Nền giáo dục không biết xấu hổ

Nền giáo dục không biết xấu hổ

VOA Tiếng Việt

clip_image002

Ảnh minh họa: Học sinh trong một lớp học ở Việt Nam.

Có một câu chuyện như thế này: tại một trường học, cô hiệu trưởng đi taxi vào thẳng trong sân trường đâm phải một học sinh khiến em học sinh ngã gãy xương đùi phải vào viện. Tuy nhiên thay vì lắng nghe, trực tiếp giải quyết vấn đề thì cô hiệu trưởng này lại chối biến bằng cách đi phát phiếu thăm dò. Kết quả: 100% giáo viên, cán bộ, công nhân viên nhà trường cùng các em học sinh khác đều khẳng định không có chiếc taxi nào chạy vào sân trường. Vụ em học sinh lớp 2 bị thương là do em chạy chơi và tự ngã. Dù công an Hà Nội đã vào cuộc điều tra và tìm được chiếc taxi gây tai nạn cùng nhận được lời khai của một số nhân chứng, cho đến nay vẫn chưa có một lời giải thích chính thức nào từ phía hiệu trưởng về vụ này.

Một câu chuyện khác, xuất phát từ Facebook của một nhóm tâm sự giấu mặt (hay còn gọi là Confession) tại một trường học cấp 3 có tiếng ở Hà Nội, khi học sinh này kể về việc mình bị chấn thương trong một vụ nổ phòng thí nghiệm, dẫn đến bỏng cấp độ 3, không thể đến trường dù đang trong giai đoạn ôn thi vào đại học. Vấn đề là vụ nổ được em nhắc tới bị nhà trường giấu nhẹm và không một ai dám đả động đến. Câu chuyện này đã gây hoang mang và nhận được nhiều sự chú ý quan tâm từ cộng đồng học sinh trung học tại Hà Nội. Tuy nhiên cũng không có một tin tức chính thức nào từ đại diện của trường.

Trong khi đó, một tờ báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng bài phát hiện một điểm dạy thêm học sinh cấp 1 tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Bài báo được viết dưới dạng điều tra chụp lén từ ngoài cửa với hình ảnh nhiều đôi dép học sinh để ở tầng trệt, hay đôi khi có phụ huynh thả con cái trước cửa nhà bị nghi là địa điểm dạy thêm không giấy phép. Tác giả bài báo còn đề nghị UBND Q1 vào cuộc để chấn chỉnh, ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong giáo dục như thế này. Cũng cần phải nhắc lại luật cấm dạy, học thêm mới được Sở giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh ban hành vào năm ngoái để tránh việc thầy cô và học sinh lơ là, coi nhẹ thời gian học chính thức trên trường lớp.

Nhìn vào thực trạng chìm nổi của giáo dục Việt Nam mà cảm thấy hoang mang vô cùng. Nguyên nhân gốc ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của giáo viên, học sinh như chương trình học chính quy, các hình thức thi tuyển hay môi trường giáo dục thì không bao giờ được quan tâm và tìm cách giải quyết. Trong khi đó luôn luôn thấy những câu chuyện đáng kinh ngạc như vừa kể xuất hiện. Nền giáo dục Việt đang xuống cấp trầm trọng không phải ở riêng việc thiếu chuyên môn, thiếu tổ chức mà là thiếu tư cách đạo đức – một nhân phẩm cần có nhất của nghề dạy học. Những câu chuyện mà phụ huynh phàn nàn về trường lớp những thập niên về trước mới chỉ xoay quanh việc đổi mới chương trình học, lo ngại con cái mình trở thành “chuột bạch” cho các dự án cái cách giáo dục thất bại. Đến nay, chúng ta còn phải đặt thêm câu hỏi về đạo đức và trách nhiệm của thầy cô. Nhớ lại cách đây không lâu cả nước phẫn nộ với những đoạn clip cô giáo trông trẻ dọa nạt, đánh mắng trẻ nhỏ tại nhà mẫu giáo tư thục Lan Anh tại Sài Gòn, nhớ những cái tát trời giáng hay véo rách tai hoặc khía thước vào tay học trò khi phạm lỗi đã từng được đồng loạt đưa lên báo cách đây 5,7 năm về trước. Cho đến bây giờ, có khác chăng là cách ngược đãi tinh vi hơn, và những kẻ mang danh “thầy” danh “cô” ấy không còn màng đến trách nhiệm và sự xấu hổ về hành vi của mình. Và từ đó từng lứa học trò trẻ Việt Nam khi bước ra đời, khi sống với thế giới xung quanh, làm sao để chúng biết xấu hổ khi chối bỏ trách nhiệm là việc duy nhất mà những kẻ làm nghề giáo đã từng dạy dỗ? Mà cũng chẳng biết hy vọng sao đây khi ở đất nước Việt trong thời đại mới, cha mẹ cũng lo chăm chăm đi tìm một trung tâm du học có uy tín thay vì đấu tranh để xây dựng cho con một ngôi trường có môi trường học tốt. Con đi du học nước nào cũng đều được cả, vì chắc chắn là vẫn tốt hơn Việt Nam. Và những kẻ đã đi, thì chẳng khi nào muốn quay trở về, buồn thay, bởi họ biết xấu hổ!

Nguồn: http://www.voatiengviet.com/a/nen-giao-duc-khong-biet-xau-ho/3729562.html

Thảm họa Formosa: Đỏ chọi Xanh ở Việt Nam

Thảm họa Formosa: Đỏ chọi Xanh ở Việt Nam

Thời Mới/ The Economist

Khương An dịch

16-2-2017

Ảnh: Michael Morgenstern

Việc đảng Cộng sản không thể kiểm soát ô nhiễm đang bào mòn quyền lực của đảng

Tàu đánh cá ở Đồng Hới, một tỉnh lỵ thanh bình ở vùng biển miền trung Việt Nam, được trang trí bằng những nhánh xương rồng. Những miếng bùa đầy gai này được cho là bảo vệ thủy thủ trước bão tố và những mối hiểm họa khác, nhưng chúng không trừ được vận rủi ập xuống thành phố này mùa xuân năm ngoái. Vào tháng Tư, thủy triều tống hàng ngàn xác cá chết lên các bờ biển của Đồng Hới. Chính quyền chần chừ hàng tháng trời mới chịu nêu tên thủ phạm: một nhà máy thép mới gần biển có những đường ống xả chất thải độc hại xuống biển.

Gần một năm sau, Đồng Hới—giống như tất cả khu dân cư dọc vùng biển dài 200 cây số bị ảnh hưởng—vẫn còn tính thiệt hại của thảm họa này. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là ngư dân của vùng này, với những chiếc thuyền đỏ và xanh dương túm tụm neo đậu lặng lẽ trên con sông rộng của thành phố này. Dân địa phương có người không chịu ăn cá do ngư dân đánh bắt, vì sợ độc tố còn sót lại; có người hứa chỉ ăn cá đánh bắt ngoài khơi xa, hay ở những độ sâu được cho là tránh được chất độc. Kho đông lạnh của nhiều nhà hàng hải sản nay trữ thịt gà và thịt heo.

Thảm họa này cũng đã phá hoại du lịch. Thành phố này bị san bằng trong cuộc chiến với Mỹ (ngoại trừ một mặt chính nhà thờ cháy sạm, nay được bảo tồn thành một đài tưởng niệm), nhưng đã hưởng lợi từ những hang động khổng lồ được khám phá ngay tại địa phương. Trong những hang động đó có Sơn Đoòng, được xem là hang lớn nhất thế giới, chỉ mới bắt đầu đón du khách từ năm 2013. Nhưng mùa hè năm ngoái, rất nhiều người hủy chuyến du lịch của họ vì sợ xoải chân trên đất nhiễm độc. Những khách sạn và căn hộ xây dở dang nằm rải rác vùng ngoại ô thành phố, bị những nhà đầu tư lo ngại nên bỏ rơi.

