XIẾT CHẶT VÒNG TAY,

XIẾT CHẶT VÒNG TAY,

Hãy góp yêu thương đến vạn lòng,
Cho hồn dân tộc trãi mênh mông,
Ba miền hạnh phúc trong hoan lạc,
Lịch sử muôn đời vạn ước mong…
Xiết chặt tay nhau thành một vòng,
Nối tình liên kết khắp biển đông,
Đuổi quân xâm lược ra bờ cõi,
Bảo vệ quê hương giống Lạc Hồng…

Liverpool.18/9/2012.
Song Như

ĐỨC TIN TRONG NGUỒN THƠ HÀN MẠC TỬ

ĐỨC TIN TRONG NGUỒN THƠ HÀN MẠC TỬ

nguồn: Conggiaovietnam.net

Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912, tại thị xã Đồng Hới, chính xác là làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình công chức, công giáo thuần thành.
Rửa tội tại giáo xứ Tam Tòa, Đồng Hới, ngày 25-9-1912, tên thánh là Phan xi Cô (François). Thêm sức tại nhà thờ Quy Nhơn, 1933, dưới tên Phan xi cô Xa- viê.

Học tại Quảng Ngãi, Qui Nhơn. Ra Huế, học trường thầy dòng Pellerin (Bình Linh)
xong năm thứ nhất bậc trung học, 1930, thì thôi học. Về ở Quy Nhơn. Làm sở đạc điền được ít lâu, sau  bỏ sở. Vô Sài Gòn, 1934, làm báo một thời gian, trợ bút cho báo Sài Gòn, rồi trở về Qui Nhơn 1936, khi sức khỏe sa sút.

Bắt đầu làm thơ Đường từ năm mười lăm tuổi, ký nhiều bút hiệu: Minh Duệ Thị, Phong
Trần, Lệ Thanh. Từ 1935 chuyên làm thơ mới, ký Hàn Mặc Tử, cuối cùng là Hàn Mạc
Tử. Đã đăng thơ trên các báo Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Tân thời, Người mới.

Chứng bịnh phong cùi hiểm nghèo buộc ông phải sống ẩn tránh, trong đau đớn cả tinh thần, thân xác lẫn vật chất, nhưng đã đem đến cho Hàn Mạc Tử nhiều thi tứ đặc biệt, thanh thoát, như một vùng trú ẩn cần thiết cho cõi linh hồn đau khổ triền miên.

Thi phẩm  đã công bố : Gái Quê (Tự xuất bản, in tại nhà in Tân Dân, Hà Nội,1936, 34 bài thơ, tựa của Phạm Văn Ký); Thơ Hàn Mạc Tử (Tuyển tập, nxb Đông Phương, Hà Nội, 1942, tranh vẽ của Phạm Tú. Nhà Tân Việt, Sài Gòn, tái bản, 1959).

Tại trại phong Qui Hòa, ngoại thành Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử trút linh hồn ngày 11 tháng 11 năm 1940, hưởng dương 28 tuổi, được mai táng ngay hôm đó tại nghĩa địa trại Quy Hòa.

Số phận ngắn ngủi của ông là một thiệt thòi lớn cho nền văn học đất nước, vì ông được coi như một nguồn thơ tinh khôi và kỳ lạ bậc nhất trong thi ca hiện đại.

Đặc biệt là nguồn thơ cảm hứng từ đức tin Thiên Chúa, và phản ánh đức tin này qua tác phẩm, là đề tài cho chuyên luận dưới đây.

 

*

Cuối 1942, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: ‘Từ ngày Hàn Mạc Tử từ trần đến nay, mới trong khoảng hai năm trời mà người ta đã nói rất nhiều, viết rất nhiều về Hàn Mạc Tử”. [1]

Và đến nay, bao nhiêu giấy mực đã  được dành cho nhà thơ bạc mệnh. Có lẽ ở miền Nam, Hàn Mạc Tử là thi sĩ  được nhắc nhở nhiều nhất. Nhưng e rằng dù vậy sự hiểu biết của chúng ta về thi tài đó vẫn không tiến bộ được bao nhiêu. Có lẽ lại lùi lại nữa là khác. Năm 1941, Hoài Thanh muốn nói đến Hàn Mạc Tử đã hỏi mượn thơ do Trần Thanh Địch giữ[2].
Cùng năm đó, khi viết cuốn Hàn Mạc Tử, có lẽ Trần Thanh Mại cũng dùng nguồn tài liệu đó, tức là của em mình. Ngày nay, 1970, ngoài tập Thơ Hàn Mạc Tử mỏng manh của nhà xuất bản Tân Việt tái bản 1959, chúng ta không còn thi liệu nào khác. Chính Quách Tấn, bạn thân, ân nhân, người đã được nhà thơ ký thác trọn vẹn tác phẩm, cũng tỏ vẻ không có nhiều tài liệu hơn chúng ta. Trong bài nói về nhà thơ quá cố đăng trên Văn, Quách Tiên sinh, khi trích thơ Hàn Mạc Tử  đã làm một việc mà ai cũng làm được, như Vũ Ngọc Phan đã làm, nghĩa là  trích từ tập thơ in 1942 kia, hay trích lại của Trần Thanh Mại và Hoài Thanh –trừ vài bài tứ tuyệt không mấy quan trọng. Nhưng ông ấy may mắn có được đọc tập
Gái Quê, xuất bản vào sinh thời tác giả. Lý do rất giản dị: chiến tranh đã làm thất lạc hết tài liệu, mặc dù Quách Tấn giữ gìn cẩn thận, sao nhiều bản gửi Bộ Giáo dục Nam triều thời đó và tất cả ban bè của Tử[3].

Như vậy trong mọi hành trình vào tác phẩm của Hàn Mạc Tử, chúng ta sẽ giẫm chân tại chỗ, đua nhau kể cuộc đời ái tình và sự nghiệp của nhà thơ – dĩ nhiên là éo le gay cấn, nhưng không giúp hiểu thêm trước tác, sức sáng tạo thi ca, được bao nhiêu . Dù cho một vài bài quan trọng, như của Quách Tấn trên số báo Văn thượng dẫn, ngoài việc đưa ra một số sự kiện chung quanh việc sáng tạo của Hàn Mạc Tử còn bổ chính nhiều điều do Trần Thanh
Mại đề xuất trong cuốn biên khảo về Hàn Mạc Tử [4] xưa nay vốn là tài liệu tham khảo căn bản cho mọi người.

Về cuộc tranh tụng giữa hai họ Quách và Trần năm 1942, thì chúng tôi không có ý kiến gì. Nhưng xin tán đồng Quách Tấn về hai điểm: thứ nhất là Trần Thanh Mại ẩu, thứ hai là ông không hiểu thơ, và cứ ưa phê bình thơ, và Vũ Ngọc Phan cũng đồng ý như vậy [5]. Tuy nhiên, nếu không có cái ẩu, cái trích dẫn bừa bãi của họ Trần, thì các nhà nghiên cứu về sau –
kể cả Quách Tấn – lấy đâu ra thơ Hàn Mạc Tử để tham khảo, sau khi người giữ bản quyền để thất lạc hết di thảo ?

Tưởng khi nói chuyện ba mươi năm về trước, Quách Tiên sinh không nên chua cay mới công bình[6].

Chúng tôi trình bày những khó khăn về tài liệu đó là có ý rào đón những thiếu sót trong bài này, khi đề cập đến một đề tài hệ trọng và bao quát : đức tin Thiên Chúa giáo trong thơ Hàn Mạc Tử. Chúng tôi không khám phá ra điều gì mới mẻ, mà chỉ khai triển một nhận xét của  các ông Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, cách đây mấy mươi năm. Chúng tôi chỉ đào sâu thêm tác phẩm để có một cái nhìn nhất quán trên toàn thể thi phẩm. Thay vì trích dẫn
những câu có hình thức tôn giáo như Maria, linh hồn tôi ớn lạnh, thì chúng tôi mong chứng minh là cấu trúc toàn bộ của thơ Hàn Mạc Tử , phần nào, đã vang vọng lời truyền giảng của Phúc Âm.

Bài này chia làm nhiều phần :

– Nhận định tổng quát

– Gái Quê : thế giới đợi chờ

– Đau Thương : con người sáng tạo và mơ ước

– Xuân như ý : Thế giới khải huyền.

Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. ..Thôi mời cô cứ vào… ánh sáng lạ trong thơ tôi..[7]

Đối với Hàn Mạc Tử thơ và đời sống là một, bất khả phân, nhất là khi lâm trọng bệnh. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú (tr. 8). Tác phẩm của Hàn mang tên là Thơ Điên, sau đổi là Đau Thương vì nó là Đau Thương,  là “kinh nghiệm trước hết của một con người, một thực tại con người ngay trong thân phận[8].

Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Có lẽ ông là người Việt Nam Nam ca ngợi Thánh nữ Đồng trinh Maria và Chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia-tô rất chân thành. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới[9]. Hoài Thanh nới rộng đến tương quan giữa tôn giáo và dân tộc, “Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ đạo Thiên Chúa ở xứ này tạo ra cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể”. Nhận xét này của một kẻ “thiếu lòng tin, du khách bỡ ngỡ[10] là Hoài Thanh mang  ý nghĩa đặc biệt : trong Gia-tô giáo Việt Nam, niềm tin Thiên Chúa đã  nhập vào tín ngưỡng
thuần túy Việt Nam. Và thơ Hàn Mạc Tử minh chứng  điều đó : một đức tin Việt Nam ở Thiên Chúa, diễn đạt bằng  lời ăn tiếng nói Việt Nam, mà ngôn ngữ  thi ca là thành phần tinh túy. Đó là điều  chúng tôi muốn trình bày qua một bài báo ngắn

Duy chỉ khai triển thêm một ý của Hàn trong lời  tựa tập Đau Thương, viết năm 1938: Người đang say sưa đi trong Mơ ước, trong Huyền diệu, trong Sáng láng và vượt hẳn ra người Hư linh…(tr.7) trong đó người đọc gặp lại những chủ đề cương lĩnh của Kinh Thánh: một vũ trụ ngây thơ đổ vỡ vì nguyên tội; những khổ hạnh của thân xác như một kinh
nghiệm của Mơ Ước và Huyền Diệu, để vươn tới một thế giới khác, sáng láng ngoài
Hư linh, thế giới của Phục Sinh, của Khải Huyền. Ba giai đoạn đó là cơ cấu của nguồn thơ Hàn Mạc Tử.

Vũ trụ Gái Quê đã sụp đổ trong Đau Thương mà nhà thơ đã chịu đựng để đợi sống lại một mùa Xuân Như ý.

Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng; chung quanh người là mơn mớn với yêu đương…( Tựa Đau Thương)

Những dòng mở thi phẩm không khỏi làm ta nhớ đến thiên Sáng Thế Ký mở đầu Cựu Ước. Nhưng vườn, đây không nằm ở hướng đông như vườn Eden (“Gen II.8”), mà chỉ là một vườn mơ, bến mộng, niềm nhớ nhung đằng đẵng về một hạnh phúc nguyên thủy. Hạnh phúc của nguồn trong trẻo mà loài người phải từ giã ra đi, và bị cấm cản đường về (“Gen III, 24”). Nguồn ở đây là dòng sông trước khi chia làm bốn nhánh, tưới vườn Eden bằng tình yêu cao cả, vô biên và vô lượng, chưa bị giới hạn vì nguyên tội, khi con người chưa khó nhọc, chưa đổ mồ hôi, chưa biết chông gai và mùi cát bụi (“Gen III 17, 18 và 19”). Bài tựa 1938 của Hàn Mạc Tử đã mơ ước khôi phục lại mùa xuân trinh nguyên của ngày sáng thế, đầy thinh sắc, tinh hoa và châu báu, như nhũ hương và bích ngọc bên bờ nhánh sông thứ nhất (“Gen II, 12”). Thơ Hàn, cũng như lòng lê thứ, nói như Pascal, là niềm hoài vọng bất lực về một hạnh phúc sơ khai, một tráng lệ đã phôi pha

Còn đâu tráng lệ những thời xanh

Mùi vị thơm tho một ái tình

Đố kiếm cho ra trong lớp bụi

Ít nhiều hơi hướm của kiên trinh

Sau khi phạm trái cấm, loài người không mang nguyên tội ra khỏi địa đàng rồi dựng lại một bình an khác. Với tội kiêu căng, loài người phải chịu bao nhiêu hưng phế: từ Hồng Thủy cho đến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hủy tháp Babel, thành Sodome và Gomorrhe, bao nhiêu lớp bụi phế hưng đã lấp mất cánh đồng xanh lẫn “ ít nhiều hơi hám của kiên trinh

Hồn xưa tự ấy không về nữa

Ở cõi hư vô dấu đã chìm

Dân Do Thái, lưu linh còn hy vọng có ngày tìm về đất Hứa, còn con người đã vĩnh viễn đánh mất tất cả tráng lệ của thời xanh. Nhưng thơ Hàn Mạc Tử vẫn là mơ ước, một đón đợi, như Cựu Ước là sự chờ đón đấng Cứu Thế. Trong Gái Quê và những bài đầu Đau Thương, thơ là niềm mong đợi

Trước sân anh thơ thẩn

Đăm đăm trông nhạn về

Ngày xuân mong đợi đó còn thuần lương, là một mùa xuân ngoại đạo – một thứ printemps paien- hồn nhiên và vô tư lự, như tất cả những hội hè của mùa xuân Việt Nam.

Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý – Bóng xuân sang

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi

— Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

Cái hồn hậu đó, như Hoài Thanh đã nói “chỉ là một mùa xuân đầu năm[11], tôi nói thêm là một thế giới đợi chờ để nở lên một mùa xuân sáng thế “hồi trời đất mới dựng lên” hay mùa xuân tái tạo “ra đời một lần với chúa Jesus”.

Khác biệt đó không có gì mâu thuẫn và Hoài Thanh cũng không cần ngại người đồng đạo với nhà thơ sẽ khó dễ vì một hai dấu tích Phật giáo còn sót lại. Quách Tấn còn cực đoan hơn: “Tôi nhận thấy vang bóng của đạo Phật có phần đậm hơn Thiên Chúa[12]. Sự phân lượng e rằng khó cân đo chính xác nhưng vết tích Phật giáo và ngay cả Lão giáo, Khổng giáo
trong thơ Hàn Mạc Tử đậm đà, từ trong rung cảm đến ngôn ngữ. Điều đó không có gì là nghịch lý cả; hạt mầm Thiên Chúa giáo, khi nảy nở trên đất Việt Nam  thì tự nhiên  thích ứng với khí hậu, phong thổ. Gần đây, tình cờ tôi có đọc tác phẩm của linh mục người Pháp, Jacques Dournes nói về việc truyền giáo tại bộ lạc Jorai, Tây nguyên Trung Bộ. Sách có nhiều điểm tế nhị và sâu sắc, nhằm bảo vệ truyền thống một thị tộc: “Cơ quan hành chánh phát cho dân Jorai hạt giống bông vải gốc Phi châu, năng suất cao hơn giống địa phương; dân Jorai đã gieo hái, nhưng chỉ một lần thôi rồi không tiếp tục. Lý do là họ phải nhuộm chỉ trước khi dệt, và thuốc nhuộm làm bằng lá cây của họ không ăn vào chỉ  bông nhập cảng. Họ lại trở lại với giống bông cũ. Từ  đó tôi không quên bài học bông vải”[13]. Và khi viết bài này, tôi lại càng không dám quên  bài học quý hóa của một vị linh mục ngoại quốc, về sau đã có thêm nhiều đóng góp về hiểu biết các bộ tộc anh em ở Tây Nguyên.

Theo Quách Tấn, gia đình Hàn Mạc Tử (dường như) theo đạoThiên Chúa từ đời nội tổ Tử, tên Phạm Bồi, vì liên can quốc sự nên dời quê,  được một linh mục Pháp đỡ đầu, vào lập nghiệp tại Thừa Thiên. Thân sinh Hàn Mạc Tử là Nguyễn Văn Toản đổi sang họ Nguyễn ; học Đại Chủng viện Huế, đến chức Thầy Tư rồi bỏ ra đời[14] làm công chức ngạch thương chính. Ông sinh hạ được sáu người con và đặt tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Hiếu. Dài dòng như vậy là để trình bày không khí và giáo dục gia đình nhà thơ, thấm nhuần nho giáo, một mảnh đất mới đang hấp thụ đức tin Ki Tô giáo, đang dần dần thấm nhuần ơn trìu mến.

Tôi là trăng cổ độ

Lượng trời rộng bao la

Phải, lòng chàng là bến đợi. Trong những kích thước mông mênh; có thể là một trời thu man mác; có thể là hàng cau nắng mới lên; thường thường là một đêm trăng sao đắm đuối. Vâng, như đón từ xa. Như đợi từ xa:

Cho ta nhận thấy không đền đáp

Ơn trọng thiêng liêng xuống bởi trời.

Nhưng chàng đã đền đáp. Bằng tất cả. Đau thương: tiếng Thơ và cuộc Sống. Chàng đã đem  cuộc đời để trả lời ơn phước cả đang ngân vang trong màu nhiệm phủ ban đêm, một tiếng gọi của thượng tầng không khí. Từ lúc nhận điềm có tiên tri thì vũ trụ trong Gái Quê
nhũng bài Đau Thương đầu tiên nhuốm ý thức nguyên tội, người lương sẽ gọi là mặc cảm tội lỗi. Những bài đó gợi cảm giác có  tội trước khi phạm lỗi. Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh  đồng ý rằng tập Gái Quê thiên về dục tính; có lẽ ta cần minh định thêm về khuynh hướng ấy. Một người chỉ xin hoa đền ngựlòng ni cô thì dục tính… đi tới đâu? Tôi xin giải
thích thêm về điểm này:

Mới lớn lên trăng đã thẹn thò

Thơm như tình ái của ni cô

Tại sao trăng lại phải thẹn thò? Thẹn thò là cảm giác của Adam và Eva khi lấy lá che thân lánh mặt Đức Chúa Trời (“Gen III, 7-8”) sau khi ăn trái cấm. Họ thẹn thò vì phạm lỗi. Còn Trăng việc gì mà phải thẹn thò nhất là khi mới lớn lên? Sự thẹn thò của thân thể, con người đã thừa kế của Adam, cho nên ta mới  có thể nói : không khí rạo rực trong Gái Quê là di sản của nguyên tội. Những câu thơ mà Vũ Ngọc Phan cho là “ gợi tình, thiên về xác thịt[15] là một dục vọng, nhưng đồng thời cũng là một cấm đoán, một lãnh cảm:

Da thịt trời ơi trắng rợn mình.

