Tôi chia em trọn kho tàng

Kho tàng của chúng ta (Nguyễn Trung Cang) – Elvis Phương

httpv://www.youtube.com/watch?v=tHjz8T2-3Cc

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 25 thường niên năm A 24/9/2017

“Tôi chia em trọn kho tàng. “
Tôi chia anh trọn kho tàng.
Niềm quý mến nhau là xâu chuỗi mầu,
Buồng tim yêu thương là châu báu.”

(Nguyễn Trung Cang – Kho tàng của chúng ta)

(Thư Rôma 6: 17)

  Trần Ngọc Mười Hai

“Kho tàng của chúng ta” sao? Ối chà chà, là bài hát! Ối giời ơi, là câu ca. Ca với hát cho hay, cũng chỉ đến như thế mà thôi! Bởi, còn gì hay bằng khi nghe lại những ca-từ đầy kim-cương/vàng bạc như sau:

 “Kim cương đây là môi cười.
Tôi xin chia phần cho người.
Từng ánh mắt vui, từng câu ấm lòng,
Từng câu yêu thương hằn trên môi.

Ta sẽ chia kho tàng

tình yêu cho anh em cùng dòng máu.
Ta sẽ chia kho tàng

tình thương cho khắp quê hương.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Chưa hết đâu. Chia kho tàng, tình thương khắp quê hương thôi, cũng chưa đủ. Nghệ sĩ nhà mình còn mua bán cả những “căm thù” nữa, vẫn ở đây:


“Tôi xin mua lại căm thù.

Tôi xin mua lại lao tù.

Bằng những cánh hoa cài trên áo người.

Bằng đôi tay non còn rướm máu.

 

Tôi dâng anh vạn chân tình.

Tôi dâng em trọn tim mình.

Đời sống sẽ vui dù ta có nghèo.

Người vui ta cùng vui theo.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

 

Lời lẽ trên đây, chính bần đạo bầy tôi này từng nghe được vào thập niên 1950s khi nhóm nhạc trẻ ABC, Ba Con Mèo và/hoặc Ba Trái Táo cứ là nhộn nhịp với ca nhạc và hát hò, vui khôn kể.

Thế còn, niềm vui nhà Đạo thì sao? Có “chia nhau trọn kho tàng”? Hoặc: “dâng anh vạn chân tình” không thế? Điều này không rõ, chỉ rõ có một điều là các đấng bậc nhà mình đã và đang bận tâm với vấn đề “Hôn-nhân đồng giới tính” xảy ra ở đây đó, như một nhận-định trên các “Bản tin Giáo xứ”, như sau:

“Hậu quả việc Quốc hội Úc tái định-nghĩa Hôn-nhân như sự kết-nối giữa hai con người dù đồng tính: 

 -mất tự do ăn nói: Không được đả động đến chuyện này

-mất tự do tín ngưỡng: chấp nhận đám cưới cho đồng tính 

-mất tự do lập hội: không được phản đối đám cưới của họ  

-mất tự do lương tâm: vì phản đối các đám cưới như thế

-giới-tính không còn xứng-hợp trong xã-hội

-tự-vựng “Mẹ” và “Cha” sẽ biến mất trong tự-điển

-sẽ có thay-đổi trong giáo-dục giới-tính

-bất an về giới tính sẽ gia-tăng nhanh-chóng

-quyền-hạn của bậc cha mẹ sẽ bị giỡ bỏ

-trường học nào không chịu dạy về đồng-tính luyến-ái và hôn-nhân đồng-tính sẽ phải đóng cửa.

 Việc bỏ phiếu tái định-nghĩa hôn-nhân là tự-nguyện, nên Đức TGm Anthony yêu-cầu các giáo-xứ hãy tham-gia đầu phiếu. Ai mới thay đổi địa chỉ với Uỷ-Ban Bầu-Cử Úc cần cập-nhật lại từ nay đến 24/8/17 bằng không sẽ trễ tràng nếu không được cập-nhật. Có thể cập-nhật địa chỉ ở trên mạng…” (Trích Tin Vắn trên Bản Tin Giáo Xứ Fairfield, NSW Úc ngày 2/8/2017)

Đồng giọng với Lm Michael de Stoops là chánh xứ nói ở trên, còn thấy có đấng bậc vị vọng nổi cộm của Tổng Giáo Phận Sydney, NSW Úc từng giải đáp thắc mắc của bổn đạo đặt ra như thế này:

“Thưa Cha,

Con trai con đã ngưng không còn thực-thi niềm tin đi Đạo cách nay nhiều năm rồi; và nay thì cháu nó đang sống trong tội lỗi với bạn gái của cháu. Cháu còn tuyên-bố rằng cháu không còn cầu nguyện gì được và cũng chẳng muốn đi nhà thờ dự lễ gì nữa hết. Đôi khi, lại vẫn nghĩ rằng cháu đã để mất đi sự tự-do quan-hệ với Chúa rồi, phải thế không thưa cha? Xin cho con vài lời chỉ dẫn.

 Gì chứ, chỉ vài lời chỉ-dẫn từ đấng bậc thôi, sẽ có ngay lập tức, như bên dưới:

“Để trả lời chị cho đúng phép, tôi nghĩ trước tiên ta phải làm cho sáng tỏ định nghĩa thế nào là “Tự do”, mới được. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo định nghĩa: “đó là quyền-uy/sức mạnh cắm rễ sâu nơi lẽ phải và ý-chí để hành-động hoặc không hành-động, để làm việc này hoặc việc kia và có thế mới thực-hiện hành-động một cách cân-nhắc có trách-nhiệm .” (Sách GLHTCG đoạn 1731).

Loài người đều có lý-trí, thông minh và ý muốn tự do, thế nên ta có thể chọn lựa quá-trình diễn biến hành-động rất khác-biệt. Loài thú không có được những thứ này, Chúng không có trí thông minh lý-luận cũng chẳng có chút tự-do nào hết, thành ra chúng không thể có được chọn-lựa theo tự-do. Thú vật chỉ biết làm theo bản-năng của chúng, mà thôi. 

Ở nơi loài người, ta có thể nhận ra sự khác-biệt giữa tự do mang tính chất bản-thể hoặc căn bản mà mọi người, với  tư cách là bản-thể người đều có được tự-do hiện-sinh, thực-thụ như mình có. Theo định-nghĩa đầu, con người có lý-trí và ý-chí tự-do, nên ai cũng có thể hành-động một cách tự do trên nền-tảng.

 Thế nhưng, cũng tuỳ cung-cách sử-dụng tự do ấy như thế nào, con người có thể từng nấc một gia-tăng hoặc giảm sút mức-độ tự-do của mình. Theo nghĩa này, thật rất đúng để nói là nhiều người có tự-do nhiều hơn một số người khác.

 Muốn hiểu điều này cho thấu-đáo, ta cần phải làm sáng-tỏ mục-đích của tự-do, nữa. Vấn-đề là hỏi rằng: tại sao Thiên-Chúa lại dựng nên con người có tự do như thế? Ta có được làm bất cứ thứ gì bất kẻ việc ấy tốt/xấu với ta như thế nào không? Không phải thế. Thiên-Chúa để cho ta san-sẻ sự tự-do của Ngài, thành ra ta có thể chọn-lựa một cách tự-do phục-vụ Ngài, làm điều tốt đẹp và phải lẽ; và như thế mới phát-triển tính-chất nhân-loại một cách đầy đặn hơn và cuối cùng về ở với Ngài mãi mãi trên thiên-quốc.

 Công đồng Vaticăng 2 cũng đã định-nghĩa tự-do theo nghĩa bảo rằng: “Thiên-Chúa muốn để con người tuỳ thuộc lời khuyên của lương-tâm để họ có thể tự ý tìm kiếm Đấng Tạo Hoá và tự do có sự toàn-hảo/toàn-thiện bằng một lòng thuỷ-chung với Ngài.” (X. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng đoạn 17; Sách GLHTCG đoạn 1730)

Nói tóm lại, mọi người chúng ta đều có tự-do tìm-kiếm Chúa và nhờ đó có được sự toàn-thiện và hạnh-phúc. Cả hai thứ ở đây, lúc này và mãi về sau. Theo nghĩa này, thì khi nói chữ “tự-do” là ta nói đến thứ tự-do tìm kiếm Chúa, và hoàn-thành trọng-trách đạt mục đích cao-cả ấy. Đó không là “tự do xuất tự Thiên-Chúa và luật-pháp của Ngài.”

 Thế nhưng, cũng tuỳ theo cách ta có được chọn-lựa nào, ta có thể từng bước gia-tăng sự tụ-do của ta để kiếm tìm Chúa và thực-hiện thánh-ý của Ngài hoặc làm giảm bớt những thứ ấy. Bằng việc cầu nguyện, nhận lãnh bí-tích cách đều-đặn, hoặc phấn-đấu nghe theo lương-tâm của ta mà làm những gì ta biết là đúng-đắn, tốt đẹp và tránh né những gì ta biết nó sai trái, có thế mới trưởng-thành trong đạo-đức và mới thấy dễ dàng phục-vụ Chúa. Càng ngày ta càng thấy mình tự do hơn để làm thế.

