“Thủ tướng trăn trở vì người Việt gửi tiền ra nước ngoài mua nhà”???

From facebook: Tran Dat shared Amy Truc Tran‘s post.
 
Image may contain: 1 person, standing and text
Amy Truc Tran

 

(Tận cùng của sự giả dối….)

“Thủ tướng trăn trở vì người Việt gửi tiền ra nước ngoài mua nhà”

Thế ngài thủ tướng có thống kê được phần lớn những người gửi tiền ra nước ngoài là thuộc thành phần nào, phải chăng là những quan chức cộng sản, những “đồng bọn” của ngài thủ tướng trong đó nổi bật là con trai ngài thủ tướng đang sống trong biệt thự xa hoa tại Mỹ…

Sự “trăn trở” của ngài thủ tướng càng làm bộc lộ rõ sự giả dối của người đứng đầu bộ máy nhà nước nói riêng và của cả chế độ nói chung…buồn cho dân tộc Việt Nam khi bị cai trị bởi sự giả dối…

Nghi vấn xung quanh vụ Trịnh Xuân Thanh ra đầu thú

Nghi vấn xung quanh vụ Trịnh Xuân Thanh ra đầu thú

Kính Hòa RFA
2017-07-31
 
Hình minh họa cho bài viết về ông Trịnh Xuân Thanh trên trang mạng nguyentandung.org

Hình minh họa cho bài viết về ông Trịnh Xuân Thanh trên trang mạng nguyentandung.org

Courtesy of nguyentandung.org
 
 Ngày 31 tháng Bảy, 2017, ông Trịnh Xuân Thanh, người bị nã quốc tế suốt một năm nay ra đầu thú cơ quan công an tại Hà Nội.

Trước đó 1 ngày, Tướng Tô Lâm Bộ trưởng Bộ Công An nói với báo chí rằng ông không biết gì về chuyện này cả.

Ông Bùi Thanh Hiếu, hay blogger Người Buôn Gió, người sống tại Đức và trước đây có một số bài viết về nhân nhân vật Trịnh Xuân Thanh, nói với đài RFA rằng ông gặp ông Trịnh Xuân Thanh lần cuối cùng vào tháng ba năm nay, 2017, tại Đức. Lúc đó ông Trịnh Xuân Thanh có nói ý định của mình là về Việt Nam để ra tòa.

Ông Thanh thì cứ muốn về rồi ra tòa, thế nọ thế kia, xử công khai rồi có giám sát quốc tế các thứ, để ông ấy tranh luận làm rõ cái vụ 3300 tỉ ấy.”

Theo trình bày của ông Bùi Thanh Hiếu thì ông Thanh không có ý định định cư ở nước ngoài ngay từ đầu, hành động trốn ra nước ngoài của ông vào năm 2016 là để tránh bị bắt rồi bị xử bất công.

Trong thời gian một năm qua, có nhiều tin đồng rằng ông Trịnh Xuân Thanh sống ở vài nước khác nhau. Ông Bùi Thanh Hiếu xác nhận rằng ông Thanh có sống ở Đức, và đã gặp ông Hiếu. Ngay sau khi có tin ông Thanh trốn khỏi Việt Nam, blogger Người Buôn Gió, tức Bùi Thanh Hiếu viết rất nhiều bài về ông Trịnh Xuân Thanh, dựa trên những thông tin được cho là do ông Thanh cung cấp.

Ngày 30 tháng bảy năm 2017, tin ông Trịnh Xuân Thanh về nước được lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội, bắt nguồn từ facebook của nhà báo Huy Đức.

Nhà báo Phạm Chí Dũng hiện sống tại Sài Gòn nói về những tin tức trái ngược nhau trong ngày 30 tháng bảy:

“Cùng ngày 30 tháng bảy tôi lại ngỡ ngàng đọc cái bài trên báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, phỏng vấn ông Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam, hỏi về thông tin cho rằng cơ quan điều tra đã di lý ông Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam rồi. Ông Bộ trưởng Bộ công an lại nói như phân bua là đến giờ vẫn chưa có thông tin gì. Thế là có người kêu lên rằng tôi biết tin vào ông Huy Đức hay ông Tô Lâm đây. Chẳng lẽ một bộ máy khổng lồ của Bộ Công an, cơ quan công an Việt Nam giỏi như thế, giỏi nhất thế giới, lại thua một cá nhân nhà báo Huy Đức. Mới hôm qua đây công an đã huy động bắt giữ bốn người bất đồng chính kiến của Hội anh em dân chủ, mà tại sao Huy Đức biết trước (vụ ông Thanh bị bắt) mà Bộ Công an lại không biết gì?”

Theo ông Phạm Chí Dũng thì những tin tức mà nhà báo Huy Đức đưa ra trong thời gian gần đây là đáng tin.

Ông Thanh thì cứ muốn về rồi ra tòa, thế nọ thế kia, xử công khai rồi có giám sát quốc tế các thứ.
-Blogger Bùi Thanh Hiếu.

Khi được hỏi về khả năng chính công an Việt Nam đã ra nước ngoài bắt giữ ông Trịnh Xuân Thanh rồi đưa về Việt Nam, ông Bùi Thanh Hiếu cho rằng không có điều đó:

Chuyện cơ quan công an ra nước ngoài bắt ông Thanh là không thể được. Thứ nhất là ông ấy có luật sư ở đây. Muốn bắt ông ấy thì phải ra tòa, rồi căn cứ theo các luật của người ta để phán quyết là không chấp nhận đơn của luật sư, trục xuất ông ấy về, rồi mới tới thủ tục bàn giao cho công an Việt Nam để công an Việt Nam đưa ông Thanh về.”

Trong suốt thời gian một năm qua, từ khi có tin ông Trịnh Xuân Thanh bỏ trốn ra nước ngoài, các vị đại diện cơ quan pháp luật Việt Nam thường khẳng định rằng sẽ di lý ông Thanh về Việt Nam để xử tội dù ông đang ở đâu.

Nhà báo Phạm Chí Dũng kết luận về diễn biến ra đầu thú của ông Trịnh Xuân Thanh:

Có cái gì đó rất khó hiểu trong việc ông Trịnh Xuân Thanh đi đầu thú. Vừa khó hiểu, vừa kịch tính, vừa hài hước. Tôi có cảm giác như đang xem những cuốn phim Nguyễn Bá Thanh 2014, Phùng Quang Thanh 2015, chiếu lại. Có cái gì kỳ bí giống như trong một màn sương mù, có những bàn tay nhớp nhúa thò ra đạo diễn giống như lên đồng.”

Ông Nguyễn Bá Thanh nguyên là Trưởng Ban Nội chính trung ương, cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam có trách nhiệm trong việc phòng chống tham nhũng tại Việt Nam, đi nước ngoài vào năm 2014. Lúc ấy nhiều tin đồn trên mạng xã hội nói rằng ông mắc bệnh hiểm nghèo, thậm chí bị đầu độc, nhưng truyền thông Việt Nam im tiếng. Sau đó tin ông Nguyễn Bá Thanh mất cũng được mạng xã hội đưa tin trước khi nhà nước Việt Nam xác nhận rằng ông mất.

Ông Phùng Quang Thanh, nguyên Bộ trưởng Bộ quốc phòng sang Pháp trị bệnh vào năm 2015 cũng dấy lên rất nhiều đồn đoán về bệnh tình của ông, nhưng cơ quan truyền thông nhà nước Việt Nam cũng không bình luận gì.

Nhìn vào sự khác biệt của lời phủ nhận của tướng Tô Lâm về tin ông Trịnh Xuân Thanh ra đầu thú, và tin chính thức xác nhận của Bộ Công an sau đó chỉ có 1 ngày rằng ông Thanh đã đầu thú, nhà báo Phạm Chí Dũng đặt nghi vấn rằng ông Trịnh Xuân Thanh đã gặp một ai đó có quyền lực trước khi đến đầu thú tại cơ quan công an.

Có cái gì đó rất khó hiểu trong việc ông Trịnh Xuân Thanh đi đầu thú. Vừa khó hiểu, vừa kịch tính, vừa hài hước.
-Nhà báo Phạm Chí Dũng.

Ông Trịnh Xuân Thanh từng làm Chủ tịch hội đồng quản trị Tổng Công ty Xây lắp Dầu khí, thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Vụ thất thoát số tiền 3300 tỉ đồng tại tổng công ty này được cho là diễn ra dưới thời ông Thanh chịu trách nhiệm đứng đầu. Nhưng sau khi rời Tổng Công ty Xây lắp Dầu khí, ông Trịnh Xuân Thanh lại trúng cử đại biểu quốc hội, rồi làm phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang. Khi ông làm việc tại tỉnh này thì tin tức về những vụ tham nhũng có liên quan đến ông được báo chí Việt Nam đưa tin vào khoảng giữa năm. Sau đó ông trốn ra nước ngoài, và bị chính phủ Việt Nam truy nã quốc tế.

“ĐÔI DÉP”

 “ĐÔI DÉP”

MỘT BÀI THƠ CHÂN THẬT, CẢM ĐỘNG VỀ TÌNH NGHĨA VỢ CHỒNG.

Quý Vân chuyển

Bài thơ đầu anh viết tặng em
Là bài thơ anh viết về đôi dép
Khi nỗi nhớ trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng viết thành thơ

Hai chiếc dép kia gặp gỡ bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung, xuống cát bụi, cùng nhau

Cùng bước, cùng mòn, không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người chà đạp
Dẫu vinh nhục, không đi cùng người khác
Số phận chiếc nầy phụ thuộc ở chiếc kia.