Hàn Mạc Tử nhắc đến tình ái của ni cô, hay da thịt của nàng dâu để gợi lên cái vô tội của con người trong một thế giới đã hư hỏng vì nguyên tội, mà mình phải gánh chịu. Ngay trong giáo lý, dục tính, tự nó, không phải là tội lỗi: “Đó là một căn bệnh, chứ không phải tội lỗi. Tuy nhiên căn bệnh đó là hình phạt của tội lỗi[16] tác giả muốn nói đó là nguyên tội; và “ dục tính, bản năng sinh lý như ta thường thấy là tiếng gào phản kháng của một hình hài bị thương tổn”[17]

Nhà thơ dự phóng những rạo rực của bản năng ra ngoài vũ trụ; cái nhìn của chàng vuốt ve, mơn trớn với yêu thương, tất cả tạo vât. Từ ánh trăng, đến cành liễu, mặt hồ, cơn gió, cho đến bài thơ của người yêu, tất cả đều  nồng nàn da thịt, tất cả đều tương giao trong nguồn ái ân ràng rịt trăm giây quyến luyến:

Trăng nằm sóng soải trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi

Cây lá ngây tình không muốn động

Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi

Dục tính trong đoạn thơ nằm trước hết trong cách chọn chữ gợi tình, khi đi đôi  với nhau như trăng và gió, trong thành ngữ phong nguyệt hay gió giăng. Hoặc trăng và hoa, hoặc liễu và hoa; trong những hình ảnh nguyệt hoa hay ghẹo nguyệt trêu hoa, hay liễu ngõ hoa tường. Hay hình ảnh “ nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng” trong thơ xưa.

Đoạn thơ lại khêu gợi bằng những hình ảnh táo bạo đến suồng sã như nằm sóng soải, lả lơi, ngây tình; cuối cùng cơn mê đắm còn biểu lộ trong những ý tưởng lộ liễu. Tất cả những chữ,  hình ảnh,  ẩn dụ, những ý tưởng đó giao thoa thành một không khí lả lơi, vừa
cợt nhả vừa tinh tế, tuy có suồng sã nhưng không phải là không khéo léo. Thơ  gợi dục tính của Hàn Mạc Tử, cùng với thơ Bích Khê, bạn thân của Hàn, dường như là môn đệ, có lẽ táo bạo bậc nhất trong thi ca mới; cái tài tình của Hàn, khác với Bích Khê, là táo bạo đến đâu vẫn còn nét ý nhị.

Một cử chỉ, câu nói sống sượng khi tự nó, nó nói hết những điều muốn nói, và đôi khi còn nói luôn những điều không nói. Ở Hàn Mạc Tử – ít ra ở những bài còn lưu truyền đến ngày nay – dù hở hang đến đâu, vẫn còn úp mở của một ngôn ngữ ý nhị và tình tứ. Chúng ta không còn những bài thơ như Hát Giã Gạo trong tập Gái Quê đã làm cho Vũ Ngọc Phan “ lợm giọng”, nhưng dù muốn hay không, ta phải công nhận nhà thơ có một quan niệm luyến ái thánh thiện, lành mạnh đến bệnh hoạn:

Cho nên tôi tưởng tối tân hôn

Chưa tới, còn xa để được buồn

Để sống trong niềm thương nhớ đã

Để còn mường tượng đến giai nhân

Đọc Hàn Mạc Tử ta có cảm giác một sự giằng co giữa con người phóng túng và con người khắc khổ? Cái giọng tình của Hàn, dù có cợt nhã, cũng chỉ tả một thứ tình hàm thụ, lối ái ân không tưởng, trong môi giới giữa nhân sinh và tạo vật. Nói gọn hơn, nó không thể thỏa mãn, trong một thế giới không tự mãn.

Vì vẫn còn là một thế giới đợi chờ Điềm Lạ, trong lòng vũ trụ còn say chìm nơi bất giác, nhưng đã được các tiên tri chuẩn bị để đóng mừng Ngôi Hai.

Hàn Mạc Tử mô tả thế giới đợi chờ, trước hết bằng di sản hồn nhiên của một nền văn hóa ngoại đạo nhưng niềm nở và hướng thượng, thứ đến bằng đức tin nuôi dưỡng trong Phúc Âm; hai phụ lưu sung mãn đó đã đổ vào hồn thơ Hàn Mạc Tử, như một dòng sông vừa nhận được cơn nước nguồn thác lũ bỗng phải vượt qua một địa thế hiểm nghèo: chứng phong nan y đã biến hồn thơ hồn hậu  thành một cuồng lưu khốc liệt, nếu không phải là một vùng nước
xoáy.

Đau thương. Tên một tập thơ, và tên một định mệnh. Hay tiếng gầm rú của một cuồng lưu lâm vào tuyệt địa. Chúng ta nói qua sự đau thương trong cuộc đời. Rồi trong thơ.

Hàn Mạc Tử nhuốm bệnh từ năm 1936. Hăm bốn tuổi, tuổi anh hoa đang phát tiết “Khi biết mình đang mang bệnh hiểm nghèo, Tử hết sức đau đớn, đau đớn đến phát điên. Thường ngày trong cơn thác loạn nổi dậy, khi nhiều khi ít. Nhưng ngày rồi ngày, nỗi đau khổ hết phát hiện ra ngoài một cách bồng bột, thì lại ăn sâu vào tâm hồn ngấm ngầm nung nấu nạn nhân, nung nấu đến tột độ”[18]. Hàn Mạc Tử nhiều lần mô tả những đau đớn
của thân xác:

Thịt da tôi sượng sần và tê điếng.

Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Bên cạnh những hành hạ của bệnh trạng, Hàn Mạc Tử còn phải đương đầu với hai hậu quả khác của hoàn cảnh: nghèo túng và tuyệt vọng vì tình. “Hiện Trí về tạm ở nhà. Cái nguyên nhân là không tiền uống thuốc. Bữa nay Trí xuống nhà bà thầy thuốc rồi. Có một mái nắng rọi nhiều quá. Cả chiều nếu ở trong nhà thì phải đội mũ[19] . Chúng ta còn có
nhiều tài liệu khác về nỗi cùng khốn của nhà thơ qua những bức thư gửi Trần Thanh Địch, do Trần thanh Mại trích dẫn.

Về cuộc tình duyên đau khổ với Mộng Cầm, chúng ta cũng có nhiều tài liệu. Đại khái hai bên yêu nhau khăng khít, thề bồi dữ dội lắm, hẹn hò nhau từ Phan Thiết ra đến Qui Nhơn; khi Hàn Mặc Tử chịu tang cho anh, thì Mộng Cầm tự xin phép được “ thành tâm cư tang cho ông anh một năm cũng như anh, nghe anh” vì “ người cầm bút biên mấy hàng trên đây là người em dâu chắc chắn, nhất định của anh rồi. Vậy ông anh nên phù hộ cho chúng em thương nhau cho đến bạc đầu[20]. Khi biết chàng lâm trọng bệnh, thì nàng “thề” bồi lại một lần nữa đậm đà hơn”, để rồi sáu tháng sau nàng đi lấy chồng. Trần Thanh Mại cho rằng nàng không đáng trách, “duy có cái nàng lấy chồng hơi gấp đấy thôi[21]. Quách Tấn cũng cho biết là thái độ của Mộng Cầm đã gây ra cho nhà thơ “ một nỗi buồn thương vô hạn”, “một phản ứng mãnh liệt”, những tiếng kêu rên thống thiết”[22].

Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm,

Nhớ thương còn một nắm xương thôi,

Thân tàn ma dại đi rồi,

Rầu rầu nước mắt, bời bời  ruột gan.

( Mộng Cầm tên thật là Huỳnh Thị Nghệ)

Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?

Gió trăng có sẵn làm sao ăn?

Làm sao giết được người trong mộng

Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?


Trần Thanh
Mại, tr 95

Tiếng kêu trầm thống đó chất chứa cả kiếp cùng khốn vật chất lẫn tinh thần, cho đến ngày bị bệnh tàn phá đến thảm thê, theo như một người bạn, cùng bị hủi, kể lại “hai mắt nằm lọt vào sâu hai lỗ hũm sâu hóm, đến không còn mở ra được. Thân hình chỉ còn da bọc lấy xương, chân tay thì co rúm lại, mà đầu tóc thì bù xù rối trết lại từng về, trong ấy nhô nhúc những chí là chí” (thư của ông Nguyễn Văn Xê, để lại Qui Hòa ngày 25-6-1941)[23].
Chúng ta tưởng không có gì thê thảm hơn tình trạng băng hoại đó. Ấy thế mà Hàn Mạc Tử can đảm chịu đựng nữa là đằng khác: “tuy hơi cực khổ thế mà tôi vẫn an vui, ngày nào cũng có cười cả. Nếu không cười với ai, thì cười một mình, xem ra thú vị không biết mấy[24]. Một tự tình chua xót.

Niềm an vui kia, Trần Thanh Mại, người biết cuộc đời thật của nhà thơ cho là “yêu quái” là “kinh dị”. Còn Vũ Ngọc Phan chỉ biết Hàn Mặc Tử qua một số thi phẩm cũng không khỏi ngạc nhiên: “một người mang bệnh rất đau đớn mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật cũng lạ”[25]. An vui của Hàn Mặc Tử không phải là cay đắng, gượng gạo, có khi nổ tung ra trong những câu thơ hơn hớn:

Hôm nay vui quá anh Phùng ơi

Buồn xa không đến lệ không rơi

Buồn không thắt ruột, tình không lại

Cười nói làm sao cho hả hơi?

(Trần Thanh Mại trích, tr 122)

Biết đâu là Đau thương giam cầm không kỹ, thoát lọt ra trong một biến trạng dị kỳ

Họ Trần cho là “quái gở, thật đáng rùng mình ”. Sở dĩ ông không hiểu can đảm của bệnh nhân, có thể là ông không hiểu được sức mạnh của đức tin trong con người Hàn Mạc Tử. Khi đề cập đến vấn đề này, Hoài Thanh, cũng là người ngoại đạo, nhưng tinh tường hơn Trần Thanh Mại, thừa nhận ngay “Thiếu lòng tin tôi chỉ là du khách bỡ ngỡ[26] còn họ
Trần thì cứ phán đoán ầm ĩ cả lên. Nhưng nhờ có ông mà chúng ta có được một dữ
kiện về đời sống tín ngưỡng của nhà thơ: “ Trong khi sưu tầm tài liệu của nhà thi sĩ, tôi tìm thấy trong một nhà trọ của chàng, một mẩu báo dán trên khung cửa sổ tre, đã nhàu nát vàng vọt, và nhìn lối in chữ và hình ảnh tôi biết ngay là báo Vì Chúa. Đoạn bài đăng trên mẩu báo ấy nói về nguồn an ủi trong bệnh tật cho rằng sự đau ốm là do đức Chúa Trời ban xuống cho ta, để thử lòng ta, nên chẳng  những là ta phải chịu một cách nhẫn nhịn mà còn nên vui vẻ bằng lòng nữa[27].

Căn cứ trên đoạn này tôi cho rằng tác giả không mấy thông thạo giáo lý Gia- tô giáo. Nếu bài báo ấy có thật – Vì họ Trần mãi cho đến ngày nay ở Hà Nội vẫn có cái cố tật là ưa bịa đặt tài liệu.[28] – thì chúng ta tiếc rằng họ Trần không trích dẫn chính xác, cho biết rõ xuất
xứ, tìm xem báo Vì Chúa số mấy, ngày mấy, hoặc ít nhất cũng cho ta nguyên văn.
Vì theo kiến thức thô thiển của tôi, thì không có kinh sách nào dạy rằng “đau ốm là do Chúa Trời ban ” và chúng ta phải “vui vẻ bằng lòng”.

Nhưng vấn đề ở đây không phải cãi nhau về giáo lý, vừa ngoài phạm vi bài viết và thẩm quyền của tôi. Điều quan trọng là, Trần Thanh Mại đã nói, đức tin “ đã ảnh hưởng tốt đẹp đối với chàng”. Quách Tấn xác nhận điều này: “Tử tìm được nguồn an ủi lớn nhất trong nguồn Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị ray rứt dày vò[29].

Chính nhà thơ đã kể lại một ngày bệnh tật của mình: “ Lại đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ, lại nhớ, lại nằm. Buổi tối ăn xong, cũng vừa đi bách bộ vừa ngâm thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày chỉ ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả. Ngày nào cũng như ngày ấy, không thấy buồn lắm, và ngày nào cũng mong mỏi một cái gì”[30].

Đối với Hàn Mặc Tử, Thơ là Đạo và Đạo là Thơ, Thơ đã đạt tới Đạo và Đạo để đi tới Thơ, hoặc như Hoài Thanh đã nhận xét chí lí “Thơ chẳng những ca tụng Thượng Đế mà cũng để nối liền người ta với Thượng Đế[31].( Sau này có chuyên gia thần học đã lưu ý : danh
xưng Thượng Đế không phù hợp với giáo lý Ki Tô giáo, mà là danh xưng thường gặp
trong Lão giáo, mặc dù Hàn có câu “ giàu sang hơn Thượng Đế.”)

Thơ đưa về Đạo, là nẻo đường đưa đến Con Đường. Thơ là giải pháp tạm thời của Đau Thương, trong khi chờ đợi Đạo và Cứu Rỗi miên viễn. Ngày nào cũng mong mỏi một cái gì. Nếu Gái Quê, như tôi đã trình bày ở đoạn trên, là thế giới đợi chờ Điềm Lạ, đợi chờ Chúa Ra đời thì Đau Thương là một tâm hồn mong mỏi Ngày Chúa trở lại (“Mt” 24-22) Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật không phải là vì “do đức Chúa ban xuống” như Trần Thanh Mại đã nói;
nhưng trước hết vì nó là hậu quả  của nguyên tội và thứ đến vì nó là phương tiện thân xác mà Chúa đã dùng để cứu thế. Linh mục Charles Journet, giáo sư Đại Chủng Viện Fribourg đã trình bày vấn đề một cách mạch lạc và nhất quán trong tác phẩm về thống khổ: “Chúng ta xem khổ ải của thân xác như một mãnh lực hợp – cứu- thế vì chúng ta dự vào đau đớn của Chúa Ki tô và trong sự tham dự của chúng ta. Như vậy không nên nói đến chấp nhận Đau Thương  mà chỉ nên nói đến gia nhập vào công đức cứu rỗi; chúng ta không chấp nhận (accepter) vì nó là một định luật của thể xác; chúng ta thu nhận (adopter) vì nó nối liền bản thân Thiên – Chúa – hiện – làm –người.”[32]

Đoạn trên rọi sáng lời truyền dạy của sứ đồ Saint Paul trong thư gởi cho người La-Mã: “Những khổ hiện tại không có nghĩa lý gì so với những vinh hiển phải được thể hiện trong mỗi chúng ta. Mỗi hình hài chờ đợi là một khát vọng sự thể hiện con cái đức Chúa Trời, với Mơ Ước được giải thoát ra khỏi hư nát, và đạt tới tự do vinh hiển của con cái đức Chúa
Trời. Vì chúng ta biết rằng hình hài, đến nay vẫn rên xiết trong công trình thai nghén
” (“Rom”, VIII, 18-32). Đau Thương hôm nay là thai nghén cho ngày mai, thai nghén một mùa Xuân như ý, Người Ki Tô giáo quan niệm đau thương như một huyền nhiệm, nhưng hữu hạn, trước Chúa Trời là một huyền nhiệm, vô hạn.

Tôi thành thật nghĩ rằng Hàn Mạc Tử đã bình an được trong Đau Thương – một hoàn cảnh thể xác, vật chất và tinh thần làm chúng ta rùng mình – là nhờ huyền nhiệm đó, nhờ sức mạnh của xác tín. Có lẽ xác tín đó, cộng với bệnh trạng, đã tạo một linh thị cho nhà thơ. Trần Thanh Mại và Quách Tấn đồng ý “ là mỗi lần chàng chết đi sống lại (trong mấy năm
bệnh chàng  bị
chết đi sống lại bốn đến bốn năm lần) và chàng đều cảm thấy có bà Thánh Nữ Đồng Trinh Maria đến cứu[33]. Theo Quách Tấn thì bài thơ trứ danh “ Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh” được viết khi Tử sống lại, trong cảnh đó[34].

Dù cho rằng mộng mị chỉ là một biến thể của bệnh trạng, thì dưới ánh sáng của khoa phân tâm, ta có thể đi đến cội rễ của mộng mị, dù xa lạ đến đâu. Cội rễ ở đây, là xác tín trong tâm hồn Hàn Mạc Tử, người đã cam chịu hư nát để chuẩn bị cho một vinh hiển. Thật ra, niềm tin vào cuộc sinh tồn mai hậu, của linh hồn, ở một thế giới khác, không phải đặc biệt của Thiên Chúa giáo. Trong hầu hết các tín ngưỡng tự nhiên của dân gian, nước nào cũng vậy, đều có mầm hy vọng của một đời sống khác. Chỉ nói đến vòng đai tôn giáo chung quanh địa lý Thiên Chúa giáo, chúng ta có thể kể đến tư tưởng Assyrien, Babylonien, và nhất là Ai – Cập, đều có niềm tin đó, như muốn:ra không gian và vượt hẳn thượng tầng. Đức tin của Hàn Mạc Tử không phải ở chỗ mong hồn tới tấp ở ngoài kia vũ trụ, mà ở chỗ tìm gặp Một Người ở cõi quá thinh gian; Hàn Mạc Tử  tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực,
không phải vì chiêm bao đẹp hơn sự thực và “ứ đầy khoái lạc”. Mà chỉ
:

Vì có đấng hằng Sống, hằng Ngự Trị

Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh

Bài “Ngoài vũ trụ”, mà tôi đã trích các câu trên, tiếp theo hai bài “Hồn lìa khỏi xác” và “Siêu thoát” soi sáng ý nghĩa của những bài Đau Thương và báo hiệu cho Quần Tiên
Hội, Cẩm Châu
Duyên và Xuân Như ý.

Vậy ta có thể đề cập đến một kiến trúc trong thi phẩm của Hàn Mặc Tử không? Chúng ta biết rằng sự sắp xếp thứ lớp trong  tuyển tập Thơ Hàn Mạc Tử, 1942 hay 1959, không phải do thi sĩ, mà những người phụ trách tái bản thơ ông, tức là Quách Tấn hay Hoàng Trọng
Miên gì đó. Do đó,  không ai dám dựa trên trật tự cụ thể của tập thơ để nói đến kiến trúc, như Marcel Ruff đã nói về “ kiến trúc bí mật, architecture secrète” khi trình bày nhất quán thi phẩm  Hoa tội lỗi, Les Fleurs du Mal của Baudelaire. Tôi vẫn theo lối sắp xếp trong ấn bản Tân Việt, 1959, vì nói chung nó phản ánh thứ tự biên niên trong quá trình sáng tác; tôi nghĩ  không ai bác bỏ thuyết cho rằng Gái Quê sáng tác trước Đau Thương, Xuân Như Ý; và Cẩm Châu Duyên, Duyên Kỳ Ngộ sáng tác sau cùng, thời kỳ nhà thơ biết Thương Thương. Nhưng dù sao chúng tôi cũng dè dặt mong các nhà biên khảo sau này có nhiều sử liệu chính xác hơn tôi, sẽ đào sâu cơ cấu mạch lạc của vũ trụ Hàn Mạc Tử, trên bình diện này hay bình diện khác, hoặc trong nguồn sáng tạo toàn diện thì càng nghiêm túc.