 Đổi lại, ta có thể ngưng không còn nguyện-cầu và nhận các phép bí tích, phớt lờ những điều mà lương-tâm khuyên ta làm và chỉ làm những gì mình thích và rồi cứ từ từ xa rời Chúa đi vào cuộc sống đầy tội lỗi. Đây là tình-cảnh mà con trai của chị đang rơi vào trong đó. Thay vì lớn lên trong nhân-đức, thì cháu lại tăng-trưởng trong sự xấu khiến ta thấy khó mà định đoạt thế nào là phải lẽ, thế nào sai. Làm như thế, tự khắc ta giảm-suy tự do của ta. 

Cuối cùng, ta cũng nên xem lời tóm tắt ở sách Giáo lý đoạn 1733, cũng cùng một ý tưởng viết trong thư của thánh Phaolô gửi cộng đoàn tín-hữu Rôma, những lời rằng:

 “Nếu như ta làm điều tốt ngày càng nhiều,

thì ta càng trở nên tự do nhiều hơn nữa.

Không thể có tự-do đích-thật

ngoại trừ lo phục vụ những gì là tốt đẹp và phải lẽ.

Nếu ta cứ chọn bất tuân-phục,

và chỉ làm sự xấu,

thì đó là hành-động lạm dụng tự-do,

và rồi cũng làm thân nô lệ tội lỗi, thôi.”

(Rm 6: 17)

Thánh Phêrô cũng từng viết bức thư thứ hai cho cộng-đoàn tín-hữu vẫn bảo rằng: “vì miệng họ nói những lời huyênh hoang rỗng tuếch, họ dùng những ham muốn xác thịt dâm ô mà nhử những người vừa thoát tay các kẻ sống trong lầm lạc. Họ hứa cho những kẻ đó được tự do, nhưng chính họ lại làm nô lệ cho lối sống dẫn đến hư vong, vì đã thua ai thì phải làm nô lệ người ấy.” (2P 2: 18-19)

Vậy nên, quả là điều quan-trọng biết bao khi ta biết sử-dụng sự tự-do của ta một cách khôn-ngoan không sai lạc.” (X. Lm John Flader, Is it possible to become less and less free? Question Time, The Catholic Weekly ngày 13/8/2017 tr. 25)   

Hôm nay đây, trích-dẫn lời lẽ của bậc thánh hiền trong Đạo về sự tự-do rất chính-đáng, cũng chỉ để luận phiếm cho vui, hoặc cho qua ngày đoạn tháng khi người người nói quá nhiều về thứ tự-do không theo nghĩa đích-thực của đạo-nghĩa, và Đạo Chúa.

Nói thì nói thế, với người đời thời buổi này, chẳng ai có sức thuyết-phục hoặc ép buộc mọi người phải làm những gì mà Đạo Chúa khuyên dạy. Như mọi lần, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên mời nhau đi vào vùng trời truyện kể để nghe

“Trong vườn hoa nhà thờ, vị linh mục nọ lang thang đi dạo chung với một thương-gia cùng với môn đồ trẻ lẽo đẽo đi sau nghe chuyện. Xem ra, câu chuyện giữa vị linh mục và lão thương-gia có vẻ hấp dẫn. Nhà buôn nói:

-50 ngàn đôla được không, thưa ngài?

Vị linh-mục nọ đáp lại một cách gọn lỏn:

-Không được!

-Thế vậy đề-nghị với ngài là 100 ngàn đôla cũng được chứ, phải không?

 Thấy linh mục nọ chẳng nói thêm điều gì, thương-gia nhà ta bèn thưa tiếp:

Thôi được, cấp trên bảo: tôi có tự do ra giá, vậy thì tôi đề-nghị 500 ngàn đola vậy

Nghe vậy, vị linh mục vẫn chẳng trả lời thêm câu nào. Thấy thế, môn-đồ trẻ hỏi;

-Sao cha nói có tự do đề xuất giá cả cơ mà?

-Về chuyện này, cha đây không có chút tự do nào để làm hết.

-Ai mà chẳng có tự do chịu giá, cơ chứ?

-Đây thì không, vì ông ấy đề-nghị với ta là: mỗi lần đọc xong bất cứ bài nào trong thánh lễ, thay vì nói “Đó là Lời Chúa”, ngài cứ vui vẻ bảo “Đó là nguồn suối Coca-Cola” theo cách rất tự do, là xong ngay.

-Không được phạm-thượng như thế!”

(Trích truyện cười lạt lẽo lấy từ trên mạng vi-tính)        

 Hiển nhiên là, ai cũng có đủ mọi thứ tự-do, cả trong chuyện ăn nói, trả giá và giao hàng, được hết. Nhưng, ở đây hôm nay, ta không đặt thành chuyện nghiêm-chỉnh chút nào, chỉ mỗi đưa ra vấn-đề, là hỏi rằng: bậc cha/bác trong nhà Đạo, dù có quyền phép như “Đức Chúa Trời con”, các “đức ngài” vẫn chỉ có thứ gọi-là “tự do trong khuôn-khổ”, mà thôi.

Tự do, thật ra không có nghĩa: muốn làm gì thì làm. Dù chuyện đó, có là chuyện luật pháp hoặc đạo-đức hay không. Có tự-do, là có trách-nhiệm. Trách-nhiệm, về hành-động mình làm. Trách-nhiệm, cả về hậu-quả kéo theo sau đó.

Tóm lại, tự-do là nhận-lãnh trách-nhiệm khi tra tay làm việc gì đó theo đúng lương-tâm mình đòi hỏi, dù không tạo lợi/lộc gì cho chính mình cả. Tự-do, với người trong Đạo/ngoài đời, là làm điều tốt-đẹp cho mình và cho người, đúng với lương-tâm từng chỉ vẽ cách mình hành-động.

Nói cách khác, tự-do và trách-nhiệm, hoặc tự-do trong trách-nhiệm, là hai phạm-trù luôn sánh đôi, song-hành ở mọi nơi, vào mọi lúc, trong đời người.

Trong tinh-thần hãnh-tiến thực-hiện những gì được lương-tâm hoặc truyền-thống nhà Đạo khuyên-dạy, mời bạn và tôi, ta cứ thế hiên-ngang hát lại ca-từ nhạc trẻ những hát rằng:

“Tôi chia em trọn kho tàng. “
Tôi chia anh trọn kho tàng.
Niềm quý mến nhau là xâu chuỗi mầu,
Buồng tim yêu thương là châu báu.

Kim cương đây là môi cười.
Tôi xin chia phần cho người.
Từng ánh mắt vui, từng câu ấm lòng,
Từng câu yêu thương hằn trên môi.
Ta sẽ chia kho tàng

tình yêu cho anh em cùng dòng máu.
Ta sẽ chia kho tàng

tình thương cho khắp quê hương.”

 Và:

“Tôi xin mua lại căm thù.

Tôi xin mua lại lao tù.

Bằng những cánh hoa cài trên áo người.

Bằng đôi tay non còn rướm máu.

Tôi dâng anh vạn chân tình.

Tôi dâng em trọn tim mình.

Đời sống sẽ vui dù ta có nghèo.

Người vui ta cùng vui theo.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cứ ngâm nga

những câu ca tựa hồ như thế

rất tự-do.

Người giàu sụ Việt Nam tiêu tiền vào đâu?


Số du khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài tăng mạnh trong những năm gần đây (ảnh minh họa).

Số du khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài tăng mạnh trong những năm gần đây (ảnh minh họa).

“Ở Việt Nam có một số người giàu lên rất nhanh,” Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương Việt Nam cho biết. “Họ giàu lên một cách quá dễ dàng và không phải kinh doanh gì. Cho nên số người đó có khả năng chi tiêu rất lớn và họ cũng sẵn sàng chi tiêu.” Các con số mà tạp chí Forbes đưa ra về các chi tiêu nước ngoài, mua nhà ở Hoa Kỳ theo ông Doanh, “là những con số tuy có thể cần được xác minh thêm, nhưng là những có số từ các nguồn khác nhau có sự trùng hợp, cho nên có một khả năng tin cậy nhất định.”

Một lượng tiền lớn của người giàu Việt Nam đang được đầu tư vào bất động sản ở nước ngoài. “Mua nhà ở Mỹ, ở Australia, ở New Zealand — là những khoản chi rất lớn,” theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, “để họ còn chuẩn bị ra nước ngoài định cư.”

Các lãnh vực “nước ngoài” khác mà người giàu Việt Nam đang tiêu tiền vào được tạp chí Forbes liệt kê còn có du lịch nước ngoài. Du khách Việt Nam có thể dễ dàng du lịch đến các nước trong khu vực với những chuyến bay đường ngắn, giá vé rẻ đang rất thịnh hành; họ lại được miễn visa du lịch vào các nước thuộc Hiệp hội các Quốc gia Ðông Nam Á, khối có dân số 630 triệu người.

