Ngẫm xem có đúng không nhé

          Ngẫm xem có đúng không nhé

1.Tranh chấp với người nhà, giành được rồi thì tình thân cũng mất đi.
2.Tính toán với người yêu, rõ ràng rồi thì tình cảm cũng phai nhạt.
3.Hơn thua với bạn bè, chiến thắng rồi thì tình nghĩa cũng không còn.
4.Khi tranh luận, người ta chỉ hướng đến lý lẽ mà quên rằng cái mất đi là tình cảm, còn lại sự tổn thương là chính mình
5.Cái gì đã đen thì sẽ đen, trắng là trắng, tốt nhất hãy để thời gian chứng minh.
6. Rũ bỏ sự cố chấp của bản thân, dùng lòng khoan dung để nhìn người xét việc; thêm một chút nhiệt tình, một chút điềm tĩnh và ấm áp thì cuộc sống sẽ luôn có ánh mặt trời và suốt đời mình sẽ là người thắng cuộc.
7.Ở đời, sống là để bản thân mình xem, đừng tham vọng mọi người đều hiểu bạn; cũng đừng mong cầu mọi việc đều theo ý mình.
8.Khi đau buồn hay mỏi mệt, nên biết tự an ủi lấy bản thân.
9.Không có người lo lắng thì càng phải mạ

10.Không có ai cổ vũ cũng phải biết tự bay lên.
11.Không có người chiêm ngưỡng cũng cần thơm tho và tươm tất.
12.Cuộc sống, không có khuôn mẫu cố định, chỉ cần một trái tim trong sáng và nhiệt huyết.
13.Gặp phiền não thì tự tìm lấy niềm vui riêng, đừng quên đi hạnh phúc
14.Dù bận rộn cũng nhớ giữ lại chút thanh nhàn, đừng để mất sức khỏe.
15.Mệt mỏi rồi thì tạm dừng lại nghĩ ngơi, đừng đánh mất niềm vui cuộc sống.
16.Chỉ cần trong lòng luôn nhớ đích đến và biết hiện giờ mình đang làm gì ở đâu thì yên tâm, sẽ không bị lạc đường!

BUÔNG…!

Ðời còn vướng một chữ buông
Mà sao học mãi không xong cả đời
Buông là tất cả được thôi
Không buông, lụy khổ, cuộc đời mất đi

Cớ sao ôm giữ mà chi..?
Tham lam, vọng tưởng, sân si suốt đời
Tựu chung cũng một chữ “tôi”
Thương yêu, ghét bỏ từ nơi tâm mình

Ðừng nghe rước lấy ưu phiền
Tâm không bình lặng, thân liền động ngay
Xin người cố giữ tâm an
Thân mong tránh dữ, làm lành, vầy duyên

Hãy lo tu tỉnh ngày đêm
Hầu mong thoát khỏi muộn phiền, si mê
Buông là tĩnh thức muôn bề
Thân, tâm thanh tịnh, tìm về giác chân …

From:  Nguyễn Kim Bằng gởi

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái

Đối với người Do Thái trên khắp thế giới, địa danh thiêng liêng nhất của họ là Bức tường than khóc tại thành cổ Jerusalem (Israel).

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Bức tường than khóc còn có tên là bức tường phía Tây (Western Wall), do vua Herod Echo xây dựng vào đầu thế kỷ I TCN, trên một đoạn đường chống của ngôi đền do vua Salomon xây dựng cách đây gần 3.000 năm. Sau trận chiến với quân La Mã, bức tường bị phá hủy và hiện nay chỉ còn một đoạn ngắn của tường thành.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Hơn 2.000 năm trôi qua kể từ ngày Chúa Jesus giáng sinh, các tín đồ từ khắp nơi trên thế giới vẫn đổ về đây để cầu nguyện. Người Do thái xưa và nay rất tôn sùng bức tường này vì đối với họ đây không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là niềm tự hào dân tộc. Ngày nay, khu vực Bức tường than khóc rất rộng lớn, khang trang và thường xuyên có nhiều du khách tới thăm viếng.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Tại đây các tín đồ thường viết lời nguyện cầu trên một mảnh giấy và đặt vào một khe nhỏ nào đó trong bức tường.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Bức tường dài được chia khu vực cầu nguyện riêng biệt cho phụ nữ và nam giới.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Những tín đồ có thể ở đây cả ngày, ngồi trên những chiếc ghế và thành kính cầu nguyện.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Mỗi ngày có hàng nghìn người tới viết thư gửi lên Thượng đế tại Bức tường than khóc.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Những người Do Thái theo nhóm Hassidi thường mặc áo dài và đội mũ đen, để râu dài. Họ tin tưởng nếu cầu nguyện liên tục trong 40 ngày thì sẽ được hưởng nhiều phép màu.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Người Do thái trải qua chiến tranh nhiều năm nên Bức tường than khóc là nơi mà họ tạ ơn Thượng đế cũng như cầu nguyện cho số phận của dân tộc trong những lúc có tai biến hay đất nước bị nguy nan.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Gần Bức tường than khóc là nhà thờ mộ chúa Holy Seplucher. Người Do thái tin rằng đây là nơi an táng Đức chúa Jesus, nơi người đã ngã xuống sau khi vác thánh giá qua 14 chặng đường.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Du khách được vào khu hầm mộ chúa Jesus. Khu hầm mộ khá nhỏ hẹp chỉ vừa 4 người nên du khách thường phải xếp hàng chờ đến lượt mình.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Phía trong khu hầm mộ được trang trí lộng lẫy với nhiều biểu tượng, hình ảnh cuộc đời Đức chúa Jesus.

 

Bức tường than khóc, nơi linh thiêng của người Do thái 

Bên ngoài hầm mộ là tảng đá nơi truyền thuyết cho rằng Đức chúa từng nằm trước khi được an táng, cũng được nhiều người Do thái đến cầu nguyện.

Ngoài Bức tường than khóc, Nhà thờ mộ chúa Holy Sepluche, du khách đến thành cổ Jerusalem (Israel) thường đến thăm các danh thắng lịch sử như đường chúa đi qua, đỉnh núi Ô liu, khu vực khảo cổ thành vua David… Mặc dù Israel vẫn có xung đột với các nước láng giếng ở khu vực biên giới song mỗi năm nước này vẫn đón khoảng 3 triệu khách du khách đến thăm những thánh tích tôn giáo của nhân loại tồn tại qua nhiều thế kỷ.

 

CHUỘT CẮN KHỐ RÁCH…

CHUỘT CẮN KHỐ RÁCH…

“Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một đạo sư. Sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn học trò ở lại chăm lo tu hành.

Học trò nghe theo lời thầy, thiền định sớm hôm không hề bê trễ, Vì nếp sống tu hành thanh bần, tu sĩ chỉ có độc mỗi một miếng khố che thân. Nhưng chiếc khố cứ bị chuột cắn rách hoài nên tu sĩ cứ lâu lâu lại phải đi xin một mảnh vải che thân khác.

Dân làng thấy vậy, bèn biếu tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Tu sĩ đem con mèo về nuôi, từ đó chuột không dám lộng hành nữa, nhưng tu sĩ lại phải lo thêm một phần ăn.Ngoài thực phẩm chay tịnh, tu sĩ phải xin sữa để nuôi con mèo. 

Một tín đồ thấy vậy bèn tình nguyện dâng cúng tu sĩ một con bò cái để có sữa nuôi mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò nhưng nuôi được mèo lại không có rơm cho bò ăn. Do đó, ngoài thức ăn khất thực, tu sĩ lại phải đi xin rơm về nuôi bò.

Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một mảnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng trọt, nuôi bò. Tu sĩ ra công cầy cấy nên rau trổ thật nhiều, bò ăn không hết, phải mang bán ngoài chợ.

Miếng đất thật mầu mỡ sinh hoa lợi quá nhiều, tu sĩ làm không xuể, phải gọi người đến làng giúp Lạ thay, miếng đất cứ thế sinh sôi nẩy nở, trồng gì cũng tươi tốt và chả mấy chốc trở nên một đồn điền trù phú.

Tu sĩ có nhiều hoa lợi bèn xây một đền thờ to lớn, đẹp đẽ, thuê thợ khắc tượng, đúc chuông thật vĩ đại, nhưng thời gian tu hành không còn là bao vì tu sĩ phải lo trông nom đồn điền, lo sổ sách giao dịch buôn bán, kiểm soát nhân công trồng tỉa, rồi có tiền bạc phải lo đầu tư, bỏ vốn mua thêm đất đai, khai khẩn thêm nữa.

Một hôm, sư phụ trở về không trông thấy túp lều đơn sơ nữa mà thay vào đó một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, trong đền ồn ào những tín đồ vừa cúng bái vừa buôn bán.

