Hà Nội: Cái khó trong vụ Đồng Tâm

Hà Nội: Cái khó trong vụ Đồng Tâm

Blog RFA

J.B Nguyễn Hữu Vinh

17-4-2017

Những viên CSCĐ đã bị dân Đồng Tâm bắt giam. Ảnh: Facebook

Vài ngày nay, thông tin qua mạng xã hội nóng lên bởi sự việc tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Tp Hà Nội. Những người nông dân giữ đất đã đồng tâm bắt hàng chục chiến sĩ cảnh sát cơ động nhốt lại, đòi nhà cầm quyền thả những người và đáp ứng các yêu sách của mình.

Có lẽ trong lịch sử cầm quyền của Cộng sản tại Việt Nam, trừ thời gian chiến tranh, còn lại khi đã cướp được chính quyền và thâu tóm được quyền lực về tay mình đến nay thì đây là lần đầu tiên, người Cộng sản Việt Nam gặp phải trường hợp một đoàn công an đông đúc với đủ loại trang thiết bị bị bắt giữ bởi người dân như vụ này.

Đã gần 3 ngày trôi qua, những thông tin ít ỏi về vụ việc vẫn tạo sự nóng bỏng trên mạng xã hội. Hơn thế, việc báo chí im thin thít rồi chờ đợi để copy lại vài dòng tin từ Công an một cách sợ hãi, dè dặt… đủ nói lên sự lúng túng và sợ hãi từ nhà cầm quyền.

Tức nước vỡ bờ

Điều cần nói, là vụ việc ở xã Đồng Tâm, thuộc huyện Mỹ Đức là vụ việc vốn tồn tại cả chục năm nay và vẫn cứ im lìm chìm đi giữa muôn vụ việc khác khắp nơi trên đất nước. Chẳng mấy ai và ngay cả hệ thống mạng xã hội chú ý đến vụ việc này.

Vì trên đất nước “bình an, hạnh phúc, ổn định và đáng sống” này vẫn hàng ngày hàng giờ bị nạn cướp đất đai, tài sản của người dân hoành hành bằng công an, cưỡng chế… Cái phương châm “đất đai sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý” có lẽ là một phát minh có tính lịch sử của những người cộng sản. Bởi đó là cái bùa hộ mệnh cho những hành động cướp bóc của người dân bất chấp đạo lý, bất chấp lương tâm và đơn giản là nghĩa đồng bào. Tất cả đất đai, ruộng vườn đều có thể bị cướp, dù đó là đất do chính họ hoặc cha ông họ khai khẩn từ đời nào thì cũng vậy, miễn là nhà nước nhảy vào “Quản lý”, thế là xong.

Vụ việc ở Đồng Tâm, nếu ai quan tâm chỉ cần vào Google với từ “Xã Đồng Tâm, Mỹ Đức” thì sẽ rõ. Ngay từ cách đây nhiều năm, báo chí đã nêu rõ việc chiếm cướp đất đai trắng trợn của người dân nơi đây của hệ thống Bí thư, cán bộ xã. Báo chí nhà nước kêu gào rồi cũng đành im vì chẳng ai làm gì được.

Ở Mỹ Đức, một chiêu bài được dùng để hù dọa và bịp người dân khá thành công là “Quốc phòng, an ninh”. Trong vụ Đồng Chiêm, nửa đêm nhà cầm quyền nổi hứng kéo gần ngàn quân đang đêm vào đập phá cây Thánh Giá trên Núi Thờ ở Giáo xứ Đồng Chiêm. Để lấp liếm tội ác này, nhà cầm quyền Hà Nội cho rằng cây Thánh Giá này “ảnh hưởng đến Quốc phòng, an ninh”. Một lý do rất… hài hước.

Nhưng, ở đây, sự lập lờ “Quốc phòng, an ninh” đã bị người dân bóc mẽ, họ đã không chấp nhận sự mập mờ đó. Nhưng mọi con đường kiện tụng, khiếu nại hết cửa nọ, đến cửa kia vẫn cứ quay về điểm xuất phát mới có… 10 năm.

Và người dân cứ vậy mà chấp nhận sự hà hiếp, đè nén và cướp đoạt của đám “đầy tớ nhân dân” bằng bao nhiêu trò thi thố nơi đây.

Thế rồi, bỗng dưng những thông tin và hình ảnh dồn dập làm nóng mạng xã hội về việc người dân Đồng Tâm đã tổ chức chống trả lại lực lượng đến cướp đất của họ và nhất loạt đồng lòng bảo vệ đất đai, tài sản của mình.

Thế rồi khi nhà cầm quyền giở con bài quen thuộc là dùng bạo lực để cướp đất đai, thì họ đã bắt giữ luôn cả một xe công an và cán bộ nhốt lại đòi nhà cầm quyền phải thả những người bị bắt.

Điều này làm cả xã hội sửng sốt.

Bởi điều đơn giản là ai đã từng sống trong chế độ cộng sản, thì mới hiểu được ý nghĩa của việc này như thế nào.

Với một nhà cầm quyền, mà “chính quyền sinh ra trên họng súng”, lấy bạo lực làm đầu thì đây là một việc “động trời” và ngang với những “tội tầy đình”.

Xưa nay, ở Việt Nam dưới thời Cộng sản, chỉ có việc nhà cầm quyền, công an, cán bộ muốn bắt ai là bắt, giữ ai là giữ, đánh đập ai là đánh đập, bỏ tù ai là bỏ tù chứ làm gì có ai dám bắt giữ cán bộ, công an bao giờ.

Xưa nay, nhà nước “của dân, do dân và vì dân” vốn “bình đẳng trước pháp luật” nhưng chỉ có cán bộ được bắt giữ, trấn áp người dân bằng mọi cách mà không bao giờ hề hấn gì, hoặc cùng lắm thì “cảnh cáo”, chết người thì vài ba năm tù… thế là xong. Còn người dân, những “ông chủ” nếu động vào đầy tớ của mình thì lập tức cả hệ thống vào cuộc và những tội lỗi tầy trời đã được dành sẵn, nhẹ nhất là “gây rối trật tự công cộng”, “chống người thi hành công vụ” còn nặng hơn thì “lật đổ chính quyền nhân dân”…

Tất cả đều có thể. Bởi chưng cả hệ thống từ lập pháp, tư pháp và hành pháp đều dưới một cây gậy của đảng “lãnh đạo tuyệt đối”. Và mọi hành vi đe dọa đến quyền lực của đảng, đều là “Chống lại Tổ quốc, chống lại dân tộc, và chống lại nhân dân” chứ không hề là chống đảng – Điều kỳ diệu của ngôn ngữ Việt thời đại Cộng sản là vậy.

Vậy điều gì đã thúc đẩy những người nông dân tay không nơi đây có những hành vi “động trời” “vuốt râu chó sói” này?

Có lẽ câu trả lời chỉ có thể là: Nhà cầm quyền đã đẩy họ đến cuối đường hầm bằng sự lộng hành và tàn bạo, đã mưu đồ tước đoạt nốt chút tư liệu sản xuất cuối cùng của họ, nghĩa là đẩy họ và con cháu, giống nòi họ vào chỗ chết.

Và đúng theo nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lenin, thì “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Hẳn nhiên, những người nông dân ở đây đã đấu tranh cả chục năm nay bằng nhiều hình thức khác nhau, đã nói lên sự áp bức ở đây dai dẳng như thế nào.

Rồi cũng đúng theo nguyên lý của Mác – Lenin, thì sức “nén càng mạnh, thì sức bật càng cao”. Chỉ có điều này mới có thể giải thích được hành động hôm nay của người nông dân xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội.

Cái khó

Nếu như ở những vụ việc khác, nhà cầm quyền Hà Nội sẽ giải quyết đơn giản hơn.

Thông thường là sự trấn áp bằng bạo lực một cách tàn bạo nhất có thể để đảm bảo chắc chắn phần thắng về nhà cầm quyền. Để làm được điều đó, hệ thống truyền thông được huy động vào cuộc. Bầy kền kền này được giao nhiệm vụ rỉa rói con mồi bằng mọi cách, kể cả bịa đặt, dựng chuyện, vu cáo và bóp méo… trước con mắt người dân nhằm chuẩn bị dư luận.

Và rồi một đêm đẹp trời hoặc một ngày mà tất cả mọi nẻo đường bị chặn, máy phá sóng và mọi sự liên lạc bị cắt đứt… là lúc bạo lực lên tiếng.

Hẳn nhiên, người dân tay không làm sao có thể trụ được với hệ thống lực lượng chuyên nghiệp được trang bị tận răng và nuôi nấng bằng tiền của chính những người dân này.

Và kết quả là máu, là bắt bớ, tù tội.

Thế nhưng, cũng có những lúc khi con bài bạo lực không tiện thi thố, thì con bài hòa hoãn được sử dụng. Phương cách “rút củi đáy nồi’ để hạ nhiệt đám quần chúng vốn thiếu sự hướng dẫn, lãnh đạo và nhất là thiếu đoàn kết, sau đó thì trở mặt khởi tố, đàn áp…

Nhiều vụ việc, người dân cứ tưởng những lời vàng ngọc từ những cán bộ chức cao, vọng trọng và uy thế thì sẽ được thực hiện như đinh đóng cột. Nhưng, chỉ cần người dân tin vậy rồi hạ nhiệt, rồi chia rẽ… là lúc các cán bộ lau mép, trở mặt và hệ thống nhà tù, công an, tòa án được khởi động theo lệnh của đảng.

Có lẽ, một trong những cách được sử dụng nhiều nhất, là việc đổ riệt cho một thế lực nào đó nếu có thể gán ghép được, hoặc là tôn giáo, hoặc là thế lực thù địch nước ngoài, hoặc là kẻ xấu lợi dụng… Để rồi sử dụng những biện pháp trấn áp dù bất nhân mấy thì vẫn “có lý” trước dư luận người dân.

Hay ít nhất, thì cũng như trường hợp em Nguyễn Văn Hóa ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh vừa qua. Một thanh niên 22 tuổi được nhà nước tặng cho những “thành tích” đáng nể. Đó là đã vận động được hàng ngàn người tham gia biểu tình chống Formosa, và đó là những người dân “nhẹ dạ, cả tin”… đại khái là dốt nát không chịu tin vào đảng sáng suốt.

Thế nhưng, ở đây thì hơi khó cho nhà cầm quyền.

Bởi người dân ở đây thuần nông, họ chân chất xưa nay vốn tin lời và nghe theo đảng, đã vi đảng mà hy sinh từ tính mạng cho đến tài sản. Không hề có yếu tố tôn giáo, “thế lực thù địch” hoặc “đối tượng xấu” ở đây.

Duy nhất để kích động họ, đó là hệ thống quan chức cộng sản tham nhũng và cướp bóc của họ thành một hệ thống từ trên xuống dưới bao che nhau.

Ở đó, theo báo chí cộng sản, thì đất vàng được các quan xã ẵm hết, người dân không ruộng cày.

Ở đó, một tên bí thư Huyện ủy có thể huy động cả họ hàng hang hốc được kéo nhau ra làm quan nhằm vơ vét tài nguyên và mồ hôi nước mắt người dân. Vì thế chúng liên kết hết sức hữu cơ và rất “có hệ thống, đúng quy trình”.

Vì vậy, cái cớ để vu cáo nhằm lấy cớ đàn áp là không nhiều.

Trong khi đó, vấn đề lại là ở chỗ chính sách đất đai, đường lối cướp bóc của dân lành là nguyên nhân, thì nhà cầm quyền lại không thể gỡ được. Bởi gỡ ra lấy gì để tồn tại?

Tạm kết

Có thể rồi nhà cầm quyền Hà Nội sẽ chọn một trong mấy cách trên đây, vốn đã thành “cẩm nang” chống lại nhân dân trong những trường hợp này.

Hẳn nhiên là họ sẽ “thắng lợi” khi dập tắt được sự phản kháng tức thời của người dân. Rồi lại bài cũ với một số người không ngoan ngoãn vâng lời để chịu cướp đất là đắc tội chống lại nhà nước…

Nhưng, hậu quả thì sẽ không như ý muốn của họ, đó là điều dễ nhìn thấy.

Bởi thời nay đã khác xưa cả điều kiện lẫn nhận thức của người dân.

Khi người dân đã thể hiện sự không sợ hãi, thì đừng nên đẩy họ vào chỗ cuối đường hầm.

Thế nhưng, mấy ai đã hiểu và làm được điều đó?

Và tôi chợt thấy văng vẳng bên tai, bài ca những người Cộng sản luôn gào thét:

“Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!
Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn!
Sục sôi nhiệt huyết trong tim đầy chứa rồi.
Quyết phen này sống chết mà thôi.
Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành…”

(Quốc tế ca)

Hà Nội, ngày 17/4/2017

J.B Nguyễn Hữu Vinh

VÌ SAO CÔNG AN THUA DÂN?

VÌ SAO CÔNG AN THUA DÂN?

Đào Hiếu

Nguyễn Trần Sâm

17-4-2017

Những CSCĐ bị dân bắt. Ảnh: FB

Như báo chí đã đưa tin, chiều 15 – 4, gần 30 người của chính quyền, trong đó có cả những viên cảnh sát cơ động, đã bị dân Đồng Tâm (Mỹ Đức, HN) bắt nhốt tại “nhà văn hóa” xã. Mục đích việc làm này của dân chúng là đòi chính quyền phải trả tự do cho những người bà con của họ đã bị chính quyền câu lưu trước đó vì hành động được gọi là “vi phạm đất đai”.

