Hiện diện của Trung Quốc trên lảnh thổ Việt nam

 
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, closeup
Image may contain: 1 person, closeup
Đạt Tiến Nguyễn added 3 new photos.

 Trung Quốc bơm bao nhiều tiền cho ông Bùi Hiền để làm đề án Tiếng Việt kiểu mới? Đây là câu hỏi mà những người Việt Nam yêu nước cần quan tâm. Dưới cái nhìn chính trị thì đây là một đề án khốn nạn nhất từ trước đến nay! Nó khốn nạn nhất là vì không chỉ có ông Bùi Hiền mà còn có cả một số người đang nắm giữ quyền lực chính trị cũng ủng hộ cho đề án này.

Qua những động thái, và qua những phát ngôn của một số quan chức thì Trung Quốc đang rất muốn đưa tiếng Trung vào môi trường giáo dục của Việt Nam để dần dần sẽ thôn tính Việt Nam một cách trọn vẹn. Nhưng nếu muốn đưa được tiếng Trung vào môi trường giáo dục của Việt Nam thì trước hết phải phá nát Tiếng Việt hoặc ít ra cũng phải làm giảm đi tầm quan trọng của Tiếng Việt đối với người dân Việt Nam.

Điều này thì không có gì khó hiểu đối với những người nghiên cứu chính trị, vì nếu muốn thôn tính được một quốc gia khác thì trước tiên phải đưa được ngôn ngữ vào môi trường giáo dục để truyền bá những tư tưởng thuần phục để dễ bề cai trị. Trung Quốc ngày nay đã làm cho Việt Nam bị rối loạn cả về chính trị và kinh tế nên Trung Quốc bơm tiền cho những đề án kiểu như của ông Bùi Hiền thì không thể tránh khỏi.

Chưa ai biết đề án Tiếng Việt kiểu mới của ông Bùi Hiền sẽ như thế nào, nhưng khi Trung Quốc đã dùng tiền để bắt buộc Việt Nam phải lệ thuộc về chính trị và kinh tế thì mọi thứ khác đều có thể xảy ra. Nếu phải bỏ ra hàng tỷ đô cho đề án Tiếng Việt kiểu mới mà thành công thì Trung Quốc sẵn sàng chi cho ông Bùi Hiền, vì cái lợi của Trung Quốc là phá đổ được văn hóa của người Việt Nam, chia rẽ được người Việt Nam và làm cho dân tộc Việt Nam bị rối loạn.

Khi Trung Quốc đã phá đổ được văn hóa của người Việt Nam, chia rẽ được người Việt Nam và làm cho dân tộc Việt Nam bị rối loạn thì Trung Quốc sẽ rất vui mừng. Trung Quốc vui mừng vì nhìn thấy người dân Việt Nam phải bỏ thời gian đi học lại Tiếng Việt kiểu mới, phải chi hàng núi tiền cho một đề án vô bổ, phải luẩn quẩn trong sự ngu đốt mà cứ tưởng mình khôn.

Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt

 “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt”

Thứ Ba XXXIV Thường Niên – Năm Lẻ – 28-11-2017

 Thực Hành  Ý kiến

Luca 21:5-11

5 Nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giê-su bảo:6 “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.”7 Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?”8 Đức Giê-su đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và: “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ.9 Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi.Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu”.10 Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ.11 Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.

(Trích Phúc âm Luca bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ từ http://www.chungnhanducKitô. net/kinhthanh/ta n%20uoc.htm)

Gợi ý cầu nguyện:

  1. Lời Chúa Giêsu nhận xét về đền thờ dẫn tôi vào một đời sống nội tâm sâu xa hơn. Mỗi ngày đi với Chúa phải là mỗi ngày tôi đi sâu hơn vào đời sống nội tâm, để ý đến chiều sâu đích thực của cuộc sống mà Chúa Giêsu muốn dẫn tôi tới.  Không phải là cái gì hào nhoáng bên ngoài, cũng chẳng phải ở những lễ nghi rước sách đình đám, hay luật lệ rườm rà, nhưng là một tương quan mang tính cá vị với Chúa Kitô.  Tôi đang theo Chúa kiểu nào?  Tôi có thể gặp Chúa nói chuyện thân mật với Ngài ngay bây giờ được không?
  2. Điểm thứ hai, trong bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở tôi đó là: ở thời nào và văn hóa nào thì cũng sẽ có những người nói tận thế sẽ xảy đến như thế này, như thế kia, ngay trong thời gian nào đó nhất định.  Nhưng lời Chúa hôm nay khẳng định: chẳng có ai có thể biết trước được ngày tận thế sẽ xảy ra ở đâu và khi nào.  Chúa Giêsu ở một chỗ khác(Mc 13:32) cũng khẳng định, các thiên thần chẳng biết (Mt 24:36) và chính Ngài cũng chẳng biết (Mc 13:32), chỉ có Chúa Cha biết.  Lời Chúa hôm nay có làm tôi vững tin và bình an hơn không?  Hay tôi vẫn đang sống trong sợ hãi của những lời đồn thổi?  Tôi nói chuyện với Chúa về điều này và xin Ngài sự bình an làm bảo chứng cho niềm tin của tôi vào Ngài.

 Phạm Đức Hạnh, SJ

****************************** ****************************** 

Để nói tiếp và nói rõ thêm về điểm thứ hai của bài Phúc Âm hôm nay “Anh em hăy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng:  “Chính ta đây”, và: “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ”:

Câu hỏi chính đáng là chúng ta có biết Biện Phân Thần Khí để khỏi bị “lừa gạt” không, để khỏi bị “theo họ” không?
Xin trả lời: phần đông dạ không.

Proving facts and statistics: (Đã và đang bị lừa gạt và “theo họ” đây)
Trong phạm vi gia đình:
1. Rất nhiều gia đình đổ vỡ.

  1. Bề trên (Ông Bà, Cha Mẹ, Cậu Mợ, Cô Dì, Chú Thím …) làm gương xấu cho con cháu và cho nhau rất nhiều.
    3. Rất nhiều người không biết Lời Chúa.
    4. Rất nhiều người không có Đời Sống Cầu Nguyện 
    thiết tha, phó thác và liên lũyvới Chúa, trong Chúa và vì Chúa.
  2. Không biết căn bản Giáo Lý, không “nắm vững” căn bản Chân Lý của Chúa. Chỉ biết sống cho mình, cho gia đình mình thôi.
  3. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc là ưu tiên mộttrong đời sống “của họ” và s đủ điều với đầy thành kiến ngu dốt (không dựa theo Lời Chúa mà dựa theo lời thế gian, lời người phàm, lời của Ma Quỷ, lời của chính họ).Tự ái và rất là kiêu ngạo mà không hay.
  4. Đang bị Ma Quỷ ru ngủ, đang bị Ma Quỷ ám, đang bị Ma Quỷ nhập, đang bị Ma Quỷ tác động, đang bị Ma Quỷ xui khiến, đang là tay sai của Ma Quỷ, muốn làm theo ý riêng của mình mà không biết vì khôngbiết Trận Chiến Thiêng Liêng và không có Đời Sống Tâm Linh sâu đậmvới Chúa; đầy cá tính của 3 Thù (chính mình, thế gian và Ma Quỷ).

Khuyến Khích:
Hãy học, hỏi, hiểu và hành trong 3 kho tàn Chúa ban cho (Lời Chúa, Truyền Thống Công Giáo qua những lời dạy và những kinh nghiệm đầy xương máu của các Thánh và Giáo Huấn Giáo Hội).Tất cả điều gì ngoài 3 kho tàng này điều không phải từ Chúa, đều là “của họ”; của Rồng, Rắn, của Ma Quỷ đấy nhé !!!

Lạy Chúa, Con Đây!

(Cầu nguyện với Mt 9,9)

Lạy Chúa,
Chúa đến gặp con
khi con đang ngồi trong căn phòng tối của đời mình, giữa những kẻ thu thuế và tội lỗi. 
Ngày qua ngày, con vẫn ngồi đó 
tư thế của một người điềm nhiên an hưởng 
trong lười lĩnh và thụ động
cắm cúi mải mê với những đồng bạc cắc. 
Ngoài kia đời vẫn trôi, ngày vẫn trôi
con thì chỉ biết thu thân trong phòng tối…

Bỗng một ngày Chúa đi ngang qua đời con
tưởng chỉ trùng hợp, tưởng như tình cờ.
Nhưng rồi Chúa dừng lại bên con
Chúa đưa mắt nhìn con, và Chúa gọi. 
Tiếng gọi của Chúa làm con giật mình,
khiến con sực tỉnh sau một giấc mơ dài.
Con đứng dậy đi theo Chúa.

Đứng dậy, con vùng lên để dành lại đời con, 
thả rơi những điều đã cột chặt và ghì kéo con. 
Thay đổi tư thế là thay đổi cuộc đời, 
là tự đứng trên đôi chân và hướng đời con về Chúa. 
Đi, con chuyển từ tình trạng ù lì thụ động 
sang tư thế chủ động cộng tác. 

Con đặt chân vào chuyến hành trình mới, 
trong vùng trời ánh sáng, con bước đi. 
Theo, con cho đời mình một định hướng 
để dấu chân con được sát với gót chân Người.

Lạy Chúa,
tạ ơn Chúa đã đến bên con, đã gọi con
đã 
xua tan bóng tối tù hãm
và kéo con ra vùng trời ánh sáng. 
Ơn gọi của con là một sáng tạo mới
Nhờ được Chúa gọi, con sống lại cuộc đời mới.

Xin lại dùng con như ánh sáng của Chúa
chiếu giãi vào đêm tối cuộc đời, 
để nhiều cuộc đời mới đưc sống 
và sống dồi dào trong Chúa.

Cao Gia An, S.J.

CHÍNH CHÚA CHỌN CON:

https://www.youtube.com/

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

NỖI NHỚ

NỖI NHỚ

 Tháng mười một, như một tâm tư, như một trải nghiệm, tôi đang sống và đã sống.  Nỗi nhớ trong tôi hay tôi đang trong nỗi nhớ, tôi chẳng hay, chẳng biết nhưng chỉ biết trong nỗi nhớ này tôi thuật lại những hồng ân Thiên Chúa và những cảm nghiệm. 

Ngày tiễn đưa mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng, tôi mới thấm thía nỗi buồn của mất mát.  Ngày xưa, hai chữ ấy thôi cũng nhắc lại cả một ký ức những ngày còn vui bên mẹ.  Bây giờ, nhìn tấm ảnh, bát hương, chiếc đèn, tưởng nhớ, nhận ra lòng mình vẫn bơ vơ, nghe như lạc lõng niềm vui nhưng lại ắp đầy trìu mến.

Ra nghĩa trang, bao nhiêu lần đưa tiễn đến nơi hoả táng, từ ngày mẹ mất dường như cảm thấy thương hơn đối với các gia đình tang hiếu rơi vào khoảng lặng.  Cũng một nỗi buồn ấy, trong nhiều tâm trạng, nặng trĩu nhiều khuôn mặt, tôi lại thấy nao nao những tưởng nhớ miên man.  Tôi nhận ra trong tiếng nấc nghẹn ngào, trong làn nước mắt, có nhiều kỷ niệm, có nhiều dấu ấn của cuộc đời, lớn lên trong bàn tay yêu thương của cha mẹ.  Trong tiếng buồn rơi có những lời kinh trầm phó thác, trong bàn tay tiễn biệt có những hạt kinh lặng lẽ. 