Trông thấy sư phụ, tu sĩ mừng rỡ chạy ra chào. Sư phụ ôn tồn hỏi tại sao lại có sự thay đổi như thế Tu sĩ trả lời, ‘thưa thầy, thật tâm con muốn tu hành nhưng tại lũ chuột cứ cắn rách áo hoài. Để bảo vệ cái áo con nuôi mèo. Để có sữa cho mèo ăn, con phải nuôi bò, và để có rau nuôi bò, con phải canh tác. Rồi thì trúng mùa liên tiếp, sức con làm không xuể nên phải gọi thêm người làm giúp, rồi thì buôn bán thành công, tiền bạc nhiều thêm, con phải đích thân trông nom mọi việc. Sau đó con cho xây cất đền thờ to tát, đúc tượng thật vĩ đại, con còn mướn người lo việc cúng tế, nhang đèn cẩn thận’.

Sư phụ thở dài,

“Xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát !
Tụ tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp, chỉ gây trở ngại cho việc thanh tu !
Chỉ vì một cái khố rách mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đã chỉ dạy nhằm việc giải thoát.
Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lệch lúc nào không hay, trói buộc vào các thứ đó rồi làm sao có thể thoát được ?”

Chỉ vì một sự việc rất nhỏ mà đôi khi nó sẽ dấn đến những sự việc lớn bất ngờ mà chính bản thân ta cũng không ngờ tới.

S.T.

Hàn Quốc

From facebook:  Honolulu Nguyen‘s post.
 

Honolulu Nguyen

Hàn Quốc

Năm 2004, Việt Nam cho chiếu bộ phim “Thời đại anh hùng” trong đó có đoạn Tổng thống Park Chung-hee đã khóc vì thấy dân khổ quá.
Ông tuyên bố sau 10 năm nữa sẽ có nhiều nước trên thế giới phải đến làm thuê cho Hàn Quốc.

Thập niên 60, Hàn Quốc là 1 trong những nước nghèo đói nhất châu Á. Năm 1968, người Hàn quyết định thay đổi giáo dục bằng cách bê nguyên sách giáo khoa của người Nhật về dịch sang tiếng Hàn để giảng dạy, ngoại trừ các môn xã hội như địa lý, lịch sử và văn học. Lúc đó cũng có nhiều người chỉ trích rằng, Hàn Quốc lẽ nào lại không tự soạn được một bộ sách giáo khoa, đây cũng bởi tính sĩ diện của họ rất cao.

Nhưng chính phủ vẫn quyết tâm thực hiện, vì để có được chương trình giáo dục đó, người Nhật đã mất cả trăm năm cải biên cách đào tạo phương Tây sao cho phù hợp với đặc trưng của châu Á, bắt đầu từ thời Minh Trị Thiên Hoàng. Để rút ngắn thời gian, Hàn Quốc chẳng có cách nào ngoài việc lấy kinh nghiệm của người khác, và để dành thời gian và công sức lo việc khác nữa. Vì Hàn Quốc muốn trở thành một bản sao mới của Nhật, nền kinh tế dựa trên lòng tự hào dân tộc, tính kỷ luật và đạo đức của toàn thể xã hội.

Đúng 20 năm sau, năm 1988, Hàn Quốc đăng cai Olympic Seoul, cả thế giới không ai tin vào mắt mình khi thấy kỳ tích bên bờ sông Hàn. Ô tô, xe máy, dệt nhuộm, hoá chất, đóng tàu, điện tử, bánh kẹo… bên Nhật có cái gì thì bên này có cái đó mặc dù dù dân số chỉ bằng 1/3. Không ai biết trong 20 năm đó, cả dân tộc Hàn đã nắm chặt tay với quyết tâm thoát nghèo như thế nào, chỉ biết rằng trên tivi lúc đó chỉ có vẻn vẹn 2 chương trình là “dạy làm người” và “dạy làm ăn”; từ cái văn minh nhỏ xíu như nụ cười của một nhân viên bán hàng cho đến cách quản lý chi phí của một quán cà phê, cách tạo dựng một nhà máy.

Từ một dân tộc “xin việc”, tức các doanh nghiệp nước ngoài đến đặt nhà máy tại Hàn và thuê lao động tại đây, Hàn Quốc bắt đầu khan hiếm lao động và trở thành dân tộc đi “cho việc”, mà người xếp hàng “xin việc” lúc bấy giờ lại là người Trung Quốc, Thái Lan, Philippines. Hàn Quốc đã thành công trong việc tiếp nối Nhật Bản thành dân tộc đi “cho việc” người khác.

Năm 1988, pháo hoa thắp sáng 2 bờ sông Hàn, người Hàn Quốc ôm nhau cười trong nước mắt, hơn 100 quốc gia giàu có nhất trên thế giới miễn visa cho họ. Hàn Quốc giờ đây đã bước chân vào nhóm 24 quốc gia thịnh vượng nhất loài người. Nhưng thách thức mới lại xuất hiện, vì bây giờ không phải là Nhật Bản nữa, mà là Hồng Kông và Singapore, 2 cực hút nam châm của cả châu Á về tài chính, thương mại và giải trí.

Bộ phim Ngôi Nhà Hạnh Phúc được phủ sóng khắp Châu Á và chinh phục hàng triệu con tim.

Phim Hồng Kông tràn ngập thị trường và không có đối thủ. Ngay lập tức người Hàn tuyển chọn ra 2.000 sinh viên ưu tú nhất, cử sang Holywood, điên cuồng học hành, từ đạo diễn, diễn viên, phục trang đạo cụ… 4 năm sau tốt nghiệp, (năm 1992), những bộ phim đầu tay như: Cảm xúc, Mối tình đầu, Hoa cúc vàng,…với một thế hệ diễn viên đẹp từng milimet đã chinh phục được hàng triệu con tim.

Ngành làm phim đã phối hợp khéo léo với ngành thời trang, mỹ phẩm và hàng tiêu dùng để xâm nhập vào các thị trường. Đại sứ quán Hàn Quốc tại các nước có nhiệm vụ dịch thuật ra tiếng địa phương và tặng không cho các đài truyền hình, tạo ra làn sóng Hanluy nổi tiếng. Người Nhật điên cuồng, người Trung Quốc điên đảo, các nước Đông Nam Á thì chỉ biết ụ pa ơi, ụ pa hỡi. Phim Hồng Kông bị đá văng ra khỏi thị trường cho thuê băng đĩa.

Vào năm 1988, ngoài 2.000 người đi Holywood để xây dựng công nghiệp điện ảnh thì cũng có ngần ấy người được cử sang Milan và Paris để học thời trang, mỹ phẩm. Các tập đoàn như xe Kia, Samsung, Hyundai còn thuê cả ê-kip thiết kế của các hãng xe Đức như Mercedes, BMW làm việc cho họ, với tham vọng xuất khẩu xe sang Mỹ và châu Âu. Muốn bán cho Tây thì bao bì nhãn mác phải có óc thẩm mỹ của Tây, chứ kiểu “tròn tròn xinh xinh” của dân châu Á, người Tây không thích, không bán được. Có những năm mẫu xe của Hyundai bán chạy nhất ở Bắc Mỹ và châu Âu. Người Mỹ bắt đầu nhìn người Hàn với ánh mắt khác, ngưỡng mộ, ngạc nhiên và thích thú.

Ngoài ra, người Hàn cũng cử những sinh viên giỏi toán nhất nước theo học ngành tài chính ở các trường đại học lớn của Mỹ, với tham vọng Seoul sẽ thành một London, New York. Các quỹ đầu tư ra đời và họ tự tìm kiếm các nhà máy mới khởi nghiệp be bé để rót tiền vào, tham gia vào quản trị. Hộ không hề chỉ trích, chỉ góp sức góp trí để xây dựng. Một người Hàn giàu có là cả dân tộc Hàn giàu có.

Hệ thống bán lẻ Lotte phải có nghĩa vụ mang hàng hoá Hàn đi khắp nơi. Ông lớn Samsung bắt đầu tuyển dụng những sinh viên giỏi nhất châu Á để cho học bổng thạc sĩ miễn phí với điều kiện tốt nghiệp xong phải mấy năm phục vụ cho họ. Họ gom trí tuệ của cả châu Á để chinh phục thị trường điện thoại thông minh và máy tính bảng, cạnh tranh đối đầu với Apple, đối đầu với cả một tập thể trí tuệ thung lũng Silicone, cứ như Airbus của châu Âu cạnh tranh với Boeing vậy.

Người Hàn Quốc, dù dân thường hay sếp lớn, tất tần tật mọi thứ họ dùng phải là “Made in Korea”, dù vào thập niên bảy mươi sản phẩm vô cùng kém cỏi và xấu xí. Nhưng nếu người tiêu dùng không ủng hộ sản phẩm nhem nhuốc của thời khởi nghiệp, thì doanh nghiệp còn tồn tại đâu mà có sản phẩm tinh xảo sau này?