Nạn ô nhiễm tàn phá nhiều phong cảnh đẹp sững sờ của Việt Nam. Việc xây đập, đào giếng và canh nông với cường độ cao đang bào mòn Đồng bằng Sông Cửu long, nơi trồng khoảng một nửa lượng lúa của quốc gia. Mỗi năm đất đai vùng này mỗi mặn hơn do nước biển giạt vào ngập những dòng nước ngày càng yếu dần của vùng này. Màn khói bụi bức bách làm ngột ngạt thủ đô Hà Nội. Theo một số ước tính gần hai phần ba nước thải công nghiệp của Việt Nam xả xuống các sông hồ. Năm 2015 chính quyền đã xác định nhiều làng có tỷ lệ mắc bệnh ung thư cao khác thường, có lẽ là do nước máy nhiễm chì.

Trong danh sách này sẽ sớm có thêm một loại vấn nạn môi trường khác không hẳn là do Việt Nam gây ra. Với bờ biển dài hơn 3.200 cây số, Việt Nam đặc biệt dễ bị tác hại của sự biến đổi khí hậu. Theo một số ước tính, một phần năm Sài Gòn, đại đô thị miền nam đang mở rộng nhanh chóng, có thể nằm dưới nước vào cuối thế kỷ này. Thời tiết khắc nghiệt hơn và nạn lũ lụt trầm trọng hơn có thể phá hoại các khu dân cư dọc bờ biển dài.

Những mối lo ngại như vậy đang ngày càng ngấm dần vào chính trị Việt Nam, gây ra những thách thức cho chế độ cai trị đàn áp của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN). Một báo cáo của chính phủ nói rằng ít nhất 200.000 người đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của thảm họa năm ngoái. Một số người trong số họ cả gan biểu tình phản đối tại nhà máy chịu trách nhiệm—thuộc sở hữu của công ty Đài Loan—hoặc trước tòa án địa phương. Họ nói rằng số tiền 500 triệu đô-la mà công ty này phun ra để đền bù là quá ít ỏi, và đòi quyền kiện. Càng đáng ngạc nhiên hơn nữa là sự phẫn nộ của những người Việt mà bản thân họ không bị ảnh hưởng của vụ nhiễm độc này. Ngay sau khi thảm họa xảy ra, một phát ngôn viên của Formosa nói ám chỉ rằng không thể cùng lúc vừa chọn công nghiệp và ngư nghiệp. Người biểu tình ở Hà Nội và Sài Gòn phản đòn: “Tôi chọn cá.”

Tinh thần dân tộc khuếch đại nỗi phẫn nộ về môi trường. Năm 2014, nhà máy thép của Formosa bị đốt bởi những người nổi loạn phản đối quyết định của Trung Quốc đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển đang tranh chấp cách bờ biển Việt Nam không xa (bất chấp thực tế Formosa là công ty Đài Loan). Phần lớn người Việt nghĩ rằng giới lãnh đạo đất nước mềm yếu với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam nhưng cũng là nước cựu thù và nước đang tranh chấp nhiều đảo nhỏ ở Biển Đông. Việc CSVN cho phép một công ty (đại loại là) Trung Quốc làm nhiễm độc vùng biển là điều vô cùng nhục nhã.

Tất cả những điều này quả là đáng sợ đối với CSVN, vốn đã chứng kiến các phong trào môi trường ở Đông Âu vùi dập các chế độ cộng sản ở đó, và CSVN xưa nay đã đối xử một cách côn đồ với những người đứng đầu các cuộc biểu tình. Việc chụp mũ những người đấu tranh dân quyền là tay sai của các chính phủ nước ngoài nay khó hơn khi chính CSVN bị tố cáo là bảo vệ những kẻ gây ô nhiễm ngoại quốc. Trong lúc tìm kiếm những nước bạn mới để giúp giảm bớt sự lệ thuộc vào giao thương với Trung Quốc, giới lãnh đạo ở Hà Nội cũng lo lắng về uy tín của Việt Nam. CSVN muốn người ngoại quốc xem Việt Nam là một đối tác đáng tin cậy về các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, chứ không phải là một nước cổ hủ tôn thờ một lãnh tụ quá cố trong một lồng kính.

Vì vậy giới lập pháp Việt Nam đang có thiên hướng bảo vệ môi trường hơn. Việt Nam có luật lệ môi trường khá toàn diện, theo nhận định của Stephan Ortmann, tác giả của một cuốn sách mới về chủ đề này—nghiêm ngặt hơn luật lệ do giới cầm quyền Trung Quốc soạn cẩu thả, và được ban hành với tốc độ nhanh hơn. Việt Nam đã hứa cắt giảm carbon khỏi nền kinh tế của mình (dù chả ai hiểu nổi chuyện này ăn khớp ra sao với những kế hoạch xây dựng hàng chục nhà máy nhiệt điện). Hồi tháng 11/2016, nhà nước tổ chức một lễ rình rang trình diễn nỗ lực bảo tồn động vật hoang dã, loại bỏ hàng tấn ngà voi bị tịch thu trong một đống lửa cháy rừng rực trông rất mãn nguyện.

Sương khói mịt mù chẳng biết đâu mà lần

Tuy nhiên vẫn còn nói nhiều hơn làm, và két tiền cạn của nhà nước chỉ là một phần nguyên nhân. Tăng trưởng kinh tế—vốn là yếu tố duy nhất để CSVN có được tính chính danh do không có những cuộc bầu cử có ý nghĩa—lấn át mọi thứ khác. Giới chức uy quyền ở các tỉnh thành phớt lờ các luật lệ được đặt ra ở Hà Nội, và các công ty quốc doanh uy quyền thường dường như bất khả xâm phạm. Một hệ thống tư pháp xử lý những người bất đồng một cách nhanh chóng và tàn nhẫn nhưng lại thất bại thảm hại trong việc thực thi luật lệ thông thường. Trong khi giới chức chống nạn khói bụi ở Bắc Kinh đã bắt đầu đóng cửa các nhà máy và hạn việc sử dụng xe hơi, giới tai to mặt lớn ở Hà Nội vẫn chật vật ngăn cản người đi xe máy đậu xe trên lề đường. Tâm lý bất bình âm ỉ về nạn ô nhiễm sẽ khiến CSVN khó đương đầu với các cú sốc chính trị hay kinh tế hơn.

Trong khi đó, các triển vọng của Đồng Hới tùy thuộc vào việc du khách có trở lại vào mùa hè năm nay. Chính quyền nói rằng vùng biển này đã an toàn để tắm biển trở lại, nhưng không phải ai cũng tin họ. Một ngư dân nói rằng ông đã đi biển trở lại một thời gian, nhưng trong 5 hay 10 năm tới sẽ không cho mấy đứa con nhỏ của mình ăn cá do chính ông đánh bắt.

Nguồn: Red v green in Vietnam, The Economist, 16/2/2017.

Hậu Giang: Thầy-trò dùng sách vở đánh nhau tơi bời trong lớp học

Hậu Giang: Thầy-trò dùng sách vở đánh nhau tơi bời trong lớp học

Nguoi-viet.com

Hình ảnh thầy và nữ sinh đánh nhau được cắt ra từ clip. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

HẬU GIANG (NV) – Sau khi bị thầy giáo dùng sách bạt vào đầu, nữ sinh hét lớn rồi cầm vở đánh trả và ném vào mặt thầy trước sự chứng kiến của toàn bộ học sinh trong lớp, song không ai phản ứng, thậm chí còn cười khoái trá.

Truyền thông Việt Nam dẫn tin, ngày 17 Tháng Hai, ông Đồng Văn Thanh, phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang cho biết, đã chỉ đạo Sở Giáo Dục làm rõ và xử nghiêm vụ thầy giáo và học sinh trường trung học phổ thông Tầm Vu, huyện Châu Thành A dùng sách đánh nhau trong lớp học.

Theo báo Tuổi Trẻ, trước đó một clip dài 23 giây lan truyền “chóng mặt” trên mạng xã hội cảnh một thầy giáo và nữ sinh dùng sách, vở đánh vào đầu nhau ngay tại lớp học trước sự chứng kiến của nhiều học sinh khác trong lớp học.

Ông Nguyễn Phước Bình, trưởng Phòng Giáo Dục huyện Châu Thành A, đi cùng công an huyện để xác minh cho biết: Sự việc xảy ra tại lớp 10A3, trường Tầm Vu, lúc 11 giờ ngày 15 Tháng Hai giữa thầy Ngô Quang Kỉnh, chủ nhiệm lớp và học sinh Nguyễn Thị Kim Ngân.

