Đảng và dân, ai tớ, ai thầy?


Cờ Nước và cờ Đảng trên đường phố Hà Nội.

Cờ Nước và cờ Đảng trên đường phố Hà Nội.

Đứa con hỏi cha rằng:

– Đất nước mình đã có chính phủ rồi, vì sao lại có thêm đảng, mà đảng lại có quyền hơn chính phủ? Quốc gia đã có một người đứng đầu là Chủ tịch nước rồi, vì sao lại có thêm một ông Tổng Bí thư đảng, mà Tổng Bí thư đảng lại quyền lực hơn ông Chủ tịch nước? Một tỉnh đã có ông Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân tỉnh rồi, vì sao trên ông Chủ tịch này có ông Bí thư Tỉnh ủy? Trong quân đội sao cấp chỉ huy không có quyền hành mà phải thống thuộc Đảng ủy, chỉ huy chỉ biết thi hành mệnh lệnh, nhận chỉ thị, kế hoạch để điều hành đơn vị thực hiện; Đảng ủy lãnh đạo về mọi mặt, người chỉ huy chỉ có nhiệm vụ thi hành?

Về quân đội, tức là các lực lượng võ trang, để nắm chắc và giữ quyền độc tôn lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội ngay từ những tổ chức vũ trang đầu tiên: Tự vệ đỏ (xích vệ) trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), các đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941), Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (1944), Du kích Ba Tơ và Việt Nam Giải Phóng Quân (1945).

Tư Lệnh không có quyền, tiến thoái, đánh hay không đánh là do đảng ủy đơn vị quyết định! Cấp Sư đoàn có đảng bộ Sư đoàn gồm 15 đến 17 người chỉ huy bởi một Chính ủy.

Như vậy, để điều hành một đất nước, thay vì tiền thuế dân nuôi một công chức, nay lại phải nuôi thêm một quan chức nữa, nghĩa là cơ chế nặng gấp đôi và tốn phí cũng tăng gấp đôi. Dân nuôi đảng để đảng chỉ huy dân.

Người cha trả lời theo Hồ Chí Minh trong sách vở rằng: “Đảng ta là đảng cầm quyền, đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.” (Đầy tớ thì ở nhà lầu- cha con ông chủ gầm cầu sống chui.)

Theo lời Hồ Chí Minh thì “sau hàng chục năm lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, chiến đấu vô cùng gian khổ, Đảng ta mới giành được chính quyền, mới trở thành Đảng cầm quyền.”

Theo lý luận ở đoạn trên thì “đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân,” như vậy đảng và dân là hai cá thể khác nhau, chiến đấu vô cùng gian khổ, nhân dân được chết, còn đảng thì cướp được chính quyền.

Tuy vậy, đảng Cộng sản có chủ trương lúc nào cũng đề cao dân, như “đảng là đầy tớ của nhân dân,” “nhân dân làm chủ,” “dễ trăm lần không dân cũng chịu- khó vạn lần dân liệu cũng xong!”

Sách vở ghi lại lời Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định dân là trên hết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”

Nhưng chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương chưa bao giờ do dân bầu ra. Chính phủ do Quốc Hội bầu ra, nhưng ứng cử viên Quốc hội là do “đảng cử dân bầu.” Tổng cộng danh sách chính thức ra tranh cử Đại biểu Quốc hội năm nay gồm 870 ứng viên, trong đó chỉ có 11 người tự ứng cử, không có người nào thuộc thành phần bất đồng chính kiến. Trong số 496 đại biểu được bầu, chỉ có 21 đại biểu là người ngoài đảng (chiếm 4,2%). Quốc hội khóa 14 có tỷ lệ đảng viên cao nhất từ trước đến nay.

18 ghế Ủy viên Bộ Chính trị và 200 ghế Ủy Uỷ Viên Trung ương đảng được chia cho các chức vụ quan trọng: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Trưởng và một số Phó Trưởng ban các Ban của đảng, Bộ trưởng các bộ và chức vụ tương đương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Thứ trưởng Bộ Công an…

Đến nay, Đảng bộ Khối Các cơ quan Trung ương có 63 đảng bộ trực thuộc, trong đó có 34 đảng bộ cấp trên cơ sở, 29 đảng bộ cơ sở, với gần 5.500 chi bộ và hơn 6,5 vạn đảng viên, chưa kể con số 4,5 triệu đảng viên hiện có tại Việt Nam.

Điều 4 của Hiến pháp là “giấy phép độc quyền” cho Đảng cầm quyền lãnh đạo, không có một đảng phái nào khác được tồn tại. Ở Việt Nam, đảng Cộng Sản đứng trên cả chính phủ và Quốc hội. Lập pháp, hành pháp, tư pháp là một. Quốc hội, chính phủ, tòa án đều là công cụ của đảng. Quốc hội làm theo chỉ thị của đảng, chính phủ thi hành triệt để chính sách của đảng, tòa án xét xử người theo bản án có sẵn của đảng.

Đảng là tất cả, cấu kết với nhau thành ra một băng đảng nên đảng mới có câu: “Còn đảng, còn mình!” Quốc gia, đất nước là thứ yếu, nên thà mất nước nhưng không chịu để mất đảng!

Nguyên tắc của Cộng Sản là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và dân làm chủ!” Đảng lãnh đạo tức là người chỉ đường, rẽ phải rẽ trái, đi lên, chạy xuống là do đảng. Dân chỉ đi theo như con ngựa thồ kéo xe, bị bịt mắt, chỉ cho nhìn ra đằng trước. Mọi sự, tất cả vật chất, tài sản, tiền bạc đều do nhà nước quản lý, mà nhà nước là con sinh ra của đảng, Thủ tướng, Bộ trưởng, công an, quân đội… cũng là tay chân do đảng sinh ra. Chỉ còn một cái bánh vẽ nghìn đời sót lại dứ vào mồm dân, đó là cái quyền làm chủ…trên khẩu hiệu, diễn văn.

Đảng là ông Thủ trưởng chỉ đạo mọi thứ, có quyền hành. Nhà nước là anh thủ kho ôm trong tay của cải. Còn thằng dân trên danh nghĩa là chủ nhân của đất nước, không có tiền mà cũng không có quyền, lại bị bóc lột tận cùng. Ngân sách nhà nước đảng nắm. Nợ nần nhà nước dân lo, đời này trả không hết thì đến đời sau. Nếu dân phản kháng là phá hoại, là do thế lực thù địch phá hoại “thành quả” của đảng, sẽ có công bộc của dân (tức là cán bộ, công an) lập tức có mặt để đàn áp, vì công bộc của dân do đảng đẻ ra, có còng, có roi, có nhà tù, có quyền giết hay cho phép người dân ‘tự tử’ ngay trong đồn trại của mình.

Đã có trường hợp công an bắt dân xuống xe, quỳ xuống giữa đường và đánh đập, cũng như tài xế taxi bị đòn, phải quỳ gối giữa đường lạy vái công an. Nhìn lại thời nô lệ Pháp thuộc cũng chưa bao giờ có cảnh tượng như thế.

Bản báo cáo của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam ghi nhận sự mâu thuẫn giữa Hiến pháp CSVN và sinh hoạt chính trị ở trong nước: “Hiến pháp nhà nước Việt Nam sau khi được sửa đổi, bổ sung có qui định rằng người dân có quyền tham gia quản lý nhà nước qua bầu cử và ứng cử, tự do ngôn luận, hội họp, lập hội và biểu tình. Tuy nhiên, cũng chính Điều 4 của Hiến Pháp lại khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của đảng CSVN trong mọi sinh hoạt của đất nước.”

Chính ở sự mâu thuẫn này và ý đồ duy trì độc quyền chính trị bằng mọi giá mà tất cả những quy định về quyền chính trị được công nhận nơi Điều 20, Điều 21 trong Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Điều 21, Điều 22 trong Công ước Quốc tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị mà Việt Nam cam kết tôn trọng đã bị triệt tiêu.

Xin hãy xem bảng vận động công dân đóng thuế treo đầy đường: “Nộp thuế để xây dựng và bảo vệ đảng!” À ra thế! Tóm lại đảng lãnh đạo, và đảng phải bám vào dân mới có cơm ăn. Dân hì hục đóng thuế để “vỗ béo” đảng. Tình đảng với dân như cá với nước. Cá không có nước thì cá chết. Nước không có cá, thì nước…khoẻ re!

Xin cầu nguyện cho một ngày Việt Nam không có đảng, như khẩu hiệu của dân oan biểu tình: “đảng Cộng Sản, chết đi!”

Phép bỏ dấu hỏi – ngã trong Tiếng Việt

From facebook:  Phan Thị Hồng added 2 new photos — with Hoang Le Thanh and 7 others.

Phép bỏ dấu hỏi – ngã trong Tiếng Việt

Nguyên tắc chung về thinh

Tiếng Việt gồm hai loại, tuy liên hệ nhau nhưng vẫn giữ đặc tính riêng rẽ:

– Tiếng HÁN VIỆT là chữ Hán đọc theo giọng Việt.
– Tiếng NÔM là tiếng do người Việt-nam tạo nên với những tiếng mượn của nước ngoài nhưng đã Việt-hoá.

1 TIẾNG HÁN-VIỆT

Tiếng Hán-Việt là tiếng mượn của tiếng Hán nhưng đọc theo giọng của người Việt. Phần lớn tiếng Hán-Việt là những tiếng gồm hai tiếng trở lên. Ví dụ: quốc gia, kinh tế, quân sự, chánh trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, dân chủ, công ty, v.v. Trong tiếng Việt hiện nay, khoảng 60% là tiếng Hán-Việt. Chúng ta xử dụng khá nhiều tiếng Hán-Việt trong mọi giao tiếp và nói năng hằng ngày.

Ví dụ: “Hôm qua nghiệp đoàn công nhân tổ chức hội nghị thảo luận vấn đề gia tăng niên liễm”. Chỉ có hai chữ thuần Việt là “hôm qua”, còn các chữ khác đều là tiếng Hán-Việt.

Tiếng Hán-Việt có quy luật riêng về dấu Hỏi Ngã. Vì vậy, nếu xử dụng được Luật Hỏi Ngã trong tiếng Hán-Việt thì chúng ta đã giải quyết được hơn 60% công việc về dấu Hỏi Ngã.

Tiếng Hán-Việt có hai đặc tính:

1. Về Chánh tả: giữa âm và giọng có sự liên quan chặt chẽ.

– Các tiếng Hán-Việt khởi đầu bằng một Nguyên-âm, chỉ có thể có dấu Sắc, dấu Hỏi, hoặc Không dấu.

– Các tiếng Hán-Việt khởi đầu bằng các Phụ-âm: L, M, N, NG, NH, D, V, chỉ có thể có dấu Ngã hay Nặng.

2. Về vị trí của các tiếng dùng chung:

Tiếng Chỉ-định luôn luôn đứng trước tiếng được chỉ-định, gọi là Ngữ-pháp đặt ngược

Ví dụ:
Bạch tượng. Bạch chỉ định, làm cho rõ nghĩa tiếng tượng.
Ký sinh trùng. Ký chỉ định sinh, ký sinh chỉ định trùng.

CÁCH NHẬN BIẾT TIẾNG HÁN-VIỆT

1. Các tiếng Hán-Việt thường không tách ra dùng riêng một mình, mà phải dùng trọn từ.

Chẳng hạn chỉ có thể nói làm thương mãi chớ không thể nói làm thương, làm mãi, hoặc nói làm chánh trị chớ không thể nói làm chánh, làm trị v. v…

Vậy mỗi khi gặp một từ ghép, ta thử tách các tiếng cấu tạo từ ấy ra riêng rẽ, nếu chúng không dùng độc lập được, thì đó là một tiếng Hán-Việt.

2. Về nghĩa của một tiếng Hán-Việt.

Các tiếng hợp lại để làm thành một từ Hán-Việt đều có nghĩa, nhưng nghĩa của chúng rất mơ hồ đối với những người không có một trình độ Hán học nhất định. Ví dụ như nếu đem xét riêng biệt các chữ: dĩ, nhiên, hành, chánh, lãnh, tụ, thì chúng đều có nghĩa cả, nhưng hỏi nghĩa thế nào thì không dễ trả lời.

Cho nên khi gặp một từ ghép, nếu cả hai tiếng đều mơ hồ về nghĩa ví dụ như: cảnh giác, mãnh liệt, dũng cảm, thì đó là từ Hán-Việt.