Tony nhớ lần đi Hàn đầu tiên, mùa thu năm 2005, bà chị ở Việt Nam cẩn thận ghi tên mấy nhãn hiệu mỹ phẩm ưa thích của chị ấy rồi nhắn mình mua giùm. Ở cửa hàng mỹ phẩm, cô bán hàng mặc bộ váy veston đen, chạy như bay lấy hết sản phẩm này đến sản phẩm khác cho Tony xem, đều là của Hàn cả. Do tiếng Anh không nói tốt nên cô cứ giải thích bằng tiếng Hàn đến lúc giọng khàn đặc. Đến lúc Tony lấy tay chỉ hộp phấn Lancom, thì cô thất vọng oà khóc. Cô khóc vì cô đã không thành công khi tình yêu nước của cô không thuyết phục được khách hàng. Tony nhìn cô ấy sững sờ, lẽ nào chỉ là 1 cô gái bán hàng bình thường mà có lòng yêu đất nước mãnh liệt thế sao? Tony thôi bèn mua mấy hộp mỹ phẩm của Hàn, dù chẳng biết có tốt không, vì kính phục quá. Lúc Tony bước ra khỏi cửa hàng, ngoái lại vẫn thấy cổ gập đầu cung kính.

Ngoài phố, gió bắt đầu lạnh, từng tốp học sinh chạy tập thể dục rầm rập trên vỉa hè, những chiếc áo khoác thêu cờ quốc gia ở sau lưng. Và Tony biết, sau lưng của mỗi công dân luôn là tổ quốc.

Nhìn hình ảnh người tù số 503 này….

From facebook:  Tran Dat shared Lê Bích Trâm‘s post.
 
Image may contain: 2 people, people standing
Lê Bích TrâmFollow

Nhìn hình ảnh người tù số 503 này bị còng tay ra toà hôm qua phát đi khắp thế giới mà không khỏi nghĩ suy.

Đang là tổng thống, bà Park Geun Hye bị luật pháp điều tra rồi bị kéo xuống, bắt giam vào tù 6,5m2 và nay đưa ra toà như bao nghi phạm, không chiếu lệ gì việc bà làm tổng thống và là ái nữ của cố tổng thống.

Bà cũng không trưng ra thân thế gia đình hay vị trí hiện tại để đòi hỏi điều gì, mà có đòi hỏi cũng không được. Toà hỏi “Nghề nghiệp của bị cáo là gì?”, bà trả lời “Tôi không có nghề nghiệp gì cả”.

Toà kéo dài hai tháng là sự trừng phạt nặng với bà, và tiếp sau đó có thể là một án chung thân. Từ tổng thống đến bị cáo ra toà hôm nay, mọi việc diễn ra rất nhanh, chỉ trong vòng hai tháng.

Luật pháp xứ Hàn nghiêm minh khiến ai cũng phải nể. Và nhất là quan lại hủ bại và làm bậy thấy hình ảnh nghiêm minh này sẽ phải chùn tay.

Xứ Hàn từ nghèo khó nhanh chóng vươn lên thành hổ là nhờ cột trụ pháp luật nghiêm minh đó, từ đó mới sinh ra nền kinh tế và văn hoá hùng mạnh.

( hình Nguyễn Trường Uy)

 

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

From facebook:  Phan Thị Hồng added 5 new photos 
Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Phân tích của Nguyễn Quang Duy Melbourne Úc

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Nguyễn Quang Duy

1. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1956
2. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 (Ấn bản chánh)

Nền Cộng Hòa non trẻ của miền Nam Việt Nam đã chấm dứt vào 30 tháng 4 năm 1975, nhưng giá trị tinh thần cộng hòa vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Nhân kỷ niệm 60 ngày bản Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26-10-1956 xin được ôn lại các giá trị có thể học hỏi từ tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng Hòa.

1. HIẾN PHÁP 1956

Ngày 26/10/1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức thông báo kết quả Trưng cầu Dân Ý truất phế Bảo Đại, thành lập Việt Nam Cộng hòa, với Hiến ước Tạm thời làm cơ sở pháp lý điều hành quốc gia.

Tháng 3/1956 một Quốc hội Lập hiến với 123 dân biểu được bầu. Đến tháng 7-1956 Quốc Hội bỏ phiếu thông qua bản Hiến Pháp. Ngày 26/10/1956 Hiến Pháp được Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm ban hành.

Tinh thần lập hiến và dân chủ chưa đủ

Chiếu điều 95 và 96 của bản Hiến pháp 1956, Quốc Hội Lập Hiến tự động trở thành Quốc Hội Lập Pháp và Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên Việt Nam Cộng Hòa.

Lẽ ra hai điều này không nên có vì đã mâu thuẫn với Điều 2 là điều căn bản nhất của thể chế Cộng Hòa: “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Nói cách khác Quốc Hội Lập Hiến đã tước quyền người dân bầu chọn một Quốc Hội Lập Pháp và một Tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Điều 3 “Tổng thống lãnh đạo Quốc dân” mang xu hướng suy tôn chức danh Tổng thống. Điều 89 “Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này (89) của Hiến pháp.”, Nghĩa là Điều 3 được đặt ngang hàng và được bảo vệ tuyệt đối như Điều 2 “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Nói cách khác quyền lực tuyệt đối đã được Hiến Pháp trao cho Tổng Thống do đó quyền dân chủ đã bị giới hạn trong Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa.

Trong khi miền Nam đang bị cộng sản đe dọa lẽ ra vai trò của các đảng chính trị và của địa phương phải được đặt hàng đầu, Hiến pháp 1956 lại chỉ tập trung vào Trung ương không hề đề cập đến địa phương, thành phố, tỉnh, xã, thị xã… cũng không đề cập đến vai trò các đảng chính trị.

Thiên thứ 9, quy định việc sửa đổi Hiến pháp, với nhiều bước chặt chẽ. Chương này chỉ thuận lợi cho những chính trị gia đã tham gia guồng máy công quyền, nhưng lại giới hạn cơ hội của dân và của thành phần cấp tiến muốn thay đổi đất nước thông qua việc sửa đổi Hiến Pháp.

Tam Quyền Phân Nhiệm

Vai trò và nhiệm vụ của Tổng Thống, của Quốc Hội và của Thẩm phán được nêu rõ trong các Thiên (Chương) ba, bốn và năm của bản Hiến Pháp 1956.

Thiên thứ sáu dành cho Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo Hiến, trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.

Thiên thứ bảy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia do Phó Tổng thống là Chủ tịch có nhiệm vụ trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.

Thiên thứ tám về Viện Bảo Hiến nhằm phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh.

Kinh Tế Tự Do

Chương hai nêu rõ việc Quốc gia (chính phủ) công nhận và bảo đảm tất cả các quyền tự do cá nhân.

Đặc biệt Điều 20: “Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu.” Cùng với việc khuyếch trương kinh tế tự do, chiếu theo điều 20 này chính phủ đã có những chính sách vô cùng tích cực.

Lấy thí dụ, chính phủ quy định các loại xe chuyên chở công cộng như xe taxi, xe lam, xe xích lô… cho nhập cảng xe mới và đem bán trả góp cho tài xế. Các loại xe này nhanh chóng trở thành những phương tiện di chuyển thông dụng nhất tại miền Nam.

Chương trình Người cày có ruộng, chính phủ mua lại ruộng đất của điền chủ đem bán lại cho tá điền qua phương cách trả góp.

Ngoài một số hoạt động công ích xã hội, như điện, nước, hàng không,… sinh hoạt kinh tế hoàn toàn tự do. Chính phủ không cạnh tranh với tư nhân. Chính phủ chỉ giữ vai trò khuyết trương kinh tế và bảo đảm tư nhân cạnh tranh một cách công bằng và hợp pháp.

Ngay trong giáo dục Chương trình tư thục được chính phủ khuyến khích và nâng đỡ. Nhờ đó chia sẻ gánh nặng với chính phủ và đã đào tạo nhiều thế hệ thanh niên sẵn sàng đóng góp cho quốc gia dân tộc.

Chính phủ còn cho thành lập các khu kỹ nghệ như Thủ Đức, An Hòa, Nông Sơn, … nhiều nhà máy được xây dựng như nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim, nhà máy vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than Nông Sơn…

Các quốc gia khác sau khi giành được độc lập đều có khuynh hướng bảo vệ thị trường, chính phủ trực tiếp làm kinh tế, quốc hữu hóa công xưởng, đề ra các chính sách bảo vệ thị trường.

Trong khi miền Nam lại theo kinh tế tự do nên kinh tế và kỹ nghệ đã phát triển nhanh hơn các quốc gia trong vùng.

Hòa giải tranh chấp lao công

Thiên thứ bẩy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia mà hội viên gồm các nghiệp đoàn và các ngành hoạt động kinh tế, các tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và các nhà kinh tế học.

Chính phủ cũng đề ra chính sách dung hòa quyền lợi giữa chủ và thợ, giảm thiểu các tranh chấp lao công, khiến cho xã hội hài hòa cùng nhau phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Đây là một điểm son của của xã hội miền Nam, nhờ đó cộng sản không thể lợi dụng biến các cuộc biểu tình đình công đòi hỏi quyền lợi của giới thợ thuyền thành những cuộc biểu tình chính trị.

Tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc

Trong lời mở đầu Hiến Pháp nêu rõ: “…dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện.”

Nhìn chung Hiến Pháp 1956 xây dựng trên tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc, tinh thần này được tiếp tục duy trì trong Hiến Pháp 1967.