Khi đề cập đến kinh nghiệm đau thương của Hàn Mặc Tử tôi tiếc chưa được đọc bài của Võ Long Tê, một chuyên gia về văn chương Thiên Chúa giáo, về vấn đề này; nghe nói bài sắp sửa đăng báo, tôi đợi hoài chưa thấy. Tôi cần nói thêm: không riêng gì Phúc Âm, những tín
ngưỡng khác của người Á Đông cũng tìm một giải đáp cho đau thương; Phật giáo thì cho đó là những đợt sóng triền miên của Mê hà hay Khổ hải; Lão giáo thì cho đó là định luật của Vô Tri. Cái can trường của nhà thơ là do đức tin vững chắc của Đấng Cứu Thế, và đức tin đó đã được bồi dưỡng trong cái Dũng của triết lý Đông phương lẫn cái kiên trì trong lòng dân tộc. Nói đến xác tín của Hàn Mạc Tử không phải là tôi không biết (hay tệ hơn nữa, tôi không nhớ) đến những giá trị bằng hữu kia. Khi suy nghĩ về khổ lụy của nhân sinh, tôi đọc lại kinh thánh Coran của Hồi giáo thì có cảm giác, hời hợt thôi, như là họ không chấp nhận khổ
đau như người Ki-Tô giáo hay người Á Đông, vì họ cho là do sự hành hạ của Chúa Trời. Vậy trong Hàn Mạc Tử có sự giao hòa giữa  đức tin tôn giáo sung mãn và một tâm hồn dân tộc niềm nở, tạo ra  nguồn thơ hết sức sâu xa.

Trong tinh thần Phúc Âm,  có thể Hàn Mạc Tử đã sống trọn vẹn Đau Thương của hiện thế, trước hết vì đó là phương tiện Chúa dùng để Cứu Thế, thứ đến để chuẩn bị cho vinh hiển mai sau, như lời giảng trên núi, sửa soạn cho Ngày sống lại với Đấng Hằng Sống, hằng Ngự
Trị. Nhưng trên bình diện sáng tạo, quan niệm Đau Thương đó đã thể hiện ra sao? Tôi tiếc là không được đọc bài báo của Lê Tuyên về những chủ đề trong thơ Hàn Mạc Tử, đăng trên tạp chí Đại học Sư phạm cách đây bảy tám năm gì đó. Nay tôi đề cập vài hình tượng quen thuộc trong thơ Hàn Mạc Tử như Trăng, Máu, và Hồn.

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!

Đó là điệp khúc độc điệu của một ngư phủ, theo lời kể của Quách Tấn. Đó cũng là khúc nhạc lòng của nhà thơ. Trăng là một thứ ánh sáng vừa nội tâm, vừa của ngoại giới; ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới tương quan giữa những hình ảnh thi ca và đức tin.

Ảnh hưởng của đêm trăng đối với bệnh phong đã được ông Trần Thanh Mại triển khai đầy đủ. Còn nét quyến rũ muôn đời của ánh trăng đối với thi nhân thì viết bao nhiêu pho sách cũng còn điều chưa nói. Nhưng không thể nói thơ Hàn Mạc Tư mà không đề cập tới trăng, vì theo Trần Thanh Mại thì hai phần ba của tập Đau Thương nói về trăng, nửa phần còn
lại nói về hồn[36].

Trăng, trước hết là ánh sáng tràn ngập cả vũ trụ Hàn Mạc Tử

Gió ùa ánh sáng vô trong bãi

Trăng ngậm đầy sông chảy láng lai

Trăng là thứ ánh sáng êm dịu, mầu nhiệm phủ ban đêm, tương phản với ánh sáng chói chang bỏng rát của mặt trời nhiệt đới. Trăng tạo thi vị cho bóng tối tại  những vùng nông nghiệp có sinh hoạt về đêm, và như Xuân Diệu kể, thì có “trăng của tình duyên, trăng của xa xôi, trăng của ảo huyền” và  của “những đền đài mỏng thoáng”. Văn học của chúng ta từ xưa đến nay, vẫn le lói những ánh trăng bất tận. Tôi không dài dòng về địa hạt rộng rinh không bến này, chỉ muốn đề cập đến khía cạnh tượng trưng của ánh trăng trong giáo lý.

Trăng trước hết là ánh sáng, một chủ đề rọi suốt mặc khải Kinh Thánh, từ ngày thứ nhất của sáng thế, khi đức Chúa Trời phân định ánh sáng và bóng tối, (“Gen” I, 3-4), cho đến chương cuối cùng của “Khải Huyền”, khi con người, trong trời đất mới, hưởng được một ánh sáng miên viễn (“Ap.” XXII,5). Như vậy thế giới di chuyển từ một vùng ánh sáng tương đối,
ánh sáng vật chất đối với bóng tối ban đêm, đến một ánh sáng tuyệt đối, ánh sáng vĩnh cửu ngay trong chân thân Thiên Chúa, vì “Ngài là Sự Sống mà Sự Sống là Ánh Sáng” (“Jean” I, 4). Và quá trình từ tương đối nọ đến tuyệt đối
kia là sự phấn đấu không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối, tựa hồ như một cuộc
phấn đấu giữa nguồn sống và cõi chết. Ở Hàn Mạc Tử, ánh trăng là một thứ Ánh
Sáng đang tương tranh cùng Bóng Tối, trong một tư thế bi thảm, khác với mặt
trời là chiến thắng – dù là tạm thời – của Ánh Sáng

Ánh trăng mỏng quá không che nổi

Những vẻ xanh xao của mặt hồ

Những nét buồn buồn tơ liễu rủ

Những lời năn nỉ của hư vô

Mâu thuẫn tâm cảm của nhà thơ  là vừa yêu bóng đêm – vũ trụ Hàn Mạc Tử là một vũ trụ về đêm – vừa yêu ánh sáng, và vươn tới một nguồn chói lọi

Ta ước ao đội mũ triền thiên

Và tắm gội trong nguồn ánh sáng

Sự thật mâu thuẫn đó nằm trong những hình ảnh đa nghĩa của Kinh Thánh, vì bóng tối cũng là một sáng tạo của đức Chúa Trời. (“Gen” I, 1-2) Từ điển Giáo lý Kinh Thánh khai triển điểm tế nhị này như sau: “Bóng tối tượng trưng cho một kinh nghiệm kép: hoặc nó xác nhận không có ánh sáng, hoặc bao hàm sự hiện hữu của ánh sáng. Con người muốn có ánh sáng tràn đầy nhưng tìm đến bóng tối; Chúa là ánh sáng, là lửa bỏng, mà cũng là
bóng mát; Kinh Thánh lý theo sự đa nghĩa đó
[37].

Chúng tôi muốn đề nghị một ý nghĩa mới của ánh trăng. Ở Hàn Mac Tử trăng là sự tương tranh đồng thời tương ứng giữa ánh sáng và bóng tối, vừa tương khắc vừa tương sinh. Trăng là Bóng Tối hết là Bóng Tối và Ánh  Sáng chưa đủ là Ánh Sáng. Trong biện chứng Sáng – Tối đó, tâm hồn Hàn Mạc Tử vẫn được xác định bằng Ánh Sáng, tức là “con người của Ánh Sáng” khác với con của bóng tối hay “ con của Hiện Thế” (“Luc”, XVI, 8). Vậy nhà thơ là Ánh Trăng, vì chàng là con của Ánh Sáng

Không gian đầy đặc toàn trăng cả

Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng

Vì, bên dưới bình diện siêu hình, về mặt đạo đức, vẫn phải có sự phân biệt giữa bóng tối và ánh sáng (“II Co XI”,14)

Và tình ta sáng láng như trăng thanh

Thỉnh thoảng người đọc gặp một vài hình ảnh của Kinh Thánh để tả trăng, như

Người trăng ăn vận toàn trăng cả

Gò má riêng thôi lại đỏ hường

(Trần Thanh Mại trích)

Vì liên tưởng ngay đến một câu của “ Thi Thiên” (104, 2) Chúa bao phủ mình bằng “ánh sáng như cái áo ”. Nhưng có lẽ chỉ tình cờ.

Trăng trong Hàn Mặc Tử không những là một thứ ánh sáng ảo huyền, thường rạng rỡ. Nó có hình có trạng, như một vật cụ thể khả xúc. Có khi một món hàng – ai mua trăng ta bán trăng cho – có khi là châu báu, là hơi nước chảy, hay là một người đàn bà, mà tôi mường tượng phải đẹp lắm trong nhan sắc làm bằng Ánh Sáng và Im Lặng

Tôi lần cho Trăng một tràng chuỗi

Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời

(Trần Thanh Mại trích)

Và nói chung, trăng là hồn, là máu cuả bóng đêm: tôi có nói đến ba chủ đề, kỳ thật chỉ là ba tiết diện của một thế giới:

Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa

Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

(Trần Thanh Mại trích)

Hình ảnh máu hoặc nhỏ từng giọt, hoặc ọc từng búng, hoặc đọng thành vũng, hoặc chảy thành sông, có lẽ là dấu hiệu của bệnh lý. Ý nghĩa của máu là cuộc sống, vì máu mang đến sinh lực đến cho mỗi tế bào, mà đồng thời cũng là cõi chết, khi đã khô, đã đọng thành
vũng máu đào trong ác lặn
. Về hình ảnh máu vẫn thường gặp trong thơ Baudelaire, Jean-Piere Richard viết: “Sự xuất huyết thiêng liêng ở chỗ hội tụ cuộc sống hiển nhiên và cái chết tàn nhẫn[38]. Máu là cuộc sống đang chết, hay là cái chết tiềm ẩn trong cuộc sống. Máu là hồn của thể xác mà cũng là xác của linh hồn.

Nói khác đi, máu là thơ:

Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút

Mỗi lời thơ đều dính não cân ta

Bao nét chữ quay cuồng trong máu vọt

Cho mê man chết điếng cả làn da

Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết

Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh

Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết

Cả lòng ai trong mớ chữ rung rinh

(Trần Thanh Mại trích)

Máu, cũng như thế, vừa là hành hạ, vừa là  giải thoát. Chúng ta vẫn thường gặp
hình ảnh máu trong Kinh Thánh: máu là nguyên lý sự sống, nhưng khác với
linh hồn ở chỗ máu là thành phần hư nát của cơ thể, còn linh hồn vẫn tồn tại
đợi ngày Phục Sinh[39]. Từ máu Cứu Thế trên Thánh Giá đến máu chiên con, hình ảnh của đau đớn, của hư nát lại là hình ảnh của Hy Vọng; máu của chúng sinh tuy không vào được nước đức Chúa Trời (I, XV, 50) vẫn là một môi giới, một phương tiện, một ánh sáng, một thẩm mĩ:

Và ai gánh máu đi trên tuyết

Mảnh áo da cừu ngắm nở nang

Trong bài “Biển hồn ta” bắt đầu bằng câu Máu tim ta tuôn ra làm biển cả…, người đọc có cảm giác như máu và hồn là một, hay máu  là hồn của xác thịt còn thể phách là hồn của toàn cơ thể, vì chính nhà thơ cũng phân biệt hồn ngoàihồn trong:

Hồn hãy thoái ly ra ngoài tâm tưởng

Là hồn đừng nghĩ ngợi đến hồn trong

Cứ để mặc hồn ngoài bay lưởng vưởng

Ngao du cùng khắp cõi trí mênh mông

…Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã

Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa

Đã là hồn rồi mà còn có tử thi nữa sao? Lại còn ngắm được tử thi của mình nữa sao? ở đây, ngoài sự phân biệt “hồn” và xác cố hữu trong tiềm thức người Việt Nam, ta còn phải ghi nhận thêm ảnh hưởng phong thổ vùng từ Qui Nhơn đến Phan Thiết nơi Hàn Mặc Tử sống, vùng đất của người Chàm. Nhà thơ thế nào cũng nghe chuyện ma Hời đêm đêm lìa khỏi xác đi chơi hay ăn đêm, và đã nhớ đến những chuyện đó trong cơn mê sảng bệnh hoạn. Nhưng trong Thánh Kinh, nhất là Cựu Ước, chúng ta còn bắt gặp dấu tích sự phân biệt đó, bắt
nguồn tư tưởng Do Thái giáo, Thân thể, tiếng hebreu (Do Thái) gọi là basar, dịch ra la-tinh là caro, thành tiếng Pháp là chair, xác thịt. Xác thịt, nếu không có sinh khí, chỉ là một “tử thi”. Hơi thở của Jahweh đã hà sinh khí vào xác thịt, nhưng chỉ tạo nên một quân bình mong manh: “thần khí của ta sẽ không lưu lại mãi trong loài người, vì loài người chỉ là thân xác” (“Gen VI”, 3); vậy trong tư tưởng Do Thái giáo, chẳng những hồn và xác khác biệt nhau, mà hồn là thần khí mà  Chúa Trời ký thác vào thân xác con người đó thôi, chứ không hẳn của con người. Do đó, khi chết, Chúa Jésus đã nói “Thưa Cha, trong tay Cha con trả lại linh hồn”, (“Luc XXIII”, 46) và Huy Cận đã nhắc lại trong câu “Lạy Thượng Đế tôi cúi đầu trả lại, Linh hồn tôi…” Linh hồn đó, là cái thần khí của Jahweh nay trở về với Jahweh, chứ không phải là cái hồn lìa khỏi xác của Hàn Mạc Tử. Hồn này lại là một
chuyện khác, một biểu hiện của sự sống; hồn này có thể chết, có thể hư nát như thịt xương (“Ps”, 78, 50) lang thang xuống âm ty sống đời khổ ải, cho đến ngày Chúa trời cho lịnh hồi sinh những đống xương tản mác[40]. Trong những lời truyền dạy của Thánh Tự, Hàn Mạc Tử đã nhớ những chi tiết phù hợp với tâm hồn hay bệnh trạng mình nhất, nghĩa là sự phân biệt giữa hồn và xác, trong khi giáo lý Thiên Chúa về vấn đề này, phức tạp hơn nhiều.

Vì nhà thơ, trong cơn hành hạ của bệnh lý dĩ nhiên là tìm cách giải thoát, dù chỉ bằng mê sảng

Thịt da tôi sượng sần và tê điếng

Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm

Cho trăng ngập dần lên tới ngực (tr. 53)

Ở đây, ta bắt gặp hình tượng Trăng, Hồn và Máu dồn dập lại trong tương quan chặt chẽ: mà thơ khạc hồn ra khỏi miệng, hay điên cuồng mửa máu ra, hay ngậm cả miệng ta trăng là trăng, cả ba hình ảnh đều oà vỡ từ thân xác, và từ thân xác Đau Thương.

Hàn Mạc Tử đã dùng thơ để sống trọn vẹn tín lý của mình. Chàng đã thấy hồn mình trong máu vọt, và hồn mình chính là máu đang tuôn trào lênh láng; chàng đã ghi lại những cảm giác rùng rợn đó, bằng những hình ảnh ta đã gặp trong Cựu Ước: hồn trong máu (“Lv XVII”,  10) hồn là máu (“Lv XVII”, 14), một thứ máu luôn luôn vươn đến ánh sáng, như hình ảnh đức Chúa Trời chói chan trong tấm áo dệt bằng ánh sáng trong “Thi Thiên” (104, 2) và đẫm máu chiên con trong “Khải Huyền” (XIX, 13). Máu chiên con trở thành ánh Sáng, và chiên con là ngọn đèn bất diệt của Jérusalem mới. Do đó, tôi nói Hồn, Máu và
Trăng chỉ là ba màu sắc chiết quang của một ánh Sáng Duy Nhất. Người đi trong Mơ Ước. Trong mơ ước, Hàn Mặc Tử đã gọi Ánh Sáng Khải Huyền đó là Xuân Như ý.

Cho mau lên! dồn ánh nguyệt vào đây…

Đưa ra, nào là nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm…

Vẫn là chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao!…

Phải mời cho được Xuân Thiên ra đời (tr. 65)

Như vậy Xuân Thiên ở đây phải là một mùa xuân khác. Không còn là mùa xuân phảng phất ngày xưa trong làn nắng ửng khói mơ tan. Tuy là trời hạo nhiên trong thế giới đợi chờ của Gái Quê: màu nhiệm của đấng Vô thỉ Vô chung, nhưng là một thế giới hư nát, sẽ vỡ lở,
sẽ chấm dứt. Vì công trình châu báu của  Thiên Chúa, sau khi con người tự dấn thân vào tội lỗi, cũng đồng thời là  sự phẫn nộ của Thiên Chúa; mặt đất, nguyên là Quê Hương của loài người đã trở thành cõi Lưu Đày, không còn là vườn Địa Đàng long lanh nhũ hương và bích ngọc, cũng không phải là Đất Hứa óng ánh sữa thơm và mật ngọt; trên mặt đất, lúa tốt còn mọc lẫn với cỏ hoang, trái lành ửng chín trong gai bụi, và lương thực loài người còn trộn lẫn
cát bụi với mồ hôi.

Và con người không những thịt da sượng sần và tê điếng mà còn nứt nẻ như muốn tan rã ra cùng vũ trụ, làm cho mê lẫn máu và hồn ta là ta hay không phải ta. Thế giới hiện tại, tuy vẫn có thanh sắc, nhũ hương, vẫn mang sẵn mục nát trong mầm sống. Và mầm sống đó, có
sung mãn đến đâu, thì nhà thơ vẫn lòng thương chưa đã mến chưa bưa, nên phải mời cho được Xuân Thiên.

Chúng ta chưa quên được Người đang say sưa đi trong Mơ Ước đã gặp ở bài tựa Đau Thương. Vậy Xuân Thiên đây là niềm mơ ước ở sự tồn sinh sau cõi chết, sẽ được phục hồi trong cảnh trời mới đất mới, rạng ngời trong danh Cha cả sáng. Những thi phẩm cuối cùng của Hàn Mạc Tử như Xuân Như ý gom góp xong đầu năm 1939, Thượng Thanh Khí
đầu năm 1940, gồm hai vở kịch thơ Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội viết dở dang, đều nói lên niềm Mơ Ước đó. Trong bài này, tôi tạm xếp ba tác phẩm trên cùng những bài cuối tập Đau Thương vào chủ đề Xuân Như ý, cho gọn, và như một giai đoạn trong thi trình Hàn Mặc Tử.

Mùa Xuân Thượng Thanh, đó ra sao? Về chủ đề mơ ước trong Thánh Kinh, một chuyên gia về giáo lý Thiên Chúa nhận xét: “Cuộc sống vĩnh viễn được xác nhận rõ rệt bao nhiêu, thì những đường nét của nó lại mờ nhạt bấy nhiêu. Không những mờ nhạt, mà đôi khi còn thiếu sót. Sự tồn sinh không được mô tả, dù dưới những hình ảnh khải huyền”. [41]

Lẫn trong mơ hồ đó, nhà thơ tha hồ mà tưởng tượng quang cảnh trời đất mới. Nếu Xuân Như Ý mang nhiều hình ảnh dựa theo tín lý Thiên Chúa giá, thì Cẩm Châu Duyên lại gần với huyền tượng của dân gian phảng phất không khí thần tiên của Đạo giáo – một thứ Đạo giáo bình dân, không ăn thua gì đến tư duy “đạo khả đạo” của Lão Tử. Vì vậy Hoài Thanh cho rằng Hàn Mạc Tử “chốc chốc lạc vào thế giới đồng bóng”. Thật ra trong cái hoa hoè của dự tưởng, nội hàm nòng cốt của Xuân Như ý vẫn là một tín điều Thiên Chúa giáo.