Tôi thấy những bước chân buồn không muốn nhấc, tôi thấy những chiếc xe chạy mà chẳng biết đang đi đâu, bởi lòng chở đầy nỗi mất mát đau thương.  Mỗi lần như thế, tôi lại thấy những bước chân tìm đến Thánh đường, nhà chầu Thánh Thể, dường như để sống lại những kỷ niệm, nơi ấy, chỗ ấy, người thân yêu đã từng ngồi, đã ở đó để tham dự Thánh lễ, đã thường dẫn các con vào nhà thờ lúc con còn thơ ấu. 

Tôi không biết có tôn giáo nào có nhiều kỷ niệm như Kitô giáo không.  Tôi thấy rất nhiều gia đình tụ họp trong ngày lễ cầu nguyện cho cha mẹ đã khuất.  Tôi cũng thấy, có những người con ngồi vào chỗ cha mẹ thường hay ngồi tham dự Thánh lễ trong nhà thờ, dường như muốn đọc lại tâm tình của cha hay mẹ mỗi khi cầu nguyện, hoặc như muốn sống lại góc nhìn ngắm Chúa từ chỗ quen thuộc ấy.  Tôi không thể diễn giải hết bao tâm tình từ một chỗ ngồi mà lại có biết bao cảm xúc, chỉ biết chắc chắn rằng từ chỗ ấy đã từng có lời nguyện xin cho các con khi cha mẹ còn sống.

Tôi không rõ có những cảm nghiệm về tình cha nghĩa mẹ phong phú như thế không vào những buổi kinh tối tại gia đình.  Những ngày đưa tiễn cha, mẹ xong, gia đình lại có những giờ phút ngồi lại bên nhau trong giờ kinh tối.  Tôi nhớ đến những ngày ấu thơ, anh chị em, mỗi đứa giành nhau ngồi vào lòng mẹ hay cha, tiếng đọc kinh hoà cùng tiếng xì xầm của con trẻ, những bàn tay lần hạt và những bàn tay mân mê đồ chơi của bé thơ…  Tôi thấy lại biết bao những kỷ niệm, mà giờ đây chỉ khi cha hay mẹ mất, anh chị em từ nhiều nơi mới quy tụ lại như xưa, đọc giờ kinh tối.  Những lúc kinh tối này, nhìn sang những đứa cháu, nhìn qua các anh chị em, lại vẫn thấy những khung cảnh ngày xưa, tay lần hạt và những bàn tay nhỏ xíu mân mê đồ chơi…  Tôi lại thấy tuổi thơ mình một thời đã sống.

Nỗi nhớ mênh mông nhưng là những nỗi nhớ trong khung trời yêu thương của Thiên Chúa.  Chúa đã yêu thương, đã cho cha mẹ là người Công giáo, có cha mẹ nhiệt thành sống đạo Chúa.  Trong mọi hoàn cảnh đều thấy bàn tay yêu thương của Thiên Chúa trong đời sống nguyện cầu của cha mẹ.  Được lớn lên giữa những lời kinh, trưởng thành trong những lời nguyện, vượt qua những cám dỗ nhờ đời sống gương mẫu của cha mẹ. 
 
Quá nhiều hồng ân chất đầy trong nỗi nhớ và nhiều nỗi nhớ chất đầy trong hồng ân, để bây giờ tôi thấy bàn tay Thiên Chúa âm thầm nâng đỡ.  Xin cảm tạ thiên Chúa và tất cả các bậc cha mẹ đã nhiệt thành sống đạo Chúa.  Xin cho các ngài an vui một đời bên Chúa.

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Nguồn: Langthangchieutim gởi

CHUYỆN TÙ “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH – TRẦN ĐỖ CUNG

CHUYỆN  “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH  TRẦN ĐỖ CUNG

“…Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?…”

 

tu_caitao01

Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng  Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc  mà còn mất cả cá tính nữa.

Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông  thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng: “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song  đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

Rồi xảy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.

Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.

Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.

Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.

“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy  đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ  tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.

Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học,  chỉ lặp lại những danh từ Xô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?

Trần Đỗ Cung
Nguồn: hon-viet.co.uk/TranDoCung

TOÀN LÁO CẢ! (BS ĐỖ HỒNG NGỌC)

TOÀN LÁO CẢ! (BS ĐỖ HỒNG NGỌC)

“…Chúng ta đang ở một thời đại láo toàn tập, láo từ trung ương đến địa phương, láo từ tập đoàn cho đến công ty, láo từ một tổ chức cho đến cá nhân. Láo mọi ngành nghề, láo toàn xã hội…”

Không biết lịch sử ghi lại các triều đại phong kiến đúng sai như thế nào, cũng chẳng có cách nào để kiểm chứng. Thế nhưng, thời đại ta đang sống hoá ra toàn láo cả. Rồi lịch sử thời hiện đại sẽ viết sao đây?

  • Thằng doanh nhân bán đồ giả làm giàu, cứ tưởng nó giỏi, hoá ra chẳng phải thế. Nó chỉ là kẻ “Treo dê bán chó”, mua 30.000 bán 600.000 không giàu sao được, thế rồi lúc giàu lên, hàng ngày lên mạng truyền thông dạy đạo đức, dạy bí quyết, dạy cách cư xử.
  • Kẻ thì đem hoá chất trộn vào thức uống, khiến người ta nghiện chất độc, tạo thành thói quen nguy hiểm cho người dùng.. Thế rồi khi có nhiều tiền, anh ta in sách dạy người ta tư duy, dạy cho tuổi trẻ cách sống. Nuôi đội ngũ nhà văn nhà báo tung hô mình như thánh sống, tuyên bố như đấng khải đạo.
  • Một ông chuyên làm thép, nghĩ toàn chuyện xây dựng những công trình có hại cho dân, nhưng lúc nào cũng mặc áo lam, đeo tràng hạt, nói toàn chuyện Phật pháp.
  • Một tập đoàn làm nước mắm giả, toàn hoá chất, bỏ biết bao tiền để quảng cáo lừa dân, bỏ tiền đầy túi. Một tập đoàn khác mua hoá chất quá hạn để sản xuất nước uống, lừa những kẻ phát hiện sai sót của sản phẩm mình để đưa họ vào tù, lại chuyên nói lời có cánh…… Kẻ buôn gian bán lận lại dạy cho xã hội đạo đức làm người.

Thời đại đảo lộn tất! Hài thế, mà vẫn không thiếu kẻ tôn sùng, xem các ông ấy như tấm gương sáng để noi theo. Khi vỡ lở ra, chúng toàn là kẻ nói láo.. Tất cả đều chỉ tìm cách lừa đảo nhau.

Toàn xã hội rặt kẻ nói láo, ca sĩ nói láo theo kiểu ca sĩ, đạo diễn nói láo theo kiểu đạo diễn, diễn viên nói láo theo kiểu diễn viên. Ừ thì họ làm nghề diễn, chuyên diễn nên láo quen thành nếp, lúc nào cũng láo. Thế nhưng có những kẻ chẳng làm nghề diễn vẫn luôn mồm nói láo.

Thi gì cũng láo, từ chuyện thi hát đến thi hoa hậu, chỉ là một sắp đặt láo cả… Ngay chuyện từ thiện cũng rặt chi tiết láo để mua nước mắt mọi người. Cứ có chuyện là loanh quanh láo khoét. Kẻ buôn lớn láo, kẻ bán hàng rong ở bên đường cũng lừa đảo, láo liên tục. Mỗi ngày mở truyền hình toàn nghe nói láo từ tin tức cho đến quảng cáo, rặt láo. Nhưng cả nước đều hàng ngày nghe láo mà chẳng phản ứng gì lại cứ dán mắt mà xem.

Thằng đi buôn nói láo đã đành, vì họ lừa lọc để kiếm lời. Thế mà cô hiệu trưởng nhà trẻ, anh hiệu trưởng trường cấp ba, ông hiệu trưởng trường đại học cũng chuyên nói láo. Thực phẩm cho các cháu có giòi, cô hiệu trưởng chối quanh… Các cháu học sinh đánh nhau như du côn, làm tình với nhau trong nhà trường, anh hiệu trưởng bảo là không phải, tảng bê tông rớt chết sinh viên, ông hiệu trưởng bảo là tự tử. Thế rồi tất cả đều chìm, đều im im ỉm. Người ta đồn tiền hàng đống đã lót tay bộ phận chức năng để rồi để lâu cứt trâu hoá bùn.

Mấy ngài lãnh đạo lại càng nói láo tợn Chỉ kể vài chuyện gần đây thôi, chứ kể mấy sếp nhà ta phát biểu láo thì thành truyện dài nhiều tập. Từ chuyện quốc gia đại sự cho đến chuyện hưng vong của tổ quốc, toàn chuyện quan trọng đến vận mệnh quốc gia thế nhưng dân toàn nghe láo. Kẻ thù mang tham vọng, âm mưu để biến nước ta thành chư hầu, chuyện này rõ như ban ngày, ai cũng thấy, ai cũng hiểu, thế mà các quan toàn nói tào lao, láo lếu.

  • Đến chuyện Formosa, khi biển nhiễm độc, cá chết, các quan bày lắm trò láo để mị dân, lấp liếm tội ác của thủ phạm, tuyên bố, họp báo, trình diễn ăn hải sản, ở trần tắm biển…tất cả đều rặt láo.
  • Đến chuyện BOT với các trạm đặt không đúng chỗ cho đến mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất, các quan ở Bộ Giao thông lại được dịp nói láo, tuyên bố rùm beng để bênh vực những tập đoàn và cá nhân vi phạm.
  • Khi vụ thuốc giả của VN Pharma nổ ra, cả một hệ thống truyền thông của Bộ Y tế kể cả các quan chức cấp bộ đều tuyên bố láo, tìm mọi cách che giấu tội ác của những tên buôn thuốc giả.
  • Rừng Sơn Trà quý hiếm, các ông vì tư lợi cá nhân, ra lệnh xây cất, chấp nhận nhiều dự án khai thác, các nhà chuyên môn, nhân dân phản ứng dữ quá,các ông bắt đầu chiến dịch nói láo, chạy quanh tìm kế hoãn binh.

Đến chuyện cá nhân của các quan thì lại càng nói láo tợn… Ông bí thư xây biệt phủ như cung điện của vua chúa ở xứ nghèo phải sống nhờ trợ cấp của chính phủ cho đến ông giám đốc môi trường xây biệt phủ mênh mông ở xứ lắm rừng, rồi đến ông lãnh đạo ngành ngân hàng với những dãy nhà hoành tráng trên miếng đất hàng ngàn thước vuông. Tất cả đều cho rằng do sức lao động cật lực mà có. Kẻ thì do nuôi gà, trồng cây, anh thì bảo chạy xe ôm đến khốc cả người, người thì nhờ bán chổi, trồng rau, kẻ khác thì bảo nhờ tiền của con dù con chẳng làm gì ra tiền và có đứa thì mới mười chín tuổi.

