BẠN CŨ

BẠN CŨ

Thăm hỏi Bạn, biết rằng người còn đó

Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi
Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi
Vui được biết, Bạn bình an vui sống

Đời trần thế ví như là huyễn mộng

Kiếp nhân sinh là sinh tử, tử sinh
Quý nhau chăng chỉ ở một chữ Tình
Tình cha mẹ, tình vợ chồng, bè bạn

Tình cảm ấy ta không treo giá bán
Khi con tim không đơn vị đo lường
Bàn cân nào, cân được chữ Yêu Thương
Thế mới biết Thương Yêu là vô giá!

Cuộc đời dẫu đảo điên, nhiều dối trá
Nếu chúng ta thực sự mến thương nhau
Thì tiếc chi một lời nói, câu chào
Hãy trao gửi, sưởi ấm tình nhân thế

Có hơn không dù biết rằng chậm trễ
Vì con người ai cũng thích yêu thương
Được thương người và cũng được người thương
Hãy bày tỏ yêu thương dù có chậm

Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến

Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Người còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!

Thuy Pham* Gia Long 68

4 CÂU CHUYỆN NHỎ GIÚP BẠN THAY ĐỔI NHÂN SINH QUAN …

Đời người là thành hay bại đều phụ thuộc vào thái độ của chính mình. Bạn nhìn đời qua lăng kính nào thì sẽ cho ra màu sắc đó. Vậy hà cớ chi không chọn cho mình những sắc màu tươi sáng, trong trẻo hơn?

Những câu chuyện nhỏ dưới đây hi vọng có thể giúp bạn có được cái nhìn mới hơn, lạc quan hơn về cuộc sống của chính mình.

  1. Thay đổi lập trường, suy nghĩ

Có một người mù đến nhà bạn thân chơi. Sau khi dùng cơm tối xong xuôi, người mù chuẩn bị ra về. Lúc ấy, chủ nhà mới đưa cho anh ta một chiếc đèn pin và nói: “Trời tối không nhìn thấy đường, anh cầm cái đèn này soi đường cho sáng rồi về“.

Người mù chau mày trong giây lát rồi nói: “Anh biết rõ tôi là một người mù còn chuẩn bị đèn soi đường chẳng phải là cười nhạo tôi sao?“.

Vị chủ nhà mỉm cười, đáp: “Anh hiểu nhầm ý tôi rồi. Anh đi đường, nhiều người khác cũng đi đường. Soi đường không phải để cho anh nhìn mà để người khác trông thấy không đâm vào anh“.

Người mù bấy giờ mới ngẩn người ngộ ra.

Suy ngẫm: Cổ nhân nói, người ta đến tuổi 40 thì không còn chuyện gì làm cho mê hoặc, đến tuổi 50 thì đã biết được mệnh Trời. Khi đến tuổi trung niên, hãy suy xét vấn đề một cách trầm tĩnh hơn. Làm người chính là cần phải học cách đứng từ nhiều góc độ khác nhau mà nhìn nhận cuộc đời. Như vậy bạn vừa có thể hiểu thấu được ý tốt của người khác, lại vừa có thể tránh được phiền não trong lòng. 

  1. Biết cách sống lạc quan

Ba người công nhân đang xây một bức tường, có người đi ngang qua hỏi: “Các anh đang làm gì vậy?”

Người thứ nhất cau có trả lời: “Anh không nhìn thấy sao? Xây tường chứ làm gì nữa!“.

Người thứ hai bình thản nói: “Chúng tôi đang xây dựng một cao ốc“.

Người thứ ba mỉm cười rạng rỡ bảo: “Chúng tôi đang xây dựng một thành phố mới”. 

10 năm sau…

Người thứ nhất vẫn đang xây một bức tường khác trên công trường mới. Người thứ hai làm kỹ sư xây dựng, đang ngồi ở văn phòng thiết kế công trình. Còn người thứ ba chính là ông chủ của hai người kia.

Suy ngẫm: Một tinh thần lạc quan sẽ giúp cuộc sống bạn thực sự tươi đẹp hơn. Người càng lạc quan thì thân thể càng khỏe mạnh, tinh thần càng minh mẫn. Khi đối mặt với khó khăn, người lạc quan thường sớm tìm ra được lối thoát. Bởi vì họ nhìn đời bằng một lăng kính tích cực nên những điều may mắn cũng sẽ đến. Nguyễn Du viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” chính là có ý tứ đó. 