Nguyên nhân ban đầu do em Ngân nói chuyện, gây mất trật tự trong giờ học nên bị thầy Kỉnh nhắc nhở. Song, nữ sinh này đã phản ứng kèm những lời lẽ, hành động mất dạy dẫn đến sự việc trên.

Trong khi đó, bà Nguyễn Hoài Thúy Hằng, giám đốc Sở Giáo Dục tỉnh Hậu Giang, cho biết đã yêu cầu những người có liên quan làm tường trình bằng văn bản. Phòng Giáo Dục huyện Châu Thành A đã thành lập hội đồng kỷ luật để xem xét vụ việc. Riêng công an huyện cũng đã vận động học sinh gỡ bỏ clip suy đồi đạo đức, gây phản cảm dư luận này đã đăng trên mạng xã hội. (Tr.N)

VIỆC NHỎ CHO THẤY VẤN ĐỀ LỚN

VIỆC NHỎ CHO THẤY VẤN ĐỀ LỚN

Mạc Văn Trang

19-2-2017

Nhà giáo – ThS Tạ Thị Bích Ngọc – Hiệu trưởng nhà trường phát biểu khai mạc "Đêm hội trăng rằm 2015". Ảnh: internet

Việc bà Tạ Bích Ngọc HT trường TH Nam Trung yên, Hà Nội đi xe taxi vào sân trường, đâm gãy chân HS Kiên lớp 2A4 đang chơi ở sân trường, thực ra chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng tại sao lại thành chuyện lớn?

CHUYỆN NHỎ, nếu như bà Ngọc xuống xe, cùng mọi người chạy lại nâng em Kiên lên, hỏi han, đưa em ngay đi bệnh viện, báo cho gia đình em và GV chủ nhiệm biết. Bà thành thật nhận lỗi (ai chả mắc lỗi lầm), xin lỗi gia đình em Kiên và mọi người, khắc phục hậu quả, rút kinh nghiêm chung về việc đi xe vào sân trường… Đó là lương tâm, trách nhiệm của một người bình thường.

CHUYỆN LỚN bởi vì, người HT – linh hồn của nhà trường – tấm gương đạo đức cho GV và HS, đã không làm được điều bình thường, mà bộc lộ một nhân cách thấp kém:

1. Đi xe ô tô trong sân trường đã sai, đâm gãy chân HS của mình mà vô cảm bỏ đi, thật khó tưởng tượng, không thể chấp nhận được;

2. Khi gia đình HS có ý kiến, đã không thừa nhận, lại gian manh chỉ đạo làm phiếu lấy ý kiến CB, GV, CNV, HS, làm báo cáo, rằng ngày đó không có xe nào đi vào trường, em Kiên chơi và tự ngã gãy chân. Đây là việc làm đổi trắng thay đen, lấp liếm khuyết điểm của bản thân một cách trắng trợn, bất chấp sự thật. Hành động đó vừa ngu xuẩn, vừa khinh khi, coi thường tất cả…

3. Bà Ngọc dám làm những chuyện ngang ngược đáng đến như vậy, vì tin rằng ở cương vị hiệu trưởng của bà ta, với các “mối quan hệ” và “ê kíp lãnh đạo” đã xây dựng được thì các GV, HS, cha mẹ HS và dư luận xã hội “không là cái đinh gỉ”! Bà muốn che giấu khuyết điểm, tội lỗi, báo cáo sai là chuyện “bình thường”. Chắc chuyện này cũng đã quen với bà xưa nay, và vẫn trót lọt, nhưng không ngờ “đi đêm lắm, có ngày gặp ma”!

4. Bà Ngọc mà trở thành hiệu trưởng theo đúng “quy trình đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn” cán bộ lãnh đạo, thì không hẳn chỉ một trường hợp. Có bao nhiêu phần trăm cán bộ lãnh đạo như bà Ngọc? HT là linh hồn nhà trường. HT nào, nhà trường ấy. Hơn nữa HT còn là “Bộ trưởng tại chỗ” (Hồ Ngọc Đại). Cán bộ quản lý yếu kém đúng là vấn đề chí nguy của hệ thống giáo dục nay.

5. Khi HT hỏng thì tạo ra hiệu phó, ê kíp lãnh đạo hỏng, nội bộ GV chia rẽ, môi trường văn hóa sư phạm tiêu cực, hỏng cả một nhà trường. Bà hiệu phó trường TH Nam Trung yên đúng là làm tay sai cho bà Ngọc một cách đê hèn. Bà này cũng cần cách chức cho chuyển đi trường khác làm GV…

Tóm lại, ngành giáo dục không thể nào chấp nhận một hiệu trưởng như bà Ngọc. Bộ trưởng GD và Chủ thích TP Hà Nội đã yêu cầu xử lý nhanh “vụ bà Ngọc”. Nếu không xử lý nghiêm chuyện này, cả chính quyền Hà Nội và Bộ GD&ĐT đều chẳng còn ai tin tưởng!

CHÂN DUNG VÀ CÂY VIẾT CHÌ

CHÂN DUNG VÀ CÂY VIẾT CHÌ

Trong chuyến Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm Ấn Độ năm 1986, có những chuyện bên lề ít người biết.

Người phụ trách lộ trình cho Đức Giáo Hoàng thăm Calcutta là một Linh Mục Dòng Tên ở thành phố ấy.  Cha ở cùng Nhà Dòng nơi tôi xin trọ, Xavier’s College, 30 Park Street, Calcutta.  Vì thích tìm xem có gì liên quan tới Mẹ Têrêsa không, tôi tò mò hỏi chuyện với ngài, vô tình mới biết ngài là Linh Mục được chỉ định công việc tổ chức lộ trình trong ngày quan trọng đó.  Và câu chuyện bên lề trong chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng cũng khá thú vị.

Chuyến đi sau cùng của Đức Giáo Hoàng dự định từ gốc đường Park chạy thẳng ra phi trường.  Nhưng đến ngã tư, xe cảnh sát dẫn đầu không đi thẳng mà lại quẹo trái.  Cha kể với tôi là Linh Mục trưởng đoàn tổ chức, từ Roma qua, không hiểu có chuyện gì.  Tại sao kỳ quặc thế này?  Người ta sợ ám sát ư?  Đoàn xe đi đâu bây giờ?

Xe ngừng trên đường ghé vào Nhà Dòng chính của Mẹ Têrêsa.  Nhà này ngay bên đường, sau này cũng là nơi chôn xác Mẹ.  Đức Thánh Cha ghé thăm một lúc rồi đoàn xe tiến ra phi trường.  Trong chương trình ở Calcutta, Đức Thánh Cha chỉ tới thăm ngôi nhà săn sóc những người hấp hối mà thôi.  Lúc mới tới Calcutta, từ phi trường vào thành phố, Ngài đã ghé thăm ngôi nhà này rồi.  Không có chương trình ghé Nhà Dòng chính.

Tới phi trường, nghe cha kể lại, Linh Mục trưởng đoàn tổ chức kia rất bực mình với viên cảnh sát trưởng tại sao làm vậy mà không cho ngài biết.  Ông cảnh sát trả lời rằng phút cuối, Mẹ Têrêsa xin ông như vậy.  Ông bảo ở Calcutta này có ai là người không nghe lời Mẹ Têrêsa đâu!

Rồi cha kết luận, chính quyền ở đây không từ chối điều gì bà xin.

Chỉ khi đến Calcutta tôi mới biết chính quyền ở đây là đảng Cộng Sản.  Thể chế chính trị ở Ấn gồm nhiều đảng.  Chính phủ tiểu bang hợp thành chính phủ trung ương.  Tiểu bang nào nhiều thành phần của một đảng, đảng ấy thắng thế.  Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao trong một khu xóm, ngày nào tôi cũng đi bộ ngang qua đến Nhà Dòng Mẹ Têrêsa, họ treo ngợp cờ đỏ búa liềm.  Nhưng Cộng Sản ở Ấn rất khác Cộng Sản trên thế giới.  Họ chỉ là một đảng trong nhiều đảng của nền chính trị Ấn.  Họ chủ trương đường hướng xã hội giải thoát giới nghèo chứ không đàn áp tôn giáo.

Chưa đến Ấn, tôi chỉ biết Mẹ Têrêsa qua báo chí, qua phương tiện truyền thông là một Nữ Tu nổi tiếng thế giới vì săn sóc người nghèo.  Qua Ấn, tôi hiểu hơn, màu sắc vẽ chân dung người đàn bà này khác lạ lắm.