2. HIẾN PHÁP 1967

Sau đảo chánh 1-11-1963, miền Nam bị đẩy vào tình trạng khủng hoảng chính trị. Các chính phủ quân sự và dân sự liên tiếp được thành lập. Để có cơ sở pháp lý mỗi chính phủ đã ban hành Hiến Chương riêng.

Mãi đến tháng 9/1966, một Quốc Hội Lập Hiến gồm 117 Dân biểu được bầu ra. Một Ủy ban soạn thảo Hiến pháp được thành lập rút ưu khuyết điểm Hiến Pháp 1956, nghiên cứu và tham vấn nhiều bản Hiến pháp các quốc gia khác, đặc biệt là Pháp, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Hiến Pháp 1967 tam quyền phân lập, dân chủ và phân quyền

Ngày 01/04/1967 Hiến Pháp 1967 được công bố theo đó nguyên tắc kiểm soát và đối trọng giữa các nhánh quyền lực được triệt để tuân thủ.

Lập pháp gồm lưỡng viện, hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập. Vai trò và nhiệm vụ của lập pháp, của hành pháp và của tư pháp được nêu rõ trong các Chương ba, bốn và năm của bản Hiến Pháp.

Để tránh nguy cơ độc tài, Hiến pháp 1967 đặt ra chế độ Tổng thống với Lưỡng viện Quốc Hội và với chức vụ Thủ Tướng nhằm chia sẻ trách nhiệm và quyền hành của Tổng thống.

Đặc biệt, Chương 5 Điều 70 nêu rõ: “Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như: xã, tỉnh, thị xã và thủ đô.” Các Điều 65, 70, 71, 72, 73, 74, 75 và 114 tạo cơ sở pháp lý cho các chính quyền địa phương.

Chương 6 về vai trò và nhiệm vụ của các Định Chế Đặc Biệt bao gồm Đặc Biệt Pháp Viện, Giám Sát Viện, Hội Đồng Quân Lực, Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội, Hội Đồng các Sắc Tộc.

Vai trò chống tham nhũng của Giám Sát Viện được nêu rõ: “Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.”

Chính Đảng và Đối Lập

Chương 7 về Chính Đảng và Đối Lập, nền Đệ Nhị Cộng Hòa khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng đối lập như sau:

Điều 99

1- Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.

2- Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.

Điều 100 – Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.

Điều 101 – Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.

Điều 102- Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.

Sinh hoạt chính trị ở miền Nam cho đến 30-4-1975 đã chiụ nhiều ảnh hưởng chủ trương lưỡng đảng đối lập, các đảng Khối hay chính trị gia đã hình thành những liên kết đối lập về đường lối và chánh sách quốc gia.

Thêm vào đó để tránh tình trạng Quân Đội cấu kết với các đảng phái chính trị làm đảo chánh, Chương 2, Điều 23 cấm “Quân nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái”.

Hữu sản hóa nhân dân

Điểm mạnh nhất của mô hình Đệ Nhất Cộng Hòa là phát triển kinh tế tự do, điểm mạnh này đã được tiếp tục trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Về Công Nghiệp, Khu Kỷ Nghệ Biên Hòa là một thành tựu phát triển vào bậc nhất trong vùng Đông Nam Á. Mặc dù chiến tranh kinh tế và kỹ nghệ miền Nam vượt hẳn các quốc gia trong vùng.

Điểm đặc biệt của Hiến Pháp 1967 Điều 19 phần 2 “Quốc Gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân” và Điều 22 “Quốc Gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác.” Sự thành công của chánh sách Người Cày Có Ruộng và Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp chính là nhờ các điều khoản nói trên.

Hiến pháp nhân bản, khai phóng và dân tộc

Thừa kế tinh thần Đệ Nhất Cộng Hòa, Hiến pháp 1967 lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm quốc sách. Điều 11 ghi rất rõ “Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.”

Điều 2 phần 2 nêu rõ tinh thần cộng hòa “Quốc Gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc.”

Các điểm nổi bật

Nhìn chung Hiến pháp 1967 vừa ngắn gọn, rõ ràng, vừa nêu rõ chính phủ phải bảo đảm những quyền tự do căn bản, kể cả quyền đối lập chính trị. So với các quốc gia trong vùng Đông Nam Châu Á cùng thời, Hiến pháp 1967 chỉ rõ sự tiến bộ vượt bực của Việt Nam Cộng Hòa.

Còn so với thực tế Việt Nam Cộng Hòa có một số đặc điểm nổi bật như:

1. Các quyền tự do căn bản đã được chính phủ bảo đảm, đặt biệt là quyền tư hữu;

2. Xây dựng được một nền dân chủ tam quyền phân nhiệm, phân lập và phân quyền;

3. Xây dựng thành công một nền văn hóa giáo dục, lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm căn bản;

4. Tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật phát triển;

5. Báo chí tự do;

6. Theo kinh tế thị trường tự do;

7. Nhưng vẫn bảo đảm được công bằng xã hội và dân sinh như y tế đại chúng hay thực hiện luật Người Cày Có Ruộng;

8. Một xã hội dân sự phát triển.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy các yếu tố trên là căn bản trong việc phát triển quốc gia. Nghĩa là nếu miền Nam không rơi vào tay cộng sản thì Việt Nam Cộng Hòa sẽ không thể kém xa các quốc gia Đông Nam Châu Á như hiện nay. Nếu không nói là sẽ vượt trội hơn nước người.

Tinh thần lập hiến và thượng tôn pháp luật pháp thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đó và sẽ được học hỏi kế thừa khi Việt Nam có tự do dân chủ.

Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Australia (Úc).
25-10-2016

No automatic alt text available.
Image may contain: text
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, sunglasses and text
 
LikeShow more reactions

Comment

HÃY NHÌN XUỐNG ĐỂ THẤU HIỂU VÀ SẺ CHIA

 HÃY NHÌN XUỐNG ĐỂ THẤU HIỂU VÀ SẺ CHIA

Xã hội phát triển, đồng nghĩa đời sống vật chất và tinh thần con người ngày càng được nâng lên.  Tuy nhiên, nhiều người trong chúng ta lại không cảm thấy hạnh phúc dù họ không hề thiếu thứ gì.  Họ khó chịu, mệt mỏi khi gặp chuyện không vừa ý, khi thua kém người khác hay khi không được thỏa mãn điều gì đó,… và thường nghĩ rằng mình là người bất hạnh nhất, cảm thấy trên đời không ai khổ bằng mình.

Vậy nếu bạn cảm thấy mình là người bất hạnh nhất thì ai sẽ là người hạnh phúc nhất?  Câu trả lời là chẳng có ai!  Bởi cuộc sống này không có điều gì là toàn mỹ, không có gì là toàn nhất cả.  Được cái này thì mất cái kia!  Hãy nhìn rộng ra và làm vài phép so sánh, bạn sẽ thấy mừng vì mình chưa phải người bất hạnh nhất đâu.

Nếu bạn cảm thấy việc học đối với bạn quá nhàm chán, luôn là một gánh nặng và bạn muốn bỏ cuộc thì hãy nhìn sang những đứa trẻ trong lớp học tình thương hay những em nhỏ sáng đánh giày, tối học trong lớp bổ túc văn hóa, chắc chắn bạn sẽ rút lại ý định bỏ học của mình. 

Cuộc sống này không có điều gì là toàn mỹ, không có gì là toàn nhất cả Hay khi bạn cảm thấy căn nhà mình ở quá “ngột ngạt”, không đủ rộng lớn đối với mình thì hãy thử sống trong khu ổ chuột để biết cảm giác thiếu thốn, ngột ngạt thật sự nó như thế nào.

Cảm giác bị ba mẹ mắng thật không dễ chịu chút nào!  Nhưng liệu có bằng cảm giác của người không còn ba mẹ la rầy hay phải chứng kiến gia đình “mỗi người một nơi” không?  Bạn có thể tự trả lời được.  Còn nhiều điều, nhiều điều khác lắm nhưng chỉ qua vài ví dụ như vậy cũng có thể thấy ta vẫn còn sung sướng hơn nhiều người.

Hôm trước tôi có xem một đoạn phóng sự trên TV về tình hình chiến sự tại Syria, một phóng viên đã hỏi những người tị nạn một câu như thế này :

– Nếu được ước, các anh sẽ ước gì?

Tất cả đều trả lời :

– Chúng tôi chỉ muốn kết thúc chiến tranh, chúng tôi chỉ muốn trở về nhà sống cuộc sống yên bình.

Trong khi chúng ta mãi lo nghĩ làm sao để sống giàu có, phủ phê thì những người tị nạn Syria chỉ mong ước đất nước kết thúc chiến tranh để có thể bình yên trở về nơi “chôn rau cắt rốn” của mình.  Thế mới biết, trong lúc khó khăn, nguy hiểm thì điều chúng ta cần nhất chính là bình yên thật sự.

Bạn tôi có lần kể cho tôi nghe chuyện về một ca sĩ hát nhạc cổ điển rất nổi tiếng.  Cô từng kết hôn với một người chồng giàu có và rất hạnh phúc.  Một hôm, cô đến một quốc gia láng giềng để trình diễn, và đêm trình diễn đó rất thành công.  Sau buổi diễn, khi cô bước ra khỏi nhà hát cùng với chồng và con trai, phóng viên điện ảnh liền đua nhau tới phỏng vấn.