  1. Học cách khoan dung 

Có một cậu bé tính khí nóng nảy, hẹp hòi, thường hay cáu giận. Một hôm người cha đưa cho cậu bé một túi đinh, chiếc búa và dẫn đến chiếc bảng gỗ sau nhà. Cha cậu nói: “Sau này mỗi lần con không kiềm chế được cảm xúc hay nổi giận làm tổn thương ai, hãy đóng một chiếc đinh lên bảng“.

Ngày thứ nhất cậu đã đóng rất nhiều đinh lên bảng nhưng qua mỗi ngày số đinh trên bảng đã ít dần đi. Cậu phát hiện rằng tính khí của mình cũng ngày một tốt hơn. Cậu học được cách khống chế cảm xúc và nhận ra chuyện đó còn dễ hơn cả đóng đinh lên bảng.

Sau cùng, cho đến một ngày cậu đã không còn phải đóng chiếc đinh nào lên bảng nữa. Cậu đem sự việc kể với cha mình. Cha cậu lại nói: “Từ nay, cứ mỗi khi con làm được một việc tốt, giúp người khác vui, hãy nhổ một chiếc đinh ra“.

Ngày qua ngày, số đinh trên bảng lại không ngừng ít đi cho đến một hôm tất cả đều đã được nhổ hết. Người cha nắm lấy tay cậu bé, đứng trước chiếc bảng nói: “Con trai ngoan của cha, con đã làm được rất tốt. Nhưng con hãy nhìn những cái lỗ trên tấm bảng này mà xem! Nó vĩnh viễn không thể nào hết được. Cũng giống như khi con làm tổn thương người khác vậy, cũng sẽ để lại những vết thương không thể xóa trong lòng họ”. 

Suy ngẫm: Làm người cần phải học cách khống chế cảm xúc bản thân, ngay cả khi tức giận cũng vẫn phải biết lý lẽ một chút. Mà rốt cuộc tức giận cũng chỉ là làm tổn thương người và tự đả thương mình mà thôi, dù gì cũng đều không có lợi. Nếu có thể khoan dung, độ lượng với những sai sót của người khác, bạn sẽ cảm nhận được chính cuộc sống của mình cũng sẽ tươi đẹp hơn. Tuổi trung niên càng phải độ lượng hơn bởi lúc này bạn đã không còn cái vồn vã, xốc nổi thời thanh xuân, tâm tình đã trầm ổn, đã biết cách nhìn nhận mọi chuyện bình hòa hơn. 

  1. Thay đổi quan niệm

Có người thợ mộc đốn hạ một chiếc cây, sau đó làm ra 3 chiếc thùng gỗ. Một chiếc đựng phân, gọi là thùng phân, ai thấy cũng đều tránh xa. Một chiếc đựng nước, gọi là thùng nước, mọi người đều dùng. Một chiếc đựng rượu, gọi là thùng rượu, là thức uống của nhiều người.

Đều là một chiếc thùng nhưng chứa những thứ khác nhau sẽ có vận mệnh khác nhau, có cái bị xa lánh, ghét bỏ, có cái lại được yêu quý, luôn đặt bên mình. Chẳng phải đời người cũng vậy sao?

Suy ngẫm: Người ta mang trong mình quan niệm thế nào thì số phận cũng sẽ chiểu theo thế đó. Chớ dùng những quan niệm cũ để sống cuộc đời hiện tại. Hãy học cách thích nghi với cuộc sống mới mỗi ngày. 

From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen

MUỐN LÀM THÁNH PHẢI LÀM NGƯỜI TRƯỚC ĐÃ

 MUỐN LÀM THÁNH PHẢI LÀM NGƯỜI TRƯỚC ĐÃ

Trần Mỹ Duyệt

“Muốn làm thánh phải làm người trước đã” (Th. Gioan Bosco). Qua kinh nghiệm giáo dục, và với nhiệt tâm huấn luyện, chinh phục các thanh thiếu niên bụi đời quay về với cuộc sống đời thường, và cao hơn nữa, vươn tới lý tưởng thánh, thánh Gioan Bosco đã để lại một câu nói rất thực tế, nhưng cũng rất thách đố, đòi hỏi nhiều thiện chí và nghị lực của người nghe.

Câu hỏi đối với nhiều người không chấp nhận quan điểm của thánh nhân sẽ là: “Nói vậy thì tôi không phải là người hay sao?” Và “Tại sao để làm một thánh nhân thì tôi cần phải làm một con người trước?”