Còn các Tiếng-Nôm-đôi và Tiếng-Nôm-Lấp-láy thì đều có khả năng dùng riêng ra từng chữ và nghĩa của chữ dùng riêng đều rõ và dễ nhận biết. Ví dụ: xe lửa, máy bay, tàu ngầm, xe đạp.

Do đó, dựa vào cách phân biệt như trên, chúng ta dễ dàng biết được tiếng nào là tiếng Hán-Việt và tiếng nào là Tiếng Nôm.

a) Tóm lại: Tất cả tiếng HÁN-VIỆT khởi đầu bằng các nguyên-âm: A, Â, Y, O, Ô, U, Ư, đều viết DẤU HỎI vì các nguyên-âm của Tiếng Hán-Việt thuộc Thanh-âm (Bổng).

Ví dụ: Ải quan, Ảnh hưởng, Ẩm thực, Ẩn dật, Ỷ lại, Oải nhân, Ổn thỏa, Ủy hội, Ưởng.

Phụ chú: Sách của G.s. Lê-ngọc-Trụ có ghi Ê và I vào nhóm nguyên âm nầy. Nhưng vì chữ HÁN-VIỆT không có chữ nào khởi đầu bằng Ể, Ễ hoặc Ỉ, Ĩ nên tôi không ghi hai nguyên âm nầy vào, cho người học đỡ mệt trí [Đ-s-T].

b) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu bằng phụ âm CH, GI, KH, PH, TH, S, X, đều viết DẤU HỎI vì các phụ-âm nầy cũng thuộc Thanh-âm (Bổng).

Ví dụ:
– CHẩn đoán, CHỉ huy, CHỉnh tề, CHiểu chi, CHủ tọa, CHưởng quản.
– GIải phẫu, GIảm thiểu, GIản tiện, GIảng đường, GIảo quyệt, học GIả.
– KHả dĩ, KHải hoàn, KHảo thí, KHẩu hiệu, KHổng giáo, KHủng hoảng
– PHản bội, PHẩm cách, PHỉ báng, PHổ thông, PHủ nhận. (trừ PHẫn nộ)
– THải hồi, THảm thương, THản nhiên, THảo mộc, (trừ Mâu THuẫn, Phù THũng)
– Sản khoa, Sảnh đường, Sỉ nhục, Siểm nịnh, Sở dĩ, Sủng hạnh, (trừ Sĩ = học trò)
– Xả thân, Xảo trá, công Xưởng, (trừ Xã hội, Xã trưởng, Hợp tác Xã)

Để khỏi bỏ sai dấu, xin độc giả đừng lẫn lộn tiếng Hán Việt với những tiếng Nôm sau đây:

CHĨNH=hủ bằng đất; GIÃ (giã gạo, từ giã); GIÃI (giãi bày); GIÃN (co giãn, giãn ra= tăng độ dài: dây cao su bị giãn); PHŨ (phũ phàng); THÃI (thừa thãi); SŨNG (ướt sũng)

c) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu bằng Bảy phụ âm L, M, N, NG, NH, D, V, đều thuộc Trọc-âm, cho nên viết DẤU NGÃ (trừ một ngoại lệ duy nhất là Ngải cứu).

Ví dụ:
– Lãng mạn, Lãnh đạm, Lão ấu, Lẫm liệt, Lễ nghĩa, Lũng đoạn, thành Lũy, Lãng phí.
– Mã não, Mãi mại, Mãn nguyện, Mỹ Mãn, Mãnh hổ, Mẫn tiệp, Mẫu nghi, Mỹ nữ.
– Não tủy, Noãn sào, Nỗ lực, phụ Nữ.
– NGẫu nhiên, NGũ cốc, đội NGũ, ngôn NGữ.
– NGHĩa khí, NGHiễm nhiên, NGHĩa trang.
– NHã ý, NHãn khoa, NHẫn nại, NHĩ mục, NHiễm bệnh, NHũ mẫu, NHãn hiệu.
– Dẫn lực, Dĩ nhiên, Diễm lệ, Diễn đàn, Dũng cảm, Dưỡng dục, Dĩ vãng, Dã man.
– Vãn bối, Vãng lai, Vĩ đại, Viễn thị, Vĩnh viễn, Võ trang, Vũ trụ, Vĩ tuyến.

Xin đừng lộn tiếng Hán-Việt với những tiếng Nôm sau đây:

– LẢ (lả lơi, ẻo lả); LẢNG (lảng vảng); LẢNH (lảnh lót); LẢO (lảo đảo) LẨM (lẩm rẩm); LỂ (lể ốc, lể gai); LIỂM (cờ bạc đặt tiền ở giữa hai ô, ra ô nào mình cũng trúng); LƯỞNG (lưởng thưởng);
– MẢ (mồ mả); MẢI (mải miết); MẢNH (mảnh mai); MẨN (mê mẩn); MẨU (mẩu chuyện);
– NẢO (viết thử trước); NỔ (nổ bùng);
– NGẢ (ngả quỵ); NGỦ (đi ngủ);
– NHẢ (nhả mồi, nhả tơ) NHẢN (nhan nhản); NHỈ (vui nhỉ!); NHỦ (khuyên nhủ);
– DẨN (dớ dẩn) DỈ (dỉ hơi);
– VẢNG (lảng vảng); VỈ (vỉ lò, vỉ bánh); VIỂN (viển vông) VỎ (vỏ ốc, vỏ sò).

d) Mấy phụ-âm khởi-đầu khác, gồm có B, C, Đ, H, K, QU, và T, vì đều có ở cả hai bậc Thanh và Trọc, khó phân biệt, nên phải tra tự điển; nhưng cũng theo luật “Thanh viết dấu HỎI, Trọc viết dấu NGÔ.

Vì tiếng giọng Ngã ít hơn tiếng giọng Hỏi nên chúng tôi biên ra dưới đây các tiếng Hán-Việt giọng Ngã của mấy phụ-âm khởi đầu vừa nói trên, để giúp bạn đọc:

Bãi : thôi, nghỉ (bãi công, bãi khóa, bãi thị)
Bão : ẵm bồng (hoài bão, bão hòa, bão mãn)
Bĩ : xấu (bĩ cực thái lai, bĩ vận)
Cưỡng : gắng ép (cưỡng bách, cưỡng chế)
Cữu : cậu vua (quốc cữu), hòm (linh cữu)
Đãi : thết, xử với (đãi bôi, bạc đãi, biệt đãi, khoản đãi, trọng đãi, ưu đãi, đãi lịnh)
Đãng : rộng, phóng túng (đãng tử, du đãng)
Đễ : kính nhường (hiếu đễ)
Điễn : điện (điễn khí, điễn học, điễn lực)
Đỗ : họ Đỗ, chim đỗ quyên, cây đỗ trọng
Hãi : kinh sợ (kinh hãi, hãi hùng, sợ hãi)
Hãm : xông phá (hãm địch, hãm trận)
Hãn : mồ hôi (xuất hãn, phát hãn, liễm hãn)
Hãnh : may mắn (hãnh diện, kiêu hãnh)
Hoãn : chậm (trì hoãn, hoãn đãi, hoãn binh)
Hỗ : lẫn nhau (hỗ trợ, hỗ tương)
Hỗn : lộn xộn (hỗn chiến, hỗn loạn, hỗn hợp)
Huyễn : hoa mắt (huyễn hoặc, huyễn mục)
Hữu : có (hữu cơ, hữu hạn, hữu dụng, hữu lý)
Kỹ : tài năng (kỹ sư, kỹ thuật, kỹ nghệ, kỹ xảo)
Quẫn : khốn đốn (quẫn bách, cùng quẫn)
Quỹ : tủ cất tiền (thủ quỹ, công quỹ, ký quỹ)
Tễ : thuốc huờn (dược tễ, điều tễ, thuốc tễ)
Tiễn : đưa (tiễn biệt, tiễn hành, tiễn khách)
Tiễu : dẹp trừ (tiễu trừ, tuần tiễu, tiễu phỉ)
Tĩnh : im lặng (tĩnh dưỡng, tĩnh mịch)
Tuẫn : liều chết (tuẫn tiết, tuẫn nạn)
Trãi : Nguyễn-Trãi
Trẫm : tiếng vua tự xưng
Trĩ : trẻ (ấu trĩ), bịnh trĩ (trĩ nội, trĩ ngoại)
Trữ : chứa (lưu trữ, oa trữ, tàng trữ, tích trữ)
CÁCH NHỚ LUẬT HỎI NGÃ CHO TIẾNG HÁN-VIỆT

Xem vậy Luật viết dấu Hỏi Ngã cho tiếng Hán-Việt khá phức tạp. Tuy nhiên ta có thể dùng mẹo để nhớ một cách dễ dàng.

a) Chỉ cần nhớ những trường hợp viết dấu Ngã trong tiếng Hán-Việt, tức là nhớ BẢY phụ âm đầu viết dấu Ngã và khoảng 30 trường hợp ngoại lệ phải viết dấu Ngã.

Các trường hợp viết dấu hỏi không cần nhớ vì các tiếng Hán-Việt có âm đầu khác hơn Bảy phụ âm nói trên đều viết dấu hỏi.

b) Để nhớ Bảy Phụ-âm-đầu viết dấu Ngã, các bạn học thuộc lòng câu sau đây:

Mình Nên NHớ Vũ Là Dấu NGã
(M N Nh V L D Ng)

Như vậy là bạn đã nắm được luật viết dấu Hỏi Ngã của tiếng Hán-Việt. Còn các ngoại lệ thì xin chịu khó học thuộc lòng.

2 TIẾNG NÔM

Tất cả những tiếng không phải là tiếng Hán-Việt, được gọi chung là Tiếng Nôm.

PHÂN BIỆT TIẾNG NÔM VÀ TIẾNG HÁN-VIỆT

1. Về ý nghĩa. Tiếng Nôm là những tiếng nói sao hiểu vậy. Trái lại tiếng Hán-Việt thường có thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn (tiếng thông thường đó gọi là tiếng Nôm).

Ví dụ:

– tiếng Nôm: tập vở, tờ giấy (nói sao hiểu vậy)
– tiếng Hán-Việt: bệnh viện (nhà thương), phi cơ (máy bay)

Tuy nhiên cũng có một số tiếng Hán-Việt không thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn. Ví dụ: kết quả, hạnh phúc, thành công v.v…

Ngoài ra, nhiều tiếng Hán-Việt, nhất là những tiếng đơn được dùng làm tiếng Nôm (gọi là Tiếng Nôm gốc Hán Việt) vẫn giữ nguyên giọng đọc cũ. Ví dụ: danh, pháp, hải, lao, lãnh v. v…

2. Nhờ quan sát Ngữ Pháp ta sẽ phân biệt tiếng Hán-Việt và tiếng Nôm rất dễ dàng.

Ví dụ:

– LẠC CẢNH: lạc (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng cảnh (danh từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, tức là thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy LẠC là tiếng Hán-Việt.

– TIỂU QUỐC: tiểu (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng quốc (danh từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy TIỂU là tiếng Hán-Việt.

– GẠCH TIỂU: tiểu làm rõ nghĩa tiếng gạch. Hình dung từ tiểu đứng sau danh từ gạch, tức thuộc Ngữ-pháp đặt xuôi.

Vậy tiểu nầy là TIẾNG NÔM GỐC HÁN VIỆT.

3. Trong TIẾNG ĐÔI thì:

– tiếng Nôm liên kết với tiếng Nôm.
– tiếng Hán-Việt liên kết với tiếng Hán-Việt.

Ví dụ:

– LỖI LẦM: khi ta biết lỗi là tiếng Nôm, thì ta có thể quả quyết lầm cũng là tiếng Nôm.
– TƯƠI TỐT: biết chắc tốt là tiếng Nôm, ta có thể quả quyết rằng tươi cũng là tiếng Nôm.
– HỌA SĨ: biết chắc sĩ là tiếng Hán-Việt, ta có thể quả quyết rằng họa là tiếng Hán-Việt.
– LUẬT SƯ: khi biết sư là tiếng Hán-Việt thì ta có thể quả quyết luật cũng là tiếng Hán-Việt.

Cũng có một số tiếng-đôi hợp thành bởi một tiếng Nôm và một tiếng Hán-Việt. Tuy nhiên đó là trường hợp đặc biệt của những tiếng Hán-Việt đã được dùng đơn độc làm tiếng Nôm. Chỉ có những tiếng Hán-Việt ấy mới có thể liên kết với tiếng Nôm để tạo thành tiếng-ghép. Ví dụ:

– máu huyết: huyết là tiếng Hán-Việt có nghĩa “máu”. Tiếng huyết cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: cháo huyết, huyết heo.