Lương thì chẳng bao nhiêu mà quan nào cũng vi la trong và ngoài nước, nhà nghỉ trên núi, nhà mát dưới biển, lâu đài, nhà to ở nước ngoài. Con cái ăn chơi như các công tử, tiểu thư quý tộc. Các bà vợ thì như các mệnh phụ, chỉ xài đồ dùng ở nước ngoài, đi shopping các mall lớn ở nước ngoài như đi chợ… Thế nhưng các ngài luôn phát biểu yêu dân, thương nước, yêu tổ quốc, đồng bào, và luôn nhắc nhở đất nước còn nghèo phải học tập ông này, cụ nọ để có đạo đức sáng ngời.

Các lãnh đạo xem rừng như sân nhà mình, phá nát không còn gì… Một cây có đường kính 1m phải mất trăm năm mới hình thành, lâm tặc chỉ cần 15 phút để đốn hạ. Hàng trăm chiếc xe chạy từ rừng chở hàng mét khối gỗ chỉ cần đóng cho kiểm lâm 400.000 đồng một chiếc là qua trạm. Rừng không nát mới lạ. Khi rừng không còn, lệnh đóng rừng ban ra, các lãnh đạo địa phương toàn báo cáo láo với chính phủ và có nơi tìm cách tiếp tục vét cú chót bằng cách làm trắng những cánh rừng còn lại..

Rừng bị tận diệt vì nạn phá rừng, rừng còn bị huỷ diệt bởi những dự án thuỷ điện. Tất cả đều có sự tiếp tay của các quan và ban ngành chức năng của địa phương. Rừng không còn, lũ về gây tang thương chết chóc, đê vỡ khiến nhà cửa tài sản trôi theo dòng nước, các quan cho là xả lũ đúng quy trình..

Bão chưa tới, lũ chưa về, các quan tỉnh đã ngồi với nhau viết báo cáo thiệt hại để xin trợ cấp. Một anh từng là tổng biên tập tờ báo lớn, sau khi thu vén được hàng triệu đô la bèn đưa hết vợ con qua Mỹ, sắm nhà to, xe đẹp còn anh thì qua lại hai nước, lâu lâu viết bài biểu diễn lòng yêu nước thương dân, trăn trở với tiền đồtổ quốc, khóc than cho dân nghèo, kinh tế chậm lớn, đảng lao đao…

Còn biết bao chuyện láo không kể xiết: Ngay cả thầy tu, các bậc tu hành cũng làm trò láo để quảng cáo chùa của mình, để thêm nhiều khách cúng bái, để thùng phước sương thêm đầy, để nhà thờ của mình thêm tín hữu. Chúa, Phật đành bỏ ngôi cao mà đi khi thấy những kẻ đại diện mình đến với mọi người bằng những điều xảo trá..

Chúng ta đang ở một thời đại láo toàn tập, láo từ trung ương đến địa phương, láo từ tập đoàn cho đến công ty, láo từ một tổ chức cho đến cá nhân. Láo mọi ngành nghề, láo toàn xã hội. Tất cả đều bị đồng tiền sai khiến, bị danh lợi bám quanh. Hơn nữa vì sự thật bi đát quá, đành láo để khoả lấp, hi vọng sẽ an dân. Nhưng thời đại bùng nổ thông tin, dân biết hết nên chuyện láo trở thành trơ trẽn.

Nghe láo quen, chúng ta lại tự láo với nhau và chuyện láo trở thành bình thường, láo để tồn tại, để phấn đấu, để thêm lợi thêm danh, và rồi láo đã trở thành một nếp sống.

Trẻ con học người lớn nói láo rồi tiếp tục những thế hệ nói láo. Ở nhà trường nghe cô thày nói láo, ra đời nghe thiên hạ nói láo, về nhà lại được nghe nói láo từ cha mẹ, mở máy nghe, nhìn cũng rặt điều láo.

Một nền văn hoá láo đã nẩy sinh và phát triển.
Hỏi sao trẻ con không láo và tương lai lại tiếp tục láo. Nghĩ cũng buồn!

Ngày cuối tháng 10/2017
Bs Đỗ Hồng Ngọc

2 bài phản biện về vụ PGS.TS Bùi Hiền và nhóm ủng hộ sửa đổi lại cách viết “Tiếq Việt”

2 bài phản biện về vụ PGS.TS Bùi Hiền và nhóm ủng hộ sửa đổi lại cách viết  “Tiếq Việt”

BẢNG MẪU TỰ TIẾNG VIỆT VỐN ĐÃ HAY VÀ ĐỦ

Quyên Di

Bài viết ngắn này không nhằm “tranh luận” với PGS TS Bùi Hiền về đề nghị “cải tiến chữ Việt” của ông cho bằng, nhân cơ hội này, chúng ta ôn lại với nhau những điểm căn bản của chữ Quốc Ngữ, là thứ chữ dùng mẫu tự La-tinh để ký âm tiếng Việt.

Bài viết rất ngắn này cũng không phải là một công trình nghiên cứu để đem ra thảo luận với các nhà ngữ học và ngôn ngữ học về tiếng Việt.

Gọi là căn bản, điều này có nghĩa là đụng chạm tới những điểm này, thay đổi hay xoá bỏ những điểm này thì chữ Quốc Ngữ không còn là chữ Quốc Ngữ nữa, mà là một thứ chữ gì khác rồi, nói rõ hơn là giết chết chữ Quốc Ngữ rồi. Cũng giống như một cái cây, người ta có thể hái hoa, hái quả, thậm chí cắt bớt cành, cái cây vẫn là cái cây; nhưng khi người ta đốn gốc, đào rễ thì cái cây không còn là cái cây nữa. Nó chết. Căn bản có nghĩa là rễ (căn), gốc (bản). Bởi vậy người ta mới nói kẻ mất gốc là “vong bản.”

Đây là những điểm căn bản của chữ Quốc Ngữ:

  1. Chữ Quốc Ngữ là một hệ thống ký âm: âm phát ra như thế nào thì dùng những chữ cái (mẫu tự, ký tự) a, b, c, d, đ v.v… để ghi lại âm đó lên trên giấy. Cũng giống như người ta dùng những nốt nhạc do, re, mi, fa, sol, la, si để ghi lại trên giấy âm thanh của một khúc nhạc, một bản nhạc. Điểm này cho thấy chữ Quốc Ngữ và chữ Hoa (chữ Tàu) đặt trên hai nền tảng hoàn toàn khác nhau: chữ Hoa đặt trên nền tảng hình vẽ, hình tượng thế nào thì vẽ ra như thế, đơn giản nét đi rồi cho vào một ô vuông tưởng tượng mà thành ra chữ.
  2. Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ ghi tiếng nói của cả nước chứ không phải ghi tiếng nói của một miền, một vùng, một thành phố, cho dù thành phố đó là Hà Nội. Khi các nhà truyền giáo sáng tạo chữ Quốc Ngữ, các ông này đã đi khắp tất cả mọi nơi trên đất nước ta: Đàng Trong, Đàng Ngoài, miền Bắc, miền Trung, miền Nam, thu thập các cách phát âm, tổng hợp lại mà ra các âm (thể hiện bằng những chữ cái) và các thanh độ (thể hiện bằng các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng.) Khi chỉ dựa vào cách phát âm của một miền, một vùng, một thành phố để làm thành bộ chữ thì thứ chữ ấy không thể được gọi là chữ Quốc Ngữ nữa. Ấy là chưa kể người của một vùng có thể thay đổi cách phát âm, lý do là có sự thay đổi người sinh sống ở vùng ấy. Người Hà Nội trước đây và người Hà Nội bây giờ trong cách phát âm có nhiều điểm không giống nhau.
  3. Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ có thể nói là duy nhất tại Á châu nằm trong khối chữ viết dùng hệ thống mẫu tự La-tinh. Những thứ chữ khác tại Á châu cũng dùng bảng mẫu tự La-tinh đều chỉ có tính cách thử nghiệm hoặc sử dụng trong phạm vi hạn hẹp, hầu như chỉ có tính cách phiên âm mà thôi. Đã gọi là nằm trong một hệ thống thì cách phát âm qua ký hiệu là các chữ cái phải giống nhau hoặc tương tự. Thí dụ: âm [thờ] được ký âm bằng hai chữ cái T và H: TH. Nhìn ký tự TH, người ta phát âm được là [thờ]. Nếu đổi đi, dùng ký tự W để ghi âm [thờ] thì tự mình tách ra khỏi hệ thống chung, gây rắc rối, khó hiểu chứ không phải là “hội nhập” thế giới. Người dạy tiếng Việt ở nước ngoài, khi dạy thường phải dùng phương pháp đối chiếu các ngôn ngữ: tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây-ban-nha. Học viên cảm thấy chữ Việt cũng có cách viết tương tự như ngôn ngữ của họ khiến họ cảm thấy dễ học, dễ viết. Đổi TH thành W để ghi âm [thờ] thì học viên chỉ có nước… chết!
  4. Bảng mẫu tự tiếng Việt vốn có (từ thời Alexandre de Rhodes) (1) dựa vào nguyên tắc “đơn giản tối đa” để dễ học, dễ nhớ. Thí dụ: đã có ký tự P và ký tự H, ghép lại thành PH để ký âm [phờ] thì không cần F phải có mặt trong bảng mẫu tự nữa. Vì thế mà trong bảng mẫu tự tiếng Việt không có những chữ cái F, J, W, Z.
  5. Tuy đơn giản, bảng mẫu tự này lại rất tinh tế. Cùng là âm [cờ] mà bình thường được ghi bằng ký tự C, lại được ghi bằng ký tự K khi âm [cờ] này đứng trước những âm I, E, Ê vì đây là 3 âm đầu lưỡi, và được ghi bằng ký tự Q(u) khi đứng trước những âm/vần bắt đầu bằng UY (và OA.) (2) Bỏ mất điểm tinh tế này đi, chữ Quốc Ngữ mất đi phần nào nét đặc biệt của nó. Vả lại, nếu đồng hoá, chỉ dùng K cho tất cả các âm [cờ] thì sẽ ra tình trạng hai chữ CỦA và QUẢ được viết giống nhau: KỦA.
  6. Chữ Quốc Ngữ có đặc điểm là âm nào phát ra được cũng ghi (viết) được và chỉ có một cách viết đúng mà thôi. Thí dụ: phát âm là [chuyện] với phụ âm [chờ] đứng đầu thì phải viết là CHUYỆN; mà phát âm là [truyện] với phụ âm [trờ] đứng đầu thì phải viết là TRUYỆN. Người Hà Nội có thể phát âm hai âm [chuyện] và [truyện] giống nhau, đều là [chuyện] mà thôi, nhưng tại rất nhiều vùng trên toàn đất nước, đồng bào mình phát âm rất rõ hai âm [chuyện] và [truyện]. Không nên làm nghèo cách phát âm phong phú của người mình.

Tóm lại,

Bảng mẫu tự tiếng Việt, nếu là bảng tiêu chuẩn, có 23 chữ cái:
A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y

Bảng mẫu tự tiếng Việt, nếu là bảng đầy đủ, có 29 chữ cái:
A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y

Chúng tôi thấy đây là hai bảng mẫu tự rất đơn giản và đầy đủ, không cần phải cải cách, thêm bớt gì cả.