Báo Vietnam Net dẫn số liệu thống kê trong nước nói rằng số người Việt Nam đi du lịch Nhật Bản đạt đến 230,000 lượt người từ năm 2012 đến 2016, và ước tính đến năm 2021 sẽ có khoảng 7,5 triệu người du lịch nước ngoài.

Về nhu cầu chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ở nước ngoài, theo Forbes, người giàu Việt Nam dần chuyển nhu cầu về chăm sóc sức khỏe từ dịch vụ, dược phẩm, mỹ phẩm rẻ tiền, không tên tuổi sang các loại đắt tiền mang thương hiệu nổi tiếng. Báo cáo của hãng nghiên cứu thị trường Euromonitor International đánh giá rằng thị trường chăm sóc sức khỏe của Việt Nam tăng mạnh trong năm nay. Còn hãng nghiên cứu thị trường Neilson thì nói rằng chăm sóc sức khỏe là quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng Việt Nam.

“Chi cho du lịch khoảng hơn 6 tỉ đôla, khoản chữa bệnh khoảng 3 tỉ đôla, và mua nhà ở Hoa Kỳ khoảng 3 tỉ đôla, tổng cộng lại khoảng 12 tỉ đôla,” theo nhận định của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Xài hàng Nhật, theo phân tích của Forbes, thì người tiêu dùng Việt Nam nói họ thường tránh mua hàng Trung Quốc vì hàng hóa nhập từ nước có lịch sử “ức hiếp chính trị” Việt Nam này có chất lượng kém. Xe máy, đồ điện tử và hàng tiêu dùng của Nhật luôn được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng. Gần đây mỹ phẩm và nhiều loại hàng tiêu dùng của Hàn Quốc cũng đang mở rộng thị phần ở Việt Nam.

iPhone của Apple và Galaxy Note của Samsung bán rất chạy ở Việt Nam vì nhu cầu máy điện thoại cầm tay tiếp tục tăng mạnh. Những chiếc điện thoại cầm tay đắt tiền này vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng vừa là “đồ trang sức.” Điện thoại Oppo của Trung Quốc chiếm thị phần lớn thứ hai tại Việt Nam.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh phân tích: “Dĩ nhiên là các chi tiêu nước ngoài đó không đóng góp gì được cho tăng trưởng GDP ở trong nước. Vì tăng trưởng GDP trong nước là phải tạo ra công ăn việc làm, và tạo ra giá trị gia tăng.”

Về mặt xã hội, theo Tiến sĩ Doanh thì xu hướng chi tiêu nước ngoài này càng đào sâu hố phân cách giàu nghèo: “Điều đó nói lên sự chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam rất đậm nét, vượt quá dự đoán của các nhà kinh tế. Người nghèo thì vẫn rất nghèo, người ta thấy những cảnh như qua thiên tai bão tố mới đây.”

Nhóm tư vấn Boston Consulting Group của Mỹ ước tính sự giàu có lên tiếp tục tăng mạnh tại Việt Nam. Nhóm này ước tính đến năm 2020, một phần ba dân số của Việt Nam sẽ ở vào tầng lớp trung lưu hoặc cao hơn, có nghĩa là mức thu nhập bình quân của một người trong nhóm này tối thiểu là 714 đôla một tháng.

Hòa hợp-Hòa giải: Liệu có thành?

Hòa hợp-Hòa giải: Liệu có thành?

Hòa Ái, phóng viên RFA
2017-09-20
 
Nhà thơ Hữu Thỉnh (bìa trái) và Nhà văn Phan Nhật Nam (bìa phải).

Nhà thơ Hữu Thỉnh (bìa trái) và Nhà văn Phan Nhật Nam (bìa phải).

 Photo: RFA
 

Vấn đề “hòa hợp hòa giải dân tộc” lại được dấy lên qua sự kiện nhà văn hải ngoại Phan Nhật Nam từ chối lời mời của Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam về tham dự Cuộc gặp mặt giữa Hội nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài.

Từ chối thư mời

“Hãy hòa hợp với người dân trong nước. Rồi chúng tôi sẽ về”. Đó là trả lời của Nhà văn Phan Nhật Nam, tác giả của những tác phẩm gắn liền với cuộc chiến Việt Nam như “Mùa Hè Đỏ Lửa”, nói với RFA khi được hỏi về thư mời của chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam gửi cho ông vừa qua.

Cụ thể Nhà văn Phan Nhật Nam nhận được thư điện tử của ông Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, vào đầu tháng 9. Nội dung mời về tham dự Cuộc gặp mặt giữa Hội nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài, dự kiến diễn ra từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 10, tại Hà Nội và khu vực phía Bắc.

Lời lẽ trong bức thư mời của Nhà thơ Hữu Thỉnh, trong vai trò Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam được cho là thân tình với mong mỏi ‘vượt qua mọi xa cách, trở ngại để ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp và dù rằng có thể có những khó khăn, nhưng hãy vì “Dân Tộc” để vượt qua tất cả.

Tôi sống bảy mươi mấy năm. Tôi đi khắp thế giới, tôi thấy cho dù một đất nước nào có hoang dã cách mấy thì cũng không có chế độ nào giống như ở Việt Nam. Đâu phải là Đảng Cộng Sản nữa! Đó là một chế độ của côn đồ. Cứ lấy sách vở của Karl Marx, Lenin, Engels ra mà đọc. Chế độ Cộng sản không phải vậy
-Nhà văn Phan Nhật Nam 

Trong thư từ chối của mình, tự xưng là một “người lính-Viết văn”, Nhà văn Phan Nhật Nam cũng nêu rõ trên tinh thần vì dân tộc Việt, ông đề nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam điều chỉnh một cách thành thực danh xưng mà ông này cho là có tính miệt thị đối với người lính và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trước đây; tức gọi “Ngụy quân-Ngụy quyền”. Ông Phan Nhật Nam nói rõ chính quyền Hà Nội cần chấm dứt các hình thức chống đối Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cũng như cho sửa sang các phần mộ tại nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Ông nhấn mạnh trong thư hồi đáp rằng Chính quyền Việt Nam cần thiết phải thương yêu 90 triệu người dân trong nước và hãy thành tâm hòa giải với họ trước thì ông tin rằng những người Việt hải ngoại như ông sẽ về mà không cần phải mời.

Nhà văn Phan Nhật Nam phát biểu với RFA về quan điểm của ông đối với chính sách “hòa hợp hòa giải dân tộc” mà phía Đảng Cộng Sản Việt Nam đưa ra:

“Cắt cổ người dân vô tội ở trong đồn công an, mà bảo rằng người ta tự vẫn. Rồi, Thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa: VNCH), người trẻ nhất cũng sáu mươi mấy tuổi, 70-80 tuổi, què chân, cụt tay, mù mắt…sống không ra dạng người; thế mà đả đảo Thương phế binh VNCH thì đả đảo cái gì? Người ta đi biểu tình cũng đánh. Các vụ dân oan. Vụ cá chết do Formosa gây ra, từ ngày mùng 6 tháng 4 năm ngoái cho đến nay mà bảo rằng môi trường đó là tốt…

Tôi sống bảy mươi mấy năm. Tôi đi khắp thế giới, tôi thấy cho dù một đất nước nào có hoang dã cách mấy thì cũng không có chế độ nào giống như ở Việt Nam. Đâu phải là Đảng Cộng Sản nữa! Đó là một chế độ của côn đồ. Cứ lấy sách vở của Karl Marx, Lenin, Engels ra mà đọc. Chế độ Cộng sản không phải vậy.

Tôi không thù hận và giận dỗi ai hết. Nhưng phải làm những điều cho hợp lý.”

Cần làm gì để “hòa hợp, hòa giải”?

Việc mời Nhà văn hải ngoại Phan Nhật Nam được cho là bước tiếp theo trong việc thực hiện đề nghị cũng của chính ông Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam đưa ra hồi trung tuần tháng Giêng năm nay. Đó là sẽ mời các nhà văn, nhà thơ người Việt hải ngoại, kể cả những người cầm bút phục vụ chế độ cũ (Việt Nam Cộng Hòa) về nước để “giao lưu với tinh thần hòa hợp dân tộc văn học”.

Qua đề nghị của Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam đương nhiệm, mà được cho là chưa từng có kể từ sau cuộc chiến tranh Việt Nam, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đưa ra nhận xét với RFA rằng đây là một tín hiệu tốt vì trong lãnh vực nghệ thuật thì những nhà văn luôn hướng đến con người và nhân văn. Ông nói nếu như phía phát tín hiệu từ trong nước là thật tâm và thật tình thì người Việt ngoài nước cũng nên đáp ứng. Tuy nhiên, ông Phạm Xuân Nguyên khẳng định để thực hiện đề nghị của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam cũng cần có thời gian và phải tuân theo nguyên tắc chung là được tự do viết và tự do xuất bản tại Việt Nam.

