thị Hà chỉ mới 17 tuổi.

Ai giết 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc?

Nếu hỏi 100 em học sinh Việt Nam thì đúng 100 em sẽ trả lời do bom của “Đế quốc Mỹ”.

Nhưng nếu không có “Đế quốc Mỹ” rồi 10 cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc và hàng triệu thanh niên miền Bắc vô tội có chết hay không?

Nếu hỏi 100 em học sinh Việt Nam thì đúng 100 em sẽ trả lời “Không”.

Thật ra, không có Mỹ các cô gái thanh niên xung phong đó cũng có thể chết. Nếu không chết tại Ngã Ba Đồng Lộc rồi cũng một ngã ba khác, một con đường khác, một thôn làng Việt Nam khác. Mười phần trăm dân số Việt Nam đã chết để tham vọng CS hóa Việt Nam của lãnh đạo CSVN và Quốc Tế được hoàn thành.

Số phận Việt Nam vốn đã nằm trong sinh tử lịnh của Mao và các lãnh đạo Trung Cộng không chỉ trước Điện Biên Phủ, sau hiệp Geneve, hiệp định Paris, biến cố Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay từ khi đảng CSVN còn đang thai nghén trong nhận thức của Hồ Chí Minh.

Đường lối chiến tranh của Mao trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lê-nin, và phải được thực hiện một cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”.

Đường lối đó chi phối toàn bộ chính sách của đảng CSVN. Quan hệ giữa hai đảng CS có khi nắng khi mưa, khi ấm khi lạnh nhưng đường lối đó chưa hề thay đổi.

Đáp ứng lời yêu cầu của Hồ Chí Minh trong chuyến thăm viếng Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ từ ngày 22 tháng 6 đến 22 tháng 7 năm 1955, các đảng CS đó đã bắt đầu gởi súng đạn ồ ạt đến miền Bắc Việt Nam. Tổng số viện trợ quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác giúp cho Hà Nội là 2 triệu 362 ngàn 581 tấn, trong đó bao gồm một danh sách dài của các loại vũ khí, từ 3 triệu 600 ngàn khẩu súng cá nhân cho đến 458 máy bay chiến đấu và hàng vạn đại pháo, hỏa tiễn nhiều loại.

Tài liệu đó không phải được trích dẫn từ các “thế lực thù địch” hay “thành phần phản động” nào mà là tài liệu của Viện Lịch sử Quân sự Hà Nội.

Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong chiến tranh Việt Nam:

“Mặc dù đang mạnh dần, Trung Quốc vẫn lo ngại sự hiện diện ngày càng mở rộng của Mỹ tại Đông Nam Á. Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã can thiệp một lần nữa. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.

Từ năm 1955 và nhất là từ 1959, khi giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam quyết định mở đường Trường Sơn “giải phóng miền Nam bằng phương tiện võ lực”, số lượng cố vấn Mỹ tại miền Nam cũng chỉ là những nhóm nhỏ và tập trung vào việc bảo vệ và xây dựng căn nhà dân chủ vừa được dựng lên.

Hơn bao giờ hết, các nền dân chủ non trẻ tại Á Châu cần sự giúp đỡ của thế giới tự do. Cũng vào thời điểm đó, các nước Cộng Hòa ở châu Á như Mã Lai, Nam Hàn, Singapore, Đài Loan đang vượt qua quá khứ thực dân hay chiến tranh Quốc Cộng để vươn lên cùng nhân loại. Trên cánh đồng miền Tây nước Việt, trên bến cảng Singapore, trong nhà máy ở thủ đô Seoul, những con người với niềm hy vọng mới đang hăng hái dựng lại căn nhà mới.

Niềm hy vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam vừa lóe lên đã vụt tắt vì đảng CSVN quyết định chiếm Việt Nam Cộng Hòa dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”.

Người bình thường chỉ biết nhìn một biến cố từ hậu quả nhưng người có ý thức phải hiểu tận nguyên nhân, bởi vì mọi việc xảy ra trên đời, mọi sự vật có mặt trên đời đều có nguyên nhân.

Cả 32 em học sinh trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường và 10 người chị Việt Nam của các em chết ở Ngã Ba Đồng Lộc chỉ chết vì một nguyên nhân: Tham vọng CS hóa toàn cõi Việt Nam của lãnh đạo CSVN và CS Quốc Tế.

Dù có Mỹ hay không có Mỹ, dù bằng phương tiện hòa bình hay khủng bố thì chủ nghĩa cộng sản độc tài chuyên chính vẫn phải được thiết lập trên toàn cõi Việt Nam. Mục tiêu đó đã được đóng khung tô màu từ trong đề cương thành lập đảng CSVN 1930.

Do đó, không ai khác mà chính các lãnh đạo CSVN và CS Quốc Tế đích thực là thủ phạm đã giết 2.5 triệu dân Việt Nam trên hai miền Nam Bắc trong đó có 10 cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc và 32 em học sinh tiểu học Cai Lậy, Định Tường.

Giờ phút này, tôi tin rằng, trong căn phòng nhỏ ở Virginia, trong căn gác hẹp ở Paris, Santa Ana, Sydney, Berlin… bên những ngọn đèn heo hút ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, hàng ngàn người Việt Nam quan tâm đến tiền đồ dân tộc vẫn còn canh cánh bên lòng một câu hỏi chưa tìm được cách trả lời trọn vẹn “Tại sao sau 40 năm CSVN vẫn còn tồn tại?”

Bởi vì dân tộc ta yếu hèn, phân hóa?
Bởi vì đảng CSVN còn quá mạnh?
Bởi vì cả hai lý do trên?

Thật ra, dân tộc ta không yếu hèn và đảng CS cũng không quá mạnh, nhưng chính vì các thành phần có khả năng thúc đẩy sự chuyển hóa xã hội không có một nhận thức và tầm nhìn đúng về bản chất của cuộc chiến Việt Nam.

Sau 40 năm, một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam vì bị tẩy não nên chưa nhận ra hay chỉ vì bàn tay dính máu đồng bào nên không đủ can đảm thừa nhận nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến.

Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ không có một cách thích hợp để đẩy chủ nghĩa CS ra khỏi Việt Nam. Và tương tự, không hiểu đúng quá khứ sẽ không có hành động đúng vì tương lai đất nước.

Nỗi đau của dân tộc Việt Nam sẽ không dứt nếu không biết tại sao đau.

Trần Trung Đạo

TỪ KỶ LỤC GÁNH NƯỚC ĐẾN KỶ LỤC BÁN NƯỚC

TỪ KỶ LỤC GÁNH NƯỚC ĐẾN KỶ LỤC BÁN NƯỚC

Phạm Thanh Nghiên

10-3-2017

Từ phát minh…

Hầu hết những phát minh khoa học, những thành tựu thuộc về mọi lĩnh vực của đời sống mà loài người đang thụ hưởng đều là sản phẩm trí tuệ đến từ các nước tư bản.

Người Mỹ phát minh, chế tạo ra tàu ngầm, tàu thủy, thang máy, máy quay đĩa, xe mô tô, quạt điện, xe điện, máy bay, máy giặt, máy điều hòa không khí, radio, tên lửa, tàu vũ trụ, máy nghe nhạc, tivi màu, mạng xã hội.

Người Anh phát minh, chế tạo ra động cơ điện, vaxin trị bệnh đậu mùa, máy bơm nước, máy gieo hạt, máy dệt, động cơ điện, penicillium, rada, động cơ hơi nước…

Người Đức đóng góp cho nhân loại máy in, đồng hồ, nhiệt kế, xe đạp, điện kế, động cơ xe ô tô, động cơ Diesel, la bàn, máy bay trực thăng, kính hiển vi, tên lửa tầm xa…

Người Pháp cũng hãnh diện đóng góp cho nhân loại máy tính (phép cộng trừ), khinh khí cầu, bút chì, máy dệt, ống nghe khám bệnh, chữ nổi, phương pháp khử trùng…

Người Bồ Đào Nha, Nhật, Ý, Hà Lan, Ấn Độ, Phần Lan, Nhật Bản… và nhiều nước tư bản khác đều có những phát minh to lớn, góp phần làm nên một thế giới văn minh, tiến bộ và nhân văn.

Các nước cộng sản thường lên án các nước tư bản là dã man, tàn bạo. Thậm chí bộ máy tuyên truyền cộng sản có thời kỳ còn rêu rao rằng nhiều phát kiến của người Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý… tạo ra đều nhằm phục vụ cho mưu đồ thôn tính các nước khác. Thế nhưng nghịch lý thay, Việt Nam và những quốc gia có cùng thể chế chính trị đều đang sử dụng, thụ hưởng một cách đương nhiên sản phẩm trí tuệ của các nước mà họ chửi là bọn “tư bản giãy chết”. Có lẽ, vì sợ mang tiếng là “thôn tính các nước khác” nên nước CHXH có cái đuôi là Việt Nam phải xếp-hàng- cả-nước đứng sau đảng không thèm phát minh ra cái gì cho dù luôn tự nhận mình là “đỉnh cao trí tuệ của nhân loại”.

Tôi từng nói đùa rằng cả người Mỹ lẫn người Việt đều phát minh ra “bom”. Khác là người Mỹ phát minh ra “bom nguyên tử” còn cộng sản Việt Nam thì phát minh ra “bom bẩn” gồm phân người trộn với dầu nhớt, động vật chết để ném vào nhà những người dân mà họ coi là kẻ thù. Ngoài “bom bẩn”, chế độ cộng sản còn “phát minh” và “sáng tạo” ra nhiều thứ khác mà nhân loại tiến bộ khó có thể hình dung nổi.

Đến kỷ lục…

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa: “Một kỷ lục thế giới thông thường là một thành tựu tốt nhất được ghi nhận lại và được chính thức xác nhận đối với một kỹ năng cụ thể hoặc một môn thể thao nào đó. Cuốn sách Kỷ lục Thế giới Guinness thu thập và công bố các kỷ lục nổi bật thuộc mọi thể loại, từ những cái đầu tiên trong lịch sử, những thành tựu tốt nhất và tệ nhất của con người cho tới những cái nhất của giới tự nhiên và hơn thế nữa.”

Tương tự, các kỷ lục của nhiều quốc gia (nhất là những nước tiến bộ) trên thế giới cũng thường ghi lại những thành tựu nổi bật thuộc mọi thể loại mà họ đạt được. Người đọc có thể dễ dàng tìm trên mạng các kỷ lục thế giới, hoặc kỷ lục trong phạm vi quốc gia cụ thể mà mình quan tâm.

Dò tìm các kỷ lục Việt Nam, vắng bóng hẳn những thành tựu được đánh giá là “tốt nhất” hay “nổi bật nhất” do con người tạo nên. Là một đất nước nghèo nàn, lạc hậu nhưng người ta sẵn sàng bỏ ra rất nhiều tiền của, công sức, thời gian, nhân lực để lập những kỷ lục kệch cỡm, ngớ ngẩn, lố bịch như chiếc bánh chưng to nhất, tô hủ tiếu lớn nhất, chiếc bánh xèo bự nhất Việt Nam. Khả năng sáng tạo hạn chế, bị kìm kẹp cộng thêm thói háo danh, đua đòi, bệnh thành tích đã khiến Việt Nam có những kỷ lục chẳng giống ai.

Một trong những kỷ lục không biết xếp vào hàng “tốt nhất” hay “tệ nhất” mới được trao cho cụ ông Nguyễn Đường ở thành phố Hội An với danh hiệu “người gánh nước thuê trong thời gian dài nhất Việt Nam”. Thông tin về cụ Nguyễn Đường – người lập kỷ lục mới này cho biết năm nay cụ 90 tuổi, sống với vợ là cụ bà Nguyễn Thị Mỹ 88 tuổi và người con bị bệnh tâm thần trong căn nhà chật chội 25m2. Cả hai ông bà đều quê ở Hội An nhưng “trước năm 1975 vào Sài Gòn làm ăn và gặp nhau nên duyên vợ chồng”. Sau khi Sài Gòn – Hòn ngọc Viễn Đông “bị” quân cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm năm 1975, ông bà trở về Hội An và làm nghề gánh nước thuê từ đó đến giờ. Khoảng 10 năm trở lại đây, cụ bà Nguyễn Thị Mỹ “bị bệnh viêm khớp, sức khỏe yếu dần nên đành nghỉ ở nhà”.

