Lỗi do cơ chế?

Nguồn:   Trần Bang shared Chân Trời Mới Media‘s post.

Lỗi do cơ chế?

Cơ chế là gì? Do ai lập ra? 

Có thể thay đổi cơ chế, để có cơ chế mới là môi trường thuận lợi cho những điều tử tế phát triển, nẩy nở; để nó là “ thiên địch “ của cái ác, cái gian dối, bạo lực được không?

 
Image may contain: 1 person, motorcycle, crowd and outdoor
Chân Trời Mới Media

 

Vì sao người Việt vô cảm? Do con người hay cơ chế?

Hôm trước khi ở ngoài đường tôi chạy qua một vụ tai nạn – hình như đụng xe. Như bao vụ tai nạn khác ở xứ này, người dân chỉ nhìn. Không phải tất cả, nhưng đa số. Họ chỉ nhìn, rồi bu xung quanh. Và họ chỉ nhìn chứ không có ý thức là nên chở người gặp nạn đi bệnh viện. Phải một hồi sau thì mới có một mạnh thường quân xuất hiện để chở người gặp nạn tới bệnh viện. Tôi tự hỏi, vì sao người Việt lại vô cảm. Vì bản chất họ vô cảm hay vì lý do nào khác?

Giờ hãy đặt bản thân bạn vào một người đi đường thấy người bị nạn. Người đó cần phải chở đến bệnh viện – bạn sẽ làm gì? Nếu bạn cứu thì sẽ phải đối mặt với những thứ sau đây:

1- Viện phí. Mình không biết là người bị nạn có bảo hiểm hay không.
2- Vì mình là người đem người ta tới nên phải đóng viện phí.
3- Nếu không liên lạc được với người nhà thì mình tự trở thành người nhà của họ.
4- Rồi khi kêu người nhà của họ lên thì họ sẽ cáo buộc mình là người
gây ra tai nạn.
5- Khi mình nói mình không phải là thủ phạm thì người ta sẽ nói: “Nếu
mày không phải là thủ phạm thì tại sao mày lại giúp nó.”
6- Rồi có thể Công An sẽ điều tra bạn. Bạn phải mất thời gian đi trình báo.
7- Bạn sẽ tốn tiền, tốn công sức, tốn thời gian vì người khác.
8- Và bạn sẽ mất niềm tin vào chính bạn và xã hội.

Đó là cái giá để làm người tử tế ở đất nước này. Dưới một cơ chế như vậy thì ai sẽ là người tử tế? Hay đúng hơn là ai còn dám làm người tử tế nữa? Vậy lỗi là của ai? Vì người dân vô cảm hay vì cơ chế này khiến họ vô cảm? Vì họ ích kỷ hay chế độ này khiến họ ích kỷ?

Nếu trường hợp tương tự xảy ra ở Phương Tây hay một nước tiến bộ nào đó thì chuyện này sẽ xảy ra:

1- Người thấy tai nạn sẽ gọi cấp cứu.
2- Người bị nạn sẽ được chở tới bệnh viện ngay lập tức.
3- Tới bệnh viện sẽ được chữa trị, cho dù người đó có bảo hiểm haykhông. Nhiệm vụ của bác sĩ là chữa bệnh, viện phí không quan trọng bằng con người.
4- Người nhà của bệnh nhân sẽ cảm ơn bạn vì họ biết bạn không gây ra.
5- Cho dù bạn là thủ phạm, nếu bạn tự giác sửa sai thì người ta sẽ tha thứ cho bạn.
6- Bạn cảm thấy mình thật vĩ đại vì đã giúp cứu một mạng người.

Vậy là do con người hay do cơ chế? Nếu bản chất người Việt Nam là vô cảm và ích kỷ thì nếu sống trong cơ chế trên thì họ có khác không? Tôi nghĩ sẽ khác hoàn toàn. Họ sẽ trở nên tử tế hơn. Báo chí thường xuyên lên án sự vô cảm của người Việt nhưng ít khi nào hỏi vì sao? Vì sao người Việt lại ích kỷ? Vì sao người Việt lại thờ ơ? Vì sao người Việt lại vô cảm. Vì họ đã mất niềm tin vào xã hội này rồi.

Tại sao phải giúp người khác khi mình chỉ rước họa vào thân? Đâu ai ngu. Vậy lỗi tại ai? Con người hay cơ chế? Tôi nghĩ bạn đã có câu trả lời cho chính mình.

Ẩn danh – lượm từ FB Trần Kiều Ngọc

Hiền tài là nguyên khí quốc gia…

Nguồn:   Trần Bang‘s post.

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”(Thân Nhân Trung)

Thể chế công an trị theo định hướng xã nghĩa đã nhốt hiền tài VN vào nhà tù hoặc trục xuất ra nước ngoài, nó đã biến VN thành “Quốc gia không chịu phát triển” và có nguy cơ sớm thành thuộc quốc của TQCS.

Trần Huỳnh Duy Thức là một kỹ sư, doanh nhân, blogger. Ông Thức bị bắt vào tháng 5/2009 vì tội trộm cước viễn thông và tuyên truyền chống nhà nước,…
LUATKHOA.ORG

NÓI CÓ SÁCH , MÁCH CÓ CHỨNG :

Nguồn:   Dien Hong Tran shared Tòng Thanh Phạm‘s post.
 
 
 
Image may contain: one or more people, people on stage, people sitting and indoor

Tòng Thanh PhạmFollow

 

 

NÓI CÓ SÁCH , MÁCH CÓ CHỨNG :

Cô nữ giảng viên Đại học Sư Phạm suy nghĩ một lát rồi nói:

Tự Lực Văn Đoàn… Hừ, Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải lương. Còn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không…

CÔ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI BÌNH

Tứ Trụ của Tự Lực Văn Đoàn

Ngày 9.1.2007, trong mục “Ai là triệu phú” trên đài Truyền hình VTV3, do MC Lại Văn Sâm điều khiển, người được mời lên chiếc “ghế nóng” (Hot Seat) tham dự chương trình là cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Đại học Sư phạm thành phố Thái Bình.

MC đặt câu hỏi nguyên văn như sau: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh,

Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng; ai là người không phải anh em ruột với ba người kia?”.

Cô nữ giảng viên Đại học Sư Phạm suy nghĩ một lát rồi nói:

– Tự Lực Văn Đoàn… Hừ, Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải lương. Còn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không…

– Vậy chị kết luận ai không phải anh em ruột với ba người kia?

– Tôi đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.

– Chị muốn gọi cho ai ?

– Cho anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường. Anh Nam là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.
MC cho phòng máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp, “cứu bồ” cho cô Tâm.

– A lô, anh Nam phải không ạ ? Tôi là Lại Văn Sâm đang ngồi với chị Nguyễn Thị Tâm trong chương trình “Ai là triệu phú”. Anh có sẵn lòng trợ giúp chị Tâm một câu hỏi không ạ?

– Vâng, xin chào anh Lại Văn Sâm. Tôi rất sẵn lòng.

– Nếu vậy anh và chị Tâm có ba muơi giây để vừa hỏi vừa trả lời. Ba mươi giây của anh và chị bắt đầu…

Cô Tâm lập lại câu hỏi như chương trình đã hỏi: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn…”, “Anh cho em biết Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, ai không phải là anh em ruột với ba người kia…”

Đầu dây có tiếng trả lời rất lớn và dứt khoát, nghe rõ mồn một:

– Hoàng Đạo ! Hoàng Đạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh, Thạch Lam và Khái Hưng.

– Chắc chắn không anh?
– Chắc trăm phần trăm.

– Ba mươi giây của chị đã hết. Xin chị cho biết câu trả lời.

– Tôi tin vào kiến thức của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi trả lời, Hoàng Đạo không phải anh em ruột với ba người kia.

– Chị quyết định như thế?

– Vâng, câu trả lời của tôi là phương án B, Hoàng Đạo.