Một câu hỏi lớn được đặt ra: Vì sao những công an viên này lại để cho dân “bắt” được họ? Phải chăng vì họ không đủ năng lực và phương tiện để đè bẹp lực lượng quần chúng không có vũ khí trong tay, hay chí ít là thoát khỏi bàn tay của những người dân này?

Muốn trả lời câu hỏi này thì phải nghĩ đến những câu hỏi khác. Giả dụ viên chỉ huy của đội cảnh sát cơ động (nghe nói là trung đoàn?) ra lệnh xả súng vào đám dân hoặc không nổ súng nhưng dùng báng súng, lưỡi lê hoặc dùi cui đánh tới tấp vào đám dân dám chống lại mình, còn các chiến sỹ công an thì nhất loạt tuân lệnh, thì liệu đám dân đó có bắt nổi một công an viên nào không?

Dĩ nhiên là không! Khi đó thì đám dân kia chỉ có thịt nát xương tan hoặc ít ra là bị đau nhừ tử, chứ làm sao còn có thể bắt công an làm tù binh được nữa!

Như vậy, việc có hàng chục chiến sỹ công an thuộc “lực lượng mạnh” bị dân bắt nói lên rằng chỉ huy của họ đã không dám ra cái lệnh đó, hoặc/và các chiến sỹ cũng không dám thực thi một mệnh lệnh như vậy.

Vậy lý do để chỉ huy không dám ra lệnh và thuộc cấp không dám thực thi nếu có lệnh là gì? Câu trả lời là: Họ vẫn còn tính người và tình người. Họ không đang tâm bắn vào hoặc đánh đập tàn nhẫn những người dân tay không tấc sắt. Họ biết rõ đó là những người vô tội và nghèo khổ, đã chịu bao oan trái do những kẻ có thế lực gây ra. Nghĩa là chúng ta vẫn còn có thể hy vọng vào những con người này. Đa số vẫn còn lương tâm. Và nhiều người trong số đó cũng có bà con, anh em hoặc xóm giềng là những người dân nghèo đáng thương. Họ từng nhiều lần chứng kiến cảnh khổ của những người thân. Và họ đã nhận ra rằng chính nghĩa không ở phía họ, nếu họ ra tay đàn áp.

Xưa nay vẫn vậy. Một khi hàng ngàn người dân bị dồn đến bước đường cùng thì họ sẽ nổi dậy. Ban đầu, những nhóm lẻ tẻ sẽ bị đàn áp. Những đám dân khác sẽ sợ và im tiếng. Nhưng khi không còn gì để mất thêm thì con người sẽ hết sợ. Họ sẽ nổi dậy đông hơn. Sẽ tiếp tục có đàn áp, nhưng rồi “một người rơi, mười người tiến”, và sẽ đến lúc có hàng triệu người đứng dậy. Sẽ đến lúc lực lượng đàn áp không thể thực thi nhiệm vụ đàn áp được nữa. Dù ban đầu, những kẻ có vũ trang này chưa nhận ra được chính nghĩa, nhưng rồi trong những cuộc cọ xát, những chiến dịch đàn áp, dần dần họ sẽ nhận ra lẽ phải. Khi đó, những mệnh lệnh đàn áp sẽ không được thực thi nữa. Lực lượng đàn áp sẽ quay súng!

Đó là quy luật!

Thật không may cho nhà cầm quyền nào không nhận thức được quy luật này, một quy luật mà chính những thủy tổ của CNCS cũng từng nói đến nhiều lần.

Vào thời kỳ trước sau năm 1980, cả nước đói khổ, dân tình ca thán. Những bài vè chế giễu nhà cầm quyền xuất hiện khắp nơi. Có cả những bài như “sấm ký”. Đó là những dấu hiệu của sự suy sụp. Nhưng vào thời đó chưa có đàn áp. Dân chưa bị đánh, chưa bị quy thành “các thế lực thù địch”. Một số người nói: Chắc sắp tiêu! Nhưng tôi nói: Đã có gần đủ các dấu hiệu, nhưng còn thiếu đàn áp dân.

Còn bây giờ thì đã có! Khắp nơi, hàng ngàn người dân bị đàn áp sau khi bị dán nhãn “các thế lực thù địch”!

Và không chỉ có vậy. Giai đoạn cuối của thời kỳ đàn áp dân đã đến. Lực lượng đàn áp đã bỏ chạy. Không chỉ ở xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức. Việc đó cũng đã xảy ra hơn một lần ở những nơi khác, nhất là quanh Formosa Hà Tĩnh!

Vì sao rất hiếm khi tim bị ung thư? Lại có thể chữa được bệnh cho thân thể?

Vì sao rất hiếm khi tim bị ung thư? Lại có thể chữa được bệnh cho thân thể?

Trái tim là bộ phận duy nhất trong cơ thể người không bị ung thư, hơn nữa lại là liều thuốc hữu hiệu nhất. Cùng xem các chuyên gia phân tích về vấn đề này.

Tâm chủ thần minh, ý nghĩa rất sâu xa.

Tim là liều thuốc hữu hiệu nhất

Năm 2008, Tiến sĩ David Vesely thuộc Đại học Nam Florida, nước Mỹ trong một nghiên cứu về tim đã phát hiện: Trái tim có thể tiết ra một loại hormone để cứu sống con người, nó không những trong vòng 24 giờ có thể giết chết hơn 95% tế bào ung thư, mà đối mặt với các bệnh nan y khác thì cũng có tác dụng trị liệu vô cùng hiệu quả.

Câu chuyện bắt đầu từ hai người bạn của TS. Vesely: Một cặp vợ chồng người Anh quốc, vào năm 2003 bị ung thư, được cho rằng chỉ sống được khoảng ba tháng nữa. Hai người họ sau khi ngừng trị liệu, lựa chọn dùng 2 tháng còn lại để hoàn thành 50 việc trong cuộc đời. Sau đó họ cùng ký một hợp đồng du lịch, dốc hết gia sản 4 vạn bảng Anh, thực hiện một cuộc hành trình vòng quanh thế giới, với điều kiện là chỉ cần một người trong 2 vợ chồng qua đời, thì hợp đồng sẽ chấm dứt.

Công ty du lịch đến bệnh viện khảo sát, cho rằng họ chỉ sống được khoảng 1 tháng nữa, ký kết hợp đồng này là rất có lợi, bèn lập tức ký kết. Nhưng vượt ngoài dự định ban đầu, chuyến hành trình kéo dài đến một năm rưỡi, hai vợ chồng họ cảm thông cho công ty du lịch, đã tự động hủy hợp đồng và trở về nhà. Sau đó họ đến bệnh viện kiểm tra, phát hiện toàn bộ tế bào ung thư đều đã biến mất. Vốn là căn bệnh hiểm nghèo tưởng chừng không thể trị khỏi thì lại không thuốc mà hết.

Sự việc này khiến cho TS. Vesely cảm thấy rất hứng thú. Ông sau đó tiến hành nghiên cứu đã phát hiện, trái tim lúc bình tĩnh vui vẻ hạnh phúc, sẽ tiết ra một loại hormone, có tác dụng trị liệu các chứng bệnh nan y. Nghiên cứu của ông làm chấn động thế giới, được vinh dự là nhà khoa học “Tiết lộ mấu chốt cuối cùng của Thượng Đế”.

 Trái tim lúc bình tĩnh vui vẻ hạnh phúc, sẽ tiết ra một loại hormone, có tác dụng trị liệu các chứng bệnh nan y.

Câu chuyện về cặp vợ chồng ung thư tự khỏi bệnh này, đến từ một bài viết trong cuốn sách của vị Trung y Đài Loan Ôn Tần Dung (Wen Pinrong). Bà Ôn nói về ví dụ này:

 “Nói đến những ví dụ như thế này, sẽ nói đến tâm linh con người. Bởi vì tất cả cơ quan nội tạng, gan, tỳ, phổi, thận, dạ dày, ruột… đều có (mắc bệnh ung thư), chỉ có tim không có. Vì sao tim không có? Bởi vì Trung y nói: ‘Tâm giả, quân chủ chi quan dã, thần minh xuất yên’ (tâm giữ chức quân chủ, nơi thần minh xuất ra). 

“Cái này chính là như trong “Hoàng đế nội kinh” giảng ‘Chủ minh tắc hạ an, dĩ thử dưỡng sinh tắc thọ’ (chủ minh mà an thì nhờ đó dưỡng sinh sẽ thọ), chỉnh thể sẽ vững vàng khỏe mạnh”.

Ôn Tần Dung giải thích, tâm (tim) chính là chân mệnh thiên tử, “đại thiên hành mệnh”. Tâm chủ thần minh, thần minh là chỉ tinh thần ý thức, hoạt động tư duy, là chúa tể của thân thể và linh hồn. Cho nên tất cả các cơ quan nội tạng đều bị ung thư, nhưng riêng tim là không bị ung thư, chỉ ngừng đập khi chính thức tử vong. Một người có thể xác và tinh thần bình ổn, tâm tình ổn định, thân thể liền sẽ nhanh chóng phục hồi khỏe mạnh.

Vậy nên:

“Bác sĩ tốt nhất chính là bạn, tim là loại thuốc mạnh nhất, tự nhiên nhất cho sức khỏe, đều có thể trị liệu mọi chứng bệnh của cơ thể”.

Đổng Thảo Nguyên (Dong Caoyuan), một vị Trung y dân gian ở Quảng Đông cũng suy nghĩ về “vì sao tim không bị ung thư?”. Bà cũng thăm dò và nghiên cứu vấn đề này, và phát hiện bí mật giống như Ôn Tần Dung.

Tại sao lại có “Trí mưu chi sĩ sở kiến lược đồng”, những kẻ sĩ trí mưu thì ý kiến của họ đều gần gần giống nhau? Mặc dù mọi sự vạn vật biến hóa vô cùng, nhưng “Thiên Đạo” chỉ có một đầu, đó là giống như định luật vĩnh hằng, chỉ có một Mặt trời mỗi ngày mọc lên ở đằng Đông vậy. Cả Ôn Tần Dung và Đổng Thảo Nguyên cũng thế, dù là Đài Loan hay Quảng Đông, quay lại truyền thống Trung y “Thiên Đạo quan”, liền có được một chiếc chìa khóa giống nhau mở ra vũ trụ.

 

 

 

 

 

 

 

 

Bác sĩ Trung y Đài Loan, Ôn Tần Dung.

 Trung y đứng tại quan điểm vũ trụ để nhìn nhận nhân thể

Tâm tình ổn định, cần phải có rất nhiều điều kiện. Ôn Tần Dung cho rằng nhiều bác sĩ ngày nay thường dọa dẫm bệnh nhân rằng bệnh của họ vô cùng nghiêm trọng. Ví như một người thường mắc chứng huyết áp cao, đã bị bác sĩ nói gọn rằng “uống thuốc cả đời”, từ đó về sau lo sợ sống qua ngày, kỳ thực mỗi ngày đều sống trong sợ hãi.

Sau khi khám lâm sàng, Ôn Tần Dung phát hiện một người trước khi ăn cơm đường máu cao tới 300, cô kiên quyết nói cho bệnh nhân biết, không phải đường trong máu có vấn đề, mà là tâm tình có vấn đề. Cô dặn bệnh nhân cần thoải mái tinh thần, quả nhiên đường máu đã giảm. Còn có người bị phán cao huyết áp sau đó đã trở lại bình thường, cuối cùng dừng uống thuốc.

Như vậy, một người phải thu xếp ổn tinh thần, thoát khỏi sự sợ hãi?

Ôn Tần Dung nói:

“Muốn khống chế một người thì biện pháp tốt nhất là khiến họ sợ hãi, cho nên thông thường, nhiều bác sĩ đều đe dọa người bệnh, tinh thần của chúng ta đều bị khơi mào, đều bị nô lệ hóa rồi”.

… Tôi đều hỏi người bệnh: ‘Đây quả thật là những điều bạn muốn sao? Muốn có thật nhiều tiền, thi đậu trường học tốt, đạt được công thành danh toại… Đây là điều bạn thật sự muốn sao?’.

 Kỳ thực không phải là điều chúng ta thực sự muốn, mà là bị xã hội tẩy não kích thích, bị phụ huynh kỳ vọng, nên muốn liều mạng, kết quả tranh đấu cuối cùng thân thể đều vỡ ra rồi, lại cũng không cảm giác được hạnh phúc. Rất nhiều người sau khi sinh bệnh mới có thể thật sự tỉnh ngộ: Rốt cuộc sống là vì gì đây? Nhiều tiền như vậy để làm gì? Đây là những điều tôi muốn nhấn mạnh trong sách của mình, hy vọng mọi người tìm lại được hạnh phúc thực sự”.

 Như vậy, con người như thế nào mới hạnh phúc?

Từ khi có nhân loại đến nay, bản năng của con người luôn đặt ra một câu hỏi sắc bén: “Con người là gì? Ta là ai?”. Từ cổ chí kim, tất cả các nhà thần học, triết học, khoa học gia… đều đi tìm câu trả lời. Ôn Tần Dung trong sách kể về một cậu bé 12 tuổi uống trộm thuốc ngủ, khi bà đi vào phòng khám bệnh, cậu bé liền bắt đầu hỏi bà:

 “Tôi là ai? Vì sao phải sống? Về sau tôi cũng giống như cha mẹ mình, học ở trường, kết hôn, sinh con, sau rồi chờ chết sao? Vì sao cứ bắt tôi phải đạt thành tích tốt? Vì sao?…”.

Thước đo thành công của đời người là gì?