Bà không nổi tiếng về truyền giáo, về viết sách, về triết học, thần học, người nữ tu này làm việc rất tầm thường.  Công việc của đời bà thật đơn giản.

Qua Ấn tôi mới hiểu cái nghèo ở đây khác mọi nơi.  Nó là kiếp nghèo của định mệnh đẳng cấp do xã hội và tôn giáo tạo ra.  Trong bốn đẳng cấp, đẳng cấp thứ tư thấp nhất, chỉ có lao động, làm cu li.  Nhưng ngoài bốn đẳng cấp này, còn loại người “unclean”, “untouchable”.  Tiếng “untouchable” do Gandhi dùng để chỉ một hạng người khốn khổ nhất.  Nghĩa là họ thuộc hạng người “ô uế”.  Họ không được đụng vào người thuộc đẳng cấp khác.  Họ phải làm những việc như lau cầu tiêu, chôn xác chết.

Tóm lại, họ phải tránh xa người khác trên đường đi.  Ai đụng vào họ đều ra ô uế, phải thanh tẩy.  Vì thế, họ nghèo từ định mệnh nghèo ra, họ phải mang thân phận lầm than.  Tôn giáo và xã hội bắt họ vậy.  Cũng nhờ qua đây, tôi mới hiểu ý nghĩa sâu xa khi Kinh Thánh nói Giavê bảo vệ những người nghèo.  Cái nghèo ở đây là nghèo đến từ con người mất phẩm giá.  Nó không chỉ là cái nghèo kinh tế, nhưng nghèo vì bất công, nghèo vì bị xúc phạm.

Giữa lúc tôn giáo và xã hội xa tránh họ thì Mẹ Têrêsa đến ôm những người này!  Bà không sợ bị ô uế phải đi thanh tẩy ư?

Mãi đến năm 1957 hiến pháp Ấn mới xoá bỏ chế độ đẳng cấp.  Trong thực tế, các vùng xa xôi nó vẫn như chiếc cối đá choàng trên cổ đẳng cấp này.  Năm 1948, Gandhi bị giết do một tín đồ Ấn Giáo cực đoan vì ông chủ trương mọi người phải bình đẳng.

Trong bối cảnh xã hội và tôn giáo như thế Mẹ Têrêsa xuất hiện.

Người Nữ Tu này chủ trương một Dòng Tu đi tìm những người bất hạnh mà phục vụ.  Thế kỷ này thế giới không còn chế độ nô lệ.  Không quốc gia nào có thể chấp nhận giai cấp người nô lệ người.  Hiến pháp Ấn Độ không chấp nhận đẳng cấp, nhưng trong thâm tâm thành phần thống trị có muốn thay đổi không, đó là một chuyện khác.

Trong hoàn cảnh như thế Mẹ Têrêsa xuất hiện.

Người Nữ Tu này không là nhà cải cách tôn giáo, bà không là nhà cải tạo xã hội.  Mẹ chỉ đến với những kẻ mà người khác sợ đến gần bị ô uế.  Các Nữ Tu thuộc Dòng của Mẹ không đi truyền giáo.  Người ta không thể vì Mẹ mà sợ mất tín đồ.  Mẹ không truyền đạo để đông người, để cạnh tranh tôn giáo.  Ai lạm dụng tôn giáo và kinh tế để nắm chính trị, không thể kết án người Nữ Tu này được điều gì ngoài điều họ không dám làm là đến với những người bị bỏ rơi.

Thông tin đóng một vai trò chính yếu trong việc vẽ chân dung Mẹ Têrêsa.  Hơn một tỷ người Ấn biết đến Mẹ.  Công việc và đời sống mẹ được thông tin truyền đi.  Toàn dân Ấn biết đến một con người mà truyền thống xã hội, tôn giáo của họ đi ngược lại.  Đó là Mẹ đến với người nghèo.

Nhiều người Ấn không biết đến Giáo Hoàng.  Có thể có kẻ chống đối Vatican nữa.  Nhưng Mẹ Têrêsa đi đến đâu, người ta xếp hàng xin chúc lành.  Mẹ đã vẽ một chân dung rất trung thực về Thiên Chúa cho nhân loại.  Thiên Chúa của Tình Thương.  Công việc và đời sống của người đàn bà này rất giản dị.

ME TERESA

Đối với tín đồ Bà La Môn, không chỉ người chết mới là thánh.  Ngay người sống cũng là thánh.  Các nhà Sadhu khổ hạnh, các bậc thiền tu, họ là thánh.  Có danh từ “Phật sống” là thế.  Bởi đó, chân dung Mẹ Têrêsa là chân dung “Phật sống”, chân dung đầu thai của một thánh nhân.

Thiên Chúa đã dùng người đàn bà này để vẽ chân dung Thiên Chúa bằng ngôn ngữ thật tuyệt vời.  Một người đàn bà thấp lùn, không có tướng mạo duyên sắc.  Một người đàn bà không bằng cấp nói về chân dung rất chân thực của Chúa cho một tỉ người trên đất Ấn Giáo với không biết bao nhiêu nghìn năm bám vào đẳng cấp hệ luỵ.

Khi để Thiên Chúa dùng, chẳng ai trong chúng ta là người nhỏ bé.  Tất cả chúng ta được dựng nên trong ân sủng phi thường của Ngài.

Phải chăng vì thế Mẹ Têrêsa đã nói: “Tôi là cây viết chì trong tay Chúa, Ngài muốn vẽ gì tùy ý Ngài”.  Phải chăng vì thế, Chúa đã lấy tình thương trong trái tim Mẹ để vẽ chân dung Giáo Hội trong thế kỷ hôm nay.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, SJ

****************************** ******

Con chỉ là một Cây bút chì, rất nhu mì chẳng có là chi.
Trong tay Chúa, Chúa vẽ muôn diệu kỳ.  Quá diệu kỳ
Khi con mọn thực thi thiên ý, khiêm hạ xóa bỏ mình đi.
Trong tay Chuá, Chúa vẽ muôn diệu kỳ, rất diệu kỳ
***
Trong tay đấng toàn năng, thượng trí, con xin được làm cây bút chì
Một cây bút chì cỏn con, thật ngoan ngoãn và dễ thương
Trong tay Chúa, tài hoa tuyệt mỹ, bút phóng họa trường thiên trác tuyệt
Ngợi ca Chúa Trời hiển vinh, cảm mến phúc lộc Thiên đình

“Cây Bút Chì Trong Tay Chúa”– Hải Triều

langthangchieutim gởi

NƠI CHÚNG TA SỐNG

From facebook:   Hằng Lê

NƠI CHÚNG TA SỐNG

Sống ở Việt Nam, chi phí đắt đỏ, cái xe ô tô nhỏ xíu với giá 84 triệu đồng thì về đất nước yên bình của chúng ta nó lên tới hơn 400 triệu đồng, gấp 5 lần con số thực.

Với một chiếc xe khoảng 20.000 USD thì về Việt Nam được bán ra khoảng 60.000 USD – 80.000 USD. Một con số khủng khiếp.

Trong khi đời sống đa phần người dân của Việt Nam đều rơi vào ở mức nghèo, thuộc các nước thế giới thứ ba, tức các quốc gia đang phát triển với mức thu nhập là trung bình thấp trở xuống (khoảng 2.000USD/người/năm).

Ô nhiễm môi trường ở hàng báo động đỏ cấp nguy hiểm/nguy hại từ thực phẩm (vấn nạn quốc gia), nước (nhiễm nhiều độc tố, hay có cặn bẩn, vỡ ống dẫn), không khí (gấp 5 lần chỉ số tiêu chuẩn WHO công bố) đến tiếng ồn (gấp 1.5-3 lần ngưỡng nghe, 60dB). Giá nhà đất ở thành phố đắt hàng đầu toàn cầu (thuộc 10 nước có giá đất đắt nhất hành tinh). Giá xăng cũng thường xuyên tăng mà mức giá bán ra thị trường luôn ở mức cao so với thế giới (cao hơn 3-5 lần nhiều bang ở Mỹ). Trong khi nền sản xuất của chúng ta không có giá trị nào, kể cả làm ra một con ốc vít hoàn chỉnh cũng chưa thể làm được cho khoa học.