Điều đó đúng nếu ta chỉ quan niệm con người là một tạo vật có thân xác, có khối óc, có tài năng, biết làm giầu, biết hưởng thụ, thành đạt, và có quyền lực. Nhưng với những đặc điểm vừa kể thực ra chưa làm nên một người; nhất là một con người “tốt”, một con người “tử tế”.  

Theo phân tâm học, con người được kết hợp rất mật thiết do ba yếu tố, gồm bản năng (Id), bản ngã (Ego) và siêu ngã (Superego). Bản năng, thôi thúc con người hành động theo những nhu cầu và đòi hỏi tự nhiên. Thí dụ, bản năng sinh tồn, mách bảo cho con người biết đói phải ăn, khát phải uống, và buồn ngủ thì phải ngủ. Trong khi bản ngã thể hiện cái tôi của mỗi người như nóng nảy, ích kỷ, quảng đại, tình cảm, hay đam mê… được quan sát thấy qua lãnh vực tâm lý. Sau cùng là siêu ngã. Từ nơi sâu thẳm và tầng cao của trí tuệ, của hiểu biết, con người biết phải ăn như thế nào, phải vui như thế nào, phải buồn như thế nào, và làm sao để sống, để suy nghĩ, để hành động đúng với tư cách, phẩm giá của một con người.

Khi ba yếu tố hay ba đặc tính căn bản ấy bổ túc cho nhau và phát triển đồng đều lúc đó con người sẽ trở thành một người. Một con người để qua đó, nó có thể trở thành người đàng hoàng, tử tế, lịch sự, biết phải trái, biết hòa đồng, biết sống chung với mọi người. Một con người tốt. Một con người mà những ai thường ngày giao tíếp, gặp gỡ đều quí mến, và cảm thấy từ nơi nó toát ra một sức hấp dẫn có thể chinh phục và cải hóa được ngay cả những cái xấu, cái bất toàn nơi họ. Những thánh nhân, những bậc quân tử, hay những người tốt đều có những sức thu hút và hấp dẫn này. 

Khác với con người bản năng, con người bản ngã với cái tôi của mình. Một cái tôi biết vui, biết buồn, biết sướng, biết khổ, biết yêu, biết ghét, biết giận hờn. Ở điểm này, hành động con người bắt đầu tách rời và không lệ thuộc vào những đòi hỏi theo bản năng tức là những hành động chỉ thuộc về loài vật. Nơi tầng cao trong sinh hoạt tự nhiên ấy, đời sống tâm lý, tình cảm được thể hiện qua nụ cười, ánh mắt, bờ môi, qua những cử chỉ âu yếm, săn đón, và nhất là biết hy sinh cho người khác. Và cũng như con người bản năng, con người siêu ngã có thể làm chủ và điều khiển được con người “tâm lý” của mình. Đây là điều mà chỉ có con người với lý trí, hiểu biết mới có và mới có thể làm được, qua những chọn lựa hành vi nhân tính một cách tự do.

Nhưng làm sao để có thể kìm hãm được bản năng, thăng hoa được tình cảm, và phát triển được lý trí, nếu nó suy nghĩ, sống và hành động như một kẻ vô thần. Và vì thế, con người bắt buộc phải tiến đến sự hiểu biết và qui hướng về một Đấng Toàn Năng. Do sự nhận thức và hiểu biết này, con người biết mình phải làm gì, và làm như thế nào dựa theo những định luật của lương tâm, của niềm tin tôn giáo. Với những suy nghĩ tâm linh này, con người mới trở nên một tạo vật vượt trên mọi thụ tạo hữu hình, “Nhân linh ư vạn vật”. 

Như vậy làm người không đơn giản, và không dễ dàng, nhất là làm người tốt, người đàng hoàng, tử tế, người đức hạnh. Vì những cái gọi là đàng hoàng, tử tế, và đạo đức ấy chính là những “nhân đức”, hay những hành động tốt được lập đi, lập lại trong nhiều hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống. Và đó là lý do tại sao phải “làm người” trước rồi mới “làm thánh”.

Thật ra, người đức hạnh, người đạo đức đã là một người tốt theo nghĩa tự nhiên. Họ chỉ cần siêu nhiên hóa đời sống của họ bằng một tâm tình qui hướng về Đấng Tối Cao, đồng thời vươn tới và phản chiếu tâm tình ấy qua việc đối xử nhân ái, công bằng, tôn trọng và phục vụ tốt với đồng loại. Được vậy họ chính là những thánh nhân trong cuộc đời này. Là những người rất đáng được tôn trọng dù họ không mang dáng vẻ đáng kính, nổi trội bằng những hành động lớn lao đi nữa. Theo Thánh Têrêsa Calcutta, chúng ta không có nhiều cơ hội làm những việc lớn lao, cao cả, nhưng chúng ta luôn có những cơ hội làm những việc tầm thường, nhỏ bé với tấm lòng và trái tim lớn lao, cao cả.