Mọi người đều ca tụng và ngưỡng mộ người ca sĩ.  Họ ca ngợi cô vì cô đã nổi tiếng ngay sau khi tốt nghiệp đại học, lại được bầu là một trong mười người chơi nhạc cổ điển hay nhất trên thế giới ở tuổi 25.  Một số người ca ngợi rằng cô có chồng giàu, làm chủ một công ty rất lớn và có một con trai rất xinh xắn, luôn luôn mỉm cười.

Trong khi mọi người nói những lời có cánh, người ca sĩ chỉ lắng nghe.  Sau đó, cô bắt đầu nói rất chậm rãi: “Trước hết tôi muốn cám ơn tất cả mọi người vì lời ca ngợi về tôi và gia đình tôi, và tôi hy vọng tôi cũng qúy mến những điều này như các bạn.  Tuy nhiên, các bạn chỉ thấy một phần và đã không nhìn thấy những phần khác.  Sự thật là, đứa con trai xinh xắn của tôi mà các bạn nói rằng luôn luôn tươi cười thật ra bị câm.  Ngoài ra, bé còn một người chị ở nhà cũng đang mắc bệnh tâm thần, cháu bị giữ trong căn phòng chắn bằng các thanh sắt trên cửa sổ năm này qua năm khác.”

Nghe cô ca sĩ nói, đám đông im lặng nhìn nhau.  Cô ca sĩ tiếp tục nói một cách bình tĩnh: “Ðiều này cho chúng ta biết những gì?  Tôi tin rằng chỉ có một lời giải thích, đó là Thượng Đế ban tình thương cho mọi người rất công bằng.”

Câu chuyện của cô ca sĩ cho ta thấy Thượng Đế rất công bằng bởi trong vũ trụ chúng ta đang sống luôn tồn tại một pháp lý: có được, có mất.

Con người ta thường dễ sa đà vào những thứ phù phiếm mà thường bỏ quên những thứ đáng quý ở thực tại.  Ước mơ, khát khao sống tốt hơn là chính đáng nhưng chẳng may không đạt được cũng đừng quá buồn bởi còn nhiều người khó khăn hơn gấp vạn lần ta. Hãy mở lòng ra, nhìn xung quanh với ánh mắt từ bi và bao dung, sẽ biết rằng ta còn may mắn hơn rất nhiều người, và đó cũng là một lý do để ta cảm thấy thêm yêu đời.

Thượng Đế cho ta cái cổ không những để ta ngước lên trên phấn đấu mà còn để ta nhìn xuống để thấu hiểu, chia sẻ với những mảnh đời còn khó khăn, bất hạnh.

Hoàng An 

Anh chị Thụ & Mai gởi

“Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi,”

Chuyện Phiếm Đọc sau lễ Thăng Thiên năm A 28/5/2017

“Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi,”

“như trường xưa mất tuổi thiên-thần,

Hy-vọng xa hay mộng ước gần

Đã lìa tan.”

(Nguyễn Đình Toàn – Nước Mắt cho Sàigòn hay: Sàigòn Niềm Nhớ Không Tên)

(Thư Êphêsô 5: 6)  

Trần Ngọc Mười Hai

“Sàigòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi”… tất cả cũng đều là mất mát. “Mất tuổi thiên-thần”, “Mất niềm vui, tiếng hỏi, câu chào”,  còn mất cả cái tênKhông bao giờ quên. Vâng. Có mất cả cái tên hay quên cả cái tuổi, thì bạn và tôi, ta cũng đừng bao giờ mất đi ân huệ trời cho con người, đấy bạn ạ.

Mấy hôm nay, bần đạo ngồi buồn gặm bút, cứ muốn viết cho thật nhiều về nỗi niềm nhung nhớ mất đi rất nhiều thứ. Cả những thứ có tên, có tuổi hoặc có ý-tứ, ý-từ rất muốn nói ra, nhưng lại quên mất. Cũng may cho bần đạo, chợt mở máy ra nghe nhạc thấy Khánh Ly cứ là rỉ-rả những lời trần-tình mất mát của một Sàigòn đã mất tên từ lâu, nghe rất buồn.

Sao không buồn được, khi nghe đi nghe lại những câu “mất mát” khôn nguôi, khó tả đến như sau:

“Sài Gòn ơi! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao

trong niềm vui tiếng hỏi câu chào

sáng đời tươi thắm vạn sắc màu

nay còn gì đâu…

 Ai đã xa nhớ hàng me già, thu công viên hoa vàng tượng đá

thôi hết rồi mộng ước xa xôi, theo giòng đời trôi…

 Sài Gòn ơi! Đâu những ngày mưa mùa khoác áo đi

tay cầm tay nói nhỏ câu gì

Những quầy hoa quán nhạc đêm về

Còn rộn ràng giọng hát Khánh Ly

 Sài Gòn ơi! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhau

Nhớ Phạm Duy với tình ca sầu

mắt lệ rơi khóc thuở ban đầu

Còn gì đâu

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

 Buồn là thế, chắc hẳn cũng do người viết nhạc có những tâm sự xuất tự tâm can của một nhà thơ nay không còn dịp viết và hát về Sài gòn với cái tên “cúng cơm”, cũng đẹp nhiều hơn nữa:

 “Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

mất từng con phố đổi tên đường

khi hẹn nhau ta lạc lối tìm

ôi tình buồn như đã sống thêm.”

Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi

như trường xưa mất tuổi thiên thần

hy vọng xa hay mộng ước gần

Đã lìa tan

Trăng ơi trăng có còn chăng là

Sao ơi sao, sao mờ lệ nhớ”

Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

như hàng cây lá đỏ trông tìm

Mắt trời trong cánh nhỏ chim hiền

Đã ngậm sầu ngang môi lắng im

Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

như mộ bia đá lạnh hương nguyền

Như trời sâu đã bỏ đất sầu.

Còn gì đâu…

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Vâng. Có lẽ người viết nhạc hôm nay buồn nhiều nên mới viết ra những lời ai oán đến độ thế. Vâng. Như ai đó từng diễn-giải một nhận-định về “Lời nói”, qua một bài viết mà bần đạo vừa nhận được trên điện thứ hôm ấy vào tháng 5 /2017 như sau:

“Lời ăn, tiếng nói của mỗi con người là biểu hiện chính cuộc sống và con người họ. Nếu bạn gặp một người ăn nói xấc xược, bạn có muốn nói chuyện lần thứ hai không?

Muốn biết một người có vận mệnh tốt hay không, chỉ cần xem cách họ nói chuyện là biết!

Lời nói chính là biểu hiện rõ rệt nhất của một người có đức hay không, lời nói cần giữ thủ đức, có như vậy mới giữ được phúc báo.

Mệnh của con người có tốt hay không có thể nhìn cách người đó nói chuyện là có thể nhận biết. Hàng ngày không nhất định đều phạm phải việc tổn đức, nhưng nói chuyện thốt ra những điều khó nghe, làm tổn thương người khác thì đương nhiên sẽ mất đi phúc báo.

Người có vận mệnh tốt là người ăn nói có chừng mực, mỗi lời nói đều thể hiện là người có đạo đức, họ không dùng ngôn từ mạnh để phê phán, chê bai người khác, không dài dòng nói từ chuyện nọ sang chuyện kia, không kể công của bản thân mình sau khi đã giúp ai đó. Lời nói của họ luôn chân thành, với tâm ý động viên, khích lệ người khác.

Biết rõ về một người, không cần nhất thiết phải tận nói, hãy lưu lại cho người ta ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu lại chút “khẩu đức” cho mình.

Trách một người không cần phải tận trách, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút độ lượng cho mình.

Có công không cần đòi hỏi tận cùng, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút khiêm nhượng cho mình.

Đúng lý cũng không cần đoạt tận, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút khoan dung cho mình.

Tài năng đừng quá ngạo mạn, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu chút đức khiêm hư cho mình.

Ngày tháng tích tụ, bao nhiêu phúc báo cũng từ cái miệng mà đi hết nếu cứ thường xuyên gây khẩu nghiệp. Lời nói không hay sẽ làm tan vỡ mọi mối quan hệ, dù trước đó phải khó khăn để xây đắp. Thực tế là không người chồng nào muốn về nhà nếu có một cô vợ thường xuyên chì chiết, trách móc; không có đứa con nào hạnh phúc nếu có cha mẹ không nói lời dịu dàng mà chỉ quát nạt, la mắng; không có người bạn nào hứng thú giao thiệp với người hay nói lời cay độc, bình phẩm ác ý…

Cổ nhân nói: ‘Lời nói do tâm sinh’, một người có tâm tính như thế nào thì sẽ nói ra những lời như thế. Người có lòng bao dung lời nói ra sẽ nhẹ nhàng hòa ái, người trong tâm đầy oán hận, lời nói ra sẽ hung hăng, cay nghiệt. Người khiêm nhường lời nói ra sẽ chừng mực nhã nhặn. Người tự cao lời nói thường khoa trương phách lối.