Bà thở dài nói, nếu một người mù mờ về giá trị tích cực, họ sẽ không cách nào nhận thức tinh tường về vấn đề này, chẳng những cuộc sống sẽ mê mang, mà nội tiết cũng sẽ mất cân đối, cuối cùng khiến thân thể khó tránh khỏi bệnh tật.

 Tâm linh ảnh hưởng đến thân thể, ngũ tạng phản ánh tâm hồn

Ôn Tần Dung nói:

“Tàng giống như hệ thống “hồn, thần, ý, phách, chí” đối ứng với ngũ tạng; như gan tàng hồn, tim tàng thần, tỳ tàng ý, phổi tàng phách, thận tàng chí.

 Làm thầy thuốc càng lâu càng có cảm giác này, tựa như hồn, thần, ý, phách, chí không ở tại không gian này, nhưng đều làm chủ điều khiển thân thể chúng ta. Nếu như hồn, thần, ý, phách, chí không tồn tại trong không gian chúng ta, mà đến từ vũ trụ, như vậy có lẽ chúng ta đều có một tinh thể đối ứng, là có liên kết với nó, mỗi người chúng ta đều có lai lịch, chỉ là chúng ta không biết mà thôi. Vậy tại sao lại tới địa cầu này? Phải chăng là mang theo nguyện vọng và nhiệm vụ nào đó mà đến?”.

Ôn Tần Dung tiến thêm một bước giải thích: “Giống như não chúng ta, các nhà khoa học phát hiện chúng ta chỉ sử dụng 2% dung lượng của não, chiếm khoảng 3% khối lượng của cơ thể, nhưng lại cần tới ¼ tổng khí oxy; lưu lượng máu chảy lên não chiếm 15% khối lượng máu từ tim đẩy ra… Nếu như con người chỉ dùng 2% não bộ, vì sao cần nhiều lượng dưỡng khí và máu như vậy? 98% não còn lại thì đang làm gì? Có lẽ chúng chính là trạm trung chuyển, có chức năng giống như nhà ga”.

Bởi vậy, bà suy luận thần, hồn, ý, phách, chí tại nhân thể, tựa như linh hồn mặc một bộ y phục. Ôn Tần Dung nói:

 “Cho nên vấn đề linh hồn là vấn đề y học, vũ trụ xảy ra vấn đề thì con người cũng có vấn đề… Tôi phát hiện có một số người bị bệnh nguyên do là vì: Họ giống như không tìm thấy chính mình, có lẽ đây là gốc rễ của vấn đề”.

Trung y xem thân thể người như một vũ trụ.

 Quan điểm của Trung y về nhân thể và vũ trụ

Ôn Tần Dung thể ngộ rằng châm cứu giống như là thuận theo khí tượng của vũ trụ vậy, điều chỉnh nhân thể có thể hài hòa cộng hưởng với vũ trụ, có thể khiến con người nhanh chóng hồi phục khỏe mạnh, bình an, không cửa ải khó khăn nào không vượt qua. Bà nói:

“Mỗi lần châm cứu khởi huyệt, tôi đều có thể cảm thấy khí di chuyển, lúc khí cơ điều động kinh mạch huyệt vị, thật sự nhận thấy người bệnh sắc mặt liên tục biến đổi.

 Ví như bệnh tim sắc mặt vốn là xanh xao, bờ môi biến thành màu thâm đen, sau khi châm cứu thì môi trở nên hồng hào; ý thức vốn vô hồn, sau khi châm cứu thì đôi mắt sáng lên hoàn hồn, sắc mặt trắng bệch chuyển sang hồng hào, nếp nhăn cũng tiêu bớt…

 Đây là chúng ta chứng kiến sự biến hóa của con người giữa trời đất, khiến cho người ta vô cùng kinh ngạc. Cho nên tôi mỗi ngày trong cuộc sống đều thưởng thức sự ảo diệu của vũ trụ”.

Trung y xem thân thể người như một vũ trụ

 “Tây y phát triển về giải phẫu thân thể người, chỉ là đứng trên địa cầu để nhìn nhận nhân thể; Trung y coi nhân thể ngoài hệ thống giải phẫu ra còn có hệ thống tàng đối ứng với ngũ tạng, đó là ‘hồn, thần, ý, phách, chí’, là đứng tại vũ trụ để xem nhân thể, chính là xem con người như một vũ trụ”.

Bà đưa ra ví dụ lúc thủy triều, trăng tròn, rất nhiều người sẽ sinh bệnh thậm chí là bệnh nặng; cảm xúc dễ dàng lên xuống, án hung sát cũng nhiều hơn, đều là có quan hệ với vũ trụ. Như những lần thiên tai biến dị, trục địa cầu bị lệch, hiện tượng nhiều tinh cầu nổ tung… những hoàn cảnh biến hóa bên ngoài này đều sẽ ảnh hưởng đến nhân thể.

Tuy nhiên, với những điều như vậy Trung y lại thường bị người hiện đại công kích là phản khoa học.

Ôn Tần Dung khá bức xúc nói: “Lão tổ tông của chúng ta là Viêm Hoàng tử tôn 5.000 năm, vì cớ gì Tây y mới phát triển 200 – 300 năm lại có thể đánh bại? Vì sao lại chối bỏ tất cả? Khoa học thực nghiệm có phải là khoa học thực sự không? Vật lý giới, lượng tử cơ học, còn có “nguyên lý bất định” của Heisenberg! Cả con người, toàn bộ vũ trụ đều từng giây từng phút thay đổi, cho dù bạn có đầy đủ trí tuệ cũng không đủ năng lực để chứng minh hết thảy tự nhiên. Ai có tư cách phê phán trí tuệ của lão tổ tông? Tôi cho rằng có thể chữa khỏi bệnh mới là khoa học cao nhất, miễn là có hiệu lực thì mới là khoa học cao nhất”.

Con người hiện đại không lý giải được nhiều sự việc chân thực và lý luận của Trung y

 “Khoa học chẳng phải là lý luận phong phú hoặc dụng cụ tinh vi, vậy thì vì sao chúng ta luôn phát sinh bệnh? Tự nhiên mới là khoa học cao nhất, bởi tự nhiên là Thần kỹ, dụng cụ là người kỹ, nhân lực không cách nào thắng thiên. Nếu khoa học phát triển như vậy, vì sao Tổ chức y tế thế giới công bố nhân loại còn có 8 nghìn chủng bệnh không thể trị liệu, còn có rất nhiều siêu vi trùng xâm nhập vào con người, trước mắt không có cách nào trị liệu? Hơn nữa tổ chức đó còn cho biết: Người bệnh toàn cầu, có 1/3 đã chết vì sự cố chữa bệnh, 1/3 chết vì thuốc… Họ cũng không phải vì bệnh tật mà chết. Cho nên chúng ta thực sự phải trở về với tự nhiên.

 Chúng ta thường nói ‘Chúc bạn may mắn’, vì sao lại nói đến vận mệnh như vậy, thực tế chính là, thuận theo nhịp dưỡng sinh của thiên địa thì sẽ gặp may mắn; rời xa đạo mà đi thì sẽ gặp vận xui, vận xấu. Cho nên nói chúc bạn gặp vận may”.

 “Trung y” – Y học “Trung hoà”, “Cân đối”

Trong mắt của Ôn Tần Dung, bà coi “Trung y” định nghĩa là “y học Trung Hoa”, hàm ý rằng làm người chữa bệnh cần đạt tới y học “trung hòa”, “cân đối”; là mối liên kết giữa linh hồn vũ trụ và vật chất nhân thể, nó trở thành y học “trung gian”.

Chính như “Trung dung” nói: “Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã; hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”. (Tạm dịch: Trung là cái gốc lớn của mọi nhà; hòa là đường lối thành tựu của con người. Làm hết mức đạo trung hòa, trời đất được đúng ngôi, vạn vật được nuôi nấng).

Như thế xem ra, Trung y chẳng những là tư tưởng văn hóa truyền thống tinh túy của Trung Hoa, cũng là đạo lý thiên địa dưỡng dục của vũ trụ, càng là báu vật của nhân loại.

Lucie 1937 gởi

Giáo sư Nguyễn Ngọc Linh, người xây dựng ngôi nhà báo chí VN

Từ Thức
(Cựu Thông tín viên VTX tại Hòa đàm Ba Lê)

Giáo sư Nguyễn Ngọc Linh vừa qua đời, hưởng thọ 88 tuổi, nột năm sau ngày bào đệ Nguyễn Ngọc Bích quy tiên. Hai ông là những khuôn mặt tích cực của sinh hoạt báo chí và văn hóa, giáo dục, ở miền Nam trước 75 và sau đó, ở hải ngoại.

Ông Nguyễn Ngọc Linh là người đã mang lại tính chuyên nghiệp cho báo chí ở miền Nam, và cũng là người đặt nền tảng cho báo chí  “quốc gia” ở hải ngoại.

blank

CHUYÊN NGHIỆP HÓA NGHỀ LÀM BÁO

Trong chức vụ Tổng giám đốc Việt Tấn Xã (từ 1965), ông mở khóa huấn luyện báo chí đầu tiên ở Sai Gòn, với 30 khoá sinh trẻ, trên dưới 20 tuổi. Việt Tấn Xã  (VTX) là cơ quan truyền thông quan trọng hàng đầu của Việt Nam Cộng hòa, một quốc gia đang lâm chiến.

VTX cung cấp tin tức, phóng sự cho báo chí Việt Nam và ngoại quốc, với các ấn bản Việt ngữ, Pháp và Anh Ngữ.

Đó là giai đọan đầu tiên của lịch sử báo chí miền Nam, ký giả, phóng viên được đào tạo  để nắm vững những kỹ thuật viết tin, phóng sự theo những tiêu chuẩn của báo chí Quốc tế.

Trước đó, người ta làm báo theo kiểu rất tài tử, rất…Việt nam. Anh nào có năng khiếu hay trình độ văn hóa khả quan thì viết lách gọn ghẽ, anh nào kém hơn vẫn viết lách; viết lách theo kiểu… bình dân, lôi thôi, dài dòng, với một mớ kiến thức chuyên nghiệp rất lơ mơ.

Với hy vọng ‘’nghề dạy nghề ‘’, nhưng khi cái căn bản nó không vững, kinh nghiệm nhiều khi chỉ là cái hại. Ở một nước tân tiến, cái gì cũng phải học, từ ông kỹ sư cho tới ông sửa ống cống, ông thợ hớt tóc, anh thợ hồ, chị bán cá.

Ngược lại, ở một nước chậm tiến, không cần phương pháp. Nếu anh thấy mình muốn nấu phở, nếu bà thấy mình có khiếu làm bánh cuốn, cứ khơi khơi mở tiệm. Báo chí cũng vậy. Một sớm, một chiều, cao hứng, hay không biết làm nghề ngỗng gì, ông có thể trở thành ký giả. Chỉ cần biết đọc, biết viết. Đúng hơn, chỉ cần biết đọc, còn viết,  trong nhiều trường hợp, phải xét lạị .

Môi trường báo chí hỗn loạn như xã hội VN; Bên cạnh những nhà báo khả kính-và khả tín-có kiến thức, có lương tâm nghề nghiệp, coi nghề báo như một sứ mạng, cũng có những ông trình độ văn hóa rất mơ hồ, khả năng chuyên nghiệp rất đại khái. Cái khiếm khuyết về khả năng còn tai hại hơn nữa nếu nó đi đôi với sự vắng bóng lương tâm nghề nghiệp.

Thời  ấy, không thiếu những người coi nghề viết báo là một cơ hội để làm ăn với những người có quyền thế, có máu mặt. Đâm thuê, chém mướn bằng ngòi bút nó tệ hại hơn cả đâm thuê, chém mướn bằng dao, búa. Cái bệ rạc văn hóa nó tệ hại và bệ rạc hơn cái bệ rạc xã hội.

Khóa huấn luyện báo chí VTX  của Giáo sư, Nhà báo Nguyễn Ngọc Linh dạy viết tin, viết ký sự, làm phóng sự, bình luận thời sự, những kỹ thuật chuyên môn tối thiểu không thể thiếu của người làm báo. Khóa học cũng đặt vấn đề lương tâm, trách nhiệm của người cầm bút.

Cố nhiên, không phải qua một khoá huấn luyện, bạn trở thành một nhà báo xứng đáng với tên gọi, nhưng đó là điều kiện tối thiểu để hành nghề, điều kiện tối thiểu để đưa báo chí VN ra khỏi tình trạng tiểu công nghệ. Ra khỏi tình trạng lạc hậu của một nước chậm tiến. Nó cho bạn một gói hành lý tối cần để nếu bạn có ý chí học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu không ngừng, để, một ngày đẹp trời nào đó, trở thành một ngòi bút chuyên nghiệp, có thể trình làng một bài báo đáng gọi là bài báo.

Trong số 30 người tốt nghiệp khoá báo chí, một số làm việc cho VTX, một số cộng tác với các cơ quan báo chí khác. Một nhóm sáng lập ‘’ Việt Nam Ký Sự ‘’, cung cấp phóng sự cho báo chí miền Nam.

Khi nhận chức giám đốc Đài Phát Thanh, Đài Truyền Hình (1964), Ông Linh cũng không quên việc huấn luyện để đào tạo những người chuyên nghiệp. Đó là một bước đầu cho những phân khoa báo chí sau này ở vài Đại học, như Đại Học Đà lạt. Bước tiến ấy bị chận lại với cái đại họa 75 chụp xuống miền Nam.

Ngày nay, báo chí ‘’ lề phải ‘’ trong nước chỉ là công cụ của một chế độ độc tài do đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Ở đó không có báo chí, chỉ có những tờ truyền đơn.