Phải hoà giải với giới bất đồng chính kiến trong nước trước. Bởi vì họ thấy giới bất đồng chính kiến trong nước còn bị đàn áp thì làm sao họ tin để trở về được
-TS. Phạm Chí Dũng

Liên quan đến chủ trương “hòa hợp hòa giải dân tộc” của Nhà nước Việt Nam, Đài Á Châu Tự Do ghi nhận đa số người Việt hải ngoại cùng lên tiếng Đảng Cộng Sản Việt Nam hãy nhanh chóng thực hiện việc hòa giải với người dân trong nước, như cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rằng:

“Hòa giải với dân chúng, hòa giải với đảng phái, hòa giải với tôn giáo, hòa giải với tất cả những người trong nước. Có hòa giải được rồi thì mới hòa hợp được với người dân trong nước, làm sao cho dân chúng tin thì lúc đó hãy nói chuyện với người Việt hải ngoại”.

Một số nhân sĩ trí thức trong nước cũng đồng quan điểm như thế, như Nhà báo độc lập-Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, yêu cầu việc làm cần thiết nhất của nhà cầm quyền Hà Nội là:

Phải hoà giải với giới bất đồng chính kiến trong nước trước. Bởi vì họ thấy giới bất đồng chính kiến trong nước còn bị đàn áp thì làm sao họ tin để trở về được?”

Những người Việt trong và ngoài nước mà chúng tôi tiếp xúc bày tỏ không rõ bao giờ Đảng và Nhà nước Việt Nam lắng nghe cũng như thể hiện thiện chí “hòa hợp hòa giải dân tộc” theo tinh thần thật tâm và thật tình như nhận định của Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên?

Thứ trưởng Tài chính: Tăng thuế VAT không ảnh hưởng tới người nghèo

From facebook:   Ngua O Chu
Vừa nói vừa cười, loại người không thật ! 

Có 1 thằng cộm cũng thuộc loại này, nhìn là biết ngay (đã rụi)!

Lãnh đạo Bộ Tài chính và nhiều bộ ngành khác đã giải đáp các câu hỏi dư luận quan tâm tại họp báo của Văn phòng Chính phủ chiều 30/8.
GIADINH.NET.VN
 
 

TÁCH CÀ PHÊ CUỘC ĐỜI

TÁCH CÀ PHÊ CUỘC ĐỜI

 

Một nhóm sinh viên, sau khi tốt nghiệp ra trường đều có công việc tốt, rủ nhau về thăm thầy giáo cũ. Sau một hồi trò chuyện, họ bắt đầu phàn nàn về những căng thẳng trong công việc cũng như cuộc sống.

Nghe vậy, thầy đi vào bếp và quay trở ra với một bình cà phê lớn cùng những chiếc tách khác nhau. Chiếc bằng sứ, chiếc bằng nhựa, chiếc thuỷ tinh, chiếc bằng pha lê, có vài chiếc tách trông rất đơn giản, nhưng cũng có cái rất đắt tiền. Người thầy bảo các học trò tự chọn tách và rót cà phê cho mình. Sau khi mỗi người đều đã có một tách cà phê, ông bắt đầu nói:

– “Nếu chú ý, các em sẽ nhận ra điều này. Những chiếc tách đắt tiền và đẹp đều được lấy hết, chẳng ai đụng đến những chiếc tách rẻ tiền cả. Điều này thật bình thường vì ai chẳng muốn chọn cho mình cái tốt nhất, nhưng điều ấy lại chính là nguồn gốc của mọi vấn đề rắc rối trong cuộc sống của các em.

Điều mà chúng ta thực sự cần là cà phê, chứ không phải chiếc tách, nhưng ai cũng vội vàng chọn những chiếc tách tốt nhất, rồi sau đó liếc mắt qua người bên cạnh để xem tách của họ có đẹp hơn tách của mình không.

Bây giờ mọi người hãy suy ngẫm điều này nhé!

Cuộc sống chính là cà phê, còn công việc, tiền bạc và địa vị xã hội chính là những chiếc tách.
Chúng là công cụ để giữ và chứa đựng cuộc sống, và không làm thay đổi phẩm chất  cuộc sống chúng ta. Đôi khi, vì chúng ta cứ tập trung vào ‘chiếc tách’, và bỏ qua việc thưởng thức hương vị cà phê mà cuộc sống tặng cho chúng ta”.

– Người hạnh phúc nhất không phải là người có tất cả những thứ tốt nhất. Họ chỉ trân trọng mọi thứ mà họ có.

Hãy sống đơn giản,
trao yêu thương,
quan tâm sâu sắc
và nói những lời đẹp đẽ.

Namo Buddhaya

From  Kim Bằng Nguyễn 

 

GANH TỴ

GANH TỴ

 Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi.  Nó biến đổi mà không phải là biến mất.  Nó lui vào hậu trường nằm chờ cơ hội để cho mối ganh tị khác chiếm hữu trên sân khấu cuộc đời.  Bằng chứng rõ ràng là có những ganh tị xảy ra lúc còn nhỏ, sau này thành người lớn nó lại xuất hiện, và ngay cả tuổi cao niên nó vẫn còn tái diễn, trình làng.  Nhiều vụ kiện cáo vì tranh nhau miếng cơm, manh áo.  Nhiều người ham quyền cố vị vì ganh nhau ăn trên, ngồi trên, có cơ hội đọc diễn văn, tuyên bố, phát ngôn.

Cuộc sống Đông Tây đều có những điểm giống nhau như lúc nhỏ hay ganh ăn.  Lớn hơn chút ganh chơi.  Tuổi thiếu niên ganh nói.  Tuổi thanh niên ganh xe mới.  Tuổi sắp sửa lập gia đình ganh bồ nhí.  Tuổi vào đời ganh nhà cao, cửa rộng, ganh chức tước, ganh tiền, hám danh.  Có đủ ăn mặc, ganh đi đây đó.  Khi về già ganh viện dưỡng lão, và khi chết ganh đám táng lớn, mồ cao, mả rộng.

Ganh về tâm lí phát xuất do tự kiêu.  Cho là mình hơn người mà không được trọng dụng.  Cờ không đến tay không được phất.  Chỉ trích, phê bình cho tài người xuống đề cao tài mình lên.  Ganh trong trường hợp đó thường hay có phản ứng ngược vì càng cố khoe tài càng vạch ra nhiều kẽ hở bất tài.

Về của cải vật chất ganh tị nói lên điều không hài lòng, còn thiếu.  Nếu hài lòng đã không ganh.  Ganh vì tự thấy còn thiếu, muốn có hơn, nhiều hơn.  Ganh vì lòng tham cũng có mà vì nghĩ về mình cũng nhiều.  Nhiều người vay công, mượn nợ để trang hoàng nhà cửa, trưng đeo trên người để tỏ ra mình cũng như người hoặc hơn người.

Ganh ăn chính là trường hợp của người công nhân phàn nàn với ông chủ sau khi đã thoả thuận tiền công nhật là một đồng.  Ông ta than phiền là phải vất vả nắng nôi suốt ngày.  Người thợ thuê giờ sau hết cũng chịu nắng nôi giữa chợ suốt ngày.  Cộng thêm cái lo lắng gia đình lấy của đâu ra cho bữa ăn tối.  Đang lúc anh tuyệt vọng thì ông chủ đến cứu vớt anh.  Không phải chỉ mình anh được ấm no, hạnh phúc mà cả gia đình anh, chung bữa cơm tối, được tụ họp xum vầy.  Điều này cho thấy thực thi bác ái cho người nào đó thì không phải mình người đó hưởng mà cả người thân được hưởng nhờ việc tốt lành.

Nhóm thợ thuê buổi sáng sớm còn được bàn thảo giá cả thuê mướn công nhật.  Nhóm thợ thuê vào giờ sau cùng không hề dám hé môi đặt vấn đề lương bổng.  Có người thuê là mừng rồi.  Còn đâu cơ hội để bàn định giá cả.  Làm nguyên ngày có bữa cơm ngon; làm nửa ngày mong chén cháo lỏng.  Dẫu thế, có vẫn hơn không.  Nhóm thợ đầu tiên biết tiền công nhật một đồng một ngày.  Nhóm thợ thứ hai nhận lời hứa được trả công xứng đáng.  Nhóm thợ thứ ba không được hứa gì cả chỉ biết thế nào cũng được trả công.  Ít nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào lòng tốt của chủ vườn nho.  Chủ vườn nho thuê thợ không phải vì cần mà vì lòng thương họ bơ vơ, không công việc làm nuôi thân.  Chính ông xác định điều này.  Nếu cần thợ cho vườn nho có lẽ ông đã thuê sáng sớm.  Ông thuê vào giấc giữa trưa, gần tối vì thấy thợ chờ suốt ngày không ai thuê nên ông thuê.  Thuê vì thương hại hơn là nhu cầu.  Như thế việc ít, thợ nhiều.  Nếu tính lợi người ta đã chọn thợ giỏi, lành tay nghề.  Ông chủ vườn nho không tính lợi cho mình mà nghĩ đến an sinh của thợ nhiều hơn.  Làm như thế ông thiệt về tài chánh nhưng lợi về đàng nhân đức, đàng nhân lành.