Cụ Nguyễn Đường (90 tuổi) và vợ là bà Nguyễn Thị Mỹ (88 tuổi) ở phường Minh An, TP Hội An làm nghề gánh nước thuê. Sáng sớm, cụ Đường với đôi gánh trên vai lại ra giếng Bá Lễ, cách nhà khoảng 50 m đưa nước đến cho khách hàng. Mỗi gánh nước cụ được trả 10.000 đồng, tất cả đều đưa cho người vợ cất giữ để chi tiêu gia đình. Dù cuộc sống nghèo khó nhưng ông bà thương yêu, chăm sóc lẫn nhau. Gánh nước thuê vắt qua hai thế kỷ, cụ Đường được tổ chức kỷ lục Việt Nam cấp chứng nhận: ”Cụ Nguyễn Đường, người gánh nước thuê trong thời gian dài nhất Việt Nam”. Ảnh và ghi chú: Sơn Thủy (VnExpress)

Có lẽ, tổ chức này nên trao cho cụ Đường thêm một kỷ lục nữa là “Người gánh nước thuê già nhất Việt Nam”. Hay trên đất nước này, vẫn còn những cụ ông, cụ bà gánh nước thuê khác già hơn cái tuổi 90 của cụ Đường?

Chính xác hơn nữa, cho đúng với tầm vóc vĩ đại của kỷ lục thì phải đặt tên cho kỷ lục ấy là “Người gánh nước thuê có thời gian dài nhất và già nhất hành tinh”.

Với những người còn mang ước vọng về một đất nước tự do, phồn thịnh, chắc hẳn sẽ không bao giờ vui, hãnh diện về những kỷ lục như thế này.

Nếu kỷ lục cho người gánh nước thuê với thời gian dài nhất được xác lập, có lẽ cũng nên trao danh hiệu tương tự cho các nghề khác như bán vé số, đánh giầy, hát dạo, bán hàng rong… Cả những kỷ lục về làng đói nghèo, làng ung thư mà báo chí đã phản ánh. Để cho bộ sưu tập kỷ lục Việt Nam được phong phú, nên trao kỷ lục cho gia đình hay làng-xã có nhiều người bị giết nhất trong Cải Cách Ruộng Đất. Tết Mậu Thân 1968, biến cố năm 1975 là những giai đoạn lịch sử với những “thành tích” bất tận, thừa khả năng đạt kỷ lục không riêng gì ở Việt Nam mà là Kỷ Lục… Hành Tinh để xứng với tầm cỡ thế giới về tội ác chế độ này đã gây ra.

Và nhớ, khi lập kỷ lục, đừng quên những cựu quân nhân cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Gì chứ về danh hiệu nhiều người bị bỏ tù nhất, đi tù với thời gian dài nhất thì chắc chắn những cựu sĩ quan VNCH không những đạt kỷ lục Việt Nam mà còn phá kỷ lục thế giới ấy chứ.

Kỷ lục về “người gánh nước thuê có thời gian lâu nhất Việt Nam” đã được xác lập. Nhưng kỷ lục này khó mà có được nếu đất nước không có nhiều kẻ đã “gánh nước đi bán” và làm hoang tàn mảnh đất lắm người nhiều ma này để cụ già 90 tuổi “bị” vinh danh vào kỷ lục trần ai.

Do đó, còn một kỷ lục khác không thể không bình bầu, không thể thiếu vắng trong kỷ lục toàn hành tinh. Đó là “Kỷ lục dành cho người gánh NƯỚC đi BÁN”. Hay tóm gọn: “Kỷ lục BÁN NƯỚC”.

Kỷ lục này nên dành cho ai nhỉ?

Các bạn cùng bình chọn nhé.

THĂM CHA BỬU DIỆP

THĂM CHA BỬU DIỆP

Về thăm miền đất Bạc Liêu

Quê hương sông nước phì nhiêu ruộng đồng

Miền Tây đất ấm tình nồng

Con người chân thật, sông hồng phù sa.

 

Về đây nhớ thuở ông cha

Dày công mở cõi bao la đất trời

Cửu Long về với biển khơi

Người đi đi mãi xa xôi cuối trời.

 

Về nghe gương sáng rạng ngời

Cha Trương Bửu Diệp một đời hy sinh

Vì giáo dân sống quên mình

Chết đi minh chứng ân tình chủ chăn.

 

Ngài quê Cồn Phước, An Giang

Sống thời ly loạn gian nan khốn cùng

Một thời Tây – Nhật tranh hùng

Nhập nhằng đảng phái vẫy vùng đấu tranh.

 

Cha sở Tắc Sậy nhiều năm

Dựng xây họ đạo xung quanh cũng nhiều

Một lòng hết sức thương yêu

Đàn chiên tan tác tiêu điều ngả nghiêng.

 

“Tôi đây sống giữa đàn chiên

Nếu mai có chết tất nhiên giữa đàn

Chẳng đi đâu, chẳng về đâu”

Một lời cam kết cho đầu máu rơi.

 

Cho đàn chiên được sống đời

Cho thân ngã xuống cho trời thêm hoa

Dâng lên Chúa trước ngai tòa

Hương thơm lan tỏa trong ngoài nước Nam.

 

Về đây thấy nỗi hân hoan

Bừng lên trong ánh mắt đoàn hành hương

Người về từ khắp bốn phương

Ân cần tưởng nhớ khói hương lòng thành.