– Sai. Đáp án của chúng tôi là phương án D, Khái Hưng. Khái Hưng không phải anh em ruột với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Hoàng Đạo tên thật là Nguyễn Tường Long, sinh năm 1906, em ruột nhà văn Nhất linh, anh ruột nhà văn Thạch Lam. Như vậy phần thưởng của chị từ năm triệu đồng còn lại một triệu đồng. Nhưng không sao, chúng ta lấy vui làm chính. Xin cám ơn chị đã tham gia chương trình.

Ứng viên Nguyễn Thị Tâm bị loại khỏi cuộc chơi, nhường chỗ cho người khác.
Thưa quý bạn, một giảng viên đại học mà không biết Tự Lực Văn Đoàn hoặc Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam là ai là một điều quá đỗi bất thường, điều đó không chỉ làm chúng ta ngạc nhiên mà vô cùng thất vọng! Trong bốn tiếng “Tự Lực Văn Đoàn” đã có hai tiếng “Văn Đoàn” thì đó không thể là một gánh cải lương và Nhất Linh không thể là một kép hát cải lương được. Nếu không biết chính xác thì ít ra cô giáo ấy phải biết suy luận chứ. Đem cái kiến thức như vậy cô giáo giảng dạy cho sinh viên rồi sau này sinh viên (ĐHSP) ra trường, lại đi giảng dạy cho học sinh thì nguy hiểm quá!

Một chương trình phát sóng ra toàn thế giới, có nhiều người Việt đã ra khỏi nước mấy mươi năm mà xem chương trình này, đều hỡi ơi về kiến thức của một Giảng Viên Đại Học.

Một nền giáo dục với những giảng viên có kiến thức như vậy tôi e rằng không phải là một nền giáo dục tốt.

Tương tự như vậy, trong trò chơi “Rung Chuông Vàng”, được hỏi Hùng Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là ai? Một số thí sinh (là sinh viên) cũng… không biết. Có quá ngạc nhiên không?

Dù sao tôi cũng rất cảm ơn VTV3 đã mạnh dạn phát những chương trình như thế, bởi đó không chỉ “vui là chính” mà còn là cách để dân VN ta biết được “mặt bằng kiến thức” của người tham gia các chương trình – khi biết mình yếu, sẽ phải tìm cách để… vươn lên.

Ông Lý Quang Diệu, cựu thủ tướng Singapore năm nay đã 82 tuổi, mới sang thăm Việt Nam, đã nói: “Ngay cả về mặt kinh tế, nếu muốn thành công thì trước hết phải có sự đầu tư vào giáo dục tốt”.

Đoàn Dự

Dụng tâm Hán hóa sớm hơn dự định của Hội nghị Thành Đô

 

 

Dụng tâm Hán hóa sớm hơn dự định của Hội nghị Thành Đô

 
Nguyễn Lộc Yên (Danlambao) – Gần đây, xôn xao về Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền (PGS.TS Bùi), PGS.TS Bùi nguyên là Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, nguyên phó Viện trưởng Viện Nội dung và Phương pháp dạy học phổ thông, vừa giới thiệu cuốn sách Ngôn ngữ Việt Nam dày 2.200 trang, do nhà xuất bản Dân Trí phát hành. PGS.TS Bùi đề nghị: “giáo dục” sẽ viết là “záo zụk”, “ngôn ngữ” sẽ viết là “qôn qữ”, “nhà nước” sẽ viết là “n’à nướk”… vì chữ D, GI, R thay bằng Z; CH, TR= C; C,Q,K= K; Kh= X; Th= W; NH= N; PH= F; NG, NGH= Q… Như chữ: Nguyễn Phú Trọng = Quyễn Fú Cọq.
 
Tôi không biết PGS.TS Bùi tại sao “záo zụk” của ông lại bị biến chứng như thế? Ngại thay, nếu thay đổi theo lối chữ của PGS.TS Bùi sẽ gây trên 90 triệu người Việt tự nhiên bị mù chữ. Hàng triệu triệu văn tự, sách báo bị hủy bỏ… gây ra rất trở ngại, rất tốn kém mà sự thay đổi này chỉ có lợi cho “Kẻ thù truyền kiếp” là Tàu cộng mà thôi, đây là dụng tâm hủy bỏ hoàn toàn sử sách chống Tàu?!.
 
Từ đấy, tôi muốn biết việc này có liên quan đến “Hội nghị Thành Đô” ở nước Tàu không?. Được biết tại Hội nghị Thành Đô: “Ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, là bước ngoặt của Việt/Tàu. Tại đây, phía Cộng sản Việt Nam có Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư ĐCSVN; Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN. Phía Trung cộng có Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Theo chỉ thị của lãnh tụ Đảng Cộng sản Tàu là Đặng Tiểu Bình, cuộc hội họp bí mật này không được công bố?!” 
 
Phải chăng, do đấy mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam (CSVN) và các đảng viên nòng cốt CSVN đã kín đáo thi hành nghị quyết tuyệt mật của “Hội nghị Thành Đô?” Chúng ta là người Việt làm sao dửng dưng hay làm ngơ tin tức hệ trọng với quê hương, nên tôi tìm xem các báo, radio trong và ngoài nước để biết hiện tình nước Việt thế nào? Tôi thấy quá nhiều sự kiện tác hại đến nước Việt thật khủng khiếp lẫn xót xa, đấy là:
 
(1)- Vào năm 2014, RFA có đoạn nói về Hội nghị Thành Đô: “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
 
Hội nghị Thành đô 1990
 
(2)- VnExpress (báo trong nước) ngày 15-11-2015 ghi: “Hàng trăm giáo sư, phó giáo sư, chuyên gia nghiên cứu Sử học đã phản ứng trước Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể không còn môn học Lịch sử là môn học bắt buộc.”
 
(3)- Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng CSVN (năm 1976 là tổng bí thư), đã nói khi chiếm miền Nam Việt Nam năm 1975: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”.
 
(4)- Ngày 16-6-2016, Đài Đáp Lời Sông Núi phổ biến, có đoạn: “Trong lần đưa tin Nguyễn Phú Trọng sang chầu Bắc Kinh ngày 11/10/2011, truyền hình VTV trong bản tin thời sự buổi tối ngày 14/10 đã chính thức treo cờ Trung Cộng với sáu ngôi sao, như ngầm ám chỉ Nguyễn Phú Trọng đã đồng ý sáp nhập Việt Nam vào thành một tỉnh của Tàu như các sắc dân Mãn, Mông Hồi, Tạng bên Trung Hoa. Sự việc cờ Trung cộng với 6 ngôi sao lại tiếp tục được lập lại khi Tập Cận Bình lúc đó là Phó chủ tịch nhà nước Trung cộng, sang thăm Hà Nội ngày 21/12/2011”. Ngôi sao thứ 6 là tiêu biểu VN nhập Trung.
 
(5)- Báo Tiếng Dội số 462, đăng ngày thứ Sáu 24-8-1951 về Thông cáo của Việt Minh:
 
ỦY BAN HÀNH CHÁNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA NĂM THỨ VII TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN SỐ: 284/ LĐ, ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC
 
Hỡi đồng bào thân mến!
 
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào! Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mủi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế? Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy – một cách viết rõ ràng có mau thật đấy – và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc. Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta – mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế – có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không?
 
Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi! Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta! Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu. Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v….
 
Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân! Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.
 
Trường Chinh: Tổng thư ký đảng Lao Động.
 
Xem đến đây, tôi giật mình, không giật mình sao được trước sự biến chứng về “záo zụk” của PGS.TS Bùi có giống y chang như ông Trường Chinh đã kêu gọi: “đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy… ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc”. Vậy PGS.TS Bùi có phải là cánh tay nối dài từ: Thông cáo của Việt Minh và Hội nghị Thành Đô không?! Nhưng Hội nghị Thành Đô “cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”, nay mới năm 2017 cớ sao PGS.TS Bùi lại “Dụng tâm Hán hóa sớm hơn dự định của Hội nghị Thành Đô”, xin hỏi ông PGS.TS Bùi?! Phải chăng, ông vội vã đáp ứng theo “Trang mạng Hoàn Cầu Thời Báo” mà Dương Khiết Trì đã khuyên nhủ CSVN trong cuộc hội đàm tại Hà Nội ngày 18-6-2014, rằng: “Chính quyền CSVN tự kiềm chế trước khi quá muộn” và nhắn nhủ đảng CSVN với lời lẽ trịch thượng: “Thúc giục đứa con hoang đàng trở về nhà”.
 
Dù sao, PGS.TS Bùi đã nôn nóng và năng nổ trong việc Hán hóa, với bằng Tiến sĩ của ông Bùi quả có thâm độc hơn tiền bối của mình là ông Trường Chinh.
 
Nhân đây, tôi cũng xin nói khái quát về hình thành chữ “Quốc ngữ”: Chữ Quốc ngữ (National Language) là danh từ chung, chỉ chữ riêng biệt của một quốc gia. Chữ Quốc ngữ của nước Việt hay Việt ngữ là chữ của người Việt Nam. Chữ Khoa đẩu, chữ Nôm là chữ Quốc ngữ của người Việt đã dùng thời xưa. Tuy vậy, ngày nay từ được gọi chữ Quốc ngữ là chữ mà chúng ta đang dùng là “Chữ Việt dùng mẫu tự La Tinh”. Chữ Quốc ngữ bắt đầu hình thành vào Thế kỷ 16-17, khi các giáo sĩ Âu Châu vào Việt Nam truyền đạo. Năm 1631, giáo sĩ Borri đã dùng mẫu tự La Tinh để viết sách bằng chữ Ý (Italian) ghi âm Việt, mong việc giảng đạo cho người Việt được dễ dàng và người Việt sẽ hiểu thấu đáo hơn. Linh mục Alexandre de Rhodes, SJ (1591-1660), ông sinh tại Avignon, France (nước Pháp). Ông ở Việt Nam 6 năm (1624-1630), tên tiếng Việt của ông là: A Lịch Sơn Đắc Lộ. Năm 1651, ông biên soạn ra cuốn tự điển An Nam-Bồ Đào Nha (Portuguese) bằng mẫu tự La Tinh. Từ đấy, nhiều người cho rằng ông là người có công rất lớn trong việc tạo ra chữ Quốc ngữ. Năm 1838, ông Jean Louis Tabert biên soạn cuốn từ điển An Nam.
 
Mặc dù, các nhà truyền giáo Tây phương đã cố gắng biên soạn chữ Việt nhưng chữ viết lúc ấy chưa được chuẩn giống như PGS.TS Bùi đã bị biến chứng về “záo zụk” ngày nay, ví dụ như:
 
Chữ phiêm âm của Giáo sĩ / Nghĩa tiếng Việt 
 
Annam /An Nam
 
Quignin (hoặc) Qui nhi / Qui Nhơn
 
Nuoec man (hoặc) nuocman / Nước mặn
 
Onsaij (hoặc) Uai / Ông sãi…
 
Sau đấy, nhiều tác giả và học giả người Việt, như: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Lâm Tấn Phát… đã nghĩ ngợi, miệt mài, liên tục cải sửa, cải tiến chữ Quốc ngữ đến chuẩn mực. Nhờ vậy, chữ Quốc ngữ mới đọc, viết được thông dụng như ngày nay. Từ đó, chữ Hán và chữ Nôm ít dùng hay chấm dứt.
 
Luận ngữ đã viết “Một lời nói có thể thịnh nước, một lời nói có thể mất nước”(Nhất ngôn nhi khả dĩ hưng bang, nhất ngôn nhi khả dĩ táng bang), huống hồ thay đổi chữ viết của một quốc gia mà sự thay đổi ấy có ý đồ thâm độc, làm lợi cho “Kẻ thù truyền kiếp”!.
 
Thế nên: Còn CSVN thì nước Việt mất, không còn CSVN thì nước Việt còn”.
 
Ngày 1-12-2017
 

Hình ảnh Hồ Chí Minh và những biểu ngữ tuyên truyền cộng sản trong những cuộc biểu tình dân sinh

Kính Hòa RFA
2017-12-06
Một cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2014, với hình ảnh ông Hồ Chí Minh.

Một cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2014, với hình ảnh ông Hồ Chí Minh.

 AFP
 

Sau khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ra lệnh dừng việc thu phí tại Cai Lậy trong vòng 1 đến 2 tháng, nhiều người dân đã ăn mừng với những hình ảnh ông Hồ Chí Minh và những bài hát ca ngợi ông cũng như ca ngợi Đảng Cộng sản.

Sự việc tương tự cũng hay được nhận thấy trong các đoàn biểu tình đòi đất của nông dân, hay của những người dân đô thị chống Trung Quốc.

Thói quen và tuyên truyền

Việc đem ảnh ông Hồ Chí Minh ra trưng bày, kèm theo quốc kỳ Việt Nam, có khi cả cờ Đảng cộng sản nữa, được một số ý kiến cho là một thói quen của nước Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản cai trị cho đến nay. Một trong những ý kiến đó là của Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động xã hội sống ở Hà Nội.

Họ đã quen với cái cách ăn mừng như thế rồi, 40 chục năm qua họ được dạy dỗ rằng khi vui thì làm như vậy, và nó gần như là một chuyện nghi thức, không có nhiều ý nghĩa lắm. Câu hát ấy nó có nghĩa gì không? Nó thuần túy là chuyện thói quen.”

Những hình ảnh này người ta cũng dễ dàng nhìn thấy ở các đám đông ăn mừng trên các đường phố Sài Gòn hay Hà Nội, mỗi khi đội tuyển bóng đá Việt Nam thắng một trận nào đó.

Người ta hiểu, và đó là một cách để người ta bảo vệ chính người ta, trong một cuộc thực sự là sống mái.
-Tiến sĩ Nguyễn Quang A.

Bà Bùi Thị Minh Hằng, một cựu tù nhân chính trị, từng tham gia vào nhiều cuộc biểu tình đòi đất của nông dân, lại cho rằng những hình ảnh đó được nhiều người dân Việt Nam coi trọng thực sự chứ không phải hoàn toàn là hình thức:

“Con người, nhất là người Việt Nam mình có tư duy bị ăn vào quá sâu, thì rất là khó trong một ngày một giờ. Trong cái đất nước Việt Nam này, dưới chế độ cộng sản thì toàn bộ lịch sử bị bưng bít, những sự thật bị xuyên tạc. Từ chổ đó hình ảnh ông Hồ được phong thánh trong lòng người dân rồi. Không phải chỉ có những chổ ấy đâu, mình lên đền lên chùa thấy họ để ảnh họ thờ. Sự thật là như vậy.”

Theo thống kê dân số mới nhất hiện nay thì tổng số dân Việt Nam hơn gấp đôi tổng số dân Việt Nam cả hai miền Nam Bắc vào năm 1975 khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, tức là có hơn phân nửa người Việt Nam sinh ra sau năm 1975 trên cả nước, cộng với số người ở miền Bắc sinh ra sau năm 1954 khi đảng cộng sản lên cầm quyền, thì có thể nói rằng số người Việt Nam sinh ra và lớn lên dưới chế độ hiện nay rất lớn. Những người này được học hành và tuyên truyền hoàn toàn bởi bộ máy của nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Cái vỏ bảo vệ

Tuy nhiên Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng cho rằng trong những cuộc đấu tranh cho dân sinh, như là đòi đất, chống trạm thu phí lạm thu, bảo vệ môi trường, nhiều người cũng hiểu là những hình ảnh và biểu ngữ theo kiểu tuyên truyền của chế độ không có liên quan gì đến việc họ đang làm:

Họ hiểu những nội dung đó chứ không phải không. Họ trương cái nội dung đảng thế này đảng thế nọ, người ta hiểu, và đó là một cách để người ta bảo vệ chính người ta, trong một cuộc thực sự là sống mái, bởi vì nếu người ta dùng những lời lẽ nặng nề khác chẳng hạn, thì có thể bị đàn áp, hoặc qui là thế này thế kia.”

Một nhà quan sát từ nước ngoài là ông Nguyễn Đình Hùng, Chủ tịch phong trào Lao động Việt cũng đồng ý với Tiến sĩ Nguyễn Quang A. Ông trả lời chúng tôi từ Úc, sau khi xem những hình ảnh ăn mừng của giới lái xe trong sự kiện BOT Cai Lậy:

Những người dân của mình đang vẫn còn ở trong cái vòng gọi là đàn áp. Họ không có điểm tựa nào khác hết. Thay vì dựa vào nhau, đoàn kết nhau, thì họ dùng đó như một tấm chắn để bảo vệ cho họ thôi. Những tấm chắn này không bảo vệ được họ lâu dài bằng lòng người, bởi sự đoàn kết của con người với nhau.

Họ không hiểu, họ vẫn nghĩ rằng Đảng tốt đẹp, Đảng quang vinh, Đảng không tham nhũng, cấp trên không tham nhũng mà chỉ có cấp dưới thôi.
-Anh Trịnh Bá Phương.

Cũng có ý kiến cho là khi những người nông dân đòi đất kèm với những biểu ngữ, hình ảnh ca ngợi những lãnh tụ cộng sản, cờ đảng, là có suy nghĩ rằng với những hình ảnh đó họ sẽ dễ dàng được hồi đáp từ các cấp chính quyền hơn. Anh Trịnh Bá Phương, một nông dân hay tham gia vào những cuộc biểu tình đòi đất cho biết:

“Họ không hiểu, họ vẫn nghĩ rằng Đảng tốt đẹp, Đảng quang vinh, Đảng không tham nhũng, cấp trên không tham nhũng mà chỉ có cấp dưới thôi, có những người cũng hiểu được nguyên nhân sâu xa, họ sử dụng những hình ảnh đó để tránh bị đàn áp, nhưng mà thời gian qua đã có quá nhiều người bị đàn áp rồi. Có đeo đầy huy chương, mặc áo lính, áo quân đội thì cũng bị bắt về đồn công an, vẫn bị cướp đoạt tài sản đất đai.”

Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, trong một đám đông ở Việt Nam đang biểu tình, có thể bao gồm đến ba nhóm người. Nhóm thứ nhất là tung hô những biểu ngữ, hát những bài hát tuyên truyền của đảng theo thói quen. Nhóm thứ hai là những người hiểu rõ họ đang làm gì và dùng các biểu ngữ đó để bảo vệ mình. Nhóm thứ ba là những người vẫn tin tưởng ở đảng cộng sản.

Theo ông tỉ lệ những nhóm người này trong một cuộc biểu tình có thể thay đổi theo sự việc cụ thể mà họ đang biểu tình, ông lấy ví dụ là trong những người biểu tình đòi đất ở Đồng Tâm, ngoại thành Hà Nội, đã từng bắt giữ hàng chục nhân viên công an làm con tin, thì những người ở nhóm thứ ba rất ít.

Trở lại với cuộc khủng hoảng Cai Lậy, anh Trịnh Bá Phương cho rằng có thể những biểu ngữ ca ngợi đảng, hình ảnh ông Hồ Chí Minh là được những nhóm người của nhà nước đưa ra:

Có giả thiết cho rằng là một số người thuộc lực lượng dư luận viên, an ninh chìm nổi cài cắm trong những người có mặt ở Cai Lậy, họ muốn sử dung luôn cái cơ hội đó, hát cái bài đó, họ muốn tuyên truyền nhồi sọ người dân. Bởi vì hiện nay Đảng đang mất lòng dân quá rồi, lực lượng phản tuyên truyền họ đang cài cắm khắp nơi để tiếp tục lòe bịp nhân dân.

Dư luận viên là tên gọi chỉ những người thường xuyên lên tiếng ủng hộ những chính sách hay hành động của đảng cộng sản. Có ý kiến cho rằng những người này lĩnh lương của Đảng Cộng sản để làm việc tuyên truyền, nhưng một số người được cho là Dư luận viên phủ nhận điều này.

Một lái xe có tham gia vào việc phản kháng ở Cai Lậy là anh Đỗ Coca cho biết nhận xét của anh về những hình ảnh vui mừng với các biểu ngữ của đảng:

“Các bạn làm cái ngày hôm đó ý nghĩa ra sao mình cũng không hiểu. Cái việc đem ảnh Bác Hồ ra trong “trận chiến” BOT Cai Lậy nó không thực tế. Có cái gì ghê gớm đâu mà như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng.”

Khi được hỏi là có phải những người biểu tình đưa hình ảnh ông Hồ Chí Minh, hay những khẩu hiệu ca ngợi đảng ra để tránh bị đàn áp, thì anh trả lời rằng anh biểu tình một cách ôn hòa, không vi phạm pháp luật thì không có việc gì phải sợ đàn áp.

Nói về những người hay trưng hình ảnh ông Hồ Chí Minh, hay những biểu ngữ ủng hộ Đảng Cộng sản trong những cuộc biểu tình đòi dân sinh, Bà Bùi Thị Minh Hằng cho biết:

Mình không nên lên án. Cá nhân mình phản đối những ai lên án cái việc đó. Hãy nhìn vào việc làm. Những tài xế và những người dân đã khá thành công trong việc đòi hỏi quyền lợi sát sườn của họ.”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A thì nói rằng nếu nhìn từ bên ngoài Việt Nam có thể sẽ có nhận định rằng người dân Việt Nam chịu ảnh hưởng quá lâu của sự tuyên truyền cộng sản, nhưng theo ông “phải sống trong nước Việt Nam thì mới hiểu rõ những khó khăn của những cuộc biểu tình đòi dân sinh đó như thế nào.”

SỬA ĐƯỜNG NỘI TÂM

SỬA ĐƯỜNG NỘI TÂM

Thư HĐGMVN 2006 đã khẳng định: “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em”.

Chúa nhật II Mùa vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt Gioan Tiền hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa, rất gần gũi với con người.  Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ông công bố.  Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.  Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước.  Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô.  Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19).  Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường.  Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú.  Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống.  Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5).  Gioan mời dân chúng sám hối.  Không thể tiếp tục sống như xưa nữa.  Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.  Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.  Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.  Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc.  Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn.  Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa.  Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng.  Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả.  Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.  Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh.  Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời.  Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành U-rơ để sang đất hứa.  Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài.  Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường.  Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa.  Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem.  Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa.  Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.

Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng.  Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ.  Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu.  Sửa đường theo Gioan là sám hối.  Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có.  Những gì cong queo san cho thẳng.  Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa.  Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp.  Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng.  Con đường nội tâm của mọi người.  Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế.  Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý.  Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến.  Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách.  Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất.  Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người.  Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng.  Như con đường cho Chúa đi qua.  Như căn nhà cho Chúa ngự tới.  Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào.  Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có sự đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu.  Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì.  Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác.  Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.  Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về.  Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn.  Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ.  Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh.  Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát…  Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn.  Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông.  Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý.  Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn.  Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú.  Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân.  Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân.  Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức.  Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan.  Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người.  Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

Chiến thắng của bên thứ ba?!

From:   Trần Bang
Chiến thắng của bên thứ ba?!

Hàng loạt dự án BOT giao thông sẽ bị kiểm toán vào năm 2018, theo kế hoạch vừa được Kiểm toán Nhà nước công bố hôm 5/12, một ngày sau khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ra lệnh tạm ngừng thu phí ở trạm BOT Cai Lậy vì cuộc “biểu tình” bằng tiền lẻ của các tài xế.

Bên thứ ba đang cầm lái?

Những ngày qua, cuộc chiến ở BOT Cai Lậy có vẻ như đã trở thành cuộc chiến chung khi những tin tức về vụ này được cập nhật và chia sẻ chóng mặt trên cả truyền thông chính thống lẫn mạng xã hội. Đọc bình luận của người dân, ai cũng có thể hiểu họ đang ủng hộ và đứng về phía nào.

Luật sư Phạm Công Út, Đoàn Luật sư TPHCM, cho rằng cuộc chiến này nhận được sự ủng hộ của công chúng một phần còn là vì cách đấu tranh rất “dí dỏm” và “sáng tạo” của các anh tài xế “lầy”.

“Người dân miền Tây Nam Bộ thứ nhất là người khí khái, thứ hai họ cũng có những cái láu cá của họ. Khi gặp những sự cố này, họ cũng có cách để họ tồn tại được. Ở đây, người ta dùng từ mới gọi họ là những tài xế ‘lầy’, nhưng ‘lầy’ dễ thương vì cách cư xử không gay gắt nhưng lại khiến phía bên kia lúng túng. Với cách xử lý rất linh hoạt, dí dỏm, hiệu quả của mấy anh nông dân Hai Lúa này thì không một thế lực cường quyền, thế lực tài phiệt nào có thể bóp chết được họ”.

Người dân là một bên thứ ba trong hợp đồng của bất kỳ dự án BOT nào vì họ là người chi trả trực tiếp khoản phí đấy, nhưng họ lại bị loại ra ngoài.
TS. Nguyễn Quang A
…. Trích nguồn https://www.voatiengviet.com/a/viet-nam-kiem-t…/4150128.html

50 Câu Nói Trí Tuệ Và Sâu Sắc Giúp Bạn Hiểu Vì Sao Người Do Thái Lại Thông Minh Và Giàu Có

50 Câu Nói Trí Tuệ Và Sâu Sắc Giúp Bạn Hiểu Vì Sao Người Do Thái Lại Thông Minh Và Giàu Có

 

 

 

 

 

 

Biết những câu nói nổi tiếng dưới đây của người Do Thái bạn sẽ hiểu được vì sao họ lại thông minh và giàu có như vậy. 

  1. Tài sản có thể trở về số 0 nhưng kiến thức phải càng ngày càng mở rộng.

 

  1. Thời gian tốt nhất để trồng cây là vào 20 năm trước. Thời gian tốt thứ hai là ngay bây giờ.

 

  1. Điếc, nhưng không phải là không biết gì bởi còn có thể đọc được sách báo.

 

  1. Nếu không học tập, cho dù đi vạn dặm đường xa thì mãi vẫn chỉ là người đưa thư mà thôi.

 

  1. Ai cũng than vãn thiếu tiền nhưng chả ai than thở thiếu trí khôn cả.

 

  1. Trên đời có 3 thứ không thể bị ai cướp mất: Đầu tiên là thức ăn đã vào trong dạ dày, hai là ước mơ đã ở trong lòng, ba là những kiến thức đã học trong đầu.

 

  1. Người lớn dạy trẻ con học nói, còn trẻ con dạy người lớn im lặng.

 

  1. Một người chỉ ra sai sót của bạn chưa chắc đã là kẻ thù của bạn; một người luôn luôn ca ngợi bạn chưa hẳn đã là bạn của bạn.

 

  1. Hãy sợ con dê húc phía trước, con ngựa đá phía sau, còn kẻ ngu thì phải đề phòng tứ phía.

 

  1. Kinh nghiệm là cái từ mà mọi người dùng để gọi các sai lầm của mình.

 

  1. Khi bạn khóc vì không có giày để đi, hãy nhìn những người không có chân.

 

  1. Khi già đi người ta thị lực kém đi nhưng nhìn thấy nhiều hơn.

 

  1. Đừng sợ đi chậm. Chỉ sợ đứng yên.

 

  1. Ta không cầu xin cho gánh nặng sẽ nhẹ hơn. Nhưng cho đôi vai hãy vững vàng hơn.

 

  1. Bông lúa càng nhiều hạt, đầu nó càng rủ xuống. Người giỏi thường hay khiêm tốn.

 

  1. Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin là mất tất cả.

 

  1. Phần lớn người ta thất bại không phải do họ không có khả năng, mà là vì ý chí không kiên định.

 

  1. Đừng nói gì trừ khi bạn đã học được cách im lặng.

 

  1. Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản, ki bo chỉ làm nghèo đi.

 

  1. Một hành trình ngàn dặm cũng chỉ khởi đầu từ bước đi đầu tiên.

 

  1. Nếu vấn đề nào giải quyết được bằng tiền, thì đó không phải là vấn đề mà là chi phí.

 

  1. Nếu bạn bị vấp ngã, điều đó chưa chắc có nghĩa bạn đang đi sai đường.

 

  1. Có tiền cũng không tốt lắm, cũng như thiếu tiền cũng chẳng tồi lắm.

 

  1. Không có tình huống vô vọng, chỉ có giải pháp không chính xác.

 

  1. Chúa trời cho con người hai tai và một miệng để nghe nhiều nói ít.

 

  1. Luôn luôn nhìn vào mặt tươi sáng của sự vật. Nếu không thấy, hãy đánh bóng cho đến khi nó tỏa sáng.

 

  1. Nếu cuộc sống không dần dần tốt lên thì nó sẽ kém đi.

 

  1. Đừng sợ rằng bạn không biết một cái gì đó. Hãy sợ rằng bạn không chịu tìm hiểu về nó.

 

  1. Con người phải sống tối thiểu là vì sự tò mò.

 

  1. Một khi bạn mắc một sai lầm, điều tốt nhất bạn có thể làm là cười vào nó.

 

  1. Nếu mà làm từ thiện chẳng tốn kém gì thì ai cũng làm từ thiện cả.

 

  1. Hầu như những loại hoa có màu trắng đều rất thơm, hoa có màu sắc đẹp đẽ thường không thơm. Người cũng vậy, càng mộc mạc giản dị, càng tỏa hương thơm từ bên trong.

 

  1. Chết vì cười còn hơn là chết vì hoảng sợ.

 

  1. Một người đàn ông có thể chuyển núi bắt đầu từ việc mang đi những viên đá nhỏ.

 

  1. Khi chúng ta đem hoa tặng cho người khác thì người ngửi được mùi hương đầu tiên là chính chúng ta. Khi chúng ta nắm bùn ném vào người khác, thì người bị làm bẩn đầu tiên là bàn tay chúng ta.

 

  1. Ngủ trên gối êm không có nghĩa có giấc mơ đẹp.

 

  1. Nếu bạn không thể xử lý những việc nhỏ thì những việc lớn của bạn sẽ trở nên vô nghĩa.

 

  1. Khi bồ câu kết bạn với quạ, mặc dù cánh của nó vẫn còn màu trắng nhưng trái tim thì dần dần chuyển sang màu đen.

 

  1. Lúc nào vô công rỗi nghề thì người ta sẽ làm những việc long trời lở đất.

 

  1. Khi còn trẻ phải làm những việc bạn nên làm, thì khi về già mới có thể làm những việc bạn muốn làm.

 

  1. Cái khuy áo đầu tiên sai, cái sau cùng khó mà chữa được.

 

  1. Hạnh phúc chỉ đến khi cánh cửa đã được mở.

 

  1. Một ngôi nhà nhỏ đầy ắp tiếng cười có giá trị hơn một cung điện đầy nước mắt.

 

  1. Cười là loại mỹ phẩm rẻ nhất, vận động là loại y dược rẻ nhất, chào hỏi là loại chi phí giao tiếp rẻ nhất.

 

  1. Kinh nghiệm giống như một chiếc lược mà cuộc đời chỉ ban tặng sau khi chúng ta đã mất hết cả tóc.

 

  1. Nếu bạn thực sự có tài năng thì bạn sẽ không sợ mình kém may mắn.

 

  1. Tình yêu có ngọt ngào đến đâu cũng chẳng lấy ra nấu chè được.

 

  1. Chúa trời bảo vệ kẻ nghèo ít nhất là không sa vào những thói hư tật xấu xa hoa.

 

  1. Chúa không thể có mặt đồng thời khắp nơi nên Người đã tạo ra các bà mẹ.

 

  1. Adam quả là tay gặp may đầu tiên vì chẳng có mẹ vợ.

 

Mộc Trà (tổng hợp)

Từ buổi con lên đường xa mẹ

 
Từ buổi con lên đường xa mẹ

Bài thơ sau đây được nhặt từ túi áo một chiến binh miền Bắc tử trận tại chiến trường miền Nam những năm 1969.

Trong hồi ký của tử sĩ nầy, người ta còn biết anh là con của bà Trần Thị Phấn ở Hải Dương.

Bài thơ nầy được đăng trên báo chí VNCH thời đó.

 Bài thơ không ghi tên tác giả, được một thường dân miền Nam mến thương cảnh ngộ và ghi lại :

 

Từ buổi con lên đường xa mẹ

“Từ buổi con lên đường xa mẹ
Theo anh em sang Lào rồi dấn bước vào Trung.

Non xanh núi biếc chập chùng
Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ .

Tuổi thanh xuân cuộc đời như hoa nở
Vì hòa bình đâu ngại bước gian nguy .


Mấy tháng trời, ngày nghỉ đêm đi
Giày vẹt gót áo sờn vai thấm lạnh.

Có những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh
Mẹ hiền ơi con nhợt nhớ quê mình .


Khói lam chiều, giàn mướp lá lên xanh
Con bướm nhỏ mái đình xưa, ôi nhớ quá!

Vào nơi đây tuy đất người xa lạ
Nhưng miền Nam vẫn cùng một quê hương.


Vẫn hàng dừa xanh, vẫn những con đường
Vẫn hương lúa ngọt ngào .

Tiếng tiêu gợi nhớ
Con trâu về chuồng

Ðã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ .

Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu?

Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu
Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ.

Lớp học tưng bừng những đàn trẻ nhỏ
Ðang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca.

Và sau vườn luống cải đã vàng hoa
Ðàn bướm nhỏ rủ nhau về hút mật .

Xóm dưới làng trên niềm vui ngây ngất
Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá làng.

Phải gài mìn gieo tang tóc thương đau
Ðã nhiều lần tay con run rẩy .
Khi gài mìn để phút sau bỗng thấy
Xác người tung và máu đổ chan hoà .

Máu của ai
Máu của bà con ta
Máu của người như con như mẹ .

Ðêm hôm ấy mắt con tràn lệ
Ác mộng về, con trằn trọc thâu canh.”

Sự Thăng Trầm Của Tuổi Già – BS. Nguyễn Ý Đức

From:    Kimtrong Lam‘s post.

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor

Sự Thăng Trầm Của Tuổi Già – BS. Nguyễn Ý Đức

Á Đông ta có quan niệm “đa thọ, đa nhục”.
Chateaubriand ví tuổi già như con tầu đắm.
Horace than phiền : tuổi già buồn nản đang đến, giã từ những nụ cười vui, những tình yêu nồng nàn và những giấc ngủ an lành.
Còn Hippocrate thì so sánh tuổi đời với bốn mùa mà già là mùa đông băng giá.

Có lẽ là khi về già, con người, giống như mọi sinh vật khác , đều trải qua những thay đổi về cấu tạo, về chức năng, có thể đưa tới đau yếu, bệnh hoạn. Nên người già quan niệm sống lâu mà suy yếu, thiếu thốn, chẳng qua cũng chỉ như cây tầm gửi, là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Rõ thực là ” Khi vui thì muốn sống lâu, Khi buồn lại muốn thác mau cho rồi”!

Nhân dịp xuân sắp về, tuổi thọ sắp tăng thêm một đơn vị, chẳng biết mình nên buồn hay nên vui. Thôi thì để biết người, biết mình, chúng tôi xin cùng quý vị ôn lại vài nét thăng trầm tuổi thọ của con người, lướt qua một phần phong tục tập quán của vài thời đại đã qua.

Phong tục Việt Nam.
Phong tục Việt Nam vốn trọng người già. Ta thường có câu nói:”Triều đình thượng tước, Hương đảng thượng xỉ” có ý nói là ở nơi triều đình thì chức tước cao được ngồi trên, còn tại chốn đình trung hương đảng thì người cao tuổi được coi trọng hơn. Vì được quý trọng nên dân ta đã có nhiều tục lệ tốt đối với người già.

Trong gia đình, Tết đến, con cháu tụ họp trước là để cúng gia tiên, sau là chúc tuổi thọ ông bà cha mẹ.Tăng thêm một tuổi là thêm thọ, một điều mà ai cũng mừng, cũng nhắc nhở chờ đợi: ” Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm”- Anh Thơ. Trẻ con cũng sốt ruột chờ đợi để được mừng tuổi, bằng tiền mặt phong bao, bằng những lời khen tặng ăn no chóng lớn.

Ngoài xã hội, nhất là nơi thôn ấp, các vị cao niên từ 50 tuổi trở lên thì được xếp vào hạng bô lão, trên cả các hương chức quyền thế tại địa phương. Trong số bô lão, cụ nào cao tuổi hơn cả thì được tôn vinh là các Cụ Thượng, thường là trên 80. Tuổi 40 được mở tiệc tứ tuần đại khánh; 60 tuổi trở lên thì các cụ đã ăn mừng thọ, từ tiểu thọ, trung thọ rồi đại thọ ở tuổi ngoài 80.

Vì quan niệm tuổi thọ là tuổi Trời ban cho, nên các vị cao tuổi đều được kính trọng. Ra đường, gặp người già là mọi người phải cúi đầu chào hỏi cho lễ phép, phải nhường bước, phải nhường chỗ ngồi, phải đứng lên khi bô lão xuất hiện, không được ngắt lời bô lão khi thảo luận. Chương trình giáo dục từ lớp Đồng Ấu đã có những bài học Luân Lý chỉ dạy học trò cung cách đối xử với người lớn tuổi.

Trong làng xã thì có những tục rước lão, tiệc yến lão. Người già mặc quần áo đẹp, con cháu ôm cơi trầu, điếu ống theo hầu, được dân làng mang cờ quạt, võng cáng với trống chiêng tới đón mời lên Đình để hương chức và dân chúng chiêm ngưỡng, chúc tụng rồi dự yến tiệc. Mà yến tiệc thì các cụ chỉ dùng một ít, còn lại lấy phần về chia cho người trong tộc họ, hàng xóm để cùng hưởng lộc nhân dân.

Các cụ Ông cụ Bà đều được rước đón, nhưng tại nhiều địa phương, cụ bà không tham dự vì các cụ vẫn theo lời dậy từ ngàn xưa là đàn bà con gái không dính líu vào việc làng, việc nước. Các bà mẹ Việt Nam bao giờ cũng khéo lo xa.

Ngoài ra các cụ còn được làng xã dành cho một số quyền lợi về công điền, địa thổ, được miễn trừ hết sưu dịch. Quan niệm ” kính già , già để tuổi cho ” rất phổ biến. Vả lại, kính lão đắc thọ, mọi người cũng mong là khi mình đạt tơí tuổi thọ đó sẽ được hưởng những vinh dự tương tự.

Cũng như người Trung Hoa, xã hội ta vẫn coi gia đình là một đơn vị nền tảng với tôn ti trật tự rõ rệt. Chủ gia đình là người cao tuổi nhất, có toàn quyền quyết định về mọi sinh hoạt của thành viên. Con phải tuân theo lời bố, vợ phục tùng chồng, em phải nghe lời anh, và nàng dâu mới về là người chịu nhiều thiệt thòi, hành hạ từ nhà chồng. Nhưng khi đã tới tuổi cao thì uy quyền của bà ta cũng tăng đối với con cháu và có cơ hội hành hạ nàng dâu như bà đã bị đối xử khắt khe khi xưa.

Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do người cao tuổi sắp đặt: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Khi bố mẹ thất lộc thì người trai trưởng nắm quyền hành: quyền huynh thế phụ.

Nhờ con cái thấm nhuần tư tưởng ” Công Cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chẩy ra”, nên người già Việt Nam đều sống với gia đình và được thân nhân chăm sóc, phụng dưỡng cho tơí khi mãn phần. Chỉ khi nào vì quá nghèo lại không có thân nhân thì họ mới phải vào trong các nhà dưỡng lão do chính quyền hay các hội từ thiện tư nhân tài trợ. Việt Nam chưa có hệ thống nhà Điều Dưỡng người già với y tá túc trực (nursing home) như ở các nước Âu Mỹ hay Nhật Bản.

Phong tục Tây phương

Ở phương Tây, số phận và vai trò cuả người cao tuổi được ghi nhận đầy đủ hơn trong các sinh hoạt xã hội, văn hóa…
Vào thuở bán khai con số người cao tuổi không nhiều lắm. Những người trên 65 tuổi chiếm không quá 3% dân số. Tùy từng địa phương, quốc gia, họ được đối xử khác nhau. Nhưng nói chung thì họ được chăm sóc, nuôi dưỡng cho tới khi chết.

Người trẻ dành cho họ một niềm kính trọng và dành cho họ một số biệt đãi như được uống rượu cho tới khi say, vì họ cần rượu để sưởi ấm cơ thể, được ăn những thức ăn hiếm như tim , phổi, gan, tủy sống của súc vật. Tại vài bộ lạc bên Úc, con cháu còn dâng hiến máu của mình cho ông bà cha mẹ để tăng cường sức lực, bằng cách vẩy máu lên người hay uống tươi. Ruộng vườn của họ cũng được người trẻ giúp cầy luống, trồng trọt trước.

Dù vậy, để bảo đảm an toàn về tài chánh, người già cũng kiếm cách gây dựng một số tư hữu bằng cách bán những kinh nghiệm, kiến thức của mình như làm người phân xử tranh chấp, chữa bệnh, cúng tế thần linh.

Nhưng tới khi họ già, bệnh hoạn lại không có tư hữu thì bị bỏ rơi, nhiều khi phải lựa chọn sự tự kết liễu đời mình.
Thuở xưa, dân chúng vài bộ lạc Châu Phi, và Nhật Bản cô lập người già bệnh họan vào những túp lều ở trong rừng, cung cấp thức ăn vừa đủ một thời gian và người già chết lần mòn. Lều và người chết được đốt để linh hồn người đó lên thiên đàng.

Một số người Eskimo già khi không còn khả năng sản xuất, tự có bổn phận đi vào vùng bão tuyết, để rồi tan biến đi. Có người được dự một yến tiệc linh đình, ca hát, nhẩy múa để rồi bất chợt ngã bất tỉnh nhân sự sau một cái đập của một người trẻ được chỉ định trước. Sự đối xử này được người già chấp nhận nên con cháu cũng không băn khoăn, ân hận. Vả lại, mai đây cũng đến lượt mình.

Dân Do Thái xưa cũng tôn trọng người cao tuổi, nhất là trong chế độ tộc trưởng đa thê. Vị tộc trưởng phải nuôi dưỡng cung cấp cho cả một bầy vợ với một đàn con và người phụ việc, nên vai trò của người già này rất quan trọng. Ngay trong Thánh Kinh cũng có điều răn con cái là không được khinh thường cha mẹ già mà phải trân trọng họ. Luật cổ Do Thái cũng nhắc nhở người trẻ phải đứng lên khi người cao tuổi tới và phải tỏ lòng kính trọng khi gặp người cao tuổi.

Nhưng, cũng như mọi sự việc khác trên đời, hung cát, cát hung theo nhau, sự kính trọng đó sói mòn dần, vì hoàn cảnh sinh sống, đòi hỏi kinh tế. Đã có người trẻ đặt vấn đề với người già và yêu cầu họ chuyển nhượng quyền hành. Tranh chấp giữa hai lớp tuổi mỗi ngày một căng thẳng và đời sống người già trở nên khó khăn, khổ sở khiến có người đã nghĩ là chỉ có chết đi mới khỏi nhục.

Người già còn bị cáo buộc là không còn ích lợi gì, trái lại suốt ngày chỉ ngồi nói chuyện tầm phào, gây mâu thuẫn khó chịu. Họ yêu cầu người già giới hạn xuất hiện trước công chúng để mọi người khỏi phải mất công đứng lên ngồi xuống chào hỏi.
Trong các xã hội cổ Hy Lạp, La Mã, người già cũng có số phận thăng trầm tương tự. Theo luật pháp La-Hy thì khi người con không nuôi dưỡng cha mẹ già yếu sẽ bị mất quyền công dân; mà khi hành hạ cha mẹ sẽ bị tù tội.

Sau đó thì vai trò của người già xuống thang đến nỗi đã bị diễu cợt là lão già vừa bất lực nhưng lại dâm đãng. Vào thời Đế quốc La Mã xưa, sinh mạng của người già quá rẻ so với lớp trẻ: khi sát hại một người già trên 65 tuổi thì kẻ sát nhân phải đền mạng có 100 quan vàng, trong khi đó với người 45 tuổi thì phải đền gấp ba lần; giết một nữ nhân còn sung sức lại mang thai thì bị bị phạt 250 quan, mà chẳng may ám hại một lão nữ trên 60 tuổi thì chẳng phải đền đồng nào.

Đến thời kỳ cận đại và các thế kỷ gần đây, vai trò, vóc dáng của người cao tuổi trải qua nhiều tang thương dâu biển hơn .
Với sự kỹ nghệ hóa, dân chúng bỏ thôn quê về thành thị tạo ra tầng lớp công nhân vô sản, chế độ gia đình tộc trưởng tan biến; đơn vị gia đình được thay thế bằng cộng đồng dân chúng; quyền bính nằm trong tay giới trẻ và người già đa số chỉ giữ vai trò tượng trưng, đại diện.

Người già thường được gán cho những hư cấu, những một nửa sự thật có dụng ý kỳ thị, phân chia. Họ được xếp vào một nhóm người nom ai cũng giống ai, suy yếu, kém sức khỏe, không tự lo liệu được, phụ thuộc con cái, không thích nghi với hoàn cảnh, chỉ nghĩ tới quá khứ, sống cô đơn xa lánh mọi người để mỗi ngày một hao mòn. Người già nhiều khi còn bị khai thác, lợi dụng, bỏ rơi không khác gì trong thời tiền sử.

Chính quyền và vấn đề người già

Trong thế kỷ vừa qua, vấn đề người già đã là mối ưu tư lớn của mọi người. Sự gia tăng dân số kèm theo nhiều khó khăn của lớp người này trên thế giới đã được các quốc gia và tổ chức Liên Hiệp Quốc đặc biệt lưu tâm tìm biện pháp giải quyết giúp đỡ. Số người trên 60 tuổi đã mau chóng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số dân cư trên thế giới, mà nhóm người trên 80 tuổi lại tăng lên mau nhất. Điều đáng ngại là sự gia tăng này lại xẩy ra nhiều hơn ở các quốc gia đang mở mang, chưa đủ phương tiện ứng phó.

Hiên nay số người cao tuổi trên toàn thế giới là gần sáu trăm triệu. Tới năm 2020, số này ước lượng có thể sẽ tăng lên một tỷ. Lý do sự gia tăng này gồm có việc giảm số tử vong do các bệnh truyền nhiễm, cải thiện điều kiện vệ sinh, dinh dưỡng, nhà ở, các phương pháp phòng ngừa bệnh, khám phá ra thuốc kháng sinh. Sự gia tăng tuổi thọ là dấu hiệu của sự tiến bộ cũng như sự hoàn tất sinh học quan trọng trong thế kỷ 20.

Người cao tuổi phải được coi như một nguồn lợi quý giá chứ không phải là gánh nặng cho xã hội, vì họ sẽ còn đóng góp nhiều cho đất nước bằng những kiến thức, kinh nghiệm của họ. Căn cứ trên quan niệm đó, Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi toàn thế giới lưu tâm tới những khó khăn đang ám ảnh người cao tuổi, đồng thời cũng đề nghị nhiều chương trình để bảo đảm sự an toàn về kinh tế, xã hội của khối người quan trọng và cần thiết này, cũng như tạo cơ hội cho họ đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia.

Liên Hiệp Quốc đề nghị một số nguyên tắc để giúp đỡ người cao tuổi như: Họ phải có cơ hội được xử dụng dễ dàng về thực phẩm, nước uống, nhà ở, chăm sóc y tế, việc làm và có một đời sống an toàn; họ phải được xử dụng các dịch vụ pháp lý, các phương tiện giáo dục, văn hóa, giải trí để phát triển mọi tiềm lực; phải được sống trong vinh dự, không bị khai thác, lợi dụng và được đối xử bình đẳng.

Ngoài ra, các quốc gia cũng cần tạo môi trường thuận lợi để khích lệ dân chúng dành dụm tiền cho tuổi về già; khuyến khích mọi lứa tuổi tham dự vào các chương trình, cũng như các cơ cấu đầu não có quyền quyết định chính sách chung; tăng cường các biện pháp và cơ chế để bảo đảm là người về hưu không rơi vào tình trạng nghèo khó, vì họ đã có công đóng góp nhiều cho sự phát triển quốc gia khi trước.
Kết luận

Về phần mình, người cao tuổi có lẽ cũng cần hành xử làm sao để sống cuộc đời cuối với nhiều tích cực hơn.
Trong một dịp luận đàm với vị Thượng Bô Lão 86 tuổi ở thành phố Houston, người viết có hỏi thăm cụ là với bí quyết gì mà cụ nom vẫn phong độ cả về thể xác lẫn tâm hồn; lại mỗi ngày vẫn lái xe đưa người này người khác đi công việc, vẫn tham dự các sinh hoạt chung, đôi khi lại còn đi múa đôi mỗi cuối tuần.

Thì cụ trả lời: ” Nào có bí quyết gì đâu. Ông cứ chịu khó về dở lại những trang sách của cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư , in cách đây nửa thế kỷ, đọc hết chương “Bổn phận đối với bổn thân” là có hết. Nào các bài học về biết trọng linh hồn, phải quý thân thể, về vệ sinh cơ thể, gìn giữ sức khỏe, ăn uống điều độ, vận động cơ thể, tới những cách đối xử với nhân quần xã hội để sao cho có tâm thân an lạc. Nếu có thiếu họa chăng chỉ thiếu những chỉ dẫn thực tế về nhu cầu sinh lý, tình dục”
Người viết vâng lời đi tìm đọc cuốn sách. Rồi thắc mắc : chả lẽ ngày xưa thiên hạ không có nhu cầu sinh lý. Hay là các cụ biết cả rồi, nên chẳng cần viết ra.

(1) Phúc, Lộc, Thọ – Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh

BS. Nguyễn Ý Đức

Ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản.

Hoang Le Thanh shared his post.
 

Ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản.

Ảnh: Chiếc xe tang chủ nghĩa cộng sản !!!

Hình ảnh này do hãng thông tấn uy tín thế giới AP/Rodrigo Abd chụp, đã mô tả đầy đủ bản chất “xã hội chủ nghĩa vinh quang” ở đất nước Cu Ba và “thiên tài” Fidel Castro.

60 năm cai trị Cuba, di sản Fidel để lại chỉ là nỗi khốn cùng, thê thảm.

Tấm ảnh có giá trị như lời cáo buộc một chủ nghĩa không tưởng.

Mới đây, nhân ngày 7/11 năm 2017 đánh dấu tròn 100 năm cuộc Cách mạng tháng Mười Nga do cố lãnh tụ V. Lenin cầm đầu

Tổng thống Nga – Ông Putin – lên án chính quyền cộng sản của Lenin “tàn bạo”.
https://www.voatiengviet.com/a/ong-putin-len-a…/3162085.html

Ông Putin nhấn mạnh: “Đàn áp chính trị là bi kịch cho tất cả nhân dân, cho toàn xã hội, đòn tàn nhẫn với đất nước chúng ta, đến tận gốc rễ, văn hóa, ý thức, khiến chúng ta còn chịu ảnh hưởng cho đến bây giờ”.

Chính phủ cộng sản hãy cố mà ghi nhớ: Ngày tàn tạ của đảng cộng sản như chiếc xe tang chết máy trong tang lễ chở hòm tro thi hài lãnh tụ Fidel Castro.

Bức ảnh do nhà nhiếp ảnh của hảng tin AP chụp. Tuy thời gian ngắn, nhưng nhà nhiếp ảnh đã (may mắn) chụp được khoảnh khắc quan trọng cần thiết.

Tấm ảnh có giá trị như lời cáo buộc một chủ nghĩa không tưởng.

 
Image may contain: one or more people
Image may contain: 5 people, text
Image may contain: one or more people and text
Hoang Le Thanh added 3 new photos — with Hoa Kim Ngo and 11 others.

Chiếc xe tang chủ nghĩa cộng sản !!!

Thành tựu ấn tượng của Cuba dưới thời Fidel Castro.

Báo Dân trí giật cái tít: 
“Những thành tựu ấn tượng của Cuba dưới thời Fidel Castro”.

Bây giờ đã rõ … thành tựu ấn tượng nhất của Cuba dưới thời Fidel Castro chính là chiếc xe tang chở hòm tro thi hài lãnh tụ Fidel Castro bị chết máy!

Cả nước Cuba cũng không thể nào tìm ra được một chiếc xe tốt hơn để kéo hòm tro thi hài Fidel Castro – Cha già dân tộc – cựu Chủ tịch nước Cu Ba!

Trong buổi lể Quốc tang, ở một địa điểm gần Moncada Fort ở vùng Santiago de Cu Ba, những người lính danh dự phải xúm nhau đẩy chiếc xe tang chở hòm tro của vị cựu Chủ tịch nước do xe bị hỏng máy, không chạy được (Photo by AP/Rodrigo Abd).

Hình ảnh này do hãng thông tấn uy tín thế giới AP/Rodrigo Abd chụp, đã mô tả đầy đủ bản chất “xã hội chủ nghĩa vinh quang” ở đất nước Cu Ba và “thiên tài” Fidel Castro.

60 năm cai trị Cuba, di sản Fidel để lại chỉ là nỗi khốn cùng, thê thảm.

Chiếc xe tang Fidel Castro y hệt như chiếc xe Chủ nghĩa Cộng sản Không tưởng, đó là sự dối trá trơ trẽn và triết lý chủ nghĩa cộng sản đã chết từ khi mới hình thành nhưng người cộng sản Cu Ba vẫn cứ cố đẩy cho đến chốn thiên đường hoang tưởng.

Một hình ảnh nói lên ngàn lời sự thật phũ phàng.

http://dantri.com.vn/…/nhung-thanh-tuu-an-tuong-cua-cuba-du…

P/s: Ba người lính danh dự đang đẩy xe, vị trí của họ là họ phải ngồi hết sức trang nghiêm (để tăng phần long trọng) ở hàng ghế danh dự phía sau của xe U-oat.

Khi xe bị hỏng máy bất ngờ, họ phải nhảy xuống đẩy xe (động tác nầy làm mất vẻ tôn nghiêm).

Bản dịch này có ý thiên về trình trạng xe U-oát (xe Liên xô đời cũ) bị hỏng máy đột ngột, đó là sự kiện không mong muốn, nằm ngoài dự kiến của Ban Tổ chức chương trình tang lễ và là trạng thái bất ngờ đối với những người lính đang thi hành nhiệm vụ là lái xe và những người lính trong vị trí danh dự và trang nghiêm.

Vì yếu tố tôn nghiêm của lể tang quốc gia, bản dịch này có ý thiên về trình trạng xe bị hỏng máy đột ngột, (briefly stopped working: xe bị ngưng hoạt động trong một thời gian ngắn khi đang thực thi nhiệm vụ).

Cái điều may mắn cho nhà nhiếp ảnh của hảng tin AP là tuy thời gian ngắn, nhưng nhà nhiếp ảnh đã (hết sức may mắn) chụp được khoảnh khắc quan trọng cần thiết.

Tấm ảnh có giá trị như lời cáo buộc một chủ nghĩa không tưởng.

Nguồn: Fox News World http://www.foxnews.com/…/fidel-castros-ashes-interred-in-pr…

 

Chưa nơi nào nhiều trạm thu phí BOT như ở Việt Nam!

Ngua O Chu
Kỷ lục gu nét rồi còn gì ! Hoan hô !!!
(Dân trí) – “Tôi cũng đi khắp nơi trên thế giới, tôi không thấy chỗ nào cũng trạm thu phí BOT như ở Việt Nam. Trạm thu phí của họ cũng rất thấp, chứ không phải nhiều như ở Việt Nam”, Chuyên gia kinh tế, GS.TS Võ Đại Lược quan ngại.
 
DANTRI.COM.VN