Người thợ lên tiếng phàn nàn nếu có lòng thương người hẳn phải nhìn biết ông chủ là người tốt và mang lòng cám ơn.  Đàng này điều anh ước mong không thoả nên anh lên tiếng phàn nàn.  Anh thấy lòng tham của anh mà không thấy lòng tốt của ông chủ vườn nho.  Cách nhìn này khá thông dụng giữa các Kitô hữu.  Chúng ta hay than phiền về cuộc sống, về đau khổ, về bệnh tật, về rủi ro mà không nhìn thấy Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.  Chúng ta cũng hay ghen với người này, bì với người khác mà không biết đem lòng cảm tạ những ơn Chúa ban.  Chúng ta không dùng khả năng phát triển tài năng Chúa ban mà phí phạm tài năng vào việc tìm tòi, để ý phê bình, ghen với người khác.  Người mình phê bình thường là người quen, người từng làm ơn hay là bạn chân tình.  Chúng ta thử áp dụng câu ông chủ vườn nho nói với chính mình.  Đặt mình vào chỗ người ghen tị với bạn bè, bà con để xét xem việc mình ganh tị xứng đáng hay mình đang chê trách lòng nhân từ của ông chủ.

Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?  Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?  Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?

Lm Vũ Đình Tường

****************************** ***************

Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.

 Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

 Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.

 Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
 

Rabbouni 

From Langthangchieutim

TÔI ĐI HỌC

From facbook:  Văn Lang‘s post
 
 
 
TÔI ĐI HỌC

Cha mất sớm, mẹ một mình quang gánh nuôi bốn đứa con thơ lúc tôi chưa đến tuổi đi học.

9 năm từ tiểu học đến hết trung học đệ nhất cấp, học sinh chỉ phải đóng một khoản tiền nhỏ gọi là “Niên Liễm”, riêng anh em tôi thì được miễn. 
Mẹ bận túi bụi vào việc cơm áo nên chẳng còn thời giờ bảo bạn gì, chuyện dạy dỗ chúng tôi giao hết cho nhà trường. 
Thời ấy, việc học thật nhẹ nhàng mà hiệu quả. Tôi còn thừa ối thời gian để đọc vô số tiểu thuyết (thứ mà tôi rất mê ngay từ năm lớp 4) trong thư viện trường. Lại còn thời gian để tự củng cố kiến thức thường xuyên, nên sự học rất chắc chắn. Suốt 9 năm, tôi chẳng tốn một đồng để “học thêm” ngày nào cả. 
Và tôi học giỏi, tôi không hư hỏng, tôi biết sống nhân nghĩa và không quá nhu nhược hay bàng quan trước những bất công xung quanh.

Đó là mảnh đất giáo dục của VNCH mà tôi may mắn được gieo trồng ngay từ những năm đầu quyết định nhân phẩm của một con người. 
Xin cảm ơn!

Tiết lộ của một Việt kiều về điều hay nhất của nước Mỹ

 From facebook:  Chanh Dang

Tiết lộ của một Việt kiều về điều hay nhất của nước Mỹ

Nước Mỹ không phải thiên đàng, nhưng cũng không phải địa ngục. Nước Mỹ hay nhất thế giới ở chỗ chấp nhận những người đến đây làm việc, cố gắng, cần cù.

Thấy tôi du lịch khắp nơi, nhiều bạn tưởng tôi nhiều tiền. Sự thật tôi chỉ là một người Mỹ trung bình. Thời tuổi trẻ tôi làm việc hùng hục như người Mỹ. Làm việc nhiều, đóng thuế nhiều, để dành nhiều.

Ngày già, tôi cũng như nhiều người Mỹ thuộc giới trung lưu, có lợi tức khả quan, lãnh mỗi tháng đến chết. Những người Việt Nam không may mắn đến đây lúc tuổi già, lãnh tiền nhân đạo mỗi tháng 500-600 đô la đem về Việt Nam sống là vua rồi. Người Mỹ trung bình lương hưu trí nhiều hơn vậy nên cuộc sống đáng sống lắm.

Đầu tháng 5 năm 1975, chúng tôi đã đến New York, theo phái đoàn nhân viên ngân hàng Chase Sài Gòn. Lúc đó, báo chí Mỹ như tờ “The New York Times” đều đăng tin. Mỗi gia đình nhân viên Chase Sài Gòn được một gia đình chức sắc Chase New York nhận về giúp đỡ một thời gian. Lúc chúng tôi hiểu rõ hơn về đời sống ở Mỹ, và thoải mái phần nào với tiếng Mỹ, chúng tôi được ra riêng, dọn về khu phố nhiều người Việt Nam sống.

Ưu điểm của người Việt ở Mỹ là cần cù, cố gắng làm việc, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết mình, không so đo, cải cọ hay bực bội với sếp hay đồng nghiệp. (Ảnh minh họa)

Lúc chúng tôi ra riêng, ở khu tôi ở có một vài gia đình người Việt Nam cũng mới đến đây như tôi. Sống chung với đồng hương trong xóm cũng hay lắm. Thỉnh thoảng, ngày nghỉ đi chợ, nghe họ nói tiếng Việt với nhau, tôi thấy trong lòng vui quá, đỡ nhớ nhà.

Thời mới đến, tôi nhớ nhà nhiều lắm. Mỗi lần nghe John Denver ca bản “Country road take me home” (Đường làng ơi, hãy đưa tôi về nhà…) tôi lại khóc tức tưởi, rất buồn. Hoặc mỗi lần nghe Madonna ca bản “Don’t Cry For Me Argentina” (Argentina ơi, đừng khóc cho tôi…), tôi bắt đầu khóc.

Lúc ban đầu, trong xóm tôi ở chỉ có vài gia đình ngân hàng Chase. Nhân viên Chase Sài Gòn được chia làm hai nhóm định cư.

Nhóm có lợi tức cao, gia đình ít con, mướn nhà ở một khu khang trang bên Hoboken, tiểu bang New Jersey, bên kia sông Hudson.

Nhóm có lợi tức thấp, gia đình đông con, mướn nhà ở một khu rẻ tiền hơn ở quận Queens thành phố New York. Gia đình tôi ở khu này, vợ chồng và 4 con ở chen chúc trong căn hộ (apartment) 2 phòng ngủ.

Dần dà người Việt Nam từ từ dọn đến khu tôi ở, vừa rẻ, vừa có sẵn một nhóm Việt Nam, vui lắm. Người Việt tới đông quá, nên tôi thường gọi đây là Xóm Việt Nam. Lúc đó chúng tôi đối xử với nhau như người Việt Nam sống xa quê hương, không phân biệt Công Giáo, Phật Giáo, hay địa phương.

Hoàn cảnh lịch sử làm chúng tôi hiểu nhau hơn, thương nhau hơn, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hơn. Người Nam nấu ăn món Nam, xong mời bạn bè Bắc và Trung thưởng thức. Ngược lại, tôi cũng được các gia đình Trung và Bắc mời mọc, nên chúng tôi hiểu văn hóa của nhau nhiều hơn, chấp nhận nhau hơn lúc ở Sài Gòn.

Gia đình của tôi sau này là một nước Việt Nam nho nhỏ. Con rể của tôi là người Bắc Hà Nội di cư. Dâu của tôi người Huế, chưa bao giờ biết Sài Gòn. Đặc biệt gia đình bên dâu của tôi gốc người Hoa (người Việt gốc Hoa). Đúng như một người nào đó nói, Mỹ là một “melting pot (nồi lẩu), một nơi hóa giải mọi khác biệt màu da, chủng tộc, và địa phương.

Nhờ sống chung với nhau trong xóm, nên chúng tôi ủng hộ tinh thần lẫn nhau, mạnh dạn bắt đầu lại. Chúng tôi cùng chung hoàn cảnh, nên hiểu nhau, chia sẻ kinh nghiệm với nhau, nên mặc dầu sống dưới đáy xã hội, chúng tôi cũng chịu được. Ai cũng cố gắng tìm việc làm, ai cũng có gắng gởi thùng đồ về cho gia đình bên Việt Nam bán lại.

Sống trong xóm Việt Nam vui lắm. Lúc đó trong xóm có hai bà, một bà đui và một bà què. Bà đui cõng bà què đi chợ, nói chuyện tiếng Việt inh ỏi, ngồi uống cà phê ngó ra cửa sổ nhìn cảnh tượng này, tôi thấy thương người Việt Nam mình vô cùng.

Nhờ sống gần nhau, nên mỗi dịp cuối tuần, các bà bày ra nấu ăn món này món kia, thí nghiệm cách dùng “ingredient” (nguyên liệu) tìm được ở chợ Mỹ, để biến chế nấu nướng các món ăn Việt Nam. Đây là một kỹ năng quí giá, ai học được, hay nói đúng hơn khám phá ra được cách nấu, truyền thụ và chia sẻ với các bạn trong xóm, nên cuộc đời dễ chịu lắm. Ở Mỹ mà còn ăn được thức ăn Việt Nam, lúc đó quý lắm.