Khi biển bị huỷ hoại diện rộng trên hàng trăm kilomet, người dân chật vật đi khởi kiện để đòi bồi thường thiệt hại thì dễ dàng bị vu cho là gây rối an ninh trật tự, chống phá nhà nước để rồi bị đánh đến máu me be bét, bị ngăn cản và phải từ bỏ việc khởi kiện ấy tại toà án.
Vào một dịp khác, người dân đến nơi tưởng niệm hàng vạn chiến sỹ đã hy sinh vì bảo vệ tổ quốc (1979), tưởng nhớ công lao những người ngã xuống để bảo vệ đảo Hoàng Sa (1974) của chế độ khác (VNCH) thì bị cấm cản, phá rối một cách công khai. Mà giặc đánh chiếm chúng ta đều là chính quyền bành trướng hung hãn Trung Quốc.

Chính quyền đang làm gì với dân chúng vậy?

Điều đó chỉ làm xấu đi sự quản trị của quốc gia đối với chính quyền, khi họ không muốn cho người dân thực thi quyền khởi kiện của mình theo Hiến định và pháp luật; không cho người dân (hoặc mặc nhiên để cho những kẻ thực hiện hành vi phá rối người dân năm này qua năm khác diễn ra công khai mà không giải quyết) đến nơi tưởng niệm thắp hương để tri ân công lao những người đã hy sinh vì bảo vệ tổ quốc và ôn cố lịch sử bi tráng của dân tộc trong công cuộc chống giặc Trung Quốc xâm lược.

Những thứ đó làm tổn thương không những hình ảnh quốc gia, xâm hại luật pháp, mà còn gây tổn thương giá trị lịch sử, tổn thương hai thế hệ, cả người ngã xuống và những người còn sống muốn ghi ơn và quan trọng hơn cả là gây ra hao hụt niềm tin của tất thảy mọi người vào những hành động của cả hai phía, của người dân lẫn chính quyền đang trị vì đất nước.

(LS Luân Lê)

Đầu tháng 1/2017, Tổng cục Hải Quan cho biết giá xe Ấn Độ khi nhập cảng…
CAFEF.VN|BY CAFEF

Cuộc chiến 1979 thực sự đã ‘bắt đầu từ trước’

Cuộc chiến 1979 thực sự đã ‘bắt đầu từ trước’

BBC

Quốc Phương

17-2-2017

Ông Hà Văn Thịnh cho rằng thực ra cuộc chiến 1979 trên Biên giới Việt - Trung đã khởi thủy từ năm 1974 khi Trung Quốc tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa. Ảnh: FB Hà Văn Thịnh.

Cuộc chiến nổ ra ngày 17/2/1979 trên biên giới Việt – Trung thực ra đã nổ ra từ lâu trước đó, theo một sử gia từ Đại học Huế của Việt Nam.

Bình luận với BBC hôm thứ Sáu nhân 38 năm đánh dấu cuộc chiến đẫm máu trên biên giới phía Bắc của Việt Nam sau khi Trung Quốc khởi binh tấn công trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước, nhà sử học Hà Văn Thịnh nói:

“Tôi quan niệm hơi khác mọi người một chút, tôi cho rằng cuộc chiến tranh năm 1979 đã thực sự bắt đầu từ 19/01/1974 khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, đó là bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam.

“Bắt đầu năm 1979 là đỉnh cao, năm 1988 nó biến thái, ngày 14/3/1988 chiếm Gạc Ma, một phần của Trường Sa, rồi tiếp đó, chúng ta biết đầu thế kỷ 21, nào là thành phố Tam Sa, nào là đường lưỡi bò (bản đồ đường chín đoạn).

“Rõ ràng là cuộc chiến tranh năm 1979 tôi nhấn mạnh là nó bắt đầu từ năm 1974, đến bây giờ nó vẫn đang tiếp diễn…

“Theo quan điểm quả tôi, chừng nào mà đất đai, biển đảo, máu thịt của Tổ quốc vẫn bị xâm lược Trung Quốc chiếm đóng, thì chừng đó chưa thể coi là bạn được”.

Sử gia từ Huế chia sẻ một thống kê riêng của ông theo đó chỉ 5-10% sinh viên không thuộc ngành sử mà ông đã giảng dạy trong những dịp đánh dấu sự kiện biết được ngày 17/2/1979 là ngày gì và có ý nghĩa ra sao.

Khi được hỏi ông có tư vấn gì cho giới soạn thảo sách giáo khoa, giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến lịch sử ở Việt Nam liên quan sự kiện trên và cuộc chiến Việt – Trung bắt nguồn từ đó, ông Hà Văn Thịnh nói:

“Trong hội đồng soạn thảo sách giáo khoa, có không ít các thầy của tôi, bây giờ bảo khuyên các thầy thì nó không đúng, nhưng với tư cách một học trò, tuy lớn tuổi rồi và cũng am hiểu đôi chút, tôi rất muốn góp ý là kính đề nghị các thầy, kính đề nghị các đồng nghiệp bằng tuổi tôi hoặc ít hơn tuổi tôi là cần phải tôn trọng lịch sử, cần phải tôn trọng sự thật.

“Chứ không thể nào chung chung, rồi mơ hồ, nửa biết, nửa không như vậy, trắng không ra trắng, đen không ra đen…,” ông Hà Văn Thịnh, người có nhiều thập niên giảng dạy và nghiên cứu sử học tại Đại học Huế nêu quan điểm với BBC.

Phải tạo áp lực

Cũng hôm 17/2/2017, BBC đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thạch, nhà chủ xướng chương trình Sách hóa Nông thôn ở Việt Nam, ông cho BBC hay, hiện tại trong sách giáo khoa phổ thông ở nhà trường Việt Nam chí có vỏn vẹn ’11 dòng’ nói về cuộc chiến Việt – Trung năm 1979 với sự kiện mà ông gọi đích danh là ‘Trung Quốc xâm lược Việt Nam’.

Về ý nghĩa của việc người dân, nhất là giới trẻ, cần nắm được sự kiện 17/2/1979 nói riêng và những trang sử của quốc gia, kể cả những thăng trầm của dân tộc, nhà vận động văn hóa sách ở nông thôn Việt Nam nói:

“Những năm tháng, giai đoạn, những tấm thảm sử của đất nước, nếu người dân không biết, chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở chính mình là một đất nước đánh lại, chống lại được ngoại xâm, trước hết chúng ta phải tự cường, tự lực, phải có sức mạnh và phải biết đến những tấm thảm sử của dân tộc để chúng ta cùng nhau lao động, học tập, cùng nhau đặt nền tảng cho sự phát triển của quốc gia, để chúng ta có một sức mạnh…

“Bản thân sức mạnh là sự tự kháng đối với những thế lực mà muốn bành trướng, xâm chiếm quốc gia, thành ra việc chúng ta phải nhắc lại những câu chuyện của lịch sử là nghiễm nhiên và mỗi chúng ta phải nỗ lực.

“Nếu trường hợp sách giáo khoa thời gian tới người ta chưa làm, thì chúng ta phải tạo áp lực xã hội, tạo dư luận để buộc người ta phải đưa vào. Đấy là chuyện đương nhiên.

“Còn một mặt nữa, với tư cách công dân, những người hiểu biết… phải biết phổ biến nó, nói với những người xung quanh mình, nói với những đứa trẻ, với đồng nghiệp, với bạn bè của mình để sự nhận biết về lịch sử được lan truyền trong dân chúng là việc nghiễm nhiên,” ông Nguyễn Quang Thạch nói với BBC hôm thứ Sáu.

Quý vị có thể bấm vào đường dẫn này để theo dõi toàn văn cuộc trao đổi giữa BBC với ông Nguyễn Quang Thạch hôm 17/2/2017.