Nhân dịp, xin ngả mũ chào những nhà báo độc lập, đang sẵn sàng hy sinh để nói lên tiếng nói của sự thực, của lẽ phải.

Bên cạnh sinh hoạt trong ngành truyền thông, ông Nguyễn Ngọc Linh còn tích cực trên lãnh vực giáo dục. Ông cùng bà Linh mở trường dạy Anh ngữ, cùng bào đệ Nguyễn Ngọc Bích và bà Bích mở Đại Học Cửu Long. Muốn cải tiến đất nước, không có con đường nào khẩn cấp hơn là phát triển giáo dục. Ông Linh là người thấy gần và nhìn xa. Chỉ thấy gần là người thiển cận. Chỉ nhìn xa là người sống ở trên mây.

ĐẶT NỀN TẢNG CHO BÁO CHÍ VIỆT NGỮ HẢI NGOẠI.

Sau 75, báo chí VN mở ra như nấm ở nước ngoài, đặc biệt tại Hoa Kỳ, nơi có dông người Việt tị nạn sinh sống nhiều nhất trên Thế giới. Tình trạng báo chí hải ngoại đã trải qua nhiều giai đoạn, từ giai đoạn khó khăn của những ngày chân ướt, chân ráo, tới một thời trăm hoa đua nở, và ngày nay, một giai đoạn đầy thử thách. Báo chí Việt ngữ đang sống bi quan, trong cái bi quan chung của báo chí thế giới. Số độc giả bớt đi, vì nhiều người cao niên, đọc sách báo Việt ngữ nhiều, dần dần ra đi. Những người trẻ trình độ tiếng Việt kém, có nhiều hình thức giải trí thích hợp hơn, không thấy có nhu cầu đọc sách báo Việt ngữ. Đó là một vấn đề rất đáng quan tâm.

Báo chí, hay những sinh hoạt văn hóa, là chuyện tối cần cho một công đồng. Một cái giây nối những thành phần hỗn tạp của cộng đồng lại với nhau, là cái gạch nối giữa người Việt ly hương trên khắp thế giới. Khi không còn sinh hoạt báo chí, sinh hoạt văn hóa, cộng đồng sẽ trở thành một cộng đồng chết, không cá tính, không tâm hồn . Cũng như một cá nhân không có văn hóa chỉ là một xác chết biết đi. Cố nhiên, đó là nói về báo chí theo đúng nghĩa của nó. Tạm bỏ qua những tờ báo lá cải, chỉ chuyên tung tin dựt ngân, mạ lỵ, chụp mũ, điển hình của một thời đại nhiễu nhương.

Ít người biết Ông NNL là người  đặt viên đá đầu tiên cho báo chí có khuynh hướng quốc gia ở hải ngoại. Trước đây, ở hải ngoại, nhất là ở Pháp, báo chí Việt ngữ rất lèo tèo, hầu hết đều thiên Cộng, hoặc bị CS giựt dây.

Ông Linh phụ trách báo chí, truyền thông bên cạnh Phái Đoàn VNCH tại cuộc hội đàm Paris về VN (1968). Ông thấy cần một tờ báo Việt Ngữ, loan tin và trình bầy vấn đề VN với quan điểm của VNCH, chống lại luận điệu tuyên truyền của tờ Đoàn Kết hay những tờ báo thiên Cộng, phát hành ở Paris hay các nước Âu Châu. Tuần báo TIN QUÊ HƯƠNG ra đời ít ngày sau khi cuộc hội đàm bắt đầu, phát hành đều đặn, cho tới ngày 30 tháng Tư, 75. Báo gởi tới tận nhà cho các độc giả hải ngoại ở khắp nơi. Lần đầu tiên, người Việt sống ở nước ngoài từ lâu, được đọc tin tức về VN , thấy miền Nam có khuôn mặt khác hẳn với hình ảnh do báo chí CS tô vẽ.

Trước 75, khuynh hướng thiên tả rất mạnh ở Âu Châu, nhất là ở Pháp. Trước Tin Quê Hương, đại đa số báo chí Việt Ngữ đều thiên Cộng, từ những tờ báo dành cho giới bình dân, thợ thuyền, cựu quân nhân trong quân đội Pháp, sống xa quê hương từ lâu, hoàn toàn bị đàu độc bởi tuyên truyền CS.’’ Trí thức ‘’, nghiã là giới sinh viên, khoa bảng cũng không hơn gì, bị ảnh hưởng của báo chí thiên tả Pháp, đứng đầu là tờ Le Monde. Le Monde, cẩm nang của trí thức, sinh viên du học, khi loan tin Khmer Đỏ tiến về thành phố, đã viết một cách khơi khơi là dân chúng hồ hởi đứng hai bên đường chào đón quên giải phóng.

Ký giả của Le Monde chỉ nói tới cái tốt của CS và cái xấu của VNCH . Ở thời điểm đó, là trí thức, nghĩa là thiên Cộng, thiên tả. Người ta nhắm mắt trước sự thực. Được hỏi tại sao yên lặng trước những tội ác của Goulag, Jean Paul Sartre trả lời : ‘’ Il ne faut pas désespérer Billancourt‘’ (Không nên làm Billancourt tuyệt vọng ‘’.) Boulogne-Billancourt , ở ngoại ô Paris, nơi có trụ sở của hãng xe hơi Renault, được coi là tiêu biểu cho cuộc tranh đấu của thợ thuyền Pháp, giấu sự thực ở Nga để thợ thuyền khỏi thất vọng và tiếp tục tranh đấu cho thiên đường xã hội chủ nghiã. Bất chấp sự thực, vì sự thực không có cách mạng tính, la vérité n’est pas révolutionnaire, như một câu nói nổi tiếng khác. Trong bối cảnh đó, rất nhiều sinh viên miền Nam, du học với học bổng VNCH, nhưng ‘’chống Mỹ cứu nước’’.

LÀN GIÓ NGUYỄN NGỌC LINH

Báo  Tin Quê Hương đã mang một hình ảnh khác, một cái nhìn khác về quê hương, đã hỗ trợ cho những người chống Cộng còn hiếm hoi ở hải ngoại thời ấy. Nhiều độc giả lần đầu nghe tới lúa thần nông, chính sách chiêu hồi, thảm sát Mậu Thân, tai họa kinh hoàng của Cải Cách điền địa. Nhiều người, lần đầu tiên, khám phá Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Tô Thùy Yên…

Đó là một tiếng nói khác với gịọng lưỡi CS, ở một thời chưa có Internet, tuyên truyền là độc quyền của CS. Ngày nay, chống Cộng là chuyện đương nhiên trên báo chí Việt Nam hải ngoại.

Năm 1968, đánh dấu thảm họa Cộng Sản bao phủ Tết Mậu Thân ở miền Nam, làng báo Việt Nam đã đón nhận một luồng gío mới đến từ một nhà báo đầy sáng kiến, một người nắm vững kỹ thuật truyền thông Quốc tế  hiếm hoi ở VN, Ông Nguyễn Ngọc Linh.

Người Việt ta có thói quen trọng nể những người có bằng cấp, kể cả những tay khoa bảng, ngoài việc học gạo lấy bằng, không có khả năng gì, không làm gì ra hồn, trói gà không chặt và cũng chẳng thử vén tay trói gà, vì lười và vô trách nhiệm.
Nhiều người trong chúng ta quên rằng đất nước muốn tiến bộ, phải có những ngưòi nhìn xa, trông rộng, có sáng kiến, và sẵn sàng thực hiện những sáng kiến đó, dù nó rất mới với thời đại. Những người có khả năng và thiện chí thường muốn truyền đạt kiến thức để góp một viên gạch , xây dựng một ngôi nhà chung cho đất nước.

Những người như vậy, trong xã hội VN không đông đảo như người ta tưởng. Ông Nguyễn Ngọc Linh là một trong số những nhân vật hiếm hoi đó.-/-

Từ Thức

(Paris)

Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng.

From facebook: Hoang Le Thanh added 3 new photos.
Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng.

Việt Nam là một quốc gia đang vi phạm nhân quyền trầm trọng, các nhà nước và nhiều tổ chức quốc tế kêu gọi nhà nước Việt Nam phải cải thiện hồ sơ nhân quyền yếu kém của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế hầu tiến tới một thể chế dân chủ và công bằng hơn.

Việt Nam, tuy đã có dấu hiệu hứa hẹn cải thiện song cũng trơ trẻn biện luận, chưa hoặc cố tình trì hoãn thi hành Bộ luật Hình sự 2015, cố tình đánh tráo khái niệm một số quy định được cho là còn cứng nhắc, quá khắt khe và làm khó cho cơ quan tiến hành tố tụng trong bộ luật Hình sự mới.

Do đó, Việt Nam không được đánh giá là tự do và công bằng.

Nhà nước Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra đời đã 72 năm và 42 năm nắm toàn quyền cai trị đất nước. Song đến năm 2017, Việt Nam vẫn là một quốc gia toàn trị bởi một đảng duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Cơ quan hành pháp sử dụng công an cảnh sát lấn lướt và kiểm soát các thế lực dân sự, một chế độ độc tài, một nhà nước công an trị.

Cho dù bị phản đối, chính quyền Việt Nam vẫn vi phạm, vẫn chà đạp nhân quyền, chà đạp lên pháp luật, chà đạp lên hiến pháp do chính họ soạn thảo và ban hành.
Tuy Việt Nam có hứa hẹn cải thiện những điều lệ về bắt giữ, tạm giam, xét xử, kể cả quyền được giữ im lặng khi bị bắt. Thế nhưng, họ vẫn cố tình không thực hiện, vẫn còn rất nhiều định nghĩa mơ hồ trong Bộ Luật Hình Sự như xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm lợi ích nhà nước mà nhà cai trị dựa vào để chận đứng những hoạt động chính trị của người dân cũng như các tổ chức xã hội dân sự.

Mặt khác, Việt Nam không có tự do tôn giáo, Việt Nam vi phạm nhân quyền vì những hành động như bắt giữ công dân một cách tùy tiện, tra tấn đánh đập người bị bắt dẫn đến hàng trăm trường hợp tử vong trong đồn công an, người bị buộc tội không được xét xử bằng những phiên tòa công bằng, trong lúc hệ thống tư pháp thiếu công minh, không độc lập mà còn bị lũng đoạn.

Ngoài ra, những quyền đương nhiên người dân được hưởng như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin ở Việt Nam còn bị giới hạn, nhà nước sử dụng mọi biện pháp kiểm duyệt, ngăn chận và cấm đoán Internet. Những điều cấm kỵ này được áp dụng luôn cho cả các tôn giáo trong nước.

Tóm lại, siết chặt tôn giáo, kiểm soát, khủng bố, tra tấn, án tù nhiều năm, hạn chế thông tin, bắt giữ tùy tiện, đàn áp người dân đòi quyền lợi chính đáng của mình, ngụy tạo bằng chứng để buộc tội người vô tội, gây căng thẳng đời sống xã hội.

Một nhà cầm quyền cai trị đất nước theo luật man di mọi rợ, tối tăm. Một nhà nước bị khuất phục và hèn hạ tôn thờ Trung cộng, càng ngày bị lệ thuộc ̣nặng nề, sớm muộn lãnh thổ cũng bị sáp nhập vào Trung cộng.

Dân tộc sẽ bị phân tán và triệt tiêu, bản đồ thế giới sẽ không còn tên nước Việt Nam.

.No automatic alt text available.

No automatic alt text available.
No automatic alt text available.

HÌNH ẢNH BÁO TRƯỚC TƯƠNG LAI

 
 
From facebook:Hoa Kim Ngo shared Trịnh Kim Tiến‘s post.
 

Trịnh Kim Tiến : Cái gốc của bất ổn xã hội nằm ở nhà cầm quyền chứ không phải ở người dân. Đừng nghĩ rằng cứ bắt nhốt hết những người bất đồng chính kiến, đàn áp thẳng tay những cuộc nổi dậy của dân tộc thiểu số hay dân oan mất đất là có thể bảo đảm một ngày mai yên bình tồn tại. Ở đâu có bất công, ở đó có đấu tranh, quan nhất thời nhưng dân thì vạn đại, đó là đạo lý xưa nay. Một nhà nước không lấy dân làm gốc thì sẽ không bao giờ tồn tại được với thời gian, điều này đã được chứng minh bởi vòng quay của lịch sử cả ngàn năm qua.
#dongtam #myduc

 
Image may contain: 3 people, people sitting

Trịnh Kim TiếnFollow

17 hrs ·

 

HÌNH ẢNH BÁO TRƯỚC TƯƠNG LAI

Tôi mong muốn đất nước thay đổi, nhưng cũng đôi lần khi đêm xuống, trong góc khuất của ánh mặt trời tôi sợ sự đổi thay. Không phải nỗi sợ như nhiều người đang sợ, sợ sự thay đổi sẽ phá vỡ sự bình yên vốn có của bản thân mà tôi sợ, sau sự biến đổi là một đống tro tàn, một hoang cảnh hỗn độn và chết chóc bởi bạo lực và súng ống cả 2 bên.

Nỗi sợ đó không chỉ riêng tôi mà của rất nhiều người, nhất là với những người đi theo chủ nghĩa Cộng Sản, nó là một cơn ác mộng của họ trong tương lai.

Thế nhưng điều gì đến cũng sẽ phải đến, đó sẽ là viễn cảnh ngày mai của đất nước này nếu như ngày hôm nay họ lựa chọn trung thành với đảng phái thay vì tình yêu với tổ Quốc và trách nhiệm với nhân dân.