Còn việc phiên âm những tiếng nước ngoài, trong đó có các ký tự F, J, W, Z lại là một vấn đề khác, chúng tôi không bàn tới ở đây.

Sự “cái tiến” như PGS TS Bùi Hiền đề nghị đã làm méo mó chữ Quốc Ngữ, nếu không muốn nói là ám sát nó, rất nguy hại. Nó khiến người ta hoang mang, tốn thì giờ, tốn công sức. Và nếu vô phúc nó được đem ra áp dụng thì tiết kiệm đâu không thấy, chỉ thấy nó tiêu phí rất nhiều năng lực, thì giờ và tiền bạc.

Để tránh sự nguy hại này, chúng tôi đề nghị chúng ta không tiếp tay phổ biến nó, cho dù chỉ là phổ biến để làm trò cười với nhau. Càng làm cho nhau cười, thứ chữ “cải tiến” này càng lan rộng. Các em trẻ tuổi vốn thích nghịch ngợm đã “chế tác” ra đủ các loại chữ viết “bí hiểm” để “chít chát” với nhau, nay gặp được thứ đồ chơi này sẽ đem ra dùng… cho biết. Dùng hoài hoá thiệt. Rốt cuộc, người ta không còn biết đâu là đúng đâu là sai nữa. Bây giờ đã thấy xuất hiện một bộ “Cuyển dổi Tiếq Việt” rồi đó. (3)

Quyên Di

(1) Alexandre de Rhodes không phải là ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Khi đến đất Việt để truyền đạo, ông phải học tiếng Việt qua các sách (chép tay) của các giáo sĩ Bồ-đào-nha đã đến miền đất này trước ông. Nhưng Alexandre de Rhodes đã có công lớn nhất trong việc hình thành và phát triển chữ Quốc Ngữ. Ông là tác giả hai tác phẩm chữ Quốc Ngữ đầu tiên, ấn hành tại Rome năm 1651: “Tự Điển Việt-Bồ-La” và “Phép Giảng Tám Ngày.”

(2) Sự thật QUÝ là QU + UÝ, khi viết chúng ta giản lược một chữ U, thành ra QUÝ; QUẢ là QU + OẢ, khi viết chúng ta giản lược chữ O, thành ra QUẢ. Hiện tượng này cũng tương tự như GIÊNG là GI + IÊNG, khi viết chúng ta giản lược một chữ I thành ra GIÊNG. Có thể một số vị không đồng ý với cách giải thích này.

(3) Chúng tôi không mất thì giờ ghi lại tất cả những thay đổi, thêm bớt vào bảng mẫu tự tiếng Việt của PGS TS Bùi Hiền mà ông gọi là “cải tiến”. Tiếp tay phổ biến chúng làm gì! Chúng tôi cũng không tiếp tục thảo luận về vấn đề “cải tiến chữ Việt” trên trang Facebook này. Không ích gì! Ngoại giả, không ai cấm vấn đề “cải tiến chữ Việt” được trình bày và thảo luận trong các cuộc hội thảo ngôn ngữ.

 LỜI PHẢN BIỆN …

 Tran Bao Anh

Mấy ngày nay trên mạng rộn ràng chửi rủa PGS.TS Bùi Hiền, tôi thì tôn trọng tư tưởng cải cách của mọi người, có cải cách mới có tiến bộ nếu nó đúng thì cũng nên….

còn sai thì phải nói cái sai cho Tiến Sĩ hiểu và bỏ qua ý định điên rồ ấy …

Chúng ta phải hiểu rằng PGS.TS Bùi Hiền và nhóm ủng hộ sửa đổi lại cách viết “tiếq Việt” là những người nằm trong lãnh vực văn chương, dù là tiến sĩ nhưng họ ít có khái niệm về kinh tế hay xã hội, họ chỉ muốn làm tốt cái gì đó nhưng chưa suy nghĩ tới những hệ lụy thôi, chúng ta không nên trách hay nặng lời mà nhỏ nhẹ phân tách thì tốt hơn…

Nói về cái lợi thì tôi không thấy cái lợi gì đáng kể nhưng về mặt thiệt hại thì nó đầy rẫy, tôi đem ra đây vài thí dụ để PGS.TS Bùi Hiền và nhóm ủng hộ thấy để bỏ qua ý định không mấy hay ấy.

1) Trước tiên là phải in lại toàn bộ các sách “záo khoa” toàn quốc từ tiểu học đến đại học. (PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được sự tốn kém không ? )
2) Phải đào tạo lại hàng ngũ đầu tàu trong ngành Záo Zụk, từ bộ đến hạ tầng, trong đó có quí vị Tiến Sĩ, Zảq Sư, Záo Sư, Záo Viên v.v. (PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được sự tốn kém không ? )
3) Phải làm lại tất cả các bảng hiệu trong đó có các bảng tên đường, tên thành phố, bảng chỉ đường, các văn phòng, bộ, cơ sở hành chánh, thí dụ Văn Phòng Chủ Tịch sẽ là “Văn Fòq Củ Tịc” , Củ Chi thì có chứ Củ Tịc là củ chi chi ? (PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được sự tốn kém không ? )
4) Nói về các giấy tờ hành chánh như khai sanh, hôn thú, hộ khẩu, sổ xanh sổ đỏ, căn cước, giấy chủ quyền, bằng lái xe, hợp đồng, giấy tờ công chứng, v.v. , nó chẳng có cái gì khớp hay chốt với nhau, trên văn bản thì người cao nhất nước là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng nhưng trên căn cước sẽ là Quyễn Fú Cọq thì sai rồi, người phát âm cưng cứng miền ngoài đọc lạng quạng chắc bị C.A.mời nữa chứ, còn Thủ Tướng Quyễn Suân Fúk là ai vậy ? (PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được nó trớt quớt cho 90 triệu dân không ? )
5) Về phương diện khoa học, phải cập nhật viết lại các chương trình chạy trên máy vi tính từ các bộ ngành, công an, quân đội, cơ sở thương mại, ngân hàng v.v. vì nó sẽ không chạy hay chẳng trúng đâu vào đâu, riêng về việc đánh chữ Việt với chương trình Unicode, nó đã từ chối không chạy với một số chữ cải cách vì nó không biết, quí vị thử xem …(PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được sự tốn kém không ? )

Vài thí dụ về sự bất tiện và thiệt hại tốn kém, tôi xin dừng ở đây vì nghĩ rằng đủ để quí vị thấy, tôi mà bươi thêm thì viết cả ngày không hết những cái “Fứk tạp” của việc cải cách chữ viết, nói nghe chơi thì nó ‘zản dị” nhưng hậu quả nó khổng lồ.

Với tài sức của PGS.TS Bùi Hiền & nhóm, tôi tin và khuyên quí vị nên chuyển hướng qua sự cải cách và tìm giải pháp cho nợ công của quốc gia hơn là tạo thêm phức tạp và gây thêm nợ…

DH

Vui Sống bàn thêm một chút

Toàn bộ sách lịch sử, bản đồ, báo chí, thi ca, tiểu thuyết từ hàng chục thế kỷ trước trong  THƯ VIỆN QUỐC GIA phải vừa giữ lại nguyên bản để tôn trọng lịch sử…. vừa in lại hết theo cách viết CẢI LÙI của PGS TS Bùi Hiền !!!

Nếu không, chỉ vài chục năm sau, các nhà nghiên cứu trẻ tương lai khi có dịp nghiên cứu lại nguyên bản cứ tưởng đó là tài liệu của một nước ngoài lạ hoắc nào đó

chứ KHÔNG PHẢI đó là CHỮ QUỐC NGỮ của nước Việt nam mình.!!!

Vuisongtrendoi gởi

Giải phóng để làm gì

Nguồn:  Honolulu Nguyen
Giải phóng để làm gì
[Giải phóng để làm gì] Ngày 30 tháng 4 sắp tới. Nhà nhà người người suy nghĩ nên đi đâu hay làm gì trong mấy ngày lễ này. Tôi không biết các bạn ở miền Bắc thế nào chứ ở trong Nam số người ăn mừng cái ngày “giải phóng” rất ít. Đa số người, như tôi và những người tôi biết, chỉ coi ngày này là ngày nghỉ mệt, không hơn không kém. Tôi rất thấy làm lạ với cái thuật ngữ “giải phóng.” Giải phóng? Giải phóng ai, giải phóng khỏi cái gì. Ai giải phóng ai.
1. Giải phóng để làm gì khi đất nước tôi phải trải qua một cơn đói chưa từng có trong lịch sử.
2. Giải phóng để làm gì khi hàng triệu gia đình bị tan nát và phá hoại.
3. Giải phóng để làm gì khi hàng trăm ngàn người lính vô tội phải đi tù.
4. Giải phóng để làm gì tài sản người dân tích lũy mấy đời mới có bỗng nhiên bị cướp sạch.
5. Giải phóng để làm gì khi hàng triệu người phải bất chấp mạng sống để trốn chạy khỏi đất nước trên những con thuyền nhỏ bé; và hàng trăm ngàn người phải gọi đáy biển là mộ của mình.
6. Giải phóng để làm gì khi dân tôi phải ăn bo bo và khoai mì để khỏi phải đói.
7. Giải phóng để làm gì khi người Việt Nam đi đâu cũng bị khinh thường và soi mói.
8. Giải phóng để làm gì khi cuộc chiến đã chấm dứt 42 năm rồi nhưng dân tộc vẫn bị chia rẽ.
9. Giải phóng để làm gì hàng trăm ngàn người lại đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hay đi bán thân mình dưới danh nghĩa “xuất khẩu lao động.”
10. Giải phóng để làm gì khi sau 11 năm thảm họa, đất nước phải bắt đầu trở lại dưới danh nghĩa “Đổi Mới.”
11. Giải phóng để làm gì khi cái lý tưởng của cuộc chiến chưa bao giờ thành công, cuối cùng thì phải áp dựng lý tưởng của địch để phát triển đất nước.
12. Giải phóng để làm gì khi du học sinh đi du học không muốn về và kiều bào thì không muốn giữ quốc tịch.
13. Giải phóng để làm gì khi đi đâu cũng thấy người bán vé số và ăn xin.
14. Giải phóng để làm gì ngày nào cũng có dân oan than khóc vì bị cướp đất hoặc đền bù với giá rẻ mạt.
15. Giải phóng để làm gì chính con cháu của những chiến sĩ giải phóng lại muốn từ bỏ đất nước, vậy cái lý tưởng chiến đấu ngày xưa có nghĩa gì?
16. Giải phóng để làm gì khi chính những thành viên chính trị cũng đang chạy hồ sơ để mua quốc tịch nước ngoài.
17. Giải phóng để làm gì khi bây giờ công lý chỉ là diễn viên hài và luật pháp có thể được mua chuộc bởi đồng tiền.
18. Giải phóng để làm gì khi bây giờ lại kêu gọi các công ty tập đoàn nước ngoài vào nước đầu tư. Chứ không phải ngày xưa đã đánh đuổi họ đi sao?
19. Giải phóng để làm gì khi người Việt Nam chỉ coi đất nước là cái nhà trọ.
20. Giải phóng để làm gì khi gái Việt Nam bây giờ hám ngoại, dân thì sính ngoại, cái gì thuộc về “Tây” cũng được sùng bái ở đất nước này.
21. Giải phóng để làm gì nhà nhà cho con em đi học tiếng Anh, trường quốc tế thì nở rộ như nấm.
22. Giải phóng để làm gì khi giới trẻ chẳng quan tâm tới đất nước và bị ngu đần bởi hệ thống giáo dục.
23. Giải phóng để làm gì khi bây giờ người Bắc Nam vẫn còn chửi nhau là “Bắc Kỳ-Nam Kỳ.”
24. Giải phóng để làm gì khi bây giờ người dân phải ăn đồ hóa chất, ngửi không khí độc hại.
25. Giải phóng để làm gì khi đất nước này ngày càng bị ảnh hưởng và lệ thuộc ngoại bang?
26. Giải phóng để làm gì khi người dân không có tự do và công bằng.
27. Giải phóng để làm gì khi chính những chiến sĩ ngày xưa hy sinh tuổi xuân để giải phóng bây giờ chẳng được gì ngoài tấm bằng khen.
28. Giải phóng để làm gì khi người dân Việt Nam chỉ là công dân hạng hai trên chính đất nước của mình.
29. Giải phóng để làm gì khi đất nước Việt Nam này lại thuộc về người khác mà không thuộc về người dân.
30. Và giải phóng để làm gì để bây giờ chẳng ai còn tin hay tự hào về cái gọi là giải phóng cả.