 

Người xưa lưu dấu hùng anh

Nhọc nhằn mở đất để dành mai sau

Hôm nay đã thấy tươi màu

Đất lên tiếng hẹn sẽ mau ngày mùa.

 

Đất buồn Tắc Sậy năm xưa

Ngày vui mở hội như chưa bao giờ

Trung tâm truyền giáo, nhà thờ

Mộ nằm thâm thấp đời chờ người thăm.

 

Tinh thần mở cõi phương Nam

Con tàu Giáo Hội vững vàng ngược xuôi

Trong gian nan ngước lên trời

Nhớ cha Bửu Diệp nhớ đời hy sinh.

 

Ngày 12/3/2017

Kính nhớ ngày lể giỗ cha FX Trương Bửu Diệp

Nhà Quê

From:VÒNG TAY SONG NGUYỀN

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

httpv://www.youtube.com/watch?v=jPH4TbYCMv0

Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui – Khánh Ly

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 2 mùa Chay năm A 12/3/2017

 “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”

Chọn những bông hoa và những nụ cười

Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy

Để mắt em cười tựa lá bay.

(Trịnh Công Sơn – Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui)

(2P 2: 8-9)

Trần Ngọc Mười Hai

Chọn niềm vui? Việc ấy, vẫn còn tuỳ. Tuỳ bạn, tuỳ tôi, tuỳ mọi người. Và như thế, sẽ thấy vui như mọi ngày. Nói chữ “tuỳ” là bởi: ai cũng muốn cho mình vui tươi hơn bao giờ hết. Bởi, một khi mình đã vui rồi, mới có thể làm cho mọi người đều vui lây.

Tuy nhiên, chọn hoặc muốn là một chuyện. Còn, sự thật có xảy ra giống như thế hay không, lại là chuyện khác. Chẳng thế mà, bạn bè/người thân muốn cho mình/cho người được vui tươi đến như thế, nên đã gửi cho bần đạo đây một “xác quyết” để đời, như sau:

“Tôi vừa đọc một cuốn sách cũ, tôi đã học được nhiều bài học sâu sắc. Tôi cảm thấy nó là cách rất tốt để mọi người có thể sống một cuộc đời ít phiền muộn. Chính vì vậy, tôi muốn chia sẻ đôi điều mà tôi đã học được từ cuốn sách ấy với mọi người..!

   1.   Sự thanh tịnh nằm ở trong tâm

Cả đời làm việc, đến cuối cùng chỉ muốn bản thân được an nhàn để hưởng thụ cuộc sống. Bạn luôn muốn tìm kiếm sự thanh tịnh ở bên ngoài trong khi bạn không phát hiện rằng nó là cái mà ai cũng có thể đạt được mà chỉ cần lấy ra từ trong tâm. Nếu tâm của bạn bớt tham sân si, bớt ganh đua, ghen ghét… thì tự khắc bản thân sẽ thấy thật thanh thản và thấy đời bỗng nhẹ nhàng làm sao.

 2.    Tức giận chỉ là một cục than hồng có thể làm đau người khác, nhưng người bị bỏng đầu tiên chính là bản thân bạn.  Sẽ có lúc bạn cáu gắt với mọi người nhưng bạn đâu ngờ điều đó lại làm hại chính bản thân mình. Đừng bao giờ nói bất kì câu gì khi bạn tức giận. Người ta thường nói: “Giận quá mất khôn”. Tôi nghĩ điều đó rất đúng, bởi tôi đã từng đánh mất một người bạn của mình chỉ vì nói ra những lời nặng nề kinh khủng khi bạn đó không làm tôi vừa ý. Lúc đó, tôi làm tổn thương người ấy để bây giờ tôi đánh mất một người bạn thân.

    Tha thứ cho người khác, hóa ra là đang “cởi trói” cho chính mình”   Sự tha thứ không phải là những điều mà chúng ta làm cho người khác, mà chúng ta làm cho chính chúng ta đấy thôi.”    Câu chuyện 1: Bao khoai tây “oán…

  1. Suy nghĩ sẽ định hình con người bạn

Chúng ta nghĩ thế nào thì con người chúng ta như thế ấy. Bạn nghĩ bạn vô dụng, chắc chắn bạn sẽ không bao giờ làm nên trò trống gì vì bạn chẳng thèm hành động. Bạn nghĩ bạn thông minh, dĩ nhiên bạn sẽ thông mình vì tự bản thân sẽ biết cách tạo nên điều đó. Chỉ cần suy nghĩ tích cực thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi! Do đó, cuộc sống cũng sẽ ít buồn phiền, vì lúc nào bạn cũng cố biến mọi thứ bạn gặp phải trong cuộc sống thành niềm vui riêng cho mình.

  1. Biết người là thông minh, biết mình là sự giác ngộ

Chiến thắng bản thân còn hơn là chiến thắng cả ngàn trận đánh. Đó là một bài học sâu sắc mà ai cũng cần biết. Tự chinh phục tâm chính mình chính là ải lớn nhất mà con người phải trải qua. Do đó, chúng ta phải tập thiền định để hiểu về chính bản thân mình. Biết được bản thân thích gì, làm gì để thỏa mãn nó chính là cách để bạn sống vui hơn mỗi ngày. Đừng tưởng đây là điều dễ thực hiện vì có người đã mất cả đời chỉ để làm điều này thôi đấy! Chính tôi cũng là người sẽ phải rèn luyện nhiều trong thời gian tới.

 5. Thay thế đố kỵ bằng ngưỡng mộ

Còn đố kị thì tâm bạn sẽ còn buồn phiền. Thay vào đó, chúng ta nên đón nhận sự thành công của người khác bằng sự ngưỡng mộ. Tâm bình thản rồi lấy cái tốt của người khác để làm gương sẽ khiến bạn dễ dàng phấn đấu mà không có sự căm phẫn. Đố kị chỉ làm lòng người thêm nhơ bẩn, thậm chí vì đố kị con người có thể biến chất, trở thành người chuyên làm những hành động xấu xa mà đôi khi chính bản thân mình cũng không ngờ tới.