– lý lẽ: lý là tiếng Hán-Việt có nghĩa “lẽ”, nhưng cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: lời nói có lý, không có lý nào.

– ưa thích: thích là tiếng Hán-Việt được dùng đơn độc làm tiếng Nôm.

TIẾNG NÔM GỐC HÁN-VIỆT

Dấu giọng của những Tiếng-Nôm Chuyển gốc từ tiếng Hán-Việt, phải theo dấu giọng của tiếng gốc, nghĩa là:

a) khi tiếng HÁN GỐC là một tiếng Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi, thì Tiếng Nôm có Gốc Hán-Việt viết dấu Hỏi. (KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI)

hô > thở; tu > sửa; giá > gả (con); giả > kẻ

b) khi tiếng HÁN GỐC là tiếng dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì Tiếng-Nôm có Gốc Hán-Việt viết dấu Ngã. (HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ)

hàng > hãng (buôn); kỵ > cỡi; dĩ > đã

TRỪ ngoại lệ:

lý > lẽ; miếu > miễu; nỗ > (cung) nỏ; ngưỡng > ngẩng (ngửng, ngửa), nhĩ > nhử (mồi); dụ > rủ (rê)…

TIẾNG NÔM KHÔNG GỐC HÁN VIỆT

Những Tiếng-nôm không chuyển gốc từ tiếng Hán-Việt thì gọi là TIẾNG-NÔM-LÕI. Có hai loại Nôm-Lõi: Tiếng-Đơn và Tiếng-Đôi.

A. TIẾNG NÔM ĐƠN

Những Tiếng Nôm Đơn, trại ra từ một tiếng khác (không phải là tiếng HÁN), đều tùy tiếng chánh mà viết Hỏi hay Ngã theo luật:

KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ

Không dấu chuyển ra Hỏi và ngược lại như:

cản/can; chăng/chẳng; chửa/chưa; không/khổng quẳng/quăng; nhủi/chui;

Sắc chuyển ra Hỏi và ngược lại

búa/bửa; thế/thể; hả/há; lén/lẻn; rải/rưới;

Hỏi chuyển ra Hỏi

bảo/biểu; cổi/cởi; tỏa/tủa; xẻ/chẻ; nhỉ/rỉ;
tủi lòng/mủi lòng; rủ/xủ; quên lảng/quên lửng;

Huyền chuyển ra Ngã và ngược lại như:

cùng/cũng; dầu/dẫu; đã/đà; cỗi/còi; lãi/lời; bõ/bù; giũa/giồi; mõm/mồm; ngỡ/ngờ;

Nặng chuyển ra Ngã và ngược lại như:

cội/cỗi; đậu/đỗ; chõi/chọi; giẵm/giậm; trĩu/trịu; chậm/chẫm (chẫm rãi);

Ngã chuyển ra Ngã:

đĩa/dĩa; hẵng/hãy; khẽ/sẽ; nỗi/đỗi; ngẫm/gẫm; dõi/rõi; giễu/riễu; ruỗng/rỗng

TRỪ ngoại lệ:

gõ/khỏ; hõm/(sâu) hóm; kẻ/gã; rải/vãi; mặn/mẳn; (thuộc) lảu/làu; (mệt) lử/(đói) luỗi; phồng/phổng; ngõ/ngả; quãng/khoảng; rõ/tỏ; trội/trổi; lõm/lóm.

B. TIẾNG NÔM ĐÔI

Bởi tánh cách ĐỘC VẬN (mono-syllabic) ngắn ngủn, nên tiếng Việt thường hợp thành Tiếng-Đôi để cho dịu giọng.

TIẾNG NÔM ĐÔI khác hơn TIẾNG GHÉP (là tiếng HÁN-VIỆT do hai hoặc ba tiếng có nghĩa riêng ghép lại để chỉ một ý niệm mới).

TIẾNG NÔM ĐÔI là Tiếng-nôm do hai hoặc nhiều tiếng hiệp lại để cho rõ ý, hoặc dịu giọng.

* Có loại Tiếng Nôm Đôi do Hai tiếng đều có nghĩa hợp lại mà thành.

* Có loại Tiếng Nôm Đôi khác, gọi là Tiếng Đôi LẤP-LÁY, do một tiếng có nghĩa hợp với một tiếng không nghĩa; hoặc do hai tiếng không nghĩa hợp lại nhưng giọng nghe hài hoà, thuận tai, dễ đọc.

Tiếng Nôm Đôi mà CẢ HAI TIẾNG ĐỀU CÓ NGHĨA THÌ KHÔNG THEO LUẬT TRẦM BỔNG mà mỗi tiếng giữ chánh tả riêng của nó về Âm về Vần (Vận) cũng như về Giọng (Thinh).

Ví dụ: mồ mả; cú rũ; rỗi rảnh; bàn ghế; bồng ẵm; cổi gỡ; chống chõi; đầy đủ; lỡ dở; mỏi mệt; ủ rũ; sàng sảy; sâu xa; trồng tỉa; siêng năng; tìm kiếm; kiêng cữ; tỏ rõ; lú lẫn…

Tiếng Nôm Đôi còn chia thành hai loại: Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp và Tiếng Nôm Đôi Độc lập.

Tiếng Nôm Đôi Độc Lập là tiếng đôi mà hai tiếng đều có nghĩa và bình đẳng: thôn xóm, tốt tươi.
Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp là tiếng đôi mà nghĩa của hai tiếng phụ thuộc lẫn nhau để làm cho rõ thêm nghĩa: cà chua, máy cày, xe đạp.

C. TIẾNG NÔM ĐÔI LẤP LÁY

Tiếng Nôm Đôi Lấp Láy là những Tiếng-đôi gồm hai tiếng có liên hệ với nhau về âm thanh mà trong đó phải có ít nhất là một tiếng không có nghĩa.

Ví dụ: đẹp đẽ, mới mẻ, lạnh lùng, vội vàng, v. v… những tiếng đẽ, mẻ, lùng, vàng, đều không có nghĩa. Sự phân biệt tiếng có nghĩa và tiếng không có nghĩa giúp ta nhận ra Tiếng-đôi Lấp-láy dễ dàng.

1. Các mối liên hệ về âm trong Tiếng Đôi Lấp Láy:

a) Liên hệ ở phụ âm đầu. Có những Tiếng Đôi chỉ láy lại phụ-âm đầu: (m-m) mát mẻ, (đ-đ) đồn đãi, (l-l) lểnh lảng, (n-n) nói năng.

b) Liên hệ về vần. Có những Tiếng Đôi chỉ có phần vần được láy lại: lai rai, lải nhải, lạng chạng, lằm bằm, lẫm đẫm, lễ mễ, lơ thơ.

c) Liên hệ cả phụ-âm đầu lẫn vần. Có những Tiếng Đôi láy lại cả phụ-âm đầu lẫn vần như: cào cào, ba ba, bươm bướm, rầm rầm, châu chấu, khinh khỉnh.

Do đó, khi nói về Tiếng Đôi Lấp Láy ta cần chú ý đến sự liên hệ của phụ-âm đầu và vần.

2. Liên hệ về giọng điệu.

a) Cùng một giọng điệu với nhau.

lui cui, lung tung (không dấu)
chí chóe, chíu chít (dấu sắc)
lỏng chỏng, thỉnh thoảng (dấu hỏi)
lễ mễ, dễ dãi (dấu ngã)

b) Cùng một nhóm giọng với nhau.

Tiếng Việt được chia thành hai nhóm giọng:

Nhóm giọng cao gọi là giọng Bổng
Nhóm giọng thấp gọi là giọng Trầm.

Nhóm cao (Bổng), gồm có các giọng: Ngang (còn gọi là Không), Sắc, và Hỏi.

Nhóm thấp (Trầm), gồm có các giọng: Huyền, Nặng, và Ngã.

Trong Tiếng Đôi Lấp Láy, giọng của hai tiếng bao giờ cũng thuộc cùng một nhóm. Nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng cao thì giọng của tiếng kia cũng thuộc nhóm giọng cao.

Ví dụ: vui vẻ, mới mẻ, lửng lơ, nho nhỏ…

Ngược lại nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng thấp thì tiếng kia cũng có giọng thấp, ví dụ: mạnh mẽ, đẹp đẽ, ngại ngùng, lạnh lùng…

Qui luật về giọng-điệu giữa các tiếng trong Tiếng Đôi Lấp Láy gọi là Qui luật Thuận-thinh-âm (cũng còn gọi là Luật Trầm Bổng).

Tóm lại, TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY bỏ dấu theo luật Trầm Bổng:

KHÔNG, SẮC, HỎI đi với HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ đi với NGÃ

Tiếng đầu Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi thì tiếng sau phải bỏ dấu HỎI.

Tiếng đầu dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì tiếng sau phải bỏ dấu NGÃ.

Thí dụ:

BỔNG

Không dấu đi chung với HỎI và ngược lại: nghỉ ngơi, bảnh bao, lẻ loi, hăm hở, thong thả, sởn sơ, viển vông, run rẩy, vẻ vang, vui vẻ.

Sắc đi chung với HỎI và ngược lại: mải miết, nhắc nhở, thẳng thớm, dí dỏm, bóng bảy, chải chuốt, khỏe khoắn, nhảm nhí, mắt mỏ.

Hỏi đi chung với HỎI: hể hả, lỏng lẻo, nhỏng nhẻo, thỏ thẻ, bải hoải, mỏng mảnh, thỉnh thoảng, tỉ mỉ, xửng vửng.

TRẦM:

Huyền đi chung với NGÃ và ngược lại: vỗ về, rầu rĩ, tầm tã, não nề, đãi đằng, nòng nã, sẵn sàng, kỹ càng, chẵn chòi, lời lãi…

Nặng đi chung với NGÃ và ngược lại: gỡ gạc, vội vã, dữ dội, cặn kẽ, não nuột, lạt lẽo, cãi cọ, lũ lượt, đẹp đẽ, chập chững, gãy gọn…

Ngã đi chung với NGÃ: dễ dãi, lỗ lã, cãi lẫy, mãi mãi, kỹ lưỡng,…

Như vậy, theo luật nầy thì khi gặp Tiếng Đôi Lấp Láy như: bẽ bàng, rõ ràng, vững vàng, chúng ta yên tâm viết bẽ, rõ, vững với dấu ngã vì các chữ bàng, ràng, vàng, đã có dấu huyền.

Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy như cãi cọ, chập chững, dọ dẫm, đẹp đẽ, chúng ta viết cãi, chững, dẫm, đẽ, với dấu ngã vì các chữ cọ, chập, dọ, đẹp, là những chữ đã viết dấu nặng.

Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy như lỗ lã, dễ dãi vì ta đã biết dễ và lỗ viết dấu ngã (do suy biết từ lỗ lời, dễ dàng) thì theo luật nầy ta biết chắc lã và dễ phải viết dấu ngã.

Khi một chữ của Tiếng Đôi Lấp Láy viết dấu sắc, không dấu, hoặc dấu hỏi, thì chữ kia phải viết dấu hỏi chớ không thể viết dấu ngã.

Ví dụ:

– cứng cỏi, trống trải, trắng trẻo vì đã có các chữ cứng, trống, trắng viết dấu sắc nên các chữ cỏi, trải, trẻo phải viết dấu hỏi.

– trong trẻo, bươn chải, trả treo vì các chữ trong, bươn, treo viết không dấu nên các chữ trẻo, chải, trả phải viết dấu hỏi.

– các Tiếng Đôi Lấp Láy như lẩm bẩm, lủng củng, bỏm bẻm cũng vậy, vì các chữ lẩm, lủng, bỏm, mang dấu hỏi, thì chữ đứng sau phải viết dấu hỏi.

CÁCH NHẬN RA TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY

Khi hai tiếng của một từ mà hai phụ âm đầu của hai tiếng ấy giống nhau, hoặc cả âm đầu lẫn vần đều giống nhau (cùng giọng Bổng cả, hoặc cùng giọng Trầm cả), thì đó là Tiếng Đôi Lấp Láy.

DỰA VÀO NGHĨA: Một Tiếng Đôi mà cả hai tiếng đều có nghĩa, thì Tiếng Đôi đó KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy.

ĐẢO NGƯỢC TRẬT TỰ: Khi đảo ngược trật tự của một tiếng-đôi mà tiếng-đôi đó vẫn còn y nghĩa như khi chưa bị đảo trật tự, thì tiếng đó là tiếng ghép chớ KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy.

Ví dụ: giữ gìn, lả lơi, lơ lửng, hờ hững, là tiếng ghép chớ không phải là Tiếng Đôi Lấp Láy, vì khi đảo ngược, nó vẫn giữ nghĩa như trước. (gìn giữ, lơi lả, lửng lơ, hững hờ).