Cái gốc của bất ổn xã hội nằm ở nhà cầm quyền chứ không phải ở người dân. Đừng nghĩ rằng cứ bắt nhốt hết những người bất đồng chính kiến, đàn áp thẳng tay những cuộc nổi dậy của dân tộc thiểu số hay dân oan mất đất là có thể bảo đảm một ngày mai yên bình tồn tại. Ở đâu có bất công, ở đó có đấu tranh, quan nhất thời nhưng dân thì vạn đại, đó là đạo lý xưa nay. Một nhà nước không lấy dân làm gốc thì sẽ không bao giờ tồn tại được với thời gian, điều này đã được chứng minh bởi vòng quay của lịch sử cả ngàn năm qua.

Hình ảnh: DLB, biến cố ở Mỹ Đức, Hà Nội, dân làng Đồng Tâm nổi dậy vì bị cướp đất. Bắt giữ 20 cơ động đòi đổi 10 người dân bị nhà cầm quyền đánh đập bắt giữ trong quá trình giữ đất và yêu cầu chính quyền trung ương xuống giải quyết công bằng cho dân.

Tìm hiểu thêm sự việc tại: https://m.facebook.com/story.php…

https://m.facebook.com/story.php…

TIM RUNG NHỊP SỐNG TIN YÊU

  
TIM RUNG NHỊP SỐNG TIN YÊU

     Ai cũng khao khát sống khỏe, sống lâu. Chúng ta tìm mọi cách để kéo dài sự sống. Thế nên, ai cũng buồn đau xót xa khi người thân yêu chết. Phúc Âm kể chính Chúa Giêsu cũng khóc thương khi Ladarô chết. Trong đời có lời ca da diết: “Lỡ mai anh chết em khóc nhiều không?”

    Hạnh phúc thay, Chúa Giêsu công bố một Tin Mừng cho nhân loại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết.” Ồ, nhưng sao người tin Chúa vẫn chết, thậm chí ngay cả chính Chúa Giêsu cũng đã chết? Vậy Chúa muốn nói đến loại sống chết nào đây?

    Bài đọc 1 Chúa nói đến chết trong Nô Lệ và sống trong Tự Do. Bài đọc 2 Phaolô nói đến chết trong Tội Lỗi và sống trong Công Chính. Bài Phúc Âm Chúa nói đến chết Thân Xác và sống Tin Yêu. Thì ra sự sống Chúa nhấn mạnh là sự sống của những giá trị tinh thần như Tự Do, Công Chính, Tin Yêu làm cho người ta trở thành bất tử. Ngược lại, nếu sống trong nô lệ, tội lỗi, hận thù thì còn sống mà như đã chết. Ai đó đã định nghĩa: “Chết không phải đợi đến lúc người ta tắt thở, mà chết là ngay lúc người ta vẫn còn thở nhưng trái tim đã ngừng tin yêu.” Chết là hết tin yêu.

    Lạy Chúa là tình yêu và sự sống, xin cho trái tim chúng con luôn rung lên những nhịp đập tin mến Chúa và yêu thương nhau.Amen.  
​TRUONG NGUYEN

 From KittyThiênKim  Và Nguyễn Kim Bằng gởi

TÔI LÀ CON GÌ?

 TÔI LÀ CON GÌ?

FB Ngô Trường An

4-4-2017

Họ nói với tôi là họ giải phóng cho tôi. Họ bảo tôi đừng lo gì cả, mọi

việc đã có họ lo rồi! Thực ra, họ chẳng lo gì cả! Chủ quyền quốc gia

họ cũng không giữ được! Họ bán hết tài nguyên của Tổ Tiên để lại cho

con cháu. Họ bắt tôi nộp thuế để nuôi công an và quân đội, nhưng họ

lại bảo quân đội và công an phải trung thành với họ?! Thế có phải họ

xem tôi như con Lừa không?

Khi cá chết hàng loạt vì Formosa xả độc. Nhưng họ lại nói với tôi: cá

chết là do âm thanh ồn ào đấy! Kẻ khác lại bảo: cá chết là do tàu

thuyền đi lại quá nhiều… Như vậy, có phải họ xem tôi ngu như con Bò,

cho nên họ muốn nói gì thì nói phải không?

Tổng Thống Hàn quốc nhận hối lộ liền bị tòa án phát lệnh bắt giam. Còn

bọn họ tham nhũng về xây lâu đài, xây biệt thự, xây nhà thờ Tộc… Thì

họ tuyên bố: Tôi làm việc thối cả móng tay mới đuợc cơ ngơi này, kẻ

khác lại nói: Tôi xây biệt thự là tiền ngày xưa tôi chạy xe ôm dành

dụm…. Đấy! có phải họ xem tôi như con Cừu khiếp nhược trước sự lộng

hành, ăn cướp của họ? Cho nên họ nói sao cũng được phải không?

Tất cả thực phẩm độc hại, mất vệ sinh … Bị châu Âu, châu Mỹ trả về,

thì họ đem vào siêu thị để bán lại cho tôi. Họ nói với tôi: con Tôm bị

dư lượng thuốc bvtt chỉ cần luộc lên là ăn được! Đấy! Họ xem tôi như

con Lợn, họ muốn cho tôi ăn cái gì thì cho, đúng không?

Họ tuyên bố: khai thác boxit là chủ trương lớn của họ. Thế nhưng, họ

càng khai thác càng lỗ. Năm vừa rồi họ lỗ đến 3.700 tỷ đồng! Kiểu này

chắc họ sẽ điều khiển tôi như con Trâu kéo cày để trả nợ cho họ, chứ

họ có làm gì ra tiền đâu, đúng không? Kỳ này họp QH, họ cũng tính đi

vay tiếp để trả nợ cho những năm trước kia kìa!

Thực ra, họ biến tôi thành con gì tôi vẫn không hiểu nữa! Còn các bạn

hay chửi tôi là đồ phản động, các bạn tự cho mình là giỏi giang, thì

các bạn có biết mình là con gì trong Thế Giới này không?

Làm phúc có… tội!

Làm phúc có… tội!

Người ta vẫn thường nói: “Làm phúc phải tội”. Một câu tương đương khác:“Làm ơn mắc oán”. Thậm chí người ta còn so sánh: “Cứu vật, vật trả ơn; cứu nhân, nhân trả oán”. Nếu như vậy thì con người không bằng con vật. Và chắc hẳn rằng chẳng ai xa lạ gì với các kiểu nói “nhoi nhói” như vậy. Làm phúc mà có tội, làm ơn mà bị oán. Ôi, thế thái nhân tình, thế gian nó gian thế đấy!

Trình thuật Ga 5:1-3a, 5-16 có đề cập vấn đề này. Thánh Gioan kể…

Sau đó, nhân dịp lễ của người Do Thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha. Hồ này có năm hành lang. Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó.

Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu thì nói: “Anh có muốn khỏi bệnh không?”. Bệnh nhân đáp: “Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó thì đã có người khác xuống trước mất rồi!”. Đức Giêsu bảo: “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!”. Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được. Hôm đó lại là ngày sa-bát.

Người Do Thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng!”. Nhưng anh đáp: “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: Anh hãy vác chõng mà đi!”. Họ hỏi anh: “Ai là người đã bảo anh vác chõng mà đi?”. Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giêsu đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!”. Anh ta đi nói với người Do Thái: Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. Do đó, người Do Thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát.

Là Kitô hữu, cách riêng là tín hữu Công giáo, ai cũng biết rõ rằng Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng thương những người hèn mọn, bé nhỏ, khốn khổ (hồn và xác), thậm chí Ngài cũng không ngại lân la tới gần những kẻ bị xã hội chê trách hoặc lánh xa, những người bị người ta công khai coi là xấu xa, là “phường tội lỗi”.

Làm điều xấu mà bị người ta ghét đã đành, làm phúc hoặc làm ơn mà cũng bị người ta ghét. Điều đó chứng tỏ rằng không thể làm vừa lòng mọi người. Nghèo thì bị khinh, giàu thì bị ghét, dốt thì bị đì, giỏi thì bị triệt. Cỡ nào cũng… chết. Chết chắc!

Đau ốm vài ngày cũng đủ cảm thấy mệt mỏi lắm rồi, huống chi bệnh nhân nằm chờ ở hồ Bết-da-tha kia đã chịu đựng bệnh tật hành hạ suốt ba mươi tám năm. Nửa đời người rồi chứ ít gì! Chúa Giêsu thấy anh ta bị như vậy nên Ngài chạnh lòng thương. Ngài hỏi vì muốn anh ta có dịp xác định niềm tin, chứ Ngài biết rõ là anh ta rất muốn thoát cảnh “tù sống” như thế. Có ai lại không muốn khỏi bệnh? Bị bệnh nặng thì sống mà có khác chi chết đâu? Cái gì cũng phải nhờ người khác, buồn lắm. Mà nào chỉ như vậy, nhờ người ta mà người ta vui vẻ giúp thì còn được an ủi. Chắc chắn có những lúc anh rất khổ tâm vì bị người ta mỉa mai, xa lánh, nguyền rủa,… Cuộc sống cho chúng ta thấy điều đó. Đã và đang không ít người thân đã khó chịu hoặc miễn cưỡng khi giúp người thân bị bệnh tật hoặc già yếu.

Có câu danh ngôn thế này: “Đừng cố gắng trở thành người thành công, mà hãy cố gắng trở thành người có giá trị”. Thật chí lý! Tuy nhiên, người ta chỉ thích là người thành công và nổi tiếng, vì được tán dương, chứ mấy ai thực sự mong muốn trở thành người hữu ích và có giá trị – cho chính mình và cho tha nhân?

Quả thật, đúng như Chúa Giêsu đã từng nguyền rủa nhóm Pharisêu (Biệt Phái), các Kinh Sư và giới Luật Sĩ là giả hình, là mồ mả tô vôi, cùng với các lời chúc dữ: “Khốn cho quý vị…!” (Mt 23:13-32; Mc 12:40; Lc 6:24-26; Lc 11:39-48; Lc 20:47). Ước mong không ai trong chúng ta phải chịu lời nguyền rủa nào nặng nề như vậy!

Chúa Giêsu luôn làm phúc và làm ơn, thế nhưng lại bị người ta ghét cay ghét đắng, ghét đến nỗi họ đã “đồng hóa” Ngài với những tên tội phạm khét tiếng và nguy hiểm nhất trong xã hội loài người, thậm chí Ngài còn bị họ rắp tâm a dua với nhau, quyết liệt phản đối và đòi giết chết Ngài bằng hình phạt ghê gớm nhất thời đó: đóng đinh vào thập giá. Quả thật, họ đã coi tử tội Baraba còn “tốt lành” hơn Chúa Giêsu, vì thế họ mới tha tội chết cho hắn mà lại kết án tử đối với Ngài. Thật tồi tệ!

Cuộc đời cho chúng ta thấy rằng người ta ưa bề ngoài, thích bề nổi, khoái hình thức, tương tự kiểu giả hình nhưng là loại “giả hình tinh vi”. Dù không là Kitô hữu, nhưng Khổng Tử có 7 lời khuyên độc đáo này:

  1. Tâm còn chưa thiện, phong thủy vô ích.
  2. Bất hiếu cha mẹ, thờ cúng vô ích.
  3. Anh em bất hòa, bạn bè vô ích.
  4. Làm việc bất chính, đọc sách vô ích.
  5. Làm trái lòng người, thông minh vô ích.
  6. Không giữ nguyên khí, thuốc bổ vô ích.
  7. Thời vận không thông, mưu cầu vô ích.

Mẹ Thánh Teresa Calcutta chia sẻ: “Không phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhặt với tình yêu vĩ đại. Việc tốt là những mắt xích tạo nên sợi xích tình yêu. Lời tử tế ngắn gọn dễ nói nhưng âm vang của nó thực sự vô tận. Việc tốt bạn làm hôm nay sẽ bị quên lãng vào ngày mai, nhưng dù sao thì bạn hãy cứ làm việc tốt”. Những ý tưởng rất giản dị, dễ hiểu, thế nhưng lại vô cùng thâm thúy!

Xin được ghi lại lời khắc trên nền cũ của Đại Giáo Đường Liibeek (Đức) như một lời nhắc nhở và cảnh báo Chúa Giêsu dành cho mỗi chúng ta – đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này:

Con gọi Ta là Tôn Sư nhưng con chẳng vâng lời Ta.

Con gọi Ta là Ánh Sáng nhưng con chẳng thèm nhìn Ta.

Con gọi Ta là Chính Lộ nhưng con chẳng thèm đi trên đó.

Con gọi Ta là Nguồn Sống nhưng con chẳng ước muốn Ta.

Con gọi Ta là Thượng Trí nhưng con chẳng theo Ta.

Con gọi Ta là Tuyệt Mỹ nhưng con chẳng yêu Ta.

Con gọi Ta là Phú Quý nhưng con chẳng xin Ta.

Con gọi Ta là Vĩnh Cửu nhưng con chẳng tìm Ta.

Con gọi Ta là Ân Sủng nhưng con chẳng tin Ta.

Con gọi Ta là Quyền Quý nhưng con chẳng phục vụ Ta.

Con gọi Ta là Uy Quyền nhưng con chẳng tôn vinh Ta.

Con gọi Ta là Công Chính nhưng con chẳng bảo dưỡng Ta.

Con gọi Ta là Thiên Chúa nhưng con chẳng thờ lạy Ta.

Con gọi Ta là Tình Yêu nhưng con chẳng khao khát Ta.