Như vậy thì giải phóng để làm gì? Vì lý tưởng? Không thể nào. Vì tự do? Càng không thể. Vì dân tộc? Thật vô lý. Vì độc lập? Càng vô lý nữa. Giải phóng để làm gì để bây giờ đất nước Việt Nam ngày đang vỡ nát. Tôi chẳng thấy một điều tích cực nào đến từ cái gọi là giải phóng cả. Vậy ai giải phóng ai và giải phóng để làm gì?
Ku Búa @ Cafe Ku Búa

Ngày Xưa tôi đã có…….

Ngày Xưa tôi đã có…….

Tôi đã có dân BẮC KỲ như thế truoc 1950 ….

Tôi đã viết rất nhiều về Bắc Kỳ, chửi có, khen có, trách có và vừa đấm vừa xoa cũng có. Nhưng khác với những lần trước, đây sẽ là một bài rất nhẹ nhàng và thơ mộng. Tôi biết, mới đọc tới đây thì bạn nghĩ tôi sẽ châm biếm cái gì đó về Bắc Kỳ hay chửi xéo gì đó. Nhưng tôi cam đoan, tôi không hề. Tôi muốn các bạn nghe về dân Bắc Kỳ ngày xưa.

Ngày xưa, tôi đã có dân Bắc Kỳ thanh lịch.

Họ là những người rất tế nhị và coi trọng lễ nghĩa. Cái gì cũng phải thưa bác, thưa chị ạ. Lời nói của họ thì đầy văn chương nghe sướng cả tai. Họ không hề biết nói tục. Nếu phải nói tục thì nói nặng nhất sẽ những câu văn chương bóng gió. Thậm chí nếu bạn nghe họ chửi thì bạn sẽ nghĩ họ đang khen bạn.

Ngày xưa, tôi đã có dân Bắc Kỳ thật thà.

Họ không hề biết nói dối và họ căm ghét ai nói dối. Ông bà đã dạy “nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Hồi đó ai gian dối sẽ bị khinh bỉ và coi là nỗi nhục cho gia đình.

Ngày xưa, tôi đã có dân Bắc Kỳ vô cùng tế nhị.

Cái gì cũng dạ vâng ạ, cho em xin, cảm ơn bác ạ. Họ thường xuyên nói những lời khen nghe mát cả lòng như “cái Thư, bé Tuyết của nhà Bác xinh và ngoan, đúng là mẹ nào con nấy ”.

Ngày xưa, tôi đã có dân Bắc Kỳ trí thức. Họ là những người được giáo dục trong môi trường song ngữ trong các ngôi trường của Pháp. Họ có thể nói tiếng Việt, Anh và Pháp. Họ được xem là tầng lớp tinh hoa của xã hội, là những người ai cũng nhìn theo để học hỏi.

Ngày xưa, tôi đã có – trước 1950 – một Hà Nội that xinh đẹp.

Người dân ở đó được mệnh danh là Dân Tràng An. Như câu: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, 
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.

Người Hà nội ngày xưa là tấm gương để mọi người học hỏi. Vì Hà Nội không chỉ là thủ đô chính trị mà còn lại thủ đô của văn hóa, học thuật và nghệ thuật của cả nước.. Nên vì vậy người Hà Nội cũng mang trong mình tư duy nghệ thuật mang đậm chất Ta và Tây.

Ngày xưa, tôi đã có những cô gái Bắc Kỳ xinh như mộng.

Với vóc dáng như tiên nữ, đôi mắt đen huyền bí và giọng nói ngọt như đường – họ đã làm say đắm bao nhiêu chàng trai Thủ Đô và Tứ Xứ. Cái câu quen thuộc “dạ vâng ạ” cũng đủ để làm mát lòng bất cứ một trai tim thép nào. Nếu bạn không rung động trước một cô gái Hà Nội thì bạn chỉ có thể là một con người làm bằng sỏi đá.

Ngày xưa, tôi đã có những thi sĩ Bắc Kỳ tài ba.

Ôi Nguyễn Bính, ôi Xuân Diệu, ôi Hồ Dzếnh, TTKH … Tới bây giờ những bài thơ tình của họ vẫn còn và in đậm trong lòng tôi. Tôi rất thích câu cổ điển của Xuân Diệu:

“Yêu là chết ở trong lòng một ít, 
vì mấy khi yêu mà chắc được yêu, 
cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu, 
người ta phụ hoặc thờ ơ chả biết”.

Và vô số những câu và bài thơ lãng mạn khác nữa …

Ngày xưa, tôi đã có dân Bắc Kỳ là những người Công Giáo ngoan hiền.

Họ yêu Chúa và không ngần ngại nói lên điều đó. Mỗi sáng Chủ Nhật tôi sẽ nghe tiếng chuông nhà thờ và người người và nhà nhà đi lễ và ra về bất chấp nắng mưa.

Nhà thờ đối với họ không chỉ là một nơi để tôn vinh Chúa mà còn là một nơi để tụ họp gia đình và gặp gỡ bạn bè… Họ là những người chân thành của Chúa.

Ngày xưa – trước 1950

Tôi đã có dân Bắc Kỳ khi nghe tôi gọi họ là “Bắc Kỳ” thì cười tự hào. Đối với họ từ Bắc Kỳ chẳng mang hàm ý tiêu cực hay kỳ thị gì cả.

Ngày xưa, tôi đã có dân Bắc Kỳ khiến tôi không lo sợ, căm ghét hay canh chừng vì tôi tin tưởng họ tuyệt đối. Họ thật thà, tử tế và tế nhị thì có gì để sợ hay ghét chứ ?

Đó ngày xưa, tôi đã có những anh chị em Bắc Kỳ như thế. *** Nhưng tôi rất buồn vì bây giờ đã không còn như thế nữa. Tôi rất tiếc, đau xót vì bây giờ sự tốt đẹp, tử tế đó đã chết đi.

Tôi rất cay đắng vì sự thanh lịch, dịu hiền, ngọt ngào của họ đã không còn tồn tại. Và hơn nữa, tôi cảm thấy đau lòng khi những điều tôi nói trên chỉ là quá khứ khó lòng quay trở lại.

Ngày xưa – trước 1950 – tôi đã có những người bạn Bắc Kỳ như thế … và giờ:

“Những người muôn năm cũ, Hồn ở đâu bây giờ” Vũ Đình Liên…

Image may contain: 1 person, standing and outdoor
Image may contain: 1 person, smiling, sitting
Image may contain: 2 people, people standing, child, tree and outdoor
Image may contain: 1 person, hat, closeup and outdoor
+4
 
 

Vì sao học giả nước ngoài quan tâm Mẹ Nấm?

Vì sao học giả nước ngoài quan tâm Mẹ Nấm?

Phiên tòa ngày 29/6
Bản quyền hình ảnh  GETTY IMAGES
Tòa án Nhân dân tỉnh Khánh Hòa vừa tuyên án 10 năm tù cho blogger Mẹ Nấm, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh

40 học giả, thuộc nhiều quan điểm, cùng ký một tuyên bố ‘mạnh mẽ yêu cầu’ Việt Nam thả hai nhà hoạt động, bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và bà Trần Thị Nga.

Thư được gửi hôm 30/10 tới Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Bản tuyên bố ghi rằng họ “quan ngại sâu sắc ” trước cáo buộc và bản án dành cho blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (còn gọi là Mẹ Nấm) và nhà hoạt động Trần Thị Nga.

Bản tuyên bố ghi: “Đây là những bản án đặc biệt nặng nề cho hai phụ nữ có con nhỏ dưới 10 tuổi, chỉ vì các hoạt động ôn hòa đáng lẽ đã không nên và không thể bị hình sự hoá.”

“Vì những lý do pháp lý và nhân đạo, chúng tôi mạnh mẽ yêu cầu bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và bà Trần Thị Nga phải được thả ngay lập tức và vô điều kiện.”

nga
Bản quyền hình ảnh  FB LUONG DAN LY
Nhà hoạt động Thúy Nga có hai con trai 5 và 7 tuổi

Trả lời BBC, một người ký tên, học giả Jason Morris-Jung, nói có nhiều học giả nổi tiếng và những chuyên gia nước ngoài nghiên cứu lâu năm về Việt Nam đã tham gia ký tên.

Ông nói rằng điều thú vị là đơn tuyên bố này bao gồm “cả hai nhóm từ hai lập trường chính trị, từ những nhóm có xu hướng truyền thống, thường đồng cảm với vai trò lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam cho đến nhóm chủ nghĩa xét lại, vốn hay trực tiếp chỉ trích Đảng Cộng sản”.

Hôm 3/11, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) ở Mỹ cũng ra tuyên bố yêu cầu Việt Nam thả tất cả các tù nhân chính trị.

Tuyên bố của HRW nói các lãnh đạo quốc tế và đối tác thương mại dự định tham dự Hội nghị APEC sắp tới ở Đà Nẵng vào 10/11 nên kêu gọi giới chức Việt Nam ngừng việc trừng phạt các nhà phê bình ôn hòa và đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do tổ chức, hội họp và tự do tôn giáo cho tất cả các công dân.

Những nữ tù nhân lương tâm Việt Nam

Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam thả ngay ‘Mẹ Nấm’

Việt Nam phản đối Mỹ vinh danh Mẹ Nấm

Danh sách 40 người ký tên

Etienne Balibar

Mark Philip Bradley

David Brown

Anita Chan

Cari Coe

Đỗ Đăng Giu

Wynn Gadkar-Wilcox

Christopher Goscha

Lelia Green

Hồ Tài Huệ Tâm

Ben Kerkvliet

Ben Kiernan

John Kleinen

Scott Laderman

Lê Xuân Khoa

Lê Trung Tĩnh

Jonathan London

Bruno Machet

Pamela McElwee

Shawn McHale

Paul Mooney

Jason Morris-Jung

Ngô Lâm

Ngô Vĩnh Long

Nguyễn Điền

Nguyễn Ngọc Giao

Nguyễn Đức Hiệp

Nguyễn Thị Hường

Claire Oger

Sophie Quinn-Judge

Pierre Rousset

Mark Sidel

Jonathan Sutton

Philip Taylor

Thái Văn Cầu

William S. Turley

R J Del Vecchio

Vũ Quang Việt

Phạm Xuân Yêm

Peter Zinoman

Cần một cuộc Cách mạng Lương tâm ở VN!