Con người ta có vận mệnh tốt và giàu có ở kiếp này là vì người đó đã tích được nhiều đức ở các kiếp sống trước. Tích đức thường được hiểu là cần phải làm được việc gì đó tốt, giúp đỡ được ai đó. Tuy nhiên, không hề đơn giản khi làm được việc gì đó tốt cho ai đó. Bạn có thể phải mất rất nhiều công sức, tiền của khi giúp ai đó, tuy nhiên cũng không hề chắc chắn rằng những nỗ lực mà bạn bỏ ra hoàn toàn đem lại kết quả tốt đẹp.

Trong cuộc đời của mỗi người, không phải ai cũng sẵn lòng làm việc gì tốt cho người khác nhưng họ lại rất dễ nói những lời khó nghe với những người xung quanh. Chính những lời nói khó nghe đó khiến cuộc sống của họ không hề bằng phẳng, mà trái lại, không biết chừng lại gập ghềnh chông gai.”  

Vâng. Rất đúng. Nhận-định như thế, cũng được đấng thánh-hiền thuở trước, cũng từng viết như sau:

“Đừng để ai lấy lời hão huyền

mà lừa dối anh em,

chính vì những điều đó

mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống

những kẻ không vâng phục.”

(Thư Êphêsô 5: 6)   

Thành ra, lời nói phát ra từ cửa miệng con người, cũng có thể là những lời khiêm nhu, tử tế tích-tụ điều tốt, có tâm-phúc. Nhưng cũng có thể là những lời hão huyền, xuất phát tự tâm can đầy lừa dối khiến cho “cơn thịnh-nộ của Thiên-Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục.”  

Lại có những “lời nói” không phát ra từ cửa miệng con người, như từ tâm can, mà mọi người lâu nay vẫn gọi đó là “tiếng nói của lương tâm”. Lương tâm, không nói bằng lời lẽ những tự-vựng khác nhau như con người hằng nghe biết, mà là nói cùng một thứ tiếng không bằng “lời”, mà bằng “lẽ” hoặc còn gọi là “lý lẽ” khiến mọi người phải nghe theo.

Tuy nhiên, “tiếng nói” của lương tâm có là và vẫn là quy-tắc khiến con người phải nghe theo, như luật lệ hay không? Đó chính là vấn-đề được nhiều người đặt ra cho chính mình và cho người khác nữa.

Vấn-đề này, từng được một độc-giả của tờ The Catholic Weekley ở Sydney hỏi ý-kiến, với những lời sau đây:

“Thưa Cha,    

Hôm nay con có hai chuyện muốn hỏi cha về tiếng nói của lương tâm. Thứ nhất, là: ta có phạm tội gì không, nếu không làm theo tiếng nói lương-tâm bảo ta phải làm thế chứ? Thứ hai nữa là: ta có buộc phải tuân theo tiếng nói của lương tâm, khi lương-tâm của ta bị sai sót, không?” (Lại một lá thư không chữ ký)     

 Dù có chữ ký bên dưới câu hỏi hay không, đấng bậc nhà Đạo chuyên giải đáp các thắc mắc trên Báo Đạo ở Sydney vẫn đáp-trả bằng những lời như sau:

“Phải nói ngay đây rằng: anh/chị vừa đưa ra câu hỏi xác-đáng, nên cần phải hiểu rõ câu trả lời bên dưới mới được.

 Trước nhất, ta có biết lương-tâm của ta hoạt-động thế nào, không? Thật ra, ta hay có khuynh-hướng nghĩ rằng lương-tâm luôn chỉ cách cho ta phải làm gì và không được phép làm điều gì. Chẳng hạn như, nó dạy ta hãy ngồi dậy và ra khỏi giường, bởi đã đến giờ thức dậy đi nhà thờ tham-dự thánh-lễ với mọi người, ngày của Chúa, vv…

 Và, lương-tâm cũng khuyên ta đừng nên làm điều gì; không nên xem chương-trình truyền-hình đặc-biệt nào đó; hoặc không nên tiếp cận trang chủ hoặc địa-chỉ nào trên mạng; bởi chúng sẽ đưa ta vào tình-trang phạm lỗi. Lương-tâm cũng khuyên ta chớ có nói dối, không được lưu-manh, ăn cắp/ăn trộm tài-sản của người khác, vv… Trong mọi trường-hợp, lương-tâm đều ra lệnh hoặc cấm-đoán ta không được làm điều nào đó.

 Đôi lúc, lương-tâm chỉ cho phép hoặc đề-nghị ta làm điều gì đó nhưng không áp-đặt ràng buộc nào cả. Chẳng hạn, có thể nó cũng cho phép ta xem chương-trình truyền-hình này/họ hoặc xem báo nào đó, đài số mấy, nên ăn thứ này, không nên nhúng môi chạm miệng thứ kia, món nọ, vv…

 Trở về lại câu hỏi của anh/chị thật ra cũng có trường hợp này khác trong đó ta cũng có thể phạm tội nếu không nghe theo tiếng nói của lương-tâm. Đây là trường-hợp khi lương-tâm của ta tỏ ra chắc chắn để khuyên bảo hoặc cấm đoán ta có hành-động nào đó.

 Như ta đã thấy, không phải lúc nào lương-tâm cũng ra lệnh hoặc cấm-đoán ta  hành-động, nhưng khi cần, ta buộc phải nghe theo nó, bằng không ta sẽ vi phạm lỗi/tội. Lý-do của nó đơn giản là ngang qua các xét-đoán của lương-tâm, ta biết được chất-lượng đạo-đức nơi hành-động của ta. Khi ta biết được rằng một số hành-động phải thực hiện hoặc không nên thực-hiện, ta hiểu rằng đó là điều Thiên-Chúa muốn ta làm hoặc không làm việc đó; và/hoặc đi ngược lại luật lệ Ngài ban mà phạm lỗi…

 Khi lương-tâm có điều gì nghi-ngờ, ta thường do dự và không nắm chắc sự việc. Trong trường-hợp đó, lương-tâm của ta sẽ thực-sự báo cho ta biết được mà giải-quyết mối nghi-nan bằng cách tìm đến cố-vấn hoặc tìm sách theo dõi vấn đề hoặc mở sách Giáo-lý ra mà tìm-hiểu, vv…Ta phải làm như thế mỗi khi thấy có nghi-nan, ngờ-vực kẻo làm mất lòng Chúa trong những chuyện quan-trọng tạo nguy-hại cho việc cứu rỗi, hoặc ít ra kéo dài ngày hơn trong chốn luyện tội….

 Thành thử, ta cũng nên để lòng lắng nghe tiếng nói của lương-tâm, đặc-biệt khi nó ra lệnh hoặc cấm cản ta có hành-động nào đó, cả vào khi nó chỉ mỗi đề-nghị hoặc khuyên ta làm điều gì đó nhỏ bé, thôi…” (X. Lm John Flader, Consciensce: the voice we should always listen to and heed, The Catholic Weekly 12/2/2017 tr. 20)

Lương tâm hoạt-động trong cuộc sống của mỗi người. Đó là điều mọi người đều biết rõ, không cần phải chứng minh. Nếu có, cũng chỉ cần minh-chứng bằng những truyện kể ở đời thấy được trong cuộc sống. Và, đây là một trong những câu truyện đại-để giống như thế, cũng rất cần. Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể để quan-sát sẽ thấy vai trò của lương-tâm ẩn-tàng ở trong đó.

“Truyện rằng:
Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.

 Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau. Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.

 Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.

 Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời.

 Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay.

 Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.

 Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống” . Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.

 Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.

Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.

 Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). 

Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.

 Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.

 Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.”

 Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.

 Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình.

 Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.

 Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.

 Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già. Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.

 Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng. Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.

 Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.

 Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.(Thánh Vịnh)

 Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.

 Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.

 Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết.

 Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.” (Truyện kể trích từ điện thư do bạn bè gửi cũng đã lâu)

Sống mà quên bẵng không lý gì đến lương tâm con người, còn là sống bê tha, cẩu thả, không mục đích. Sống như thế, cũng giống như là không sống.Hay còn gọi là sống dở chết dở, nửa đời người. Sống cho ra sống, đúng như tiếng nói lương tâm hằng kêu gọi, chính là cuộc sống lý-tưởng của mỗi người và mọi người.

Đó lại cũng là tâm-tình rất sống-động hôm nay và mọi ngày, ở mọi nơi. Trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Còn đó những lý-tưởng

Của đời người

Nằm mãi ở lương tâm.

“Tất cả mùa xuân rộn rã đi”

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh 21/5/201

Tin Mừng (Mt 28: 16-20)

Hôm ấy, Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giêsu đến gần, nói với các ông:

“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

&   &   &

 “Tất cả mùa xuân rộn rã đi”

“xa xôi người có nhớ thương gì?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 Mai Tá lược dịch.