“Muốn làm thánh thì phải làm người trước đã”. Chúng ta ai cũng đã là người rồi, chỉ còn lại là người như thế nào. Đời sống thánh thiện không quá xa rời thực tế, không vượt quá sức con người, và cũng không phải là một lý tưởng trừu tượng. Sống thánh thiện, sống đạo đức, sống tốt lành là điều mà mọi người có thể làm được trong tin tưởng và cậy trông vào sức mạnh của Thiên Chúa, cùng với việc tận dụng tất cả những điều kiện đã có sẵn trong con người của chính mình. “Ông kia bà nọ nên thánh được tại sao tôi không được?” (Th. Augustine)

TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

 

Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.  Tâm tình này đạo đức và rất tình người.  Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người.  Mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra, và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.           

 

Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau.  Tất cả đã cùng chung sống với nhau.  Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.  Họ đã ra đi, nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta.  Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm những ngày đã cùng nhau sống qua.

 

Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người quá cố, chúng ta muốn nói lên: không chỉ một mình tôi làm việc này, nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã quá cố.  Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.

 

Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã quá cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công.  Tôi tin phép tha tội.  Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.  Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

 

Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.  Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:

 

  1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.  Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn.  Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe.  Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ làm cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức tin tinh thần đạo đức của chúng ta.  Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.

 

  1. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cô cậu, chú bác, cô dì.  Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũng như thất bại, hy vọng có, lo âu sợ sệt cũng có.  Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.  Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm người còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.

 

  1. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo.  Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã trở về với Chúa.  Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của các linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.  Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.  Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh, và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.  Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ.  Những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trong xứ đạo không quên ơn các cha.  Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.

 

  1. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.  Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có, và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.  Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.  Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.

 

  1. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhânngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phụt vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp.  Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.  Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.

 

  1. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.  Họ tất cả là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ.  Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.  Xin cùng với ánh nến tình thương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.

 

  1. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoànchúng ta đã được Thiên Chúa gọi về.  Cộng đoàn được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ bao năm qua.  Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.  Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.  Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.

 

  1. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.  Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.  Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội.  Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.

 

  1. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:

–  Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi.  Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.

–  Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này.  Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi, và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

–  Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá.  Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi.  Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.  Và tôi tâm niệm rằng:

–   Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.

–   Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.

–   Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.

 Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long

 From: KittyThiênKim & Kim Bang Nguyen

09/11/1956: Jean-Paul Sartre từ bỏ chủ nghĩa cộng sản

 

09/11/1956: Jean-Paul Sartre từ bỏ chủ nghĩa cộng sản

Nguồn: Sartre renounces communistsHistory.com

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Vào ngày này năm 1956, nhà triết học và nhà văn người Pháp Jean-Paul Sartre – trước đây từng là một người ngưỡng mộ Liên Xô – giờ lại lên tiếng tố cáo cả Liên Xô lẫn hệ thống cộng sản của nước này sau cuộc xâm lược tàn bạo của Liên Xô vào Hungary.

Jean-Paul Sartre, sinh ra ở Paris vào năm 1905, là một trong những đại diện hàng đầu cho chủ nghĩa hiện sinh, một phong trào triết học cổ vũ cho bản tính tự do trong sự tồn tại của cá nhân con người, đồng thời tiếc thương cho sự vô nghĩa vốn có của nó. Là tác giả của hơn 20 tiểu thuyết, kịch và luận văn triết học, Sartre đã từ chối Giải Nobel năm 1964 vì lý do một nhà văn “nên từ chối để bản thân mình bị biến thành một thể chế.” Tuy nhiên, chính Sartre đã là một thể chế: đầu tiên là như tiếng nói của chủ nghĩa hiện sinh và sau đó như lương tâm của chủ nghĩa cộng sản.

Khi còn là một sinh viên ở Paris và Berlin, Sartre bị ảnh hưởng rất nhiều bởi triết học Đức, đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh của Martin Heidegger và phương pháp hiện tượng học của Edmund Hussel, người đã ủng hộ một cách thận trọng, không thiên vị đối với việc mô tả ngắn gọn. Tác phẩm chính đầu tiên của Sartre là cuốn tiểu thuyết La Nausée (Nausea/Buồn Nôn, 1938), một câu chuyện về nỗi tức giận hiện sinh, viết dưới dạng nhật ký. Các công trình hiện sinh quan trọng khác của ông là Huis Clos (No Exit/Không Lối thoát, 1946) và L’Être et le néant (Being and Nothingness/Hiện hữu và Hư không, 1956).