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế sẽ trở thành khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu.

Cũng như mình trong những phút vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh.

 

 

 

 

 

 

 

 

Đôi dép vô tư khắng khít bước song hành
Chẳng thề nguyện mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi.

Không thể thiếu nhau trên mọi bước đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải, trái
Nhưng anh yêu em bởi những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau một bước đi chung.

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia.

Nguyễn Trung Kiên

Bé gái 8 tuổi cầu nguyện với một nhóm cảnh sát trong tiệm ăn

Bé gái 8 tuổi cầu nguyện với một nhóm cảnh sát trong tiệm ăn

 
Trong khi họ đang ăn trong một tiệm ăn ở San Antonio (Texas, nước Mỹ) thì các cảnh sát viên ngạc nhiên vì đề nghị của em bé gái.
Bé gái 8 tuổi cầu nguyện với một nhóm cảnh sát trong tiệm ăn
Bé gái 8 tuổi cầu nguyện với một nhóm cảnh sát trong tiệm ăn
Câu chuyện thật cảm động vừa xảy ra gần đây trong một tiệm ăn ở tiểu bang Texas. Đầu tiên hết, câu chuyện được đăng trên Facebook ngày thứ tư 5 tháng 7, được hàng ngàn người chia sẻ, sau đó được báo chí Mỹ đăng tiếp. Và người ta hiểu vì sao nó đã được đăng.
 Hôm đó, cô bé Paige 8 tuổi đi ăn với dì Martha ở tiệm ăn Luby’s, Paige Bosquez, em thấy một nhóm cảnh sát mặc đồng phục ngồi ăn gần đó.

Xin Chúa bảo vệ

Người mảnh khảnh, em mặc áo thun màu xanh da trời, quần ngắn bermuda cũng màu xanh da trời, em đến gần họ và hỏi một câu làm những người dũng cảm này quá ngạc nhiên: “Các ông có muốn con cầu nguyện cho các ông được an toàn và Chúa bảo vệ các ông trong sự che chở của Ngài không?”.

Sững sờ, các cảnh sát viên đồng ý ngay và họ cùng em Paige cầu nguyện, và phản xạ tự nhiên của dì Martha là chụp hình cảnh đang ghi nhớ này. Khi cầu nguyện xong và ăn xong, họ đến bàn của em Paige để cám ơn trước khi rời tiệm ăn.

Phải nói là các cảnh sát viên này vẫn còn sốc sau cái chết của một trong các đồng nghiệp của họ, ông Miguel Moreno đã bị hạ khi ông điều tra các vụ ăn cắp xe hơi vào ngày 30 tháng 6 vừa qua. Sáng kiến của em Paige đã làm cho họ rất xúc động.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Nguồn tin: Phanxico

Tại sao đồng tiền Mỹ lại có dòng chữ “In God We Trust”?

 Tại sao đồng tiền Mỹ lại có dòng chữ

“In God We Trust”?

 By   QUỲNH VI

Dòng tiêu ngữ trên đồng tiền Mỹ. Ảnh: Liberty News Now.

Vào ngày này cách đây 61 năm, cụm từ “In God We Trust” (tạm dịch: “Chúng ta tin Chúa”) trở thành tiêu ngữ quốc gia Mỹ.

Ai đã từng cầm một tờ đô-la Mỹ trên tay đều dễ dàng nhìn thấy dòng chữ này. Vì sao một nhà nước thế tục như Mỹ lại sử dụng dòng chữ mang đầy tính tôn giáo này làm tiêu ngữ quốc gia?

“Chúng ta tin Chúa” bắt nguồn từ bài thơ Lá cờ sao lấp lánh được luật sư Francis Scott Key viết trong Cuộc chiến Anh-Mỹ năm 1812. Bài thơ này được nhà soạn nhạc John Stafford Smith phổ nhạc, và vào năm 1931, đã chính thức trở thành Quốc ca Hoa Kỳ.

Một đạo luật của Quốc hội vào năm 1864 đã cho phép khắc dòng chữ này trên đồng hai xu sau khi có rất nhiều người dân đưa ra đề xuất. Người đi đầu trong nỗ lực này là mục sư M. R. Watkinson của bang Pennsylvania.

Theo thông tin từ Bộ Ngân khố Hoa Kỳ, mục sư M. R. Watkinson cho rằng, khi Cuộc chiến Nam – Bắc trở nên khốc liệt hơn, đại bộ phận người dân miền Bắc cảm thấy họ cần phải được tiếp sức niềm tin để tiếp tục chiến đấu.

Niềm tin của họ, theo Watkinson, chính là GodGod ở đây được hiểu là Chúa trời, hay Thượng đế. Nhiều người Mỹ tin rằng Chúa trời đã bảo vệ nước Mỹ từ những năm đầu lập quốc, nhờ vậy, cho dù đã từng trải qua nhiều cuộc chiến ác liệt, Liên bang Hoa Kỳ (the Union) vẫn tồn tại.

Bài thơ Lá cờ sao lấp lánh đã truyền cảm hứng đặc biệt cho người dân miền Bắc. Lý do là nó ra đời sau khi tác giả chứng kiến pháo đài McHenry tại thành phố Baltimore, bang Maryland vẫn ngoan cường chiến đấu và không thất thủ, dù bị quân đội Anh tấn công dữ dội vào đêm 18/6/1812.

Francis Scott Key hoàn thành bài thơ vào năm 1814, và ông đã viết:

“Hãy cùng ca tụng quyền lực nào đã làm nên và bảo toàn Tổ quốc ta! Chiến thắng rồi sẽ đến với những ai mang lý tưởng của sự công bình. Hãy lấy điều này mà làm tiêu ngữ, ‘Chúng ta tin Chúa’!”

Và theo mục sư Watkinson, niềm tin của các binh sĩ trong cuộc chiến Anh – Mỹ cũng chính là niềm tin của người miền Bắc trong thời kỳ Nội chiến, rằng Chúa đứng về phía họ, như đã từng đứng về phía cha ông họ trong những cuộc chiến trước, và sẽ giúp họ chiến đấu bảo vệ một nước Mỹ toàn vẹn.

Đến tháng 3/1865, khi Nội chiến sắp kết thúc, Quốc hội Mỹ tiếp tục ban hành một đạo luật nữa, cho phép tiêu ngữ này được khắc trên tất cả các đồng tiền kim loại. Ngay sau khi Nội chiến chấm dứt, từ năm 1866 trở đi, tiêu ngữ này đã bắt đầu xuất hiện trên các đồng xu Hoa Kỳ.

Tiến vào thập niên 1950, cuộc chiến chống lại ý thức hệ cộng sản dâng cao tại Mỹ. Một số người dân cho rằng, việc xác quyết niềm tin vào tôn giáo một lần nữa cần được đề cao để khẳng định Hoa Kỳ là một đất nước có niềm tin tôn giáo, trái ngược với tư tưởng vô thần của những người cộng sản. God đến lúc này được họ hiểu là đấng tối cao nói chung của các tôn giáo, chứ không riêng tôn giáo nào.

Vì vậy, ngày 11/7/1955, Tổng thống Dwight D. Eisenhower đã ký ban hành Đạo luật H.R.619, và kể từ năm 1957 trở về sau thì không chỉ các đồng xu, mà tất cả các đơn vị tiền tệ của Hoa Kỳ sẽ đều in dòng chữ “In God We Trust”.

Ngày 30/7/1956, tiến thêm một bước, Tổng thống Eisenhower lại ký ban hành Đạo luật P.L.84-140, chính thức công nhận dòng chữ “In God We Trust” là tiêu ngữ quốc gia của Hoa Kỳ.

Luật sư Francis Scott Key, tác giả bài thơ “Lá cờ sao lấp lánh”, sáng tác năm 1812, sau này được phổ nhạc thành Quốc ca Hoa Kỳ. Ảnh: Maryland Public Television.

Có trái ngược với Hiến pháp không?

Ngay từ những ngày đầu tiên khi “In God We Trust” trở thành tiêu ngữ quốc gia, nó đã bị phản đối.

Những người ủng hộ một nhà nước thế tục tuyệt đối (secularists) cho rằng nó vi phạm Tu chính án thứ Nhất của Hiến pháp Mỹ, vốn ngăn cấm Quốc hội ban hành bất kỳ đạo luật nào tôn vinh một tôn giáo nào hay cấm đoán quyền tự do tôn giáo của người dân.

Hầu hết những người cho rằng tiêu ngữ này vi hiến đều dựa vào lập luận của Thomas Jefferson, là một trong những tổ phụ cổ xúy cho việc Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ phải tuyệt đối trở thành một nhà nước thế tục.

“Tôi, cũng như quý vị, tin rằng tôn giáo là vấn đề riêng tư giữa một cá nhân và Thượng đế, rằng một người không cần phải giải thích với bất kỳ ai về niềm tin hay cách thức mà anh ta thờ phụng, và rằng các quyền lực chính đáng của một nhà nước chỉ có thể vươn đến các hành vi của một người chứ không phải là những suy nghĩ của anh ta.

Tôi đoan chắc, với chủ quyền nhân dân đáng kính mà người dân Hoa Kỳ đã dùng để tuyên bố rằng, cơ quan lập pháp của họ sẽ ‘không tạo ra những luật lệ chỉ tôn vinh sự thiết lập của một tôn giáo, hay cấm đoán quyền được có tự do tín ngưỡng’, là chính người dân đã dựng lên một bức tường phân cách giữa Nhà nước và Tôn giáo” – Thomas Jefferson (1802).