TIẾNG ĐÔI BỎ BỚT MỘT DẤU GIỌNG: Có nhiều Tiếng-Đôi vì muốn cho êm tai nên

1) phải bỏ bớt một dấu giọng. Mấy tiếng mất dấu giọng đó là tiếng chánh lập lại, chớ không phải tiếng đệm, nên những tiếng đôi đó không bỏ dấu theo luật Trầm Bổng. Thí dụ: khe khẽ, là khẽ khẽ; dê dễ là dễ dễ; đăng đẵng là đằng đẵng.

2) Có nhiều Tiếng-Đôi bị đổi giọng, như hẳn hoi trở thành hẳn hòi; kỹ càng trở thành kỹ cang.

Ngoài ra, NHỮNG TIẾNG NÓI TẮT do ghép với tiếng ẤY, đều viết dấu Hỏi. (Nói Tắt là nói thúc hai chữ thành một, theo lối giản ước). Ví dụ như:

anh + ấy = ảnh; bà + ấy = bả; cậu + ấy = cẩu; chị + ấy = chỉ; hôm + ấy = hổm; mợ + ấy = mở; năm + ấy = nẳm; thằng cha + ấy = thằng chả; con mẹ ấy = con mẻ

NHỮNG NGOẠI LỆ CỦA TIẾNG-ĐÔI (Không còn theo luật Trầm Bổng)

bền bỉ, chàng hảng, chèo bẻo, dòm dỏ, ẻo ẹo, giãy nảy, hoài hủy, hẳn hòi, ĩnh ương, khe khẽ, lảng xẹt, lý lẽ, luồn lỏi, lẳng lặng, mình mẩy, se sẽ, mủ mĩ, niềm nở, ngoan ngoãn, nhểu nhão, phỉnh phờ, rẻ rề, rỗng tuếch, sành sỏi, sừng sỏ, sửng sờ, thỏng thừa, thung lũng, trễ nải, trọi lỏi, trơ trẽn, ve vãn, vỏn vẹn, xảnh xẹ.

MUỐN BIẾT PHẢI BỎ DẤU GÌ?

1) Cách lẹ nhất là thử tìm một Tiếng Đôi khác, có cái chữ mình đang phân vân về dấu hỏi hay ngã.

Ví dụ chữ dễ dãi: Chỉ cần biết được một trong hai chữ dễ hoặc dãi mang dấu gì thì biết được luôn cả dấu của chữ kia. Thử chọn chữ dễ trước. Với chữ dễ ta có Tiếng đôi Lấp-láy dễ dàng. Với dễ dàng ta biết chữ dễ phải viết dấu ngã vì chữ dàng có dấu huyền. Khi đã biết chữ dễ viết dấu ngã thì ta xác định được là chữ dãi phải viết dấu ngã do luật “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ

Đối với các chữ mang dấu Hỏi cũng làm như vậy.

2) Khi không tìm ra một Tiếng-đôi Lấp-láy trong đó có chữ mà ta cần biết là mang dấu gì thì ta nên thử đưa nó vào loại chữ-láy bốn tiếng.

Ví dụ chữ đủng đỉnh: Ta có đủng đa đủng đỉnh, về lủng lẳng ta có lủng la lủng lẳng. Khi ta thấy đủng đa, lủng la, thì ta có thể khẳng định đủng và lủng phải viết dấu hỏi theo luật “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”. Khi đã biết đủng và lủng phải viết dấu hỏi rồi thì ta biết được đỉnh và lẳng củng phải viết dấu hỏi theo luật Trầm Bổng “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”.

3) Đối với Tiếng-Nôm-đơn, và Chữ-ghép.

Khi gặp tiếng Nôm-đơn hoặc một tiếng trong các Chữ-ghép mà ta phân vân về dấu hỏi ngã, thì ta tìm một Tiếng-đôi Lấp-láy có tiếng đó, rồi áp dụng luật đễ tìm dấu hỏi hay ngã.

Ví dụ 1: ta gặp các chữ: nghỉ, nghĩ, dở, dễ, khoẻ… Ta tìm xem các chữ nầy viết hỏi hay ngã. Ta xem tiếng Lấp-láy phải viết dấu gì?

nghỉ: nghỉ ngơi –> dấu hỏi
nghĩ: nghĩ ngợi –> dấu ngã
dở: dở dang –> dấu hỏi
dễ: dễ dàng –> dấu ngã
khoẻ: khoẻ khoắn –> dấu hỏi

Ví dụ 2: như gặp chữ sửa chữa, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta tách chữ đó ra để mà tìm.

Ta sẽ có Tiếng-đôi sửa sang. Khi đã có sửa sang thì ta yên tâm viết sửa với dấu hỏi vì “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”.

Đến chữ chữa thì ta biết chữa là Tiếng-nôm có Gốc-Hán-việt là chữ Trị, vậy phải viết dấu ngã, vì “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ.

Ví dụ 3: gặp chữ ủ rũ, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta cũng tách chữ đó ra, rồi tìm cách đưa thành một Tiếng-đôi Lấp-láy.

Ta sẽ có ủ ê. Khi đã có ủ ê thì ta yên tâm viết ủ với dấu hỏi, vì ê là chữ không dấu, theo luật “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”

Đến chữ rũ thì ta có Tiếng-đôi Lấp-láy rũ rượi nên ta biết là rũ phải viết dấu ngã vì rượi là chữ có dấu nặng, theo luật “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ

CHÚ Ý: Khi tạo Tiếng-đôi Lấp-láy để dựa vào đó mà xác định dấu hỏi ngã, ta cần chọn Tiếng-đôi Lấp-láy sao cho nghĩa của Tiếng-đôi đó, khi tách ra một mình, phải cùng nghĩa với chữ mình đang muốn tìm dấu.

Thí dụ: dễ (dễ làm) và dễ trong Tiếng-đôi Lấp-láy dễ dàng, dễ ợt, cùng có nghĩa giống nhau.

Nếu tìm được một Tiếng-đôi Lấp-láy hay không Lấp-láy nhưng chữ trong tiếng đó lại khác nghĩa với nghĩa của chữ mình đang tìm dấu thì không thể dùng được. Chẳng hạn như rũ trong ủ rũ mà ta lại dùng chữ rủ của rủ rê, rủ ren thì không cùng nghĩa cho nên ta sẽ viết sai dấu ngay.

Image may contain: text
No automatic alt text available.
 

Chỗ Ngồi May Mắn.

From  facebook:  Honolulu Nguyen‘s post.
BA`I HỌC HAY QUÁ.

Chỗ Ngồi May Mắn.

Suốt gần một năm nay, nhà hàng của Dennis liên tục ế ẩm vì thời buổi kinh tế khó khăn sau cuộc khủng bố 9/11 đã làm chùn bước nhiều khách hàng. Nhà hàng của anh trước kia cũng đã có lúc khách đợi sắp hàng dài nhất trong khu shopping này, thế mà bây giờ thì cả chủ và thợ đều phải ngáp gió đập ruồi cho qua ngày tháng.Dennis đã ráng cầm cự hơn sáu tháng nay, mỗi tháng anh phải mượn nợ từ bạn bè, thân thuộc để trang trải tiền công cho thầy thợ, tiền thuê cửa hàng.

Nhưng tuần rồi anh bắt buộc phải tập hợp những người cộng tác của anh lại để thông báo cho biết là dịch vụ của nhà hàng sẽ phải tạm đình chỉ từ cuối tháng này. Anh đã cẩn thận cộng đi cộng lại sổ sách nhiều lần, mỗi tháng dịch vụ thương mại của anh đều vướng phải một số âm to tướng. Trương mục tiết kiệm dành cho ngày dưỡng lão cũng biến thành một chữ số Zero. Dennis bắt đầu cảm thấy tay của anh giá lạnh như thể anh là một tay chơi trong sòng bài đang đến lúc cùng đường mạt vận. Buộc lòng anh phải nghĩ đến quyết định sau cùng là: Hãy bán hết ngày hôm nay, có thể anh phải đóng cửa kể từ ngày mai, tức là hai tuần sớm hơn dự định.

Đã đến giờ ăn tối mà sao khách của nhà hàng đi đâu hết rồi ?. Ở một góc khuất của quán ăn chỉ có hai cha con nọ đang ngồi đợi thực phẩm dọn lên, đứa nhỏ trông có vẻ nghịch ngợm, hết khua chén rồi lại gõ đĩa, người cha hình như có vẻ phiền muộn, không màng ngó ngàng đến đứa con đang làm huyên náo khung cảnh yên lặng của nhà hàng vắng khách.

Lúc đó, một người đàn ông ăn mặc sang trọng nhưng có gương mặt tái nhợt bước vào, Dennis chua chát nghĩ thầm: “Có thể đây là người khách cuối cùng của đêm nay mà cũng là người cuối cùng của nhà hàng mình chăng? Hay là ta đặc biệt chiêu đãi để tạo cho người ta có một thiện cảm với mình. Sau này, dù mình không còn mở cửa, nhưng biết đâu hình ảnh nhà hàng mình sẽ để lại trong lòng ông ta một ấn tượng đẹp đẽ!”

Người khách ngồi xuống gọi ngay một cốc rượu mạnh rồi mới bắt đầu lướt mắt qua tấm thực đơn đi tìm những món ăn đặc biệt nhất của tiệm Dennis. Không đợi ông gọi, Dennis tự động bước tới hớn hở nói với ông ta:
– Chúc mừng khách quí, ngài đã chọn đúng một chỗ ngồi tốt nhất, may mắn nhất trong tiệm của chúng tôi, vì vậy đêm nay không những ngài được miễn phí chiêu đãi mà những món ăn của ngài lại là phần ăn của một VIP.
Người khách ngây người nhìn Dennis một chặp rồi hỏi:
– Không ngờ tôi lại may mắn đến thế cơ à?

Dennis tiếp theo đó đã mang ra một phần ăn đặc biệt nhất trong tiệm anh để chiêu đãi người khách này. Đến món tráng miệng, thay vì chỉ một mẩu kem nhỏ thì anh mang ra một chiếc bánh ngọt hạng trung màu sắc rực rỡ và có nến thắp sáng giống như một chiếc bánh sinh nhật. Người khách lạ lúc này mới chịu nở một nụ cười tươi tắn.
Đứa trẻ bàn bên cạnh thấy chiếc bánh ngọt mang ra quá đẹp cũng ngây người nhìn một chặp rồi nó vòi vĩnh với cha:
-Ba à, con cũng muốn ăn chiếc bánh sinh nhật to như vậy đó.
Cha đứa bé nạt ngang:
-Cha con mình đâu có nhiều tiền để ăn những món đắt tiền như vậy đâu con.
Người khách may mắn thấy sự việc như vậy nên quay lại nói với Dennis:
-Đứa bé có vẻ thèm bánh ngọt, thôi thì anh hãy mang sự may mắn của tôi san sẻ với những người chung quanh của tôi vậy.

Dennis vâng lời chia cái bánh của ông làm đôi rồi mang nửa chiếc sang tặng cho cha con người khách ngồi bàn kế cận. Đứa bé hớn hở đón nhận tặng vật và múc ăn ngon lành. Người cha của đứa bé thấy con mình vui nên ông cũng cảm kích bước sang bên này để cảm ơn ông khách tốt bụng.

Hai ông khách từ những câu xã giao thông thường rồi bắt đầu bước vào thăm hỏi nhau qua nghề nghiệp. Ông khách sang trọng tự giới thiệu ông tên là Kent, chủ nhân kiêm giám đốc một hãng thiết kế điện tử ở Thung Lũng Hoa Vàng (San Jose). Cơ sở của ông tuy còn rất nhỏ nhưng đã có những sản phẩm ăn khách bán chạy và bắt đầu có lời. Cha của đứa bé thì nghẹn ngào cho biết ông làm nghề địa ốc, nhưng tình hình kinh tế hiện nay đã khiến cho những tay dealer mua bán nhà cửa như ông gần như khánh tận. Ông đã nhận được giấy báo của công ty bắt đầu cho ông nghỉ việc kể từ đầu tháng tới.
Kent, ông khách sang trọng ngẫm nghĩ một chặp rồi nói với người cha đứa bé:
-Công ty của tôi đang cần những người saleman có khả năng, hay là anh vào hãng của tôi tạm thời làm thử một thời gian xem có thích hợp hay không?
Cha đứa bé bất ngờ gặp được quí nhân thì mừng rõ vô cùng, ông ta rối rít cảm ơn người khách lạ rồi họ trao đổi số phone và địa chỉ liên lạc …

Qua đêm hôm đó, Dennis bỗng nhiên bỏ qua ý định dẹp tiệm, anh nghĩ còn nước thì còn tát chớ có sao đâu. Bắt đầu từ ngày hôm đó, mỗi ngày anh chọn một vị trí may mắn trong nhà hàng của anh để chiêu đãi miễn phí cho một vị thực khách với tất cả sự vinh hạnh đúng nghĩa. Cái tin này được loan ra, thiên hạ ùn ùn kéo đến không ngớt. Người ta không chỉ muốn ăn miễn phí mà hình như ai nấy cũng muốn thử thời vận của họ xem có được là người may mắn trong đêm của nhà hàng nổi tiếng này hay không? Độc chiêu của Dennis bỗng nhiên hiệu nghiệm khiến nhà hàng của anh tức thì trở thành đông khách nhất khu vực tuy rằng trong giai đoạn kinh tế khó khăn này.