Lời nhắn nhủ từ tận đáy lòng của phụ nữ tuổi 40 gửi phụ nữ tuổi 30: Ai cũng nên đọc để không phải tiếc nuối Lời nhắn nhủ từ tận đáy lòng của phụ nữ tuổi 40 gửi phụ nữ tuổi 30: Ai cũng nên đọc để không phải tiếc nuối.

 Năm nay, tôi đã bước sang cái tuổi 40. Hiện nay, tôi có hai con nhỏ và rất tự hào về gia đình và tình hình tài chính bản thân mình. Sau một khoảng thời gian sống ở đời, đối diện với những được, mất, thắng, thua, tôi đã tích góp được rất… 

  1. Nhân từ với tất thảy mọi người

Luôn luôn nhẹ nhàng với trẻ con, yêu thương người già, đồng cảm với người cùng khổ, nhân từ với kẻ yếu thế và người lầm lỗi. Một lúc nào đó trong đời, bạn sẽ rơi vào những hoàn cảnh đó. Động lòng trắc ẩn với mọi người, kẻ giàu cũng như người nghèo; ai cũng có nỗi khổ. Có người chịu khổ nhiều, có người chịu khổ ít.

 Nhân từ để yêu thương và đồng cảm với họ. Vì mỗi người có một nỗi khổ riêng chỉ có họ mới thấu. Bởi vì bạn luôn nhìn người bằng con mắt nhân từ nên đời bạn sẽ luôn đẹp. Mọi thứ đều hoàn hảo. Tâm can được thanh lọc bởi những hành động mà bạn dành cho người khác.

 7.  Tùy duyên

“Bàn tay ta vun đắp, thành bại thuộc vào duyên, Vinh nhục ai không gặp, có chi phải ưu phiền”

Bài học sâu sắc cuối cùng mà tôi đã học được chính là để mọi thứ tùy duyên. Như nhà sư đã nói, cái gì của mình thì nó sẽ thuộc về mình, còn cái gì không phải thì nó mãi mãi sẽ không thuộc về mình. Vì vậy, nếu muốn nắm bắt gì đó, đặc biệt là tình yêu thì hãy để tùy duyên.

Bạn có thể cố gắng theo đuổi nhưng có lúc bạn cũng phải biết buông bỏ nếu mọi chuyện đã quá giới hạn và không còn khả năng cố gắng. Cứ nắm giữ chỉ làm bạn đau khổ rồi vấn vương muộn phiền sẽ là điều không thể né tránh. Tâm sẽ nhẹ nhàng nếu bạn để mọi thứ tùy duyên. Đó là cách để bạn có thể chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn. 

Hãy sống như hôm nay là ngày cuối cùng. Tôi đã làm được 4/7 điều rồi và thấy đời mình nó cũng thanh thản đi bớt phần nào. Đặc biệt, tôi thích nhất là điều cuối cùng. Tôi cũng mong rằng những điều này sẽ giúp ích cho bản thân mỗi bạn..!” (Bài viết bè bạn gửi qua mạng, mới đây thôi)

Tuỳ duyên/buông bỏ, đó là câu chuyện đời ở ngoài đời. Còn, chuyện đạo của các vị đi đạo thì sao? Trả lời cho vấn-nạn này, tưởng không dễ. Giống như thể, mới đây thôi, bần đạo đọc được bản tin đăng trên báo điện mang tên là MercatorNet có bài viết, rất như sau:

Những năm gần đây, một số người Công giáo lại để mình đắm chìm trong nỗi đắng cay đến độ họ chẳng nói điều gì hay ho về Đức Giáo Hoàng Phanxicô đương-nhiệm. Mỗi bài diễn-thuyết, mỗi sáng kiến tư riêng, mỗi khi bổ nhiệm ai đó, Ngài đều xem xét kỹ để giúp họ coi lấy đó là bằng-chứng xác-nhận tính bê-bối/bội-bạc này khác. 

Thế đó, còn là tình-huống khá ngoại-thường. Các Kitô-hữu ở trời Tây, đăc-biệt là Giáo hội Công-giáo, đang bị áp-lực nặng nề từ chủ-thuyết trần-tục thực hung-hãn. Dấu-hiệu chống-trả lại chủ-thuyết này mạnh nhất là từ Đức Giáo Hoàng Phanxicô và một số vị đạo-đức đã nổi dậy. Hãy tưởng-tượng mà xem đội binh Hoa kỳ trong trận chính ở Bulge khi họ bị vây hãm tứ bề và cuối cùng cũng bị kiệt sức. May có Patton kịp đến cứu vãn tình-thế. Ông ấy đến gần càng lúc càng gần những người tham-gia cuộc chiến ấy. Mọi người cứ tưởng ông sẽ hành-xử cách thông-thường, nhưng ông lại đi thẳng gia-nhập nhóm binh hùng/hảo tướng người nước Đức, thế mới lạ. 

Sau gần 4 năm trời tại chức, Đức Phanxicô lại đã chứng-kiến rất nhiều lời phàn nàn ở các nơi hệt như 95% hầu hết các lời lẽ cùng ý-kiến mà chính Luther cài đặt vào cánh cửa của Thánh Đường Các Thánh Nam Nữ ở Wittenberg. Những lời này, là từ những người được chính ông rửa chân cho vào Thứ Năm Tuần Thánh, để rồi chân họ cũng liên-quan đến các vấn-đề như hiện giờ về phá-thai, để rồi các vị bèn trả lời “Tôi là ai mà lại dám kết-án” hệt như khi phê-phán về chuyện đồng tính luyến ái, nổi lên vào lúc ấy. 