Gần xóm tôi ở có một nhà thờ Công giáo. Ở đây có một Cha người Việt từ Rome qua sống. Nhờ ông tổ chức thỉnh thoảng người Việt Nam gặp nhau, ăn cơm Việt, ca hát tiếng Việt. Tinh thần Việt Nam trong xóm nhờ vậy đỡ cô đơn, sống lây lất qua ngày mấy năm. Mỗi lần tổ chức như vậy, vợ tôi nấu nướng một số thức ăn đem tới, con tôi tham gia văn nghệ giúp vui, cuộc sống như vậy cũng bận rộn, nếu không muốn nói là vui.

Tôi bận rộn nhiều, vừa học vừa đi làm. Cuộc đời chỉ dễ thở khi tôi dứt khoác với quá khứ dạy học, viết văn, làm sách ở Sài Gòn, để học MBA chuyên môn về vi tính áp dụng trong thương mại. MBA là Master of Business Administration (Thạc sĩ quản trị kinh doanh). Hơn 35 năm trước, Phố Wall cần tự động hoá (automation), nên những người như tôi dễ kiếm việc làm lắm. Cuộc đời tôi thay đổi từ đó.

“Tôi thấy nhiều bạn hiểu sai về xã hội Mỹ. Nhiều bạn nói đến Mỹ không cần làm gì cả, cuối tháng Obama liệng tiền qua cửa sổ cho bạn xài” (Ảnh minh họa)

Các bạn trẻ muốn tới Mỹ học hoặc làm việc, các bạn có biết ưu điểm và điểm yếu của người Mỹ gốc Việt là gì không? Ưu điểm của chúng ta là cần cù, cố gắng làm việc, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết mình, không so đo, cãi cọ hay bực bội với sếp hay đồng nghiệp.

Ưu điểm của người Mỹ gốc Việt thế hệ tôi ra đi năm 1975, là chúng tôi đã có sẵn một mớ kiến thức đại học, nên dễ dàng học lại ở Mỹ. Học xong MBA, tôi còn học thêm nhiều “Advanced Certificate” về Tài Chánh (Finance) và Business Economics (Kinh tế học áp dụng trong quản trị xí nghiệp) v.v.., nên khả năng chuyên môn được quý trọng ở Phố Wall lúc đó.

Ở Mỹ nếu các bạn tìm được việc làm đúng khả năng, lương bổng ở đây thoải mái lắm. Làm việc ở Phố Wall vài năm, lần vui nhất là tôi được hãng Consultant (Cố vấn, chuyên viên) nơi tôi làm việc thưởng một chuyến du lịch Âu Châu cho vợ chồng. Lúc đó họ nói là tặng chúng tôi “A trip for two” (một chuyến du hành cho 2 người), hay lắm.

Từ đó cuộc đời tôi đã đổi khác. Thú vui du lịch, đi, thấy, và hiểu thế giới bao la ngoài Việt Nam và Mỹ, bắt đầu nảy nở từ chuyến đi này. Từ Mỹ tôi bay qua London thăm viếng thành phố này, sau đó đi Pháp, Bỉ, Tây Đức, Áo, Ý Đại Lợi, và Paris, sau đó bay trở về Mỹ. Thật là một chuyến du hành mở mang kiến thức về thế giới.

Bây giờ nghĩ lại tôi thấy nước Mỹ không phải thiên đàng, nhưng cũng không phải địa ngục. Nước Mỹ hay nhất thế giới ở chỗ chấp nhận những người đến đây làm việc, cố gắng, cần cù.

Đặc biệt, họ rất đãi ngộ những chuyên viên giúp đất nước này khá hơn. Các bạn nghe nói nhiều về một vài người Việt Nam thành công ở Mỹ, giàu có, tiếng tăm, quyền lực.

Tôi chỉ là một người Mỹ trung bình, không quyền lực, không tiếng tăm, không giàu có nhưng tôi cũng sống được tự do như mọi người. Đó là điểm son của xã hội Mỹ.

Đọc blog các bạn, tôi thấy nhiều bạn hiểu sai về xã hội Mỹ. Nhiều bạn nói đến Mỹ không cần làm gì cả, cuối tháng, Tổng thống Obama liệng tiền qua cửa sổ cho bạn xài. Cứ ở không tha hồ đi chơi, ở Mỹ ăn mì gói, để dành tiền về Việt Nam làm Vua.Thật tình ở Mỹ, nếu các bạn ở không các bạn cũng sống được, nhưng không huy hoàng và đáng sống bằng người cố gắng làm việc.

Người Mỹ trả lương theo khả năng. Nếu các bạn có bằng kỹ sư mà người Mỹ cần, họ có thể trả bạn trung bình $60,000 lúc mới ra trường, từ đó đi lên.

Ở đây các bạn không cần tham nhũng, ức hiếp dân lành, cũng đủ tiền sống cuộc đời đáng sống. Cháu tôi đang học đại học năm tới ra trường. Mùa hè vừa qua cháu làm việc, lương tương đương với một người $60,000 một năm.

Lê Thanh Hoàng Dân (người Việt sống ở Mỹ từ năm 1975 đến nay)

Theo tinnuocmy.com

VÒNG ÔM BAO DUNG

 VÒNG ÔM BAO DUNG

Hãy yêu thương nhau như Cha trên trời yêu thương các con.  Đức Giêsu muốn thử thách chúng ta qua câu nói này.  Có nhiều điều ẩn chứa trong câu nói này hơn chúng ta tưởng.  Thiên Chúa yêu thương như thế nào?

Đức Giêsu định nghĩa giúp chúng ta: Thiên Chúa để cho mặt trời chiếu tỏa trên người lành cũng như người dữ.  Chúa yêu thương không kỳ thị, đơn giản ôm vào lòng tất cả mọi sự.  Mặt trời không chiếu sáng một cách chọn lọc, tỏa nắng ấm trên hoa màu vì chúng tốt, không tỏa nắng ấm trên cỏ dại vì chúng xấu.  Mặt trời cứ chiếu sáng và mọi vật tùy theo điều kiện của mình mà hấp thụ nắng ấm.

Đó là sự thật đáng ngạc nhiên: Thiên Chúa yêu khi chúng ta tốt cũng như lúc chúng ta xấu.  Thiên Chúa yêu các thánh trên trời cũng như kẻ dữ ở hỏa ngục.  Họ chỉ đáp trả khác nhau mà thôi.  Người cha nhân từ yêu cả hai người con, người con hoang đàng và người anh cả, yêu cái yếu đuối của đứa này và tính đố kỵ của đứa kia.  Lòng bao dung của người cha không còn lệ thuộc vào việc chúng có hoán cải hay không.  Ông yêu chúng ngay cả khi chúng rời bỏ ông.

Và Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta yêu thương theo cách này.

Chúng ta làm điều đó bằng cách nào?  Trước hết, phải đặt câu hỏi này: Nếu Thiên Chúa yêu chúng ta lúc xấu cũng như lúc tốt, vậy tại sao phải trở nên tốt?  Đây là một câu hỏi rất hay, dù không sâu sắc lắm.  Đương nhiên được yêu thương không bao giờ được hiểu đó là phần thưởng vì mình tốt.  Thay vào đó, trở nên tốt, luôn luôn là kết quả của người được yêu.  Chúng ta không được yêu bởi vì chúng ta tốt, nhưng chúng ta hy vọng sẽ trở nên tốt vì chúng ta trải nghiệm được tình yêu.

Nhưng bằng cách nào để chúng ta dang tay ôm mọi người vào lòng một cách không kỳ thị như Chúa?  Bằng cách nào để tình yêu chúng ta tỏa ra với người tốt cũng như với người xấu, mà không cần phải giải thích sống cách nào, làm bất cứ gì là chuyện bình thường?  Bằng cách nào để chúng ta yêu thương như Thiên Chúa và vẫn giữ được con người thật và giá trị thật của mình?

Chúng ta làm điều đó bằng cách giữ vững lập trường và đạo đức của mình một cách đầy yêu thương và độ lượng.  Đức Giêsu có cho một ví dụ về điều này.  Ngài yêu thương mọi người, những người tội lỗi cũng như các thánh, và không bao giờ cho bên nào quan trọng hơn bên nào.  Quả thật, một lòng bao dung đầy yêu thương ôm lấy cả đối nghịch.

Lấy ví dụ: Thử tưởng tượng vào một dịp cuối tuần nào đó, đứa con gái đang học đại học của bạn đi với bạn trai về thăm nhà.  Mặc dù biết chúng đã sống với nhau, nhưng bạn vẫn lúng túng: Bạn có bắt chúng ngủ riêng khi chúng ở nhà không?  Câu trả lời của bạn là có và rõ ràng, bạn nói với con gái, từ tốn nhưng dứt khoát, rằng khi chưa lập gia đình và đang ở dưới mái nhà của bạn, chúng sẽ phải ngủ phòng riêng.  Con gái bạn sẽ phản đối: “Đạo đức giả, giá trị của con không giống ba mẹ, và con tin điều này chẳng có gì sai cả!”