Trước hết đó là một mùa Xuân. Nghĩa là một thế giới mới, một khung cảnh tái tạo, như cảnh thành Jérusalem mới được thánh Jean rao truyền ở chương cuối Phúc Âm, Trời mới đất mới được dựng lên trên cảnh trộn trạo, tán loạn của ngày tận thế

Cả vũ trụ tàn theo ngày Phán xét

Là khủng khiếp cả Trời Đất tiêu diệt (tr.60)

 

Mùa Xuân đó ở xa, ở thật xa nếu nhìn từ thế giới hồn nhiên của Gái Quê

 

Cửu Trùng là chốn xa xôi ấy

Chim én làm sao bay đến nơi (tr. 37)

Nhưng kinh nghiệm Đau Thương, kinh nghiệm của xác tín trong khổ não, đã chắp lên thân xác nứt nẻ của nhà thơ đôi  cánh phượng hoàng. Bằng những bất hạnh, Hàn Mạc Tử đã đến gần với Chúa và gần với mùa xuân Mơ Ước hơn là cánh én bơ vơ:

Phượng trì! Phượng trì! Phượng trì! Phượng trì!

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu

Hồn tôi bay đến bây giờ mới đậu

Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang (tr.37)

Trong bài “Thánh nữ Đồng Trinh Maria” này, với nguồn rung cảm mãnh liệt của đức tín, nhà thơ đã sống cả thế giới hiện tại lẫn mùa xuân dự tưởng, đã nói đến cơn lậm luỵ đã trải qua dưới thế như là một quá khứ. Và trong đức tin này, nhà thơ đã vẽ cho ta địa hình của Đất Mới, trong bài tựa tập Xuân Như Ý:

Vì chưng muôn xuân là lương thực ngon ngọt, mĩ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho tinh khiết, khí xuân là mạch trường sinh bất tử, tình xuân là cung cầm nguyệt mê ly, tuổi xuân là Ngọc như ý, tên xuân là dạ lan hương.

Và xuân là phong vị thái hoà của năm muôn năm, trời muôn trời, chân lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc cả giải Hà Sa, chen lẫn vô tận hồn tạo vật…

Loài người hãy tận hưởng một hơi cho đã ngán và cao rao danh Cha cả sáng…(tr. 66)

Chúng ta thử khai triển vài nét chính của Xuân Như Ý. Chúng ta đã thấy đó là mùa xuân hồi sinh, sau khi “Trời thứ nhất, đất thứ nhất tan biến”. (“Ap. XXI”, 2). Như đặc biệt mùa xuân này nảy lộc từ mùa đông, nhưng sẽ không bao giờ chuyển sang mùa hạ Mai nầy thiên hạ mới tinh khôi… Và sẽ còn tinh khôi mãi mãi, vì đã đi vào cõi tứ thời xuân non nước. Trong Cẩm Châu Duyên nhà thơ gọi là Xuân vô cùng đến ngàn năm ơn phước và mô tả như một tia sáng triền miên:

Liên hồ đây bốn mùa xuân cả bốn

Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi

Làm nước mát và chưa bao giờ gợn

Vết phong trần đưa lạ ở xa khơi

(Trần Thanh Mại trích, tr. 147)

Đoạn cuối “Khải Huyền” truyền giảng rõ ràng. Đất Mới đây, là châu thân Thiên Chúa; mùa xuân của Hàn Mạc Tử (trường sinh bất tử năm của muôn năm, vì ở “Khải Huyền”, Chúa đã kết luận: “Ta làm mới mọi vật. Ta là Alpha và Oméga, là nguyên lý và cực chung”. (“Ap. XXI”,5-6)

Xuân Như Ý tiếp đến là một vũ trụ thơm tho tinh khiết vì là càn khôn mới dựng lên. ở đây, nhà thơ như rợn ngợp trong trinh nguyên của Đất Mới, mà tượng trưng là con chiên con vô tật và vô tội, làm ngọn đèn trinh bạch rọi sáng cả hoàng thành. Thi sĩ vội nguyện cầu
gội rửa:

Tôi van lơn thầm gọi Chúa Giê Su

Ban ơn xuống cho mùa Xuân hôn phối

Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi

Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng (tr, 74)

 

Và để ngợi ca vinh hiển của Nguồn thơm, nhà thơ đã cao ngâm giọng long lanh, thanh thoát:

 

Ta cho ra một dòng thơ rất mát

Mới tinh khôi và thanh sạch bằng hương (tr.70)

Theo Hoài Thanh – người may mắn hơn chúng ta, được đọc toàn bộ thi phẩm – thì Cẩm Châu Duyên, thi phẩm cuối cùng, là “trong trẻo hơn cả[42[. Âu cũng là chuyện lạ. Gái Quê, từ ban sơ, đã là một dòng suối rừng vẩn đục, rồi chảy qua một cuộc đời khổ ải, chuyên
chở không biết bao nhiêu trần luỵ, ấy mà dần dà lại gạn lọc hết phù trầm, để đổ ra đại dương bằng một giải Cẩm Châu trong vắt. Thật là một đặc điểm trong thẩm mĩ thi ca.

Đất Mới còn là một xứ rực rỡ, cao sang, vì xuân mang tên một loài Ngọc:

Ánh hào quang chan chói ngắt lưu ly

Ôi! Cao sang khôn ví, trọng ai bì

Trên nước cả có vô vàn châu báu (tr. 67)

Những hình ảnh tráng lệ như gấm, ngọc, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược đều muốn gợi lên  vinh hiển, như khi sứ đồ tả thành Jérusalem mới trong “Khải Huyền”: “Thành ấy chói sáng như một viên bửu thạch, như bích ngọc rạng ngời… Tường thì xây bằng bích ngọc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thuỷ tinh trong vắt. Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu” (“Ap. XXI”, 11, 18 và 21). Dựa theo “Khải Huyền”, tôi cho rằng những đền đài dự tưởng trong Hàn Mạc Tử là một phóng thể của đức tín Thiên Chúa, vì cảnh Bồng Lai của Á Đông, cảnh thần tiên của Đạo gia không có cái huy hoàng rực rỡ đó.

Cuối cùng Xuân Như Ý là một thái hoà tuyệt đối, trong không gian và thời gian, thái hoà của năm muôn năm, trời muôn trời. ở đó, trời thì bình an như nguyệt bạch, còn người
thì hoàn hảo, no nê nhờ trái cây bằng ngọc, vỏ bằng gấm. Còn nói chung:

Thiên hạ thái bình và trời tuôn ơn phước

Như triều thiên vờn lượn khắp không gian (tr. 71)

Ở đây, sầu đau chìm trong quên lãng. Đất Mới không còn cảnh “chết chóc, than khóc, kêu ca hay đau đớn nữa” (“Ap. XXI”, 4) vì những lậm luỵ dưới thế đã qua. Ở đây tất cả đều là ánh sáng. Và ánh sáng là linh thị cuối cùng bao trùm trọn vẹn thi trình Xuân Như Ý, đồng thời rọi lại toàn bộ tác phẩm Hàn Mạc Tử như một Thánh thể kết tinh triền miên vươn tới
ánh Sáng, vươn tới ánh hào quang chan chói ngất lưu ly. Hay trở về Ánh Sáng. ở đây, chúng ta đi sâu vào ngõ ngách cuối cùng trong đức tin Hàn Mạc Tử:

Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên

Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng

Tôi sẽ dừng lại ở đây, dừng lại ở hình ảnh Nguồn Ánh Sáng, vừa là một vươn tới, vừa là một trở về. Mùa Xuân Như Ý đẹp trước hết vì là Xuân thứ đến vì nó là Như Ý, nó đưa con người về với Chúa, về với Nguồn. Vậy Nguồn Ánh Sáng ở đây là Alpha và là Oméga, vừa là cội rễ vừa là cứu cánh con người. Và  cấu trúc thơ Hàn Mặc Tử do đó gói ghém cả mặc khải Thánh Tự lẫn lịch trình Cứu Rỗi. Tôi có cảm giác đã làm xong một bài luận mạch lạc. Bây giờ là kết.

Tham vọng bài này là đề nghị một lối nhìn nhất quán vào tác phẩm Hàn Mặc Tử trong giới hạn những bài thơ còn lưu truyền, nghĩa là trên một sự nghiệp bị thời gian cắn xén. Khai quật  cấu trúc nội tại của sự nghiệp đó, chúng tôi lại còn mong ước rọi sáng những bài, những câu thơ mà các nhà phê bình xưa nay, từ Trần Thanh Mại đến Vũ Ngọc Phan, cả thi sĩ Quách Tấn đều cho là khúc mắc. Theo chúng tôi, hiểu tất cả các câu thơ, các bài thơ
trong một tập thơ, chưa hẳn đã là hiểu toàn bộ tập thơ, ít nhất cũng đối với người viết phê bình. Chúng ta còn phải hiểu liên hệ nội tại trong mỗi tập thơ để nắm vững cơ cấu sáng tạo của thi sĩ – ít ra cũng trong chủ quan người đọc.

Liên hệ nội tại đó, tôi đặt trên đức tín của Hàn Mạc Tử. Tôi cũng có thể đề nghị một nền tảng khác; tôi chọn chủ đề này với một dụng ý: giải thích những nhận xét cố hữu của các nhà phê bình tiền bối vẫn cho Hàn Mạc Tử là nhà thơ Thiên Chúa giáo, mà không nói rõ, nói đầy đủ, tại sao. Các vị đó thường trích dẫn những bài thơ hay câu thơ có âm vang tôn giáo, có hình thức tín ngưỡng như Maria linh hồn tôi… rồi kết luận; theo tôi, thì chưa đủ, vì một người không có đức tin cũng có thể kể rất nhiều tên Thánh, làm thơ ca tụng đấng Tối Linh, như ngày xưa các cụ Nguyễn Hữu Tiến hay Tản Đà nhắc đến Thượng Đế trong Quả Dưa Đỏ hay Giấc Mộng Con. Theo tôi, chúng ta chỉ có thể nói đến tín lý trong một tác phẩm khi toàn bộ tác phẩm đó tiềm ẩn đức tin trong cơ cấu. Nói khác đi, một người Thiên Chúa giáo chưa hẳn là kẻ đọc kinh vanh vách, mà là người đem trọn cuộc đời mình đáp lại lời gọi của ơn Trên, và một thi sĩ Thiên Chúa giáo không hẳn là kẻ tự xưng là thi sĩ của đạo quân
Thánh giá
(tr. 71) như Hàn Mạc Tử đã tự nhận, mà là kẻ đem cả sự nghiệp thi ca của mình âm vọng lại tiếng gọi của Thượng Đế. Và dĩ nhiên không phải là kẻ “dùng thơ để truyển bá tôn giáo của mình” như Quách Tấn nhận định ở trang 118 số Văn thượng dẫn. Do đó mà tôi cố gắng chứng minh toàn tập thi phẩm Hàn Mạc Tử là một tiếng vọng của Thánh Tự.

Dĩ nhiên, trong tác phẩm Hàn Mạc Tử còn nhiều vết tích của một nhân bản Việt Nam. Tín ngưỡng Ki Tô giáo đã nảy mầm trên một nhân bản phiếm thần và đa giáo, thì nguồn thơ Hàn Mạc Tử không khỏi làm một lăng kính hội tụ rồi phát huy nhiều nguồn sáng khác nhau, và hỗ tương lẫn nhau, như Giáo hoàng Paul VI đã tuyên bố trên đài phát thanh Véritas chủ nhật  29-11-1970 vừa qua, nhân chuyến công du sang Á Đông: “Chúng ta đang ở một vùng đất mà những tư trào cổ kính của Đông phương và những trào lưu mới mẻ hơn Tây phương đã kết hợp lại và làm giàu cho nhau”.

Và bạn đọc sẽ hoan hỉ nếu Quách Tấn thủ lời hứa “ nói về đạo Từ bi trong thơ Tử” vì sẽ hiểu thêm một khía cạnh của thi phẩm, qua kiến thức uyên bác của tiên sinh về phương diện Phật lý cũng như tác phẩm Hàn Mạc Tử.

Cuối cùng, viết bài này tôi cũng có hai hậu ý  riêng tư. Trước là để giải một lời hứa với anh Trần Phong Giao từ hai năm nay;  một đề tài bao quát và hệ trọng như vầy đòi hỏi một suy nghĩ dài hạn, khiến anh Trần Phong Giao cứ trách tôi là “ thề cá trê chui ống”.

Thứ đến là hồi đầu năm nay, tôi có viết một bài điểm sách, về vở kịch Ngộ Nhận của Vũ Khắc Khoan. Bài đó đã gây nhiều hiểu lầm, nhất là trong những người thân của tôi, cho là tôi bất kính đối với tín ngưỡng; nếu có hiểu lầm đó, dĩ nhiên lỗi về phần tôi, viết không khéo, nói không trọn, lời không thanh, ý không minh.

Vậy bài này viết vào mùa Giáng sinh, sẽ là một bổ chính cho bài trước, và cũng là lòng thành khẩn, của riêng tôi, nhân mùa Hy Vọng, là cánh hoa huệ từ một lưu vực xa xôi gửi về cho Quê hương Yêu dấu.

Val de Loire, 12-1970, bổ chính, nhân kỷ niệm 100 năm Hàn Mạc Tử, 22.1912-22.9.2012

 

[1] Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, III, 1942 – ấn bản 1951, n.x.b Vĩnh Thịnh, Hà Nội, tr. 325.

Tái bản nhiều lần.

[2] Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi Nhân ViệtNam.
1942, Thiều Quang tái bản, Sài Gòn. 1967, tr. 204.

Tái bản nhiều lần.

[3] Văn, số đặc biệt Hàn Mạc Tử, 73-74, ngày 7-1-1967, tr.139.

[4] Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, 1941,Tân Việt tái bản, Sài Gòn,  1957.

[5]Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 63-83.

[6] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 141-148.

[7] Thơ Hàn Mạc Tử đều trích từ ấn bản Tân Việt, Sài Gòn,1959 – ấn bản này không đánh số trang, tôi dựa theo mục lục mà ghi số trang, để bạn đọc dễ kiểm chứng.

[8] Huỳnh Phan Anh, Văn số 73-74 đã dẫn

[9] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 332

[10] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 212

[11] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 211

[12] Văn, số đặc biệt HMT, đã dẫn, tr. 120

[13] Jacques Dournes, Dieu Aime les Paiens, Aubier, 1963, tr. 149

[14] Văn, sđd, tr. 47

[15] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 326

[16] J. E. KERNS. S. J, Les Chrétiens, Le Mariage et la Sexualité. Edit du Cerf, 1966, Paris,

tr. 3

[17] J. E. KERNS. S. J, sđd, tr. 94

[18] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 81

[19]Trần Thanh Mại, sđd, tr. 73

[20]Thư Mộng Cầm, do Trần Thanh Mại trích dẫn, sđd, tr. 94

[21]Trần Thanh Mại, sđd, tr. 95

[22] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 88

[23]Trần Thanh Mại, sđd, tr. 193

[24]Trần Thanh Mại, sđd, tr.  121

[25]Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 330

[26]Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr.212

[27]Trần Thanh Mại, sđd, tr. 120

[28]Nguyễn Công Hoan, tạp chí Văn Nghệ Hà Nội số 67, Tháng 12-1962 và 68 tháng 1-1963 về Tú Xương. Tôi có đề cập tới trong Báo Văn số 163 ngày 1-10-1970. Sau này tôi được biết báo Vì Chúa, xuất bản ở Huế, do nhóm Bùi Tuân, bạn thân với HMT chủ trương.

[29] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 120

[30]Trần Thanh Mại trích, sđd, tr. 120

[31]Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr.
211

[32] Charles Journet, Le Mal, essai théologique, tủ sách giáo lý, Desclée de Brouwer, Bruges, tr. 271

[33]Trần Thanh Mại, sđd, tr. 130

[34] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 75

[35]Trần Thanh Mại, sđd, tr. 61

[36] Vocabulaire de Théologie Biblique, Edit, du
Cerf, Paris 1962, tr. 714

[37] Jean  Pierre Richard, Poésie et Profondeur,
Seuil, Paris 1955

[38] P. Dhorme, Revue Biblique. Số 4 tháng 10 – 1920
tr. 473 – 474. Loại bài “1’Emploi métaphorique dans la Bible”, chuyên về hình
ảnh của thân xác, rất cần cho việc tìm hiểu thơ H.M.T.

[39] Vocabulaire de Théologie Biblique, sđd, tr. 31

[40] Jacques Quillet, tủ sách giáo lý, Thèmes Bibliques,
Aubier, 1950, tr. 175

[41] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 211

[42] Le Monde, ngày 1 tháng 12-1970, tr. 8, cột 1

 

Tác giả: ĐT, Orléans, Pháp (chuyển đăng)

Chọn Sống Đơn Giản Thoải Mái

Chọn Sống Đơn Giản Thoải Mái

(Hạnh Phúc Gia Đình)

Tác giả:Tuyết Mai

Tôi không hiểu làm sao để nói chuyện được với ông nhà tôi mà tránh khỏi không khó chịu, không trả lời lại, ngồi im nghe ông than phiền, và ỉ ôi?.   Tôi không hiểu các bà vợ ngoài kia
có bị giống tôi hay không?.   Sao ông nhà tôi không thể kiếm được chuyện gì khác nói cho nó vui vẻ, cho có không khí hòa bình, tìm giải quyết vấn đề, mà không là đề cao, so sánh, hay muốn bắt chước thiên hạ là sao gia đình người ta được may mắn thế này hay phải chi mình được giống họ thế kia, v.v…?.

Tôi nghĩ chắc ông nhà tôi đang biến đổi tâm lý chuyển thành người già hay sao đó!?.   Chứ ông không hiểu rằng mỗi người mỗi khác, mỗi nhà mỗi khác, và cách sống của mỗi nhà cũng mỗi khác hay sao?.   Bà hàng xóm bạn đâu phải mẫu gương hay mẫu mực khi ông chỉ biết sơ về bà mà ông đem tôi ra so sánh?.   Các con của bạn ông đâu phải là con ông để chúng có thể học làm bác sĩ, luật sư, hay dược sĩ để cho ông được nở mặt nở mày?.   Và cách sống trong nhà của họ đâu có thích hợp với gia đình sống của chúng tôi.   Sao ông không
hiểu?.    Ông thường nói về những đề tài chính trị, chuyện nhà người ta, con cái người ta mà tôi ít có tán đồng ý kiến của ông.   Ông thiếu tâm lý có phải không? Tôi thì nghĩ rằng ông cần có bạn để tâm sự thì đúng hơn, nhưng ông không có được.