Em dậy sớm để nghe lời chim hót

Facebook:  Kiều Minh Huệ shared a link.
Em dậy sớm để nghe lời chim hót

Mừng mặt trời trở lại với phương Đông
Đón nắng mai cho má thắm thêm hồng
Và gọi gió mịn màng qua lối cỏ
Em dậy sớm vòm trời xanh chưa tỏ
Sương mù còn mắc võng giữa hàng cây
Bên ô vuông cửa sổ đứng gọi ngày
Vài ánh sáng đến thay vài bóng tối
Em dậy sớm cho niềm vui tiếp nối
Sau đêm dài lạnh lẽo cả không gian
Để nơi em trời lại gởi tơ vàng
Và đất nước long lanh dâng sắc biếc…

Kiều Chí Nhân

“NHỮNG NGƯỜI SẴN SÀNG CHỊU CHẾT”

“NHỮNG NGƯỜI SẴN SÀNG CHỊU CHẾT”

Liên tiếp trong mấy ngày liền, tại Phòng Công Lý và Hòa Bình DCCT, tôi được gặp chị Bùi Thị Minh Hằng vừa được thả tù về, rồi cha Đặng Hữu Nam cùng với một đoàn Giáo Dân ngược chuyến xe vào Nam. Và hôm qua hôm kia xem các clip video “chuyến đi vạn hành” của cha Nguyễn Đình Thục và bà con Song Ngọc từ Nghệ An vào Hà Tĩnh để kiện Formosa. Tất cả những anh chị em ấy đều có chung một tinh thần: không sợ tù tội, không sợ bị tấn công, không sợ bị vu khống xỉ nhục, không sợ cả cái chết !

Công bằng mà nói, họ chỉ là những Linh Mục thấp mập hoặc gầy gò, những bà mẹ, những chị em, những bạn trẻ giản dị bình thường ta có thể gặp ngoài đường,trong khu xóm, ngay bên cạnh nhà của ta. Không có một miếng võ nào để hộ thân, không có một mẩu vũ khí nào để tự vệ. Trên tay một xâu chuỗi Mai Khôi, trên miệng một lời Thánh Ca da diết “Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam…” Vậy mà sao họ lại có thể thẳng thắn nói lời cám ơn cán bộ nhà tù đã rèn luyện họ thêm “chân được cứng, đá phải mềm” ? Vậy mà sao họ lại có thể sẵn sàng để cho hàng trăm kẻ hung hăng và trang bị dữ dằn lừa gọn vào bẫy, vây lại như một đàn cừu non, hè nhau xông đến tấn công, họ chỉ í ới gọi bảo nhau “ngồi xuống, ngồi xuống” rồi bật lên tiếng cầu nguyện đau đến chảy máu bên ngoài, xé lòng bên trong ?

Có bài báo nào đó đã viết về họ như là một “hành trình đòi quyền sống trong nỗi chết”. Nghe kinh khủng quá, nhưng đó là sự thật ! Họ làm cho chúng ta rưng rưng kính phục và tự hào, rồi như được khơi lên sâu trong lòng một sự can đảm cần thiết để hiệp thông, để sát cánh với họ chứ không thể tiếp tục tụ thủ bàng quantrong một nỗi e sợ ngấm ngầm âm ỉ được khéo léo che giấu cho đỡ xấu hổ !

Hôm nay, xem lại các video cảnh bà con Song Ngọc quây quần trong sân Nhà Xứ Đông Tháp, tôi thấy nghèn nghẹn trong cổ họng và ứa nước mắt, từ cha xứ đến bà con Giáo Dân đều bảo nhau cúi đầu vâng lời Bề Trên để trở về nhà. Vâng, họ đã đành phải trở về nhà cho dẫu họ tỏ ra không hãi sợ chút nào những gì vừa trải qua, họ bảo nhau sẽ có cách đấu tranh khác với chính quyền, với Formosa, vẫn hoàn toàn bất bạo động, vẫn sẵn sàng chịu bách hại kinh khiếp hơn nữa, chỉ để cho cả nước, cho cả thế giới thấy họ có chính nghĩa, và họ quyết sống chết vì Công Lý và Sự Thật…

Tin mới nhất nhận được từ Tin Mừng cho Người Nghèo, cha già Lê Đăng Niêm của Giáo Xứ Thủ Thiêm báo tin ngày mai nhà nước cho xe đến ủi sập ngôi trường học của Giáo Xứ, cha mời gọi lúc 7g sáng ngày 17 tháng 2, mọi người hãy kéo đến hiệp thông với cha, với các Nữ Tu Mến Thánh Giá và bà con Giáo Dân. Cha già bảo “sẽ mặc áo chùng thâm, ngồi xe lăn ngay tại vị trí mà nhà cầm quyền muốn bình địa”…

Đến đây thì tôi nhớ lại biến cố năm 1975, ngược dòng thời gian đến 42 năm. Mùa Chay năm ấy, một Linh Mục Dòng Đa Minh giảng thuyết nhiều ngày liền thật hùng hồn thu hút tại Nhà Thờ Đức Bà Paris. Rất nhanh, các bài giảng được in ra xuất bản với tựa đề “Contre toute espérance”. Có ai đó cầm được một bản từ Pháp về tới Sàigòn trong những ngày đạn bom không còn ở vùng hỏa tuyến xa xôi, nhưng đã tràn về đến ngoại ô, đến cửa ngõ thủ đô miền Nam.

Cha Jean Marie Trần Văn Phán, Dòng Phanxicô ở Đakao, đã dịch rất nhanh tập sách với tựa đề “Tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông”. Câu này lấy từ Thư Rôma chương 4 câu 8, bản dịch tiếng Anh là: “Who in hope believed against hope”, bản dịch tiếng Pháp là:“Espérant contre toute espérance, il crut”, bản dịch tiếng Việt của Nhóm CGKPV là: “Mặc dầu ông Abraham không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin”. Xem ra cách dịch thoát ý của cha Phán tuy không theo sát các bản dịch Tân Ước nhưng lại lột tả được tinh thần toàn bộ bài giảng của tác giả Bernard Bro.

Tập sách được quay “roneo chui”, phổ biến ngay trong giới Linh Mục Tu Sĩ Sàigòn dạo ấy. Dù vậy, hình như cha Phán chưa hài lòng, ngay sau ngày mất Sàigòn, khi mọi người còn đang ngơ ngác, thậm chí có phần hoảng loạn vì diễn tiến lịch sử quá nhanh, quá bi đát và tàn bạo, cha sang nhà chúng tôi chỉ cách Nhà Thờ khoảng 300m, gặp ba tôi, ông Lê Văn Lộc, để bàn về một bản dịch mới, chu đáo cẩn trọng hơn. Chỉ trong khoảng mấy tháng, ba tôi đã dịch xong, nhanh nhưng rất kỹ lưỡng. Và thật bất ngờ cho tôi là thằng bé út 17 tuổi, học giỏi môn Văn, được ba tôi giao một trách nhiệm hết sức nặng nề mà vinh dự là giúp ông biên tập câu văn lại cho nó ra văn phong tiếng Việt, xuôi chảy mà không phản nghĩa nguyên tác. Ba tôi chọn dịch tựa đề ngắn hơn, mạnh hơn, lúc đầu là “Niềm cậy trông bất chấp tuyệt vọng”, rồi sau ông lại đổi ngắn hơn nữa, mạnh hơn nữa “Niềm cậy trông bất khuất”.

Và tôi đã may mắn được tiếp cận với một bộ bài giảng tuyệt vời, không chỉ về ý nghĩa Thần Học sâu xa độc đáo mà còn về cả những minh họa sống động của cuộc đời cho những giá trị Tin Mừng Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại khốn khổ bi thương ở mọi thời và ở mọi nơi, ám hợp ngay cả với hoàn cảnh đất nước quê hương Việt Nam chúng ta vừa lọt vào tay những người CS vô thần.

Bản dịch được chính ba tôi đánh máy lưu giữ trong nhà như một di sản trong khoảng năm 1978. Sau khi ba tôi mất năm 1988, tôi đi TNXP để đủ điều kiện vào Đại Chủng Viện Giuse, nhưng rồi cũng không xong, tôi xin chuyển sang DCCT. Tôi đã mang theo 6 tập sách đánh máy chữ này vào Nhà Tập năm 1991 để dùng như sách thiêng liêng. Đến 1998, làm Phó Tế về phục vụ ở vùng quê Vĩnh Long và Đồng Tháp, tôi bắt đầu mỗi ngày một chút, lọ mọ gõ mổ cò bằng bàn phím computer rồi đem đi photo, đóng bìa như một cuốn sách ấn hành đẹp.