Phản ứng của bạn là không kỳ thị, loại vòng ôm nhưng có phân biệt của Đức Giêsu: Bạn ôm con vào lòng và nói rằng bạn yêu nó, bạn biết hai đứa đã ngủ chung với nhau, nhưng hai đứa không thể làm điều đó trong nhà bạn, dưới mái nhà này.  Mọi chuyện diễn ra trong ngôn ngữ của vòng tay ôm bao dung, vòng tay ôm và con người bạn lúc đó, nói với con gái bạn hai điều rõ ràng sau: “Mẹ yêu con, con là con của mẹ, dù con thế nào chăng nữa, mẹ lúc nào cũng yêu con.  Tuy nhiên mẹ không đồng ý với con chuyện này.”

Vòng tay ôm của bạn không nói, “Mẹ đồng ý với con!”, nhưng đơn giản nói lên rằng, “Mẹ yêu con!” và khẳng định tình yêu của bạn, trong khi bạn vẫn giữ vững lập trường cá nhân và đạo đức của mình, có lẽ hơn bất cứ điều gì bạn trao tặng cho con, điều này sẽ giúp con bạn suy nghĩ nhiều hơn về lập trường đạo đức của bạn và lý do tại sao bạn giữ vững nó một cách sâu đậm.

Vòng tay ôm có sức tỏa ra yêu thương và thông hiểu rộng lớn ngay cả khi bạn cần giữ vững lập trường đạo đức của bạn; cách này là cách cần thiết không những đối với gia đình và cộng đoàn, nhưng còn ở các lãnh vực khác của cuộc sống – nhà thờ, đạo đức, tư tưởng, mỹ học.  Công Giáo Tin Lành, người thuộc phái Phúc Âm và người theo thuyết Nhất Thể, Ki-tô hữu và tín đồ Do-Thái, tín đồ Do-Thái và tín đồ Hồi giáo, tín đồ Ki-tô và tín đồ Hồi giáo, nhóm chống phá thai và nhóm ủng hộ phá thai, người tự do và bảo thủ, người bất đồng quan điểm về hôn nhân và giới tính, người theo thị hiếu cổ điển và theo thị hiếu phổ thông, tất cả phải tìm thấy yêu thương và đồng cảm đủ để có thể ôm nhau, biểu lộ yêu thương và thông hiểu ngay cả khi vòng ôm này không có ý muốn nói các khác biệt là không quan trọng.

Có một thời bảo vệ đức tin, có một thời nói tiên tri, có một thời vẽ trên cát, có một thời vạch ra các khác biệt và hệ quả của nó, có một thời đứng về phía đối lập gay gắt khi các giá trị và thế lực đe dọa những gì thân thiết đối với chúng ta.  Nhưng cũng có một thời để yêu thương qua các khác biệt, để nhận biết là chúng ta có thể yêu thương và tôn trọng nhau khi chúng ta không có chung giá trị, khi những điểm chung che khuất các khác biệt.

Có một thời để thương xót như Chúa thương xót, để mặt trời của chúng ta chiếu cả trên hoa màu và cỏ dại mà không từ chối ai với ai.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

“Cái bằng tiến sĩ”

“Cái bằng tiến sĩ”

    Năm 1976, chấm dứt chiến tranh, bác sĩ Tôn thất Tùng, một bác sĩ giỏi, học tại Pháp, kẹt trong kháng chiến, rồi phải phục vụ cho Việt cộng, đã mạnh dạn viết bài báo đề nghị bác sĩ Việt cộng được đào tạo trong chiến tranh, phải thi và học lại. Nếu không học lại hoặc học mà thi không đậu, thì không cho hành nghề vì không đủ tiêu chuẩn của một bác sĩ.

Tôn thất Tùng, một đảng viên cộng sản, cũng phải đợi gần 80 tuổi mới liều mạng nói một sự thật mà đã cắn răng chịu đựng gần hết cuộc đời. Bởi vì chính ông đã chứng kiến đã đào tạo những đảng viên trung kiên, dốt nát trong 6 tháng trở thành bác sĩ y khoa, đáng lẽ phải đào tạo từ 6 năm đến 15 năm sau khi tốt nghiệp trung học.

Tại sao không gọi y tá mà phải gọi bác sĩ. Đó là đặc điểm của ….

Dốt nhất, nghèo nhất, ít suy nghĩ nhất, ngu nhất, là những yếu tố căn bản của đảng viên trung kiên cộng sản.

Mac và Engels quan niệm, con người ngu nhất, nghèo nhất là con người trung thành nhất. Giai cấp bần cố nông, công nhân thấp nhất, là giai cấp tiên phong của đảng cộng sản, ngoài ra là những giai cấp phản động, muốn dùng chúng phải cải tạo chúng theo giai cấp tiên phong.

Từ ngày có đảng cộng sản Việt Nam, người có học bị xem là kẻ thiếu trung thành, kẻ phản bội, cho nên lãnh tụ Mao trạch Đông quá mặc cảm dốt nát đã nói thẳng thừng “Trí thức không bằng cục phân”. Câu nói đó trở thành một nguyên lý cho đám cán bộ lãnh đạo cộng sản. Câu nói của Mao trạch Đông đó làm cho người lãnh đạo cộng sản tự tin rằng mình có giá trị, có bản lĩnh, có đạo đức cách mạng vô sản, vì mình không phải là trí thức, tức mình hơn cục phân. Nhiều lần tôi đã nói, nếu Hồ chí Minh là một trí thức như cụ Phan châu Trinh, như Nguyễn thế Truyền,… thì không bao giờ được làm bí thư của đảng cộng sản Đông dương. Thiếu bằng cấp, dốt nát, là một lợi khí tốt để cho Hồ chí Minh bước lên nấc thang lãnh đạo đảng cộng sản.

Tôi, người viết bài này, đã chứng kiến trước mặt, cái cảnh thê thảm của người lỡ có bằng cấp, muốn được đảng tin không biết làm sao xóa bỏ cái lỡ hiểu biết của mình. Cố nhiên họ một mặt không dám đọc sách, nhất là sách ngoại ngữ, vì giai cấp bần cố nông, bọn ăn mày ăn xin ngoài chợ, không làm chuyện đó. Hình thức thì có phần dễ, họ ăn mặc rách rưới, để thân thể cho dơ dáy, ngồi cạnh họ phải có mùi hôi của dân lao động chân chấm tay bùn. Ngôn ngữ rất khó, họ sợ hai chữ lãng mạn của lớp tiểu tư sản. Ví dụ họ không dám nói “ trăng đẹp, hoa hồng đẹp, Tây Thi đẹp …” mà thường nói cho nhiều người nghe “ đống rơm của bác đẹp quá, các luống cày đẹp quá, hố ủ phân tuyệt đẹp. Bác (Hồ chí Minh )cầm cây cuốc đẹp quá, chú Đồng nhỗ cỏ đẹp quá…chị nuôi bản lĩnh quá, đẹp quá, chị du kích đứng gác đẹp quá v.v…Bởi vậy Chế Lan Viên mới viết “ Một lỗ hầm chông đẹp hơn vạn đoá hoa hồng”, Tế Hanh viết “ Năm nay anh trồng cây bưởi góc nhà”. Tôi chắc chắn trên 100% những người có học, không cần nhiều, cỡ lớp đệ tứ niên ngày xưa trở lên, nếu kẹt trong chế độ cộng sản từ 1945 đến 1975 đều ít nhiều phải đóng kịch như thế ( Các thầy Hoàng Tuỵ, Lê trí Viễn, Nguyễn thiện Tụng, Phan Thao ( con cụ Phan Khôi) Trần tế Hanh……đã qua thời kỳ cố lột xác như thế. Nếu không lột xác thì không được vào đảng) 

Sau năm 1975, hết chiến tranh, cộng sản về thành, nhất là thành phố Sài gòn. Đám cán bộ trung cấp và cao cấp từ Bắc vào, từ núi xuống, từ bưng biền ra, chới với trước nép sống có văn hóa của người dân miền Nam, chế độ cũ.Sự ngớ ngẩn dốt nát lố bịch của đám cán bộ đó đã làm cho dân chúng miền Nam khinh khi, và đã có nhiều chuyện tiếu lâm ngày nay vẫn còn truyền.

Từ chỗ học tập làm cho giống lớp bần cố nông để vào đảng, nay cũng những cán bộ đó học tập làm cho giống lớp tiểu tư sản, lớp có tiền, lớp trí thức.

Bắt chước cách ăn mặc của lớp tiểu tư sản thì dễ, chỉ cần trước hết, liệng ném cái nón cối, bỏ hẳn đôi dép đế xe hơi gọi là đôi dép bác Hồ (đế xe hơi làm đôi dép nguyên là của cu li kéo xe, người đổ thùng cầu tiêu,… họ quá nghèo, không có tiền mua đôi giày, nên lượm đế xe hơi bỏ làm giầy, và những người này là trung kiên của đảng cộng sản, là cán bộ lãnh đạo đảng cộng sản sau đó. Cụ Hồ bắt chước họ, cho giống họ, nên dùng đôi dép đó chứ Hồ chí Minh không sáng chế ra đôi dép đó, thế mà gọi là dép bác Hồ bác cũng nhận bừa, không cần đính chính, đó cũng là tính chất của…)…

Họ, cán bộ cộng sản, xa lánh ngay lớp bần cố nông nghèo đói. Ngày trước cán bộ cộng sản nếu kể lai lịch cha mẹ ông bà có người đói, người làm mướn, người ăn xin ăn mày, thậm chí có người chết đói, thì họ rất hãnh diện vì họ thuộc thành phần tốt nhất, vô sản nhất, lành mạnh nhất, trung kiên nhất. Ngày đó nếu cán bộ nào có cha mẹ, bà con, ông bà, là người khoa bảng, làm quan, thì xem như kẻ phản bội.