Trong bức thư gửi Hội thánh Danbury năm 1802, Jefferson đã giải thích lý do vì sao ông ủng hộ việc phân chia rõ ràng giữa quyền lực nhà nước và thần quyền của một tôn giáo.

Theo Giáo sư Công pháp Jesse H. Choper của Đại học Luật Berkeley, bang California, Tu chính án thứ Nhất thường được các án lệ diễn giải là Hiến pháp không cho phép nước Mỹ có quốc giáo (national religion) và cũng nghiêm cấm chính quyền liên bang dùng ngân sách quốc gia để ủng hộ việc thiết lập hoặc vận hành của bất kỳ một tôn giáo nào.

Vào năm 1971, trong án lệ Lemon v. Kurtzman, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã đưa ra ba tiêu chuẩn để giúp xác định một hành vi hay đạo luật của chính phủ có vi phạm Tu chính án thứ Nhất hay không, bao gồm:

  • mục đích của nhà nước phải mang tính thế tục (secular purpose),
  • kết quả tiên quyết (primary purpose) của hành vi hay đạo luật của nhà nước không thể ủng hộ hay ngăn cấm bất kỳ một tôn giáo nào, và
  • không được tạo ra quan hệ đan xen quá mức giữa nhà nước và tôn giáo.

Tự do tôn giáo lại còn có nghĩa là người ta có quyền theo hoặc không theo bất kỳ một tôn giáo nào. Những ai phản đối sử dụng “Chúng ta tin Chúa” thì cho rằng, mục đích của việc đưa nó trở thành tiêu ngữ rõ ràng là ý tứ của những người tin vào thần quyền. Vì thế, mục đích của đạo luật này đã mất đi tính thế tục, và là hành vi vi hiến.

Tuy nhiên, tòa án Hoa Kỳ đã không đồng ý với lập luận trên, và tiêu ngữ này vẫn tiếp tục được sử dụng.

Tiêu ngữ “Chúng ta tin Chúa” trên tem Hoa Kỳ thập niên 1960. Nguồn: Shutterstock.

Tòa án nghiêng về phe ủng hộ tiêu ngữ

Trong 61 năm kể từ khi “Chúng ta tin Chúa” trở thành tiêu ngữ quốc gia, đã có khá nhiều vụ kiện phản đối nó. Lần gần đây nhất là vào năm 2016, khi một người theo chủ nghĩa vô thần (atheist), luật sư Michael Newdow, nộp đơn kiện yêu cầu tòa án không công nhận “Chúng ta tin Chúa” là tiêu ngữ quốc gia vì lý do vi hiến.

Nhưng mặc cho các nỗ lực của những người như Michael Newdow, cho đến thời điểm hiện tại, quan điểm của các vị thẩm phán Hoa Kỳ trong các án lệ liên quan vẫn không thay đổi, và nghiêng về phía ủng hộ tiêu ngữ.

Theo các thẩm phán, tiêu ngữ “In God We Trust – Chúng ta tin Chúa”, không phải là một câu văn có ý nghĩa tôn giáo tại Mỹ. Do đó, tiêu ngữ này không vi phạm Tu chính án thứ Nhất.

Ngoài ra, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ liên tục từ chối, cũng như chưa bao giờ xem xét những vụ kiện liên quan đến tiêu ngữ “Chúng ta tin Chúa”.

Và vì thế, hiện nay, án lệ Aronow v. United States (1970) của Toà Phúc thẩm Liên bang Khu vực số 9 có thể được xem là phán quyết có thẩm quyền cao nhất về vấn đề pháp lý này.

Theo án lệ này“rất hiển nhiên là câu tiêu ngữ quốc gia được in trên các đồng xu và toàn bộ hệ thống tiền tệ của Hoa Kỳ – ‘Chúng ta tin Chúa’ – không có bất cứ mối liên quan gì đến việc thiết lập một tôn giáo nào (làm quốc giáo)”.

Ngoài ra, những gì thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, William J. Brennan Jr., viết trong án lệ Lynch v. Donnelly (1984) – là một vụ kiện liên quan đến lời tuyên thệ trung thành với nước Mỹ (pledge of allegiance) – cũng nói rõ quan điểm chung của các tòa án Mỹ về vấn đề này.

Đó là, ngày nay, các tiêu ngữ như “Chúng ta tin Chúa” hay “Dưới Thiên Chúa” (Under God) đã mất đi màu sắc tôn giáo của nó bởi vì mọi người cứ nhai đi nhai lại những câu nói này theo kiểu học vẹt. Điều này đã khiến chúng không còn được xem là một cách tuyên xưng tôn giáo nữa, mà chỉ còn mang tính hình thức, đủ để xem đó là một phần của nghi lễ dân sự (civil religion).

Thái độ của các thẩm phán cũng đại diện cho số đông dân chúng.

Đến thời điểm hiện tại, đa số người Mỹ vẫn ủng hộ “In God We Trust”, và điều này được thể hiện qua việc Quốc hội Mỹ đã rất nhiều lần tái khẳng định đó chính là tiêu ngữ quốc gia. Lần gần nhất là vào năm 2011.

Vì sao người Mỹ lại có thái độ như vậy?

Ủng hộ tiêu ngữ “Chúng ta tin Chúa” vì lý do lịch sử 

Ngoài việc nghe quen tai như các thẩm phán đã chỉ ra ở trên, đa phần những người ủng hộ (hoặc không phản đối) dựa vào lịch sử và bối cảnh ra đời của nó tại Hoa Kỳ, chứ không hẳn bởi vì họ là những người sùng đạo.

Theo thời gian, trong sâu thẳm tâm thức của người Mỹ, ca từ của bài Quốc ca hiển nhiên được xem là một phần của lịch sử đất nước, với một tinh thần rất thế tục chứ không có mục đích tôn giáo nào nữa.

Hơn thế, hoàn cảnh ra đời của tiêu ngữ trong thời kỳ Nội chiến càng giúp người Mỹ khẳng định niềm tin vào sự vẹn toàn của Tổ quốc họ, cũng như lý do để họ tiếp tục bảo vệ quốc gia và những giá trị, di sản ông cha để lại.

Vì vậy, chúng ta có thể phần nào hiểu được vì sao đa số người Mỹ không cảm thấy họ đang tuyên xưng cho một quốc giáo, khi chọn một câu trong bài thơ Lá cờ sao lấp lánh của luật sư Francis Scott Key làm tiêu ngữ quốc gia của mình.

Tài liệu tham khảo:

Đất nước đẹp vô cùng, sao họ phải ra đi ?

Xin ghi chú thêm, trước năm 1975, không có ai muốn sinh sống ở nước ngoài, đủ thấy chế độ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà cũng đáng sống thực, chứ không như “thời đại rực rỡ” của ngày hôm nay, cái cột đèn nó biết đi nó cũng đi. Tại sao???

From facebook: Hoa Kim Ngo shared Mạnh Quân‘s post.
Các chú đọc kỹ bài của nhà báo Manh Quân nhé
 

Đất nước đẹp vô cùng, sao họ phải ra đi ?

Trong số đại biểu Quốc hội khóa trước, khóa XIII, tôi và một số anh em phóng viên chơi khá thân với một ĐBQH ở một tỉnh miền Tây. Ở QH, anh cũng không quá nổi bật, cũng hay phát biểu nhưng không thật xuất sắc lắm. Nhưng anh em quý trọng, hay giao du vì tính anh thẳng thắn, quảng giao.

Từ lâu rồi, anh nói với tôi, anh sẽ định cư ở Mỹ. Đi đàng hoàng, hoàn thành đủ nghĩa vụ ở địa phương, làm đủ thủ tục rồi đi và thực tế anh đã mua nhà bên đó xong rồi. Mấy tháng nay, không thấy anh online nữa, có thể anh qua rồi vì đt cũng không liên lạc được.

Tôi hiểu vì sao anh đi. Anh nhiều lần tâm sự với tôi về tình trạng doanh nghiệp thường xuyên bị gây phiền nhiễu, gặp khó khăn ở địa phương cho dù anh là ĐBQH. Việc bị mất điểm, không trúng cử ĐBQH khóa này khiến anh càng chán nản, quyết tâm bỏ VN sang định cư ở Mỹ.

“Chán lắm rồi thằng em ạ, ở VN, doanh nghiệp tư nhân như bọn anh, làm ăn cực kỳ khó”, anh nói với tôi.

Nên hôm nay, đọc bài viết của Dau Tuan– anh bạn chơi tennis với tôi, là Trưởng ban pháp chế VCCI trên Tuôỉ trẻ, một bài viết quá hay: “Điều gì đằng sau sóng ngầm di cư của người giàu”, tôi nghĩ, ong anh kia quá điển hình để nói lên câu chuyện này.

Chuyện người Việt qua Mỹ mua nhà cũng đã nói nhiều rồi nhưng nó thực sự nóng lên với công bố được các báo ầm ầm trích dẫn hôm qua: Số tiền đầu tư mua nhà của người Việt tại Mỹ lên tới 3 tỷ USD và VN đã đứng thứ 6 trong năm 2016 và liên tục nằm trong top 10 các quốc gia có công dân mua nhà tại Mỹ- theo công bố của Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Hoa Kỳ.

Nhưng hãy nhớ là số tiền 3,06 tỉ USD đó là để mua nhà, đó là chỉ riêng ở Mỹ, chưa tính các quốc gia phát triển khác ở châu Âu, Bắc Mỹ hay châu Úc… Nếu so với 5,7 tỉ đôla Mỹ của bà con kiều bào đang đầu tư về VN qua gần 3.200 dự án từ trước đến nay (theo số liệu của Ủy ban Nhà nước về người VN ở nước ngoài) thì càng thấy, nó đáng chú ý thế nào.