Theo tôi nghĩ không nơi nào giúp cho chúng ta sống cách đơn giản và ngay thẳng cho bằng ngay trong gia đình của mình.   Không điều gì cho chúng ta sự bực mình và khó chịu nhất khi người thân của chúng ta không được thẳn thắn trong mọi vấn đề mà chỉ úp úp mở
mở và đòi hỏi thời giờ cùng cái đầu đã nhét đầy những công việc và sự sắp xếp theo thứ tự trong đó!.   Rồi tỏ lộ sự giận hờn, không thèm nói, không thưa cũng không gởi, để mình phải gặn hỏi thì mới được đả thông cái không khí khó chịu ngộp thở ấy!.

Thật vậy đấy, nếu trong gia đình chúng ta tuổi tác có khá chênh lệch nhau.   Giữa ông bà, cha mẹ, các con, và các cháu.   Sự hiểu lầm rất thường xẩy ra.   Sự giận hờn và tủi thân cũng rất thường thấy và sự câm lặng trong không khí ngột ngạt cũng cho nhau bao nhức đầu và bao phiền muộn.   Đôi khi ta bị khiển trách cách rất đúng và rất đáng đời.   Nhưng cũng có lắm khi sự lên án ấy nghe như nặng ngàn cân! Nhưng thay vì ta chọn giải pháp thẳng thắn để xóa tan sự hiểu lầm là con mời bố hay mẹ, ông hay bà, anh hay chị ngồi xuống  đây cắt nghĩa rõ ràng tại sao lại nói những lời nặng nề mà quá sự chịu đựng của con, của cháu, anh chị em, hay của tôi?.

Để sau đó tinh thần của chúng ta được thoải mái hơn nhiều.   Mọi sự hiểu lầm, ấm ức, bực tức sẽ được đả thông, và không khí yêu thương lại được tràn đầy.   Đi ngủ thoải mái để chúng ta lại bắt buộc phải đối mặt hay đối chọi với người, với đời, và với công việc ngổn ngang luôn chờ đợi ta hằng ngày.   Nhưng thưa thường thì giải pháp tốt lành đó chúng ta vì Tự Ái nên không ai nói ai, hay không ai bảo ai, không muốn cho mọi người thấy rằng mình ở thế hạ phong phải xuống nước giảng hòa với vợ, con, và những ai ở hàng thấp bé hơn mình; ồ ngay cả con em cũng hay giận hờn ngược lại với cha mẹ, ông bà, và anh chị là chuyện thường rất xẩy ra!.

Vâng, cuộc đời quả ngắn ngủi nếu chúng ta chọn giải pháp sống đơn giản, thoải mái cho chính mình và người thân, thì bảo đảm cuộc sống và sức khỏe của chúng ta sẽ có nhiều kết quả mỹ mãn hơn.   Vì một tinh thần thoải mái yêu đời sẽ cho chính chúng ta năng lượng nhiều hơn.   Như pin (battery) luôn được Chúa charge cho đầy.   Để pin ấy sẽ cho chiếc đèn pin sống lâu sống đúng với chức năng của nó.   Đúng với công việc của nó là làm đèn pin soi sáng cho  những nơi có bóng tối.

Những sự giận hờn, bực tức, lo lắng, tham lam, cố công cố việc, sẽ là những tiêu hao của cục pin và đó là chúng ta tự làm giảm đi năm sống thọ của chúng ta.   Khi chúng ta còn quá trẻ,
chưa trả nợ cho người.   Chưa trả nợ cho đời và chưa trả nợ cho Chúa, huống hồ gì Chúa lại đòi tiền Lãi từ nơi chúng ta, thưa có phải?? …. Như bài hát “Yêu ai yêu cả một đời …. Tình cho không biếu không ….”.   Vì biết Yêu Chúa Yêu Người, chúng ta sẽ trở nên trọn hảo hơn trong Ơn Nghĩa Chúa!.

Có phải tất cả chúng ta luôn gặp sự khó khăn khi chúng ta sống trong một thế giới mà đau khổ là triền miên.   Tội ác cứ vẩn tiếp diễn.   Thiên Tai cũng là cái họa đem lại cho con người.   Và cái chết hằng ngày vẫn xẩy đến cho anh chị em của chúng ta?.   Thế thì ăn thua ở cách sống của chúng ta Biết Chọn Lựa mà thôi!.   Như câu “khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ cần Biết thì chúng ta sống”.   Vì thế một là chúng ta chọn sống trong bi quan để mọi thứ mọi điều như đều muốn sụp đổ trên đầu của chúng ta rồi chết trong uất ức trong tiếc nuối; chẳng để lại điều gì tốt đẹp trong cuộc đời …. Là người được Chúa cho 1 nén bạc; song cất giấu đi.

Hai là chọn cách sống trong lạc quan để hiểu rằng ta chẳng níu lại được điều gì hay có thể làm lại cuộc đời, khi chúng ta “chết” cho nên hãy sống trong thoải mái trong yêu thương.
Cố gắng tìm cho mọi  người sự vui vẻ, quan tâm, lo lắng, và chia sẻ của ta; Đó là người mà Chúa trao ban cho 2, 5, hay 10 nén bạc; để trả Lãi cho Chúa gấp đôi.

Sống lạc quan vui vẻ yêu đời sẽ là mấu chốt (keys), bài học, cách giúp chúng ta sống có trách nhiệm hơn, yêu đời, và yêu người nhiều hơn.   Là đèn soi dẫn cho chính mình và đồng thời giúp cho người đi lạc thấy đường trở về Bến Bình An như lòng Chúa mong đợi.
Như lời của Mẹ Thánh Têrêsa nói “ Do not wait for leaders; do it alone, person to person” tạm dịch là “đừng chờ những người lãnh đạo; làm một mình, người với người”.   Rất hy vọng lắm thay!!!.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=DqwsvMjF-C0

(Vui Vẻ Yêu Đời Hồng Ân Chúa Ban)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(09-21-12)

 

Nhân nghĩa đạo đức nay còn đâu!

Nhân nghĩa đạo đức nay còn đâu!

Trần Việt Trình

Cách đây chỉ mới mấy hôm, việc một ông cụ già ngay sau khi vừa xuất viện bị các con “vứt” ra ngoài vỉa hè nằm phơi nắng, phơi mưa gần 1 ngày trời đang còn gây xôn xao và khiến cho dư luận hết sức phẫn nộ.

Sự việc xảy ra vào trưa ngày 7 tháng 9 vừa qua, cụ ông tên Ngô Vỹ Nhân (87 tuổi) sau khi bệnh viện cho về sau 2 tháng điều trị đã bị các con đưa tới trải chiếu đặt nằm trên vỉa
hè trước cửa ngôi nhà số 11, phố Núi Trúc, Hà Nội.

Ngôi nhà nói trên là của người con trai cả của ông đã qua đời cách đây 2 năm. Hiện tại, người con dâu cả, cháu nội gái và người vợ đã ly thân của ông đang sống trong căn nhà này. Tầng trệt của ngôi nhà được cho thuê làm tiệm bán quần áo.

Ông chủ quán nước đối diện với ngôi nhà kể lại sự việc như sau: “Khoảng 11 giờ trưa tôi thấy chiếc taxi chở ông cụ Nhân về đây. Con gái, con dâu, con rể cụ vừa đưa bố xuống xe đã trải chiếu ngay trên vỉa hè để bố nằm. Rồi thì lỉnh kỉnh quần áo, đồ đạc đi viện cũng bị vứt xung quanh ông cụ”.

Ông chủ quán nước thở dài: “Nhìn ông cụ chỉ còn da bọc xương, gắng gượng hút bát phở mà lòng đắng ngắt. Chúng tôi chỉ là hàng xóm sống xung quanh mà còn không cầm được nước mắt khi nhìn ông cụ nằm mê mệt trên vỉa hè. Con cái bất nhân quá”.

Ông kể tiếp: “Trời lúc nắng lúc mưa. Có lúc chỗ ông cụ nằm còn là vũng nước mà chúng nó vẫn mặc kệ. Anh con rể cầm được 2 cái ô ra che mưa cho bố vợ. Còn hai cô con gái chạy vào mái hiên gần đấy đứng trú. Thỉnh thoảng lại chạy ra ngó xem bố còn sống hay không”.

 

(Ảnh: Xa Lộ Tin Tức)

Đến quá 8 giờ tối mà sự việc vẫn chưa được  giải quyết, mặc dầu đã có chính quyền địa phương can thiệp, quá phẫn nộ về hành động ngược đãi cha của con cái của ông Nhân, ông chủ quán nước đã phải gay gắt mắng mỏ: “Không thể chấp nhận được lũ con mất nhân tính đó. Tôi sang nói với anh con rể có đưa cụ về nhà ngay không dân tình ở đây không tha cho các anh. Hàng xóm cũng làm ầm ĩ, ép anh này phải gọi taxi đưa bố về nhà ngay lập tức”. Người con rể của ông cụ gọi đến 5,7 chiếc taxi nhưng không tài xế nào chịu chở
vì sợ mang họa.

Chứng kiến cảnh đau lòng đó, nhiều người dân sống quanh khu vực đã phải phản đối, thậm chí còn to tiếng với các con của ông cụ, cuối cùng các con của ông đành phải đưa ông về nhà người con gái thứ hai.

Ông chủ quán nước kể rằng trong tình cảnh thương tâm đó, ông cụ chỉ im lặng, mắt nhắm chặt mà hai dòng nước mắt cứ ứa ra ràn rụa.

Sự việc đã làm cho những người dân sống quanh đó và người đi đường không khỏi ngỡ ngàng. Không rõ lý do gì các con của ông lại đối xử tệ bạc với cha của họ, nhưng rất nhiều người không dằn được lòng đã phải lên tiếng bất bình.

Được biết khi ông cụ được đưa tới đây, các con của ông, con rể và con dâu của ông đã to tiếng, thậm chí còn “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với nhau. Sau khi hàng xóm can gián, cô con dâu chủ nhà đã khóa cửa lại quyết không cho đưa ông vào nhà. Đứa cháu nội gái của ông 20 tuổi thì lại ngồi giữ cửa. Bà vợ đã ly thân với ông ở trong nhà cũng không ra mặt.

 



Được biết do bất hòa nên từ đã vài chục năm nay, ông cụ và vợ đã sống ly thân với nhau. Hai người con trai phân công nhau trách nhiệm nuôi dưỡng bố mẹ già. Theo thỏa thuận thì người con trai cả nhận nuôi mẹ còn người con trai út nhận nuôi cha. Hiện tại, người con trai cả đã quá cố, người con dâu cả vẫn làm bổn phận phụng dưỡng mẹ chồng. Sự việc không có gì đáng nói nếu không có chuyện hai cô con gái của ông cụ mang cha mình đến đặt nằm trên vỉa hè trước của ngôi nhà của người anh trai và ép chị dâu cho cha vào nhà, nhận thêm trách nhiệm phụng dưỡng cha mình.

Nói tới đây ai cũng có thể đoán được sự việc chẳng qua là vì các con của ông muốn tranh chấp ngôi nhà mà bà chị chồng (vợ của anh mình đã mất), cháu gái (con của anh mình) và mẹ (đã ly thân với cha của minh) đang sở hữu.

Tưởng cũng nên biết, ông cụ có 4 người con, 2 trai và 2 gái. Cả 4 người con của cụ đều được cho ăn học đàng hoàng, đến nơi đến chốn, ai cũng thành đạt và giàu có. Ngoài người con trai cả đã mất, 3 người con còn lại đều thành đạt và hiện đang làm ở các cơ quan nhà nước. Người con gái lớn của ông từng là y tá trưởng ở bệnh viện Mắt Trung ương, chồng là giảng viên trường đại học Thủy Lợi. Hai người con còn lại thì người làm kế toán, người làm bảo hiểm, hiện đã làm tới chức Trưởng phòng trong Công ty bảo hiểm Prudential Việt Nam. Nói như vậy để thấy bầy con của ông là một lũ có tài mà không có đức. Nhẫn tâm đặt cha đẻ của mình nằm trên vũng nước vỉa hè, phơi mưa, phơi nắng hơn 10 tiếng đồng hồ là một hành động nhẫn tâm, đáng xấu hổ và phải bị lên án nặng nề!

Nói gì thì nói, ai đúng ai sai chưa biết, chỉ việc dùng chính sức khỏe, tính mạng của cha mình ra để hầu mong đạt một mục đích (đen tối) nào đó thì quả thật quá bất nhân, bất nghĩa, vô đạo đức, không thể nào chấp nhận được!

Có loại con nào nỡ đối xử với người đã sinh thành dưỡng dục mình như vậy không!? Bất hiếu! Một lũ con bất hiếu! Chỉ biết nghĩ cho bản thân mình còn cha mẹ già thì bỏ mặc, dám đem ra làm phương tiện trao đổi trong khi ông cụ sức đã già yếu không biết sống được bao lâu nữa. Không biết khi hành hạ cha đẻ của mình như vậy, mấy người con của cụ có thấy
chút ray rứt nào không? Cha đẻ mà còn dám vứt ra đường như vậy thì chuyện gì mà
họ không dám làm!?

Đó là tiếng chuông dóng lên cảnh báo sự suy đồi đạo đức nghiêm trọng đã và đang xảy ra trong xã hội Việt Nam.

Đạo đức ngày nay ở VN như vậy đó sao? Với cha mẹ mình mà còn đối xử tệ bạc như thế thì thử hỏi với xã hội, với tha nhân, người ta sẽ đối xử ra sao nữa? Công việc của họ đang làm, chức vụ của họ đang nắm trong xã hội, chỉ để chuộc lợi cho mình thôi sao?

Trên đường phố VN ngày nay, nhan nhản những cách hành xử vô tình, vô tâm và vô cảm. Chỉ cần lướt qua một vài tờ báo online, lướt qua một vài tin tức trên các trang web trong nước là ai cũng sẽ dễ dàng bắt gặp vô số những tin tức tệ hại về nạn vô cảm. Nó đang hoành hành và lây lan khắp nước.

Nhưng đó chỉ là chuyện giữa người với người, không quen biết nhau. Vô cảm đối với cả người đã sinh thành và dưỡng dục mình là một chuyện ghê gớm, không chấp nhận được và đáng bị nguyền rủa.

So sánh sự khác biệt của xã hội VN xưa và nay, vẫn biết rằng thời nào cũng có sự hiện diện của cái thiện và cái ác, người tốt và kẻ xấu, tuy nhiên nó khác nhau về mức độ và sự thể hiện ở từng thời điểm. Đúng. Vậy thì căn bịnh vô cảm này do đâu mà có?

Xét về mặt xã hội, xã hội VN bây giờ quá phức tạp, đầy rẫy lọc lừa và tranh ăn.

Xét về mặt đạo đức, xã hội VN hiện tại quá đỗi suy đồi, niềm tin khủng hoảng. Đặc biệt, đó là sự suy đồi về đạo đức, nhân phẩm của những thế hệ trẻ ngày nay, mà biểu hiện rõ nhất đó chính là thái độ thờ ơ, vô cảm đối với mọi sự vật, mọi sự việc diễn ra xung quanh. Thái độ này đang dần lan tỏa trong xã hội VN, không chỉ trong giới trẻ mà đã len lỏi vào khắp mọi giới, không chỉ địa phương hay vùng miền nào mà lây lan khắp nước.

Xét về mặt giáo dục, căn bệnh vô cảm này là sản phẩm của một nền giáo dục yếu kém, thất bại. Nền giáo dục của người CS giáo điều với lý thuyết khô khan và nặng nề, không chú trọng đến việc đào tạo  nên “nhân cách” mà chỉ chú trọng đến việc đào tạo ra “nhân lực”. Nó thể hiện qua các chính sách, pháp lệnh cũng như chương trình học nặng nề của nhà nước.
Các môn quan trọng góp phần hình thành nên “nhân cách” con người là Giáo dục công dân từ lâu đã trở thành những môn phụ không đáng quan tâm, thời lượng tiết học vô cùng ít ỏi và nội dung học thì quá nặng nề, giáo điều thì làm sao có thể đào tạo nên những nhân tố tốt được. Sự sai lầm của giáo dục đã kéo theo một thế hệ không hoàn chỉnh, một thế hệ không thể nào miễn nhiễm được với những căn bệnh như vô cảm.

Tựu trung, căn bệnh vô cảm là kết quả của một lối sống chụp giựt, bon chen và tranh giành ngày nay, ngày ngày ăn sâu vào tinh thần văn hóa của xã hội VN khi mà các giá trị sống, giá trị đạo đức tinh thần, lòng bao dung nhân ái, tình thương yêu đồng loại, và sự hy sinh đang dần bị thế chỗ bởi chủ nghĩa vật chất và lợi ích cá nhân … làm cho con người không còn cảm giác trước nỗi đau của đồng loại, của người thân.

Người Việt mình xưa nay có truyền thống vô cùng tốt đẹp là “thương người như thể thương thân”, ấy vậy mà ngày nay có những cách sống đang đạp đổ truyền thống tốt đẹp này. Chữ “nghĩa” trong xã hội VN dường như đang dần mất đi nên con người hiện chỉ biết sống vì mình, sống ích kỷ, không còn dám hy sinh và sống không có trách nhiệm với đồng loại. Ngày xưa con người sống trọng “nghĩa, luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, sự hy sinh, sẵn
sàng xả thân vì cái thiện, cho gia đình, cho đồng loại và cho đất nước. Vì thế mà ở thời ông cha ta những giá trị căn bản của tình nghĩa gia đình, thầy trò, tình yêu quê hương đất nước luôn được đặt lên cái tôi cá nhân. Bức tranh xã hội đang có sự đảo lộn giá trị, cái ác lên ngôi, trong khi giá trị nhân bản đang bị chìm lấp. Ngày nay, đang có sự thay đổi lớn trong hệ thống giá trị sống của con người. Khi một xã hội, một đất nước mà những người sống trong đó vô cảm, không hợp quần, không tương thân tương trợ lẫn nhau, không giúp đỡ nhau thì tất yếu cái xã hội đó sẽ què quặt, đất nước đó sẽ sụp đổ và bị tiêu hủy.

Nước VN của tôi ngày nay là thế đó. Dân tình của nước VN của tôi ngày nay là thế đó. Đó là kết quả của gần 60 năm xây dựng đất nước xã hội được mang danh là xã hội xã hội chủ nghĩa của những người vô thần, vô trách nhiệm, vô tri và vô giác đã đưa người dân cả nước đến chỗ vô tình, vô tâm và vô cảm ngày nay.

12 tháng 9 năm 2012

Trần Việt Trình

 

Giỗ 100 năm Hàn Mặc Tử:Có Chở Trăng Về Kịp Tối Nay ?


Giỗ 100 năm Hàn Mặc Tử:Có Chở  Trăng Về Kịp Tối Nay ?