Bởi vậy dù cố gắng tới mức nào, Phạm Tuyên con quan thượng thư Phạm Quỳnh, Bùi Tín con cụ thượng thư Bùi bằng Đoàn, Hoàng Tụy con cháu tướng Hoàng Diệu , nhiều lắm là làm nhạc sĩ , làm báo, làm giáo sư khoa học, không bao giờ được vào hàng ngũ cán trung kiên của đảng.

Từ ngày họ bắt chước người tiểu tư sản người trí thức thì họ cố tập cho ra lớp người này. Về ăn mặc, nói năng, kiểu cách ăn chơi, tiêu tiền, lễ nghi v…v.. dù sao cũng dễ bắt chước nhất là bắt chước sự ăn chơi sa đọa thì rất dễ. Nhưng bắt chước có trình độ hiểu biết thì thật là khó, gần như vô vọng.

Để khắc phụ sự khó khăn đó, đảng chủ trương cho học tại chức, học không cần đến trường, học không cần đọc sách, học không cần làm bài, và một năm có thể ghi danh vài ba lớp. Phải cần 12 năm để học hết trung học, đảng cho học hai năm hết trung học. Bằng cử nhân bằng tiến sĩ cũng vậy cũng học tại chức.

Phe chiến thắng mà bị dân chúng chê dốt, đó là điều đau khổ nhất của Việt cộng. Đó là lý do bằng tiến sĩ mọc lên như nấm. Thêm vào đó, phong trào thi đua tham nhũng phát triển mạnh. ‘Ngành ngành tham nhũng, người người tham nhũng’, thì bằng cấp không cần ghi danh chờ thời gian nữa, mà có ngay, nếu có số tiền qui định.

Cán bộ cộng sản, nhà cửa có rồi, xe cộ có rồi, tỳ thiếp có rồi, bỏ nón cối, bỏ áo lãnh tụ, bỏ đôi dép Bác Hồ, ăn mặc kiểu tân tiến, kiểu Mỹ, tiệc tùng, uống rượu, cà phê, uống trà, nhảy đầm, theo kiểu bọn quí phái phong kiến ngày xưa….Nhưng còn thiếu trình độ học vấn để nông dân, dân lao động không khinh bỉ “dốt mà làm sang” nên phải có mảnh bằng. Đã mua thì chịu tốn mua thứ cao nhất tốt nhất, và do đó bằng tiến sĩ đảng bán đắt như tôm tươi.

Một đề nghị thực tế.

Tôi hoàn toàn đồng ý với đảng cộng sản ồ ạt sản xuất bằng cấp để đánh tan thành kiến “cộng sản là bần cố nông”.

Trước năm 1954, dân chúng ở Quảng ngãi có ý khinh thường đám cán bộ đảng thường nói “ bọn bcn, tức bọn bần cố nông”. Không riêng gì ở Việt nam ở Cuba, Bắc Hàn ngày nay tiến sĩ bác sĩ đầy đường đầy sá, không làm gì cho hết. Bởi vì học rút ngắn thời gian, hạ thấp chương trình, và ưu tiên cho đảng viên không có thì giờ đi học và không biết chữ, hoặc biết sơ sơ, nhưng cần có bằng tiến sĩ.

Để khỏi gây tác hại cho dân chúng, tôi đề nghị, đảng không nên khuyến khích đảng viên cán bộ đảng nhận bằng tiến sĩ về y học, khoa học. Vì hai loại này có thể đưa đến chỗ giết người vì không thực học.

Tôi còn nhớ rất rõ năm 1984, ra khỏi tù tôi về Saigon. Con tôi bị sốt tôi nghi là sốt xuất huyết tôi đem vào bịnh viện nhi đồng. Theo lời khuyên chân thành và khẩn cấp của dân chúng, tôi thức trắng đêm bên giường bịnh, để canh chừng bác sĩ. Lúc đó bịnh viện Sài gòn có hai loại bác sĩ, một loại của chế độ cũ còn lại, một loại tập kết mới về, loại bác sĩ Tùng đã cảnh báo cho dân chúng biết. Tôi canh chừng nếu bác sĩ tập kết về khám bịnh hoặc chích thuốc cho con tôi, thì lập tức tôi cản không cho, và tôi cũng canh chừng nếu đứa nhỏ không sống được tôi phải bảo vệ xác chết của nó cho được toàn vẹn, đó là lời khuyên của đồng bào miền Nam.

Cấp bằng tiến sĩ không gây tác hại cho dân chúng, nên chọn những loại như văn chương nghệ thuật, phong tục, v..v… càng viễn vông càng mơ hồ càng tốt. Tôi rất phục Tô Huy Rứa biết thân phận mình nên không chọn tiến sĩ y khoa hay tiến sĩ cầu cống, cũng không chọn tiến sĩ kinh tế, tiến sĩ luật, tiến sĩ giáo dục … vì những thứ này dễ lòi đuôi chuột khi đụng đến thực tế. Ông chọn tiến sĩ “ xây dựng đảng”, không làm hại người nào.

Đảng nên xem bằng tiến sĩ như phẩm hàm cửu phẩm bát phẩm ngày xưa triều đình cho các viên chức đúng tiêu chuẩn. Những chức này không làm hại người nào, chỉ để gọi danh xưng mà thôi. Người ta thường gọi tiến sĩ về ngành gì ví dụ ông Nguyễn văn A tiến sĩ kinh tế, ông Nguyễn văn B tiến sĩ toán học v..v….

Những tiến sĩ này vô hại nên phát cho đảng viên:

  • Tiến sĩ văn chương thơ Bác,
  • Tiến sĩ ca dao kháng chiến,
  • Tiến sĩ mưa phùn gió Bấc,
  • Tiến sĩ cá thài bai,
  • Tiến sĩ buổi chiều vàng,
  • Tiến sĩ đồng lúa chín…..

Tôi ví dụ như vậy để các ông tiến sĩ không làm cho dân chúng lo lắng. Bởi vậy khi tôi nghe đảng ra quyết tâm phấn đấu trong 10 năm nữa sẽ đào tạo 20 ngàn tiến sĩ, tôi tin tưởng việc này đảng làm được và làm hơn có thể đưa lên gấp 10 tức 200 ngàn tiến sĩ.

Nguyễn Liệu

 From: Cam Tuyet & Nguyen Kim Bang

“Từ buổi con lên đường xa mẹ

Người chiến binh này và nhiều chiến binh nữa chết cho ai???

Bài thơ sau đây được nhặt từ túi áo một chiến binh miền Bắc tử trận tại chiến trường miền Nam những năm 1969. Trong hồi ký của tử sĩ nầy, người ta còn biết anh là con của bà Trần Thị Phấn ở Hải Dương. Bài thơ nầy được đăng trên báo chí VNCH thời đó. Bài thơ không ghi tên tác giả, được một thường dân miền Nam mến thương cảnh ngộ và ghi lại :

“Từ buổi con lên đường xa mẹ
Theo anh em sang Lào rồi dấn bước vào Trung
Non xanh núi biếc chập chùng
Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ
Tuổi thanh xuân cuộc đời như hoa nở
Vì hòa bình đâu ngại bước gian nguy
Mấy tháng trời, ngày nghỉ đêm đi
Giày vẹt gót áo sờn vai thấm lạnh
Có những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh
Mẹ hiền ơi con chợt nhớ quê mình
Khói lam chiều, giàn mướp lá lên xanh
Con bướm nhỏ mái đình xưa, ôi nhớ quá!
Vào nơi đây tuy đất người xa lạ
Nhưng miền Nam vẫn cùng một quê hương
Vẫn hàng dừa xanh, vẫn những con đường
Vẫn hương lúa ngọt ngào
Tiếng tiêu gợi nhớ
Con trâu về chuồng
Ðã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ
Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu?
Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu
Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ
Lớp học tưng bừng những đàn trẻ nhỏ
Ðang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca
Và sau vườn luống cải đã vàng hoa
Ðàn bướm nhỏ rủ nhau về hút mật
Xóm dưới làng trên niềm vui ngây ngất
Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá làng
Phải gài mìn gieo tang tóc thương đau
Ðã nhiều lần tay con run rẩy
Khi gài mìn để phút sau bỗng thấy
Xác người tung và máu đổ chan hoà
Máu của ai
Máu của bà con ta
Máu của người như con như mẹ
Ðêm hôm ấy mắt con tràn lệ
Ác mộng về, con trằn trọc thâu canh.”

S.T.