Nhưng điều đáng buồn cười là bản tin này trên các báo toàn được nhìn nhận, đánh giá khá lệch lạc: số tiền đó phần nhiều là của “tham quan”, của các ông: “Chăn lợn”, “buôn chổi chít, “chạy xe ôm”…Rồi toàn thị comment kiểu: Làm sao không ngăn chặn “chảy máu ngoại tệ” ra nước ngoài…

Kỳ thực là con số trên 3 tỷ USD mua nhà đó có thể có một phần không nhỏ là của mấy bác “tai to” mua nhà, hoặc mua cho con cái đang du học bên Mỹ rồi sau này bố mẹ hưu, sang “đoàn tụ”, các ông lo lắng sau này có chuyện thì lót ổ trước, để sẵn sàng “chào các bác, em ngược” …và thực tế đã có chuyện đó. Ít nhất là tôi biết có 2-3 trường hợp, cụ thể nhất là Giám đốc một Công ty của PVC, cùng cánh với Trịnh Xuân Thanh đã trốn sang Mỹ đã gần 3 năm, hiện vẫn bị truy nã…

Nhưng số đông hơn, thực sự vẫn là của các doanh nhân, như các ông: Trần Khắc Tâm, thực sự rất khó làm ăn trong nước, khi trong tay có chút vốn liếng, họ đã tìm đến vùng đất mới. Hoa Kỳ là một trong các nước ok nhất, rồi Úc, Newzeland, Canada…những quốc gia rất tốt cho khởi nghiệp và cả môi trường giáo dục, sinh sống tốt gấp vạn lần Việt Nam. Ở Việt Nam, một năm, hàng chục đoàn thanh tra, như ở Quảng Trị, một DN đã từng kêu: 1 năm tiếp 48 đoàn thanh tra. Vậy tại sao không đi?

Thì cũng chủ yếu là giới doanh nhân, những người có điều kiện thì đi thôi. Chứ dân thường, công chức nghèo, đi du lịch thôi đã khó, nói gì mua nhà bên Mỹ ?

Thế thì, muốn những: tỷ đô, tỷ đô kia…không sang Mỹ, Úc, Canada…mà ở lại Việt Nam, thì hãy tạo điều kiện, tạo môi trường cho các doanh nhân giỏi ở lại đi, hãy trân trọng những doanh nhân sống chết với mảnh đất này, làm gì để bảo vệ sản nghiệp của họ đi, đừng hơi tí kiểm tra, khởi tố, đừng để công an, thanh tra vào làm phiền dày đặc, đừng để báo chí như bọn Duy Phong suốt ngày quấy nhiễu, tống tiền, đòi quảng cáo…

Vụ Trịnh Vĩnh Bình đó, đã và đang để lại những hậu quả vô cùng tai hại.

Con số cứ 1 doanh nghiệp mới ra đời thì cũng gần bằng số đấy, 1 DN lại chết đi trong 6 tháng đầu năm đủ nói lên kinh doanh ở thời điểm này khó khăn thế nào.

Và không chỉ môi trường kinh doanh không thôi, mọi mặt: Môi trường, giáo dục, y tế.. đều phải cải cách để đảm bảo VN là nơi đáng sống, đáng ở, là “đất lành” thì đâu chỉ có doanh nhân ở lại, mà doanh nhân các nơi nước khác họ cũng tìm đến.

Chứ như hiện nay, quả là vô vọng.

“Đất nước đẹp vô cùng,
Sao họ phải ra đi …?”

#nguoigiauradi

TTO – Chúng ta quan tâm thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn tại VN thì cũng cần quan tâm giữ những doanh nghiệp nội địa giỏi.
 
TUOITRE.VN|BY TUỔI TRẺ
 

Đức Khổng Tử nói về phẩm hạnh của người quân tử

 Đức Khổng Tử nói về phẩm hạnh của người quân tử

Bài viết của Trí Chân

 Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên) đã từng nói, “Hoa lan mọc trong rừng, tỏa hương thơm ngay cả khi không có ai xung quanh thưởng thức. Tương tự như vậy, người có nhân cách cao quý sẽ không để cảnh nghèo làm nhụt chí tu Đạo và xây dựng uy đức.”Người quân tử luôn hiểu chân nghĩa của cuộc đời. Dù trong hoàn cảnh nào, họ luôn tôn trọng các chuẩn mực đạo đức trong việc làm và tự kiểm soát bản thân bằng cách tuân theo những lời dạy của các bậc thánh hiền. Bất cứ nơi nào họ đến, họ đều lan tỏa lòng tốt và sự ảnh hưởng đến những người mà họ tiếp xúc, để người ta tôn thờ đạo đức và công lý. Hiệu quả và sự ảnh hưởng của những lời dạy ấy đã khắc họa rõ phẩm chất đạo đức của họ. Sau đây là một vài câu chuyện về Khổng Tử và các học trò đã được ghi lại trong 2 cuốn sách Luận ngữ“  và Khổng Tử gia ngữ.

Người quân tử nói bằng hành động

Có một lần, Nhan Hồi hỏi thầy của mình là Khổng Tử: “Lời nói của phường tiểu nhân có những điểm gì chung? Là người quân tử, cần phải hiểu cho rõ.” Khổng Tử đáp: “Một người quân tử nói bằng hành động. Trong tất cả lời nói và việc làm, người ấy đều thực hiện theo những chuẩn mực mà thánh nhân đã dạy. Một kẻ tiểu nhân chỉ giỏi nói miệng mà thôi. Kẻ ấy chỉ giỏi đòi hỏi và tìm lỗi của người khác, trong khi lại chẳng đóng góp gì. Một người quân tử đối nhân xử thế bằng sự chân thành. Khi nhìn thấy bạn bè của mình vi phạm đạo đức, người đó sẽ cảnh báo những hậu quả mà bạn mình phải gánh chịu và khuyên bạn hành động theo lương tâm. Lời nói của họ là phát xuất từ trong tâm bởi vì họ thực sự quan tâm đến hạnh phúc của người khác. Kết quả là tình bạn sẽ ngày càng sâu sắc hơn. Kẻ tiểu nhân thì lại thường kết thành bè đảng để gây rối. Tuy nhiên, chúng không thể không đổ lỗi và đâm sau lưng nhau.” Khổng Tử cũng giảng: “Quân tử nghĩ về đức hạnh, tiểu nhân truy cầu hưởng thụ. Quân tử nghĩ về đạo lý; tiểu nhân truy cầu những đặc ân mà hắn có thể kiếm được.” Điều này đã nói rõ những điểm khác nhau trong tâm của hai loại người. Người quân tử không xuôi theo dòng nước, huống hồ là thông đồng với kẻ khác. Tất cả những gì họ nghĩ đến là làm thế nào để thực hành đạo nghĩa. Còn kẻ tiểu nhân thì lúc nào cũng chỉ lo nghĩ cho bản thân. Người quân tử tôn trọng phép tắc và quy củ. Kẻ tiểu nhân luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên hết thảy mọi thứ, và tâm kẻ ấy chứa đầy những món lợi nhỏ nhen. Điều này đã được đề cập đến trong cuốn “Đệ tử quy” (“Chuẩn mực của người học trò”), viết vào thời nhà Thanh (1644 – 1912), “Nhắc nhở người khác bằng lòng tốt; đức hạnh vẹn toàn cả đôi bề; Tìm bới sai lầm của người khác; chắc chắn mất lòng cả đôi bên.” Đây là một ví dụ nữa về sự khác nhau giữa hành động của kẻ tiểu nhân với người quân tử.

Lời nói và hành động của một người đều dựa trên những suy nghĩ của người đó. Một người quân tử luôn nuôi dưỡng những suy nghĩ tốt đẹp và lẽ phải. Lời nói và hành vi của người đó là kết tinh của tình thương, lòng tốt, và sự vị tha. Ở những nơi nào người quân tử đến, những suy nghĩ tinh khiết, tốt đẹp của họ sẽ lan tỏa ra những người xung quanh, thức tỉnh lương tâm của mọi người và trồng những hạt giống của sự chính trực và lòng nhân ái.

Dùng trí tuệ để tránh một cuộc chiến

Khổng Tử đã dẫn các học trò đến đất Khuông, một vùng thuộc nước Tống. Những người dân địa phương đã nhầm Khổng Tử với Dương Hổ, kẻ đã từng tấn công tàn bạo người dân đất Khuông. Họ ngay lập tức báo động cho Giản Tử, thủ lĩnh của người Khuông. Giản Tử vội vã tập hợp binh sĩ mặc giáp, rồi họ cưỡi ngựa đến bao vây Khổng Tử và các học trò của Ngài.

Tử Lộ, một trong những người học trò của Khổng Tử, có lòng dũng cảm thiên phú. Ông thấy khó chịu ngay khi nhìn thấy những người Khuông hung tợn vây xung quanh. Ông nắm lấy vũ khí sẵn sàng nghênh chiến. Khổng Tử ngăn ông lại và nói: “Không lẽ những người đang tu luyện, hành thiện và công bình lại không thể ngăn chặn điều ác này sao? Ta thực sự sai lầm nếu không truyền rộng những áng thơ cổ cùng những tác phẩm lớn và đề cao nghi lễ và âm nhạc… Lại đây đã, Tử Lộ. Con hãy chơi nhạc và hát lên, rồi ta sẽ hòa tấu.” Tử Lộ đặt vũ khí của mình xuống và lấy ra một nhạc cụ. Khổng Tử cũng tham gia. Sau ba vòng ca hát, người dân Khuông nhận ra rằng Khổng Tử là một vị thánh hiền, chứ không phải là Dương Hổ tàn bạo. Họ cởi bỏ áo giáp và bỏ đi.