Hôm nay, tôi xin trích một đoạn ngắn trong tập sách dịch tuyệt vời ấy để tỏ lòng biết ơn và để tôn vinh những con người Việt Nam nhỏ bé, gầy gò, hiền hòa, bình dị, đàn ông và đàn bà, còn trẻ hay đã già, còn nhanh nhẹn đi lại hay đã phải ngồi xe lăn, ở khắp mọi miền đất nước quê hương trong nhiều năm qua, và đặc biệt trong những ngày tháng đầu xuân này, đã hầu như “tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông”, phải nói họ đã có được một “niềm cậy trông bất khuất” trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người đời, để trở thành “những người sẵn sàng chịu chết” cho Lẽ Phải.

.

Xin trích bài giảng của cha Bernard Bro:

Văn hào Nga hiện đại Andrei Siniavski ( 1925 – 1997 ) đã từng mang án khổ sai, phải sống lưu vong và dạy học tại Pháp. Với nhãn quan của một người không có tín ngưỡng, ông đã viết về niềm tin Kitô giáo của các tín hữu xuyên qua các cuộc bách hại mọi thời và mọi nơi trên thế giới như sau:

Trong đội ngũ của họ, hạng người khôn ngoan không có là bao. Tiểu sử của họ là một chuỗi dài những cuộc tuẫn đạo và tử vong nặng nề của một đoàn quân chỉ biết noi gương Thiên Chúa của họ. Đó là những chiến sĩ phô bày trước thế gian những vết sẹo và thương tích như những dấu hiệu hiên ngang, tự hào và vinh quang.

Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, cả giới hạ lưu bần cùng, cả bọn trọng phạm. Thế nhưng, họ đều đã nhận lấy thập giá. Bất cứ ai cũng đều có thể gia nhập đội ngũ của họ, người dốt nát cũng như kẻ đã từng phạm tội, chỉ với một điều kiện là sẵn sàng nhảy vào lửa.

Đó là thứ tôn giáo của một niềm hy vọng lớn nhất phát sinh từ cảnh tuyệt vọng. Không một tôn giáo nào trên thế giới này lại có được sự tiếp cận mật thiết nhất với tử thần nhiều như Kitô giáo. Mà không phải là họ không biết sợ hãi đâu ! Họ không hề chiêm ngưỡng sự vĩnh cửu, nhưng họ chiếm lấy sự vĩnh cửu bằng cách phấn đấu với một thứ vũ khí duy nhất; đó là sẵn sàng chịu chết !”

Lm. QUANG UY, DCCT, đêm 16.2.2017

Tạ ơn đời – Tạ ơn bạn gần xa thăm hỏi.

Tạ ơn đời – Tạ ơn bạn gần xa thăm hỏi.

Tạ ơn đời hôm nay Tôi còn sống
Mắt còn nhìn, còn đọc được Emails

 Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu.

 Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả !

 THAM BAN

Tạ ơn các bạn gần xa
Hằng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều.
Emails nhận được bao nhiêu
Là bao tình cảm thương yêu nồng nàn. 

 

 

BẠN TA

Thăm hỏi bạn, biết rằng người còn đó

Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi
Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi
Vui được biết, Bạn bình an vui sống

Đời trần thế ví như là huyễn mộng

Kiếp nhân sinh là sinh tử, tử sinh
Quý nhau chăng chỉ ở một chữ Tình
Tình cha mẹ, tình vợ chồng, bè bạn


Tình cảm ấy ta không treo giá bán
Khi con tim không đơn vị đo lường
Bàn cân nào, cân được chữ Yêu Thương
Thế mới biết Thương Yêu là vô giá!


Cuộc đời dẫu đảo điên, nhiều dối trá
Nếu chúng ta thực sự mến thương nhau
Thì tiếc chi một lời nói, câu chào
Hãy trao gửi, sưởi ấm tình nhân thế


Có hơn không dù biết rằng chậm trễ
Vì con người ai cũng thích yêu thương
Được thương người và cũng được người thương
Hãy bày tỏ yêu thương dù có chậm


Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến


Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Người còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

 
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.

Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.

Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: “Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông”. Nói xong, người hành khất ném cả ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.

Ðã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.

Không gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.

Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.

Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?

Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: “Cho thì có hạnh phúc hơn nhận lãnh”.

Cho là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn

    Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ Mai gởi

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 7 thường niên năm A 19/02/2017

 Tin Mừng: (Mt 5: 17-37)

 Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.

 “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.

  “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.

 “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.

  “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”.Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”

                                  &    &   &

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ”

“Hạt bụi rớt xuống đời, xin lẫn vào nhau…”

(dẫn từ thơ Bùi Thanh Tuấn)

 Mt 5: 38-48 

  Mai Tá lược dịch

Địa đàng cuộc sống, là chốn miền để gợi nhớ. Hạt bụi tình người, là chất liệu để yêu thương. Thương yêu, điều Chúa nhắc nhở, ở Tin Mừng, vẫn được thánh sử ghi chú, vẫn lâu nay.

Nhiều người, rất lấy làm lạ khi được bảo: Tin Mừng thánh sử viết, là bản văn viết không vào thời Chúa hoạt động, hoặc ngay sau ngày Chúa sống lại, nhưng được viết vào nhiều thập niên sau, như: “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chẳng hạn, đã chỉ được ghi chép vào giữa thập niên ’80, ở thế kỷ đầu. Và, người ghi chép “Tin Mừng” này không phải là Mát-thêu-thu-thuế thời Chúa sống. Cũng không là một trong số mười hai tông đồ, gần gũi Chúa. Mátthêu đây là học giả Do thái hiểu biết nhiều tiếng Hy Lạp, xuất thân sinh sống tại một quận ở ngoại ô Giêrusalem, mà người thời ấy có thói quen gọi là “thày dạy”, hoặc đấng bậc “tư tế”.

Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu”, là vị thức giả từng hồi hướng về với Đạo Chúa, ngang qua các thừa sai của Chúa.Thánh sử Mát-thêu học được nhiều điều, qua hành động và cuộc sống từ các Đạo hữu theo chân Chúa. Đặc biệt, là các vị có liên hệ mật thiết với thánh Phêrô tông đồ, thời tiên khởi. Khi ghi chép Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, tác giả đã ở vào độ tuổi cao niên khá cứng, nhưng ông lại là người có tầm nhìn thông thoáng, thi vị. Ông đề cập nhiều đến những con người và người con có tâm tư chân phương, bình dị nhưng có tư cách.

Sử gia Mátthêu, là cây viết rất sáng giá. Thánh nhân, tuy chung đụng nhiều với người Do thái, nhưng dùng tiếng Hy Lạp để ghi chép Tin Mừng. Và, qua văn phong văn thể cùng lập trường chuyên chính rất Kitô, nên các nhà chú giải cho rằng tác giả là một trong các Kitô-hữu đầu tiên, ở thời ấy.

Tin Mừng do tác giả viết, lại gồm lời lẽ ân cần, gửi đến các đấng bậc khôn ngoan/thông thái ở Israel. Nên, nhờ đó ta học được rất nhiều điều qua các dạng thức, như: lời sấm, dụ ngôn, phương châm, hoặc tư vấn, nhất nhất đều nhấn mạnh đến điều Chúa giảng rao cho mọi người. Bởi thế nên, người đọc nhận ra những 73 lần tác giả lập đi lập lại cụm từ “tông đồ”, ở “Tin Mừng” này.

Và vì thế, người đọc cũng nên hiểu cụm từ “tông đồ” theo nghĩa các “đấng bậc khôn ngoan/uyên bác” chuyên học hỏi những điều hay lẽ phải, do từ Chúa phán ra. Và cũng vậy, người đọc đừng nên hiểu rằng tác giả “Tin Mừng” là nhà thức giả thuộc tầm cỡ đại học, chuyên ngồi trong phòng lạnh để viết. Hãy cứ tưởng tượng rằng: khi ghi chép “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” tác giả đã suy tư dưới ánh đèn dầu leo lét, với tâm tình nguyện cầu trong bầu khí ẩm ướt, nặc mùi khô cháy có lưới cá đang hơ hóng, ở đâu đó…

Nay có người hỏi: thánh sử Mát-thêu muốn chuyển tải điều gì mới mẻ, khi ghi chép Lời Chúa?