Thương hay nhớ, thì xuân kia cũng rộn rã, đã ra đi. Ra đi, nào có gì để thương nhớ? Nhớ và thương, Chúa Xuân vẫn liên tưởng đến đàn con còn ở lại, khi Ngài chuẩn bị để ra đi. Có chuẩn bị, nên Ngài vẫn dặn dò dân con đồ đệ hãy thương và nhớ Lời Ngài dặn, rồi sẽ vui tươi.

Trình thuật thánh Mátthêu nay ghi lại việc Chúa sửa soạn ra đi về cõi miên trường. Từ biệt dân con mọi người Ngài để lại một lời dặn rất tha thiết. Tha thiết dặn dò, bằng giới lệnh mới, với thương yêu. Nuông chiều. Nhiều thuyết phục. Ngài ra đi về cõi miên trường nơi có Chúa Cha, có cả Thần Khí vinh quang như lời Hội thánh, vẫn tuyên xưng.

Ngay chương đầu sách Công Vụ, Thánh Luca đã viết: Đức Giêsu được nâng nhấc lên chốn mây trời ngập tình Chúa. Về với Chúa Cha, Đức Giêsu biến khỏi tầm nhìn của các thánh ngày hôm ấy. Đó là sự thực, rất thật. Không có gì phải thắc mắc.

Thế nhưng, ở chương cuối Tin Mừng cùng tác giả, thánh nhân lại bảo: Chúa về trời chiều Chủ nhật, Chúa Phục Sinh. Nơi thôn làng bé nhỏ, rất Bêtania. Nếu để qua một bên đặc thù không gian và thời gian thiếu tính chất sử học, thì người đọc sẽ hiểu tường tận hơn ý nghĩa của sự kiện “Thầy về với Cha”. Hiểu rất rõ: ý nghĩa, giá trị và những thách đố liên quan đến niềm tin, ngay sau giòng chảy của trình thuật.

Về không gian nơi chốn, người xưa thường hay liên tưởng đến 3 yếu tố: “lên”, là lên cao tít chốn thiên triều. “Xuống”, là đạt xuống tận cùng của ngục thất, chốn luyện hình. Và, “giữa chừng”, là ở giữa nơi đây, chốn địa cầu này, rất trái đất. Xem thế thì, Đức Chúa được nâng nhấc “lên” chốn cao sang tít mù ấy, là vì Ngài mới vừa “xuống” tận đáy chốn ngục hình, hôm Thứ Bẩy Tuần Thánh. Nên, hôm nay, người người lại không nghĩ như thế, khi xét suy về chốn vũ trụ bao la. Rất lạ.

Về thời gian diễn tiến sự kiện “Chúa thăng thiên/về Trời”, có người cũng thắc mắc tự hỏi: hôm ấy, Thứ Năm hay Thứ Bẩy? Hỏi thế, tức hiểu sự kiện Chúa về trời, chỉ theo chữ. Hỏi thế, tức thắc mắc không biết việc Chúa về trời có rơi vào 40 ngày sau Phục Sinh, không? Hay rớt đúng ngày Chúa Sống Lại? Hỏi và thắc mắc như thế, tức: là hiểu Lời Chúa rất từng chữ. Chỉ theo nghĩa đen thôi.

Cũng nên biết, thời Chúa sống, con số “40” mang ý nghĩa của thời gian tương đối khá dài ngày. Tựa hồ số “3” xưa nay được sử dụng để nói về thời gian tương đối cũng rất ngắn. So với hôm nay, nếu diễn đạt sự kiện lịch sử rày xảy đến, ta sẽ không suy nghĩ theo kiểu như thế.

Về những ảnh hình mô tả vị thế của Đức Chúa, người người sẽ còn thắc mắc hỏi thêm: có thực là Đức Chúa về trời, Ngài sẽ trị vì ngồi bên phải Chúa Cha, không? Một lần nữa, hỏi thế tức hiểu trình thuật, rất từng chữ. Chỉ theo nghĩa đen. Bởi, nếu thực tế hiểu đúng theo nghĩa này, thì người người sẽ kết luận: hẳn Chúa Cha sẽ luôn phải sử dụng tay trái nên chắc cũng mỏi lắm?! Bởi, Ngài cứ phải trao ban cho Con Một Ngài mọi bài sai, bằng tay trái, mất thôi!

Diễn tả sự việc bằng ảnh hình, tưởng cũng không nên diễn và tả Chúa về Trời theo cung cách của tàu vũ trụ rời bệ phóng tiến vào cõi không gian, xen đan với tinh tú. Ngài phải là “Đấng Siêu Nhân” chiến thắng thần chết, bằng Phục Sinh, nên Ngài đang ở trên một hành tinh nào đó, trên không gian, mà phải hiểu thăng thiên về trời đây, mang tính thiêng liêng, linh đạo. Sâu sắc.

Thăng Thiên về trời, có nghĩa là: Đức Chúa Phục Sinh nay rũ bỏ mọi ràng buộc về không gian, thời gian, về cả những cảnh huống rất thế trần. Để rồi, Ngài sẽ có mặt ở mọi nơi. Vào mọi lúc. Cả vào lúc khởi đầu một sự việc, giản đơn. Thăng thiên về trời, còn có nghĩa là: Ngài đang ở trong ta, và quanh ta. Ở, bất cứ nơi nào ta đi đến, Ngài cũng đến. Vào mọi lúc, Ngài luôn có mặt ở với ta. Cả khi xảy ra bất cứ việc gì, tốt hoặc xấu.

Vì thế, ta sẽ trải nghiệm được hiện hữu của Ngài ở bất cứ đâu. Bằng bất cứ đường lối/cung cách nào. Và đây là điều khác lạ nữa là: ở nơi Ngài trụ trì, sẽ chẳng có lãnh đạo toàn trị, như mặt đất. Cũng không còn giáo chủ, hồng y hoặc đấng nào chủ quản cả. Cũng chẳng còn mạng vi tính, để tính toán. Ngài sống trọn vẹn và trung thực đến độ ngay sự chết cũng không thể cướp đi được sự sống, khỏi nơi Ngài. Sự sống ấy, nay Ngài lại sẽ ban cho mọi người, rất tràn đầy và trọn vẹn.

Thăng thiên về trời, còn có nghĩa là: Chúa luôn chúc lành cho toàn thế giới nhân trần. Nơi đó có sự hiện hữu của hết mọi người, rất sống động. Đức Chúa không chỉ chúc lành cho Hội thánh của Ngài mà thôi. Và, cũng không một ai ràng buộc được Ngài vào với chỉ một Hội thánh, mà thôi. Và, Ngài cũng hiện diện không chỉ trong khuôn khổ nhỏ hẹp, của Nhà Tạm. Nhưng, ở khắp nơi. Cả trong ta. Cả, từng tế bào xuyên suốt của hiện hữu.

Ngài không nề hà mọi tính chất nhỏ bé li ti để giáng hạ. Thăng thiên về trời, Ngài đến trở lại với ta mà hoá giải mọi khó khăn, bức bách. Để, đem về cho Cha mọi tình huống của ta, qua nguyện cầu, chúc tụng. Và, Ngài khai phóng Nước Trời để rồi sẽ đoái nhìn vào từng chi tiết nhỏ ở tình cảnh ta đang sống, với lòng yêu thương mến chuộng, và chúc phúc.

Nhờ việc Ngài làm, mỗi người và mọi người rồi sẽ nói: bản thân mình cũng cần thăng thiên về trời cùng Ngài để thăng tiến chính mình. Mình cần được nâng nhắc, hầu rũ bỏ những khốn cùng/tồi tệ với cảm giác xuống cấp. Thật thấp. Dù, ta có xuống tận đáy cùng của mọi ngục thất, rồi cũng lại được hướng thượng ngước cao hơn, ra khỏi tính chất hẹp hòi, nhỏ nhen mà thăng hoa. Hướng thượng. Hướng rất thượng, để rồi sẽ hiểu rằng: nỗi chết và những hạn chế của không gian và thời gian. Của, tình trạng kinh bang tế thế ở đời thường, sẽ không làm mọi người rời xa Đức Chúa, dù Ngài đã thăng thiên.

Thế đó, là ơn gọi của mỗi người, vào buổi Chúa thăng thiên về trời. Thế đó, là sự việc diễn ra ở núi thánh. Nơi, mà chính thánh sử từng ghi chép về hiến chương Nước Trời, về giới lệnh hãy cất bước ra đi mà thay hình đổi dạng, trọn thế giới. Nơi, có các thánh “cứ đứng đó nhìn trời”, buồn rã rượi.

Quả là, Đức Giêsu rất có lý khi Ngài tỏ bày: “Chỉ một thời gian nữa, anh em sẽ không còn thấy Thầy. Và một thời khắc nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.” Xem như thế, có lẽ cũng phải mất một thời gian nữa, ta mới “nghiệm” ra được những gì mà sự kiện Chúa thăng thiên về trời, tỏ bày cho ta hiểu. Cũng nên nghiệm ra được sự thật này, để mà sống. Để được thế, hãy cứ sử dụng thời gian dành để cho ta, như mong muốn. Chắc chắn Chúa sẽ chúc lành cho thời khắc mà ta chưa đạt được. Nhưng, Chúa vẫn sẽ ở trong ta, khi ta hiện thực vai trò đem Chúa đến với mọi người.