LM. Giuse Trương Đình Hiền

9/20/2012                             nguồn: Vietcatholic.net

(Bài chia sẻ trong thánh lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật thi sĩ Hàn Mặc Tử )
(22/11/1912 – 22/11/2012)
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Trong bầu khí ấm cúng, thân thương của Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, thánh lễ
dành kỷ niệm 100 năm ngày sinh của thi sĩ Hàn Mặc Tử, một nhà thơ Công Giáo,
một vì sao chói lọi trên vòm trời thi ca Việt Nam thế kỷ 20, quả thật chúng
ta thấy gần gũi dường nào và ấm cũng biết bao:
– Ấm cúng với nhau, bên nhau trong niềm tin phục sinh – cõi vĩnh hằng và
trong đồng cảm văn hóa, văn hóa của thi ca mà người đón mời và nối kết hôm
nay – thi sĩ Hàn Mặc Tử, đang hiện diện cách vô hình.
– Gần gũi với cõi thiêng liêng, với Đấng Thiên Chúa yêu thương và toàn năng,
một sự gần gũi mà hình như chỉ có ngôn ngữ thi ca của Hàn Mặc Tử mới diễn đạt
cách tài tình và sống động:
Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:

Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ đấng tiên tri muôn thuở

Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm. (Nguồn Thơm)
Hôm nay chúng ta tưởng niệm một người đã khuất nhưng trong một “bàn tiệc
của sự sống”; niềm tin đã nối kết kẻ sống và người đã ra đi trong niềm
hoan vui đoàn tụ và hy vọng phục sinh. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất chí lý
khi diễn tả cảm nhận nầy trong ca khúc “Nối vòng tay lớn”:
“Người chết nối linh thiêng vào đời và nụ cười nở trên môi”. Tôi
tin chắc rằng, nếu thi sĩ Hàn Mặc Tử mà sống lại và hiện diện như chúng ta và
với chúng ta trong bối cảnh nầy, chắc anh đã có một bài thơ khác về cái chết,
về sự sống bên kia sẽ đầy hy vọng, tươi sáng hơn những bài thơ mà anh đã sáng
tác khi liên tưởng tới cái chết của chính mình, một sự hiện hữu của thế giới
bên kia mà anh cảm nhận quá ư cô đơn, đen tối, lạnh lùng:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu ?

Ai đem tôi bỏ dưới sông sâu ?
Sao bông phượng nở trong màu huyết ?
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ? (Những Giọt Lệ)

Hoặc:
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã,

Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa.
Hồn mất xác, hồn sẽ cười nghiêng ngả,
Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la. .. (Hồn lìa khỏi xác)

Hoặc:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương Anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn Anh và rửa vết thương tâm (Duyên kỳ ngộ)

Mà quả thật, hôm nay, trên cõi vĩnh hằng, chắc chắn anh đã cảm nhận khác rồi.
Đặc biệt hôm nay, và trong suốt bao tháng năm qua, tưởng nhớ đến anh không
chỉ là “bông phượng nở trong màu huyết” để “Nhỏ xuống lòng tôi
những giọt châu”, hay để “nàng tiên mô đến khóc ” và hôn Anh
và rửa vết thương tâm”. ..mà như nhận xét của Kiều Văn:
“Hơn nửa thế kỷ qua, không thể đếm xuể những con người thuộc mọi tầng lớp,
mọi trình độ, đã nghiêng mình kính cẩn trước anh linh Hàn Mặc Tử, không thể
đong được những dòng lệ mà người đời đã nhỏ xuống khóc người thi sĩ tài hoa
bạc mệnh ấy”
(Trích trong bài khảo luận: “Hàn Mặc Tử Anh là ai
? của Hoàng Vũ Thuật)
Nhưng cho dù anh thế nào và nhiều người ở đây đã biết về anh ra sao, thì
trong ngày kỷ niệm 100 năm anh mở mắt chào đời, 100 năm anh được Thượng Đế
trao ban cuộc sống làm người và làm con Thiên Chúa, chúng ta cũng phải một
lần sơ lượt cuộc đời và sự nghiệp của anh, như nghĩa cử “đập cổ kính ra
tìm lấy bóng”, một cái bóng vĩ đại trên thi đàn Việt Nam và trong vườn
thơ Công Giáo.
Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22.9.1912
tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc (nay là Đồng Hới), tỉnh Quảng
Bình. Được rửa tội ngày 25.9.1912 tại nhà thờ Tam Tòa với tên thánh Phanxicô
Assisi và 21 năm sau – 1933 – chịu phép Thêm Sức tại nhà thờ Chính Tòa Qui
Nhơn với tên thánh là Phanxicô Xavie. Thân phụ và thân mẫu của thi sĩ là Vinh
Sơn Phaolô Nguyễn Văn Toản và Maria Nguyễn thị Duy.
Nhà thơ Hàn Mạc Tử là người con thứ tư trong một gia đình có 8 anh chị em:
anh trai là Nguyễn Bá Nhân, hai chị là Nguyễn Thị Như Nghĩa, Nguyễn Thị Như
Lễ và bốn em trai là Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn
Văn Thảo. Vì là một nhà nho học, ông Nguyễn Văn Toản đã chọn Ngũ Thường
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí Tín) của Ðức Khổng Tử để đặt tên cho các con với ước
mong chúng sẽ bước theo vết chân của các bậc thánh hiền.
Do hoàn cảnh gia đình, thi sĩ phải di cư và sống nhiều nơi: Sa Kỳ Quảng Ngãi
(1924-1926), Qui Nhơn (1926-1928), Học Pellerin ở Huế (1928-1930), làm công
chức ở Qui Nhơn (1930-1933), sống và viết báo tại Sài Gòn (1934-1936), về lại
Qui Nhơn và tạm trú nhiều nơi khi trỗ bệnh hiểm nghèo (1937-1940). Ngày
20.09.1940 nhập trai phong Qui Hòa với số hiệu bệnh nhân 1134 để được các nữ
tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ chăm sóc.
Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận
tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông
Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt
thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi.
Sau đây là “gia tài văn hóa” của Hàn Mặc Tử:
– Lệ thanh thi tập Thơ
– Gái quê Thơ
– Nắng xuân Giai phẩm
– Đau thương Thơ
– Xuân như ý Thơ
– Thượng thanh khí Thơ
– Cẩm châu duyên Thơ
– Duyên kỳ ngộ Kịch
– Quần tiên hội Kịch
– Chơi giữa mùa trăng Thơ văn xuôi
Sau 72 năm từ khi thi sĩ qua đời (1940), đã có không biết bao nhiêu phê bình,
đánh giá, nghiên cứu, mổ xẻ. Nhà phê bình Trần Văn Lý trong tiểu luận văn học
tái bản năm 2006, đã xếp Hàn Mặc Tử là một trong 4 thi sĩ tiêu biểu đáng nhớ
nhất của thế kỷ 20.
Riêng trong lãnh vực niềm tin và thi ca nơi hàn Mặc Tử, linh mục Trần Quý
Thiện đã có những nhận xét chí lý:
“Hàn Mặc Tử, một thi nhân, một nhà thơ Công Giáo, một tâm hồn thuấn nhầm
Niềm Tin Công Giáo sâu sắc, được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện, bằng đời sống
nội tâm phong phú thánh thiện, đã khám phá được những chiều kích mới lạ vượt
qua những niềm đau bất hạnh mà thi nhân đã trải qua. Càng đọc thi phẩm bất hủ
Ave Maria càng đưa chúng ta tới bến bờ huyền nhiệm trong thế giới vô hình.
Phải chăng qua đó, nhà thơ đã đi tiên phong trong sứ mệnh trình bày một nền
Thần học Á Châu dựa trên những suy tư và văn hóa lâu đời của Á Châu. Ðem tôn
giáo vào thơ, lấy nguồn cảm hứng thơ trong tôn giáo phải chăng Hàn Mạc Tử đã
đi đúng con đường mà sau này Tông Huấn Giáo Hội Á Châu đã trình bày. Ðây
chính là một vinh dự cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, vì có một người con đã
đóng góp và khai phá một con đường mới trong Văn Học Việt Nam”
.
Nhưng có lẽ để tóm kết những gì đặc biệt nhất, thâm sâu nhất, tuyệt vời nhất
về giá trị thi ca nơi Hàn Mặc Tử, cả đạo lẫn đời, nhiều người có thể tâm đắc
với nhận xét của thi sĩ Chế Lan Viên, người bạn và nhà thơ đồng thời với Hàn
Mặc Tử: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường,
mực thước kia biến tan đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó
là Hàn Mặc Tử”.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong khung cảnh Phụng Vụ của thánh lễ tưởng niệm hôm nay, đặc biệt, qua gợi
ý của trích đoạn Tin Mừng Luca về “Dụ ngôn người gieo giống”, tôi chỉ xin
chia sẻ đôi điều về người thi sĩ mang danh “thi sĩ của đạo quân Thánh Gi
1. Hàn Mặc Tử: người đã đem hạt giống Lời Chúa, hạt giống đức tin nhập thể
vào đời bằng ngôn ngữ thi ca.
Để xác định ý nghĩa nầy chúng ta có thể đọc lại chính quan niệm của anh về
thơ:
“Đức Chúa trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng
thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa,
và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí tôn. Vì thế, trừ
hai loài trọng vọng là “ thiên thần” và “ loài người”, Đức Chúa Trời phải cho
ra đời một loài thứ ba nữa: “ loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất
quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận
hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền
phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê,
nhưng rất thơm tho tinh sạch…Cho nên tất cả thi sĩ trong đời phải qui tụ,
phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. Thi sĩ không phải là một người thường.
Với một sứ mệnh của Trời thi sĩ phải biết đem cái tài năng ra ca ngợi Đấng
Chí Tôn, và làm cho người đời thấy rõ vẽ đẹp của thơ, để đua nhau nhìn nhận
và tận hưởng…”
(Thư gửi cho Trọng Miên: Quan niệm về Thơ).
Và phải chăng đó chính dòng chảy bất tận thiên thu của công trình “hội nhập
hạt giống Lời Chúa” mà ngay từ thuở hồng hoang Cựu ước, các tác giá Thánh
Kinh thể hiện với “Diễm Tình Ca”, với “Thánh Vịnh”, với những hình ảnh thơ
mộng nơi Isaia, tình tứ nơi Hô-sê hay huyền ảo, mầu nhiệm với Ê-giê-ki-en,
Đa-ni-en…
Chỉ một đôi câu trong bài thơ “Thánh Nữ Đồng Trinh”, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã cho
chúng ta cái cảm nhận thật sống động về mầu nhiệm Nhập Thể-Giáng Sinh:
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel,

Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ,
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trờỉ
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời…(

Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và đó chính cuộc gặp gỡ, giao duyên của những con người đã từng có những cảm
nhận sâu xa về đức tin, về Lời Chúa để có thể “bật ra” những diễn cảm thâm
thúy, hay ho mà lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua các chứng nhân như Giáo
phụ Augustinô, các nhà thần bí như Têrêsa Avila, Gioan Thánh Giá…
Riêng Hội Thánh Việt Nam, trước Hàn Mặc Tử, cũng đã có bao nhiêu con người đã
vận dụng thơ văn để chuyển tải Lời Chúa, để truyền bá đức tin mà hôm nay
chúng ta xác nhận bằng ngôn ngữ của thời đại đó là những cuộc “hội nhập văn
hóa”.
2. Hàn Mặc Tử: Người đã biến cuộc đời thành mảnh đất tốt để hạt giống đức tin
sinh hoa kết trái phong phú.
Với chỉ 28 năm trong cuộc đời tại thế mà trong đó là lao đao lận đận trong bể
khổ bến mê, thất bại trong đường tình, đớn đau vì bệnh tật. Thế nhưng, Hàn
Mặc Tử không vì thế mà để cuộc đời mình chìm đắm trong thất vọng nảo nề, thui
chột trong đầu hàng bế tắc. Anh đã sống hết mình và đã biến mình thành một “hạt
giống chịu mục nát với thời gian”, một “mảnh đất tốt để trỗ sinh nhiều hoa
trái”. Anh đã nói:
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng
lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu. Tôi đã vui,
buồn, giận hờn đến gần đứt cả Sự Sống”. (Lời tựa của tập Thơ Điên 1938)
Trong ý nghĩa đó, quả Hàn Mặc Tử đã gia nhập những thế hệ nhân chứng mà thi
sĩ đã tự nhận đó là “đạo quân Thánh giá”:
“Đây thi sĩ của đạo quân Thánh giá,

Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô,
Để sớt cho cả xuân xuân thiên hạ
Hương mến yêu là lộc của lời thơ”.

(Nguồn Thơm)
Kính thưa quý vị, trong bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, trong niềm tin vào sự
Phục Sinh của Chúa Kitô, chúng ta tin rằng, Hàn Mặc Tử đang cùng chúng ta
tham dự bàn Tiệc Tạ Ơn nầy, đang cùng nhau dâng lời ca ngợi tạ ơn Chúa, tôn
vinh Đức Mẹ Đồng Trinh, lời tôn vinh ca ngợi vượt qua không gian và thời gian
mà ngày xưa chính thi sĩ đã từng cảm nhận:
Ngọc như ý vô tri còn biết cả

Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh,
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giớị..
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi,
Thơm dường bao cho miệng lưỡi khong khen

. (Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và có lẽ, nói về Hàn Mặc Tử sẽ không bao giờ ta nói hết, chia sẻ về người thi
sĩ mang tiếng “Điên” nầy sẽ không bao giờ cạn. Bởi chính anh ta cũng chỉ là
một nổi khát vọng vô bờ như hình ảnh con chim phượng hoàng bay cao, bay cao
lên mãi như lời thơ anh:
Phượng Trì! Phượng Trì!Phượng Trì! Phượng Trì!

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu

.
Và như thế, để tưởng niệm 100 năm ngày sinh của Hàn Mặc Tử hôm nay, chúng ta
cũng chỉ như một khách sang sông mượn chiếc thuyền chở trăng về quá khứ cho
kịp tối nay:
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

(Đây thôn Vỹ Dạ)
Để nói với Hàn Mặc Tử rằng: Yên tâm đi thi sĩ, chúng tôi ở đây, bây giờ vẫn
dành cho anh một tình cảm đậm đà, đậm đà như tim anh đã từng rung lên khi về
thăm thôn Vỹ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Đây thôn Vỹ Dạ)
Và như thế, chúng ta đã sẵn sàng cùng với anh tiến dâng cuộc đời làm hy lễ.
Amen.
LM. Giuse Trương Đình Hiền

Thiên Chúa có kêu gọi bạn ?

 

Thiên Chúa có kêu gọi bạn ?

 

Tác giả JACK GRAHAM

Bạn có nhận ra Thiên Chúa đặc biệt kêu gọi bạn trong cuộc đời này? Ngài thực sự
kêu gọi bạn đấy!

Có thể bạn không cảm thấy Thiên Chúa hướng dẫn bạn trở nên một nhà truyền giáo
hoặc người giảng thuyết, nhưng bạn vẫn được kêu gọi. Đó là nhiệm vụ mà bạn
không được lẩn trốn!

Trong Kinh thánh, 5 lần Chúa Giêsu kêu gọi những người theo Ngài “đi” vào thế
gian và làm chứng về Ngài. Đó cũng là điều chính xác Ngài đang nói với chúng ta
ngày nay. Ngài kêu gọi bạn làm nhân chứng của Ngài. Và bạn có thể bắt đầu từ
ngay nơi bạn đang ở!

Chúng ta được Ngài kêu gọi, điều đó chắc chắn, không còn gì mà nghi ngờ. Bạn có
nghe thấy tiếng Ngài gọi? Bạn có chú ý lời mời gọi đó và vâng theo Thánh Ý
Ngài? Điều đó rất quan trọng để bạn thực hiện.

Bạn biết đó, Thiên Chúa đã đặt những người đặc biệt trên đường đời của bạn. Họ
cần biết những gì Thiên Chúa đã làm cho bạn. Họ cần nghe nói về phúc lành và
bình an của Thiên Chúa. Họ cần biết Thiên Chúa yêu thương họ, thương xót họ, và
họ cần biết Ngài có tương lai hy vọng dành cho họ.

Vậy hãy can đảm trong Đức Kitô! Hãy cầu nguyện cho những người có nhu cầu trong
cuộc đời họ. Hãy làm chứng về Hồng ân Cứu độ của Thiên Chúa. Đó là lời mời gọi
dành cho bạn, là nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã tin tưởng trao cho bạn. Hãy hành
động ngay bây giờ, bạn nhé!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Jesus.org)

Lễ Thánh Lm Anrê KIM, Phaolô CHONG, và các bạn tử đạo – 20/9/2012

Đức Bái Ái và Khiêm Nhường

Đức Bái Ái và Khiêm Nhường

(CN 25TN, Năm B)

 

Tuyết Mai

 

Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. (Mc 9, 29-36 (Hl 30-37)).

Thật phải khi con người trần gian hiếm tìm được người có tánh nhún nhường mà không muốn được trội hơn tất cả mọi người.   Ngay như tôi đây cũng có vài lần ao ước một lần trong đời là giả như tôi được Chúa ban cho một Phép Lạ (magic) thì tôi chỉ cần được sống với Phép Lạ ấy dù chỉ một ngày.   Để cái Tôi của tôi được thỏa mãn sự khao khát ấy và để người không khi dể tôi.

Vì cuộc đời của tôi Chúa muốn tôi sinh ra với ngôi sao xấu, nên khi tôi chào đời trong cảnh nhà neo đơn chiếc chỉ có hai mẹ con.   Không cha, không nôi đẹp, chẳng ai mừng (ngay cả mẹ tôi), và chẳng ai chúc mừng cho hai mẹ con tôi trong cái ngày trọng đại của một baby được ra đời ấy!.   Lớn lên thì thành trẻ mất dậy vì không được đi học cho đến nơi đến chốn, cho đến cái ngày Nước mất nhà tan của tháng Tư Đen năm “75”.   Tôi đã được chị kế của tôi đem tôi sang Mỹ vì anh rể tôi làm việc cho quan thuế Mỹ và được Mỹ bảo lãnh giấy tờ cho cả nhà đi trong sự bình yên.

Tôi đã được học trọn 4 năm Trung Học.   Học trọn 2 năm Trường Đại Học rồi được chuyển tiếp lên Trường Đại Học UCI nhưng lên đây thì tôi chịu thua vì sức học của tôi yếu kém.   Sự học của tôi đã yếu kém hơn người thường lại còn gặp cái ngọng nghệu trong Ngôn Ngữ xứ người.   Vì thế bằng cấp Đại Học thì tôi không có.   Bạn Trung Học tôi cũng có quen một số.
Bạn Đại Học tôi cũng có quen một mớ, mà rất ít khi tôi thấy được họ.   Thiết tưởng những bạn này bây giờ họ đang rất thành công vì chắc hẳn ai cũng Áo Mũ Ra Trường, với tấm bằng rất thơm.   Trở thành nhân vật quan trọng, học thức, tầng lớp cao trong xã hội (White color).   Tuy thời gian cũng chẳng ưu ái gì với chúng ta nhưng khi tôi gặp lại họ thì tôi bị mặc cảm vô cùng.   Vì họ đi xe xịn và khoác trên người những thứ sang trọng.