Chuyện nổi cộm hôm nay liên quan đến đoạn văn trong tông-thư “Amoris Laetitia” bàn về các vị đã ly-thân/ly-dị nay có được phép Rước Mình Chúa không?… 

Chuyện ly-thân/ly-dị nay đã thành chuyện thường ngày rồi, thế mà một số tín-hữu Công-giáo không nhỏ, vẫn không hề biết là Giáo-hội của họ từng cấm-đoán chuyện ly-dị. Một số vị khác, lại cứ tranh-cãi biện-luận rằng đám cưới lần đầu của họ từng có hiệu-lực, không cần biết các linh-mục nói gì đi nữa. Một số khác, lại cũng chẳng biết gì về thần-học Hoà-giải và Hiệp-thông Rước Mình Máu Chúa, hết… 

Kết quả là, một số khá lớn người Công giáo chẳng nhận được sự giúp đỡ về mặt linh-đạo từ Giáo-hội của họ. Vì thế nên, con cái họ vẫn không được rửa tội và rõ ràng thấy mình bị bỏ rơi. Và, tín-thư vốn được Đức Phanxicô chuyển đến, như thể bảo: “Không! Các anh/chị không bị tống khứ khỏi Hội thánh đâu. Ta hãy tìm cách giải-quyết vấn-đề này mà không cần hy-sinh/nhượng-bộ các giáo-huấn của Hôi-thánh.” Nhưng đó mới là chuyện khó. Giả như những người như thế vẫn được phép rước Mình Máu Chúa, dù muốn dù không hay sao đó, thì như thế có nghĩa là Giáo-hội vẫn chấp-nhận ly-dị và không còn tin vào tính-cách thánh-thiêng của việc Hiệp-thông Rước Lễ nữa.

 Điều mà Đức Phanxicô đề-nghị trong tông-thư “Amoris Laetitia” là các linh-mục và Giám-mục phải dẫn dắt mọi người một cách tế-nhị trong việc leo lên ngọn đồi sự thật. Phương-án ngài đưa ra không có nghĩa lỏng lẻo  đặt nặng đến lương-tâm riêng rẽ trên cả luật luân-lý, nhưng về mục-vụ cốt dẫn đưa mọi người hiểu rõ, cảm-kích và cuối cùng biết yêu thích luật đạo-đức, luân-lý. Thật sự ra, thì mọi người đều muốn được sáng-tỏ về chuyện làm sao tháp đặt phương-án đầy lòng trắc ẩn này… 

Chuyện bi-đát, là: cuộc tranh-luận này đang làm tắt ngúm lòng nhiệt-huyết của một số bộ-phận gồm các người Công-giáo có học cũng đạo đức/sốt-sắng với việc tái Kitô-hoá xã-hội. Từ những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ Giáo hoàng mình, lịch-trình mà Đức Phanxicô đặt ra cho ngài là: tái-Phúc âm-hoá chốn sa-mạc linh-đạo của người phương Tây. Trong tông-thư “Niềm Vui Tin Mừng” ngay sau khi đắc cử vào năm 2013, những lời rằng: 

“Tôi mơ về một “chọn-lựa mục-vụ”, đó là: sự thôi-thúc mục-vụ khả dĩ thay-đổi được tất cả mọi sự để rồi các thói quen của Giáo-hội, đường lối đối xử với các sự việc, thời-gian và chương-trình, ngôn-ngữ và cơ-cấu có thể hướng tới một cách thích-hợp với việc Phúc-Âm-hoá thế-giới hôm nay hơn là bao-quản chính Giáo-hội… Như Đức Gioan Phaolô Đệ II từng nói với các Giám-mục thuộc Châu Đại Dương hôm ấy rằng: Tất cả mọi cuộc cải-tân trong Hội thánh đều có sứ-vụ như mục-tiêu đặt ra nếu nó không thành con mồi cho một thứ thu mình vào bên trong Giáo hội.” 

Đây kìa, hãy xem “sự việc thu mình vào bên trong Giáo-hội” đang miệt mài quay trở về, ít là trên mạng vi-tính. Một lần nữa, một số người Công-giáo tốt lành và sáng chói đang tự nhìn vào bên trong, tự coi mình như cái rốn vũ-trụ, đang trở-thành cơ-quan kiểm-duyệt, bắt bẻ cả những chuyện nhỏ và lại có thành-kiến nữa. Và, Đức Phanxicô đã thấy trước điều này khi ngài viết tông-thư Niềm Vui Tin Mừng, có những câu sau đây: 

“Một trong các cơn cám-dỗ nghiêm-trọng nhất đang kềm-chế lòng quả-cảm và sốt-sắng đó là tính chủ-bại vốn đưa ta trở-thành những người bi-quan, cáu-kỉnh và vỡ mộng, “bẳn gắt”. Không ai có thể rời khỏi trận-chiến trừ phi người đó hoàn-toàn được thuyết-phục trước là mình sẽ chiến thắng…” 

Giống như nhà vô-thần hay bẳn gắt như Richard Dawkins từng tiên-đoán về “cái chết thật sự của tôn-giáo có tổ-chức hẳn-hòi” trong đời ông, thì việc tái-Phúc-âm-hoá ở thế giới trời Tây lâu nay luôn là công việc khá gay-cấn. Điều đáng tội là những người chỉ-trích Đức Giáo Hoàng đang làm mọi sự để vô-hiệu-hoá kế-hoạch của chính họ.” (X. Michael Cook, The Pope is a heretic? You can’t be serious!”,MercatorNet 05/12/2016)  

Xem thế thì, hỏi rằng Đức Phanxicô có bao giờ biết đến bài hát vừa trích-dẫn, lại có ca-từ tiếp nối hát như sau:

“Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi

Đường đến anh em đường đến bạn bè

Tôi đợi em về bàn chân quen quá

Thảm lá me vàng lại bước qua.

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Cùng với anh em tìm đến mọi người

Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát

Để thấy tiếng cười rộn rã bay.

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.

Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi

Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời

Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới

Để lúa reo mừng tựa vẫy tay.

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi….”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

 Ca-từ dọi lại nhận-định trên, khiến người đọc như tôi/như bạn hẳn sẽ liên-trưởng đến lời vàng bậc thánh-hiền khi xưa từng bảo:

“Quả vậy, người công chính sống ở giữa họ,

mắt thấy tai nghe những hành vi phi pháp

ngày ngày xâu xé tâm hồn công chính của ông.