Con gọi Ta là Dũng Lực nhưng con chẳng kính sợ Ta.

Con gọi Ta là Đấng Thánh nhưng con chẳng noi gương Ta.

Con gọi Ta là Nhân Lành nhưng con chẳng tự hạ.

Nếu Ta kết án con, con không thể trách Ta được!

Lạy Thiên Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con (Tv 51:12-14).

TRẦM THIÊN THU

Miền Chay Tịnh – 2017

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai gởi

Khi tỉnh lại, trông thấy trời sáng lạn,

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật Phục Sinh 16/4/2017

Tin Mừng Phục Sinh Gioan 20: 1-9

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”

Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.0 Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.

 &      &     &

“Khi tỉnh lại, trông thấy trời sáng lạn,

“con đường đi bừng nở ánh muôn hồng.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

            Chợt lúc tỉnh, nhà thờ thấy đất trời đã sáng lạn. Khi vụt sống, nhà Đạo lại thấy đời mình mãi cứ vui. Đất trời đời mình vẫn rất vui vì người người cùng Chúa nay sống lại. Và từ nay, mọi con đường ở phía trước đều bừng sáng ánh muôn hồng.

            Trình thuật thánh Gioan hôm nay cũng diễn tả ý tưởng về ánh muôn hồng bừng nở ở con dân nhà Đạo, khắp muôn người. Sự việc Chúa bừng nở Phục Sinh, đã làm ánh hồng toả sáng cõi dân gian vũ trụ, rày thấy rõ. Dân gian vũ trụ vừa cùng Chúa trải nghiệm cuộc khổ nạn đã theo Ngài đi vào mộ phần, trong lịm tắt, để Vượt Qua. Ngài vượt từ trạng thái sống ở đời tạm qua cuộc sống vĩnh cửu rất khác biệt. Vượt qua, là Ngài vượt trở ngại của cuộc sống phàm trần đầy chết chóc để về với Cha, nhờ Phục sinh, quang vinh theo đúng kế hoạch Cha giao phó.

Nhờ trỗi dậy từ cõi chết, Đức Giêsu đã thực sự trở thành Con Thiên Chúa, rất tràn đầy. Từ đầu, Ngài sinh bởi Thiên Chúa là Cha, nhờ Thánh Thần. Và, suốt cuộc đời trần thế, Ngài chấp nhận thân phận của Người Con, để rồi ngày qua ngày, sống tiến trình Phục Sinh quang vinh ấy, trong hiện thực. Tiến trình, bao gồm việc chuyển đổi và thăng hoa nỗi chết để sống lại. Nói cách khác, Ngài nhận thức Mình là Con Thiên Chúa, luôn sống lại và tăng trưởng Phục Sinh thăng hoa mọi người.

Ơn cứu độ đến không phải bằng hành động do Ngài định sẵn, nhưng ở Bản vị Ngài quan hệ với Cha. Ngài không kết hợp với tội lỗi mà chỉ phối kết với người phàm dễ phạm tội. Điều này xảy ra không do lý luận nào từ bộ não của phàm nhân đầy tội lỗi. Nhờ vào bản chất Con Thiên Chúa và do Cha đặt để, Ngài giáng hạ với trần thế và để cho Cha Ngài tạo dựng thế trần trong cung cách bí nhiệm của những sinh hạ tục phàm, giống như thế.

Tựa như tiến trình sinh hạ nơi con người, Phục sinh là con đường trải nghiệm việc hạ sinh rời bỏ cung lòng người mẹ, để trở thành một bản thể khác, rất tuyệt đối. Tiến trình này thành tựu, như một thể thức nguyện cầu rất mới mẻ. Tiến trình, có được là nhờ Thánh Thần Chúa phú ban, để rồi khi Phục Sinh quang vinh, Đức Giêsu ở vào vị trí hoàn tất lịch sử. Và, Ngài trở thành Đấng lại đến vào mỗi khoảnh khắc của lịch sử còn diễn tiến. Trên thực tế, Tiệc Thánh Thể là nhiệm tích cho thấy Ngài hiện diện như Bản Thể hiện hữu ở mọi nơi, vào mọi thời.

Hiểu Phục Sinh theo cách này, người đọc Tin Mừng Sống Lại sẽ nhận ra Thánh Thần Chúa là Quyền Uy Sức Mạnh thánh thiêng đã và đang thực hiện việc sản sinh nơi mọi loài, vào mọi thời. Và Thánh Thần Chúa đầy Quyền Uy Sức mạnh nay trao ban cho ta cũng một uy quyền sinh sản hệt như thế vào lúc này, ngày Phục Sinh.

Muốn hiểu Phục Sinh một cách trung thực, đừng nên hiểu đó như buổi cử hành Phụng vụ do Hội thánh thực hiện trong ít tiếng đồng hồ chỉ mỗi thế. Để rồi, người nông nổi sẽ lại trở về với cuộc sống bình thường, chẳng biến thái cũng không đổi thay.

Tìm hiểu Phục Sinh, không thể và không nên hiểu như người vừa chầm chậm trỗi dậy về với thế giới đời người, sau một giải phẫu đầy kịch tính. Cũng chẳng nên hiểu Phục Sinh như phản ứng của người thưởng lãm bi hài kịch nhiều tập ở truyền hình, đã thấy nhân vật chính nay bị giết, tức hết chuyện. Bởi, tình trạng hậu-Phục Sinh nơi mọi người, ở khắp chốn, không là chuyện bình thường giống hệt khi trước, tức: đã Phục Sinh rồi, mà chẳng đổi thay tâm can, lòng Đạo. Hoặc chẳng có quyết tâm.

Cả 4 tác giả Tin Mừng không kể lại chuyện Chúa Phục Sinh như kết hậu của bi hài kịch đầy tình tiết rất ủy mị. Nhưng, các thánh vẫn viết và kể về một khởi đầu có “ánh muôn hồng, trời sáng lạn”.

Kể Phục Sinh, các thánh sử kể ra 3 chi tiết rất lớp lang, quan trọng ở Giao Ước, tức: đất miền Galilê, đá tảng lấp mộ và niềm tin khởi đầu.

Galilê đây, không là địa danh mang tính chất thể lý, mà là chốn miền đầy những tinh thần tượng trưng cho việc Thiên-Chúa-là-Cha đang chờ đón Chúa Con về lại với Ngài. Về lại Galilê, là về chốn miền của người nghèo đang có nhu cầu thực tế mà cuộc sống thực tiễn chưa hề khoả lấp. Người người về Galilê, không để ngóng chờ thị kiến gặp gỡ Chúa mà hội luận về sự kiện sống lại. Nhưng, là đi vào hành động giống như Chúa từng thực hiện, tức: gột bỏ mọi chết chóc, trầm cảm và sầu buồn, để rồi đem đến cho dân gian người người niềm vui chữa lành và hy vọng. Làm như thế, người người sẽ cảm nhận uy quyền Phục Sinh rất sống động ở nơi mình, hệt như thánh Phaolô từng nói: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh.” (Phl 3: 10)

Đá lấp mồ mô tả ở trình thuật, là trở ngại vẫn cản ngăn ta làm những việc cần làm để sống đích thực điều Chúa dạy. Đá lấp mồ, có thể là bạn bè/người thân. Là: niềm cô đơn, bệnh tật. Là, thế giới đang cản ngăn người người thực hiện một Phục Sinh trong đời mình. Đá lấp mồ, là trở ngại khiến các nữ phụ thăm viếng xác của Thầy mình, phải lăn qua một bên để vào đó mồ bôi xức dầu thơm tẩm xác người thân, cho phải phép. Các chị đến thăm xác Chúa, thấy đá lấp mồ bị lăn, nên đã nghĩ có người uy lực lắm mới làm nổi việc như thế.

Đá lấp mồ, còn là chính nỗi chết từng ngăn chặn mọi người muốn sống tiếp. Lăn đá tảng qua một bên, việc này hàm ngụ ý nghĩa chối bỏ cái chết của người thân thuộc. Hàm ngụ một phiền toái, đem nỗi chết đến với cuộc sống của mọi người. Đá lấp mồ, có thể là kinh nghiệm ta từng trải qua, khiến mình cứ phải sống với ưu tư/lẫn lộn trong quá khứ. Với kế hoạch sống lại Cha đưa ra, không thể có “đá lấp mồ” nào khả dĩ gây trở ngại khiến Ngài không thực hiện được ý định của Chúa Cha.

Đá lấp mồ nay bị lăn đi, cũng hàm ngụ một hãi sợ khác, nơi người sống. Hãi sợ về cuộc sống khác thường ở chốn nào đó rất khác biệt. Khác, với cuộc sống hiện tại, ở thế trần. Cuộc sống khác thường ấy không còn nỗi chết nào khác ám ảnh nữa. Cuộc sống mới ấy, sẽ không phải trải nghiệm bất cứ một hạn chế nào. Cuộc sống ấy, không do bản mình tạo nên. Sống như một quà tặng, khiến người người an vui, không sợ chết. Cuộc sống mới, đã khởi đầu niềm tin rất sáng. Chính đó là sống Phục Sinh của Đức Chúa.

Tin Mừng thánh Gioan đặt nặng vào niềm tin mới khởi đầu, nhiều bừng sáng. Tin Mừng thánh nhân viết có nhắc đến đồ đệ khác, cũng bước vào mộ phần, rồi nhận định: “Ông thấy mọi sự việc xảy đếnVà, ông tin.” (Ga 20: 8-9). Đồ đệ ấy, chính là bản thân người viết đã đạt trọn niềm tin vào Chúa lúc đến thăm và Ngài ban cho các ông chính Thần Khí của Ngài, là Đấng giúp các thánh tin vào sự Sống mới.

Bởi thế nên, người người có đi về Galilê mà vực dậy những người đang chết, cũng đừng nói về cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng, cứ tin vào cuộc sống mới. Là, sống chính cuộc đời mình. Sống, biết sẻ san sự sống. Và, để cho quyền năng rất sống lại cứ tràn xuống niềm tin ta đang có, mà vực dậy một ai đó. Để rồi, bằng bằng động thái thân thương/giùm giúp sẽ đưa họ bước vào cuộc sống rất phục sinh, quang vinh.

Truyền thống cổ theo khuynh hướng của thánh Gioan quan niệm rằng: có thể Đức Giêsu chưa hoàn tất sự sống lại của Ngài cho đến khi ta vực dậy một ai đó, khỏi nỗi chết. Cái chết trong lỗi phạm. Phải chăng đó cũng là ý nghĩa Tiệc Thánh ta cử hành, mỗi Chúa Nhật? Phải chăng sự kiện Chúa sống lại sẽ rõ nét hơn ở gia đình/cộng đoàn này hơn là nhóm hội/đoàn thể khác?

Truyền thống của đồ đệ thánh Gioan có thói quen gọi thời điểm Phụng vụ mùa này, tức thời gian từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến Lễ Hiện Xuống, là mùa Hiện xuống của Tinh thần rất mới mẻ ấy. Nói cho cùng, Chay kiêng Tuần thánh là mùa Vượt qua, để ta vượt và qua giai đoạn sự sống hiện tại đến sự sống mới. Hiện Xuống, mới là Phục sinh hiệu năng, rất sở đắc. Và, nay cũng là lúc để ta nguyện cầu cho tinh thần ấy thành hiện thực nơi ta và mỗi người thời Phục Sinh năm nay.

Trong nguyện cầu như thế, ta lại reo vang lời ca của thi sĩ trích ở trên, mà ngâm rằng:

“Khi tỉnh lại, trông thấy trời sáng lạn,

con đường đi bừng nở ánh muôn hồng.

Em tuyệt trần đã mở lối thiên cung,

tôi sửng sốt hái nụ tình phong nhụy.”

(Đinh Hùng – Giáp Mặt Phù Dung)

Phục sinh, vẫn là mùa để người người “sửng sốt hái nụ tình”, niềm vui sáng lạn. Hái nụ tình, ai cũng sẽ hái để mọi người đích thực sống đổi mới, cả tinh thần lẫn xác thân rất tuyệt vời một Phục Sinh.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Người về người đi, hoàng hôn một lối.

ĐẠI LỘ HOÀNG HÔN – Y Vân – Nguyễn Anh Huy – Kim Phụng – BP

httpv://www.youtube.com/watch?v=aDgtogsXXYw

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần Phục Sinh  năm A 16/4/2017

 “Người về người đi, hoàng hôn một lối!”

“Đường một đưòng hai chiều đưa vào tối.

Trời cao và gió đầy

Hàng cây cùng ghế dài

Nào ai lẻ bóng? Nào ai thành đôi?”

(Y Vân – Đại Lộ Hoàng Hôn)

(Giacôbê 5: 10-11)

 Trần Ngọc Mười Hai

Gọi đó là “Đại-lộ hoàng-hôn” sao? Bạn có hát những câu như thế, chắc chỉ muốn nói rằng: đời người, có nhiều lối đi. Những lối/đường để đi, còn tuỳ đường/lối mình quyết chọn. Kết quả, rồi thì hoặc bạn sẽ  “lẻ bóng” hoặc “thành đôi lứa”, cũng thế thôi.

Nhìn vào nhà Đạo để xem xét những chuyện nổi cộm vừa mới xảy ra qua việc nhận/đón Mình Chúa ở Tiệc Thánh Thể lâu nay vẫn là đầu đề câu chuyện chia-phôi, lẻ bóng rất đôi ngả. Một ngả, khá cứng-cỏi như luật phụng-vụ hoặc Giáo-luật. Còn ngả kia, là lập-trường khá xứng-hợp về mục-vụ do Đức Phanxicô đưa ra.