Mấy năm trôi qua, ông Kent đã trở thành khách thường trực và là bạn thân của Dennis. Một đêm cuối tuần, khi đợt khách cuối cùng đã ra về, được dịp Kent mời Dennis một ly rượu mạnh, ông bỗng hỏi Dennis một câu như sau:
– Anh có biết cái đêm hôm đó khi đến tiệm của anh, tôi đang nghĩ ngợi và có dự định gì trong đầu hay không?
Dennis lắc đầu, Kent gật gù nói:
-Buổi chiều ngày hôm đó tôi nhận được email của nhà tôi, bà ta cho biết là không thể nào chịu đựng thêm được cái tính say mê công việc (work-aholic) của tôi. Bà ta cho rằng dưới mắt tôi, bà ta không là gì cả, cho nên từ 6 tháng trước đó bà đã ngoại tình và hôm đó bà đã chính thức bỏ tôi để đi theo tiếng gọi của con tim. Tôi đã suy nghĩ cả một buổi chiều, ruột gan tôi rối tung lên. Đêm đó, trong đầu tôi dự định là sau khi ăn uống no say tôi sẽ trở về nhà để kết liễu sinh mạng của mình. Anh nên biết, cuộc đời tôi đã đi từ thành công này sang thành công khác, nhưng lúc đó tôi mới nhận ra là tôi đã thất bại hoàn toàn ngay từ bước đầu tiên. Kim tự tháp của tôi đã bị hỏng nền cho nên tôi chỉ còn cách là kết liễu sinh mạng của tôi thôi. Thế rồi tôi được anh chỉ cho một chỗ ngồi may mắn, tôi cảm thấy ngỡ ngàng và tưởng chừng như ông trời đang giở trò châm biếm tôi. Nhưng sau khi tôi mang nửa cái bánh tặng cho đứa bé, rồi mang một việc làm giúp cho cha đứa bé thì lúc đó tôi mới thấy là cuộc đời của tôi cũng còn có một chút xíu giá trị và hữu dụng. Cuộc đời tôi mới bắt đầu đứng lên từ lúc đó. Cho nên phải nói chính anh đã cứu lấy cuộc đời của tôi. Cám ơn Dennis, người bạn thân thiết của tôi.

Dennis cảm động ôm chầm lấy Kent, mắt anh cũng đoanh tròng ngấn lệ,bây giờ anh mới hiểu ra, sự may mắn chỉ có thể đến với ta khi nào lòng ta mở rộng vị tha. Nếu như anh không nghĩ ra cách mang tặng một phần ăn miễn phí, thì có thể là cơ nghiệp của anh đã không có được như ngày hôm nay. Bản thân anh phải chăng cũng chính là một nhân vật may mắn nhất trong chuỗi cờ domino dài nhằng đang xảy ra nhan nhãn trên khắp quả địa cầu mà chúng ta đang cư ngụ.

(Phạm Huê dịch)

SỨC MẠNH CỦA SỢ HÃI

SỨC MẠNH CỦA SỢ HÃI

Sợ hãi là nhịp tim của sự bất lực.  Đây là lời của Cor de Jonghe.  Đúng là thế.  Chúng ta có thể giải quyết hầu như mọi chuyện, ngoại trừ nỗi sợ.

Ngòi bút thiêng liêng người Bỉ, Bieke Vandekerkehove, trong quyển Vị của Thinh lặng, đã chia sẻ rất chân thành về những con quái vật quấy rối cô lúc cô mắc một chứng bệnh nan y ở tuổi 19.  Cô đưa ra ba con quái vật đã giày vò mình khi cô đối diện với cái chết, buồn sầu, giận dữ, và sợ hãi.  Và cô cho rằng chúng ta có thể dễ dàng đối diện với hai con quái vật buồn sầu và giận dữ, hơn là con thứ ba, con sợ hãi.  Và đây là suy nghĩ của cô:

Buồn sầu có thể giải quyết bằng những giọt nước mắt, bằng u phiền.  Buồn sầu có thể đổ đầy chúng ta như một cốc nước, nhưng cái cốc đó có thể đổ hết đi.  Nước mắt có thể xói mòn sự cay đắng của buồn sầu.  Chắc chắn, chúng ta đã từng cảm nghiệm được sự giải thoát, sự xoa dịu nhờ những giọt nước mắt. Nước mắt có thể làm mềm đi trái tim và tẩy đi chua cay của buồn sầu, cho dù sự nặng nề vẫn còn đó. Buồn sầu dù có nặng nề đến đâu, vẫn có một cái van để xả ra.  Giận dữ cũng thế.  Giận dữ có thể được bộc lộ và những bộc phát này giúp giải phóng giận dữ để nó không cuồng phá chúng ta.  Chắc chắn, chúng ta cũng từng trải qua chuyện này rồi. Tất nhiên, là khi giải phóng cơn giận, chúng ta cần cẩn trọng đừng để làm tổn thương người khác, và đây là mối nguy luôn tồn tại khi xử lý cơn giận dữ.  Với giận dữ, chúng ta có nhiều cách: Có thể hét lên, đánh trống, đấm đạp, cuồng ngôn, vận động cơ thể đến khi mệt lử, đập đồ đạc, thốt ra những lời đe dọa, và xả thịnh nộ vào đủ thứ có thể.  Những chuyện này không hẳn là có lý có lẽ, và nhiều thứ cũng bất bình thường, nhưng chúng cho chúng ta một lối thoát. Chúng ta có các công cụ để giải quyết giận dữ.

Nhưng sợ hãi, thì không có một cái van nào để xả.  Thường thì chúng ta không có cách nào để làm giảm bớt hay bỏ đi nỗi sợ hãi.  Nỗi sợ làm tê liệt chúng ta, và sự tê liệt này cướp đi sức mạnh chúng ta cần có để đương đầu với nó.  Chúng ta có thể đánh trống, cuồng ngôn, khóc lóc, nhưng nỗi sợ vẫn còn. Hơn nữa, không như giận dữ, nỗi sợ không thể trút lên một sự vật hay một con người khác, dù cho chúng ta có cố đến đâu chăng nữa.  Đến tận cùng, chẳng có cách nào.  Cái mà chúng ta sợ, không biến mất theo ý muốn của chúng ta.  Chỉ có thể chịu đựng nỗi sợ hãi.  Chúng ta phải sống với nỗi sợ cho đến khi nó tự tan biến dần.  Có khi, như trong sách Ai Ca, tất cả những gì chúng ta có thể làm, là vùi miệng trong đất cát và chờ đợi.  Với nỗi sợ, có lúc tất cả những gì chúng ta có thể làm là chịu đựng.

Chúng ta có học được bài học nào qua điều này?

Nhà thơ người Nga, Anna Akhmatova, đã kể lại lần bà gặp một bà, khi cả hai chờ bên ngoài nhà tù. Chồng của hai người đều đang bị tù dưới chế độ Stalin, và cả hai đều đến để đưa thư và các gói đồ cho chồng mình, giống như nhiều phụ nữ khác.  Nhưng khung cảnh khá là vô lý.  Tình thế lúc đó thật kỳ quái.  Trước hết, các bà không chắc chồng mình có còn sống hay không, và nếu còn sống, thì cũng chẳng biết là các lá thư và gói đồ của mình có được lính gác gởi đến được tay chồng mình hay không.  Hơn nữa, lính gác, chẳng vì lý do cả, lại bắt họ phải đợi hàng giờ dưới tuyết lạnh trước khi đến lấy thư và các gói đồ, và có lúc lại còn chẳng thèm tiếp.  Vậy mà mỗi tuần, bất chấp sự vô lý này, các bà vẫn đến, vẫn chờ dưới tuyết, chấp nhận sự bất công này, chấp nhận trải qua thời gian chờ đằng đẵng, và cố gắng đưa các lá thư các gói đồ đến cho người thân yêu của mình.  Một sáng nọ, khi họ đang chờ đợi, mà chẳng biết phải chờ đến lúc nào, thì một bà nhận ra Akhmatova, và hỏi: “À, chị là nhà thơ.  Chị có thể cho em biết chuyện gì đang xảy ra ở đây không?” Akhmatova nhìn bà này và trả lời: “Vâng, em có thể!” Và rồi giữa hai người hé một nụ cười.

Tại sao lại cười?  Chỉ là vì, khi có thể định danh chuyện gì đó, thì cho dù có vô lý hay bất công, có bất lực để thay đổi nó, vẫn là chúng ta đang tự do, đang đứng trên nó, biến đổi nó theo cách nào đó.  Định danh điều gì đó cho đúng, phần nào giải thoát chúng ta khỏi sự thống trị của nó.  Đây là lý do vì sao các chế độ chuyên chế sợ hãi các nghệ sĩ, nhà văn, nhà phê bình tôn giáo, nhà báo, và ngôn sứ.  Họ định danh mọi sự.  Đây chính là chức năng tận cùng của ngôn sứ.  Các ngôn sứ không báo trước tương lai, nhưng là định danh hiện tại cho đúng.  Richard Rohr thích nói rằng: Không phải mọi sự đều có thể được sửa chữa và chữa lành, nhưng mọi sự cần được định danh cho đúng.  James Hillman thì có cách của mình để thể hiện điều này.  Ông đề xuất rằng một triệu chứng đau đớn nhất khi nó không biết mình thuộc về sự gì.

Và điều này có thể hữu ích cho chúng ta để giải quyết nỗi sợ hãi trong đời mình.  Nỗi sợ có thể khiến chúng ta vô lực.  Nhưng, định danh nó cho đúng, nhận ra triệu chứng này do đâu, và nhìn nhận sự bất lực của chúng ta trong hoàn cảnh đó, có thể giúp chúng ta sống với nỗi sợ đó, sống mà không buồn sầu hay giận dữ.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

****************************** ***********

Lạy Chúa,

hôm nay con bỗng sợ nhiều thứ
sợ thời gian, sợ chặng đường phía trước…
Con sống trong tâm trạng hoang mang
thấy bóng tối cứ bao phủ lấy con. 
Con vùng vẫy và muốn tìm lối thoát
thực sự là con rất sợ!

………………………..

Xin dạy con sống Thánh, bằng việc sống tốt giây phút hiện tại
và vượt qua sợ hãi, bằng việc không quá bận lòng về tương lai. 
Xin cho con có sức mạnh của Chúa
để không khó khăn nào có thể khuất phục được con
Xin cho con luôn vững tin vào Chúa
rằng trong Chúa mọi sự đều có thể. 
Và xin cho mỗi bước con đi, mỗi việc con làm
đều in đậm Tình Yêu nhưng không của Chúa.

Quỳnh Trâm

From Langthangchieutim

Tình trạng công dân VN trong thời đại XHCN là có nguy cơ mất quê hương.

From facebook:  Phan Thị Hồng added 2 new photos 
Tình trạng công dân VN trong thời đại XHCN là có nguy cơ mất quê hương.

 

Việc thầy Phạm Minh Hoàng vừa biết tin đã bị mất quốc tịch VN khi chính thầy Hoàng không tự ý xin từ chối quốc tịch, cho thấy thể chế chính trị cộng sản đang nhân danh nhà nước VN vi phạm Tuyên ngôn nhân quyền và Công ước quốc tế về quyền dân sự, mà VN tự nguyện ký tên làm thành viên tuyệt đối không có một ngoại trừ nào, của người bản địa.

Điều này khi được căn cứ vào các điều khoản của Hiếp pháp và Luật của VN lại cho thấy toàn bộ hệ thống văn bản luật của chế độ là lập lờ, lừa dối chứ không phục vụ công lý và công dân.