Như thế Chúa biết cứu những người đạo đức khỏi cơn thử thách,

và giữ những kẻ bất chính để trừng phạt vào ngày phán xét…”

(2P 2: 8-9)

Và như thế, trong cuộc đời của mỗi, có thể mỗi người và mọi người sẽ có chọn lựa riêng cho chính mình, để còn sống. Hệt như nghệ sĩ khi xưa từng tỏ bày lập trường mình bằng ca-từ như sau:

“Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên

Nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình

Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống

Vì đất nước cần một trái tim !

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời.”

(Trịnh Công Sơn – bđd) 

Cùng với nghệ-sĩ họ Trịnh ở trên, đề nghị bạn và tôi, ta đi vào cùng trời truyện kể để sẽ thấy đời mình cũng không đến nỗi bi-quan, bi-đát như mọi người tưởng, vì “mình vẫn sống vui từng ngày”, với nụ cười trên môi khi nghe kể những truyện, từ tựa sau đây:

“Truyện rằng,

Có hai anh chàng thanh niên sống ở nhà quê cùng rủ nhau lên tỉnh thành lập nghiệp vì họ thấy rằng cuộc sống ở quê nhà chỉ vừa đủ ăn không dư giả. Sau thời gian dài phấn đấu hơn 30 năm ở tỉnh thành, hai người đã tạo lập được một cuộc sống sung túc về vật chất. Anh A trở thành chủ một hãng xe đò, anh B có hơn 2/3 cổ phần trong một nhà máy dệt. Vì là bạn nối khố từ nhỏ nên sau khi thành công trên đường sự nghiệp, hai người vẫn tiếp tục chơi thân với nhau. 

Một hôm, hai người bỗng nảy ra ý định trở về quê nhà nơi họ chôn nhau cắt rốn, trước là để thăm lại đình làng bé nhỏ trước kia, sau là để thực hiện giấc mộng hồi hương áo gấm về làng như những quan Trạng ngày xưa. 

Khi xe hơi chở họ về đến đầu làng, cả hai cùng rủ nhau xuống đi bộ vừa ngắm cảnh vừa chuyện trò. Đến trước đình làng, hai người gặp một ông lão mặc áo trắng, tay cầm chiếc phèng la. 

Anh A cất tiếng hỏi:

– Ông lão ơi, ông đang làm gì vậy?

Ông lão điềm nhiên trả lời:

– Ta là Thành hoàng giữ phúc phần cho làng này, ngoài việc giữ yên ổn cho dân làng, ta cũng cai quản vấn đề sinh tử của mọi người nữa.

Ta đến báo cho hai người biết là mạng sống của các ngươi chỉ còn ba ngày. Ba ngày sau ta sẽ đến đón hai người về cõi âm. Khi ta nổi một hồi phèng la thì hai người phải đi theo ta để về trình diện ngài Diêm Vương mà không được chậm trễ. 

Nói xong, ông lão biến mất, để lại hai anh chàng đứng ngẩn người như ngây như dại. Thử tưởng tượng ngày áo gấm về làng cũng là ngày biết được cuộc đời chỉ còn ba ngày cuối cùng thì ai không đâm ra hoảng hốt. 

Anh A thấy rằng cuộc đời nhạt nhẽo không còn gì gọi là thú vị, 30 năm phấn đấu để cuối cùng đổi lấy cái chết cận kề trong khoảnh khắc. Về đến nhà anh ta ăn không ngon, ngủ không yên, mà cũng chẳng lo sắp xếp được gì cả. Đến lúc bấy giờ anh mới nghiệm ra rằng dù tiền bạc có nhiều ức vạn đi nữa cũng không thể nào đánh đổi được sinh mạng đáng quý. 

Chưa đến ba ngày thần sắc của anh bơ phờ như một thây ma, mặt anh đầy những vết nhăn, râu ria mọc lún phún, cặp mắt thì đờ đẫn thất thần. Ngày thứ ba anh thức dậy thật sớm, lựa ra bộ đồ sang trọng đắt tiền nhất mặc vào người và đứng trước cửa đợi lão tử thần đến rước. 

Chiều tối hôm đó, quả thật anh thấy ông lão mặc áo trắng, tay cầm phèng la ngày hôm trước xuất hiện. Ông lão chưa kịp gióng lên hồi phèng la thì anh A đã lăn đùng ra chết. Vì quá khẩn trương nên ba ngày cuối cùng cuả anh đã mỏi mòn trong sự chờ đợi, do đó khi thấy thần chết xuất hiện là anh xuất hồn đi theo ngay lập tức. Trở lại phần anh B, sau khi nghe vị thần chết tuyên bố bản án tử hình, anh cũng thấy mủi lòng. 

Thế nhưng tánh tình của anh B vốn rất an phận, anh nghĩ rằng nếu như số mạng của anh có đi đến chỗ chấm dứt thì không có cách nào thoát được. Vì nghĩ như vậy nên anh mang tất cả tiền bạc đã tạo dựng trong 30 năm ra làm của bố thí. Trước hết anh cất một trường học ở quê nhà để giúp cho trẻ em nghèo khổ có nơi học hành. Sau đó, anh giao tiền cho quý vị hội đồng xã xây dựng một bệnh xá nhằm giúp những người dân quê không có tiền lên tỉnh thành trị bệnh. 

Của cải còn lại, anh mang ra phụ giúp việc xây đường, dựng cầu mang lại tiện ích cho cuộc sống của người dân thôn dã. Anh cũng trích ra một phần để giúp đỡ những gia đình đông con không đủ sống đang cần sự trợ giúp tức thời. 

Những công việc này đã tốn hết thời gian ba ngày của anh. Anh B không còn thì giờ để nghĩ đến cái chết sắp sửa xảy ra cho anh nữa. Những người dân nghèo khổ trong làng đột nhiên nhận được một sự bố thí lớn lao nên họ rất lấy làm cảm kích. Những người được sự giúp đỡ đó đã tỏ lòng biết ơn của họ bằng cách tổ chức một buổi hát bội ngoài trời, trước là để tạ ơn thần, sau là để tri ân nhà mạnh thường quân tốt bụng.