Chỉ những lúc ấy tôi thấy được cái buồn nó đến thật nhanh trong tôi cách khó tả.   Không thể cắt nghĩa cho được hay nói cho nên lời những điều tôi Cảm.   Lúc đó tôi mới thấy rõ cái giầu và nghèo nó khác lắm thưa anh chị em!.   Chẳng phải vì họ vênh mặt lên mà khi dể tôi vì tôi có cho họ cơ hội đâu!.   Không thấy họ thì tôi ok.   Nhưng khi tôi nhìn thấy họ thì tự tôi bảo tôi là hãy rẽ sang lối khác mà đi, đừng để cho họ thấy; buồn lắm!.

Ai bảo con người mà không có cái Tôi nó To bằng trái núi? Nhưng khi đang ở cái tuổi nửa đời người như tôi thì từ từ nó như trái bong bóng bị xì hơi và như đang ở tuổi của ông nhà tôi “65” thì bây giờ chỉ mơ tưởng những gì rất thực tế là Ở ngay tầm mắt thấy của ổng mà
thôi!.   Thưa không thực tế cũng không được vì ông chỉ còn một mắt để nhìn người và nhìn đời!.

Khi còn ở tuổi trẻ, ai cũng có mộng mơ cao xa lắm! Mơ toàn là lấy được tiên nga với hoàng tử.   Kiếm được thật nhiều tiền.   Toàn là mơ sẽ là những bác sĩ, kỹ sư, luật sư, nha
sĩ, thầy giáo cô giáo, v.v…. ở ngạch trí thức trong tương lai.   Còn những ngành nghề thấp kém hơn chẳng ai nghĩ rằng mình sẽ làm cái nghề ấy!?.   Nhất là những ai tự cho rằng mình thông minh.   Chắc cũng nhờ sự mơ mộng cao xa và ý chí mạnh mẽ ấy mà dân VN ta bên Mỹ đây rất được người trọng nể và trọng dụng.   Người VN ta nổi tiếng là dân Á
Châu rất thông minh, chăm chỉ siêng năng làm lụng, rất tin tưởng, và trung thành với boss, hãng, và công ty được mướn làm việc.   Luôn được khen là thông minh, có sáng kiến, và giỏi sáng tạo.

Sinh ra làm người trên đời, những ai có mộng ước cao xa, tôi không nghĩ đó là khuyết điểm và là cái tội, mà ngược lại điều ấy lại là trọng tâm và có tầm quan trọng trong cuộc sống của con người.   Vì có phải Học Hành mới có Tương Lai?.   Chỉ có sai khi chúng ta đã cố gắng quá mức mà chúng ta có thể chịu đựng được!?.   Nên thiếu biết tổ chức để ta có được quân bình trong 24 giờ đồng hồ Chúa ban.   Cho gia đình, cho chính mình, cho bằng hữu, và cho những trò chơi có tính cách tiêu khiển lành mạnh.   Vì sự Quá Cố Gắng ấy đã biến chúng ta thành con người Dữ Tợn và Tham Lam.   Muốn làm vua một cõi.   Muốn vợ chồng người.   Muốn lấy luôn của người làm của mình.   Và muốn làm bá chủ thiên hạ.

Nếu muốn để cảm nhận tình người, chúng ta thử hội nhập vào cuộc sống của những con người thấp cổ bé miệng đó xem, chúng ta sẽ hiểu rằng chẳng những chúng ta Ác Độc mà còn là con Thú Dữ (beasts) nữa!.   Hoặc chúng ta sẽ cảm nhận được cách rất thực tế là nếu Chúa lấy đi một phần hạnh phúc của chúng ta đang có như cụt một cánh tay hay một cánh chân, mất đi trái thận, một con mắt, một bên tai nghe, miệng méo không nói rõ được, bị stroke, hay bị cancer, v.v…. thì mọi thứ trên trần gian này mới có thể làm giảm đi Cái Muốn, Cái Tham Lam, và Cái Cao Ngạo của chúng ta được.

Chúa dậy chúng ta “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi
người”.   Tôi không nghĩ rằng Chúa muốn chúng ta hiểu theo nghĩa cạn đâu thưa anh chị em, nhưng có nghĩa chúng ta luôn sống trong sự Khiêm Nhường và Bác Ái cùng tất cả anh chị em sống quanh chúng ta.   Đối xử tốt với mọi người nhất là những con người bất hạnh cho họ được ngang hàng với mình.   Để cho họ cảm thấy bớt tủi, bớt nhục, bớt đau đớn, và để thấy cuộc đời còn có người Đối Xử Tốt với họ.   Chứ chẳng phải Chúa khuyên ta là đang làm bác sĩ, là một cái nghề cao trọng trong xã hội rất được mọi người cần, mà tự nguyện xuống làm nghề lao công lau chùi trong nhà thương đâu!.

Nhưng nếu có làm bác sĩ thì hãy để người người kính trọng chứ đừng hành nghề sái với lời thề của một vị bác sĩ đúng nghĩa có nghĩa là Cứu Giúp người.   Dù cho người ấy không có
tiền.   Dù cho người không có Bảo Hiểm.   Dù cho người ấy là phường đĩ điếm hay tù nhân …. hay vì bất cứ lý do gì.   Chẳng phải vì ta là bác sĩ nên chỉ trọng và chăm lo cho những ai giầu có rồi coi thường hay xua đuổi người nghèo bệnh tật.   Hay cố gắng lấy được tấm bằng là để Kiếm thật nhiều tiền!.

Có phải Chúa khuyên chúng ta càng làm Lớn thì càng phải trở nên Bé Nhỏ hay không? Mà đức tánh Khiêm Nhường ấy chẳng qua là ta có được Đức Bác Ái?.   Nhờ có Đức Bác Ái thì Đức Khiêm Nhường luôn đi cạnh bên nhau như Hình với Bóng, thưa có phải?.   Xin Thiên Chúa Vua Tình Yêu, giúp cho chúng con hiểu mạch lạc Lời và Thánh Ý Chúa.   Để chúng con có thể Vào Được Nước Chúa mới là điều quan trọng chứ khi Vào Được rồi thì Lớn với Nhỏ có còn là điều ao ước của con cái Chúa nữa hay không?.   Amen.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=y36zKHjXIfA

(Xin Nên Bé Nhỏ)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(09-20-12)

Cảm Nhận Ơn Chúa

Cảm Nhận Ơn Chúa

Tác giả: Tuyết Mai

Trong tất cả chúng ta tôi xin được hỏi nhỏ, có ai là người hạnh phúc nhất trên đời khi có được trong gia đình của mình, bà con hay bạn bè ngoài xã hội, đóng đủ vai trò rất quan trọng trong cuộc đời ngày qua ngày của chúng ta hay không?.   Người đó thưa rất được
chúng ta quý nể, mến yêu, và rất tin tưởng.   Vâng, chỉ một người mà thôi! Người ấy có thể là cha hay mẹ, chú bác, hay cô dì; hay ngay cả vợ hoặc chồng.   Người ấy cũng có thể là vị Linh Mục Bạn, Sơ bạn, Boss bạn, v.v……nếu có thì anh chị em là người hạnh phúc nhất trần đời rồi còn gì; hạnh phúc còn hơn là được trúng số nữa …. Nhưng tôi biết rằng rất hiếm thấy có!.

Tôi xin chúc mừng cho hết thảy những ai có được Bạn Đặc Biệt như thế trong cuộc đời.   Vì sao, thưa vì người này biết có lời khuyên ta khi ta làm điều sai trái thì họ chính thật là
thầy giáo của ta.   Khi có giờ rảnh thì người này cũng không màng mà cho ta đôi tai để nghe những lời càm ràm, những bực tức của ta gặp trong ngày hay trong tuần.   Người ấy rõ thật là Bạn Thân Tín nhất của ta!.   Có những khi ta cũng rất cần sự Cố Vấn riêng của người thì
người cũng luôn sẵn sàng mà không có lời phê bình cho ta là ngu hay ngốc quá.   Cũng có rất nhiều khi ta cần có người ngồi với ta ở một nơi nào đó trong sự tĩnh mịch chỉ để cùng nhau cho nhau sự thoải mái của riêng mình.

Nếu trên đời có những người như thế để ta ao ước có được và đang có thì xin anh chị em hãy cố gắng giữ mãi Tình Bạn Rất Hiếm Có này!.   Đó là trường hợp rất đặc biệt mà ông nhà tôi đang có được…. nhưng không nghĩ rằng mình đang ôm một kho tàng quý hiếm Là ông bạn
thân rất lâu năm và người vợ rất quan tâm đến nhu cầu cần thiết của ông.   Nhưng có phải con người của chúng ta thường tỏ lộ sự vô ơn và đối xử rất bạc với người bạn rất dễ thương và ta rất cần đến họ? Vì không hiểu được Giá Trị vô cùng cần thiết ấy mà không dễ gì ai có được.

Khi mình luôn nhận được sự chìu chuộng và được quan tâm trong sự đòi hỏi của mình mà có rất nhiều khi quá đáng vì cho rằng đó là chuyện hẳn nhiên và rất bình thường.   Mà không hiểu rằng cả hai có cùng giá trị tương đương.  Vâng, thưa cuộc đời chẳng hiểu do đâu, vì đâu, bởi đâu, và tự đâu lại có những con người vô cảm và vô ơn như thế?.   Câu hỏi này cũng rất thường để chúng ta vặn hỏi những người có quyền hành, quyền thế, và quyền lực đang dậy bảo con em chúng ta ở tuổi chúng đang cố gắng hấp thụ những tinh hoa, những điều tốt lành, và có sự Công Bằng trong một xã hội mà kẻ Mạnh Giầu ăn hiếp người thấp cổ bé miệng trong mọi thời đại.   Nói về vấn nạn này thì thưa muôn đời cũng không có được giải đáp chung chung hay khá hơn cho được.

Hôm nay điều chính mà tôi muốn được chia sẻ cùng anh chị em là cách Đi Tìm Tình Yêu Thiên Chúa và Bình An của Người vì có phải chính Người đã tác tạo ra ra và yêu ta từ muôn đời?.   Tình Yêu của người thì thật cả vũ trụ, mọi tạo vật, và con người đều hiểu vì đó
là sự Hiển Nhiên hiện hữu trước mắt chúng ta.   Nhưng như tôi đề cập ở trên là vì con người có tánh vô cảm và không bao giờ biết nhớ hay muốn nhớ ơn của ai đã làm cho mình.   Đối xử tệ bạc với nhau ngay như trong gia đình mà còn thấy rằng không ai tin tưởng ai.   Nhất là cùng nhau mở cửa tiệm.   Thấy có lời là nhanh chóng tìm cách để hất nhau ra.

Điều tôi muốn đề cập là làm sao để anh chị em có thể Cảm Nhận Được Ơn của Chúa trong từng ngày sống của chúng ta mà không cần đòi hỏi phải có tiền.   Có phải khi ta cảm nhận được tình bằng hữu, biết trân quý nó, trân trọng giá trị riêng của nhau thì chỉ cần một bước xa hơn (one step away) chúng ta sẽ rất dễ để Cảm Nhận được Tình Yêu Thiên Chúa cách không khó.

Chỉ có khác là một người thì phải luôn có trước mặt chúng ta để nhìn thấy, nghe, đáp trả, và vui buồn với ta.   Còn Thiên Chúa của chúng ta thì Người luôn Có Đó ngay sát bên ta mà chỉ cần trong sự thinh lặng ta cũng có thể nghe được Người.  Hơi thở nhẹ nhàng của Người như cơn gió nhè nhẹ thổi qua mái tóc hoặc nụ hôn phớt trên má cho ta cảm thấy ấm lòng.

Hạnh Phúc thay cho hết thảy chúng ta vì có phải Người là Thiên Chúa rất quyền năng của chúng ta?.   Người là Khiên Thuẫn và là Thành Trì Kiên Cố để chúng ta ẩn núp?.   Có
Người ta không sợ một ai hiếp đáp.   Riêng chỉ có Người là Người Bạn rất Trung Thành với ta, chẳng bao giờ đi nói xấu ta, hay đâm đằng sau lưng ta.   Người là Người Bạn chẳng bao giờ xa ta nửa bước!.   Khi ta buồn thì Người ngồi đó để cùng cảm và cùng khóc với ta.
Người biết rằng khi con người quá đau khổ mà chẳng có thể than thở hay khóc thương cùng ai thì chỉ biết quay qua trách móc Người; nhưng người chẳng những không giận mà luôn tha thứ cho ta.

Khi ta đứng trước của bờ vực thẳm thì cũng chính Người lôi kéo ta trở về cùng Người để Người An Ủi và Lắng Nghe.   Còn Giá Trị Tinh Thần nào hơn nữa là Thiên Chúa vô cùng Yêu Thương của chúng ta?.   Còn sự vững bền và an toàn nào hơn cả khi ta sống luôn bội bạc với Người mà Người vẫn không mảy may ngoảnh mặt mà chối bỏ chúng ta.   Đường đời thì ai cũng giỏi cũng dầy dặn những kinh nghiệm vì ngay cả một đứa con nít khôn ranh chúng cũng hiểu đời là bội bạc ở tuổi rất sớm cơ mà!.   Nhưng có phải Tình Yêu Thiên Chúa mãi muôn đời vẫn không đổi thay!.

Thế thì do đâu hay có phải trần gian luôn thiếu bóng những Tấm Gương Sáng sống chung quanh chúng ta, mà chỉ thấy toàn những Pharisêu, nhà Thông Luật, và Biệt Phái của mọi thời đại, luôn sống ngược lại với những gì Chúa Răn Dậy?.   Nên Lời Chúa và Gương Sống
của Chúa không được Truyền Đạt cách Đúng Đắn như Thánh Ý và Lòng Mong Muốn của
Chúa.   Con cái Chúa luôn bị những thành phần này làm họ sống trong ngờ vực, thắc mắc, luôn biện hộ cho những việc làm bất chính đồi bại của họ, v.v…. (very confuse).

Để Cảm Nhận Tình Yêu Thiên Chúa tôi xin được kể vắn tắt một chuyện đọc được từ cuốn sách Chicken Soup, rất cảm động, và rất dễ bắt chước theo.   Có một ông Mỹ ngày nào cũng ghé vào Nhà Thờ để Chào Chúa Jesus và chỉ ở đúng 2 phút thì ông ra về.   Sự thể này đã làm cho Cha Sở thắc mắc và chận hỏi anh tại sao anh không đến ở lâu hơn mà lần nào cũng chỉ ở lại vỏn vẹn trong 2 phút?.   Được ông trả lời Cha Sở rằng ông không biết chữ và không biết hay thuộc một kinh nào do đó ông chỉ đến Nhà Thờ là muốn được Chào Chúa Jesus của ông mà thôi rồi ông ra về.

Cha Sở hỏi thế ông nói gì với Chúa thì được biết ông chỉ đến nói với Chúa là “Jesus, this is Tim and I am here” đại khái dịch là “Lậy Chúa Giêsu con là Tim đến chào Chúa đây!” Và cứ thế …. Được biết sau này ông không còn đến lui Nhà Thờ nữa mà vào Viện Dưỡng Lão
ở.   Ai trong viện cũng rất mến thương ông và nhất là những ai không chịu uống thuốc; gặp ông là họ rất vui vẻ để uống thuốc.   Đặc biệt sau này ông không còn đi đứng được nữa nên xin y tá để trong phòng cho ông một chiếc ghế, được hỏi thì ông cho biết rằng cái ghế đó chỉ dành cho Jesus Chúa của ông hằng ngày đến thăm ông.   Vì ai trong đó đều biết rằng ông
chẳng có một thân nhân nào cả!.   Ông cũng cho họ biết rằng vì ông không còn đến được Nhà Thờ để chào Chúa nên Chúa Jesus của ông đã hằng ngày đến thăm ông; cùng cho ông lời chào hỏi tương tự như sau “Hey Tim! This is Jesus and I am here” dịch đại khái là “Này Tim, Jesus đến thăm con đây” …. Và cứ thế  cho đến ngày Chúa Jesus đến đón ông Tim Ra Đi luôn mãi.

Chỉ cần chúng ta hằng ngày dành chút thời giờ cho Chúa như khi chúng ta đi bộ hàng giờ để tập thể dục hay dành hẳn “Giờ cho Chúa”.   Không gì bằng ta đem mọi thứ, mọi điều, và mọi
chuyện để than thở, tâm sự, và giải bày cùng Chúa và nhờ Người giúp cho; rồi thì phó mặc tất cả gánh nặng ngoài khả năng cho Chúa.   Bảo đảm nhiều ngày, nhiều tháng, và nhiều năm chúng ta sẽ Cảm Nhận được Bình An và Tình Yêu của Chúa trong tâm hồn và trong trái tim Là Hồng Ân tối thiểu mà chúng ta lãnh nhận từ Người.   Là tương đương với giá trị của tổng số kho tàng trần gian gom lại đó thưa anh chị em!!!.

 

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=zbWDCPmCUN0

(Chúa Yêu Con Từ Muôn Đời)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(09-18-12)

 

Đức tin và việc làm

Đức tin và việc làm

 

Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích

Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích

Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.

Cho nên Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”

Linh đạo người tông đồ:

Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện

Hoa trái của cầu nguyện là đức tin

Hoa trái của đức tin là tình yêu

Hoa trái của tình yêu là phục vụ

Hoa trái của phục vụ là bình an

Hoa trái của bình an là là bác ái

Mẹ Têrêsa Calcutta

S.T.

Mẹ Maria Hằng Bảo Bọc Chở Che

Mẹ Maria Hằng Bảo Bọc Chở Che

 

Tác giả:Tuyết Mai

Mẹ Maria yêu, Mẹ có biết ngôi vị của Mẹ luôn được tất cả mọi người trên thế gian nhìn lên Mẹ để Chiêm Ngắm, Chiêm Ngưỡng, và Vô Cùng là Mừng Vui hay không?.   Vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.   Thiên Chúa Cha thương yêu Mẹ từ thuở muôn đời.  Người đã tác tạo ra Mẹ cách rất đặc biệt là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.   Có phải vì Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội cho nên còn làm cho rất nhiều người ngoại đạo cùng một số đạo Tin Lành, bị dị ứng, nên họ luôn nghi ngờ và chất vấn những ai Tin vào Mẹ, Sùng Bái, Ca Ngợi Mẹ cách mạnh mẽ và tuyệt đối?.   Mà họ quên rằng Người tác tạo ra Mẹ chính là bàn tay vô cùng Quyền Năng của Thiên Chúa Cha.   Điều gì và bất cứ mọi tạo vật nếu Người muốn thì tất cả sẽ liền có mặt và phủ phục trước Tôn Nhan Người.   Không một tạo vật nào trên vũ trụ dám nên thắc mắc, nghi ngờ, và thách thức Quyền Năng của Người.