Ngay cả khi ở trong vòng vây, Khổng Tử vẫn giữ được sự điềm tĩnh. Đầu tiên ông tự nhìn lại chính mình để xem xem mình có làm gì sai hay không. Nếu không thì ông sẽ tiếp tục việc giảng dạy của mình và tác động tới những người Khuông thông qua lễ nghi và âm nhạc. Hành động của ông minh chứng rõ sự khác biệt giữa ông và Dương Hổ. Những người dân Khuông nhận ra rằng Khổng Tử là một người nhã nhặn, một người quân tử, một bậc thánh hiền, mặc dù dung mạo bề ngoài của ông rất giống Dương Hổ. Họ đã bị đẩy lui và cảm thấy thẹn. Cuối cùng, họ đã cởi bỏ áo giáp và trở về một cách yên bình. Khổng Tử đã thay đổi người khác bằng đức hạnh của mình, ông đã đảo ngược tình thế nguy hiểm. Khổng Tử đã minh chứng được lòng tốt xuất phát từ nội tâm. Mọi người đều có thể cảm nhận được lòng độ lượng cùng ý thức trách nhiệm của ông trong việc duy trì văn hóa truyền thống.

Tập trung vào vấn đề chính

Một ngày nọ, Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử, “Ngày xưa, vua Thuấn đã đội loại vương miện gì?”

Khổng Tử không trả lời.

Nhà vua hỏi lại: “Ta đang cố gắng học hỏi từ ngài. Tại sao ngài không trả lời?”

Khổng Tử cúi đầu đáp: “Bởi vì câu hỏi Bệ Hạ đưa ra không tập trung vào những vấn đề chính. Đó là lý do tại sao thần đang suy nghĩ làm thế nào để trả lời.”

Nhà vua thấy tò mò và hỏi: “Những vấn đề chính là gì?”

Khổng Tử trả lời: “Trong suốt triều đại vua Thuấn, ông luôn thương dân như con của mình. Ông đề cao giáo dục đạo đức và bổ nhiệm những người hiền tài. Đức hạnh của ông lan xa khắp chốn. Tuy vậy, ông vẫn luôn giản dị khiêm nhường. Ông đã làm mọi thứ thay đổi thật nhẹ nhàng, giống như bốn mùa luân phiên thay đổi trong tự nhiên. Ông khuyến khích việc giáo hóa đạo đức trong dân chúng. Lòng tốt của ông trải rộng ra cho mọi chúng sinh. Đó là lý do tại sao những lời giáo huấn của ông được lưu truyền rộng rãi. Ngay cả những con chim Phượng hoàng và Kỳ Lân huyền thoại cũng đã xuất hiện trên mảnh đất mà ông cai trị, chứng tỏ rõ uy đức của ông. Tất cả điều này có được là nhờ ân đức vua Thuấn dành cho nhân dân. Bệ Hạ hỏi về loại vương miện mà vua Thuấn đã mang thay vì hỏi những vấn đề quan trọng hàng đầu như thế, vì thế thần không trả lời ngay được.”

Sống với người tốt cũng giống như được vào một căn phòng đầy hoa lan

Khổng Tử từng nói với Tăng Sâm, “Tử Hạ sẽ tiến bộ rất nhanh vì trò ấy rất thích dành thời gian để ở bên những người có đức hạnh cao hơn mình. Ở với những người tốt cũng giống như sống trong một căn nhà đầy hoa lan. Con người sẽ đồng hóa với môi trường. Vì vậy, một người quân tử phải cẩn thận trong việc lựa chọn người cùng chung sống.”Điều đó cũng đã được nói đến trong cuốn “Đệ tử quy”“Thật vô cùng ích lợi nếu một người được sống gần những người có thiện tâm. Mỗi ngày trôi qua, đức hạnh của người đó sẽ một tăng, và những thiếu sót của người ấy cũng bớt đi. Phải sống xa những người tốt thì thật là nguy hại. Người mà bị đẩy vào chỗ của những kẻ tiểu nhân thì rồi cũng sẽ hư hỏng.”

Điều này cho chúng ta biết rằng, bằng cách sống gần với những người nhân đức, kết bạn với họ hoặc nhận họ làm thầy, người ta có thể mở rộng kiến thức của mình cũng như giúp bản thân họ ngày một thêm hoàn thiện. Một người quân tử sẽ là một tấm gương tốt. Những người xung quanh anh ta sẽ học cách nhìn vào bản thân họ để tìm những thiếu sót của mình và liên tục tự đặt ra những tiêu chuẩn cao hơn cho mình. “Thường xuyên tự tìm thấy những khuyết điểm của bản thân, thay vì đổ lỗi cho người khác” đòi hỏi một người phải thật trong sáng khoáng đạt trong lời nói và hành vi của mình. Nghiêm khắc với bản thân nhưng khoan dung với người khác là biểu hiện của lòng độ lượng. Khổng Tử nói: “Một người quân tử học Đạo và yêu thương mọi người.”Ông đã chỉ ra rằng một người quân tử có Đạo cần phải biết quan tâm đến mọi người, biết áp dụng các nguyên tắc người đó đã học được từ Đạo để đối đãi với người khác. Tâm đại từ bi cũng giống như nước vậy, làm lợi cho tất cả trong khi bản thân không giữ lại gì.

Đức hạnh của một người quân tử sẽ đem lại sự hòa hợp và thái bình, sẽ nhắc nhở người ta tu chỉnh bản thân mình và không làm điều gì trái với lương tâm. Trong thế giới vật chất ngày nay, nơi mà có quá nhiều người mang lòng tham danh lợi, thì điều đó còn chính yếu hơn nữa trong việc giúp con người có thể giữ vững được lương tâm và đạo đức.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Bài viết phản biện rất hay !

From facebook: Son Dang shared Trần Bang‘s post.
Bài viết phản biện rất hay ! 

Mời các pan đọc lại.

 
Image may contain: 2 people, selfie and closeup
Trần Bang with Chuong Khanh Pham.

 

Bài hay!

“Tôi coi đây là cuộc nói chuyện giữa cá nhân với nhau. Xét về mặt công dân thì tôi và cô như nhau. Về địa vị thì cô là chủ tịch quốc hội còn tôi là một cựu chiến binh, nhưng chức vụ hay tài sản không làm nên giá trị con người. Xét về độ trải đời thì cô chỉ kém tôi 2 tuổi. Nói thế để nhắc rằng cô cũng đã già, đi xe bus thì được nhường chỗ, đi xe lửa thì được giảm vé.

Tuổi tác không nói lên sự khôn ngoan của con người nhưng qua theo dõi lời nói, việc làm của cô, tôi chắc rằng, cô còn ấu trĩ, dại dột, cho dù cô ngầm có mục đích sâu xa đi chăng nữa thì vẫn cứ dại dột. Điều chắc chắn hơn là cô không thể yêu nước, thương dân hơn tôi. Chỉ riêng chuyện cô phấn đấu lên đến Chủ tịch Quốc hội dưới chế độ cộng sản đã nói lên điều đó.

Sau khi cô nhậm chức Chủ tịch quốc hội được 1 ngày, trong buổi gặp mặt báo chí ngày 23/7/2016, cô nói:

“Bảo vệ hòa bình không phải hô hào cho thật to, kích động thế này thế khác là có được chủ quyền, không có đâu. Một số tổ chức, cá nhân lên tiếng hô hào thế này thế nọ nhưng những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước? Chưa làm gì cả…”

Tôi giật mình khi cô phát ngôn như vậy. Không phải tôi lạ vì câu đó mà lạ vì người nói ra câu đó lại là cô.

Cô phát ngôn trong bối cảnh đang nói về chủ quyền, biển đảo của đất nước. Bảo vệ chủ quyền của đất nước không của riêng ai mà là của mỗi người dân. Khi chủ quyền của đất nước bị đe dọa, người dân thường dù không có quyền chức trong tay đều phải thể hiện tình yêu đối với Tổ Quốc dưới mọi hình thức, mà hình thức đầu tiên nghĩ đến là biểu tình phản đối quân xâm lược. Ngoài ra, còn nhiều hình thức hoạt động khác. Công dân nào có điều kiện, khả năng mà không làm điều đó là vô trách nhiệm với đất nước. Trước đây, Đảng csVN đã chẳng từng phê phán những hạng người như thế là “đắp chăn chờ độc lập” đó sao?

Ấy thế mà nhà cầm quyền lại đàn áp người biểu tình chống giặc, đánh đập họ, bắt đi cải tạo, bắt tù, gán cho họ cái nhãn phản động. Nếu là phản động thì họ chỉ phản động đối với kẻ xâm lược và bọn bán nước, chứ đối với Tổ quốc thì không.

Bằng việc đàn áp biểu tình yêu nước, nhà cầm quyền đã tước đi của người dân quyền con người đã được ghi vào Hiến pháp và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Và khốn nạn hơn là tước đi của họ quyền yêu nước.

Có một bài mà nhà cầm quyền rất hay sử dụng, đó là “đã có Đảng và Nhà nước lo”.