Lm. Lê Ngọc Thanh
—-

TÂM THƯ
(Phạm Minh Hoàng)

Kính gởi cộng đồng Facebook,
cùng các bạn bè, thân hữu xa gần,

Ngày 1/6/2017 vừa qua, Tổng Lãnh Sự (TLS) Pháp tại Sàigòn đã mời tôi lên để thông báo một tin “rất xấu”: nhà nước Việt Nam ngày 17/5 đã ký quyết định hủy bỏ quốc tịch Việt Nam của tôi, và điều này đưa đến việc trục xuất tôi về Pháp (tôi có song tịch Pháp Việt).

Khi tôi đặt bút xuống viết những dòng này, tôi có cảm tưởng như còn đang say rượu. Vợ và con tôi nghe tin này khóc ngất. Anh tôi (thương phế binh VNCH tật nguyền gần 100%) cũng bàng hoàng. Hoàn cảnh gia đình không cho phép vợ tôi đi cùng, vì còn phải chăm sóc mẹ già cũng như lo cho ông anh tật nguyền, điều này có nghĩa gia đình chúng tôi sẽ phải ly tán.

Tháng 11/1973…

nhưng tôi còn nhớ như ngày hôm qua, tôi cất bước sang Paris du học. Khi máy bay đang lượn trên bầu trời Sàigòn, tôi nhìn qua cửa sổ và tự nhủ sẽ trở về để xây dựng quê hương đang điêu tàn vì chiến tranh. Hai năm sau, mọi suy tính của tôi sụp đổ và tôi bắt buộc phải bước vào một cuộc đời mới, nơi một phương trời mới với những suy nghĩ mới, tuy nhiên trong lòng tôi vẫn canh cánh hướng về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Sau một thời gian sinh sống và làm việc, tư tưởng trở về Việt Nam lại nhem nhúm trở lại và tôi đã cắp sách đến trường để trang bị cho mình những kiến thức ích lợi cho công việc ở Việt Nam. Trở về nước năm 2000, tôi trầy trật mới tìm được một công việc thích hợp trong Đại học Bách Khoa SG với đồng lương ít ỏi. Trong suốt 10 năm giảng dạy, tôi vẫn tự nhủ mình không phải là một người thầy giỏi, tôi chỉ được mỗi cái chăm chỉ và tận tâm. Tôi tự hài lòng với bản thân vì đã đem hết sinh lực và tâm trí của mình để truyền đạt kiến thức đến cho giới trẻ. Khi tôi bị bắt vào năm 2010 vì đã lên tiếng về tình hình đất nước, tôi đang dạy cùng lúc 5 môn toán khác nhau và đó là lúc khả năng và óc sáng tạo của tôi đang ở mức sung mãn vượt bực.

Nhờ sự can thiệp của chính phủ Pháp và sự lên tiếng của các tổ chức nhân quyền cũng như sự đấu tranh của nhiều người trong, ngoài nước, án của tôi tương đối nhẹ, chỉ 17 tháng tù giam và 3 năm quản chế. Có điều sau đó thì hoài bão đi dạy của tôi cũng sụp đổ. Thỉnh thoảng tôi tính mở lớp Pháp văn nhưng họ vẫn rầy rà đủ thứ. Thậm chí vào năm 2016, khi cùng các bạn trẻ chia sẻ và trao đổi các kiến thức về quyền con người, về pháp luật Việt Nam, về kỹ năng sống cũng bị công an giải tán một cách thô bạo, máy móc bị tịch thu. Cho đến ngày hôm nay những khiếu kiện của tôi vẫn bay vào hư vô.

Cho dù khó khăn và đe dọa đủ điều, tôi vẫn cố gắng duy trì những phản ứng và những đóng góp của mình về các vấn đề của đất nước. Những bài viết của tôi mang tính phê bình nhưng bao giờ cũng chừng mực, ôn hòa và không thể kết luận là nguy hại đến an ninh quốc gia. Tuy nhiên, dưới mắt nhà cầm quyền cộng sản, chừng ấy là chưa đủ. Qua các kênh thông tin, tôi biết tôi vẫn là một cái gì đó tiềm tàng đe dọa đến họ, và mặc dù đã duy trì phản ứng của mình một cách rất chừng mực và thận trọng, họ cũng không yên lòng, để sau cùng đi đến quyết định tước quốc tịch của tôi.

Việc tước quốc tịch đồng nghĩa với việc trục xuất, nghĩa là tôi không có quyền sống và chết trên quê hương của mình.

Tôi còn nhớ, khi tiếp xúc với TLS Pháp vào năm 2010-2011 khi còn ở trong tù, tôi có minh định rằng tôi chọn ở tù hơn bị trục xuất. Ngài TLS lúc ấy đã ghi nhận và nhắc đi nhắc lại nguyện vọng của tôi và hứa sẽ giúp tôi toại nguyện.

Ngày hôm nay tình hình có vẻ đã thay đổi. Việc bỏ tù một công dân Pháp có lẽ sẽ phức tạp cho cả hai chính phủ và cuối cùng họ đã chọn một giải pháp đỡ phiền phức nhất nhưng cũng vô nhân đạo nhất, vì hơn ai hết, họ biết rõ hoàn cảnh gia đình tôi đơn chiếc như thế nào.

Ngày xưa, khi bị tù, tôi nghĩ đó sẽ là những chuỗi ngày đau khổ nhất của một con người, nhưng bây giờ tôi thấy còn một thứ kinh khủng hơn, đó là không được sống trên quê hương của mình.

Ngay trong lúc này, tôi chưa nhận được bất cứ văn bản nào về vụ tước quốc tịch, nên chỉ biết gởi đến bà con thân thương những dòng tâm sự này và mong được sự cảm thông và hậu thuẫn của mọi người bằng cách chia sẻ rộng rãi bức Tâm Thư này đến cho bạn bè. Gia đình chúng tôi cũng đã liên hệ với luật sư để tìm hiểu thêm và tôi được biết hành vi tước quốc tịch tôi là sai pháp luật Việt Nam (xin xem tài liệu dưới đây).

Cuối thư, tôi xin chép lại đây một câu nói của một người đấu tranh đã bị trục xuất: “Người ta có thể đưa tôi ra khỏi Việt Nam, nhưng không ai có thể đưa Việt Nam ra khỏi tôi.”

Phạm Minh Hoàng

Image may contain: 2 people, people sitting and indoor
Image may contain: 1 person
 
 

Dân biểu Mỹ gốc Việt thăm nhà tù Hỏa Lò

Dân biểu Mỹ gốc Việt thăm nhà tù Hỏa Lò

Dân Biểu Stephanie Murphy (thứ hai từ phải) chụp hình với các đồng viện trước nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội. (Hình: Văn Phòng Dân Biểu Mac Thornberry)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Trong lúc Tổng Thống Donald Trump tiếp Thủ Tướng CSVN Nguyễn Xuân Phúc tại Tòa Bạch Ốc vào hôm Thứ Tư, 31 Tháng Năm, nữ Dân Biểu Stephanie Murphy, tên Việt Nam là Đặng Thị Ngọc Dung, tháp tùng 11 thượng nghị sĩ và dân biểu Hoa Kỳ đến thăm nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội.

Chuyến thăm Việt Nam của các vị dân cử Mỹ là để “thảo luận hợp tác quốc phòng, cùng nhau tìm kiếm tù binh mất tích và hài cốt binh sĩ Mỹ, và an ninh khu vực,” theo thông báo của Văn Phòng Dân Biểu Mac Thornberry (Cộng Hòa-Texas), chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện.

Ông Thornberry là người dẫn đầu phái đoàn gồm 12 dân cử liên bang Hoa Kỳ đến Việt Nam.

Theo báo mạng floridapolitics.com, nữ dân biểu gốc Việt chụp hình với ông McCain, cựu tù binh chiến tranh Việt Nam, ngay bên ngoài nhà tù mà ông từng bị Cộng Sản giam cách đây hơn bốn thập niên, với hàng chữ: “Với Thượng Nghị Sĩ Arizona John McCain tại Việt Nam, bên ngoài nhà tù ông từng bị giam hơn năm năm như là tù binh chiến tranh. Ông thật sự là một anh hùng của nước Mỹ vì đã phục vụ đất nước này cả vào thời bình lẫn thời chiến.”

Hình ảnh trên trang web của Dân Biểu Mac Thornberry cho thấy bà Murphy cũng ký sổ lưu niệm và chụp hình với các đồng viện ngay trước cửa nhà tù, mà nay là viện bảo tàng.

Bà Stephanie Murphy (Dân Chủ-Florida), thắng cử vào Hạ Viện Mỹ lần đầu tiên năm 2016, và hiện là thành viên Ủy Ban Quốc Phòng và Ủy Ban Doanh Nghiệp Nhỏ của Hạ Viện Hoa Kỳ.

Bà Murphy là phụ nữ gốc Việt đầu tiên được bầu vào Hạ Viện Hoa Kỳ, và hiện là dân cử gốc Việt cao cấp nhất nước Mỹ.

Ông John McCain (Cộng Hòa-Arizona) hiện là chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Thượng Viện.

Sau đó, theo thông tấn xã Việt Nam, Thượng Nghị Sĩ John McCain và một số đồng viện đến Bộ Quốc Phòng và họp với Đại Tướng Ngô Xuân Lịch, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam.

Sang ngày hôm sau, 1 Tháng Sáu, ông McCain và phái đoàn gặp và thảo luận với ông Trần Đại Quang, chủ tịch nước.

Hôm Thứ Sáu, 2 Tháng Sáu, ông McCain cùng hai thượng nghị sĩ khác, ông John Barrasso (Cộng Hòa-Wyoming), chủ tịch Ủy Ban Chính Sách Cộng Hòa Thượng Viện, và ông Chris Coons (Dân Chủ-Delaware), thành viên ba ủy ban ngoại giao, chuẩn chi, và tư pháp của Thượng Viện Mỹ, đi thăm khu trục hạm trang bị hỏa tiễn USS John S. McCain đang đậu tại quân cảng Cam Ranh, theo tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội cho biết.

Chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn Quốc Hội Mỹ diễn ra vào dịp Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa kết thúc cuộc hội đàm với Tổng Thống Donald Trump tại Tòa Bạch Ốc mà bản tuyên bố chung đưa ra sau đó nói hai nước “đồng ý tăng cường quan hệ quốc phòng song phương trên cơ sở bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương năm 2011 và tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng năm 2015” và “tăng cường hợp tác an ninh và tình báo. Việt Nam và Hoa Kỳ cam kết hợp tác chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm mạng.”

Khi đến Bộ Quốc Phòng Việt Nam, ông McCain được thuật lời cho biết “sau chuyến thăm lần này, ông sẽ đề xuất với quốc hội và chính phủ Mỹ tiếp tục hợp tác, hỗ trợ Việt Nam thực hiện dự án xử lý môi trường ô nhiễm chất độc da cam/dioxin, khắc phục hậu quả chiến tranh, hợp tác bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải…”

Dân biểu Mỹ gốc Việt thăm nhà tù Hỏa Lò
Thượng Nghị Sĩ John McCain thăm khu trục hạm USS John S. McCain tại Cam Ranh. (Hình: Tòa đại sứ Mỹ tại Việt Nam)

Thượng Nghị Sĩ John McCain, 81 tuổi, khá quen thuộc với người Việt Nam. Ông từng là phi công hải quân bị bắn rơi và bị tù năm năm rưỡi tại nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội, thời chiến tranh Việt Nam. Sau khi được thả, ông ứng cử, và trở thành thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Ông và cựu Thượng Nghị Sĩ John Kerry (Dân Chủ-Massachusetts) đóng góp rất lớn trong việc vận động bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai kẻ cựu thù.

Một ngày trước khi đến Việt Nam, ông McCain phát biểu trong một cuộc tọa đàm ở thủ đô Canberra, Úc, là Trung Quốc hành xử như một “kẻ bắt nạt” trên Biển Đông khi xây dựng các căn cứ quân sự quy mô tại các đảo nhân tạo chiếm của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa. Theo ông, hành động của Trung Quốc là vi phạm luật pháp quốc tế.

Nhiều nhà phân tích thời sự từng cảnh báo rằng Trung Quốc gấp rút quân sự hóa khu vực Biển Đông nhằm khống chế toàn bộ khu vực, đẩy Mỹ đi chỗ khác. Hãng thông tấn Reuters dẫn lời ông John McCain nói ở Canberra rằng: “Nếu Trung Quốc ngăn chặn chúng ta thực hiện quyền tự do hàng hải thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho cả khu vực.”