 Đoàn múa lân của trẻ em trong làng đã đến trước nhà anh B tưng bừng múa giúp vui. Khi mọi người đang hoan hỉ đứng xem thì ông lão tử thần xuất hiện vì đã đến giờ ông ta đến đón anh B về âm phủ. Thế nhưng không khí trước nhà anh B lúc đó quá vui nhộn cho nên mọi người, kể cả anh B, cũng không chú ý đến sự xuất hiện của nguời lạ mặt này. 

Thậm chí có một chàng trai trong làng thấy ông lão tay cầm phèng la đã tưỏng nhầm ông là một thành viên của đoàn múa lân nên kéo ông ta sắp vào hàng ngũ những người đánh trống thổi kèn. Ông già tử thần gióng thêm một hồi phèng la gọi hồn, thế nhưng vì không khí đang huyên náo cho nên tiếng phèng la của ông bị tiếng trống múa lân át mất. 

Ông già tử thần cố gắng thử thêm ba lần nữa cũng chẳng ai thèm chú ý đến. Vì đã đến giờ nên ông buộc lòng phải ra đi. Anh B suốt đêm hôm đó được dân làng đãi đằng ăn uống thật thịnh  soạn. 

Dân chúng trong làng lâu nay mới có một dịp cùng nhau vui vẻ cho nên ai ai cũng liên hoan cho đến sáng. Sáng ngày hôm sau anh B cứ tiếp tục thực hiện những công việc dở-dang mà anh sắp xếp để phục vụ cho dân trong làng. 

Công việc bận rộn liên tục đã khiến anh quên khuấy mất cái hẹn ba ngày của ông Thành hoàng. Mãi hai ba hôm sau khi sực nhớ lại, anh lấy làm lạ tại sao đã quá kỳ hạn mà không thấy thần chết xuất hiện. Anh đâu biết rằng ông lão có đến nhưng không ai thèm nghe hồi phèng la của ông nên đã buộc lòng phải bỏ đi. Nhờ vậy mà anh B mới còn tiếp tục sống dài dài ra đó. 

Lời bàn của người kể truyện: “Đây là một câu chuyện ngụ ngôn rất có ý nghĩa, nói lên chân lý cuộc sống của con người là phải phấn đấu từng giây mãi cho đến phút cuối của cuộc đời. Xu hướng tiến lên sẽ đưa ta đi về đâu? Dĩ nhiên là ta sẽ đi đến chỗ ta hằng mong muốn. Phật giáo đồ sẽ đi đến thế giới Cực Lạc, những con chiên Thiên Chúa giáo sẽ lên Thiên Đàng. 

Tôi thường đặt câu hỏi với nhiều người như thế này: “Nếu như biết rằng cuộc sống của ta chỉ còn đúng 60 giây đồng hồ thì quý vị sẽ có một sự lựa chọn gì trước khi nhắm mắt?” Phần đông những người được tôi hỏi câu này đều đâm ra lúng túng không biết phải trả lời như thế nào. Hai phần ba trong số đó cho tôi câu trả lời sẽ chẳng chọn lựa hay suy nghĩ gì cả. Lý do là quá ngắn ngủi, không đủ cho họ chuẩn bị. Nhiều người chấp nhận sự việc đếm từng giây phút đi qua mà thôi. 

Riêng tôi thì có hai sự lựa chọn, một là mặt mày rầu rỉ để chờ đợi tử thần, hai là mỉm cười đón nhận phút cuối của cuộc đời. Thử nghĩ, nếu như quý vị mỉm cười, bình thản ra đi thì những người thân đưa tiễn quý vị chắc chắn sẽ nhẹ bớt phần nào nỗi đau buồn, ít ra họ cũng biết rằng quý vị đã ra đi một cách bình yên không lo sợ.  Ngay giây phút đó, biết đâu nhân sinh quan của quý vị sẽ thay đổi hẳn và sẽ cảm thấy một sự giải thoát nhẹ nhàng. 

Đời nhà Đường bên Trung Hoa, có nhà sư Nguyên Hiểu đã nói rằng: “Tận dụng hết mọi nỗ lực của con người cũng không thể nào chặn đứng sự héo úa của một cành hoa, vậy thì trong khi đóa hoa đang dần dần héo úa, ta hãy ung dung ngắm nhìn và thưởng thức giây phút cuối cùng của cành hoa đó đi.” 

Sự suy nghĩ và cảnh giới giác ngộ của nhà sư này quả thật đã lên đến một mức độ thượng thừa. Nếu như tận dụng hết mọi nỗ lực vẫn không thể nào chặn được sự thất tình, thì trong lúc thất tình ta hãy ung dung gặm nhấm mùi vị thất tình đó đi. 

Nếu như tận dụng hết mọi nỗ lực cũng vẫn không thể nào ngăn chặn cho cơ thể tránh được bệnh tật, vậy thì trong khi nằm trên giường bệnh, ta hãy bình lặng hưởng thụ giây phút êm đềm yên tịnh đó đi. Biết đâu trong thời gian yên lặng chịu đựng đó, chúng ta chẳng nghiền ngẫm ra được nhiều triết lý để gánh vác được những đau khổ của cuộc đời hay sao? (Tác Giả: Lâm Thanh Tuyền  Đài Loan)

Vui buồn cuộc đời, thật ra cũng do mình mà ra. Thế nên, đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta sẽ ca vang bài hát ở trên mà rằng:

“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Cùng với anh em tìm đến mọi người

Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát

Để thấy tiếng cười rộn rã bay.

Và như thế tôi sống vui từng ngày

Và như thế tôi đến trong cuộc đời

Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi)

Hát thế rồi, giờ đây bạn và tôi cứ hiên ngang sống vững chãi, như không có chuyện gì xảy ra, dù có xấu đi nữa.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều khi vẫn nghĩ như thế

rất liên hồi,

một cuộc đời.