Sau khi Thế chiến II nổ ra vào năm 1939, Sartre đã từng phục vụ trong quân đội Pháp trước khi trở thành tù binh chiến tranh từ năm 1940 đến năm 1941. Sau khi được thả ra, ông đã định cư tại Paris (khi ấy đang bị Đức chiếm đóng), nơi ông giảng dạy, sáng tác và liên kết với quân Kháng chiến Pháp. Chính trong thời kỳ chiến tranh này, chủ nghĩa Marx đã phát triển thành tình yêu trí tuệ thứ hai của Sartre. Mặc dù không bao giờ tham gia Đảng Cộng sản Pháp, ông là một trong những người cộng sản nổi tiếng nhất của Pháp, và thường xuyên lên tiếng ủng hộ Liên Xô và các chính sách của nước này. Năm 1954, ông đã đến thăm Liên Xô.

Sau khi quân đội Liên Xô xâm lược Hungary vào ngày 04/11/1956, Sartre đã lên án sự can thiệp của Liên Xô và việc Đảng Cộng sản Pháp luôn tuân theo mệnh lệnh từ Moskva. Ngày 09/11, trên tạp chí Pháp L’Express, ông tuyên bố: “Tôi cực lực lên án cuộc xâm lược của Liên Xô mà không hề có chút do dự nào. Dù không đặt bất cứ trách nhiệm nào lên người dân Nga, tôi vẫn nhấn mạnh rằng chính phủ hiện tại của họ đã phạm tội …. Và tội ác, đối với tôi, không chỉ là việc xe tăng của quân đội xâm lăng Budapest, mà là sự thật rằng điều này đã trở nên khả dĩ bởi mười hai năm khủng bố và hành động ngu xuẩn … Hiện tại hay tương lai tôi đều không thể thiết lập lại bất cứ hình thức liên lạc nào với những người hiện đang đứng đầu [Đảng Cộng sản Pháp]. Mỗi câu họ nói, mỗi hành động mà họ thực hiện đều là đỉnh điểm của 30 năm gian dối và bảo thủ.”

Mặc dù hy vọng của Sartre đối với chủ nghĩa cộng sản đã bị nghiền nát, ông vẫn tiếp tục ủng hộ chủ nghĩa Marx và tìm cách phát triển một loại chủ nghĩa xã hội mới trong cuốn Questions de méthode (Search for a Method/Tìm kiếm một Phương pháp, 1960). Sartre chính thức đoạn tuyệt với Liên Xô vào năm 1968 khi nước này đàn áp phong trào Mùa xuân Praha của Tiệp Khắc. Sau đó, sự trung thành của Sartre đã được dành cho các nhà cách mạng trẻ tuổi ở Pháp, và đôi khi ông còn trở thành biên tập viên chuyên đề cho các tờ báo nhỏ cấp tiến. Tác phẩm chính cuối cùng của ông là một nghiên cứu đồ sộ gồm bốn phần về nhà văn người Pháp sống vào thế kỷ 19, Gustave Flaubert. Jean-Paul Sartre qua đời vào năm 1980, và đám tang của ông đã có 25.000 người tham dự.

Vì sao báo chí ngại nói về nỗi đau của dân tộc mình?

From facebook:     Huỳnh Phi Long and Hai Tran shared Khanh Nguyen‘s post.
Image may contain: 1 person, child, plant, outdoor and water

Khanh Nguyen  Follow 

 Vì sao báo chí ngại nói về nỗi đau của dân tộc mình?

Bức ảnh mà bạn đang thấy, là của báo Al jazeera nói về cơn bão Damrey ở VN. Có thể nói đây bức ảnh báo chí đúng nghĩa, hiếm hoi được thấy gần đây trong bối cảnh mà hàng chục người chết, hàng trăm cây số dân cư và tài sản tan hoang. Nhưng tiếc thay, lại là bức ảnh trên một tờ báo nước ngoài.

Từ nhiều năm nay, dường như có một mệnh lệnh bí ẩn nào đó khiến hình ảnh và tin tức về các thảm nạn ở VN rất “chừng mực”, giảm nhẹ ngôn ngữ diễn đạt. Không phải báo chí VN bất tài, mà cần đặt một câu hỏi rằng điều gì đã kìm hãm các khả năng đó chặt chẽ một cách có hệ thống.