Sao con người lại có thể ngờ vực cách “ấm ớ” như thế được Mẹ nhỉ? Có đáng không khi chương trình Cứu Độ con người của Chúa phải được thực thi trên trần gian này thì khó khăn chi khi Chúa Cha phải tác tạo cho Chúa Con một người Mẹ thật Xứng Đáng để Cưu Mang trong cung lòng Mẹ một Thiên Chúa Con?.   Quá dễ để hiểu thế mà họ vẫn cứ “cãi chầy cãi cối” suốt bao nhiêu ngàn năm qua và còn tiếp tục cãi.   Có phải vì còn nhiều Quốc Gia trên thế giới vẫn coi rẻ đàn bà và phụ nữ?.   Do đó họ không thể tin một người đàn bà rất tầm thường như Mẹ Maria lại có thể sinh ra Con Thiên Chúa cho được.

Nhờ Mẹ mà hết thảy con cái Mẹ trên trần gian không ai là không hiểu Tình Yêu Trọn Vẹn của Mẹ dành cho hết thảy con cái Mẹ rất thắm thiết, đậm đà, và rất mặn nồng.   Chúng con đã luôn cảm tạ Thiên Chúa vì Người ban cho chúng con người mẹ trần gian cũng đã yêu
thương chúng con cách có thể hy sinh mạng sống của các ngài để các con được Sống.   Thiên chức làm “mẹ” quả cao cả, linh thiêng, mà Thiên Chúa dành sẵn, cấy sẵn trong tất cả người phụ nữ Chúa tác tạo.   Ôi người mẹ ấy đã cảm nhận mạnh mẽ khi con của mình còn nằm trong dạ, yêu lắm khi con vừa lọt lòng mẹ, và nghe tiếng khóc chào đời đầu tiên của con mình.

Nhưng như thế mà Thiên Chúa chúng ta cũng còn chưa thấy đó là hoàn hảo là đủ (complete), trừ khi Người ban cho thế gian một người Mẹ Tuyệt hảo, Tuyệt Vời, và Tuyệt Mỹ, và là Tuyệt Tác của Đức Chúa Cha Toàn Năng.   Mẹ sẽ là người ra tay cứu giúp để con cái Mẹ biết xa tránh tội lỗi, đam mê; can đảm để vượt qua được sự yếu hèn, thú tính, và ngông cuồng do ma quỷ chúng dụ dỗ, giăng mắc, và bủa vây.   Để không đánh mất Linh Hồn Đời Đời nơi Hỏa Ngục.

Mẹ Maria là Tấm Gương Sáng Ngời để chúng con nhìn và bắt chước Mẹ, nhất là giới phụ nữ của chúng con.   Cuộc đời của Mẹ cũng lắm khổ đau và nước mắt.   Cuộc đời của Mẹ cũng
“5 chìm, 7 nổi, chín lênh đênh” (Mẹ Sầu Bi).   Nhưng Mẹ luôn Sống trong Ơn Nghĩa Chúa.   Mẹ luôn làm những điều Thiện Hảo.  Mẹ luôn sống trong Bác Ái trong Yêu Thương.   Luôn khao khát chờ đợi cho Đấng được sai xuống để giải thoát và Cứu Chuộc toàn thể nhân loại tội lỗi của Mẹ.   Mẹ luôn hiền lành và Xin Vâng Lời Thiên Chúa Muốn và Truyền Dậy.

Mẹ luôn Chấp Nhận đau khổ của trần gian mang lại để tìm Sự Sống Thực Sự mà Thiên Chúa có sẵn trong Chương Trình Cứu Độ nhân loại của Người.   Ai bảo làm mẹ là dễ khi bao nhiêu trách nhiệm đều vào tay của người mẹ.   Ai bảo con cái sống trên đời thiếu mẹ đều có hạnh phúc? Và ai bảo chúng không yêu Mẹ của chúng?.   Có phải một ông Tổng Thống của một Quốc Gia hay một Thủ Lãnh, cũng cần có mẹ dù ông hay bà đã trưởng thành hay đã ngả về già mà vẫn còn có mẹ?.   Cho nên nếu họ là một Tổng Thống hay là một Thủ Lãnh mà còn biết kính trọng mẹ của mình, yêu thương vợ của mình, thì có gì là khó hiểu khi Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa chứ?.

Lậy Mẹ Maria, chúng con dù là nam  hay nữ, cũng luôn tạc dạ ghi ơn Mẹ vì Mẹ luôn có cách bảo bọc, bảo vệ, che chở chúng con, và mãi mãi muốn cho chúng con luôn sống được bình an trong sự quan phòng và hỗ trợ của Mẹ.   Để sau cuộc đời này hết thảy chúng con cùng
theo Mẹ Về Trời, Nơi mà Thiên Chúa đã Dọn Sẵn Chỗ cho tất cả con cái của Người; qua Tình Mẫu Tử rất thiêng liêng, luôn gắn bó với con cái của Mẹ.  Không cách nào Liên Kết hay hơn cho bằng là Chuỗi Kinh Mân Côi của Mẹ trao ban cho hết thảy chúng con là Khế Ước và là lời Giao Ước để được Nước Trời, nếu chúng con trung thành với Kinh Mân Côi của Mẹ.

Rất dễ hiểu vì Kinh Mân Côi là Mấu Chốt (keys) giúp hết thảy con Mẹ biết tìm đến Mẹ để được Mẹ dậy bảo, ủi an, khuyên răn, và được Mẹ thay đổi; cách toàn diện và cách toàn thiện.   Qua đó con cái Mẹ sẽ được Mẹ mạc khải cho hiểu rõ ràng và mạch lạc hơn!.
Sẽ được  Mẹ mở lòng, mở trí, và mở mắt cho con cái Mẹ thấy Nước Chúa và thế nào
để Lên Được Nước Chúa Hằng Sống.   Đại khái như danh từ Mở Nhân Sa nếu có ai học lớp Nhân Điện để có thể chữa bệnh cho người!??.

Lậy Mẹ Maria hiền mẫu của chúng con ơi! Đã gọi là trần gian thì không một ai có thể thoát qua tứ cửa là Sinh, Bệnh, Lão, Tử …. Nhưng có Mẹ trong cuộc đời với Gương Sống Thánh Thiện của Mẹ, cộng Chuỗi Mân Côi Mẹ cho, sẽ là Sức Mạnh vô cùng giúp chúng con vượt qua mọi cám dỗ, đam mê, và tội lỗi của trần gian này; nhất định là thế!!!.   Xin Mẹ luôn cầu bầu cùng Thiên Chúa để Người kiên nhẫn, chậm giận, bớt nóng, và chậm cơn thịnh nộ của Người; cho chúng con có cơ hội có thời giờ để Ăn Năn và Chừa Tội.   Amen.

 

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=1bY2LtsyP9M

(Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(09-16-12)

Trách nhiệm làm Cha Mẹ

Trách nhiệm làm Cha Mẹ

Bạn có cảm thấy “mệt mỏi” với công việc đến nỗi khiến bạn cảm thấy “xa rời”” con cái? Và bạn có cảm thấy mình có lỗi với chúng? Xin đừng quá lo lắng!

Việc giáo dưỡng con cái bắt buộc cha mẹ bận rộn đủ thứ, cả đời sống thường nhật và đời sống tình cảm, để rồi có lúc bạn cảm thấy mệt mỏi, rời rã, thậm chí bị thâm quầng đôi mắt!

Có thể cha mẹ là những “chuyên gia” trong việc cho ăn uống, cho mặc, dỗ dành, phân công,… Nhưng có lúc vẫn cảm thấy lúng túng khi xử lý các sai lỗi của con cái, dù chỉ là lỗi nhỏ. Nếu công tâm và rạch ròi, bạn phải công nhận điều đó!

Thật vậy, có người cảm thấy thiếu trách nhiệm làm cha mẹ đối với con cái (bằng một động thái nào đó). Quá nghiêm khắc hoặc quá nhu nhược cũng là một trạng thái “phi trách nhiệm”. Cũng là “phi giáo dục” nếu bạn dễ dãi cho chúng tiền bạc khi chúng xin mà không rõ lý do chính đáng.

Nuôi dạy con cái là một trọng trách, nhưng vô cùng thiêng liêng và cao quý, vì “nuôi con trai mà không dạy thì không bằng nuôi con lừa, nuôi con gái mà không dạy thì không bằng nuôi con heo” (Trinh Thị). Ngoài ra, “chúng ta không chỉ dạy con cái bằng những điều bảo ban mà còn bằng chính cách sống của chúng ta” (V. A. Xukhôlinxki).

Ngạn ngữ Đức có câu: “Một người cha có con thì dễ, nhưng để làm người cha thì thật khó”. Đúng vậy, đã là trọng trách thì phải khó, nhưng phải chu toàn, dù muốn hay không muốn. Nhiệm vụ ấy không chỉ hoàn thành cho xong mà phải hoàn thành một cách xuất sắc. Trách nhiệm không của riêng ai, mà là của cả cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Đừng câu nệ mà đổ lỗi là “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, hoặc đổ lỗi lẫn nhau để “dày vò” nhau.
Cần phải “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.

Nhiều phụ huynh quá giản dị hóa, lơ là bổn phận để rồi “không kịp hối”. Con cái còn “trẻ người, non dạ” và “ăn chưa no, lo chưa tới”, cha mẹ nên lưu ý chúng vì cạm bẫy lúc nào cũng bủa vây “như sư tử đang rình mồi để cắn xé”, mọi nơi và mọi lúc, cả tinh thần lẫn thể lý, nhất là trong xã hội ngày nay. Cần phân tích để con cái biết chính diện và phản diện kẻo chúng ngộ nhận. Thái quá thì bất cập, do đó cha mẹ không nên khư khư kiểm soát quá gắt gao như
người quản tù theo dõi tù nhân, nhưng cũng đừng bao giờ thả lỏng.

Hãy nói ít, và chỉ nói những điều cần thiết, đừng “lèm bèm” hoặc “nói dai như đỉa đói”. Đó là diệu kế giáo dục con cái để chúng nên người hữu dụng. Lời nói có thể làm “lung lay”, nhưng chính gương lành mới đủ sức “lôi kéo”. Khi cần nghiêm trị, cha mẹ cần tỏ thái độ cương nghị, răn dạy chúng bằng lòng yêu thương và nhân từ, đừng sửa phạt chúng
bằng lòng căm hận khiến chúng khiếp sợ mà phản tác dụng, thậm chí chúng không
còn cảm thấy kính trọng cha mẹ. Tuy nhiên, cha mẹ cũng không nên buông tuồng,
vì tiền nhân đã cảnh báo: “Bờn nhờn chó con liếm mặt”.

Trách nhiệm làm cha mẹ tuy cần thiết và khó khăn, nhưng không phải là không thể thực hiện. Đó còn là niềm hạnh phúc kỳ diệu của một tổ ấm mà không gì có thể sánh được. Sử Viễn so sánh: “Vui nhất không gì bằng đọc sách, cần nhất không gì bằng dạy con”. Đừng quá tham công tiếc việc, chạy theo đồng tiền, lo làm giàu mà chểnh mảng việc giáo dục con cái. Vừa cương vừa nhu, đồng thời cố gắng tạo sự cởi mở để làm “gạch nối” trong hệ lụy cha mẹ và con cái.

Sau khi khảo sát các gia đình ở 20 quốc gia, một học giả người Mỹ kết luận: “Con cái muốn cha mẹ không cãi nhau, luôn đối xử công bằng với con cái, không thất hứa hoặc nói dối, cha mẹ nhường nhịn nhau chứ không trách cứ nhau, biết quan tâm lẫn nhau và quan tâm con cái, vui vẻ với bạn bè của con cái, không cáu gắt, cho con cái tham gia ý kiến, được vui chơi, dám nhận khuyết điểm nếu cha mẹ có lỗi”.

Tuyệt đối cha mẹ không nên áp chế, điều gì cũng cho là con cái “cãi”. Đó là thiếu dân chủ và thiếu công bằng trong gia đình, vì “quá phê phán người khác là phủ nhận quyền tự do sống của người đó” (K Mamutri). Con cái cần những gương tốt hơn là lời chỉ trích. Tuy nhiên, đừng nuông chiều chúng. Tục ngữ Tày Nùng nói: “Yêu con thì yêu sau lưng, giận con nên giận trước mặt”. Cái “nhu” của người mẹ kết hợp với cái “cương” của người cha để hài hòa giáo dục: “Mẹ đánh một trăm không bằng cha ngăm một tiếng” (Tục ngữ Việt Nam).

Thật hạnh phúc cho những ai đã, đang và sẽ làm cha mẹ nếu luôn là niềm hãnh diện của con cái, là ngọn hải đăng luôn tỏa sáng dẫn đường, luôn chu toàn trọng trách, và như vậy mới luôn xứng đáng là “Núi Thái Sơn” và “Nước Trong Nguồn”.

TRẦM THIÊN THU

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

THẾ NÀO LÀ CẦU NGUYỆN?

THẾ NÀO LÀ CẦU NGUYỆN?

Cầu nguyện là lắng tai nghe tiếng Chúa nói với ta

Cầu nguyện là tiếp nhận những gì Chúa muốn ban cho

Cầu nguyện là đón nhận ơn tha thứ từ nơi Chúa

Cầu nguyện là quy hướng về Chúa mọi việc ta làm

Cầu nguyện là để Chúa chiếm ngự linh hồn mình

Cầu nguyện là tưởng nghĩ đến Chúa với tâm tình thân mật thiết tha

Cầu nguyện là tìm hiểu rằng ta được Chúa thương yêu giữ gìn coi sóc

Cầu nguyện là liên lạc với Chúa như với người thân mến yêu thương

Cầu nguyện là để mình chìm đắm trong Chúa; là biển cả yêu thương

Cầu nguyện là đi vào cảnh thinh lặng

Cầu nguyện là mến thương trò chuyện với Chúa

Cầu nguyện chỉ là việc hiệp nhất với Thiên Chúa

Cầu nguyện là tin rằng Thiên Chúa luôn luôn có lý

Cầu nguyện là gỡ tấm màn để nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa

Cầu nguyện là sẵn sàng để Chúa có thể nói với ta những gì Người muốn nói

Cầu nguyện là phó thác để Chúa có thể làm ở trong ta những gì Người muốn làm

Cầu nguyện là tiến lại gần Chúa, để thấy rằng Chúa tuy xa song lại rất gần gũi

Cầu nguyện là đi sâu vào tâm hồn Đấng mình gọi là Cha, mặc dù mình tội lỗi bất xứng

Cầu nguyện là hướng mình về Chúa như hướng về mặt trời để được Người sưởi ấm tâm hồn

Cầu nguyện là xác tín rằng Thiên Chúa biết rõ hơn chúng ta những gì ta cần

Cầu nguyện là tìm cách hòa đồng ước muốn của mình với Thánh ý Chúa

Cầu nguyện là tin rằng Chúa không ngừng chăm nom săn sóc và phù trợ ta

Cầu nguyện là tin rằng có Chúa Quan Phòng, đếm từng sợi tóc trên đầu ta

Cầu nguyện là ngừng bước, là suy tư, là sắp xếp giờ giấc và việc làm theo ý Chúa

Cầu nguyện là mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa, để Người thông truyền cho ta Tình yêu bao la của Người

Cầu nguyện là để Thánh Thần Chúa đưa mình vươn lên tới Đức Chúa Cha trong Đức Chúa Con

Cầu nguyện là yên lặng nhìn ngắm Chúa, không cầu nói năng, là nói với Chúa bằng ánh mắt và bằng suy tư

Cầu nguyện là tiếng rên xiết lo âu, là lời khẩn cầu ơn cứu trợ, là việc chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa

Cầu nguyện là chấp nhận quyền ưu tiên của Thiên Chúa, là nhận Người làm chủ tế đời sống mình

Cầu nguyện là giữ thái độ phó thác của trẻ thơ, biết tin cậy vào sự chăm sóc của Thiên Chúa, là người Cha nhân hậu

Cầu nguyện là thay đổi ý định của mình và tôn trọng ý định của Thiên Chúa

Cầu nguyện là chấp nhận để một “người khác” (và đây là Thiên Chúa) “quấy rầy” mình.

Cầu nguyện là một cử chỉ xác tín rằng:

Thiên Chúa hiện hữu

Thiên Chúa đang nhìn xem ta

Thiên Chúa lắng tai nghe ta

Thiên Chúa trả lời và cứu trợ ta

Thiên Chúa thương ta như Cha thương con

 

Cầu nguyện là tất cả:

là nghe tiếng Chúa nói

là sẵn sàng làm theo lệnh Người truyền

là ngợi khen, chúc tụng,  cầu khẩn

Cầu nguyện là để Chúa cải hóa bản thân ta

Cầu nguyện là nhận thức rằng mình yếu đuối

Cầu nguyện là hành động của trẻ thơ,

biết mình vụng dại

biết mình hèn mọn

biết mình mỏng dòn

nhưng cũng biết rằng Chúa là “Mẹ hiền”

là “Người Cha vô cùng nhân hậu”

 

Cầu nguyện là thú nhận với Chúa:

tuy con yếu đuối

tuy con tội lỗi

tuy con đầy khuyết điểm,

nhưng vẫn được Chúa thương yêu.

 

Cầu nguyện đôi khi cũng là lời thú nhận với Chúa:

Con không hiểu việc Chúa làm

Không hiểu tại sao con phải đau khổ

Nhưng con vẫn tin rằng Chúa làm thế, để xảy ra như thế là vì yêu thương con

Cầu nguyện là xin Chúa hãy đến trong ta để hướng dẫn việc ta phấn đấu với ba thù

Cầu nguyện là vặn nút đài cho tâm hồn mình trùng với tần-số của Thiên Chúa

Cầu nguyện là gửi đi một lá thư, một bức điện tín và tin rằng Chúa sẽ nhận được

Cầu nguyện là chăm chú tiếp nhận thư từ điện tín từ trời cao Chúa gửi riêng cho ta

Cầu nguyện là dùng ngôn ngữ của Thiên Chúa, chứ không phải ngôn ngữ của trần gian

Cầu nguyện là chìa khóa mở cửa ban mai, là then cửa cài khi đêm tối đến

Cầu nguyện là thứ võ khí vô song có sức mở rộng Trái Tim Thiên Chúa

Cầu nguyện là mến Chúa khi ăn, khi ngủ, khi sống giữa trần gian

Cầu nguyện là để Thánh Thần Chúa hành động trong ta, để Người uốn nắn tư tưởng và hành động của ta, hầu trở thành “đất sét trong tay người thợ gốm”

Cầu nguyện là để cho “nhựa sống thần linh” lưu chuyển trong ta và làm cho ta được sống.

Cầu nguyện là dành cho Chúa chút thì giờ để Người thực hiện trong ta không ưa nhưng Người lại muốn

Cầu nguyện là bắt nhịp cầu liên lạc với Đấng Vô-hình, mắt ta không nhìn thấy song tâm hồn ta lại cảm thấy đang hiện diện trong mình

Cầu nguyện là một giòng sông tự vẽ cho mình hướng chảy, tự tạo cho mình bề rộng mênh mông và chảy ra biển cả là Thiên Chúa

 

CẦU NGUYỆN LÀ NHƯ VẬY ĐÓ!

 

Michel Germain Guillot – NVH chuyển dịch

chị Nguyễn Kim Bằng gởi