Cần một cuộc Cách mạng Lương tâm ở VN!

Mấy hôm nay cứ suy nghĩ hoài đến cụm từ “Tù Nhân Lương Tâm”. Không hiểu cụm từ TNLT do ai đặt ra, nhưng khi hỏi ACE thuộc Hội cựu TNLT kể lại thì biết rằng Tù nhân lương tâm là những người hoạt động vì lương tâm thúc đẩy và chính do các hoạt động đó mà họ bị nhà cầm quyền bỏ tù.

Đó là những người như Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Tạ Phong Tần, Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Cao Quận …, họ là những người yêu nước, họ biểu tình, họ giương biểu ngữ, hay đi điều tra, viết báo… phản đối TQ xâm lấn Biên giới khu vực thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan…, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của VN. Những người đấu tranh cho quyền tự do của con người, cho quyền của công nhân như LS Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Lê Thị Công Nhân, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương…

Những người muốn xây dựng Việt Nam thành một đất nước dân chủ, nhân bản, đa nguyên như Bác sỹ Nguyễn Đan Quế, Lm Phan Văn Lợi, Lm Nguyễn Văn Lý, nhà giáo Hoàng Minh Hoàng, LS Lê Công Định, KS Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, ThS Nguyễn Tiến Trung…

Đó là những trí thức chân chính, có tâm, có trí, họ trung thực, thẳng thắn, phản tỉnh; họ là người có chức vụ, có địa vị trong chế độ đương quyền nhưng họ mạnh dạn lên tiếng cảnh tỉnh XH, bênh vực những người bị chế độ coi là phản động , là thế lực thù địch và bị bỏ tù như các ông Phạm Quế Dương, Lê Hồng Hà, Hoàng Minh Chính, Hà Sỹ Phu…

Những người đấu tranh bảo vệ môi trường như thầy giáo Đinh Đăng Định, LS Cù Huy Hà Vũ … ( chống dự án Bauxite Tây Nguyên )
Những người thực hành các hoạt động tự do tôn giáo như Mục sư tin lành Dương Kim Khải, Nguyễn Hồng Quang, Hòa thượng Thích Không Tánh, Thích Thiện Minh, và nhiều chức sắc trong Phật Giáo Hòa Hảo như ông Nguyễn Văn Lía, Nguyễn Văn Phong, Võ Văn Bửu…

Nhưng người hoạt động báo chí, chống tham nhũng như ông cựu Tổng biên tập báo Người cao tuổi Kim Quốc Hoa, Phạm Chí Dũng, Phạm Bá Hải, và gần đây là Anhbasam Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh…

Những người thực hành nhân quyền như thực hiện quyền biểu tình, quyền tự vệ chính đáng, quyền khiếu kiện đòi quyền lợi chính đáng cho mình và cho những người bị oan ức khác như chị Trần Ngọc Anh, thiếu niên Nguyễn Mai Trung Tuấn, anh Nguyễn Trung Cang, các chị Phùng Thị Ly, Nguyễn Văn Thông, Bùi Thị Minh Hằng, Cấn Thị Thêu…
Và gân đây ( tháng 11-2012) là những người bị bắt vì bị nghi hoạt động lập hội có tiêu chí như một đảng chính trị, như Lưu Văn Vịnh, Nguyễn Văn Đức Độ, Phan Trung…

Còn nhiều cựu TNLT, và TNLT khác chưa được liệt kê ở trên, và việc liệt kê các hoạt động trên cũng chỉ mang tính sơ lược, tương đối, vì có những người đã tham gia nhiều hoạt động tự do Nhân quyền, Dân chủ, yêu nước ở các lĩnh vực khác nhau.

Những điểm chung của những người TNLT đã bị tù tội, hay đang bị giam giữ ở trên đều là những người hoạt động theo lương tâm chỉ dẫn, vì lương tâm thúc đẩy, và những hành động đó không bị Hiến pháp ngăn chặn, những hoạt động đó chỉ là biểu hiện của Quyền con người đã được minh định trong Tuyên Ngôn Quốc Tế 1948, trong Công ước Quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị mà VN đã ký cam kết thực hiện.

Có lẽ cũng như nhiều người, tôi chỉ hiểu, lương tâm là thiện, là nhân ái, là yêu thương, là tự trọng, là nhân nghĩa, là trọng danh dự, là công chính, là công bằng, không làm hại người khác, là yêu nước, yêu con người, sẵn sàng làm và sẵn sàng chấp nhận rủi ro ( trả giá ) vì những điều tốt đẹp, …, tóm lại Lương Tâm là Tốt và dám hành động vì cái mình cho là Tốt.

Nhưng tôi cứ phân vân, như thế đủ chưa, và tôi đi tìm giáo sư Google để tìm hiểu hai chữ Lương Tâm là gì? 
Dưới đây là câu trả lời của GS Google:

“Lương tâm là cái thiện tâm của con người sẵn có. Lương tâm là đặc tính sẵn có trong con người, cũng như cảm quan về nghĩa vụ, trách nhiệm, về chân thiện mỹ. Nếu con người cần suy nghĩ là thấy nó ngay.

Lương tâm là dữ kiện chánh niệm, Có và Không hủy bỏ được. Vì lương tâm giúp cho con người, hướng dẫn cho con người được sáng đẹp, làm cho sự hành động con người có giá trị, mà lương tâm đó phải là lương tâm đạo đức.

Ví dụ: Con người mà không có lương tâm cũng như thuyền không lái, như Ngựa không cương, như vật vô tri vô giác. Lương tâm ví như một vị Thẩm phán để xét qua hành động của con người, như: tội, phước, tiến, thối. Vậy nên lương tâm giúp cho con người biết làm cái bổn phận đối với nhân sinh xã hội.

Lương tâm là năng lực mang tính tự giác của con người tự giám sát bản thân, tự đề ra cho mình nghĩa vụ đạo đức phải hoàn thành, tự đánh giá hành vi của mình. 

Nói rộng ra, lương tâm là ý thức chủ quan của cá nhân về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với xã hội, được coi như là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với bản thân.”
(ở đây tôi không trích tiếp Khổng nói về Lương Tâm, vì Khổng giáo phân biệt Nam- Nữ, Vua- Dân, Trò- Thầy không hợp với “tự do, bình đẳng” trong Tuyên Ngôn QT Nhân Quyền )

Tôi mất rất nhiều thời gian, suy ngẫm, đọc, học, quan sát để đưa ra trả lời câu hỏi:
Con đường nào đưa VN thành một đất nước văn minh, thịnh vượng, hùng mạnh?

Ở đây chữ đất nước văn minh, là một quốc gia (nhà nước) văn minh phổ quát, là trong quốc gia đó mọi cá nhân được bình đẳng cơ hội ở mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội của đất nước. 

Mọi người bình đẳng cơ hội trong lao động, sáng tạo, ở mọi ngành nghề, lĩnh vực mà mình yêu thích; được hưởng đầy đủ các Quyền tự do Nhân quyền, nhất là tự do chiếm hữu tài sản chính đáng và đóng góp cho xã hội một phần theo quy định mà mình có thể vui vẻ chấp nhận; khuyến khích từ thiện xã hội; được bảo vệ khỏi bạo lực bất công, được nâng đỡ và an ủi khi chẳng may bị tàn tật hay rủi ro.

Nhà nước văn minh phổ quát là nhà nước dân chủ thực sự, chính phủ là của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy phải là Nhà nước tam quyền phân lập, và lấy tự do nhân quyền làm trọng tâm của Hiến pháp.

Như vậy Nhà nước phải tổ chức sao cho Chính phủ phải yếu hơn nhân dân, phải thua nhân dân, và chính phủ phải mạnh mẽ, khôn khéo, hùng dũng trước kẻ thù.

Có thể nói chính phủ là con lừa cho nhân dân lương thiện cưỡi, nhưng chính phủ phải là hổ báo, là sư tử, là cáo già với kẻ bạo lực, lừa đảo, bất lương và ngoại xâm.

Từ suy nghĩ, TNLT là người có lương tâm mà bị bỏ tù, vậy ai là người bỏ tù người có lương tâm?

Các quốc gia văn minh (phổ quát) có tù nhân lương tâm không?
Câu trả lời rõ ràng, là nước nào văn minh thì không có TNLT.

Vậy để nước Việt Nam thành văn minh, điều kiện tiên quyết là thả tù nhân lương tâm, không tiếp tục bắt giữ tù nhân lương tâm.

Điều đó sẽ thành hiện thực bền vững khi thay đổi Hiến pháp, cụ thể HP phải không còn câu nào tương tự cụm từ “Theo quy định của pháp luật” thòng vào các điều quy định về Quyền tự do Nhân quyền, như đang thòng vào sau các Điều, như Điều 25, HP 2013. Vì điều đó tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước tuỳ tiện ban hành “Quy định pháp luật ” vi phạm Tự do Nhân quyền.

Và phải bỏ các Điều luật mù mờ, dễ suy diễn như Điều 79,88, 258, 245 BLHS.

Muốn đạt được các điều trên, người VN cần làm gì, và làm như thế nào?

Theo thiển nghĩ của tôi thì người VN cần làm một cuộc cách mạng.

Nhưng đó là cuộc cách mạng gì?

Không phải cách mạng XHCN, không phải cách mạng dân chủ tư sản, không phải cách mạng công nghiệp (thế giới đã bước sang CM CN thứ 4), cũng không phải cách mạng giành độc lập dân tộc, không phải cách mạng nông nghiệp (CM xanh), không phải cách mạng văn hóa, không phải cách mạng giáo dục…, vậy đó là cuộc cách mạng gì?
Đó là cuộc Cách Mạng Lương Tâm!

Vì sao?

Vì nếu mọi người có lương tâm thì:

Giáo viên sẽ không nói rằng “vì đồng lương thấp nên tôi phải tìm mọi cách dạy thêm”.

Một bác sỹ sẽ không nói rằng ” không có phiếu đóng tiền nên tôi chưa khám, chưa mổ cấp cứu, chưa có phong bao nên tôi chưa chỉ dẫn kỹ càng…”

Một công chức sẽ không nói rằng “cái này sai là do cơ chế…”

Thẩm phán sẽ không đọc bản án viết sẵn của đảng hay AN.

AN sẽ không tìm cách lập thành tích, để rồi bắt người oan, lỡ bắt oan thì bắt luôn…, không thuê côn đồ đánh người bất đồng chính kiến, không nghe cấp trên, không vì thành tích đánh án mà bức cung, nhục hình…

Đại biểu Quốc hội sẽ không biểu quyết vì…” nghị quyết BCT đã quyết rồi”.