Những bài báo nhanh và không ngại chi tiết, những phóng sự ảnh sống động không né tránh từng có ở VN, mỗi ngày ít dần, nhạt dần. Sự dấn thân cho ý nghĩa cao quý của nghề báo trở nên hiếm hoi. Có phải chủ trương đó để phục vụ cho một bức tranh Việt Nam luôn bình yên và hạnh phúc?

Phải nhờ vào facebook và những status công dân, mà dân chúng mới kịp nhìn thấy, nghe thấy một cách sống động về những gì diễn ra trên đất nước mình. Sự thật được nhân dân chia sẻ. Nhưng sự thật cũng bị phong kín, nhỏ giọt bởi chính các hệ thống truyền thông mang mác nhà nước.

Bức ảnh này nhắc tôi về giá trị cao quý của nghề báo. Và bức ảnh cũng nhắc tôi về một khoảng trống quá lớn mà báo chí VN hôm nay đang tạo ra, trước những ngồn ngộn hiện thực sống động trên đất nước này.

(Ảnh báo Al jazeera có được, của tác giả Nguyễn Huy Khâm)

Giáo viên ký đơn tập thể tố ban giám hiệu ăn bớt suất ăn học sinh

From facebook:   Ngua O Chu
 

Ngay trong ngành giáo dục mà còn muốn “bằng chị bằng em” thế này thì hỏi sao đạo đức xã hội không suy đồi nghiêm trọng !?

Theo đơn tố cáo, do cắt bớt suất ăn nên ban giám hiệu đã yêu cầu cấp dưỡng đổ thêm nước vào nấu cho nhiều lên, giáo viên không phân biệt đâu là canh, đâu là…
BAOMOI.COM
 

Doanh nghiệp khốn đốn vì hàng giả trên Alibaba

From facebook: Phuong Phan and Son Dang shared Nguyen Tram Anh‘s post.

Image may contain: 1 person, smiling, text

Nguyen Tram Anh

Nếu là sản phẩm tốt hơn ,rẽ hơn vậy tại sao không đặt tên thương hiệu để kinh doanh và cạnh tranh công bằng với các thương hiệu khâc lại lén lút làm nhái theo để bán ? Khiến cho các công ty làm ăn chân chính phải điêu đứng .
Và Anh “Dắt Ma cô” này xem đấy là điều hãnh diện mới ghê chứ

NAY ANH MAI TÔI

NAY ANH MAI TÔI

 Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người ta nói: “đời như hoa trước gió” chẳng sai!  Nó sớm nở chiều tàn.  Nó mong manh như kiếp cỏ hoa.  Nó phù du như mây hợp rồi tan.  Theo thống kê của chính phủ thì trong đợt mưa lớn ngày 09 – 10/10 xảy ra ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và một số tỉnh miền Bắc, gây nên lũ quét và sạt lở đã cướp cướp đi hàng trăm sinh mạng, phá hủy hàng ngàn ngôi nhà và hàng ngàn gia súc trôi dạt trên dòng nước mênh mông.

Nhìn vào những cái chết tức tưởi ấy ta mới thấy kiếp người thật mong manh.  Cái chết không có tuổi.  Không hẳn tuổi già cái chết mới đến, mà tuổi trẻ cũng có thể phải ra đi, vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ.”  Có khi người trẻ lại ra đi trước người già như trong ca dao xưa đã nói:

Lá vàng còn ở trên cây,

Lá xanh rụng xuống, có hay hỡi trời.

Sự thật này nói lên tính cách mong manh của kiếp sống con người.  Thật mong mang như hoa cỏ đồng nội mà thánh vịnh 102 cũng từng nói tới:

Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,

Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

Một con gió thoảng là xong,

Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.

(Tv 102,15-16)

Nghĩ đến thân phận mỏng dòn của kiếp người, trong tâm hồn tôi chợt vang lên giai điệu bài hát “Nay anh mai tôi” của Tuấn Kim.  Lời bài hát đã bóc trần sự phù du của kiếp người hòa với giai điệu du dương khi trầm khi bổng như xé nát tâm can vì nó diễn tả quá đúng về kiếp người “nay anh mai tôi” sẽ lần lượt đi qua con đường hẹp là sự chết.

Giai điệu bài hát như dội vào tim, khiến tôi cũng muốn cất lên lời hát:

“Nay anh mai tôi, chung đường chung lối,

xuôi tay ra đi giã từ cuộc đời”.