Hầu hết các cộng đoàn tin theo Chúa sống ở Giêrusalem, đều mang tính chất rất “Do thái”. Hết thảy đều thấy nơi Đức Giêsu một Môsê rất mới để các vị nghe lời. Vì, xét cho cùng, Ngài còn mới hơn cả chính tiên tri Môsê, bởi Ngài là Đấng luôn chủ trương những điều mới mẻ, nơi Lề Luật. Và, điều mới mẻ khác nữa, là: Ngài không cất bỏ đi yếu tố quan trọng sẵn có từ hậu duệ của Đavít. Và, mọi người còn nhận ra nơi Đức Giêsu, hệt như ở Môsê và Đavít, ảnh hình của Đấng Bậc Hiền Từ, rất đặc biệt. Đặc biệt, là bởi người người đều nhận thấy rằng: qua Ngài và ở nơi Ngài “Ơn Cứu Độ” đã đến, là đến với cả Dân ngoại nữa. Ngài đến, qua trung gian Israel hoặc những người Do thái, tức: những người lúc ấy vẫn ở trong tư thế cách xa và tách rời khỏi dân-được-chọn.

Và, họ coi đó như ân sủng riêng tư, nhận từ Chúa. Bởi thế nên, trở thành người hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, phải là người Do thái tích cực, phóng khoáng, những người chủ trương tuân giữ Luật Torah rất Đạo. Từ đó, cộng đoàn dân Chúa đã thấy mọi người tập trung nhấn mạnh đến Luật Torah. Quyết tuân giữ Lề Luật cách kiên trì, nhưng thông thoáng. Tuân và giữ, theo tinh thần tự do của người con Đức Chúa, mới đúng.

Vốn đặt nền tảng vững vàng lên truyền thống rao giảng kiểu thánh Phaolô Tông đồ, Hội thánh Chúa khi ấy đã có tầm nhìn rất khác lạ về Lề Luật. Và, Hội thánh đã coi Đức Giêsu là Đấng Bậc rất Do thái, chủ trương giữ Luật Torah thật đúng qui cách nhưng tự do, phóng khoáng, cho đúng nghĩa. Kể từ đó, Hội thánh vốn có sẵn tinh thần giảng rao của thánh Phaolô, lại đã khám phá ra rằng: tự do con cái Chúa là một hiện hữu rất đích thực, khi ta tuân thủ Lề Luật, rất Torah.

Là người Do thái sống ở miền Bắc xứ Palestin thời tiên khởi, thánh sử Mát-thêu xuất xứ từ một quá trình cuộc sống, có lập trường khá bảo thủ. Chí ít, là truyền thống giữ luật đúng qui cách, như Chúa dạy. Thánh sử cũng lo rằng nhiều truyền thống có thể sẽ mai một đi nếu không có người bận tâm lo duy trì nó. Và, thánh sử còn một mối lo ngại nữa, cứ e rằng: rồi ra sứ vụ tông đồ rao giảng kiểu Phaolô thánh nhân, có thể sẽ khiến truyền thống của người Do thái trở thành thứ yếu, mất đi tầm quan trọng. Do đó, thánh sử gia đã cảm thông với tình huống mà cộng đoàn Hội thánh ở Giêrusalem đang sống, dù cho thánh sử không thuộc về cộng đoàn này.

Cũng vì thế, tác giả quyết tâm tái cấu trúc cộng đoàn theo kiểu cộng đoàn dân Chúa ở Giuđêa, nghĩa là: không chỉ rập theo khuôn phép cũ của người Do thái, nhưng còn phổ biến lối sống của cộng đoàn Hội thánh Giêrusalem, hoặc có khuynh hướng mục vụ rao giảng theo kiểu của thánh Phaolô. Bởi thế nên, người đọc nhận ra rằng: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” cũng mang dáng vẻ bảo thủ qua việc đòi mọi người giữ luật cho đúng qui cách. Chí ít, là cải cách niềm tin của người Do thái theo khuôn khổ “chiên lạc rời khỏi ràn nhà Israel”. Thành thử, tinh thần của thánh sử và của cộng đoàn nơi thánh nhân sinh hoạt vẫn có khả năng duy trì mối liên kết chặt chẽ với đền thờ người Do thái.

Tuy nhiên, thánh sử Mát-thêu không quên rằng: chính Đức Kitô mới là Đấng ta cần tin vào Ngài. Thánh sử diễn tả lập trường này theo lối viết giản đơn, rất thông thường, rằng: thay vì ta áp dụng nguyên tắc đền và bù như: “mắt đền mắt”, “răng đền răng”, tác giả lại khuyên người đọc Tin Mừng của ngài, hãy nên sử dụng đường lối bất-bạo-động. Và, thay vì phòng thủ hoặc trả thù, thánh sử đề nghị ta nên khoan dung, độ lượng.

Thay vì lo cho riêng mình, hãy quan tâm ái ngại đến người khác. Với thánh sử Mát-thêu, đây không phải là lạc quan sáng suốt, cũng chẳng là đường lối tư riêng độc quyền của người Hy Lạp, nghĩa là đường và lối chỉ chú trọng vào cuộc sống tư riêng của người khác, thôi. Nhưng, là: hãy áp dụng luật Torah theo qui cách thương yêu, như Chúa đã khuyên dạy.

Điều cốt thiết mà thánh sử nhận ra nơi lời dạy của Chúa, là: Ngài là người giữ luật Torah, rất đúng cách. Tuy nhiên, Ngài chú trọng đến tinh thần, chứ không phải chữ viết của Luật. Nói cách khác, người đọc “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể hiểu Luật Torah cho đúng cách, nếu không thi hành lời dạy của Đức Giêsu cũng như cộng đoàn nhỏ bé của Ngài, là Hội thánh thời tiên khởi. Bởi, cộng đoàn Hội thánh mới là người sống thực Luật Torah theo tinh thần Chúa đề ra. Và, thánh sử lại thêm rằng: dân con thành thánh Giêrusalem không chắc đã nhận ra được điều này. Vì thế nên, người đọc “Tin Mừng” có thể kết luận rằng: tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” quả là phóng khoáng cũng rất đúng.

Vậy, người đọc hôm nay học hỏi được điều gì qua sự việc này?

So sánh kinh nghiệm của các thừa sai tông đồ thời tiên khởi với kinh nghiệm thời Hậu-Công Đồng Vatican II, dân con Hội thánh nhận ra được điều gì? Ta có nhận ra được năng lực và tự do con cái Chúa nơi cộng đoàn Hội thánh tiên khởi theo kiểu thánh Phaolô không? Phải chăng, so sánh kinh nghiệm về cố gắng ‘tái lập’ di sản được bảo tồn, đáng yêu từ một truyền thống rất đúng đắn? Truyền thống, có là qui cách mà tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” hằng cảnh báo Hội thánh hãy trở về với tính chất Do thái, ở lai thời không?

Nếu tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” nay còn sống, hẳn ông sẽ yêu cầu các đấng bậc vị vọng trong Hội thánh hôm nay, hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tái tục truyền thống đã có từ thời tiên khởi? Và, Hội thánh cũng nên nhìn vào Đức Giêsu hơn là các truyền thống mà các ngài muốn duy trì, bảo vệ. Hẳn rằng thánh sử Mát-thêu cũng sẽ yêu cầu mọi thành viên Hội thánh hôm nay hãy có tầm nhìn phóng khoáng và cởi mở, tốt hơn là ở lại với truyền thống xưa/cũ. Như Đức Giêsu khi xưa, vẫn đứng về phía những người duy trì Luật Torah, bằng tinh thần chứ không theo từng chữ. Và, ảnh hình Chúa chấp nhận dìm mình thanh tẩy nơi sông Giođan, sẽ là bằng chứng điển hình cho việc tuân giữ Luật Torah, rất tự do lại có tinh thần thương yêu đúng qui cách.

Thật khó mà thiết-lập được quân bình cho cơn sóng dồn và sức ép từ Lề Luật, thế mà Ngài vẫn chấp nhận dầm mình dưới giòng sông Giođan để chứng tỏ tinh thần giữ Luật đúng cách. Nhưng, tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” vẫn sẽ là vị học giả cao niên, chín chắn. Là vị thức giả hiểu rõ hơn ai hết tinh thần của người Do thái. Hiểu Đức Kitô và người nghèo, hơn ai hết. Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chính là người có được nhận thức mới về sự khôn ngoan, thông suốt cho mỗi người chúng ta.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  Mai Tá lược dịch