Những người yêu nước chân chính và tỉnh táo không bao giờ yên tâm để cho Đảng và Nhà nước lo. Họ đã để cho Đảng và Nhà nước lo nhiều rồi, từ năm 1930, từ 1945 cơ và họ không dám tin Đảng và Nhà nước nữa. Bằng chứng là lãnh thổ Việt Nam đã co lại so với thời kỳ năm 1954. Co lại ở đâu ư? Hãy nhìn lên thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, nói chung toàn bộ biên giới Việt Trung, hãy nhìn ra Hoàng Sa, Trường Sa thì biết.

Trước kẻ thù xâm lược, dù chỉ có tay không, nhưng còn trái tim, khối óc, người yêu nước không thể ngồi im. Kẻ thù rất sợ tình cảm yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của người dân ở đất nước chúng lăm le xâm chiếm. Viêc làm của họ không thể gọi là kích động như cô nói. Vậy trước đây, trong cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam cộng hòa, ai là kẻ kích động hàng vạn người dân xuống đường? Và hồi đó, nếu xuống đường không có tác dụng gì sao họ lại phải làm thế?

Đành rằng biểu tình không quyết định việc giữ được chủ quyền, nhưng việc làm này góp phần giữ chủ quyền. Cô nên nhớ, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã hỗ trợ rất nhiều cho Nhà nước trên mặt trận ngoại giao. Còn nếu chỉ im lặng, nhịn nhục, xin xỏ, đặc biệt là mơ hồ trước lời mật ngọt mà không nhìn thấy mũi dao sau lưng thì không những không giữ được chủ quyền mà còn làm cho giặc lấn tới, mất nước lúc nào không hạy. Trên thực tế thì VN đang mất dần chủ quyền vào tay Trung Cộng, điều này ai cũng thấy.

Cô đặt câu hỏi: “…những người đó, tổ chức đó làm gì cho đất nước?…” rồi khẳng định: “Chưa làm gì cả”.

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết:

Đến ông Hồ Chí Minh cũng chưa dám hỏi nhân dân câu hỏi kiêu ngạo, trịch thượng này như bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân:

Chưa ai như bà Kim Ngân…

Huyênh hoang dám hỏi nhân dân câu này

Bà làm được gì xưa nay

Leo lên bằng cái vốn vay ngân hàng…?

Bạn đã làm gì cho đất nước chưa? Câu hỏi này tôi đã đọc và nghe không biết bao nhiêu lần, được coi là bài tủ của đám dư luận viên hạng bét nhằm tấn công những người chống Trung Quốc mà người ta cho chung vào một rọ phản động.

Tôi đi bộ đội vào lúc vừa đủ tuổi nghĩa vụ quân sự cho đến khi về hưu, trong đó có 5 năm khốc liệt nhất của cuộc chiến. Thế mà có những cháu 18, 20, thậm chí còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông dám hỏi tôi: “Chú đã làm gì cho đất nước chưa?”

Tưởng bài ấy đã cũ mèm, ai ngờ nay nó lại xuất hiện từ miệng một vị lãnh đạo nằm trong tứ trụ hẳn hoi. Thì ra, trình độ của Chủ tịch quốc hội nước ta chỉ đến như vậy.

Trước câu hỏi ấy, tôi không bao giờ trả lời vì nó quá ngây ngô, ấu trĩ, vì mất thời gian với đám trẻ ăn chưa no, lo chưa tới ấy. Nhưng khi nó được phát ngôn từ miệng vị Chủ tịch quốc hội, tôi buộc phải có lời.

Câu hỏi này là cô dành cho những người được cô gọi là đám người ồn ào, kích động. Cô đã rất coi thường quần chúng. Cô cho rằng chỉ có đảng của cô và những người nghe theo hoặc sợ đảng mà im thin thít mới gọi là làm được gì cho đất nước. Cho đến nay, đảng csVN đã thành công trong việc triệt tiêu lòng yêu nước của người dân nhưng chưa được hoàn toàn, có phải vì thế nên cô chưa mãn nguyện? Giọng cô tỏ ra hằn học với họ. Cô nên biết trong số ấy, có nhiều trí thức của chế độ, cựu chiến binh, những người từng là quan chức cao cấp của Nhà nước đấy cô Ngân ạ.

Ai cũng hiểu, nộp thuế là nghĩa vụ công dân. Mà đã nộp thuế tức là đã đóng góp vào ngân sách nhà nước. Dù muốn hay không, mỗi người khi mua một sản phẩm là đồng nghĩa với đóng thuế. Đóng thuế tức là đã làm cho đất nước, chẳng lẽ cô không hiểu điều đó sao.

Đóng góp cho đất nước không kể người dân bình thường hay người có chức quyền. Có khi chức càng cao, làm cho đất nước thì ít nhưng làm hại đất nước thì nhiều chứ đâu phải kẻ có quyền mới làm được gì cho đất nước. Cô biết Lê Chiêu Thống chứ. Ông ấy to nhất nước đấy, to hơn cả cô bây giờ. Vậy mà hắn đã làm gì cho đất nước, cô cứ hỏi một em học sinh lớp 4 thì biết. Tôi chỉ sợ cô và Đảng của cô đang giẫm phải bước chân Lê Chiêu Thống mà thôi.

Xin lấy vài ví dụ những việc Đảng của cô đã làm cho đất nước:

Cải cách ruộng đất đã qui địa chủ cho 172 nghìn người, trong đó 71,66% bị oan sai, hành quyết và bức tử hàng chục nghìn người. Còn điều không tính được thành con số như không khí sợ hãi, nghi kỵ, oán thù bao trùm lên nông thôn miền Bắc; luân thường đạo lý bị đảo lộn, con tố cha, vợ tố chồng…

Đảng của cô đã triệt tiêu kinh tế cá thể, đưa nông dân vào Hợp tác xã, triệt tiêu kinh tế tư bản tư doanh, tịch thu nhà máy, hầm mỏ của họ để Đảng quản lý. Đảng của cô cứ tưởng giỏi đánh nhau thì cũng giỏi quản lý kinh tế, giỏi quản lý đất nước nên mới dẫn đến tình cảnh đất nước đứng bên bờ vực thẳm vào năm 1986.

Cuộc chiến tranh 1955 – 1975 cướp đi sinh mạng của khoảng 4 đến 5 triệu người. Tuy thống nhất được đất nước nhưng Đảng đã kéo miền Nam tụt xuống bằng miền Bắc. Mà không hiểu tại sao Đảng của cô đi đến đâu, dân sợ đến đấy. Năm 1954, 1 triệu dân miền Bắc di cư vào Nam. Sau 1975, hàng triệu thuyền nhân bỏ nước ra đi, bất chấp đói khát trên thuyền, bất chấp hải tặc, làm mồi cho cá biển, không thiết đến những nhà lầu, xe hơi bỏ lại Sài Gòn, không thiết vàng bạc đút lót để vượt biên, chỉ cần tay không miễn là đến được bến bờ tự do.

Còn bây giờ, không biết Đảng của cô đóng góp những gì cho đất nước mà các lĩnh vực kinh tế xã hội mặt nào cũng nát bét. Đảng cứ động vào chỗ nào là y như rằng tham nhũng, đổ bể chỗ ấy, từ các “quả đấm thép” đến hệ thống ngân hàng, đến các dự án trọng điểm… Bauxite Tây Nguyên thì thua lỗ nhưng cố đấm ăn xôi. Khắp nơi chỗ nào cũng có công trình Trung Quốc trúng thầu, xây lắp bằng công nghệ lạc hậu, khắp nơi, chỗ nào cũng có người Trung Quốc ngông nghênh, coi thường dân Việt… là nỗi ám ảnh cho những người biết lo đến an ninh của đất nước.

Những kẻ chiếm đoạt tiền thuế làm của riêng, dùng tiền thuế của dân ăn chơi đàng điếm trụy lạc, đầu tư bừa bãi, không sinh ra hiệu quả còn vốn của dân đóng góp cụt dần thì có gọi là làm cho đất nước không. Và xin hỏi cô, những người ấy là Đảng của cô hay là những người mà cô gọi là ồn ào kích động? Đến đứa trẻ cũng biết là Đảng của cô tham nhũng, chứ người không có quyền thì tham nhũng sao được. Trẻ con vừa ra đời, Đảng của cô đã giao ngay cho 30 triệu đồng nợ công.

Còn sự kiện thời sự nóng bỏng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe và mưu sinh của người dân là gì, chắc cô cũng hiểu. Đó là Đảng rước thằng Pormosa về để nó giết chết biển Miền Trung, giết rừng ngập mặn, giết cả chim muông, còn người dân thì đang chết dần chết mòn. Vậy mà Đảng nhẫn tâm cầm 500 triệu đô la Mỹ đánh đổi, khoe chiến công. Thật là vô liêm sỉ.

Chẳng hiểu Đảng của cô đóng góp được gì cho đất nước mà đất nước lúc nào cũng hụp lặn ở vùng trũng của thế giới và khu vực, không ngóc đầu lên được. Ngay cả Căm Pu Chia hay Lào nó cũng dễ dàng vượt mặt, bỏ lại ông anh VN đang lóp ngóp phía sau còn nó không hơi đâu dừng lại đợi. Người Việt Nam đi làm thuê, làm ô sin khắp thế giới, được gọi dưới cái tên mỹ miều là hợp tác lao động. Năm 2014, Liên Hợp quốc xếp Việt Nam áp chót trong bảng xếp hạng các quốc gia đáng sống, thứ 124/125 số nước được xếp hạng, cô có thấy tự hào không?