Nhưng cuộc ra đi này cũng có phần an ủi cho kiếp người lắm truân chuyên nhiều nước mắt, vì nó mở ra cho chúng ta một chân trời mới trong ngôi nhà Cha trên trời tràn đầy an vui.

“Vì trong tiếng cười có nước mắt rơi

Về nơi quê trời, bên Chúa an vui”.

Qua bài hát này ta thấy một chân lý đã được khẳng định:

“Ngày con sinh ra, Chúa đã biết rõ, ngày con qua đời Chúa không cho hay”.

Phận số cuộc đời không tùy thuộc vào ta.  Sự sống hay chết đều nằm trong kế hoạch đầy yêu thương của Thiên Chúa.  Nhưng có sinh có tử dường như là lẽ trời mà ai cũng phải chấp nhận “nay anh mai tôi” mà thôi!

“Dòng đời ngày qua bao kẻ chia xa, mà lòng thầm suy nay người mai ta, thế gian phù hoa.”

Thế nên, sự khôn ngoan như mời gọi ta hãy sống thanh thoát với cuộc đời, đừng quá bon chen thú vui hay lợi danh, vì khi chết có mang theo được gì đâu?

“Cuộc sống mong manh chớ ham lợi danh, ngày mai chết đi sẽ mang được gì?”

Tháng 11 là tháng để nhớ và cầu nguyện cho những người đã chết.  Họ đã về với Chúa, với họ là niềm vui, vì được chuyển đổi từ sự sống tạm trần gian qua sự sống vĩnh cửu quê trời, được chuyển đổi nơi trần đời bi ai đầy nước mắt để tiến vào thiên đàng vĩnh phúc.  Có lẽ, nếu được nghe thì họ sẽ đang nói với chúng ta như nhà văn John Bun-y-an đã nói: “Các bạn đừng than khóc cho tôi.  Tôi sẽ về nhà đời đời nơi Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kytô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội nhân bởi công lao cứu chuộc của Con Ngài.  Tôi tin rằng, chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống hạnh phúc trong cõi đời đời.”

Thế nhưng, trong thân phận con người ai cũng có yếu đuối cần được ân hưởng máu cứu chuộc của Con Thiên Chúa, vì “ai nên khôn mà không dại một lần.”  Ai cũng cần được thanh luyện trong tình thương của Chúa.  Vì thế, trong tình liên đới giữa người với người, và nhất là trong đạo hiếu Việt Nam luôn mời gọi con cái hãy biết đền ơn đáp nghĩa mẹ cha qua những thánh lễ cầu nguyện cho những người đã khuất, qua những hy sinh bác ái để lập công đền tội cho các tiền nhân.  Nhớ đến công lao cha mẹ không chỉ bằng những giọt nước mắt nuối tiếc mà cần phải tỏ lòng hiếu thảo qua lời kinh cầu hằng đêm và qua những việc lành phúc đức chúng ta làm cho cha mẹ mới là tấm lòng hiếu thảo mà tổ tiên đang cần nơi con cháu chúng ta.

Ước mong khi nhìn về kiếp người mong manh ta hãy cầu nguyện cho những người đã khuất hôm nay để ngày mai sẽ gặp nhau trên quê trời.  Chúng ta hãy tín thác ông bà cha mẹ và những người thân hữu đã qua đời nơi tình thương quan phòng của Chúa.  Amen!

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

From Langthangchieutim

Cách mạng vô sản hay vô học?

From facebook:  Trần Bang

Cách mạng vô sản hay vô học?

Cho đến năm 17 tuổi tôi vẫn hiểu về cái gọi là “Cách mạng tháng 10” theo sách vở tuyên truyền của chế độ cộng sản ở Việt Nam. Tuy nhiên sau đó nhận thức của tôi đã “tự diễn biến”.

Năm 17 tuổi, lần đầu tiên đọc tác phẩm “Bác sĩ Jhivago” của văn hào Boris Pasternak qua bản dịch Việt ngữ của dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu, ấn hành tại Sài Gòn, tôi chợt nhận ra “Cách mạng tháng 10” thật ra chỉ là một cuộc bạo loạn đưa đám vô học lên cầm quyền.

Từ đó tôi tìm đọc thêm sách vở của các tác giả phương Tây và đặc biệt từ chính các trước tác của Lenin qua bộ “Lênin toàn tập” tiếng Việt do nhà cầm quyền Việt Nam phát hành. Càng ngày tôi càng xác quyết hơn nhận định rằng đó đơn thuần chỉ là cuộc bạo loạn của đám vô học mà thôi.