Chủ tịch nước, Thủ tướng, TBT đã không để cho bảo vệ đuổi, đánh, bắt dân oan khi dân oan đến kêu cứu …

Người dân đã không sợ hãi mà cứ đi bầu cử cho kẻ mình không biết mặt, không ưa, không tín nhiệm…

Người tham gia giao thông đã không đưa tiền cho CSGT

Việt Kiều đã không đưa tiền cho Hải quan, an ninh cửa khầu…

Phụ huynh đã đồng loạt lên tiếng khi có học sinh bị đánh đập, bị thày giáo hiếp dâm, lừa tình…

Các nữ giáo viên đã đồng loạt bỏ dạy để phản đồi cấp trên điều đi tiếp khách..

Tiểu thương cả nước đã đồng loạt bãi chợ, khi một chợ bị giải tỏa oan…

Những anh em đấu tranh dân chủ đã không loan tin nghi ngờ nhau là AN chỉ vì mâu thuẫn cá nhân…

Những người làm từ thiện đã không lừa đảo, và ăn chặn tiền của bá tánh…

Các trí thức đã chịu đọc của nhau, tham khảo nhau để cùng tiến bộ, không còn kiều “văn mình, vợ người”…

Nếu đảng viên cộng sản có lương tâm thì họ đã đồng loạt bỏ đảng, khi họ phát hiện ra lãnh tụ CS như Stalin, Mao, Polpot, Kim.. đã giết người, giết đồng đội của mình nhiều hơn cả Hitler…, và nó đã kìm hãm sự phát triển của xã hôi loài người từ 1917 đến nay…

Nếu nhà khoa học, GS, TS, ( Viện NC, Trường ĐH, HV ) có lương tâm đã không mua bán bằng cấp; không làm đề cương khoa học chiếu lệ, đề tài tầm phào để chủ yếu giải ngân, rút ruột ngân sách…

Thầy giáo dạy chính trị có lương tâm thì đã bỏ dạy cái lý thuyết ngụy biện Mác Lê. Khi biết việc học nó chỉ để thấy nó sai, làm lãng phí thời gian, tiền bạc của thầy, trò, phụ huynh và xã hội.

Nếu nông dân có lương tâm, họ sẽ không hôm nay phun thuốc rầy vào rau, mai bán cho đồng bào ăn…

Thương nhân có lương tâm sẽ không vì hám lời mà tiếp tay cho hàng TQ độc hại vào VN để đầu độc đồng bào.

Doanh nhân có lương tâm sẽ không vì lợi nhuận trước mắt mà mua hàng hoá độc hại, công nghệ, máy móc rẻ tiền, lạc hậu của TQ về để làm ô nhiễm môi trường, tiêu tốn nguyên liệu, tài nguyên của đất nước, gây ra dịch bệnh, ung thư lâu dài cho dân chúng.

Nhà báo, tổng biên tập có lương tâm sẽ không viết bài theo ý tuyên giáo, họ sẽ phản ánh công lý, sự thật…, và hàng ngày trên TV với gần 70 đài truyền hình, trên cả ngàn tờ báo sẽ có hình ảnh, tiếng thét của dân oan mất đất, mất nhà ở khắp cả nước, và ở ngay HN…

Nhà báo có lương tâm thì VTV, các báo phải xin lỗi Trương Minh Tam, Chu Mạnh Sơn khi các báo loan tin rằng “Tam, Sơn tuyên truyền kích động cá chết do Formosa”, và phải khen Sơn, Tam đã phản ánh đúng sự thật, Formosa HT đã đầu độc biển miền Trung…

( Bài đã đăng FB 28/11/2016)

Image may contain: 22 people, people smiling
 

Sinh nhật thứ 426 năm cha đẻ chữ Quốc ngữ: Xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân

 

Sinh nhật thứ 426 năm cha đẻ chữ Quốc ngữ: Xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân

 

17155689_455850321417921_824731054655270838_nThái Hà (13.03.2017) – Kỷ niệm 426 năm ngày sinh Cha Alexander Rhodes, người khai sinh chữ Quốc ngữ (15/3/1591 – 2017)

Khi đọc những dòng chữ Việt ngữ này, là bạn đang chiêm ngưỡng tác phẩm của các linh mục thừa sai Dòng Tên gồm các cha Gaspar De Amaral, cha Antonio Barbosa, cha Francisco De Pina và cha Alexandre De Rhodes, tất cả họ đều là tác giả của quốc ngữ mà người Việt ta đang sử dụng hàng ngày.

Với linh mục Gaspar De Amaral, cha đã soạn cuốn từ điển Việt – Bồ. Với linh mục Antonio Barbosa, cha soạn cuốn từ điển Bồ – Việt. Với linh mục Francisco De Pina, được cho là cha đã dựa vào cách phát âm tiếng Bồ để chuyển tự ghi chép tiếng Việt khi ông vào Đàng Trong (Từ sông Gianh trở vào Nam). Nhưng các cha đều mất khá sớm, tuy vậy, cùng với một số linh mục khác trong giai đoạn tiên khởi này, các cha đã giúp đặt nền móng đầu tiên cho quốc ngữ Việt Nam.

Với linh mục Alexandre De Rhodes, thì cha đã dựa vào hai công trình từ điển nêu trên và bổ sung thêm phần La tinh để hình thành nên cuốn từ điển Việt – Bồ – La.

Thực tế, chính việc bổ sung phần La tinh của cha Alexandre De Rhodes đã trở thành đóng góp quan trọng bậc nhất giúp hình thành nên chữ viết theo lối La tinh mà sau đó nhanh chóng trở thành quốc ngữ Việt Nam.

Đánh giá về vai trò của linh mục Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh nên quốc ngữ Việt Nam, tờ Nguyệt San MISSI do các linh mục Dòng tên người Pháp quản lý đã từng viết nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, đại lược như sau: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, cha Alexandre De Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”.

Quả vậy, khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách in quyển từ điển và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại nhà in Vatican – Roma, thì cha Alexandre De Rhodes đã giải phóng cho nước Việt Nam về chữ quốc ngữ.

Bởi lẽ trước đó, tương tự như Nhật Bản và Cao Ly (Triều Tiên), thì người Việt Nam sử dụng lối chữ viết tượng hình, biểu ý của người Tàu hoặc chữ nôm do tự sáng chế và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Cao Ly mới chế biến ra chữ viết riêng của họ, nhưng vẫn không theo cách viết La tinh nên bị hạn chế nhiều. Còn người Nhật Bản thì sau nhiều lần thử nghiệm chế biến lối chữ viết khác, nhưng cuối cùng đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình, biểu ý của người Tàu.

Trong khi đó, chính người Tàu dưới chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông cũng đã từng tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Alexandre De Rhodes, đã tiến bộ trước người Tàu đến hơn ba thế kỷ rưỡi (1651 – 1017 – tính từ năm in cuốn từ điển Việt – Bồ – La đến thời điểm hiện nay.

Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Alexandre De Rhodes khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai Dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, chính cha Alexandre De Rhodes là người hệ thống hóa, hoàn tất công trình làm ra chữ quốc ngữ thành công vào năm 1651, tức là năm mà cuốn tự điển Việt – Bồ – La chào đời tại nhà in Vatican – Roma.

Thế nên, chính tại nhà in Vatican ở Roma là nơi mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình, và chính năm 1651 cũng là năm khai sinh chính thức của chữ quốc ngữ Việt Nam.

Theo đó, chữ viết theo lối La tinh ban đầu được các nhà truyền giáo đặt nền móng cho việc sử dụng trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đến khi được người dân Việt Nam chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, thì mặc nhiên nó đã tự mình được nâng cấp thành chữ quốc ngữ.

Ghi nhận công nghiệp của cha Alexandre De Rhodes đối với xứ sở, năm 1941, một tấm bia kỷ niệm nhân ngày sinh nhật thứ 350 của cha đã được dựng ở gần bên bờ Hồ Gươm trước cửa đền bà Kiệu – Hà Nội. Đến năm 1957, khi Hà Nội thuộc sự quản lý của chính quyền Cộng Sản thì bia đã bị gỡ bỏ.

Chính quyền Sài Gòn cũ đặt tên ông cho một con đường tọa lạc trước mặt Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, đối xứng với phía bên kia là đường Hàn Thuyên, tên danh sĩ được ghi nhận có công phát triển và phổ biến lối chữ Nôm. Sau năm 1975, chính quyền cộng sản đổi tên đường thành Thái Văn Lung và bây giờ thì đã trả lại tên cũ là Alexandre De Rhodes cho con đường này.

Về tiểu sử: Nguyên, cha Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) sinh ngày 15/03/1591 (hay 1593?) tại vùng Avignon, miền nam nước Pháp. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn ở vùng Avignon là đất của Giáo Hoàng. Ông gia nhập Dòng Tên tại Roma năm 1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển mạnh mẽ.

Đầu năm 1625, cha Alexandre De Rhodes đến Việt Nam bắt đầu từ Hội An. Cha bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của cha. Nhưng cuộc đời truyền giáo của cha ở đây rất gian nan, trong vòng 20 năm, cha bị trục xuất đến sáu lần. Đến năm 1645, cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Cha mất ngày 5/11/1660 ở Iran, thọ 69 tuổi.

Hiện nay, ở Việt Nam đã từng xuất hiện ý kiến phủ nhận công lao đóng góp của cha Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh chữ quốc ngữ, một trong số họ nêu quan điểm : “Alexandre De Rhodes làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ một lợi ích nhỏ nhoi nào của người Đại Việt cả. Người Việt Nam đã tận dụng chữ quốc ngữ, mà một số cố đạo đã đặt ra, với sự góp sức của một số con chiên người Đại Việt, để làm lợi khí cho việc giảng đạo, thành lợi khí của chính mình để phát triển văn hóa dân tộc, để chuyển tải một cách đầy hiệu lực những tư tưởng yêu nước và những phương thức đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây chẳng qua là chuyện “gậy ông đập lưng ông” mà thôi. [1]

Riêng đối với công chúng, thì:

– Lối chữ viết đã trở thành quốc ngữ của xứ sở với chín mươi triệu đồng bào cả trong và ngoài nước cùng sử dụng;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện những dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ thuở hồng hoang đến nay;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện lời ru “Ầu ơ …” ân cần của mẹ từ ngày sinh ra ta làm kiếp người;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện sự yêu thương giữa những thành viên trong gia đình, giữa những đôi tình nhân, giữa những người tri kỷ …

– Lối chữ viết được dùng thể hiện ca từ những nhạc phẩm bất tử như Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng, Trưng Nữ Vương, Lòng mẹ, Tình ca …

– Lối chữ viết mà dân ta có thể tự hào là riêng biệt trong khi rất nhiều quốc gia khác, kể cả nhiều cường quốc vẫn còn phải vay mượn (Úc, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Ấn Độ, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Đại Hàn …);

Thì người khai sinh của lối chữ viết ấy chắc chắn phải là ÂN NHÂN của xứ sở mình, bất kể đến quốc tịch của họ, bất kể đến tôn giáo của họ và bất kể đến động cơ của họ khi khai sinh lối chữ ấy !