Trước khi cùng đấng bậc “lờ mờ” ở Sydney phân-tích ý-chủ của Đức Giáo Hoàng, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể, nói về “Hai con hổ” để rồi sẽ thấy đời mình và đời người cũng có những điều mới lạ, như người kể từng nhận-định. Truyện đây, là truyện kể nhẹ mỗi thế này:

“Có hai con hổ, một con ở trong chuồng, một con nơi hoang-dã với núi rừng trùng-điệp.Hai con hổ đều cho rằng hoàn-cảnh bản thân mình không tốt, đôi bên đều ngưỡng mộ đối phương, thế là chúng quyết-định san/đổi cho nhau thân-phận của mỗi con. Lúc đầu, cả hai con đều vô cùng vui-thích, nhưng không lâu sau đó, cả hai con đều chết cả: một con vì đói mà chết, còn con kia vì u-sầu mà chết tốt, cũng như thế.” 

Và lời bàn của người kể, lại như sau: “Có những lúc, mọi người đều nhắm mắt làm ngơ đối với hạnh-phúc của chính bản thân mình, rồi cứ để mắt chú ý đến hạnh-phúc của người khác. Thật ra thì, những gì ta đang có, lại chính là những điều khiến người khác phải ngưỡng-vọng. “Đời người là như thế. Nhiều chuyện xảy ra theo cách ta không thể ngờ trước được. Cứ đọc các truyện kể đại loại như thế này, rồi suy-nghĩ để tự nhắc nhở mình, thôi.” (theo Tiểu Thiên/cmoney)  

 Nghe truyện rồi, nay thấy giống như nhạc-bản tríchở  trên, có những lời lẽ rất như sau:

“Đời mình là con tàu qua nhiều lối.

Mà thăng trầm như trùng dương nổi sóng.

Trời mây một lớp thành

Biển khơi một nỗi niềm,

Bàn tay còn trắng,

Lòng không tình thương.

 Gió băng gối mộng,

Sương trắng chăn mơ.

Gió khua ngõ hồn,

Mưa ướt tâm tư.

Biết ai tâm sự?

Ghế lạnh lùng chờ.

Những chiều vàng mờ.

 Đại lộ hoàng hôn, hồn hoa ngập nắng.

Thời gian thường vô tình theo đời sống.

Ngày xanh thì khuất dần.

Chiều rơi nhuộm tóc vàng.

Mà trong lòng thấy còn thiếu tình thương.”

(Y Vân – bđd)

Con tàu đời người lại vẫn trải qua nhiều lối rất thăng trầm như trùng dương nổi song. Vâng. Chính đó là một triết-thuyết rất chí tình. Triết-thuyết đây, lại là lý lẽ mang tính triết-học ở đời người gồm nhiều học-thuyết dân-gian lẫn bác-học. Học, thứ triết-lý uyên-bác cho mình và cho đời, cũng tốt thôi.

“Đại lộ hoàng hôn, hồn hoa ngập nắng.Thời gian thường vô tình theo đời sống.” Vâng. Đúng đấy. Nếu đứng từ góc cạnh hoặc tầm nhìn rất đạo của ta mang nhiều đường lối sống trong đời đi vào đời mà sống đúng đường lối lễ-giáo, đạo-hạnh/lành thánh có nghi-thức/thói quen mang nhiều ý-nghĩa khá để đời.

Và, nay trong Đạo làm người của con người, lại thấy có cái gì đó tựa như câu hát tiếp: “Ngày xanh thì khuất dần. Chiều rơi nhuộm tóc vàng. Mà trong lòng thấy còn thiếu tình thương.”

Vâng. Dựa vào câu hỏi/đáp của người trong Đạo rất sống đạo, nay lại thấy xảy ra một vài thắc mắc cũng khá khó, những bảo rằng:

“Thưa Linh mục. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã viết trong Tông-thư Amoris Laetitia có bảo rằng: Tiệc Thánh Thể “không phải là phần thưởng cho người tốt lành, nhưng là môn thuốc cực mạnh và là chất dinh-dưỡng dành cho kẻ yếu mềm.” Ngài nói thế, phải chăng có ý nhắn-nhủ rằng việc Hiệp Thông Rước Lễ đã tha-thứ cho các lỗi tội, cả đến tội trọng mình mắc phải. Môn thần-dược được ban cho những ai đang ở vào tình-trạng mắc tội trọng/chết người, chăng?”

 Người đi Đạo và giữ đạo lâu nay vấn sống vui vẻ, giờ lại nghe phán quyết có tính-cách hỗ-trợ kẻ yếu mềm, kể cũng hay hay. Tuy nhiên, hay hay hoặc tốt đẹp cỡ đi nữa, hãy cứ để đấng bậc “lờ mờ” ở Sydney luận-bàn ra sao, thế nào, rồi hãy tính. Bàn luận của đức ngài đặc-biệt như sau:

“Văn-bản mà anh/chị vừa rút tỉa là đoạn trích từ lời chú thích số 351 ở thông-tư do Đức Giáo Hoàng viết vào độ trước, ngang qua Tông-thư khác mang tên là “Evangelii Gaudium” (tức: Niềm vui Tin Mừng) phát-hành vào năm 2013, ở đoạn 47. Điều ngài nói, là truyền-thống giáo-huấn của Hội-thánh bấy lâu nay. Hiệp-thông Rước lễ là môn thuốc cực mạnh có khả-năng tha-thứ mọi lỗi/tội nào không phải là tội trọng.      

 Hai đoạn viết trong Tông-thư “Evangelii Gaudium”, là ý-tưởng do Đức Phanxicô rút từ sách các Giáo-phụ viết trước đây. Một, của thánh Ambrôsiô từng nói: “Tôi phải rước Chúa vào lòng suốt đời tôi, để được tha thứ hết mọi tội. Giả như tôi cứ liên-hồi phạm tội suốt như thế, tôi cần tìm ra thuốc chữa, mới được.” (X. De Sacramento, IV 6, 28) Đoạn trích thứ hai cũng rút từ văn-bản nói trên, đã từng viết: “Ai ăn Manna từ trời đổ xuống thảy đều chết tốt, còn ai đón nhận Mình Chúa vào lòng sẽ được thứ tha hết mọi tội.” (IV, 5, 24)

 Có Giáo-phụ khác là thánh Cyrillô thành Alexandria lại cũng bảo: những ai tìm cách xa lánh việc Hiệp thông Rước lễ vì thấy mình không xứng đáng, nên đã nói: “Tôi tự xét thấy mình không xứng đáng để làm thế. Với những người nói những câu như thế, thì tôi bảo: cho đến khi nào anh/chị mới mình xứng đáng đây?

 Phải chăng đó là lúc anh/chị ra trình-diện trước mặt Đức Kitô? Và giả như tội lỗi của anh/chị cản-ngăn không cho anh/chị đến gần Ngài, và anh/chị chẳng bao giờ thôi không còn sa ngã –bởi, như lời Thánh vịnh có câu rằng: con người biết gì về các tội mình phạm? – và anh/chị sẽ ra sao nếu không tham-gia trở nên lành thánh Chúa ban cho sự sống đời đời?” (Xem In Joh. Evang.IV, 2)

 Năm 1905, Toà Thánh La Mã có trích sắc lệnh “Sacra Triđentina”, qua đó có khuyên mọi người hãy đón nhận Mình Chúa mỗi ngày và dạy rằng: Việc Hiệp thông Rước Lễ không là phần thưởng cho nhân-đức ta có, nhưng đúng hơn, là phương-thuốc chữa-lành mọi tội. Sắc-lệnh này, lại đã bảo rằng việc thường xuyên rước Chúa vào lòng nhằm mục đích “giúp tín-hữu kết-hợp với Chúa ngang qua các Bí-tích, và nhờ đó có được sức mạnh chống-trả mọi thứ đam-mê xác thịt để rửa sạch con người mình khỏi bị các vết nhơ tội lỗi mắc phạm hằng ngày; như thế, mới tránh được các tội nặng do sự yếu mềm con người thường mắc phải.

 Có người hỏi rằng: việc Hiệp thông Rước lễ có tha hết mọi tội trọng cùng tội nhẹ không? Câu trả lời , là: Không! Bởi, việc tha tội trọng là nhờ Bí tích Thanh-tẩy. Trường-hợp kẻ mắc tội là người lớn, thì cần đến Bí-tích Hoá-giải mới được tha. Thế nên, ta không thể nhờ việc Hiệp thông Rước Chúa mà tha ban cho những người đang ở trong tình-trạng vướng/mắc tội trọng, được.

 Sách Giáo Lý Hội thánh Công-giáo có dạy rằng: Không thể nhờ vào việc ban phát Mình Chúa để tha thứ các tội trọng mà con người từng mắc phải; đó là kết-quả của Bí tích Hoá giải. Mình Chúa đích-thực là Bí-tích dành cho những ai ở trong trạng-thái kết-hợp hài-hoà với Giáo-hội.” (X. GLHTCG đoạn 1395).

Và, Sách Giáo Lý Hội thánh cùng với giáo-huấn của các thánh Giáo-phụ thời trước lại đã dạy: “Việc Hiệp thông Rước Chúa sẽ tha hết các tội nhẹ ta mắc phải và bổ sức để ta tránh tình-trạng mắc tội trọng. Chính vì lý-do này mà Tiệc Thánh Thể không thể kết-hợp ta với Đức Kitô mà đồng thời lại không tẩy sạch các tội ta phạm trước đó, cũng như gìn giữ ta khỏi mọi tội lỗi ta vướng mắc trong tương-lai.” (X. GLHTCG đoạn 1393, thư 1 Corinthô 11: 26)

Các giáo-huấn đây là những điều khiến ta được giải-khuây rất nhiều. Mọi người, ai cũng có lúc phạm tội. Và, điều làm ta phấn-khởi hơn cả là biết rằng: ta không cần và dĩ nhiên là không được phép xa rời việc rước Chúa chỉ vì ta từng mắc phải nhiều tội nhẹ. Thành thử, Hiệp-thông Rước Chúa, cũng giống như các hành-vi tốt đẹp khác, đã thứ-tha các tội lỗi ấy và giúp ta tăng-trưởng trong tình-yêu của Chúa và yêu thương người đồng-loại. Và như thế, ta được củng-cố thêm sức mạnh để không còn sa-ngã hoặc mắc phạm tội trọng nào nữa. Thế nên, ta phải hiệp thông rước lễ càng thường xuyên càng tốt.” (X. Lm John Flader, Receiving the Lord in the Eucharist helps us to become truly free,The Catholic Weekly 25/12/2016 Question Time, tr. 32)

Nói theo bài bản, sách vở hoặc luật-lệ thì như thế. Nhưng Đức Phanxicô vẫn có lý khi ngài, đứng trên cương vị của đấng bậc chí cao trong Hội-thánh làm mục-vụ. Thành ra, vấn-đề đặt ra cho mỗi người và mọi người, là: nếu ta cứ cứng ngắc tuân-thủ luật lệ của Hội thánh hoặc uyển-chuyển vâng nghe lời đấng bậc chăn dắt mình, trong Giáo hội đây?

Có lẽ cũng là điều hay và nên làm, là: cùng nhau quay về với Lời khuyên của đấng thánh-hiền mà Giáo-hội lâu nay lại coi là “Lời Chúa”, rất như sau: 

“Vậy đây là điều tôi nói với anh em,

và có Chúa chứng giám,

tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa,

vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ.

Tâm trí họ đã ra tối tăm,

họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban,

vì lòng chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát.

Họ đã mất ý thức nên đã buông thả,

sống phóng đãng đến mức làm mọi thứ ô uế cách vô độ.

Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu;

ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Ngài,

đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu.

Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa,

là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối,

anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em,

và phải mặc lấy con người mới,

là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa

để thật sự sống công chính và thánh thiện.”

(Êphêsô 4: 17-24)

Thật tình mà nói, “sự sống công-chính và thánh-thiện” mới đúng là mục-tiêu sống-động của người đi Đạo và sống đạo làm người. Sống công-chính/thánh-thiện trong cả cuộc đời bình-dị chứ không chỉ thực-hiện việc Hiệp-thông Rước Chúa vào lòng mà thôi.

Thế nhưng, vấn đề đặt ra là: làm sao ta có thể gọi cuộc sống của ai đó là sống công-chính/thánh-thiện? Câu trả lời đây, thật cũng khó. Khó, là bởi mỗi người mỗi ý. Mội vị một lập-trường. Và lập-trường người nào cũng hay cũng tốt hết. Duy, có áp-dụng vào cuộc sống thường-nhật được hay không, đó mới phải.

Để có thể thu-thập và sống thực lập-trường thánh-thiện, bần đạo vừa “chộp” được quan-điểm/lập-trường của một thàn-học-gia tên tuổi, từng viết như sau:

“Nếu hỏi rằng: đối với tôi, lành-thánh/hạnh-đạo là gì? Thì tôi sẽ nhanh chóng trả lời: Đó là lòng muốn/ý-định của Thiên-Chúa chuyển đến với con người trần-tục. Ta có bổn-phận phải đi tìm những gì tốt lành/hạnh đạo cả trong cuộc sống. Ta phải trải-nghiệm mà sống sao cho lành thánh/hạnh-đạo.

 Lành thánh, và ý-thức biết rõ Thiên Chúa hiện-diện một cách nhưng-không và tuyệt-đối. Đó, là sự chính-trực toàn-vẹn của con người, nhưng được cất nhắc đưa vào tình-trạng thâm-giao với Thiên Chúa. Nói thế, tôi không có ý bảo rằng việc sống thực Đạo Chúa và trở-thành con người thực-thụ là chuyện tương-đồng bởi lẽ ta không thể trở-thành con người mà lại không có tương-quan sinh-động với Thiên Chúa, được.