Vô học luôn đi kèm sự tàn bạo phi nhân tính vốn gây nên nhiều cuộc thảm sát đẫm máu nhân danh “giải phóng con người”. Căn bệnh đó đã lây lan khắp thế giới, nhất là những nơi vừa thoát khỏi thể chế quân chủ phong kiến, và trở thành thảm họa của nhân loại. Liên Sô, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Bắc Triều Tiên là những minh chứng.

Lenin được xưng tụng như lãnh tụ của giai cấp vô sản thật ra chỉ là một tay đao phủ đáng ghê tởm. Tượng đài của hắn tất nhiên về sau đã bị đập đổ không thương tiếc trong niềm hân hoan của dân chúng ở những quốc gia thoát khỏi gông cùm cộng sản.

Tháng 4/2010 ở trại giam Bộ Công An, tôi đã làm bài thơ về Lenin để lưu lại cảm giác về kẻ tội đồ của nhân loại mà hình ảnh gắn liền với cuộc “Cách mạng vô học” vô tiền khoáng hậu trong lịch sử:

Viết nhăng, nói nhảm, tưởng cao minh,
Đao phủ quán quân giỏi trá hình.
Phẳng lấp tang thương đường cách mạng,
Ngập tràn cờ đỏ máu sinh linh.
Thỏa cơn loạn trí gieo nghèo đói,
Sùng thuyết vô luân đoạn nghĩa tình.
Nhân loại bàng hoàng vang cảnh tỉnh,
Khó nhòa bia miệng vạn đời khinh.

(Copy từ FB LS Lê Công Định )

Ai Đã Ăn Cắp Nỏ Thần ?

From facebook:   Honolulu Nguyen‘s post.
 

 Ai Đã Ăn Cắp Nỏ Thần ?

Trong giờ Lịch Sử, kiểm tra bài cũ, Thầy giáo gọi Tèo lên bảng và hỏi:

– Ai đã ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương?

– Dạ thưa thầy, em không biết. Nhưng em thề là em không lấy.

Thầy bực quá nên đuổi Tèo về chỗ và hỏi cả lớp:

– Cả lớp, ai đã ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương?

Không cánh tay nào giơ lên. Thầy gọi:

– Lớp trưởng nào. Ai đã ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương?

Lớp trưởng rụt rè đứng dậy:

– Dạ thưa thầy, em xin cam đoan với thầy là lớp em không ai lấy đâu ạ.

Thầy giáo bèn yêu cầu Tèo mời phụ huynh đến gặp để bàn về việc học của Tèo. Nhưng, khi gặp phụ huynh, thầy chưa kịp lên tiếng thì phụ huynh đã nói:

– Thầy xem xét lại cho, chứ thằng Tèo nhà tôi ngoan ngoãn, hiền lành, chưa ăn trộm, ăn cắp cái gì của ai bao giờ cả. Mong thầy suy xét.

Buồn quá, thầy giáo đem chuyện này nói với hiệu trưởng. Nào ngờ thầy hiệu trưởng phán:

– Hư thật, mới học lớp 10, mà đã ăn trộm, ăn cắp rồi. Bé thì trộm cái nỏ thần, lớn lên, thế nào cũng tham ô, tham nhũng. Phải đuổi học ngay!!!

Phụ huynh của Tèo biết chuyện, bèn vác đơn kiện lên Sở. Mọi người trên Sở cười lăn, cười bò. Duy chỉ có Giám đốc là mặt tái đi:

– Hiệu trưởng như thế không được. Có mỗi cái nỏ thần mà cũng định đuổi học con nhà người ta. Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực gì mà lại làm như thế! Bảo với ”anh” Dương Vương làm báo cáo, nỏ thần hết bao nhiêu tiền thì trích ra mua, mà đền, có gì mà phải làm ầm ĩ lên!

Không biết kẻ nào mách lẻo, chuyện đến tai Bộ. Các chuyên viên trên Bộ cười ha hả. Nhưng bà Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính thì cau mày:

– Giám đốc như thế không được! Bạ cái gì cũng lấy ngân sách ra mà đền thì tiền đâu cho đủ! Phải bắt nhà học sinh đền. Nếu không, ”đồng chí” Dương Vương phải tự đi mua cái mới. Có mỗi cái nỏ, mà cũng không giữ nổi, lại còn báo cáo cấp trên.

Sưu tầm