Sao những gì Đảng của cô làm cho đất nước kinh sợ đến như vậy. Giá ngày ấy, Đảng của cô không sinh ra thì đất nước đâu đến nỗi nát như tương Bần thế này. Bây giờ trót rồi, tôi chỉ mong Đảng của cô né sang một bên cho người khác làm, hoặc hợp tác với các đảng phái khác cùng làm. Đừng khư khư ôm lấy một mình rồi chê người khác không làm gì.

Cũng trong buổi tiếp xúc với báo chí hôm ấy, cô còn dám đứng ở vị trí cha mẹ dân mà phán rằng: “Ngay trong gia đình, nếu bố mẹ không tôn trọng con cái thì ra đời con cái không tôn trọng người khác”

Cũng nhà thơ Trần Mạnh Hảo:

Bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân xưng mình là mẹ nhân dân Việt Nam, còn cha nhân dân là ai, xin bà nói rõ?

Đảng là đầy tớ nhân dân

Ông Hồ đã dạy bà Ngân quên rồi

Ghế trên bà tót lên ngồi

Xưng mình là mẹ dân, ôi sỗ sàng …

Cô ngụy biện: “Nếu đâu đó xảy ra mất dân chủ, dân chủ hình thức, thì đó là cái sai của của tổ chức, cá nhân cụ thể, không phải bản chất nhà nước”.

Nhưng thôi, tôi viết cũng đã dài. Khi nào có thời gian, sẽ bàn đến hai câu này của cô. Lời cuối khuyên cô rằng, đừng vì choáng ngợp với chức vụ mới mà say sưa “nổ”. Hồi chưa làm Chủ tịch Quốc hội, cô đâu đến nỗi đáng ghét như thế. Phụ nữ mà ham quyền lực thì kinh khủng lắm đấy, kinh hơn đàn ông rất nhiều. Là chính khách, cô cần phải học nhiều lắm, từ lời ăn tiếng nói, từ dáng đi, cách lựa trang phục sao cho phù hợp với lứa tuổi, với bối cảnh. Cô đừng dại dột mà tiếp tục đứng ra phát ngôn thay mấy lão khôn ngoan, lọc lõi đang đứng đằng sau cô kia kìa.

Nhưng điều quan trọng hơn cả là cô phải có cái tâm – cái tâm đối với đất nước, với nhân dân. Khi đó, nếu cô có vụng dại thì nhân dân cũng dễ thể tất.” 
Blogger Nguyễn Tường Thụy, nguồn:https://anhbasam.wordpress.com/…/9342-nguyen-thi-kim-ngan-…/

Cậu bé ngốc nhận 50 cent thay vì 1 đô la

  Cậu bé ngốc nhận 50 cent thay vì 1 đô la

 Cậu bé ngốc nhận 50 cent thay vì 1 đô la, cả trường cười chê, còn cậu trở thành Tổng thống Mỹ

Cuộc sống có những điều không thể từ bề ngoài mà nhận biết được. Trong dòng người tấp nập, kẻ đến người đi, ai thông minh, ai ngốc nghếch, đều không hề đơn giản. Đôi khi, có những người nhìn khờ khạo, nhưng lại chính là kẻ có trí tuệ đỉnh cao.

Cậu bé Wilson nhất mực chọn đồng 5 cent, chứ không chọn đồng 1$. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)

Có một cậu bé người Mỹ tên Wilson, thoạt nhìn rất khờ khạo, do đó rất nhiều người trong thị trấn thích đùa với cậu, giống như là nhân vật hề mua vui cho mọi người. Một ngày nọ, bạn cùng lớp của Wilson cầm trên tay một đồng 1 đô la và một đồng 5 cent, rồi hỏi Wilson là chọn đồng tiền nào.

Cậu bé Wilson lúc đó đã không cần suy nghĩ mà trả lời ngay: “Tớ chọn đồng 5 cent”.

Bạn học cười khoái trí nói: “Ha ha, cậu ấy không chọn 1 đô la mà lại chọn đồng 5 cent”. Sau đó tất cả học sinh trong trường đã lan truyền nhau chuyện cười này.

Rất nhiều người đã không tin, sao Wilson lại ngốc đến vậy, họ đã đem tiền đến trước mặt Wilson để kiểm nghiệm, nhưng lần nào cũng nhận được cùng một kết quả. Mỗi lần cậu đều nói: “Tớ muốn 5 cent”. Tất cả học sinh của trường đều dùng cách này để kiểm tra và sau đó mỗi người rời đi với nụ cười của sự hài lòng.

Cuối cùng, câu chuyện đã đến tai của thầy giáo. Ở trước mặt Wilson, thầy giáo hỏi: “Chẳng lẽ trò không phân biệt được giá trị lớn nhỏ của đồng 1 đô la và 5 cent sao?”.

Trò Wilson đáp: “Đương nhiên là trò biết rõ ạ. Nếu như trò chọn đồng 1 đô la thì sẽ không có nhiều người mang tiền đến để thử, như vậy trò cũng không thu được lợi nhuận từ đồng 5 cent”.

Người thầy nghe xong như bừng ngộ ra một đạo lý lớn. Wilson không đặt sự thông minh vào món lợi nhỏ mà suy nghĩ về cái ngốc của người thông minh. Khoảng 45 năm sau, ông đã trở thành tổng thống thứ 28 của nước Mỹ.

Woodrow Wilson – Vị Tổng Thống thứ 28 của nước Mỹ, đảm đương chức vụ trong 2 nhiệm kỳ. (Ảnh: History)

Nếu để ý và quan sát con người ngày nay, hẳn chúng ta sẽ nhận ra xã hội có tồn tại rất nhiều người thông minh, họ phán đoán suy nghĩ của người khác một cách nhanh chóng và không bao giờ bị mắc lừa. Họ tính toán chi li, so đo từng chút để làm sao không thua thiệt, không bị người lừa gạt.

Nhưng họ đã quên câu: “Thông minh quá sẽ bị thông minh hại”. Nếu chứng kiến trực tiếp những việc người thông minh làm, chúng ta sẽ phát hiện, bởi vì quá thông minh nên người này thường bị người khác phòng bị.

Kỳ thực, thông minh cũng không phải là xấu. Tuy nhiên, đôi khi trong cuộc sống lại cần chúng ta ngốc một chút mới tốt, hơn thế, làm được người thông minh giả ngốc quả không dễ dàng.

Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Giả thiếu hiểu biết khiến mọi việc được tiến triển thuận lợi hơn. Biểu hiện của ngốc nghếch ở người thông minh chính là một loại trạng thái bình tĩnh, không hiểu cái đạo lý của người đại ngốc thì khó thành tựu đại sự.

Phú Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc Dương thì bỗng nhiên có người liên tục mắng chửi ông.

Một người đi đường đã ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa”.

Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó”.

Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó”.

Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi”.

Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông liền cảm thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật. Ngay từ khi còn trẻ, Phú Bật đã biết cái đạo của người ngốc đủ cho thấy sự thông minh cơ trí của ông.

From anh chị Thụ & Mai

Bill Hayton: Việt Nam đang ‘thân cô, thế cô’

Bill Hayton: Việt Nam đang ‘thân cô, thế cô’

Bill Hayton tại Bàn tròn thứ Năm hôm 27/7/2017
Ông Bill Hayton (đầu tiên, trái) nói ông tự tin về thông tin mà mình đưa ra khi viết các bài báo về sự kiện khoan dầu khí trên Biển Đông của Việt Nam vào tuần cuối tháng 7/2017.

Việt Nam đang ở trong thế ‘chỉ có một mình’ khi đương đầu với Trung Quốc trong tranh chấp trên Biển Đông, một nhà nghiên cứu Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, đồng thời là phóng viên của BBC nói với Bàn tròn thứ Năm tuần này.

Trao đổi tại cuộc Tọa đàm hôm 27/7/2017, khi đưa ra thông tin bình luận có tính tham khảo về tình huống hiện nay của Việt Nam ở trong khu vực trong lúc có những thông tin khác nhau và quan tâm của dư luận về việc khai dầu, khí của Việt Nam ở khu vực Lô 136-03, ông Bill Hayton nói:

“Tôi được cho biết rằng luận điểm đã thuyết phục tất cả mọi người (Bộ Chính trị ĐCSVN) là không thể tin cậy vào Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Donald Trump trong việc giúp Việt Nam trong tình hình này, ngược với chuyện (nếu Hoa Kỳ) dưới lãnh đạo của bà Hillary Clinton thì có lẽ Việt Nam sẽ nhận được nhiều hậu thuẫn hơn từ Hoa Kỳ. Do đó, Việt Nam sẽ phải một mình đối diện với Trung Quốc. Tôi nghĩ đây là lập luận quan trọng nhất,” khách mời này nói với BBC Tiếng Việt.

 

 

Sau đây là toàn bộ nội dung ý kiến mà ông Bill Hayton đưa ra tại Bàn tròn thứ Năm:

BBC: Hãng tin Reuters của Anh tuần này, hôm 25/7, nói rằng BBC đưa tin Việt Nam đã dừng khoan dầu ở khu vực sau khi có các đe dọa của Trung Quốc, nhưng không có nguồn tin khẳng định độc lập trong lúc cả giới chức Việt Nam lẫn hãng Repsol đều chưa đưa ra bình luận nào về tin trên. Với tư cách là tác giả bài báo, ông có ý kiến gì?

Bill Hayton: Tôi nghĩ mọi người hiện đều đang ở trong tình huống rất khó. Không ai muốn khẳng định điều này, và điều đó có thể làm người dân ở Việt Nam bối rối, không hài lòng. Đồng thời, cũng có những thu xếp về thương mại ở đây. Hãng Repsol đã bỏ ra hàng chục, có thể là hàng trăm triệu đô-la để khoan tìm khí ở địa điểm đó. Ai sẽ trả cho những khoản chi phí đó?