Bằng vào bài sai Chúa ủy thác, nay là lúc ta hiên ngang dấn bước thực hiện bài sai ấy. Thực hiện điều mà Chân phước Gioan Phaolô II từng đặt tựa đề cho sách của ngài viết:“Hãy trỗi dậy mà ra đi!”, ngõ hầu khuyến khích con dân Hội thánh đang hiện thực, Lời Chúa dạy.

Cùng phấn kích với Hội thánh, cũng nên ngâm tiếp lời thơ còn bỏ dở, mà hát rằng:

“Tất cả mùa xuân rộn rã đi!

Xa xôi người có nhớ thương gì?

Sông xưa chảy mãi làm đôi ngả,

Ta biết xuân nhau, có một thì.”

(Nguyễn Bính – Cuối Tháng Ba)

Cùng với Xuân mùa, rộn rã đi. Người đi vội, kịp đến chùa/đền. Còn ta đây, vẫn nhớ người đôi ngả. Rộn rã biết “xuân nhau có một thì”. Thì, của nhớ và thương. Thân tình. Quyết thực hiện điều Thầy dặn rõ, mới hôm nào.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch.

Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá

Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá

https://thanhnientudo.files.wordpress.com/2015/11/img_7952.jpg 


Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá 
Hãy quay về tìm nó ở trong ta 
Chỉ cần tâm thanh thản sẽ nhận ra 
Vì hạnh phúc là điều đơn giản nhất 
  

Khi ăn uống biết ngon là hạnh phúc 

Khi tai còn nghe rõ những âm thanh 
Khi mắt còn thấy rõ áng mây lành 
Khi đi đứng nói làm đều tự tại 
  

Biết giúp ích nhân loại điều thiết thực 
Biết sẻ chia vật chất lẫn tinh thần 
Biết cảm thông mọi rắc rối thế nhân 
Biết trang trải bằng tình thương chân thật 
  

Người hạnh phúc nhất là người trầm tĩnh 

Trái tim người thật sự vị nhân sinh 
Mọi việc làm có chánh niệm phân minh 
Sự an tịnh tâm hồn luôn có mặt. 
  
( Tường Vân ) 
Suy ngẫm !

NƠI CHÂN TRỜI VÀ MẶT ĐẤT GIAO NHAU

 NƠI CHÂN TRỜI VÀ MẶT ĐẤT GIAO NHAU

Có hai nhà đạo sĩ kia, một hôm đọc thấy trong một cuốn sách khảo cổ cho biết: có một nơi chân trời và mặt đất giao nhau.  Hai nhà đạo sĩ bèn quyết định lên đường đi tìm cho được nơi chân trời và mặt đất giao nhau như trong sách đã cho biết.  Hai ông còn thề nguyền sẽ không trở về bao lâu chưa tìm được nơi trời đất giao nhau đó.  Bởi vì hai ông được biết ở nơi đó sẽ có một cánh cửa mở ra chân trời.  Khi cửa mở ra, người ta sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Sau một cuộc hành trình lâu dài và gian khổ, hai nhà đạo sĩ đã tìm được nơi chân trời và mặt đất giao nhau.  Hai ông cũng đã mở được cánh cửa trời…  Nhưng đến lúc bước vào cửa trời, hai ông hết sức bỡ ngỡ, vì hai ông gặp lại chính căn phòng quen thuộc của mình…  Lúc ấy hai ông mới hiểu: con đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, trong đời thường, nơi mình đang sống hằng ngày.

Anh chị em thân mến, đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, nơi “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã lên trời.”  Chúa lên trời không có nghĩa là Ngài ra đi.  Bởi vì ra đi là để lại sự vắng mặt.  Đàng này, Chúa không để chúng ta đơn độc, Ngài còn “ở lại với chúng ta mãi cho đến tận thế.”

Chúa lên trời là Chúa “khuất dạng”, không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa, để bắt đầu một sự hiện diện ẩn khuất, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được.  Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài: trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong anh chị em, trong những người nghèo khổ…  Ngài không chỉ hiện diện mà còn ở, còn cư ngụ.  Một chỗ ở có ý nghĩa sâu sắc hơn một sự hiện diện: Người ta có thể hiện diện trên đường phố, còn ở thì chỉ ở trong nhà mà thôi.  Thiên Chúa chỉ muốn có một chỗ ở, một ngôi nhà riêng của Ngài và ngôi nhà đó là chính chúng ta: “Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”, Ngài ở với chúng ta như ở trong ngôi nhà của Ngài.

Khi nói “Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” hay khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, chúng ta đừng tưởng Chúa ở xa cách chúng ta.  Ngài ở trên các tầng mây xanh.  Không!  Nếu đóng khung Chúa ở trên trời là chúng ta bắt Ngài phải di tản.  Chúng ta đánh mất Ngài!  Nhưng qua kiểu nói tượng hình của Kinh Thánh, chúng ta hãy hiểu việc Chúa lên trời là một cuộc thăng quan tiến chức, được thêm uy quyền, hiệu năng, và do đó được hiện diện một cách sâu đậm, thắm thiết hơn, chứ không phải một cuộc thăng thiên xét theo không gian, khiến Ngài xa lìa thế giới chúng ta.

Vì vậy, thiên sứ phải lay tỉnh các môn đệ đang mải mê nhìn lên trời: “Hỡi các ông, người Galilê, thôi đừng đứng đó mà nhìn lên trời nữa!”  Nhưng hãy đi mở mang Nước Chúa và sự hiện diện của Ngài bằng cách hoàn thành công trình đang dang dở của Ngài ở trần gian này: “Hãy đi đến với muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy.”  Đó, như thế Chúa lên trời là để khởi đầu sứ vụ của Giáo Hội: Các môn đệ phải ra đi làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu, không phải chỉ ở Giêrusalem và nơi những người Do Thái mà thôi, mà còn ở khắp nơi, cho đến tận cùng trái đất và nơi tất cả dân tộc.

Anh chị em thân mến, từ ngày Chúa lên trời, sứ mạng của chúng ta là phải đi vào trần gian, trở về với thực tế, nhìn kỹ vào cuộc sống của nhân loại, của mọi người anh em trên mặt đất này, để cùng với mọi người ra sức xây dựng Nước Trời đang thành hình ngay trong trần thế này, giữa thế giới hôm nay, tùy theo mức độ chính thế giới này có thể hiện được tình thương, có phản ảnh được tình yêu vô biên của Thiên Chúa hay không.  Đúng theo tinh thần của Tin Mừng: Nước Trời không phải chỉ là chuyện đời sau, mà còn phải là thực tế hiện tại: như hạt cải trong thửa vườn, như men trong bột, như muối cho đời: “Nước Trời ở giữa anh em.”

Như thế, thưa anh chị em, Thiên Chúa không đóng đô ở riêng một chỗ nào trong không gian, trên các tầng trời.  Ngài ở bất cứ nơi nào có tình yêu thương.  Nếu cứ luyến tiếc nhìn lui lại quá khứ, hãy mải mê ngước mắt lên trời, chúng ta sẽ quên rằng Thiên Chúa đang ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.  Thiên Chúa đang hiện diện bất cứ nơi nào có tình yêu thương nhau, đùm bọc nhau, chia sẻ cho nhau.  Và chỗ nào có một cộng đoàn, một xã hội như vậy, lớn hay nhỏ, đang thành hình thì từ chỗ đó, Nước Trời đang bắt đầu hiện diện.

Trái lại, chỗ nào người ta còn giành giựt nhau, còn áp bức, khai thác, bóc lột nhau, còn coi nhau như thù nghịch, thì khỏi cần tìm địa ngục ở đâu xa hơn nữa: địa ngục đang bắt đầu từ chỗ đó.  Thiên đàng hay địa ngục, chúng ta đang bắt đầu xây dựng hay đào sâu ngay từ trong cuộc sống chúng ta hôm nay.

Vậy, ngày Chúa lên trời, thay vì chỉ mải mê nhìn lên trời, thụ động trông chờ ngày Chúa trở lại, chúng ta hãy nhìn xuống mặt đất, hãy cùng nhau góp sức xây dựng con đường lên trời ngay từ mặt đất này; vì chính từ mặt đất này mà “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã về trời.”

Công đồng Vaticanô II đã nói: “Vẫn biết rằng quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở trần gian này và chúng ta chỉ đi qua để về quê hương trên trời, nhưng thực là sai lầm, nếu vì đó mà nghĩ rằng mình có thể xao lãng nghĩa vụ của mình ở trần gian” (Mv 43,1b).  Vì thế, trông đợi “Trời Mới Đất Mới” không những không làm giảm bớt mà còn tăng thêm nơi chúng ta ý chí xây dựng trời đất hiện tại này.  Bởi vì xây dựng trời đất hiện tại là xây dựng “Trời Mới Đất Mới” (MV 39,2a), là xây dựng quê hương vĩnh cửu của chúng ta vậy.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

****************************** ********

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó.  Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.  Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.  Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.  Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.  Amen!

Langthangchieutim gởi