 Thế nhưng, sự lành thánh/hạnh-đạo là bản-chất nhân-đạo của người trần-tục được cất-nhắc đem vào với sự sống thần-thiêng của Thiên-Chúa. Lành-thánh và đời sống thần-thiêng hoặc đời sống có huệ-lộc cũng cùng một thứ. Đời sống thần-thiêng giả-định trước và đảm-trách sự sống có đạo-đức, thế nhưng sự thần-thiêng lại hơn cả luân-thường đạo- đức và đời sống Kitô-hữu không hề bị giảm-thiểu thành đời sống có luân-thường đạo-đức, tức là mấu chốt đời sống của tín-hữu Đức Kitô.” (X. Edward Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994, tr. 60)

Nhận-định thế rồi, nay ta quay về với lời vàng đấng thánh từng bảo ban hết mọi người lành-thánh/hạnh-đạo, cho ra người:    

“Thưa anh chị em,

nếu có người nào trong anh chị em lạc xa chân lý

và có ai đưa người ấy trở về,

thì anh chị em hãy biết rằng:

kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về,

thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết

và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.”

(Giacôbê 5: 19-20)

Ấy đó, cũng là một lời khuyên lành-thánh của bậc hiền-nhân hạnh-đạo. Lại cũng có những lời chân-tình của người thường trong đời vẫn kể cho nhau nghe các tình-huống có thực trong cuộc đời người, bằng truyện kể rất dễ nghe và dễ thực hiện, như sau:

  “Một ngày kia, có đại-gia trung-niên tướng mạo xấu xí, dẫn theo một kiều-nữ đến một cửa hàng chuyên buôn bán những chiếc túi xách hàng hiệu cao-cấp.

 Ông ta đã chọn một túi xách trị giá đến 18.000 USD cho cô gái. Khi trả tiền, người đàn ông lấy ra cuốn chi phiếu, chẳng ngần ngại điền số tiền tương ứng vào một tờ chi phiếu, nhân viên cửa hàng có phần khó xử. Người đàn ông nhìn thấu tâm tư của cô nhân viên, nên hết sức bình tĩnh nói với người bán hàng: “Tôi cảm thấy dường như cô đang lo sợ đây là một tờ chi phiếu khống, phải không?

 Hôm nay lại là Thứ Bảy, ngân hàng không mở cửa. Thôi thì tôi đề nghị cô hãy giữ tờ chi phiếu và cả cái túi xách này lại. Đợi đến đầu tuần tới, sau khi đổi được tiền rồi, thì xin cô hãy gửi túi xách này đến nhà của vị tiểu thư xinh đẹp này, cô thấy như vậy có được không?”

Cô nhân viên cửa hàng nghe xong hoàn toàn yên tâm, vui vẻ chấp nhận lời đề nghị này, lại còn hào hứng cam đoan rằng chi phí gửi túi xách sẽ do cửa hàng này đảm nhiệm.

 Sáng Thứ Hai, nhân viên cửa hàng đem tấm chi phiếu đến ngân hàng thanh toán, kết quả tờ chi phiếu này quả thật là tờ chi phiếu khống! Người nhân viên vô cùng tức giận, liền gọi điện cho người đàn ông đó, người đàn ông nói với cô rằng: “Chuyện này có gì to tát lắm đâu, tôi và cô cả hai đều không bị tổn thất gì cả.

 Hôm Thứ Bảy đó, tôi cuối cùng đã chiếm hữu được cô gái đó rồi! Thật lòng cảm ơn sự hợp tác của cô”.Câu chuyện này nói với chúng ta rằng:Những gì mà chính bản thân ta “nhìn thấy tận mắt” cũng chưa chắc đã là thật.Tham hư vinh thì phải trả một cái giá rất đắt.

 Cô kiều nữ kia cho rằng cái túi xách trị giá hàng nghìn USD đó sẽ được giao đến tận cửa nhà vào sáng Thứ Hai, nên tự nhiên cũng đã buông lơi cảnh giác, cho rằng đầu tư như vậy thật là xứng đáng. Cô vốn đã không biết rằng bản thân mình đang chơi trò mạo hiểm, chẳng có gì đảm bảo cho mình sự thật sẽ như thế.

 Trên đời này, lắm người vẫn làm những chuyện trái-khuấy khiến người khác không còn tin tưởng một ai khác. Những người như thế, nhất-định không thể là người lành-thánh/hạnh đạo được. Để minh hoạ cho khẳng định này, tưởng cũng nên nghe thêm một truyện khác cũng rất được.

Truyện rằng:

Con cáo nọ phát hiện ra cái chuồng gà ở gần nhà. Nhưng cáo ta vì quá mập, không thể chui lọt qua hàng rào nhà người ta để ăn gà. Thế là, nó nhịn đói suốt ba ngày, cuối cùng cũng lọt vào được. Tuy nhiên, sau khi ăn no nê rồi, chiếc bụng phình to, nên cáo ta lại không thể ra khỏi chuồng gà ấy được, đành phải bắt đầu nhịn đói lại ba ngày mới ra được.

 Cuối cùng, nó xót xa than-thở rằng: “Bản thân mình ngoài chuyện nhất thời sướng miệng ra, trên cơ bản hoàn toàn là phí công vô ích”.

Và lời bàn của người kể truyện, vẫn nghĩ rằng: “Đời người không phải cũng như vậy sao. Đến trần truồng mà ra đi cũng trần truồng. Không ai có thể mang theo tài sản và danh vọng mà mình đã vất vả kinh doanh một đời để theo cùng.Dùng tuổi trẻ để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua lại được tuổi trẻ. 

Dùng mạng sống để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua lại được mạng sống;Dùng hạnh phúc để đổi lấy tiền, nhưng tiền lại không mua lại được hạnh phúc. Dùng thời gian để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua lại được thời gian.

Cho dù có dùng cả cuộc đời để có được tất cả tiền bạc của cả thế giới, nhưng tiền bạc của cả thế giới cũng không mua lại được cuộc đời của bạn.Vậy nên những lúc nên làm việc thì hãy làm việc, những lúc nên nghỉ ngơi thì hãy nghỉ ngơi, vui vẻ làm việc, tận hưởng cuộc sống, trân quý tất cả những gì mà mình có được, hãy yêu thương những người mà bạn yêu thương, vui vẻ mà sống trọn từng ngày. 

Sống một ngày vui vẻ là sống một ngày, Sống một ngày không vui vẻ cũng là sống một ngày…….Vậy tại sao chúng ta lại không trân quý hết thảy, vui vẻ mà sống trọn một ngày chứ!”(St sưu tầm) 

Lời bàn của người kể thật ra cũng có thể áp-dụng vào chủ-đề mà bạn và tôi, ta đang bàn. Giúp người khác sống lành-thánh/hạnh đạo, đâu là chuyện cứ khuyến-khích người khác đi nhà thờ dự Tiệc Thánh, nhưng không được Hiệp thông Rước Chúa nếu đã phạm tội nhẹ hay trọng.

Bởi, nếu thế thì, đâu là ý-nghĩa đích-thực của Tiệc Lòng Mến? Tham-dự Tiệc chay hay mặn mà lại không được tiếp-nhận vào mình Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu biểu-trưng Tiệc Tình-Yêu qua Bánh Thánh và Rượu Thánh, thì có lẽ ở nhà mà sống yêu-thương người chòm xóm, thích hơn chăng?

Câu hỏi của bạn bè thân quen nay gửi đến với bạn đọc trong ngoài Hội-thánh tức nhóm hội của những người cho rằng mình vẫn lành-thánh/hạnh đạo. Và, câu trả lời xin dành để cho bạn và cho tôi, bây giờ và mai sau, khi còn sống hay lúc đã qua một đời người, ở mọi thời. 

Trần Ngọc Mười Hai

Và những câu hỏi tương-tự

Vẫn chờ câu trả lời                

dù không thoả-đáng. 

TÌNH YÊU TRỌN HẢO

TÌNH YÊU TRỌN HẢO

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Với kinh Vinh Danh được long trọng xướng lên trong thánh lễ chiều nay, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tam nhật thánh.  Khởi đi từ căn nhà nay được gọi là “Nhà tiệc ly”, Chúa Giêsu bắt đầu bước vào cuộc khổ nạn.

Bức tranh do danh họa Leonardo Da Vinci, người Italia, mang tựa đề “Tiệc Ly” hay “Bữa tối cuối cùng – Last supper” là bức tranh sơn tường đầu tiên được khởi vẽ năm 1495 và hoàn thành năm 1498, trên bức tường của một phòng ăn tập thể ở Nữ tu viện Santa Maria delle Grazie, Milan, Ý.  Đây là một tác phẩm bất hủ đã góp phần đem lại danh tiếng cho nhà họa sĩ.  Các tông đồ được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm ba người.  Mỗi vị tông đồ đều được diễn tả trong tâm trạng ngỡ ngàng đến mức thất kinh, hoảng sợ.  Họ vừa nghe Chúa nói: “Có một kẻ trong anh em sẽ nộp Thày ”(Ga 13,22).  Riêng Giuđa, kẻ bán thày, thì vẫn thản nhiên.  Sự lạnh lùng được thể hiện rõ trên khuôn mặt.  Không những thế, họa sĩ còn thể hiện khuôn mặt Giuđa với màu sậm.  Phải chăng, ông muốn diễn tả, sự giảo quyệt gian dối hiện rõ cả nơi khuôn mặt của người tông đồ phản bội?

Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu được diễn tả như một người bình thản.  Người điềm tĩnh giữa phong ba, như Người vẫn điềm tĩnh khi thuyền gặp bão trên biển hồ, khi phải đối diện với Philatô, với Hêrôđê, với những người biệt phái và dân chúng bị kích động đang căm ghét Chúa.

Chính trong bối cảnh này, Chúa Giêsu hiến mình làm của ăn của uống cho các môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa Giêsu nuôi dưỡng ngàn thế hệ mai sau.  Người ta thường trao quà tặng trong lúc vui vẻ hạnh phúc và cho những người trung thành có công trạng.  Chúa Giêsu trao ban chính mình trong một bữa ăn mà mọi người tham dự đều có tâm trạng hoảng loạn và có người phản bội.  Chúa trao ban thân mình để bày tỏ tình yêu thương và giúp họ can đảm đón nhận mầu nhiệm thập giá gần kề.

Ngày hôm nay, hai mươi thế kỷ sau biến cố Tiệc ly, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trao ban thân mình cho nhân loại.  Mỗi khi linh mục dâng lễ, qua lời truyền phép, bánh trở nên Mình Chúa, rượu trở nên Máu Chúa.  Bức tranh “Tiệc ly” cũng vẫn đang thể hiện cuộc đời này.  Trước lời mời gọi đến đón nhận Mình Thánh Chúa Giêsu, có nhiều người nhiệt thành sốt sắng, nhưng cũng có những kẻ dửng dưng lạnh lùng, thậm chí có người lại lộng ngôn phạm thượng.  Tại “Bàn-tiệc-cuộc-đời” này, tôi mang khuôn mặt nào trong số các tông đồ?  Trong “cõi người ta” đầy bon chen bận rộn, Thánh Thể vẫn hiện diện, âm thầm và sâu lắng, như bằng chứng của một tình yêu tự hiến, yêu cho đến cùng, yêu hết mọi người dù gặp nhiều phản bội dối gian.

Thánh Thể là Bí tích của tình yêu thương.  Ai đón nhận bí tích này đều được mời gọi thực hành đức bác ái.  Người tín hữu không có đức bác ái sẽ đi ngược với ý nghĩa của bí tích này.  Trong khi các tông đồ hoảng loạn thất kinh, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ tới: Người bưng chậu nước đi rửa chân cho từng người trong họ, kể cả chân Giuđa, người tông đồ phản bội.  Chúa không chỉ rửa chân cho những người luôn ở bên cạnh Chúa như Phêrô, Gioan và Giacôbê mà bỏ rơi những tông đồ khác.  Đó là cách hành xử của con người theo kiểu sòng phẳng có trao có nhận.  Chúa bao dung và nhân hậu với hết mọi người.  Cử chỉ rửa chân được chính Chúa lý giải liền sau đó: “Nếu Thày là Chúa, là Thày, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thày đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thày đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15).  Như thế là đã rõ, cử chỉ của Chúa Giêsu vừa là nghĩa cử khiêm nhường yêu thương, vừa là một bài học nêu gương và một lệnh truyền cho các tông đồ hãy bắt chước người.

Hãy thinh lặng âm thầm cầu nguyện bên Thánh Thể để học sống yêu thương và hy sinh cho người khác.  Chúa Giêsu hiến thân vì con người, nhưng con người lại quá so đo tính toán khi hiến thân cho Chúa.  Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2015, đã nói đến sự dửng dưng vô cảm của con người đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại.  Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng trước nỗi đau của con người.  Chúng ta hãy học nơi Thánh Thể tình yêu thương và sự hy sinh, phục vụ vì hạnh phúc của những người xung quanh.

Sống màu nhiệm Thánh Thể không dừng lại ở việc rước Mình Thánh Chúa, mà còn được thể hiện qua những nghĩa cử yêu thương, tha thứ, hài hòa trong cách đối xử với tha nhân.  Đó là tình yêu trọn hảo và là lời mời gọi của thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên 

Langthangchieutim goi