Và với chế độ :

– Lối chữ viết được Ông Hồ Chí Minh dùng để viết lời Tuyên ngôn độc lập khai sinh chế độ;

– Lối chữ viết được dùng để thể hiện Hiến pháp quy định sự độc tôn chính trị của Đảng Cộng Sản;

– Lối chữ viết được dùng trong tất cả mọi sinh hoạt chính trị, hành chính, xã hội, kinh tế, giáo dục, văn hóa …

– Lối chữ viết mà hơn 700 tờ báo của chế độ đang dùng;

– Lối chữ viết mà hơn 24.000 vị tiến sĩ khoa bảng quốc gia đang dùng;

– Lối chữ viết mà hơn 400 trường Đại học, cao đẳng các loại và hàng vạn trường học các cấp đang dùng;
Nhưng lại không mấy ai trong số họ nhắc đến ngày sinh nhật của cha Alexandre De Rhodes, người có công khai sinh lối chữ viết mà nghiễm nhiên đã là quốc ngữ của xứ sở, như là một trong những ân nhân của dân tộc này thì thật là đáng thất vọng !

Tôi tin rằng, xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân!

LS Đặng Đình Mạnh
12-3-2017

Nguồn @Đinh Hữu Tho

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vọng Ngoại & Trọng Ngoại

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vọng Ngoại & Trọng Ngoại

RFA

Tôi chẳng có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác –Lê.

Hồ Chí Minh

Khi còn sống trong vùng tạm chiếm, người dân miền Nam có thói quen hay gọi “thiên hạ” bằng thằng: thằng Pháp, thằng Anh, thằng Mỹ, thằng Nga, thằng Nhật, thằng Trung Cộng … Nghe kỳ thấy rõ.

Cho đến khi được hoàn toàn giải phóng thì họ mới học được cách ăn nói đàng hoàng, và lịch sự hơn, chút xíu: Nước Đàn Anh Trung Quốc, Thành Trì Của Phe Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô… Cũng có thể nói cho nó gọn nhưng vẫn giữ được nguyên tinh thần tôn kính: ông Liên Xô, hoặc ông Trung Quốc. Hay thân mật hơn chút xíu cũng không sao: anh cả Liên Xô, anh hai Trung Quốc.

Từ đây, anh hay chị thường dân dấm dớ nào mà lỡ miệng vẫn quen thói ăn nói bạt mạng (thằng Nga, thằng Tầu) thì đi tù ráng chịu. Cùng lúc, dân miền Nam cũng được biết thêm thông tin về một số người cầm lái vỹ đại (những vị lãnh tụ kính yêu của toàn thể nhân dân vô sản trên toàn thế giới) qua hình ảnh tràn ngập khắp nước, với danh xưng hết sức thân thương – cứ y như thể là bà con ruột thịt trong nhà vậy: bác Hồ, bác Mao, bác Kim, bác Lê-nin, bác Xít-ta-lin, bác Phi-đen Cát-xtơ-rô …

Sự thương mến qúi Bác – thường khi – vẫn vượt quá xa mức độ bình thường:

Hôm qua loa gọi ngoài đồng

Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao

Làng trên xóm dưới xôn xao                  

Làm sao, ông đã làm sao, mất rồi!

Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!

Hỡi ôi Ông mất! Đất trời có không?

Thương cha thương mẹ thương chồng

Thương mình thương một thương Ông thương mười

Ngay cả thú vật có liên quan xa gần đến “qúi Ông” cũng thế, cũng được “đối xử” cách riêng – theo như tường thuật của cựu tù nhân lương tâm Vũ Thư Hiên, về chuyện nuôi dưỡng một con bò của bác Phi Đen gửi tặng bác Hồ:

“Con bò Hà Lan tới Nhân Hậu trong cảnh trống giong cờ mở. Cái xe tải duy nhất của trại, vừa dùng để chở tù khi chuyển trại, vừa dùng để chở sản vật tù làm ra đi bán, được cọ rửa sạch như li như lau từ một tuần trước, chở nó từ Trung ương về. Món quà Cục cho quý đến nỗi chỉ có công chở nó về thôi mà mặt anh lái xe cũng vác lên, như thể vừa lập chiến công huy hoàng.

Cả trại được nghỉ lao động một ngày để đón món quà quý của Bác Hồ. Khi con bò Hà Lan, được mấy người tù khoẻ mạnh tiền hô hậu ủng, quát tháo om xòm, từ thùng xe bước từng bước bướng bỉnh và rụt rè rồi lao phốc một cái xuống sân trong tiếng vỗ tay đôm đốp và tiếng reo hò ầm ĩ của cả các cán bộ lẫn tù nhân …  trung uý Thuỳ thậm chí còn rút mu soa chấm lên mắt…

 Đúng là một con bò quý. Quý từ cái vóc dáng quý đi. To lớn, bằng hoặc xấp xỉ bằng con voi cái, với bộ lông đen trắng loang lổ, hai bên hông phẳng lì, nó đứng lù lù một đống giữa đám đông những người ngất ngây chiêm ngưỡng… Được ba người chăm nom, con bò ngày một mỡ màng, béo mượt …”       

Tuy bác Hồ và bác Phi Đen đều đã từ trần nhưng tinh thần vô sản quốc tế vẫn còn sống (lai rai) giữa các nước XHCN anh em (hiếm hoi) còn sót lại, và truyền thống “trọng ngoại” (“hướng ngoại” hay “vọng ngoại,” nói sao cũng được, tùy tạng mỡ của mỗi người) vẫn được lưu truyền cho mãi đến hôm nay – theo bản tin của báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 8 tháng 11 năm 2017:

“Nhiều người chỉ trích anh thanh niên quỳ xuống vái doanh nhân giàu có bậc nhất châu Á, và kết luận người trẻ thời nay thích hôn ghế thần tượng, liếm giày tỉ phú.

Trong cuộc Đối thoại với Jack Ma ngày 6-11 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia (Hà Nội), một thanh niên vì quá hâm mộ đã đứng lên nói ‘I love you Jack Ma’, sau đó quỳ xuống lạy nhân vật này.

Hành động nói trên đã nhận được vô số ‘gạch đá’, và bị đánh giá là nhục nhã ngang với việc fan hôn ghế ca sĩ – diễn viên Bi (Rain) từng ngồi khi ngôi sao Hàn Quốc này đến Hà Nội năm 2012.”

Giữa “vô số gạch đá”  – may thay – cũng có xen lẫn những lời chia sẻ, và thương cảm, rất chân thành. Trên trang VNTB có bài viết với tựa đề cảm động (“Hãy Thương Cảm Các Em: Một Thế Hệ Mất Thần Tượng Nội”) của tác giả Mẫn Nhi:

“Xin đừng trách thanh niên, bởi nó không hẳn về mặt giáo dục, mà còn cả sự thiếu vắng ‘thần tượng Việt’ đúng nghĩa trong thời đại hiện nay… Nếu thử đối sánh với thanh niên đầu thế kỷ XX, thì giới trẻ Việt hiện nay thiệt thòi toàn diện. Ít nhất, giới trẻ thế kỷ XX, chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế cũng đã có thần tượng đúng nghĩa là Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi, Quách Diệm; trong văn hóa – giáo dục – chính trị thì có học giả Nguyễn Văn Vĩnh,…

Ít nhất những con người đó đã tạo nên giá trị thật và đủ làm gương cho lớp trẻ; còn hiện tại – giới trẻ chỉ thấy toàn sự giả dối, ăn xổi ở thì,…Do đó, hãy thương cảm các em: một thế hệ mất mát thần tượng nội!”

Nguồn ảnh:chuthapdophutho.org

Ơ hay, thế bác Hồ kính yêu đâu? Ít nhất thì cũng đã có vài trăm hình tượng của Bác được dựng lên trên mọi nẻo đường đất nước, và sẽ có hằng trăm cái khác sắp được “thi công” đến nơi mà. Đó là chưa kể hằng triệu trang sách, chục ngàn câu thơ, ngợi ca tài trí và công đức của Người:

Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót 

thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…

Năm 1941, bác Hồ vừa mới bước chân về đến biên giới thôi mà chim chóc, lau sậy đều vui đến “ngẩn ngơ” luôn. Ngày ấy đến nay, hình tượng Bác vẫn được Ban Tuyên Giáo & Bộ Thông Tin Tuyên Truyền bồi đắp, tân trang đều đều (khiến ngân qũi quốc gia muốn cạn kiệt luôn ) vậy sao thế hệ trẻ hôm nay tự nhiên lại bị “mất mát thần tượng nội” – vậy cà?

Nguyên do của sự “mất mát” vô cùng đáng tiếc này, phần nào, có thể là do bản tính quá khiêm tốn của Bác nên hình ảnh của Người đã không thể sống mãi trong lòng quần chúng, như mong đợi.

Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!

Đi xa thế, lâu thế mà Bác lại về … tay trắng. Tiền bạc vốn không, đã đành. Nhân cách, đầu óc cũng thế: “Tôi chẳng có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác –Lê.” Nói vậy, nghe đã “nhún nhường” lắm rồi nhưng lắm lúc Người còn hạ mình hơn nữa: “Bác tự nhận mình chỉ nêu ra được tác phong, còn tư tưởng lý luận thì để cho Mao Chủ tịch.”

Khiêm cung đến vậy quả là hiếm thấy!

“Từ 1951, tuần nào báo Nhân Dân cũng có vài mẩu của CB (tức Cụ Hồ) phổ biến kinh nghiệm mọi mặt của Trung Quốc… dần dà đảng viên cộng sản Việt Nam lại tìm ra chỗ để tự hào: được làm em của hai nước vĩ đại, Liên Xô anh cả, Trung Quốc anh hai… sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch biên giới, ngày 14-10- 1950, Hồ Chí Minh gửi thư cho Mao Trạch Đông, Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc: ‘Tóm lại, tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông cách mạng, quốc tế chủ nghĩa. Tôi không nói lời khách sáo: ‘Cảm ơn các đồng chí’, mà nói các đồng chí Việt Nam và nhân dân chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa giành lấy thắng lợi cuối cùng lớn hơn, lấy thành công để đền đáp sự kỳ vọng tha thiết và giúp đỡ to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô anh em’.

Chả ai thấy chữ ‘đền đáp kỳ vọng’ nghe nó quá bề dưới… Không phải ngẫu nhiên mà đến Đại hội 2 (1951), điều lệ đảng đã ghi ‘Tư tưởng Mao Trạch Đông là kim chỉ nam’ của đảng.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù I. Westminster, CA: Người Việt, 2014).            

Mà Đảng thì lãnh đạo toàn diện, và tuyệt đối gần cả trăm năm qua. Tuy thế, mãi cho đến nay mới chỉ có một thanh niên Việt Nam duy nhất qùi lậy bác Jack Ma thôi. Vậy là phúc đức lắm rồi. (Còn bầy đặt phàn nàn, hay ném gạch, ném đá, làm chi nữa – hả Trời).

Dù sắp nhỏ có liếm ghế chăng nữa, nói nào ngay, cũng vẫn là cách hành sử rất đúng … qui trình. Tụi nó chỉ tiếp tục cái truyền thống trọng ngoại (hướng ngoại hay vọng ngoại) do các bậc lão thành cách mạng khởi xướng thôi mà, chớ đâu có gì sai quấy lắm đâu.