Lời phê phán của ông McCain đối với Trung Quốc được đưa ra chỉ vài ngày trước khi có cuộc hội thoại về an ninh khu vực diễn ra tại Singapore, thường được gọi là Shangri La Dialogue, vào cuối tuần này mà cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều có phái đoàn tham dự.

Khi phát biểu ở thủ đô Úc, ông McCain cũng kêu gọi các đồng minh của Mỹ tiến hành các cuộc tập trận hải quân hỗn hợp quy mô trên Biển Đông. Khi việc này xảy ra sẽ chứng tỏ các nước thách đố tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh, vốn chỉ là tham vọng bá quyền bành trướng của những nhà lãnh đạo Trung Quốc.

Mới đây, chính phủ Mỹ cấp viện cho cảnh sát biển Việt Nam sáu tàu tuần tra cao tốc cỡ nhỏ đóng mới tại tiểu bang Louisiana và một tàu tuần tra cỡ lớn nguyên là tàu tuần duyên 3,250 tấn cho nghỉ hưu.

Chuyến công du của các dân cử Hoa Kỳ qua bốn quốc gia là nhằm gia tăng quan hệ và đối tác giữa Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á-Thái Bình Dương, theo báo mạng floridapolitics.com. (TN, Đ.D.)

Bài thơ về cậu bé đánh giày

Bài thơ về cậu bé đánh giày 

Bài thơ được phổ lại theo một truyện ngắn Anh có tên “Một tâm hồn cao thượng” và là một bài trong sách giáo khoa Giáo dục Công dân lớp 7 chương trình phổ thông cơ sở.

Ông nhà giàu dạo bước
Trên phố quen hoàng hôn
Gặp chú đánh giày buồn
Lam lũ gầy khổ sở


Chú nhóc năn nỉ mời
Ông đánh giày cho con
Để kiếm vài đồng gầy
Mua cơm nuôi em nhỏ


Chạnh lòng thương trẻ khó
Ông lơ đãng gật đầu
Có đáng là bao nhiêu
Vài ba đồng tiền lẻ…


Giày xong ông móc ví
Đưa tờ 200 ngàn
Chú bé cầm ngần ngừ
Ông chờ con đi đổi


5 đồng thôi ông hỡi
Đủ bữa tối hôm nay
Anh em con gặp may
Xin ông chờ một chút…


 

 

 

 

 

 

 

 

Đã qua 30 phút
Cậu bé không trở về
Ông lắc đầu : chán ghê
Trẻ nghèo hay gian lắm…

Cơm tối xong đứng ngắm
Trăng mới mọc gió hiu
Trong vườn hoa thơm nhiều
Quên bực mình trẻ gạt…

Chuông cửa reo, tiếng quát
Đi chỗ khác mà xin
Nghèo khổ biết phận mình
Lộn xộn tao bắt nhốt…

Ông thong thả cất bước
Thấy một nhóc gầy gò
Đang mếu máo co ro
Giống tên đánh giày đó…

Có việc gì đấy cháu
Từ từ nói ta nghe
Anh bảo vệ yên nha
Đừng làm trẻ con sợ …

Thằng bé con ấp úng
Hồi chiều nay anh tôi
Cầm tiền của ông rồi
Băng qua đường đi đổi

Chẳng may bị xe cán
Gãy mất chân rồi ông
“Một trăm chín lăm đồng”
Bảo tìm ông trả lại !

Anh tôi giờ nằm liệt
Chỉ muốn xin gặp ông …
Một lần nữa chạnh lòng
Rảo bước theo thằng bé

Đến ổ chuột xập xệ
Gặp thằng anh đang nằm
Mặt xanh tái như chàm
Thở ra tuồng hấp hối

Nói gấp hơi như vội
Xin ông thương em con…
Cha mẹ đã không còn
Con đánh giày nuôi nó…

Nay không may con khổ
Chỉ xin ông việc này :…
Cho em con đánh giày
Mỗi ngày cho ông nhé …

Kiếm lấy vài đồng lẻ
Mua cơm sống mà thôi …
Chợt thằng anh duỗi tay
Hơi thở lịm như tắt …

Ông già trào nước mắt
Ta sẽ lo em con
Cho ăn học bình thường
Như bao đứa trẻ khác

Cứ bình tâm an lạc
Bệnh viện tiền ta cho…
Thằng anh đã xuội lơ
Hồn bay về thiên giới

Nhân cách nghèo cao vợi
Môi nhợt thoáng nụ cười
Nó sống trọn kiếp người
Dù nghèo nhưng tự trọng

Bao người giàu-danh vọng
Đã chắc gì bằng đâu ! …


Đây là câu chuyện có thật do chính người trong truyện thuật lại. Ông là một giáo viên người Anh. Mỗi khi kể, ông thường không cầm được nước mắt, xúc động nghẹn ngào. Ông nói:


Nhà tôi ở một phố giữa Thủ đô Luân Đôn. Một hôm, tôi vừa ra khỏi cửa thì gặp một cậu bé chừng mười hai, mười ba tuổi ăn mặt tồi tàn, rách rưới; mặt mũi gầy gò, xanh xao; chìa những bao diêm khẩn khoản mời tôi mua giúp một bao. Tôi mở ví tiền và chép miệng:


– Rất tiếc là tôi không có xu lẻ.


– Thưa ông , không sao ạ.Ông cứ đưa cho cháu một đồng tiền vàng . Cháu chỉ chạy loáng một lát đến hiệu buôn để đổi, rồi hoàn lại cho ông tiền lẻ còn thừa.


Tôi chăm chú nhìn cậu bé và lưỡng lự :


– Thật chứ ?


– Thưa ông , thật ạ. Cháu không phải là một đứa dối trá.


Nét mặt của cậu bé trông rất cương trực và tự hào tới mức làm tôi tin và giao ngay cho cậu một đồng tiền vàng. Nhưng năm phút, mười phút, rồi mười lăm phút trôi qua mà vẫn không thấy cậu trở lại. Tôi bắt đầu nghi ngờ cậu bé. Nửa giờ sau, chờ mất công, tôi lững thững tiếp tục cuộc dạo chơi và tự nhủ:” Cần rút kinh nghiệm, không nên tin vào bọn trẻ này”! Vài giờ sau, khi trở về nhà, tôi ngạc nhiên , thấy có một cậu bé đang đợi tôi.
 mang đến trả ông…Diện mạo cậu bé này rất giống cậu bé đã cầm tiền của tôi, nhưng nhỏ hơn vài tuổi, gầy gò, xanh xao hơn và thoáng một nỗi buồn tuyệt vọng:

– Thưa ông , có phải ông vừa đưa cho Rô-be một đồng tiền vàng không ạ ?

Tôi kẽ gật đầu . Cậu bé tiếp :


– Thưa ông , đây là tiền lẻ hoàn lại… Rô-be nhờ cháu…
 

Rô-be là anh cháu… chúng cháu mồ côi… Anh cháu không thể mang tiền trả ông được.. vì anh ấy bị xe chẹt… đang nằm ở nhà và khó lòng… sống nổi… Em bé không nói được hết câu vì những tiếng nấc xé lòng. Tôi sững sờ cả người, tim se lại vì hối hận, hỏi dồn:

– Vậy bây giờ Rô-be ở đâu? Hãy đưa tôi đến.


Sau khi dừng lại một chút trước chiếc hầm nhỏ của một căn nhà đổ nát, em bé nói:


– Thưa ông, đây là nhà của chúng cháu.

Trong một góc tối của căn hầm, cạnh chiếc bếp lò cũ kĩ đã tắt ngắm từ lâu, giữa một đống giẻ rách, tôi nhận ra Rô-be nằm dài, bất động. Mặt em lúc này trắng bệch. Một dòng máu đỏ từ trán chảy xuống. Rô-be đưa mắt nhìn về phía tôi, giọng thều thào, yếu ớt:

– Thưa ông, ông hãy lại gần đây.


Tôi quỳ xuống bên em, cầm lấy bàn tay em- bàn tay khẳng khiu, gầy gò, đáng thương, lạnh ngắt.

– Sác-lây, em đưa tiền trả ông rồi chứ?

Cậu bé gật đầu, mắt vẫn sưng mọng.


– …Ôi! Đấy, ông xem, cháu không phải là đứa dối trá mà.


Tôi cúi sát xuống người em, cầm lấy bàn tay em, hôn vào chỗ trán bị thương nứt rạn và nói với Rô-be rằng:” Em hãy bình tâm, dù bất cứ tình huống nào, tôi cũng sẽ nuôi nấng Sác-lây cho em”. Tôi nói dịu dàng, âu yếm an ủi Rô-be, để cái chết của em được thanh thản. Bàn
 tay khốn khổ của em nằm gọn trong tay tôi lạnh dần, lạnh dần…


Em bé nghèo túng của tôi đã từ giã cõi đời quá ngắn ngủi như vậy đấy. Cái chết đó làm cho tôi thấy rằng, trong cuộc đời tôi chưa hề được thấy một cử chỉ, hành động nào đẹp đẽ, cao cả như vậy. Một tâm hồn vô cùng cao thượng ẩn náu trong một em bé sống trong
 cảnh rất đỗi cực khổ nghèo nàn.

Nguồn zings.

Có hai thứ cha mẹ cần trang bị cho con cái, và chỉ hai thứ đó là đủ

Có hai thứ cha mẹ cần trang bị cho con cái, và chỉ hai thứ đó là đủ

Tỉ phú Hồng Kông Yu Pang-Lin vừa qua đời ở tuổi 93, để lại di chúc hiến toàn bộ tài sản trị giá khoảng 2 tỉ USD cho hoạt động từ thiện.

“Nếu các con tôi giỏi hơn tôi thì chẳng cần phải để nhiều tiền cho chúng.

Nếu chúng kém cỏi thì có nhiều tiền cũng chỉ có hại cho chúng mà thôi” – ông Yu Pang-Lin khẳng định.

Yu Pang-Lin không phải là người đầu tiên trên thế giới “keo kiệt” với con nhưng lại hào phóng với xã hội. Người giàu nhất thế giới – Bill Gates – từng tuyên bố sẽ chỉ để lại cho con 0,05% tổng tài sản kếch xù của mình. Báo chí hỏi tại sao lại như vậy, ông trả lời đại ý: Con tôi là con người, mà đã là con người thì phải tự kiếm sống, không chỉ kiếm sống để phục vụ chính bản thân mình mà còn phải góp phần thúc đẩy xã hội. Đã là con người thì phải lao động. Tại sao tôi chí Time bầu chọn là 1 trong 25 nhân vật ảnh hưởng nhất thế giới, tác giả cuốn sách nổi tiếng 7 thói quen để thành đạt – viết di chúc để lại tiền cho con và ra đi năm 2012.


Cả chín người con không ai nhận tiền. Họ lý giải rất giản dị rằng họ là những người bình thường và hoàn toàn có thể tự lao động, tự kiếm sống được.

Tương tự, tỉ phú Warren Buffett viết di chúc chỉ để lại 10% tài sản của mình cho con, còn lại là làm từ thiện. Tuy nhiên, ba người con, dù không phải quá giàu có, cũng từ chối và dành luôn số tiền đó cho từ thiện.

Những người cha kiên quyết không để lại tiền cho con hoặc những người con quyết liệt không nhận tài sản thừa kế chắc chắn không phải là những người không coi trọng đồng tiền, vì hơn ai hết họ đã phải đổ mồ hôi, công sức và trí tuệ cả đời để tạo dựng nên sản nghiệp.

Tuy nhiên, họ cũng hiểu có một thứ còn quý giá hơn tiền, quan trọng hơn tiền, đó chính là trách nhiệm, mà trước hết là trách nhiệm với chính mình (tự mình phải chịu trách nhiệm về mình), rồi trách nhiệm với gia đình, cộng đồng, xã hội… Họ cũng ý thức được một cách sâu sắc ẩn họa của việc xài những đồng tiền không do chính mình làm ra.

Có người nói rằng có hai thứ mà cha mẹ cần trang bị cho con cái và chỉ hai thứ đó là đủ, còn không, nếu có để lại cho con thứ gì đi nữa mà thiếu hai thứ đó thì coi như chưa cho con gì cả.

Hai thứ đó là: ý thức tự chịu trách nhiệm về bản thân mình và năng lực để tự chịu trách nhiệm.