Repsol c
Bản quyền hình ảnh  GETTY IMAGES
Image captionRepsol có nhiều hoạt động về dầu khí ở ngoài khơi Việt Nam, bên cạnh dự án ở Lô 136-03, theo ông Bill Hayton

Thông tin của tôi đến từ ngành công nghiệp năng lượng, không đến từ chính phủ Việt Nam, là tàu khoan đã phát hiện ra một mỏ khí đốt khá quy mô ở khu vực đó. Vì đã tìm thấy khí đốt, họ không thể đơn giản là dừng việc khoan lại và rời đi, bởi vì nó có thể bị nổ. Họ phải làm một số công việc kỹ thuật để dừng, mà theo nghĩa đen là đổ xi-măng vào giếng khoan trước khi có thể rời đi.

BBC: Khi nói rằng Việt Nam đã dừng khoan dầu sau các đe dọa của Trung Quốc, ông đã hỏi chính phủ Việt Nam, chính phủ Trung Quốc, hay các bên liên quan, như hãng Repsol hay chưa?

Bill Hayton: Như đã chỉ ra, cho đến hôm nay, chưa có tuyên bố từ phía giới chức Việt Nam, họp báo (của Bộ Ngoại giao) chưa được tổ chức ngày hôm nay, Repsol không phát biểu gì, công ty khoan dầu ở giếng dầu, khí không phát biểu gì và chỉ có phát biểu ngắn của chính phủ Trung Quốc.

Hệ quả nghiêm trọng?

 

BBC:Nếu thực sự diễn ra những gì như thông tin ông đưa, mà theo đó do có các đe dọa của Trung Quốc mà Việt Nam chấm dứt việc khoan dầu, thì điều này ảnh hưởng thế nào tới vị thế của Việt Nam, tới uy tín của Việt Nam trong mắt của các đối tác, các nhà thầu, các hàng thăm dò, khai thác dầu khí đã đang hợp tác với Việt Nam ở khu vực? Có nghiêm trọng không?

Bill Hayton: Tôi nghĩ có hai điểm ở đây. Thứ nhất, việc khoan hiện nay có vẻ như đã dừng lại. Tuy nhiên, có một điểm nghiêm trọng hơn, đó là tôi nghe thấy rằng Việt Nam đã hứa sẽ không bao giờ khoan dầu, khí ở vùng biển này nữa.

Giàn khoan HD-981
Bản quyền hình ảnh  GETTY IMAGES
Biển Đông tiếp tục là điểm nóng trong quan hệ Việt – Trung và giữa một số quốc gia có tranh chủ quyền ở khu vực.

Và đó là vấn đề nghiêm trọng hơn vì ở đây gọi là những giếng khoan thăm dò, nơi mà các công ty chỉ tìm hiểu xem có bao nhiêu khí đốt ở đó. Nhưng nếu họ (Việt Nam) hứa là sẽ không bao giờ khoan nữa trong tương lai, thì đó sẽ là vấn đề nghiêm trọng hơn rất nhiều.

BBC:Có thông tin nói Trung Quốc không chỉ ‘đe dọa’, mà thậm chí đã có ‘tấn công’ thực sự vào một số cơ sở của Việt Nam ở khu vực khoan dầu, ông có bình luận gì về thông tin đó?

Bill Hayton: Tôi không nghe thấy gì về chuyện đó. Tôi có nghe được cùng một thông tin mà quý vị đã nghe, là đã có một biến cố nào đó, nhưng không phải là một sự cố lớn. Do đó, nếu điều đó xảy ra, tôi nghĩ nó có thể chỉ có tính chất biểu tượng.

Điều mà tôi nghe được, nhưng trước hết tôi muốn nói là mọi người, tất cả các quý vị khán giả, thính giả đều hiểu là chúng ta không bao giờ biết chắc về điều gì đã xảy ra trong nội bộ chính trị Việt Nam. Có rất nhiều tin đồn, cho nên tôi phải nói trước như vậy, trước khi bàn tới chuyện này. Đó là tôi có nghe một tin đồn mà có thể là thú vị.

Điều mà tôi nghe được nhưng tôi không có cách nào biết được có đúng hay không, là khi Bộ Chính trị bàn luận về sự việc, thì 17/19 (?) ủy viên đã muốn tiếp tục tiến hành khoan tìm dầu, nhưng có hai (ủy viên) thì không. Hai người đó là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.

Tôi không có cách nào biết được việc đó là chân thực hay không, vì có các viết lách khác nhau từ mọi người. Nhưng tôi nghĩ người ta đã nhắc đến rằng những người thực sự quyết định việc này là Tổng Bí thư và Bộ trưởng Quốc phòng.

‘Thân cô, thế cô’?

Biển ĐôngBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionPetroVietnam hồi 2012 đã công bố bản đồ các lô khai thác dầu khí ở Biển Đông

BBC:Có gợi ý cho rằng việc thay đổi về hoạt động khoan thăm dò dầu, khí ở Biển Đông của Việt Nam vừa rồi, nếu có, là do lý do thời tiết, bão lớn, mà không phải là vì lý do chính trị nào. Ngoài ra, cũng có ý kiến nói lô dầu, khí (136-03) được đề cập trong bài báo của tác giả Bill Hayton là không chuẩn xác, không phải là lô đố. Ông có bình luận gì?

Bill Hayton: Về điểm thứ hai, tôi muốn nói là Repsol có một số hoạt động ở ngoài khơi Việt Nam. Họ đã mua Talisman-Vietnam, một hãng của Canada vào năm 2015, do đó họ có các hoạt động ở các lô khác nhau, chẳng hạn có lô 07-03, ở rất gần, ngay bên cạnh Lô 136-03, là lô mà tôi nói tới. Chắc chắng Lô 136-03 là lô gây ra vấn đề hiện nay.

Tôi tin chắc rằng đây đúng là giếng khoan và tôi được nghe rằng chính phủ Việt Nam đã yêu cầu Repsol đưa ra lý do kỹ thuật để dừng sớm việc khoan tìm dầu. Họ cần có một lý do nào đó để tuyên bố vì lý do kỹ thuật hoặc do thời tiết xấu mà người ta đã phải ngừng việc khoan thăm dò ở đây. Nhưng Repsol đã từ chối.

BBC: Nếu quả thực có việc vì chính quyền Việt Nam yêu cầu dừng, mà Repsol phải ngừng việc khai thác ở đó, thì chính phủ Việt Nam có phải bồi thường hay không, bồi thường thế nào? Có thông tin nói Repsol đã đầu tư, chi phí hàng trăm triệu đô la và có thông tin nói khoản bồi thường đó có thể lên tới khoảng 1 tỷ đô-la, ông có ý kiến gì?

Bill Hayton: Tôi được nghe rằng giá trị khí đốt ở mỏ khí đốt có trữ lượng khá lớn, khiến cho Repsol khá vui vì đã giành được quyền khai thác. Tôi muốn nói là rõ ràng sẽ có những bàn luận về việc bồi thường, Repsol có các hoạt động khác ở Việt Nam, do đó sẽ có thể có các điều chỉnh, cân bằng về chi phí của họ. Nhưng chúng ta phải nhìn vào các chi tiết của hợp đồng. (Một tỷ) là con số khoảng chừng mà tôi đã nghe được về giá trị của khí ở lô đó. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn vào chi tiết của hợp đồng mới biết được là ai sẽ phải chịu trách nhiệm cho các chi phí.

BBC:Thông tin ông nói về một ‘quyết định’ ở cấp Bộ Chính trị ĐCSVN về việc ‘ngừng khoan tìm dầu’ trong diễn biến này là điều khá đáng quan tâm. Nếu thực sự có quyết định đó, thì làm thế nào ý kiến của một thiểu số (hai phiếu, hay hai ý kiến) lại có thể chống lại được quyết định của đa số trong Bộ Chính trị được?

Bill Hayton: Tôi được cho biết rằng luận điểm đã thuyết phục tất cả mọi người là không thể tin cậy vào Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Donald Trump trong việc giúp Việt Nam trong tình hình này, ngược với chuyện (nếu Hoa Kỳ) dưới lãnh đạo của bà Hillary Clinton thì có lẽ Việt Nam sẽ nhận được nhiều hậu thuẫn hơn từ Hoa Kỳ. Do đó, Việt Nam sẽ phải một mình đối diện với Trung Quốc. Tôi nghĩ đây là lập luận quan trọng nhất.

Mời quý vị bấm vào các đường link sau đây để tham khảo và theo dõi các ý kiến phản hồi, bình luận từ các nhà quan sát, nghiên cứu, hay phân tích khác về ý kiến của ông Bill Hayton mà BBC Việt ngữ đã thực hiện sau Bàn tròn ngày 27/7/2017 về khoan dầu ở Biển Đông.

Chỉ có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ

 Bài cũ nhưng vẫn đáng đọc.

Chỉ có kẻ ngu mới chống Hoa Kỳ

LyQuangDieuNgười Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Lý Quang Diệu – Dịch : Nguyễn Việt Vân Anh


Nguồn: danchimviet.info

Mỹ nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số một

Tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam

Tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam

Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể.

Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.

Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin , Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.

Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này

Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam . (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”)

Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.

Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.

Ví dụ như Việt Nam , là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.

Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam . Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.

Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.

Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ.

Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ.

Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.

Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn.

Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.”

Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.

Cuộc cạnh tranh cuối cùng

Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.

Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.

Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền.

Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.

Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ

Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.

Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.

Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.

Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng.

Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.

Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.

Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.

Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn.

Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại.

Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Lý Quang Diệu

Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp