BUÔNG BỎ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Phải giữ mình tránh mọi thứ tham lam!”.

“Buông bỏ không có nghĩa là không sở hữu gì, mà là không để bất cứ thứ gì sở hữu bạn!” – Ali ibn Abi Talib.

Kính thưa Anh Chị em,

Thi thoảng Chúa Giêsu nhắc chúng ta về mối nguy do của cải. Lời Chúa hôm nay đặt một câu hỏi, “Tôi đang có nguy cơ dính mắc điều gì; tôi cần ‘buông bỏ’ nó không?”.

Dụ ngôn đề cập đến sự giàu sang và chúng ta có thể cảm thấy cảnh báo này ít liên quan đến mình. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều có thể dính mắc vào những khía cạnh vật chất khác của cuộc sống – công việc, thú vui, danh vọng, hay ngay cả gia đình. Những điều này không nhất thiết là xấu; nhiều trong số đó là ân huệ Chúa. Vậy mà, “Bất cứ điều gì bạn yêu hơn Thiên Chúa đều là ngẫu tượng, dù đó là điều tốt!” – Tim Keller.

Vấn đề là giá trị tuyệt đối dành cho chúng! Đang khi suy cho cùng, những điều này chỉ là phù du và không tồn tại mãi, “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân!” – bài đọc một. Bởi đó, hãy cầu xin Chúa chỉ cho chúng ta thấy những tham lam, dính mắc nào cần thanh tẩy và ‘buông bỏ’. Vì “Tất cả những gì không vĩnh cửu đều vĩnh viễn lỗi thời!” – C.S. Lewis.

Tham lam nảy sinh khi trái tim chúng ta yêu vật chất và của cải ‘cách ích kỷ và ngổn ngang’; khi khối óc và trái tim đang tìm kiếm một giá trị đảo ngược: chọn quà thay vì chọn Đấng Trao Quà! Hãy đặt Chúa trên hết mọi sự, ‘đừng làm loãng tình yêu’ dành cho Ngài! “Tình yêu tuy không phải là nguồn tài nguyên giới hạn, nhưng nó sẽ bị pha loãng khi bị rải ra trên quá nhiều ngẫu tượng!” – Tim Keller.

Có rất nhiều điều tốt đẹp và tốt lành trong các tạo vật Chúa ban để chúng ta hưởng dùng và được hạnh phúc. Không nên xa lánh chúng, nhưng bạn cần sử dụng chúng một cách hữu ích, miễn là chúng đưa chúng ta đến với Chúa và tha nhân chứ không phải xa rời Ngài, xa cách họ. ‘Buông bỏ’ không phải là từ bỏ của cải, mà là sắp xếp các giá trị cuộc sống sao cho Chúa và ơn cứu độ vĩnh cửu luôn được đặt lên hàng đầu. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa!”; “Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới!” – bài đọc hai. Vì “Điều bạn sẽ mang theo là tất cả những gì bạn đã cho đi!” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Phải giữ mình tránh mọi thứ tham lam!”. Tránh tham lam hay ‘buông bỏ’ không phải là mất mát, nhưng là một hành trình trở về với chính mình, nơi không còn bị chi phối bởi điều tạm bợ. Khi dám buông những điều mình nắm chặt – dù đó là của cải, thành công, hay cả những ảo ảnh về chính mình – thì một khoảng trống mới được mở ra cho Thiên Chúa bước vào. Chính trong sự rỗng không ấy, bạn và tôi không nghèo đi, mà trở nên giàu có hơn: giàu lòng tin, giàu bình an, và giàu một niềm tự do sâu thẳm mà thế gian không thể ban. ‘Buông bỏ’ là một ân sủng, cũng là một lựa chọn – để sống nhẹ hơn, thật hơn, và gần trời hơn, “Ngài là nơi chúng con trú ẩn!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chỉ cho con những điều con đang giữ quá chặt. Dạy con biết buông, để lòng được rỗng, và Chúa ùa vào!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN, NĂM C

những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 12,13-21

13 Khi ấy, có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.” 14 Người đáp : “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?” 15 Và Người nói với họ : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”

16 Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này : “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17 mới nghĩ bụng rằng : ‘Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu !’ 18 Rồi ông ta tự bảo : ‘Mình sẽ làm thế này : phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19 Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng : hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !’ 20 Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta : ‘Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?’ 21 Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”


 

Phù hoa nối tiếp phù hoa-Ts. Trần Mỹ Duyệt

Ts. Trần Mỹ Duyệt

Anh Duyệt thân mến,

Nghe bài giảng của Cha Michael tối qua và trước sự ra đi đột ngột của chị bạn, vợ của một bác sỹ rất nổi tiếng trị bệnh Azheimer, tôi càng thấy câu “phù vân, ôi phù vân. Tất cả chỉ là phù vân…” thật thấm thía.

Nếu câu này có thể là một gợi ý để anh viết một bài để độc giả suy nghĩ về sự ngắn ngủi của kiếp người, và để chúng ta, từ đó, biết hoàn toàn phó thác vào Tình yêu Chúa Giêsu giàu lòng thương xót?

Chúc anh và gia đình một cuối tuần vui vẻ và tràn đầy Ơn Chúa.
Augustinô

Trên đây là email mà tôi vừa nhận được từ một người bạn. Đối với tôi, nó cũng “thấm thía” và mang ý nghĩa như bài giảng mà chúng tôi đã nghe trong thánh lễ hôm ấy. Điều làm tôi cảm động hơn là tâm tình của người nghe với những suy tư ứng dụng vào cuộc sống. Đó chính là “sống thánh lễ”, vì thánh lễ được chia thành hai phần: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Thử hỏi có mấy ai khi tham dự thánh lễ đã để tâm lắng nghe, suy nghĩ và cảm thấy mình được thúc đẩy sống đời sống tâm linh bởi ý nghĩa của Lời Chúa?

VANITAS VANITATUM, OMNIA VANITAS

Đây là những lời rất bóng bẩy, thâm thúy của sách Giảng Viên (Eccl 1:2) đã được Thánh Giêrônimô dịch ra Latin trong bộ Thánh Kinh Vulgata.

“Vanitas vanitatum, omnia vanitas.”
Phù hoa nối tiếp phù hoa, của đời hết thảy chỉ là phù hoa.”

Nhưng câu hỏi được nêu lên là có mấy ai đã đọc, đã hiểu, đã suy ngẫm, và nhất là thực hành được ý nghĩa của những dòng chữ vắn vỏn này?

Đọc, nghe hoặc nói về câu nói ấy chắc có thể là nhiều người. Hiểu và suy ngẫm thường là ít. Còn sống và thực hành thì con số này chắc chắn không được bao nhiêu! Tại sao?

“Tham, sân, si” trong Kinh Pháp Cú, theo Phật Giáo, là những nguyên nhân gây ra bất hạnh và phiền não, ưu tư cho con người. Đó cũng là bản tính chung con người. Mấy ai có dịp làm giầu, trèo cao trên nấc thang danh lợi, và quyền uy mà lại bỏ lỡ. Cứ nhìn những cảnh thanh toán nhau trong lịch sử về việc tranh đoạt ngôi thứ. Cảnh tranh cử, đấu đá, bêu xấu nhau với mục đích dành được chiếc ghế thị trưởng, nghị sỹ, dân biểu, thủ tướng, tổng thống trong các cuộc bầu cử hiện nay. Hoặc cảnh luồn cúi, đút lót để được chức chủ tịch, giám đốc, viện trưởng, khoa trưởng, giảng sư…  thì mới biết sức hấp dẫn và thu hút của “Cái vòng danh lợi cong cong. Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào” như thế nào.

Dựa trên ý nghĩa của bài giảng hôm ấy, và dựa trên hai nhân vật được nêu lên trong bài giảng, chúng ta thử tìm hiểu xem “phù hoa là gì?” Và của đời là “phù hoa” như thế nào?

GIÊSU NAZARETH

Đối với những Kitô hữu thì Ngài là Đấng Thiên Sai do Thiên Chúa sai xuống trần cứu chuộc nhân loại. Ngài là người đã được tiên báo qua những tiên tri trong Cựu Ước, và được ghi lại qua Tân Ước. 33 năm sống trên trần gian, đặc biệt, 3 năm sau cùng của hành trình truyền giảng Tin Mừng, khi có người thanh niên muốn theo Ngài, Ngài đã nói trước với anh thế này: “Cáo có hang, chim có tổ. Con người không có chỗ gối đầu.” (Mt 8:20; Lc 9:58)

Ngài sống thế không phải vì Ngài không có khả năng làm giầu, không có khả năng kiếm tiền, hoặc kiếm được một việc làm mang lại nhiều lợi nhuận, một địa vị danh giá trong xã hội. Trên thự tế, Ngài chỉ là con một bác phó mộc, sống bằng nghề thợ mộc tại làng quê nghèo Nazareth (Mt 13:55; Mk 6:3).

Và trong Thánh Kinh đã có một lần, Ngài được cơ hội trở nên “tất cả”, đó là khi Satan đem Ngài lên núi cao, cho thấy tất cả vinh quang trần thế, rồi nói với Ngài: “Tất cả đều thuộc về tôi, và tôi sẽ cho ông, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi.” (Mt 4:9).

Được tất cả đây hiểu theo đúng nghĩa đen của giầu có, danh giá, và quyền bính. Nhưng những thứ đó không phải là cùng đích của cuộc đời. Và dĩ nhiên là Chúa Giêsu đã từ chối.

ALEXANDER ĐẠI ĐẾ

Alexander III of Macedon, thường được biết như Alexander Đại Đế, vị hoàng đế của đế quốc cổ Hy Lạp thuộc Macedon. Ông lên ngôi thay cho cha mình là Philip II năm 336 BC ở tuổi 20. Suốt đời ông chinh chiến từ Tây Á sang Đông-Bắc Phi Châu. [1].

Ông sinh tháng Bảy 356 BC tại Pella, và qua đời tháng Sáu 323 BC tại Babylon, hưởng dương 32 tuổi. Cái chết của ông là một cái chết bí mật. Một số sử gia bảo ông chết vì sốt rét, hoặc những nguyên nhân khác. Một số khác thì cho là ông bị đầu độc.

Nhưng những gì ông để lại sau những chiến thắng vang dội, với hào quang của một đại đế bách chiến, bách thắng là ba câu nói (ba lời trối trăn).

Khi biết mình sắp chết, ông gọi các vị đại tướng lại quanh mình và nói với họ: “Ta sẽ sớm ra đi khỏi thế giới này. Ta có ba ước nguyện, các ngươi đừng quên thực hiện.”
1. “Các vị y sỹ của ta phải khiêng quan tài ta.”
2. “Ta muốn rằng khi quan tài của ta được khiêng tới nơi an táng, trên đường đi, hãy rải vàng bạc, tiền của mà ta có.”
3. “Lời trăn trối thứ ba và sau cùng của ta là hai tay của ta phải để thò ra ngoài quan tài.”

Rồi ông nói với họ: “Ta muốn thế giới hiểu ba bài học mà ta vừa học.”

“Ta muốn các vị danh y của ta khiêng quan tài để người đời biết rằng không có vị bác sỹ nào trên trái đất có thể thực sự cứu được bất cứ ai. Họ không làm gì được trước sự chết.”

Cắt nghĩa lời trối thứ hai, vị hoàng đế nói: “Ta đã bỏ cả đời ta để đạt được sự giầu có, nhưng lại không thể mang theo được gì với ta. Hãy để cho mọi người biết rằng, sự giầu có của thế gian chỉ là bùn đất.”

Còn câu thứ ba ta mong mọi người biết điều này “ta đến thế gian này tay trắng, và ta cũng sẽ ra đi trắng tay.” [2]

HAI CON NGƯỜI HAI BÀI HỌC

Qua hai hình ảnh vừa kể, chúng ta liệu có rút ra được bài học gì trong cuộc sống?

Với Đức Giêsu Kitô bài học về sự phù hoa trần thế là một bài học mang tính cách tâm linh, một bài học đạo đức, và mang giá trị đời đời. Vì đối với cuộc sống trần gian này, con người chúng ta tất cả chỉ là những lữ khách trên đường về quê hương vĩnh cửu. Con đường mà cuộc đời mang lại nhiều gập ghềnh, khó đi, và dài ngắn bao lâu không lệ thuộc vào mỗi người. Như vậy nếu mang theo những của cải vật chất, chẳng khác gì tự mang những gánh nặng chồng chất trên vai một cách vô nghĩa. Bởi vì, tất cả những thứ đó sẽ không là gì khi chạm ngưỡng cửa đời đời.

Sống phó thác. Sống khiêm tốn và bằng an với những gì mình có để dễ hướng lòng về quê hương vĩnh cửu, và nhẹ nhàng bước đi trên hành trình cuộc sống.

Trong quan phòng của Thượng Đế, Ngài biết chúng ta cần gì? Và bao nhiêu? Sự tham lam của con người đến từ tâm lý nghi ngờ và lo sợ về ngày mai.

Khác với Đức Giêsu, Alexander Đại Đế chỉ miễn cưỡng bỏ lại những gì mà ông ky cóp và chiếm đoạt. Những gì ông nói chỉ phản ảnh tâm trạng tiêu cực của một người trước ngưỡng cửa sự chết. Và trên thực tế, ông đã không làm gì được với những của cải mà ông có khi hai tay ông thò ra khỏi quan tài.

Nhưng chúng ta phải cám ơn ông, vì trước giờ chết ông đã ngộ ra chân lý, và chân lý đã giúp ông biết bỏ lại tất cả vì biết rằng sẽ không có cái gì thuộc về trần thế được đem vào thiên quốc. Cám ơn ba lời trối trăn của ông. Và cám ơn ba lời giải thích của ông về cái giá trị phù vân đời này.

“Phù hoa nối tiếp phù hoa. Của đời hết thảy chỉ là phù hoa”.

_____________

Tài liệu tham khảo:

  1. Wikipedia
  2. Last three wishes of Alexander The Great – The Siasat Daily …
    https://archive.siasat.com › News

SỨC MẠNH CỦA CẦU NGUYỆN – Susan Ciancio

Susan Ciancio

 Đã bao nhiêu lần bạn nghe nói rằng cầu nguyện chẳng có tác dụng gì?  Người ta thường chế nhạo vì khi điều bất hạnh xảy ra, cách duy nhất chúng ta thường làm đó là cầu nguyện.  Thực tế cho thấy rằng, nhiều khi chúng ta chẳng thể thay đổi tình hình, chẳng hạn như: chúng ta chẳng thể chữa khỏi ung thư, chẳng thể cho kẻ chết sống lại, và cũng chẳng thể ngăn ngừa tác hại của một trận hỏa hoạn, lũ lụt, … 

 Nhưng rõ ràng là, dù chạm đến sự giới hạn cuối cùng đó, chúng ta vẫn có thể thưa chuyện với Chúa, nài xin lòng thương xót, sự phù trợ, giúp giảm bớt phần nào đau khổ mà con cái Ngài đang phải chịu đựng. Trích dẫn lời của Thánh Gioan Damascene, Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là cầu xin Thiên Chúa ban cho những điều xứng hợp” (GLCG 2590).

 Cầu nguyện là một điều tuyệt vời và cần thiết trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.  Không cầu nguyện, chúng ta không có mối tương quan với Thiên Chúa.  Không cầu nguyện, chúng ta sẽ lạc lối.  Cầu nguyện là cách thế tốt nhất để chúng ta mở lòng ra với Thiên Chúa, nhờ đó, chúng ta có thể và sẽ tạo ra sự khác biệt trong thế giới.

1.Cầu nguyện củng cố quyết tâm của chúng ta.

 Chúng ta có thể nhận được sức mạnh lớn lao từ cầu nguyện.  Chỉ cần dành thời giờ thân thưa với Chúa về điều khiến chúng ta vui, buồn và tạ ơn Ngài vì những ơn lành chúng ta đã lãnh nhận sẽ mang lại cho chúng ta tầm nhìn quan trọng về cuộc sống và về những gì chúng ta được mời gọi để làm cho người khác.  Trong thực tế, chúng ta dễ cảm thấy chán nản khi mọi việc không như ý mình, nhưng với một chút thời gian yên tĩnh ở một mình với Chúa có thể giúp chúng ta cảm nhận được sự thanh thản, nhìn mọi việc theo một nhãn quan khác và tăng thêm sức mạnh để làm điều tốt cho người khác. 

2.Cầu nguyện mang lại cho chúng ta sự hiểu biết sâu sắc.

 Thời gian cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể biến đổi tâm hồn khi chúng ta biết suy tư về cuộc sống, hành vi của mình, và quyết tâm thay đổi theo chiều hướng tích cực.  Chúng ta có thể thưa chuyện với Chúa về những gì Ngài muốn dành cho chúng ta và Ngài muốn chúng ta tạo ra sự khác biệt trong cuộc sống của mình và người khác như thế nào.  Việc ngồi tĩnh lặng thưa chuyện với Chúa hoặc đọc Kinh thánh giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về cách thế Thiên Chúa muốn chúng ta hành động khi chúng ta có thể noi theo gương của các Thánh và của những người nam nữ tốt lành trong Kinh Thánh. 

3.Cầu nguyện thúc đẩy chúng ta hành động.

 Hành động bắt đầu bằng việc cầu nguyện.  Chúng ta thưa chuyện với Chúa và Ngài lắng nghe.  Chúng ta có thể hỏi Thiên Chúa rằng Ngài muốn chúng ta ở đâu, Ngài muốn chúng ta làm gì và làm sao để chúng ta có thể làm theo ý muốn của Ngài.  Chắc chắn Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta, mặc dù nhiều khi chúng ta không nghe được tiếng nói trực tiếp của Ngài.  Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm nhận ý muốn của Thiên Chúa được đặt vào lòng chúng ta và khi Ngài giúp chúng ta đưa ra những quyết định vì lợi ích của chúng ta hoặc của người khác. 

4.Cầu nguyện đưa người khác đến gần Chúa hơn.

 Khi người khác thấy chúng ta cầu nguyện, chúng ta đang làm gương về cách hành động.  Và khi cầu nguyện cho người khác, chúng ta có thể tin chắc rằng Thiên Chúa lắng nghe chúng ta.  Chúng ta có mẫu gương của Thánh Monica, người đã cầu nguyện ròng rã nhiều năm cho người con trai là Augustino được ơn hoán cải, và bà đã được toại nguyện.  Noi gương thánh nữ Monica, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chúng ta yêu thương và khi cảm thấy mệt mỏi, buồn bã vì lời cầu nguyện của mình không được nhậm lời, sự kiên trì của thánh nữ là nguồn khích lệ lớn lao.

 Cầu nguyện không chỉ củng cố mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa mà còn biến đổi con người chúng ta.  Cầu nguyện uốn nắn chúng ta thành người trung thành hơn, quảng đại hơn để giúp đỡ người khác, và dấn thân hơn để biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn, đáng sống hơn.

 Thiên Chúa là Cha và Ngài yêu thương chúng ta sâu xa hơn những gì chúng ta có thể hình dung.  Hãy dành thêm thời gian để thân thưa với Ngài, và xây dựng mối tương quan mà cả Thiên Chúa và chúng ta đều khao khát.

 Susan Ciancio

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP Chuyển ngữ từ: catholicworldreport.com (15. 04. 2024)

From: Langthangchieutim


 

HỌC CÁCH TỰ VUI VỚI CHÍNH MÌNH – BÀI HỌC LỚN NHẤT CỦA TUỔI GIÀ

Tu Le

Khi còn trẻ, ta dễ nghĩ rằng niềm vui là thứ được ban tặng từ bên ngoài: một cái ôm, một buổi họp mặt đông vui, một người yêu luôn nhắn tin mỗi tối. Nhưng rồi đời sống dạy ta một điều chậm rãi mà chắc chắn: hạnh phúc thật sự không nằm ở những tiếng cười xôn xao, mà nằm ở sự bình yên bên trong, lúc chẳng còn ai bên cạnh.

Có người già đi giữa phố, tay cầm túi xách nhỏ, dáng lặng lẽ như cái bóng dài của hoàng hôn. Thấy cụ ngồi ở công viên, nhẩn nha ăn một cái bánh mì nhỏ, mắt vẫn ánh lên niềm vui, tôi chợt nhận ra: người biết tự vui với chính mình, là người đã học được điều quan trọng nhất sau bao năm tháng bôn ba.

Người ta có thể sống giữa con cháu sum vầy, nhưng lòng vẫn thấy cô đơn. Bởi sự có mặt về thể xác không thể thay thế sự đồng hành của tâm hồn. Con cháu có thể hiếu thảo, có thể chăm lo từng bữa ăn, từng viên thuốc. Nhưng không ai có thể đi cùng ta vào giấc mơ đêm khuya, không ai sống thay những nỗi trống vắng âm thầm trong lòng.

Rồi sẽ đến lúc những buổi tụ họp thưa dần, ai cũng bận rộn với đời mình. Những tin nhắn thưa thớt, những cuộc gọi vội vã. Nếu ta không học cách tự làm bạn với chính mình, thì những tháng năm sau cùng của cuộc đời dễ trở thành những ngày dài thở dài.

Vì vậy, tập tự vui với mình không phải là buông xuôi, mà là buông bớt. Buông những kỳ vọng không cần thiết. Buông sự lệ thuộc vào người khác để được hạnh phúc. Buông cái thói quen đòi hỏi đời phải giống như trong mơ. Rồi ta mới thấy: sống nhẹ lòng là một nghệ thuật, mà ai cũng cần học, nhất là khi tuổi đã xế chiều.

Đừng chờ ai đó rảnh rang mới rủ ta đi uống cà phê. Hãy tự chọn một quán quen, tự kêu món mình thích, và lặng lẽ nhìn người qua lại như một thước phim đời. Đừng chờ con cháu nhớ ngày sinh nhật, hãy tự mua tặng mình một món quà – nhỏ thôi, nhưng ý nghĩa. Một chậu hoa, một cuốn sách, một cái bánh. Cuộc đời, có khi chỉ cần vậy là đủ để lòng ấm.

Người già sống thanh thản là người không giận con cháu vì ít gọi điện, không trách người thân vì không hỏi thăm đều đặn. Bởi người ấy hiểu rằng: ai rồi cũng có hành trình riêng, đâu thể quanh quẩn mãi bên nhau được. Cái quý của đời không nằm ở việc người khác nhớ mình mỗi ngày, mà ở chỗ mình nhớ thương họ một cách yên bình, không oán trách.

Tự pha một ly trà, tự đi bộ vài vòng quanh hồ, tự xem một bộ phim cũ từng thích. Đó không phải là những hành động nhỏ nhặt. Đó là những bài tập thảnh thơi giúp ta trở về với chính mình. Cuộc đời này, ai rồi cũng sẽ đối diện với những buổi chiều lặng gió, những đêm không ai bên cạnh. Học cách vui với những điều nhỏ nhất – ấy là đang chuẩn bị cho một tuổi già không tủi thân.

Người già hạnh phúc không phải người có nhiều tiền, nhiều nhà, mà là người có một tâm hồn đầy đủ. Đầy từ sự biết ơn. Đầy từ những kỷ niệm đã qua mà không tiếc nuối. Đầy từ sự bằng lòng với hiện tại, dù nó chẳng còn bao nhiêu náo nhiệt.

Có những thứ mất đi rồi ta mới biết quý, nhưng cũng có những thứ, chỉ khi buông bớt, ta mới thấy đời thảnh thơi hơn. Tình thân, nếu có – xin trân trọng. Nếu thưa vắng – xin nhẹ lòng. Sức khỏe, còn được bao nhiêu – hãy gìn giữ và trân quý. Ngày nào còn đi lại được, còn nghe được tiếng chim hót sáng mai – ngày đó còn là một món quà.

Tuổi già không nên chỉ là chuỗi ngày lặp lại, sống mòn. Tuổi già cũng có thể là mùa đẹp nhất, nếu ta biết sống chậm, sống sâu, sống tử tế – trước hết là với chính mình.

Sống đến ngần này tuổi, ai cũng từng trải qua mất mát, từng gãy đổ, từng hy vọng rồi thất vọng. Nhưng nếu sau tất cả, ta vẫn có thể mỉm cười với một buổi sáng đầy nắng, thấy lòng dịu lại khi nghe một khúc nhạc cũ, thì có nghĩa là ta đang sống thật sự, không cần ai thay mình, cũng không cần đám đông phải công nhận.

Và có lẽ, bài học lớn nhất của đời người – sau bao năm thăng trầm, chính là:

Biết tự vui, tự an, tự thương lấy mình.

____

#gotacoffee

#ngườiviếtgiữahaimiền


 

ẢO ẢNH – DODUYNGOC – Truyen ngan HAY

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

TG: DODUYNGOC

Lần đổi tiền thứ hai năm 1978, Hân chẳng có bao nhiêu tiền để đổi. Lúc đấy Hân đang thất nghiệp, chạy đầu này đầu nọ, chẳng ra việc gì, ai kêu gì làm nấy, bữa đói bữa no. Có thằng bạn thân vượt biên, trước ngày đi có cho một ít, ăn được vài tuần cũng hết sạch. Loay hoay mãi mà chưa biết cách gì để sống. Sách vở bán đã hết. Áo quần cũng chỉ còn bộ đồ mặc trên người, cũng chỉ còn đôi giày da mòn long đế. Gia sản chỉ có bấy nhiêu. Căn phòng càng ngày càng vắng đồ đạc, càng thưa thớt người. Lần lượt từng người đi. Kẻ về quê, người đi đâu mất biệt. Đôi lúc có kẻ lướt về rồi lại đi. Tất cả tản mác để tiếp tục sống, để tiếp tục tồn tại.

Đang là cuối đông. Sài Gòn bỗng lành lạnh với những cơn gió lạ. Cả xã hội nghèo, thiếu ăn. Chén cơm trắng là giấc mơ của bao người. Ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép. Chẳng ai giúp được ai. Hân co ro dưới gió trên đường Trương Minh Giảng. Con đường quen thuộc cả chục năm nay, Hân thuộc từng con hẻm, từng lối rẽ, từng cái ổ gà nho nhỏ trên nền xi măng của vỉa hè. Vẫn biết là chẳng đi đến đâu, chẳng giải quyết được gì cho cái bụng rỗng đã ba hôm rồi, nhưng anh vẫn đi. Nằm nhà xót bụng không chịu được, ra đường với chút hi vọng gặp ai đó, gặp một dịp may nào đó, lượm được đồng bạc ai đánh rơi. Biết đâu? Cũng còn vài người quen, cũng còn vài thằng bạn. Nhưng Hân ngại. Anh tiều tuỵ quá. Đói rách quá, ngại gặp mọi người. Gia đình nào cũng nghèo nhưng đến bữa cũng có bữa cơm dù là bo bo, bột mì hay cá hẩm thịt ôi. Hân chỉ cần có gì bỏ bụng. Lấp đầy khoảng trống của bao tử đang kêu ầm ĩ. Nhưng Hân không dám đến nhà ai. Đói nhưng cái bệnh sĩ vẫn bám vào anh. Hân đi dọc căn phố, những cửa hàng ngày xưa sầm uất thế, rộn ràng thế bây giờ đìu hiu và buồn tẻ. Đã gần chập chọang chiều mà căn phố vẫn hiu hắt vì không có điện. Những giọt mưa lác đác, hắt vào anh. Hân tay ôm ngực tay loay hoay tìm điếu thuốc. Túi rỗng. Hân thèm một hơi thuốc trong mưa. Hân cúi xuống, mắt lướt trên nền xi măng, anh lượm được hai cái tàn thuốc. Anh lượm mảnh giấy báo, xé hai tàn thuốc, gói mấy sợi thuốc vào mảnh giấy báo rồi se lại. Ánh lửa soi sáng một vùng mặt, khói vờn lên. Bụng đang đói gặp hơi khói làm đầu anh lâng lâng như say. Những bóng người loang thoáng, chập chờn. Bụng anh thắt lại. Hân có cảm giác có dòng nước mắt đang âm ỉ chảy từ đôi mắt cận.

Hân băng qua ngã tư. Góc cây xăng Trần Quang Diệu với Trương Minh Giảng cũ có một bà cụ già bán bánh ít nhân đậu. Bà cụ người Bắc đã già lắm. Lưng còng, lúc nào người cũng quấn trong hai ba lớp áo, đầu quấn khăn. Hàng của bà chỉ chục cái bánh lá đặt trên cái thúng cũng cũ kỹ như bà. Một bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Bà bán vào buổi chiều, ít thấy khách mua nên nhiều lúc bảy tám giờ tối vẫn còn thấy bà ngồi dưới đèn đường, bóng bà đổ trên đường nhìn hiu quạnh lắm. Hân lâu lâu cũng ghé bà, mua một vài cái ăn qua cơn đói. Hôm nay Hân nghĩ giá có vài cái bánh này, chắc cũng đỡ cho cái bụng. Nhưng anh chẳng còn đồng bạc nào trong túi. Ngang qua, Hân đi luôn dù chân như muốn níu lại. Hân đi đến hẻm Trường Lê Bảo Tịnh. Anh quay lại, dùng dằng mấy bước rồi sà xuống cái thúng bánh tả tơi của bà cụ. Cụ ạ! Cụ cho con hai cái được không? Mời cậu. Cậu mua giúp. Ế quá. Nhưng cụ ơi! Hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không? Bà cụ ngần ngừ, chép miệng: Khổ thế cơ à? Ối giời thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Hân đứng lên, anh thấy chóng mặt, cái đầu hơi quay quay, anh lại đành ngồi xuống. Dạ vậy thôi cụ ạ. Vốn cụ chẳng bao nhiêu mà cháu lại ăn thiếu thì khổ cho cụ quá. Bà cụ đưa đôi mắt hấp hem nhìn Hân, móm mém: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?

Đêm đó nhờ hai cái bánh ít, Hân ngủ được một giấc ngon.

Mấy hôm sau đó, có việc ở Biên Hoà, anh xuống làm phụ mộc gần chục ngày. Về lại Sài Gòn mấy bữa, ghé góc đường lại không thấy bà cụ. Rồi ngày qua tháng lại, thời gian trôi đi, lúc thì quên, khi nhớ tìm mãi chẳng thấy bà cụ đâu.

**********

Cuối năm ấy, một người bạn cho một suất vượt biên, trả tiền sau. Hân liều làm một chuyến vì đang bế tắc quá. Lênh đênh gần nửa tháng ngoài biển, máy hư, tàu vô nước, cuối cùng cũng cặp được vào đảo Pulau Bidong  đảo nhỏ ở phía nam biển Đông, thuộc bang Terengganu của Malaysia. Đảo này được biết đến chủ yếu vì đây mở trại tạm cư cho người Việt tỵ nạn trong những đợt vượt biên liên tiếp của thuyền nhân từ năm 1975 đến năm 1991. Đến 30 tháng 10năm 1991 khi trại đóng cửa thì nơi đây đã tiếp đón 250.000 người tỵ nạn.

Hân ở đảo gần một năm vì chẳng có thân nhân nào bảo lãnh, anh vốn lớn lên từ cô nhi viện, tứ cố vô thân nên chẳng biết cậy nhờ ai. Sau đó anh gia nhập đạo Tin Lành và rồi một hội thánh ở Mỹ bảo lãnh Hân qua Mỹ.

Những năm tháng ở Mỹ, Hân cật lực vừa học vừa làm, cuối cùng cũng có một việc làm ồn định, một bằng cấp kha khá, một căn nhà vừa ý. Hai lần lập gia đình đều đổ vỡ, không có đứa con nào, anh nghĩ chắc ở thế cho đến già. Số thế rồi thì chấp nhận vậy. Đi làm về, một mình trong căn nhà trống, nhiều đêm Hân nhớ Việt Nam, đôi khi thấp thoáng bóng của bà cụ và hai chiếc bánh anh còn thiếu nợ hiện ra trong giấc mơ. Nhưng anh vẫn chưa về, thật ra cũng chẳng còn ai để về. Chẳng còn chi níu kéo để về. Nhưng Việt Nam vẫn về trong giấc mơ của Hân. Có một cái gì đó không giải thích được cứ gọi anh về.

Năm 2002, nhân chuyến công tác ở Thái Lan, anh về lại Sài Gòn năm hôm. Thành phố chẳng còn như cũ, nhiều nhà cao tầng, phố xá đông đúc hơn, người ta có vẻ giàu hơn, hàng quán nhiều hon. Buổi chiều anh về lại con đường Trương Minh Giảng cũ, con phố này có vẻ ít đổi thay, trường đại học ngày xưa của anh giờ trông tàn tạ, những bức tường ám rêu, cái cổng trường vẫn thế. Ngôi chợ cũ khang trang hơn, phố sầm uất hơn. Hân đi dọc con đường mấy chục năm trước thường đi, vỉa hè không còn loang lổ, lát gạch đẹp hơn. Đứng ở bên này ngã tư Trần Quang Diệu nhìn qua xây xăng, anh thoáng thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu xanh đang ngồi ở dưới cột đèn đường. Lạ nhỉ? Hai mươi mấy năm rồi, cụ còn sống sao? Cụ vẫn ngồi bán ở đây sao? Hân nhớ hai chiếc bánh còn thiếu nợ bà cụ. Anh vội băng qua đường. Một chiếc xe bus trờ tới, che tầm mắt của anh. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Mới thấy đây mà? Hay chỉ là ảo ảnh. Hân đi tìm quanh quất mà chẳng thấy gì. Anh đứng ngay chỗ bà cụ hay ngồi ngày xưa, miệng lẩm bẩm: Cụ ơi! Con về tìm cụ trả tiền hai chiếc bánh. Chắc cụ chẳng còn trên đời này nữa đâu. Nhưng con vừa thấy cụ. Hay cụ nhắc con nhớ món nợ năm xưa. Nhưng con biết làm sao trả. Cụ ơi! Mong cụ siêu thoát. Món nợ này con suốt đời nợ cụ.

Mấy ngày còn lại ở Sài Gòn, Hân cứ quanh quất ở cây xăng Trần  Quang Diệu, hỏi thăm về bà cụ bán bánh ít hơn hai mươi năm trước ở chỗ này. Mấy hôm rồi chẳng ai biết, chẳng biết thêm tin tức gì. Hôm cuối cùng ở Việt Nam, anh gặp được một anh chàng xe ôm, anh ta bảo biết rất rõ bà cụ vì anh là con rể của bà. Hân mừng quá, ngồi trên xe để anh xe ôm chở về nhà mà anh cứ ôm bụng anh chàng xe ôm mà nói: Mừng quá, mừng quá. Chắc là bà cụ khiến anh gặp tui.Mừng quá! Anh xe ôm kể đêm qua thấy cụ về bảo chiều mai ra góc cây xăng, có người muốn gặp. Hân nói với lên: Thế là cụ bảo ra gặp tui đấy. Bà cụ linh thiêng thật.

Xe chạy vào mấy cái hẻm ngoằn nghèo. Con hẻm càng vào sâu càng hẹp lại. Căn nhà ở cuối con hẻm ứ nước, cạnh bãi rác. Nhà sơn tróc loang lổ, nghiêng ngiêng như muốn ngã. Trong nhà tù mù một cái bóng đèn vàng hiu hắt. Một người đàn bà đi ra sau tiếng kêu của anh xe ôm. Hân bước vào nhà, đập vào mắt anh là chiếc bàn thờ be bé thắp ngọn đèn đỏ quạch soi tấm ảnh nho nhỏ của bà cụ. Bà cụ đang nhìn anh, mắt nheo nheo với nụ cười hóm hỉnh. Anh nhớ câu cuối cùng của bà nói với anh hơn hai mươi năm trước: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?

Hân xin ba cây nhang, đốt lửa, ánh sáng bùng lên soi khuôn mặt của người đàn bà nhầu nhĩ, chắc tại nghèo. Hân chắp tay vào ba cây nhang: Cụ ơi,con xin lỗi cụ, con đắc tội với cụ, con mang nợ cụ hai chiếc bánh cứu con qua cơn đói mà bây giờ con mới trả được cho cụ thì cụ đã chẳng còn. Con không quên được hai chiếc bánh của cụ đâu. Và vì không quên nên con mới nhìn thấy cụ, con mới tìm được nhà cụ để trả món nợ ân tình.

Hân ra ngoài cửa, ánh sáng cuối cùng của buổi chiều hắt lên ánh sáng kỳ dị vừa nhờ nhờ vừa tăm tối trên cánh cửa loang lổ. Anh rút hết số tiền trong ví, trong túi xách, anh không đếm là bao nhiêu nhưng cũng được một bó bằng cườm tay. Anh xin chiếc dĩa, đặt hết lên đấy và vái một lần nữa. Cụ ơi! Con xin gởi cụ. Đã biết trễ rồi nhưng có còn hơn không. Con đội ơn cụ và mong cụ tha lỗi cho con.

Hân bước ra con hẻm, ánh đèn đường vừa bật, anh lại ra con đường cũ. Cây xăng đang tấp nập. Khoảng sáng chiếu ở dưới đèn đường, anh lại thấy nụ cười và dáng lom khom của bà cụ. Nhưng lần này cụ không có bóng đổ.

15.7.2005

TG: DODUYNGOC

(Trích trong Tập truyện ngắn Bước không qua số phận. NXB Hội Nhà Văn. 2022)

Ảnh ST. minh họa.


 

SỰ THẬT MỘT KIẾP NGƯỜI

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 – Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn.

– Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới mùa đông giá lạnh.

– Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi.

– Sự việc luôn luôn đến quá nhanh mà hiểu ra thì quá muộn, cho nên chúng ta phải học cách trân trọng: trân trọng tình thân, tình bạn, tình đồng nghiệp, tình yêu, tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình đồng loại…

Vì một khi đã lướt qua, thì khó có thể gặp lại.

* Sau 20 tuổi thì đất khách và quê nhà giống nhau vì đi đến đâu cũng có thể thích ứng.

* Sau 30 tuổi thì ban ngày và ban đêm giống nhau vì mấy ngày mất ngủ cũng không sao.

* Sau 40 tuổi thì trình độ học vấn cao thấp giống nhau, học vấn thấp có khi kiếm tiền nhiều hơn.

* Sau 50 tuổi thì đẹp và xấu giống nhau vì lúc này có đẹp đến mấy cũng xuất hiện nếp nhăn và tàn nhang.

* Sau 60 tuổi thì làm quan lớn và quan bé giống nhau vì nghỉ hưu rồi cấp bậc giống nhau.

* Sau 70 tuổi thì nhà to và nhà nhỏ giống nhau vì xương khớp thoái hóa không thể đi được hết những không gian muốn đi.

* Sau 80 tuổi thì tiền nhiều và tiền ít giống nhau vì có tiêu cũng chẳng tiêu được bao nhiêu tiền.

* Sau 90 tuổi thì nam và nữ giống nhau vì không thể làm nổi chuyện gì nữa.

* Sau 100 tuổi thì nằm và đứng giống nhau vì đứng dậy cũng chẳng biết làm gì?

Vậy nên: trước hay sau, trẻ hay già, giàu hay nghèo, sang hay hèn, quan hay dân dù là bất cứ ai đều giống nhau.

Hãy sống và giữ cho mình thứ tồn tại bất biến là: Niềm tin, Tình người và Nhân nghĩa.

Cuộc sống không bán vé khứ hồi.


 

HỐI TIẾC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy!”.

“Để có thể vượt qua hối tiếc, thoát khỏi nỗi đau bởi những hối hận quá khứ, sợ hãi tương lai… bạn hãy để lại dĩ vãng cho lòng thương xót Chúa; trao tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và dâng hiện tại cho tình yêu Chúa bằng việc trung thành với ân sủng!” – Jean-Pierre de Caussade.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Hêrôđê cho rằng, Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, phải chăng trong ông đã có một sự đấu tranh về những hối tiếc, sợ hãi và mặc cảm tội lỗi? Giá mà ông vượt qua ‘hối tiếc’, cho phép lòng thương xót và ân sủng Chúa bước vào!

‘Hối tiếc’, sợ hãi và mặc cảm tội lỗi là những tác động phổ biến của một lương tâm xung đột. Hêrôđê là một ‘mẫu gương’ về những gì xảy ra khi chúng ta không thể giải quyết cuộc chiến đó trong nội tâm mình; nhưng Hêrôđê ‘hối tiếc chỉ để hối tiếc’ mà không biến nó thành một thái độ hoán cải. Vì lẽ, “Hối tiếc là một sự lãng phí năng lượng khủng khiếp; bạn không thể xây dựng được gì từ nó; nó chỉ để ta đắm chìm trong đó!” – Katherine Mansfield. Hêrôđê đã để mình trượt dài trong ‘hối tiếc’, không chuyển hoá được nó thành hối cải.

Cách duy nhất để vượt qua nó và giải quyết sự bối rối bên trong của một lương tâm là ‘khiêm nhường đầu phục sự thật’. “Khiêm nhường là chìa khoá để có bình an nội tâm. Bao lâu còn kiêu ngạo, bấy lâu không thấy sự thật!” – C.S. Lewis. Bạn không thể tìm lại bình an bằng cách lẩn tránh nó. Như Hêrôđê đã tránh đối diện sự thật – và càng lẩn tránh, ông càng bất an.

Hãy tưởng tượng nếu Hêrôđê ăn năn; nếu ông tìm đến Chúa Giêsu, thú nhận tội lỗi và cầu xin sự tha thứ! Đó sẽ là một câu chuyện Phúc Âm tuyệt vời. Thật tiếc, Hêrôđê đã không làm vậy và chúng ta đã mất đi chứng từ của một người lầm lạc – cuối cùng – để cho lòng thương xót Chúa cùng ân sủng Ngài bước vào để được ơn hoán cải. Sai lầm là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa; nhưng ăn năn mới là nhịp cầu nối hai bên. Hêrôđê đã không bước lên nhịp cầu ấy, ông bị mắc kẹt giữa tội lỗi và lòng thương xót chưa được đón nhận. “Bi kịch của một cuộc đời không phải là nó kết thúc quá sớm, mà là chúng ta chờ quá lâu để thực sự bắt đầu!” – W. M. Lewis.

Anh Chị em,

“Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả!”. Hãy suy ngẫm về ‘lời chứng không thánh thiện’ này! Chúa có thể sử dụng ‘mẫu gương’ Hêrôđê để chúng ta thấy bất kỳ khuynh hướng tương tự nào. Bạn có đấu tranh với hối tiếc, sợ hãi và tội lỗi? Tin tốt lành là xung đột này dễ dàng được giải quyết bằng một tấm lòng khiêm hạ tìm kiếm sự thật. Hãy kiếm tìm nó để chiến thắng ‘hối tiếc’, thừa nhận bất kỳ tội lỗi dai dẳng nào mà bạn cần giải quyết và cho phép lòng thương xót Chúa bước vào – qua Bí tích Hoà Giải – hầu bạn được giải thoát. Tắt một lời, “Hãy để lại dĩ vãng cho lòng thương xót Chúa; trao tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và dâng hiện tại cho tình yêu Ngài dành cho bạn!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin biến hối tiếc của con thành khởi đầu mới! Dạy con cách quỳ xuống trước sự thật!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

****************************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên, Năm Lẻ

Hêrôđê sai người vào ngục chặt đầu ông Gioan. Môn đệ ông đi báo tin cho Đức Giêsu.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 14,1-12

1 Khi ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giê-su, 2 thì nói với những kẻ hầu cận rằng : “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả ; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.”

3 Số là vua Hê-rô-đê đã bắt ông Gio-an, xiềng ông lại, và tống ngục vì chuyện bà Hê-rô-đi-a, vợ ông Phi-líp-phê, anh của nhà vua. 4 Ông Gio-an có nói với vua : “Ngài không được phép lấy bà ấy.” 5 Vua muốn giết ông Gio-an, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. 6 Vậy, nhân ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê, con gái bà Hê-rô-đi-a đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. 7 Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. 8 Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng : “Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả đặt trên mâm.” 9 Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. 10 Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. 11 Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. 12 Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giê-su.


 

VIỆC CẢ THỂ-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin!”.

Trong “Phép Mầu Trên Sông Kwai” – “Miracle on the River Kwai” – Gordon viết về các tù binh bị buộc phải xây một con đường sắt trong rừng; họ trở nên man rợ – cho đến ngày một chiếc xẻng mất! Không ai nhận tội, viên sĩ quan Nhật rút súng bắn vào các tù nhân. Bỗng một người bước lên, anh bị đánh chết; về sau, chiếc xẻng được tìm thấy. Từ đó, các tù binh hết vô nhân tính, họ yêu thương nhau như gia đình. Người chết, một Kitô hữu, đã làm một việc cả thể – cứu sống nhân phẩm và mạng sống các bạn tù.

Kính thưa Anh Chị em,

Chúa Giêsu đã làm những ‘việc cả thể’ ở các thành, nhưng tại quê nhà của Ngài thì không, “Vì họ không tin!”.

Đang khi bản Việt ngữ, bản BJ. và TOB. tiếng Pháp gọi đây là những “phép lạ”, “miracles” thì bản NAB. của HĐGM Hoa Kỳ đơn giản gọi đây là những “việc cả thể”, “mighty deeds!”. Theo một số nhà chú giải, cách gọi này, xem ra gần gũi và dễ ao ước hơn! 

‘Việc cả thể’ là việc biến đổi các linh hồn! Bởi lẽ, ‘linh hồn hoán cải’ mang một ý nghĩa lớn lao nhất, thiên đàng nhất và vĩnh cửu nhất… cũng là điều Chúa Giêsu tìm kiếm và chờ đợi. Buồn thay! Sau những phép lạ vật lý, điều đó đã không xảy ra tại quê nhà của Ngài – “Vì họ không tin!”. Lời Chúa Giêsu không thấu qua tai, chẳng thấm qua tim những đồng hương. “Thiên Chúa có thể làm việc với ai không biết, nhưng không thể làm gì với kẻ không tin!” – David Guzik. Rõ ràng, ngu dốt không đóng cửa, nhưng vô tín thì đóng cửa khiến Thiên Chúa tổn thương. Vô tín là sự không hài lòng với tình yêu và sự gần gũi của Ngài; chán ghét chính sự hiện diện và sự trợ giúp của Ngài.

Tuy nhiên, việc “Người không làm nhiều phép lạ tại đó” có nghĩa là ‘có’ làm, ít nữa một! Chi tiết này hé lộ – chí ít – đã có một linh hồn biến đổi. Dù chỉ một nhưng đủ cho thần thánh trên trời mừng vui, Chúa Giêsu vui mừng. Đó là ‘việc cả thể’ vĩ đại nhất. Hãy ước ao cho linh hồn mình được biến đổi! Vì bấy giờ, chúng ta sẽ nhận ra ‘dấu vết thánh’ của Chúa trong cuộc sống, ‘hiện diện thánh’ của Ngài trong tha nhân và ‘hoạt động thánh’ của Ngài trong công việc thường ngày! “Thiên Chúa và Con của Ngài có thể làm mọi sự, nhưng đã chọn giới hạn chính mình tuỳ theo sự đáp trả của con người!” – James Brooks.

Anh Chị em,

“Người không làm nhiều phép lạ tại đó”. “Không làm nhiều”, vì họ không chấp nhận việc “Nhập Thể” – Thiên Chúa trong hình hài một con người! Với họ, một vị thần trừu tượng, xa cách, chấp nhận một đức tin xa rời cuộc sống… sẽ thoải mái dễ chịu hơn. Cũng thế, chúng ta muốn một Thiên Chúa ‘hiệu ứng’, làm những điều ngoạn mục, luôn khơi dậy cảm xúc mạnh mẽ; vậy mà, thay vào đó, Ngài nhập thể – dịu dàng, ẩn mình – đến gần, sống cuộc sống bình thường của chúng ta. “Thiên Chúa không cưỡng ép những tấm lòng muốn xa lánh Ngài!” – Hiebert. Liệu điều tương tự cũng xảy ra với bạn và tôi? Liệu chúng ta sẽ đánh mất cơ hội không để Ngài làm được một ‘việc cả thể’ nào?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chạm lòng con, đừng chỉ lay mắt con. Đừng làm con loá mắt – hãy làm con thay lòng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên, Năm Lẻ

Ông không phải là con bác thợ sao ? Bởi đâu ông làm được những phép lạ như thế ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 13,54-58

54 Khi ấy, Đức Giê-su về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói : “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế ? 55 Ông không phải là con bác thợ sao ? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a ; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao ? 56 Và tất cả chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ? Vậy bởi đâu ông ta được như thế ?” 57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương và trong gia đình mình mà thôi.” 58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.


 

Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787)- Cha Vương

Tháng 8 rồi bạn ơi! Xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình. Hôm nay 01/8 Giáo hội mừng kính Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787). Mừng Bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 01/08/2025 t3/2023

Thánh Anphonsô sinh năm 1696 tại Na-pô-li. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Ki-tô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (năm 1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. 

    Hạnh tích kể rằng một trong các linh mục của dòng có cuộc sống rất trần tục, và cưỡng lại mọi biện pháp nhằm thay đổi lối sống ấy. Vị linh mục được Đức Cha Anphonsô mời đến, và ngay ở lối vào phòng của ngài, thánh nhân cho đặt một tượng thánh giá thật lớn. Khi vị linh mục do dự không dám bước qua, Đức Cha Anphonsô ôn tồn nói, “Hãy bước vào đi, và nhớ đạp lên thánh giá. Đây không phải lần đầu tiên mà cha đạp Chúa dưới chân mình.”

    Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với “sự tăm tối” vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính. Ngài qua đời ngày 01 tháng 8 năm 1787 tại Nocera de’ Pagani, Salerno.

    Để noi gương thánh nhân mời Bạn suy niệm và tự hỏi ngài đang muốn nhắn nhủ bạn điều gì nhé:

(1) Ai cầu nguyện, thì được cứu rỗi.

(2) Lạy Mẹ Maria, xin hãy nhận con, như của riêng Mẹ, và cho Mẹ, xin hãy chăm lo phần rỗi của con.

(3) Bất cứ sự bất an nào, cho dù có lý do tốt cách mấy, cũng không thể phát xuất từ Thiên Chúa.

(4) Khi một tư tưởng xấu xa hiện lên trong tâm trí, chúng ta phải cố gắng lập tức hướng tư tưởng về Thiên Chúa hoặc một đều trung lập nào đó. Nhưng qui luật trước tiên là phải lập tức kêu cầu thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria và tiếp tục kêu cầu cho đến khi cơn cám dỗ chấm dứt.

(5) Người không bỏ cầu nguyện thì chẳng thể kéo dài thói quen xúc phạm đến Thiên Chúa.

(6) Người nào tin tưởng vào bản thân sẽ hư mất. Người nào tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ làm được mọi sự.

(7) Hôm nay Chúa mời bạn làm điều tốt; hãy làm ngay hôm nay. Ngày mai bạn có thể không có thời gian, hoặc Chúa có thể không còn kêu gọi bạn làm điều đó nữa.

Câu nào đánh động bạn mạnh nhất?

From: Do Dzung

************************

Một mình con với Chúa – Diệu Hiền (St: Giang Ân)

XẤU NGƯỜI MẸ BÙ CỦA

Là câu nói của người Bắc. Nghĩa đen là cô gái đó xấu nhưng của hồi môn nhiều nên vẫn khối chàng rước về làm vợ. Đi du lịch nước ngoài về tôi dám mạnh miệng tuyên bố Thái lan, Mã Lai, Sing… chỉ là những cô gái xấu so với nhan sắc mỹ miều của cô gái có tên Việt Nam.

Việt Nam đâu thiếu những hang động, bãi biển, ngọn núi, cánh đồng hấp dẫn. Nhưng tại sao cô gái đẹp này lại “ế chồng”?

Tôi ở Thái Lan 5 ngày. Cảm nhận đầu tiên là nhiệt độ nóng hơn VN. Nhiều nơi cũng thiếu cây xanh trầm trọng, cũng khô, cũng ngột ngạt và cũng oi bức, khó chịu. Bãi biển Pattaya sao đẹp bằng Đà Nẵng, Nha Trang, Qui Nhơn, Vũng Tàu. Đường phố, nhà cửa của Thái cũng không đẹp hơn VN là mấy. Thậm chí nhà cửa có phần cũ, quê kệch và nhếch nhác hơn VN. Vậy sao du lịch trong nước đang than trời, quán xá, nhà hàng, khách sạn VN gần như đóng băng thì ngành du lịch các nước bạn vẫn nhộn nhịp, huyên náo?

Đầu tiên phải nói đến nụ cười. Ấn tượng đầu tiên là nụ cười thân thiện của người dân nước bạn. Bất cứ ai, ở bất cứ đâu họ cũng chào đón mình bằng nụ cười thân thiện và rạng rỡ. Dù họ là ai, bạn có “bo” không họ vẫn luôn vui vẻ làm đúng bổn phận. Người VN có thói lề mề, ồn ào, vô ý vô tứ họ cũng không than phiền, cáu gắt. 5 ngày trên đất Thái tôi không hề thấy một người Thái nào chửi bới, nóng nảy, giận hờn. Tôi đi mua sắm một mình không có cảm giác bất an, sợ người ta lường gạt. Người Thái tiếng Anh họ hạn chế hơn mình nhưng khi mình hỏi đường hay trao đổi bất cứ vấn đề gì họ đều cố gắng vận dụng toàn bộ vốn tiếng Anh ít ỏi để làm hài lòng du khách. Uống 1 trái dừa 50 bath. Uống 10 trái thì 500 bath. Chứ không có thói trái thứ nhất 50, trái thứ hai trở đi 100. Mua đĩa cơm thứ nhất bị nhầm món do 2 bên không hiểu nhau. Nhân viên đưa đĩa cơm thứ hai và chỉ tính tiền 1 đĩa. Mua trái dừa xách đi lung tung rồi. Lát nữa quay lại nhờ chặt và xin ống hút vẫn vui vẻ không tính tiền chặt, không tính tiền ống hút. Các món ăn đều ghi bằng 3 thứ tiếng Thái-Anh-Việt, có hình chụp và khi bưng ra đúng y hình chứ không xiên xẹo. Mặc đồ hơi ngắn đến viếng chùa, có người ra đưa xà rông cho quấn chứ không mất tiền thuê. Các chỗ cho thuê đồ hoá trang thì đồ đều mới và thơm tho. Không có kiểu vừa cũ vừa rách, vừa hôi mùi người trước đó mặc. Và giá tiền cực rẻ, rẻ hơn bên ta rất nhiều. Toa-lét chỗ nào cũng có và cũng sạch. Có chỗ còn gắn cả máy lạnh. Nơi công cộng thì không bao giờ có 1 cọng rác. Sọt rác để khắp nơi. Nhân viên dọn liên tục. Không có chuyện sọt rác bốc mùi lưu cữu.

Quay về ta, trời cho muôn thứ hay ho. Thứ nhất phải công nhận người VN đẹp. Ta coi phim Thái, phim Hàn, phim Tàu thấy họ đẹp thì đa phần là thẩm mỹ và kĩ thuật trang điểm cao chứ đại chúng không đẹp như dân VN đâu. Người đẹp cũng là một yếu tố thu hút du lịch chứ không đùa. Khí hậu ta so với các nước trong khu vực cũng ôn hoà hơn. Nhịp sống sôi động hơn. Nhà hàng ta phục vụ đủ các món Âu, Mỹ, Á. Cảnh nước ta đẹp ngời ngời. Nhưng ta vốn là một cô gái đẹp nhưng con nhà mất dạy, vô giáo dục, đầu trộm, đuôi cướp. Vali trên máy bay thì bị rạch. Hải quan sân bay ghi chữ “TIP” chìa vào mặt khách. Taxi chở khách đi vòng vòng để tính thêm tiền. Đi ngắm cảnh thì bị móc túi mất cả giấy tờ phải cầu cứu lãnh sự quán. Nhà hàng, quán xá treo đầu de bán thịt chó. Người dân trong nước còn bị ch.ặt ché.m chứ nói chi đến du khách nước ngoài. Giá cả như kiểu chỉ có đại gia mới dám xài tiền. Dân nghèo trong nước chắc không bao giờ mơ tới 2 chữ “du lịch”. Oái oăm ở chỗ dân nghèo đi du lịch nước ngoài chứ không đi trong nước vì đi nước ngoài rẻ hơn nước mình rất nhiều. Riêng cái vé máy bay đã thấy ngược ngạo. Có anh chàng muốn đi từ HCM ra Hà Nội đã không bay thẳng mà bay từ HCM qua Bangkok rồi từ Bangkok bay về Hà Nội.

Một đứa trẻ mất dạy là do đâu? Là do cha mẹ không biết dạy nó. Cách đây mấy tuần cảnh sát Thái đã bắt giam một người đàn ông bán hàng rong cân điêu. Với tội danh này vừa bị nộp phạt vừa bị ngồi tù. Qua đó cho ta thấy đất nước họ quan tâm đến người dân thế nào. Dân mình như những đứa trẻ con vô giáo dục. Cha mẹ có đoái hoài đâu mà đòi nó đứng đắn, tử tế. Du khách nước ngoài bị móc túi chỉ biết kêu trời. Đi du lịch bị chặ.t ch.ém chỉ biết lên mạng xả cơn tức. Đi đâu không hài lòng về chỉ biết truyền miệng tẩy chay và tự hứa với lòng không bao giờ trở lại. Tất cả những chuyện đó không có ai chịu trách nhiệm. Mà thực ra nếu là người biết nhìn xa, trông rộng sẽ không để những chuyện đó xảy ra chứ đừng nói xảy ra sẽ xử lý.

Đứa trẻ VN sẽ còn mất dạy, bố láo dài dài vì cha mẹ nó còn mải mê việc đi họp quốc hội mặc áo tứ thân hay ngũ thân, năm nay nấu tô hủ tíu hay cuốn cái chả ram để phá kỉ lục. Hay mua lu đặt trước nhà chống ngập. Gia đình mà có những loại cha mẹ như thế con cái không hư, gia phong không mạt mới lạ.

5 ngày lang thang trên đất Thái thấy đau trong lòng vô cùng. Trong khi người ta vẫn buôn bán tấp nập, nhà hàng, khách sạn vẫn nườm nượp. Quán xá vẫn náo nhiệt. Các trung tâm mua sắm vẫn thu hút người ta đến đổ tiền vào đó thì ở ta những tấm bìa sang quán, sang mặt bằng, bán nhà, xả toàn bộ cửa hàng treo khắp mọi nơi. Đến cả gói xôi 10 ngàn mà còn ế thì lên CNXH rồi chứ phấn đấu làm cm gì nữa.

Nguồn bài từ: Facebooker Le Van Quy tư Facebook FB @Mai Thi Mui

From: Tu-Phung

Điếc Sướng hơn – Lê đức Luận

Lê đức Luận

Lão Tư Lì năm nay bước vào tuổi tám mươi. Đời lão lắm gian truân, nhưng cũng có nhiều may mắn. Sau ngày 30-4-1975, đời lão đã “tàn trong ngõ hẹp” – tưởng rằng lão đã bỏ thây trên núi rừng Việt Bắc trong những ngày bị lưu đày trong các trại “tập trung cải tạo” của cộng sản.

Nhưng lão đã trở về sau bảy năm lao lý.

Lão trở về với tấm thân gầy guộc, ngoài vợ và hai đứa con thơ, lão chẳng còn gì! Nhưng lão phải sống để đền đáp cái ân tình của người vợ thủy chung đã đợi chờ cho đến ngày lão ra tù, để cùng nàng nuôi dạy hai đứa con thơ. Lão đã trải qua những ngày cơ cực, bươn chải kiếm sống, nuôi con như những ngưởi cùng khổ nhất trong xã hội lúc bấy giờ.

Lão phải sống! Nhưng lão biết với cái lý lịch ba đời nhà lão – chẳng những lão sẽ khổ nhục suốt đời mà con cái lão rồi cũng chẳng ngóc đầu lên được dưới chế độ cộng sản.

Thời điểm ấy, nhiều người ở trong hoàn cảnh như lão, muốn thoát khỏi chế độ cộng sản để tìm cuộc sống tự do và tương lai cho con cháu. Phong trào vượt biên, vượt biển bùng phát. Sự kiện này đã thôi thúc lão tìm đường vượt biên! Lão biết ra đi là “tìm sự sống trong cái chết.”  Nhưng lão liều! Thà chết còn hơn sống mà không có tự do. Lão vay mượn đó đây vừa đủ tiền cho lão và đứa con trai sáu tuổi ra đi.

   Nhưng chuyện vượt biên của lão không thành công. Chuyến đó, chủ ghe đòi: Người lớn đóng ba cây vàng, trẻ nhỏ dưới mười tuổi đóng một nửa – thằng con sáu tuổi của lão đóng một cây rưỡi. Lão và thằng con trai đến điểm hẹn (ém quân) chờ đến giờ, có người đến đưa xuống taxi (tàu nhỏ). Nhưng người hướng dẫn, gọi là “đề lô” không đến chỗ “ém quân” dẫn cha con lão ra tàu nhỏ mà thay vào đó hai người lớn để kiếm thêm một cây rưỡi vàng, làm cha con lão lỡ chuyến – lão quay về! Vài ngày sau, biết tin: Những người xuống taxi hôm ấy đều bị công an “tóm”. Thế là may mắn cho lão – thoát tù! Từ đó, lão không còn tính chuyện vượt biên.

Nhớ lại, khi ở tù đến năm thứ tư, bẵng đi một thời gian dài, lão không được tin nhà – lão lo lắng không biết có chuyện gì xui rủi xảy ra cho vợ con lão? Sau đó, vợ một người bạn tù ra thăm chồng cho biết tin: “Vợ lão dẫn hai đứa con đi vượt biên đã hơn mười tháng nay.”

Bấy giờ, nhiều đêm lão thao thức với tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Vui khi nghĩ vợ con lão đã thoát cảnh lầm than và tương lai con cái lão sẽ tươi sáng hơn. Nhưng lão buồn khi tưởng tượng cảnh vợ lão sẽ “theo thằng John, thằng Jack…nào đó” – quên lão! Lão ngậm ngùi … nhưng rồi tự an ủi: Như thế còn may mắn hơn là đi theo “nón cối” như vợ của vài người bạn tù cùng cảnh ngộ.

         Đến một hôm, lão đang ngồi tư lự, sau bữa ăn chiều với chén bo bo, chan nước muối, một anh tù tự giác ghé tai nói nhỏ: “Vợ anh vừa đến lúc bốn giờ – đang ở ngoài nhà thăm nuôi.” Lão cười tỏ vẻ không tin.

Nhưng sáng hôm sau, trong lúc sắp hàng đi lao động, lão được gọi tên ra khỏi hàng – đứng đợi ở góc sân. Khi các Đội lao động ra khỏi cổng trại, một tên vệ binh đến dẫn lão ra nhà thăm nuôi. Trên đường đến nhà thăm nuôi lão nghĩ: “ Có lẽ gia đình nhờ một người nào đó đi thăm nuôi.” Khi đến nơi, thấy vợ đang đứng chờ trước cửa nhà “tiếp tân” – lão xúc động! Không ngờ lại được gặp nhau.

Trong hơn nửa giờ thăm gặp, hai vợ chồng lão phải nói “tiếng lóng” trước mặt tên cán bộ ngồi ở đầu bàn. Lão hỏi: “Anh nghe chị Thìn báo tin: “Em đưa các con về vùng kinh tế mới với ông bà ngoại?”- “Mấy tháng trước, em dẫn hai con về quê ngoại, nhưng xe tàu trở ngại, em quay về…” Vợ lão trả lời ngắn gọn, cho lão hiểu chuyện vượt biên không thành công.

Sau này, khi được về với gia đình, vợ lão kể chi tiết những gian truân trong chuyến vượt biên năm ấy: “Vợ lão dẫn hai con, theo người mối lái xuống Cần Thơ. Họ “ém” trong một căn nhỏ ven sông, chờ đến giờ sẽ cho xuống tàu nhỏ để đưa ra tàu lớn. Nhưng đêm đó công an bao vây, bắt trọn ổ đám người vuợt biên “ém” trong các nhà gần đó (khoảng ba mươi người) đưa về trại giam. Vài ngày sau, người mối lái vào trại giam đưa hai đứa con về Sài Gòn cho bà chị nuôi giúp, còn vợ lão ở lại “nếm” cơm tù cộng sản hơn sáu tháng mới được thả. Ra tù, vợ lão mất hết, phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của chị, em cật ruột.

Lão vượt biên không thành, vợ lão vượt biên không xong. Thế là lão biết số trời đã định: từ nay vợ chồng lão sẽ không còn phân ly.

Lão tin vào định mệnh. Cho nên đời lão đã trải qua nhiều thử thách và cảnh ngộ đau thương, lão cam chịu… ít khi than thở. Trải nghiệm cuộc đời, lão “ngộ” được cái lẽ vô thường trong kiếp nhân sinh. Lão cũng thấm nhuần câu chuyện “Tái ông thất mã” – trong cái rủi có cái may. Cho nên, khi gặp may mắn, lão không tự mãn; lúc xui rủi lão không tuyệt vọng. Những người quen biết, đặt cho lão cái tên là Tư Lì.

Những khi cơ khổ, lão nhớ đến mấy câu thơ trong bài Vịnh Cảnh Nghèo của cụ Nguyễn Công Trứ: “…Cơ thường đông hết hẳn sang xuân/ Trời đâu riêng khó cho ta mãi/ Vinh nhục dù ai cũng một lần.” để nuôi hy vọng.

          Những năm sau 1975, nhiều người ở miền Nam, không thể sống nổi dưới chế độ hà khắc của cộng sản – phải trốn chạy bằng mọi cách – bất chấp hiểm nguy! Nhiều thảm cảnh đã xảy ra trên biển cả làm động lòng lương tâm nhân loại. Do vậy, nhiều nước chấp nhận cho định cư những người có thân nhân nước ngoài bảo lãnh qua chương trình ODP (ra đi có trật tự) để giảm bớt những đau thương. Sau đó có thêm chương trình HO đã cứu vớt nhiều gia đình cựu quân nhân QL/VNCH thoát cảnh lầm than.

Lương tâm và tình nhân loại đã đem đến cho gia đình lão niềm hy vọng.

Một ngày đẹp trời gia đình lão xách va-li lên phi cơ về miền đất hứa. Lúc ngồi đợi máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, lão còn lo sợ công an đến bắt quay về. Đến khi phi cơ cất cánh lão mới an lòng – đời lão từ đây coi như hết cơn bỉ cực.

Qua khung cửa sổ hẹp của máy bay, lão nhìn xuống thành phố Sài Gòn – những đường phố lướt qua dưới ánh nắng ban mai trong trẻo, rồi những sông rạch uốn lượn, dấu mình trong các làng mạc ven đô, rồi lặn vào các khu rừng thấp…rồi dần dần lộ ra trên những cánh đồng lúa trải dài như những nét kẽ màu trắng trên tấm thảm nhung xanh. Máy bay nghiêng cánh, lên cao – Sài Gòn nhỏ dần, rồi chỉ còn chấm đen. Mất hút! Bây giờ, chung quanh là trời xanh lồng lộng. Bên dưới là biển cả bao la. Lão thấy lòng se thắt!

Bao nhiêu năm, bị đọa đày trên quê hương khốn khổ ấy, lão muốn trốn chạy. Giờ đây, trên đường lưu vong ly biệt – căn nhà cũ, con đường xưa, lũy tre nơi thôn làng quê ngoại, cùng với những kỷ niệm thân thương thời thơ ấu, phút chốc hiện ra,  khiến lão rưng rưng …Hình ảnh quê hương khó có thể phai mờ trong ký ức.

Đến nơi đất khách, quê người, cũng như bao nhiêu gia đình tỵ nạn khác, gia đình lão được hội nhập vào xã hội văn minh Hoa Kỳ, nhờ sự giúp đỡ tận tình của người dân bản xứ. Đôi khi lão tự hỏi: “Tại sao những người cùng tổ tiên, nòi giống lại tìm cách đọa đày nhau, còn ở đây với những người xa lạ, nhưng họ lại cưu mang gia đình lão với tất cả tấm lòng nhân ái và hào sảng?”

Mấy mươi năm sống trên nước Mỹ, con cái lão được học hành tử tế, thành đạt. Lão có việc làm, được sống trong tự do, no ấm… Đến năm sáu mươi hai tuổi, lão xin về hưu sớm để an hưởng tuổi già. Lão nghĩ theo quan niệm xưa: “sáu mươi năm cuộc đời” – bây giờ đến tuổi sáu hai, lão cho như vậy đã đủ cho một đời người. Nhưng tuổi thọ của con người ngày nay tăng lên – tám mươi chưa phải là già. Nhiều người đã ví von như thế khiến lão an lòng, vui sống…

Được sống đến tám mươi tuổi, lão bảo đó là “bonus” trời cho, nhưng lão không tránh khỏi tiến trình “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”. Năm bảy mươi tuổi, thính giác bị lão hóa – lão bắt đầu mang bệnh điếc!

Nhưng lão lì, không mang máy trợ thính, chấp nhận bệnh điếc như một ân sủng. Lão lý luận: “Già phải mang bệnh – điếc là bệnh dễ chịu nhất để bớt nghe những chuyện thị phi – cho tâm hồn thanh thản…

Lão nhớ, hồi ở trại tù K1/Tân Lập – Vĩnh Phú, các niên trưởng, mang cấp bậc Trung tá, Đại tá, đa số đều mang bệnh điếc. Điếc giả, điếc thiệt… không ai biết được. Nhưng “điếc” mang lại sự an toàn. An toàn là thế này: Các đàn em khi gặp lại các niên trưởng thường rỉ tai to nhỏ, toàn những chuyện “giật gân, phản động”. Bọn “ăn ten” thấy vậy báo cáo với cán bộ. Thế là các “cụ” bị kêu lên làm việc, khai báo những gì đã nghe. Sự thật, chỉ là những tin đồn … nhưng các “cụ” phải khai, và phải nói sao cho khéo để đỡ đòn cho đàn em. Thế thì mệt quá! Thôi thì cứ giả điếc (có cụ điếc thiệt) để các đàn em khi gặp phải chào to, nói lớn… mà nói lớn thì đâu dám tiết lộ những chuyện bí mật phản động. Thế là quý cụ yên thân.

Khi lão điếc ở mức độ 50%, Lão bớt nghe chuyện đời thị phi, rối rắm. Ở nhà, những lúc đang say mê xem phim, hay đọc chuyện, vợ kêu rửa chén, lặt rau, lão không nghe, bà vợ bực mình càm ràm… rồi làm hết mọi thứ. Lão cứ ung dung… Nhưng “thái quá thì bất cập!” Càng già bệnh điếc càng gia tăng, khiến lão ngơ ngác như người ở “cõi trên”. Vợ con thấy vậy, khuyên lão nên đeo máy trợ thính, nhưng lão “lì” không chịu mang. Con gái lão giải thích: “Những người bị điếc mà không đeo trợ thính, lâu ngày sẽ sinh ra bệnh mất trí nhớ (alzheimer).”

Trong đời, lão sợ nhất là bị bệnh đột quỵ (stroke), thứ hai là bệnh lú lẫn (alzheimer). Cho nên lão nghe theo lời khuyên của con gái, ra Costco mua một cái máy trợ thính.

Từ ngày mang máy trợ thính, lão sinh bịnh mất ngủ.

Mỗi lần nghe những tên bình luận thời sự lếu láo trên Radio, TV, You Tube, thiếu khách quan hay nghe những người lắm chuyện khoác lác, khoe khoang… lão bực mình.

Ở nhà, mỗi khi bà vợ già càm ràm điều gì lão nghe hết đầu đuôi… Thực ra, lão chẳng làm điều gì nên tội, chỉ có việc: mặc quần hay quên kéo zipper, làm bà xấu hổ; bày biện lung tung làm bà mất công dọn dẹp; mỗi lần đi đâu bà phải tìm chìa khóa xe, cái ví cho lão… Chừng ấy chuyện mà vợ lão cứ càm ràm – lão không giận và coi đó như cách “mắng yêu của tuổi già”. Nhưng mỗi lần càm ràm, bà vợ thường nói câu kết: “chẳng được tích sự gì.” Khiến lão giận! Trong đời, lão ghét nhất những ai chê lão “vô tích sự”. Mắng thế nào cũng không làm lão tức bằng chê lão “chẳng được tích sự gì”.

Khi chưa có máy trợ thính, lão nghe tiếng được, tiếng mất – chuyện đời coi như gió thoảng, mây trôi… lão không bận tâm, chấp nhứt. Đêm về lão ngon giấc. Nay có cái máy trợ thính, lão nghe rõ sự đời lắm chuyện thị phi… Lão bực mình những chuyện bao đồng, rồi giận luôn bà vợ già hay chê lão “vô tích sự”… Khiến lão nhiều đêm mất ngủ!

Thế là, lão tuyên bố: “Điếc sướng hơn!”

 Lê đức Luận

From Tu Phung