Một con người biết trách nhiệm và có năng lực để thực hiện điều đó khi đi học sẽ học thực, học vì mình (và do đó sẽ khó có kiểu học đối phó; mua điểm, mua bằng; học vì cha, vì mẹ); khi đi làm sẽ làm hết mình, tự giác và luôn hướng tới hiệu quả cao nhất (và do đó sẽ không có kiểu làm “giả cầy”, thụ động; làm gian, làm dối như một vài trường hợp mà không khó cũng có thể nhận diện được ở nhiều cơ quan, công sở)…

Không để lại tiền cho con nhưng để lại cho con ý thức trách nhiệm và trang bị cho con năng lực để tự chịu trách nhiệm thông qua giáo dục làm người, giáo dục làm việc, ấy là đã để lại một sản nghiệp đồ sộ cho con rồi.

Ngôn Ngữ, Trình Độ & Đối Thoại – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ngôn Ngữ, Trình Độ & Đối Thoại – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến 

Ảnh của tuongnangtien

RFA

Một lời nói tử tế có thể làm ấm lòng người suốt cả mùa Đông.

Ngạn ngữ Nhật Bản

Cứ theo như dư luận chung (chung) thì ông Võ Văn Thưởng tuy là một đảng viên nhưng tốt. Ít nhất thì ông cũng không đến nỗi quá xấu như những người tiền nhiệm: Đinh Thế Huynh, Tô Huy Rứa, Nguyễn Khoa Điềm, Hà Đăng …

Mặt tốt này của đương kim Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương vừa được hé lộ, tại một hội nghị trực tuyến,vào hôm 18 tháng 5 vừa qua:

Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý.

Phải chi hồi thập niên 60 hay 70 của thế kỷ trước mà ông (nguyên) Trưởng Ban Tuyên Huấn Trung Ương, Tố Hữu, cũng nói được một câu tương tự thì qúi hóa biết chừng nào. Tuy ông Võ Văn Thưởng phát ngôn hơi bị muộn nhưng dư luận, xem ra, vẫn khá … lạc quan – như thường lệ:

“Dự định đề nghị xem xét mở ‘đối thoại’ với bất đồng chính kiến của Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đảng CSVN, ông Võ Văn Thưởng, là tín hiệu mới, đáng khích lệ và là ‘lời mời rất quý báu’, một ‘cơ hội’ cần được ‘chớp lấy’, theo một số ý kiến bình luận, quan sát của khách mời tại Tọa đàm cuối tuần của BBC Việt ngữ.”

Một trong những vị khách mời này, T.S Cù Huy Hà Vũ, cho rằng quan điểm của ông Thưởng “rất đáng chú ý và rất đáng khuyến khích.”

Lê Công Định thì dè dặt hơn đôi chút: “Tôi ngờ rằng đây không phải là chủ trương mới của Đảng Cộng Sản.”Trí nhớ của vị luật sư trẻ tuổi này, quả nhiên, không tệ.

Khi chưa vào tù, nhà báo Trương Duy Nhất cũng đã có lúc mừng (hụt) vì cái “chủ trương rất đáng chú ý và khuyến khích” này:

 Phát biểu tại hội nghị công tác Tuyên giáo toàn quốc 2012 diễn ra sáng nay 9/12/2013, ông Hồ Quang Lợi, Trưởng ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội nói: “Đã tổ chức đội ngũ 900 dư luận viên trên toàn thành phố nhằm phát huy sức mạnh của đội ngũ tuyên truyền miệng. Trong khi đó, báo chí thủ đô thực hiện ý kiến chỉ đạo về những vụ việc nhạy cảm; thành lập các tổ phóng viên bấm nút, phản ứng nhanh. Tổ chức “nhóm chuyên gia” đấu tranh trực diện trên mạng internet, tham gia bút chiến trên internet… 

Một thông tin khá bất ngờ, tạo cho tôi cảm giác thích thú…

Hãy công khai tranh luận một cách chính danh quân tử, thay vì sử dụng những biện pháp kỹ thuật lén lút cướp phá không khác gì bọn hacker, hoặc chụp mũ chính trị và kết án một cây bút chỉ vì những bài viết góp ý, phê bình phản biện của họ. Trước một thông tin, trước một tác phẩm, một bài viết, một cây bút, một góp bàn phản biện, chỉ được phép dùng chính phương cách truyền thông “tham chiến”, chứ không được phép dùng đến cái còng số 8, nòng súng và nhà giam…

Trương Duy Nhất & Võ Văn Thưởng. Ảnh: RFA

Trương Duy Nhất đã lãnh đủ ca ba (“còng số 8, nòng súng và nhà giam”) trước khi ông có cơ hội “đối thoại” với đám dư luận viên của chế độ hiện hành. Sau đó, sau khi bước ra khỏi nhà tù vào hôm 26 tháng 5 năm 2015, cũng không thấy nhà báo của chúng ta “bút chiến” hay “tranh luận” với một ông (hay bà) dư luận viên nào ráo trọi.

Sợ chăng?

E không phải thế đâu. Và cũng chả riêng gì trường hợp Trương Duy Nhất. Tôi chưa hề thấy một tù nhân lương tâm nào ở đất nước mình đã tỏ ra khiếp sợ và giữ im lặng sau sau khi ra khỏi nhà tù cả. Chỉ có những vị đã đi tù lần nữa, hoặc đang sẵn sàng chuẩn bị để ngồi tù tiếp tục – nếu cần!

Sở dĩ không có tranh luận hay đối thoại gì ráo trọi giữa những nhà bất đồng chính kiến với Nhà Nước Việt Nam, theo tôi, chả qua là vì bất đồng ngôn ngữ mà thôi. Cái “tầng ngôn ngữ” của đội ngũ dư luận viên hiện nay, rõ ràng, hơi quá xa lạ với số đông dân Việt:

          – Vì sao Lập phò bị bắt?

         Phạm Đoan Trang càng mở mồm càng hèn hạ

              – Tống Văn Công đến già mà vẫn còn ngu

              – Não bộ bẩn tưởi như thế chỉ có Trương Duy Nhất

          –  “Anh già” Bùi Tín cho Bộ trưởng Trương Minh Tuấn là “sát thủ tự do báo chí”

         Linh mục Đặng Hữu Nam mù luật hay ngáo?

          – Cái đầu đặc bê tông của Nguyễn Đình Cống

          – Nữ tặc Bùi Hằng đã ra tù

          – JB Nguyễn Hữu Vinh: Mày mới là kẻ phá đạo

          – Ngựa quen đường cũ Lê Công Định không thể hoàn lương

          – Tên phản động Lê Mỹ Hạnh bị đánh ghen tại nhà nghỉ vì cướp chồng người khác    

          – THẰNG CHA NGUYỄN ĐÌNH THỤC THÌ LÁO, GIÁO DÂN THÌ “NGÁO”

          – Trương Nhân Tuấn phản quốc vong nô: Ngu nhưng thích nói.

          – Đ.M. THẰNG HÁN GIAN CON CHÁU BA TÀU HỌ TƯỞNG

         NGUYỄN ĐAN QUẾ VÀ ĐỖ NAM HẢI BỊ NGÁO ĐÁ

          – Trần Thị Nga bị bắt, Tuấn Khanh trở mặt

          – Người buôn gió (Bùi Thanh Hiếu) vẫn chỉ chứng tỏ mình là hạng lưu manh đường phố

          – GS, TSKH Nguyễn Quang A từ một một nhà kinh tế thành một tên phản động

          –  “Giáo sư” đốn mạt Tương Lai, tức ông Nguyễn Phước Tương       

          – HUỲNH NGỌC CHÊNH SẼ BỊ LÀNG DÂN CHỦ VIỆT CHỬI CHO LÀ CỰC NGU?

          – Thằng mồm lông Huy Đức Osin lại xuyên tạc cuộc chiến chống Khme Đỏ!

          – Chân dung “Tinh hoa dâm chủ” tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ

          – Nguyễn Tường Thụy lại ẳng lên về Phạm Văn Trội

           Chúng mày im mẹ mồm đi

Vâng thì chúng tôi cũng đành phải “im mẹ mồm” thôi, chứ biết đối đáp ra sao với cái thứ thứ ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) của Ban Tuyên Giáo Trung Ương và Bộ Thông Tin của chính phủ hiện hành.

Ngoài việc bất đồng ngôn ngữ, trình độ nhận thức cũng là một trở ngại không nhỏ cho việc tranh luận hay đối thoại. Ông Võ Văn Thưởng tuyên bố “…  không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý.

Trời! Có còn gì để mà “tranh luận” về “lý luận và học thuyết cách mạng” nữa đâu, cha nội? Nó đã “cọ xát” quá trời cả trăm năm qua (khiến cho hằng trăm triệu người oan mạng, và đã bị nhân loại chôn sống từ thế kỷ trước mất rồi) còn “phát triển” với “hình thành” cái con bà gì nữa?

Vấn đề rành rành như vậy mà ông Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương (Võ Văn Thưởng) vẫn cứ coi như chưa có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra (ráo trọi) thì thiệt là chuyện lạ. Lạ hơn nữa là thiên hạ vẫn có kẻ còn coi đây là tín hiệu mới đáng khích lệ và là lời mời rất quý báu”, một cơ hội cần được chớp lấy” … nữa kìa.

Vận nước, ngó bộ, còn lao đao lâu và lao đao lắm!

Kỳ vọng gì từ chuyến đi của Thủ tướng Phúc?


Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc

Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc

Chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc sẽ gặp Tổng thống Mỹ Donald Trump tại Tòa Bạch Ốc, thượng đỉnh Mỹ-Việt đầu tiên kể từ khi Hoa Kỳ có tân chính quyền, dưới sự lãnh đạo của nhà đại tư bản Trump.

Bản tính ‘khó lường’ của ông Trump khiến cho mối bang giao ‘lắm lúc thăng, nhiều lúc trầm’ càng thêm khó đoán. Chuyến đi của ông Phúc mang tới những hứa hẹn thế nào?

Mời quý vị cùng phóng viên Trà Mi của VOA Việt ngữ tìm hiểu trong cuộc thảo luận với ba nhà quan sát trong và ngoài nước: Luật sư Vũ Đức Khanh từ Canada kiêm Giáo sư luật tại Đại học Ottawa (Canada) chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế, và luật pháp quốc tế; Luật sư Lê Công Định, học giả từng nhận học bổng danh giá Fulbright của Mỹ tại Trường Luật của Đại học Tulane, chuyên nghiên cứu công pháp quốc tế; và Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, nhà quan sát từng là cán bộ trong Ban An ninh Nội chính Thành ủy.

LS Vũ Đức Khanh: “Chính phủ Hà Nội không còn cơ hội đu dây giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ…Nhân quyền người Mỹ yêu cầu chính phủ Việt Nam làm có lợi cho đất nước, nhân dân Việt Nam. Giữa người Việt với nhau sẽ phải đối thoại nhân quyền. Việt Nam đừng trông mong bất cứ lực lượng nào mà phải tự đứng trên đôi chân của mình.”

LS Lê Công Định: “Nếu chúng ta trông đợi vào chính quyền mới của Hoa Kỳ xem họ gây áp lực với Việt Nam thế nào rồi mới có hành động thì không phải là sách lược đúng đắn.”

CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN…

  CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN…

 Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới.  Nhưng cũng có người đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác.  Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội.  Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận.  Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu.  Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên.  Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm.  Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng, từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở.  Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.

Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần.  Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện.  Khi ấy có những lưỡi nhưlưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người.  Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.

Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng.  Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó.  Đó là hình ảnh của lửa, của củi.

Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá.  Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí.  Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi.  Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc.  Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.

Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu.  Trong khoảnh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó.  Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc.  Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu.  Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian.  Cuối cùng nó trở nên một với lửa.  Nó không còn là củi mà chỉ là lửa.  Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.

Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta.  Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần.  Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa.  Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hòa trong đại dương.”  Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cửu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.

Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó.  Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa.  Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hòa vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.

Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được.  Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô.  “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô.”  Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu.  Đấy là dấu chỉ cụ thể.  Đấy là cùng đích.

Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần.  Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào.  Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy.  Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết.”  Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”  Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương.  Chúa yêu ta vô cùng.

Thưa anh chị em.  Đấy chỉ là giai đoạn đầu.  Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn.  Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.

Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.

Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình.  Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế.  Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.”  Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được.  Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình.  Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình.  Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem.  Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có.  Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao.  Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ…  Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.

Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình.  Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm.  Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình.  Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi.  Chúa tạo dựng tôi cho Chúa.  Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.

Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy.  Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…”  Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình.  Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình.  Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành.”  Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi.  Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai.  Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu.  Một con người trong Chúa Thánh Thần.

Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta.  Đó là gì?  Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn.  Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu.  Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần.  Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không?  Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi.  Vấn đề là tôi có múc mà uống không?  Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp.  Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.

Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.

Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ.  Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng.  Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm.  Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa.  Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần.  Amen!”

 ĐGM Nguyễn Văn Khảm

From Langthangchieutim gởi